Luận văn Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa

Tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa: LUẬN VĂN: Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN A.ĐẶT VẤN ĐỀ Hơn 20 năm qua, trong thời kỡ đổi mới, vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được coi là một nhu cầu tất yếu đối với Việt Nam. Từ nhận thức đúng đắn về thời kỡ quỏ độ, Đảng đó quyết định đổi mới nền kinh tế, coi nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỡ quỏ độ. Đại hội VI đó vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đó hoàn toàn là kinh tế xó hội chủ nghĩa. Vỡ vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bỡnh đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xó hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh t...

pdf26 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 986 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN A.ĐẶT VẤN ĐỀ Hơn 20 năm qua, trong thời kỡ đổi mới, vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được coi là một nhu cầu tất yếu đối với Việt Nam. Từ nhận thức đúng đắn về thời kỡ quỏ độ, Đảng đó quyết định đổi mới nền kinh tế, coi nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỡ quỏ độ. Đại hội VI đó vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đó hoàn toàn là kinh tế xó hội chủ nghĩa. Vỡ vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bỡnh đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xó hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trỡnh đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế tư nhân là một bộ phận giữ vai trũ cực kỡ quan trọng trong cơ cấu này. Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu hết các quốc gia mà cũn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chớnh trị toàn cầu. Phỏt triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi sự phát triển. Ngày nay sở hữu tư nhân đó phỏt triển lờn một trỡnh độ mới về chất, quy mô sở hữu của nhiều công ty ngày càng đồ sộ và nhiều công ty tạo ra lượng tài sản có giá trị lớn hơn cả GDP của một số quốc gia. Cùng với quá trỡnh phỏt triển kinh tế, nhõn loại càng ngày càng sỏng tạo ra nhiều loại hỡnh sở hữu mới. Ngoài sở hữu tài sản hữu hỡnh, người ta không chỉ sở hữu những tài sản vô hỡnh như các nhón hiệu hàng húa, bớ quyết cụng nghệ mà cũn sở hữu cả khụng gian ảo trờn mạng Internet và tài sản ảo là những thông tin đang tràn ngập trên mạng thông tin toàn cầu. Trong nền kinh tế thị trường mở, quốc gia nào có nền kinh tế tư nhân tham gia nhiều nhất, đầy đủ nhất và sâu sắc nhất vào nền kinh tế toàn cầu thỡ quốc gia đó sẽ càng có ưu thế trong cạnh tranh. Trên thực tế, kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước cùng tồn tại trong một thế giới ngày nay, thế nhưng kinh tế tư nhân lại tỏ ra năng động, có sức sống hơn và phát triển mạnh mẽ hơn. . Đó là do kinh tế tư nhân có sự tương thích rất cao với kinh tế thị trường, đặc biệt là tính chất mở cửa thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đũi hỏi cỏc thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh, điều này vốn là nhược điểm của kinh tế nhà nước Thực tế cho thấy kinh tế tư nhân có vai trũ đắc lực tạo ra sự phát triển của xó hội, tạo cho mỗi cỏ nhõn vụ số cơ hội có việc làm để khẳng định mỡnh, để mưu cầu cuộc sống và hạnh phúc, tức là góp phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp hơn. Phát triển kinh tế, suy cho cùng không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện. Mục tiêu tối thượng của nhân loại là xó hội phỏt triển, con người phát triển. Có thể nói rằng kinh tế tư nhân là một phương tiện quan trọng để con người có cơ hội hoàn thiện mỡnh trong quỏ trỡnh phát triển hướng thiện của nhân loại. Con người đó sỏng tạo ra và quyết định lựa chọn kinh tế tư nhân để phát triển, nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi trường tốt để con người tự thân phát triển, con người có cơ hội tự hoàn thiện vỡ sự phỏt triển của chính nó và thông qua đó phát triển toàn xó hội. Túm lại, kinh tế tư nhân là hỡnh thức kinh tế tự nhiờn của quỏ trỡnh phỏt triển xó hội, tồn tại và phỏt triển ngoài ý muốn chủ quan của con người, chừng nào con người cũn cần đến kinh tế tư nhân như là một phương tiện hữu hiệu để xây dựng và kiến tạo cuộc sống của mỡnh, thỡ kinh tế tư nhân cũn tồn tại như một hành trang của con người trong tiến trỡnh đi tới tương lai. Nhận thức được điều này, nghị quyết TW5 đó chỉ rừ “phỏt triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Theo Báo cáo chính trị của ban chấp hành TW Đảng khóa IX, Nhà nước ta chủ trương phát triển mạnh các loại hỡnh doanh nghiệp của tư nhân, xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xó hội và mụi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hỡnh doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm. Như vậy có thể thấy rằng, cho đến nay, Đảng và Nhà nước đó khẳng định: sự tồn tại của kinh tế tư nhân không những là sự tồn tại khách quan mà chúng ta phải chấp nhận, mà trong bối cảnh hiện nay, sự tồn tại đó đang đóng một vai trũ quan trọng trong sự nghiệp phỏt triển kinh tế. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, em xin được đi sâu tập trung vào một số nội dung về những vấn đề chung về kinh tế tư nhân, thực trạng của kinh tế tư nhân và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân. B. NỘI DUNG I. Những vấn đề lí luận về kinh tế tư nhân. 1. Quan niệm và đặc điểm của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân là khái niệm chỉ khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc nhóm các thành phần kinh tế tư nhân. Tiêu thức cơ bản để xác định một thành phần kinh tế, một hình thức tổ chức sản xuất nào đó có thuộc kinh tế tư nhân hay không là quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu. Theo đó kinh tế tư nhân là một khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (hoặc vốn) với các hình thức tổ chức kinh doanh như doanh nghiêp, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ và bộ phận các doanh nghiệp của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Kinh tế tư nhân không phải là một thành phần kinh tế mà là phạm trù để chỉ nhóm thành phần kinh tế vừa có những đặc trưng chung, lại vừa có bản chất khác nhau. Có thể xem xét kinh tế tư nhân trên các quan hệ kinh tế cơ bản sau đây: Quan hệ sở hữu: Kinh tế tư nhân thể hiện quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất(hoặc vốn) cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ tư liêu sản xuất(hay vốn) đó. Nó bao gồm sở hữu tư nhân nhỏ, là sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm nhờ lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình(như thợ thủ công cá thể, tiểu thương, các hộ nông dân…) và sở hữu tư nhân lớn của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư ở Việt Nam. Quan hệ quản lý: Xuất phát từ quan hệ sở hữu của kinh tế tư nhân, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa trên sự tự tổ chức, điều hành hay tổ chức, điều hành, phân công việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên gia đình với nhau. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý và khách thể quản lý, giữa người quản lý với người bị quản lý. Quan hệ phân phối: Trong kinh tế tư nhân, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu tư nhân khác nhau. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mà người sở hữu đồng thời là người trực tiếp lao động, không thuê mướn nhân công, thì phân phối kết quả sản xuất là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Còn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, chủ sở hữu tư liệu sản xuất (hay vốn) sử dụng lao động của lao động làm thuê thì phân phối kết quả sản xuất căn cứ vào sở hữu giá trị, tức là giá trị sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. Trong các chế độ chính trị xã hội khác nhau thì quan hệ phân phối của kinh tế tư nhân cũng có sự khác biệt nhất định. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân là một trong những nhân tố có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Song, nếu để tự phát, không định hướng cho khu vực kinh tế tư nhân thì tất yếu sẽ dẫn đến tác động tiêu cực, gây nên sự bất ổn định về kinh tế xã hội. Vì vậy, cần xác định rõ những xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân và có sự định hướng tích cực tới khu vực này. Đảng ta đó chủ trương đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, cú sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xó hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, kinh tế tư nhân vận động theo các đặc điểm, xu hướng cơ bản sau: Một là, kinh tế tư nhân gắn liền với phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. Tức là, mỗi thành phần kinh tế không thể tự tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá một cách bình thường, nếu không thực hiện những mối quan hệ kinh tế trong nội bộ từng thành phần và giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Các thành phần kinh tế, các khu vực kinh tế chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ phụ thuộc vào nhau qua các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế vừa cạnh tranh với nhau, vừa hợp tác, hỗ trợ, thúc đẩy nhau, là tiền đề phát triển của nhau theo cơ chế thị trường trong nền kinh tế thống nhất. Hai là, phát triển kinh tế tư nhân phải kết hợp với các mục tiêu độc lập tự chủ, xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Không thể phủ nhận rằng kinh tế tư nhân đóng góp một phần không nhỏ vào nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên không phải vỡ thế mà cú thể để cho kinh tế tư nhân tự do phát triển mà thiếu sự quản lí của Nhà nước. Thiếu sự định hướng của Nhà nước, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể và tiểu chủ, bộ phận doanh nghiệp của các nhà tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư xây dựng(100% hoặc góp vốn với các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân trong nước) vốn thuộc phạm trù kinh tế sẽ chệch hướng, tự phát sang chủ nghĩa tư bản. éối với chỳng ta, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập tự chủ về kinh tế, nhỡn rộng hơn là bảo vệ sự lựa chọn con đường phát triển của mỡnh, nhất thiết Việt Nam khụng thể coi nhẹ, càng khụng thể thiếu vai trũ chủ đạo của kinh tế nhà nước. éú là vấn đề sinh tử, mang tính quy luật của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó hội. Thực tế cho thấy, nếu Việt Nam khụng cú khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh, sẽ không có những thành tựu về hội nhập kinh tế quốc tế khả quan như đó thấy; đồng thời, vẫn giữ vững sự ổn định và phát triển về kinh tế, chính trị, xó hội qua mỗi chặng đường phức tạp và đầy cam go của công cuộc đổi mới hơn 20 năm vừa qua. Ba là, phát triển kinh tế tư nhân phải nhằm đạt tới hệ các mục tiêu: huy động vốn, tạo việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư, tăng tổng sản phẩm xã hội và tăng thu cho ngân sách nhà nước. Quan điểm thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân không ngoài mục đích khai thác, phát huy tốt nhất mọi năng lực sản xuất của họ để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Bốn là, phát triển kinh tế tư nhân theo hướng đa dạng hoá sở hữu, đan xen các hình thức sở hữu theo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Phỏt triển nền kinh tế nhiều hỡnh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trũ chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trên đây là những xu hướng phát triển chủ yếu của kinh tế tư nhân trong thời kỡ quỏ độ lên CNXH ở Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu liên kết các lực lượng trong nước thành một lực lượng kinh tế dân tộc trong quá trình mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, đưa nước ta trở thành một cường quốc trên thế giới. 2.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Sự phỏt triển xó hội gắn liền với sự phỏt triển ngày càng phong phỳ cỏc quyền cỏ nhõn. Sự phỏt triển của cỏc quyền cỏ nhân đến lượt nó sẽ thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Không có các quyền cá nhân làm tiền đề thỡ khụng thể cú cỏc quyền của kinh tế tư nhân. Trong thực tế, hiện nay, những hiện tượng can thiệp vào đời sống cá nhân diễn ra tràn lan ở khá nhiều quốc gia. Khi chúng ta không xây dựng, không tôn trọng các quyền cá nhân, có nghĩa là các giá trị cá nhân không được pháp chế hóa, định chế hóa, hoặc chúng ta không nhận thức các quyền cá nhân như những động lực của sự phát triển cá nhân, như những không gian xó hội cần thiết cho một cỏ nhõn phỏt triển thỡ khụng thể phỏt triển khu vực tư nhân lành mạnh được. Chừng nào một xó hội chưa tôn trọng các quyền cá nhân, kèm theo đó là sở hữu cá nhân thỡ xó hội đó không thể xây dựng khu vực kinh tế tư nhân một cách chuyên nghiệp được. Hơn nữa, ở Việt Nam trong thời kỡ quỏ độ lên CNXH, thỡ kinh tế tư nhân giữ một vai trũ cực kỡ quan trọng, khụng thể thiếu được nhằm góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân, tạo tiền đề về vật chất cho CNXH. Tóm lại, kinh tế tư nhân là hỡnh thức kinh tế tự nhiờn của quỏ trỡnh phỏt triển xó hội, tồn tại và phỏt triển ngoài ý muốn chủ quan của những nhà chớnh trị cho dự họ đại diện cho bất kỳ lực lượng xó hội nào, hoặc nhõn danh ai, hoặc với mục đích nhân đạo hay cao cả đến đâu chăng nữa. Chừng nào con người cũn cần đến kinh tế tư nhân như là một phương tiện hữu hiệu để xây dựng và kiến tạo cuộc sống của mỡnh và đồng loại, thỡ kinh tế tư nhân cũn tồn tại như một hành trang của con người trong tiến trỡnh đi tới tương lai. II. Đánh giá thực trạng của kinh tế tư nhân trong quá trỡnh hỡnh thành và phỏt triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 1. Tiến trỡnh phỏt triển. a. Trước thời kỡ đổi mới. Trước thời kỡ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải tạo XHCN với công nghiệp và thương nghiệp tư bản tư doanh, đồng thời đầu tư xây dựng mới các xí nghiệp quốc doanh. Sau khi thống nhất đất nước, ở miền Bắc, công cuộc cải tạo XHCN đối với tư bản tư doanh đó cơ bản hoàn thành, gần 100% hộ tư sản thuộc diện cải tạo đó được cải tạo, 45,6% số tiểu thương vào hợp tác xó. Cũn ở miền Nam, nghị quyết Đại hội Đảng khóa IV đặt ra mục tiêu đến năm 1980 phải hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp, tháng 1/1977, Bộ Chính trị đó quyết định: hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh trong 2 năm 1977 – 1978, trước hết là xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương đó, công cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đó được đẩy nhanh và thực hiện triệt để.Về thương nghiệp, Đảng ta chủ trương “xóa bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư doanh” bằng nhiều biện pháp như: kiểm kê, tịch thu hàng hóa, đánh thuế siêu ngạch đối với tư sản thương nghiệp, tịch thu các cơ sở kinh doanh của họ. Đến năm 1978, Nhà nước ta tuyên bố đó hoàn thành công cuộc cải tạo tư sản công thương nghiệp ở miền Nam. Do cũn núng vội trong cụng cuộc xõy dựng CNXH và chưa nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế tư nhân, trước thời kỡ đổi mới Đảng ta đó tiến hành cải tạo XHCN và xúa bỏ gần như triệt để thành phần kinh tư nhân. Điều này phần nào đó dẫn đến khủng hoảng về kinh tế - xó hội của nước ta trước thời kỡ đổi mới: kinh tế tăng trưởng chậm, cơ sở vật chất, kĩ thuật lạc hậu, cũ nát,nền kinh tế quốc dân mất cân đối nghiêm trọng về cơ cấu, sản xuất phát triển chậm, sản xuất không đủ tiêu dùng, nợ nước ngoài lớn, phân phối lưu thông bị rối ren, thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, trật tự xó hội giảm sỳt. Rừ ràng, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và kinh tế tư nhân tư nhân nói riêng là một nhân tố không thể thiếu trong thời kỡ quỏ độ ở nước ta. Vỡ thế từ năm 1986, Đảng đó chủ trương đổi mới nền kinh tế theo hướng khác hẳn trước đó. b. Thời kỡ đổi mới. Chỉ sau mấy năm, khi tư tưởng của đại hội VI được quán triệt trong cuộc sống, khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển rõ rệt. Nếu quan niệm kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp tư nhân (DNTN), các công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) và các công ty cổ phần (CTCP) được thành lập theo luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty mà nhà nước ban hành thì chúng ta thấy có sự phát triển rất nhanh chóng. Năm 1991 có 414 DNTN, CTTNHH và CTCP thì năm 1992 là 5198 DN, năm 1993 là 6808, năm 1994: 10881, năm 1995: 15276, năm 1996: 18894, năm 1997: 25002, năm 1998: 26021. Như vậy số DN năm 1998 tăng 2 lần so với năm 1991, và mỗi năm kể từ năm 1991-1998, bình quân tăng 3252 DN (khoảng 32% một năm). -Trong lĩnh vực nông nghiệp: Cùng với sự đổi mới của kinh tế hợp tác, các luật đầu tư nước ngoài, luật đầu tư trong nước, luật thương mại thông qua vào những năm 90 đã tác động rất mạnh tới khu vực nông nghiệp, tới hàng triệu nông dân Việt Nam. Kinh tế hộ gia đình nông dân, kinh tế trang trại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có tính chất công nghiệp ở nông thôn phát triển mạnh, tạo nên sự thay đổi to lớn bộ mặt của nhiều vùng nông thôn. Nếu như năm 1990, số lượng các hộ cá thể có khoảng trên 9,4 triệu hộ thì đén năm 1995 đã lên tới 11974595 hộ hoạt động trên gần 9000 xã trong khắp 7 vùng sinh thái. Trong đó, số hộ nông nghiệp là 9528896 hộ (chiếm 79,58%); hộ lâm nghiệp là 18456 hộ (chiếm 0,15%); hộ thuỷ sản là 229909 hộ (chiếm 1,92%); hộ công nghiệp là 160370 hộ(chiếm 1,34%); hộ xây dựng là 31914 hộ(chiếm 0,27%); hộ thương nghiệp là 384272 hộ (chiếm 3,21%), hộ dịch vụ là 14165 hộ(chiếm 1,18%); hộ khác là 1479341(chiếm 12,35%). Trong số các hộ đó, nhóm hộ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất(79,58%), nhưng nếu hiểu nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp thì hộ nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn hơn nữa: 81,65%. Đây thực sự là lực lượng kinh tế mạnh thể hiện trên các mặt sau đây: Chỉ trong thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm rất nhiều trang thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước. Nông dân đã bỏ vốn lập trên 110000 trang trại trong đó riêng các tỉnh phía Bắc 67000 trang trại. Các trang trại đã tạo ra một lượng hàng hoá lớn với tỷ trọng hàng hoá là 86,74% tạo việc làm cho 60 vạn lao động. Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần xứng đáng vào thành tích của ngành nông nghiệp nói chung: tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng của Việt Nam, và 30% kim ngạch hàng xuất khẩu(Bao gồm cả thuỷ sản). Theo tổng cục thống kê, nếu như năm 1990 nông nghiệp chiếm 32% GDP của Việt Nam thì năm 1999 nông nghiệp chiếm tỷ trọng là 24% GDP. - Trong lĩnh vực công nghiệp: Với cơ chế mới, khu vực kinh tế tư nhân cũng thâm nhập mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp (bao gồm các doanh nghiệp hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) đã đưa phần đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước từ 37% năm 1990 lên 58% năm 2000, trong đó đóng góp quan trọng nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí và lĩnh vực công nghiệp chế tạo(khu vực kinh tế tư nhân trong năm 2000 chiếm 22,7%, khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 35,2%). Khu vực kinh tế tư nhân trong nước mà đặc biệt là các doanh nghiệp hộ gia đình có vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo. năm 1999 có 600000 doanh nghiệp hộ gia đình nhỏ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, chiếm 1/4 số doanh nghiệp rất nhỏ, đóng góp 28% giá trị gia tăng trong công nghiệp chế tạo. Ngoài ra còn 5600 doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng hoạt động trong ngành công nghiệp chế tạo và tạo ra 10% GDP của ngành công nghiệp. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì những đổi mới trong thể chế rất mạnh với những bộ luật mới ra đời từ năm 1998 đến nay, nhất là luật doanh nghiệp và luật đầu tư nước ngoài. - Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ Đây là lĩnh vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi nổi lấn át khu vực quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm 1986 là 56,8 vạn hộ, đến năm 1995 đã lên đến 94 vạn hộ. Với tổng mức bán lẻ năm 1987 là 59% đến năm 1991 là 74,9%. Về mặt số lượng và cơ cấu: Tính đến 1-1-1995 số hộ cá thể trong cả nước là 1882798 hộ. Tuy nhiên số lượng hộ phân bố không đều, tập trung nhiều ở các thành phố lớn: Thành phố Hồ Chí Minh có 12 vạn hộ, thủ đo Hà Nội có 7,6 vạn hộ, An Giang có 7,5 vạn hộ… Về mặt lao động: Lĩnh vực thương mại và dịch vụ tư nhân là nơi thu hút lao động và giải quyết công ăn việc làm. Tỷ trọng lao động thương nhân cá thể từ chỗ chỉ chiếm 68,7% lao động thương nghiệp xã hội năm 1990 đã lên đến 84,7% năm 1995. Ngành giao thông vận tải tư nhân đã huy động 267700 lao động. Về doanh số hoạt động: Tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân đã tăng 66,9% lên 75,1% và thương nghiệp quốc doanh giảm từ 30,4% xuống còn 23,7%. Giao thông vận tải tư nhân đã đảm nhận 63,5% khối lượng hàng hoá vận tải và 74,5% khối lượng hành khách, tạo ra 989,8 tỷ đồng. Về đóng góp vào nguồn thu ngân sách: Tổng số thuế nộp vào ngân sách nhà nước đã tăng từ 908 tỷ đồng(năm 1991) lên 5180 tỷ đồng(năm 1995), gấp 5 đến 6 lần. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước, trong giá trị xuất khẩu không kể dầu lửa đã tăng từ 12% trong năm 1997 lên 22% vào giữa năm 2000 và tỷ trọng trong giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%. Nếu tính cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp trong xuất khẩu là 35% năm 1997 và 54% giữa năm 2000. - Trong xây dựng kết cấu hạ tầng: Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm, chính phủ đã đề ra chương trình với rất nhiều kỳ vọng về xây dựng kết cấu hạ tầng, bao gồm những chương trình lớn về phát triển đường, sắt, đường bộ với hệ thống cầu qua sông, đường hàng không với hệ thống các sân bay quốc tế và nội địa. Kết cấu hạ tầng có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội nhưng để có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển như kế hoạch của chính phủ thì cần có nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Những chỉ số sau đây cho thấy rõ điều đó: số vốn đầu tư cho ngành năng lượng hàng năm xấp xỉ 2-2,5 tỷ USD, trong đó ngành điện dự kiến cần số vốn đầu tư trung bình hàng năm là 1,5-2 tỷ USD mà 52- 58% dành cho sản xuất điện và 42-48% dành cho truyền tải và phân phối điện. Vì kết cấu hạ tầng ngành năng lượng của Việt Nam rất lạc hậu nên phải dành 5,3-5,5% GDP đầu tư cho lĩnh vực này. Như vậy việc thu hút sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân là hết sức quan trọng. - Trong các ngành nghề và các vùng kinh tế đất nước: Với các ngành: những năm 1991-1996 trong tổng số 17442 cơ sở thì lĩnh vực thương mại dịch vụ có khoảng 6802 cơ sở chiếm tỷ trọng 39%, lĩnh vực công nghiệp chế biến có 6105 cơ sở chiếm ỷ trong 35%, các lĩnh vực khác có 4534 cơ sở chiếm 26%. Trong những năm 1997-1998 có sự chuyển biến theo hướng các doanh nghiệp thương mại dịch vụ tăng(trong tổng số 26021 doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thương mại dịch vụ có 12753 cơ sở chiếm 49%). Với các vùng: Loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh và tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long 40%, ở đồng bằng sông Hồng là 33% và ở Đông Nam Bộ là 25%. Các công ty cổ phần phát triển mạnh ở Đông Nam Bộ 54% đồng bằng sông Hồng 23%. 2. Đánh giá chung về thực trạng kinh tế tư nhân Việt Nam. a. Thành tựu. Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng lên và đó vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, gần bằng tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân đó đóng vai trũ quan trọng đối với phát triển kinh tế các địa phương. Đội ngũ doanh nghiệp tư nhân đó phỏt triển chưa từng có cả về số lượng, quy mô trong hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Nhờ đó, đó huy động được ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư phát triển kinh doanh; tạo việc làm cho người lao động; tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả nền kinh tế trong quá trỡnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Có được kết quả trên là nhờ trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đó ban hành kịp thời nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 5, Luật Doanh nghiệp và các cơ chế chính sách về thúc đẩy phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Luật Doanh nghiệp ra đời và đi vào thực tiễn đó tạo mụi trường thông thoáng cho hoạt động kinh doanh, tạo bước đột phá về cải cách hành chính, nâng cao đáng kể tính nhất quán, tính thống nhất, minh bạch và bỡnh đẳng của khuôn khổ pháp luật về kinh doanh ở nước ta. Vai trũ của doanh nghiệp và doanh nhõn được tôn vinh ở vị trí xứng đáng. Sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời, hàng loạt biện pháp chính sách và văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đó được ban hành với nội dung phù hợp đó thỳc đẩy, tạo điều kiện để Luật phát huy tốt hiệu lực trên thực tế. Hệ thống pháp luật về kinh doanh và doanh nghiệp bước đầu đó được hoàn thiện: Chính phủ, các bộ, ngành đó ban hành kịp thời và tương đối đầy đủ các văn bản pháp quy tạo điều kiện thi hành Luật Doanh nghiệp. Nội dung các văn bản hướng dẫn đó bổ sung, cụ thể húa nội dung cú liờn quan của Luật. Việc ban hành và áp dụng các văn bản này đó tạo một bước chuyển biến lớn trong đơn giản hóa trỡnh tự, thủ tục đăng ký kinh doanh và rút ngắn thời gian gia nhập thị trường của các loại hỡnh doanh nghiệp tư nhân. Về việc triển khai công tác phát triển doanh nghiệp ở các địa phương, thực tế thời gian qua cho thấy đó cú sự chuyển biến đáng kể về nhận thức ở các cấp về tầm quan trọng và ý nghĩa của phỏt triển doanh nghiệp tư nhân đối với phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân địa phương. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đó quan tõm chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp và cải tiến phương thức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trên địa bàn. ý thức và phương pháp làm việc của cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đó cú nhiều thay đổi, chuyển từ cơ chế "xin - cho" sang hỗ trợ, hướng dẫn và tạo điều kiện là chủ yếu. Thủ tục đăng ký kinh doanh đó được thực hiện đúng quy định của Luật theo hướng đơn giản hoá cả về hồ sơ, trỡnh tự, thời hạn, điều kiện và thẩm quyền cấp đăng ký kinh doanh. Theo phản ánh của hầu hết các địa phương trong cả nước và đối với phần lớn các ngành nghề kinh doanh, không có sự đũi hỏi thờm cỏc hồ sơ, thủ tục và đũi hỏi khỏc ngoài quy định của Luật Doanh nghiệp. ở hầu hết các địa phương và đối với đa số ngành nghề, thời hạn đăng ký kinh doanh trờn thực tế đó rỳt ngắn so với thời hạn quy định; tại thành phố Hồ Chí Minh đó thớ điểm đăng ký kinh doanh qua mạng, do đó đó giảm đáng kể chi phí về thời gian cho doanh nghiệp. Nhận thức của đông đảo tầng lớp xó hội về doanh nghiệp và doanh nhõn đó cú bước tiến đáng kể. Đặc biệt, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đó ký quyết định lấy ngày 13/10 hàng năm là ngày Doanh nhân Việt Nam, thể hiện quan điểm tôn vinh các doanh nhân Việt Nam của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tạo ra tinh thần kinh doanh hào hứng rộng khắp trong xó hội. Cộng đồng doanh nghiệp đó chứng tỏ là lực lượng quan trọng thường xuyên ủng hộ và phản ứng tích cực, nhanh chóng trước những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế. Họ không chỉ đấu tranh cho việc tuân thủ đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật về kinh doanh, mà cũn nhanh chúng phỏt hiện và tận dụng được các cơ hội tạo ra bởi những thay đổi đột phá của pháp luật, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp và một số chính sách khác có liên quan. Nhờ đó, nhiều sản phẩm, dịch vụ mới và cách làm mới đó xuất hiện. b. Hạn chế.  Những tồn tại hiện nay : - Môi trường kinh doanh : Kinh tế tư nhân Việt Nam tuy lớn về số lượng nhưng về bản chất vẫn là kinh tế quy mô nhỏ và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như phân bố không hợp lý, năng lực cạnh tranh thấp, khả năng tiếp cận các nguồn lực như tài chính, đất đai, lao động, công nghệ rất hạn chế. Sự phân bố các doanh nghiệp tư nhân trong cả nước là chưa đều, cả về địa bàn cũng như ngành nghề kinh doanh. Về địa bàn, các doanh nghiệp mới thành lập chủ yếu tập trung vào các tỉnh, thành phố tương đối phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bỡnh Dương, Đồng Nai... Về ngành nghề kinh doanh, các doanh nghiệp hầu hết tập trung hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại, chưa chú ý đến lĩnh vực sản xuất, tạo sản phẩm mới. Hiệu quả kinh doanh chưa tương xứng với tiềm năng, sức cạnh tranh thấp. Các mặt hàng xuất khẩu mới chỉ giới hạn ở các sản phẩm như nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, chế biến... là những mặt hàng mang tính truyền thống, chi phí xuất khẩu cao nhưng giá trị gia tăng nhỏ. Vai trũ của cỏc doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giải quyết nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp lớn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Do quy mô thường là khá nhỏ, doanh nghiệp tư nhân gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính chính thức như vay vốn ngân hàng hoặc của các tổ chức tín dụng khác. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân phải huy động vốn từ các kênh phi chính thức, cụ thể là trong gia đỡnh, bạn bố hoặc dựa vào vốn của nhau, với lói suất cao hơn từ 3 đến 6 lần so với lói suất chớnh thức. Tỡnh trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh là một trong những nguyờn nhõn chủ yếu hạn chế doanh nghiệp tư nhân trong việc đầu tư cải tiến công nghệ, tiếp cận các nguồn thông tin (bao gồm cả thông tin liên quan đến chính sách của Nhà nước dành cho khu vực này, thông tin về công nghệ, về thị trường...) và thực hiện cải cách doanh nghiệp. - Khuôn khổ pháp lí về phát triển doanh nghiệp : Tuy có tiến bộ so với trước đây, nhưng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vẫn cũn lỳng tỳng trờn nhiều mặt. Cơ quan quản lý nhà nước, một mặt chưa làm đúng và đủ chức năng quản nhà nước đối với doanh nghiệp, mặt khác lại can thiệp quỏ sõu vào cụng việc kinh doanh và quản trị nội bộ của doanh nghiệp; hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao. - Chi phí gia nhập thị trường cho các loại hỡnh doanh nghiệp cũn cao : Những thay đổi thông qua việc ban hành và thực hiện Luật Doanh nghiệp đó đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, giảm một phần khỏ lớn chi phớ gia nhập thị trường, bao gồm chi phí thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và xin giấy phộp kinh doanh. Tuy vậy, so với nhiều nước khác, thủ tục và chi phí gia nhập thị trường vẫn cũn cao. Theo kết quả nghiờn cứu của Ngõn hàng thế giới, để có thể đi vào kinh doanh hợp pháp, doanh nghiệp Việt Nam phải hoàn tất 16 thủ tục, mất 112 ngày và chi phí bằng tiền bằng 133,7% GDP/người/năm. - Liên kết giữa doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu con yếu : Liên kết giữa trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, các cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy với công tác phát triển doanh nghiệp trong những năm qua cũn lỏng lẻo, do đó nhiều kết quả nghiên cứu khoa học không được áp dụng vào thực tế, gây lóng phớ, trong khi doanh nghiệp phải mày mũ sản xuất với cụng nghệ lạc hậu. - Tinh thần doanh nghiệp chưa được phổ biến, quan tâm đúng mức: Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về kinh doanh chưa sâu rộng, mới chỉ chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp lớn mà chưa chú trọng đến các hộ kinh doanh cá thể, trang trại tại các vùng nông thôn  Nguyên nhân của những tồn tại : Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại trên là do kinh tế tư nhân vẫn chưa được đặt ở vị trí xứng đáng. Nếu nhỡn vào mức độ và nhịp độ phát triển, cũng như mức đóng góp tăng lên, có thể thấy, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là vượt trội nhất. Khu vực này đó vượt lên xuất phát điểm rất thấp trước đó để đạt được ngưỡng cao trong đóng góp chung vào GDP, xuất khẩu, đầu tư, phát triển công nghiệp, tạo việc làm... Thế nhưng, tiếc là, trong định hướng của những năm trước, và mới đây nhất là 5 năm tới, dường như lại chưa nhỡn nhận được sự phát triển vượt trội này để tạo vị trí tương xứng hơn cho khu vực kinh tế tư nhân, biến khu vực này thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Trong trỡnh tự sắp xếp mà Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng X. đưa ra vẫn là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, cá thể và khu vực tư nhân. Nếu khu vực tư nhân mà chỉ dựa trên cá thể thôi thỡ khụng thể là một khu vực tư nhân có sức sống mạnh mẽ, có khả năng cạnh tranh cao và mang lại năng lực vượt trội cho đất nước được. Khu vực kinh tế tư nhân nước ta rất cần phải vượt qua ngưỡng của khu vực chỉ dựa trên cá thể là chủ yếu để lớn thành doanh nghiệp cỡ trung, cỡ lớn nhiều hơn. Nếu cứ giữ doanh nghiệp cực nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, nền kinh tế của Việt Nam sẽ tiếp tục là nền kinh tế manh mún, phân tán, nhỏ bé và kém sức cạnh tranh. Trong khi đó, chúng ta tiếp tục đặt kinh tế Nhà nước ở vị trí chủ đạo. Phải nhỡn nhận lại cho cụng bằng rằng, trong 5 năm qua, chưa nói đến quóng thời gian 20 năm đổi mới, vai trũ chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước được thể hiện như thế nào, chưathực sự là lực lượng chủ lực đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho giai đoạn vừa qua. Nếu nói về tổng vốn đầu tư, tỷ trọng đóng góp cũn khỏ lớn vào GDP, vào cụng nghiệp... thỡ vẫn là khu vực cú tỷ trọng cao. Tuy nhiờn, tỷ trọng cao đó không tương xứng với vai trũ chủ đạo mà chúng ta mong muốn. Và nhất là, tỷ trọng cao đó đồng thời kèm theo cái giá phải trả cao của cả nền kinh tế. Có thể thấy sự không cân xứng trong mục tiêu đặt ra với việc giao phó trách nhiệm để thực hiện mục tiêu đó. Khi nói về các thành phần trong xó hội, Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng X tiếp tục đặt ra tuần tự trong văn bản là công nhân, nông dân, trí thức và doanh nhân. Doanh nhân lần này đó được đưa vào, nhưng vị trí lại không thể hiện sự coi trọng thực sự hoặc đặt đúng tầm vai trũ của doanh nhõn trong xó hội. Vỡ núi cho cựng, phỏt triển của khu vực kinh tế tư nhân phải là do các doanh nhân giỏi dẫn dắt. Chúng ta muốn có nhà kinh doanh giỏi, tài ba để cạnh tranh thỡ phải cú sự tụn trọng thực sự, tạo điều kiện thật sự cho đội ngũ doanh nhân phát triển. Và đội ngũ doanh nhân này có thể nói là khó phát triển trong các doanh nghiệp Nhà nước, vỡ tiờu thức cơ bản để trở thành doanh nhân giỏi là phải hoạt động chủ động, độc lập, phát huy tối đa tài tổ chức kinh doanh. Đối với các vị trí lónh đạo trong doanh nghiệp Nhà nước, nhiều ràng buộc khiến họ khó phát huy được khả năng, phát triển thành những doanh nhân giỏi. Đồng thời vấn về Đảng viên làm kinh tế tư nhân mói đến gần đây mới được nhắc đến. Những vấn đề trên đó dẫn đến nhiều trở ngại cho sự phát triển của kinh tế tư nhân như hiện nay môi trường kinh doanh cho kinh tế tư nhân chưa thông thoáng và một số lĩnh vực, doanh nghiệp nhà nước cũn giữ độc quyền. Về mặt pháp lí, Việt Nam thay đổi cơ chế theo cách là giải quyết vấn đề cấp bách nhiều hơn là có được một lộ trỡnh, chiến lược thật bài bản giải quyết vấn đề này trước,vấn đề kia sau... trên cơ sở cân nhắc một cách tổng thể. Điều này cũng bắt nguồn từ đặc điểm của Việt Nam. Thời gian đầu của giai đoạn cải cách là nền kinh tế chưa có luật, hoạt động theo chỉ thị, mệnh lệnh là chủ yếu. Sau đó, chúng ta triển khai xây dựng hệ thống văn bản pháp luật. Thực sự đây là một công việc mới, chúng ta mũ mẫm để làm. Chính vỡ vậy, hiệu lực của cỏc văn bản này chỉ vài năm rồi lại sửa đổi hay phải xây dựng mới cho phù hợp với điều kiện mới nảy sinh. Có thể nói, vào thời điểm này, khung khổ luật pháp của Việt Nam khá đầy đủ, nhưng chưa đồng bộ, thống nhất. Có lĩnh vực thỡ luật nọ, luật kia chế định chồng chéo, có lĩnh vực thỡ lại khụng được đề cập đầy đủ. Điều này khiến việc thực hiện khó khăn. Có thể nói, những vấn đề nêu trên vừa thuộc về môi trường hoạt động vừa thuộc về điều kiện cho sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và việc giải quyết tốt những vấn đề này sẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này. III. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong nền kinh tế định hướng XHCN. 1. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân. Vấn đề hiện nay là phải làm sao để các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn cũn khỏ dồi dào trong dõn cư; chuyển biến nhận thức của người dân từ việc chỉ gửi tiền tiết kiệm, hoặc tập trung quá mức vào tiêu dùng trước mắt, sang tỡm kiếm cơ hội sử dụng tiền nhàn rỗi vào đầu tư, trong đó có việc góp vốn thành lập doanh nghịêp mới, hoặc mua cổ phần trên thị trường chứng khoán…; phát triển các loại thị trường như thị trường lao động, thị trường vốn, bất động sản... Để làm được điều đó, Nhà nước phải tạo ra bằng được môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi nhất, khai thông nhiều kênh để khơi dũng chảy nguồn tiết kiệm từ dõn cư vào đầu tư phát triển, tạo nhiều phương thức hấp dẫn với những lợi ích có thể đo đếm được để người dân nhận biết được đồng tiền của họ sẽ sinh lợi hơn khi tham gia các hoạt động có liên quan đến đầu tư phát triển. Tạo ra sân chơi bỡnh đẳng. Hiện nay cỏc loại hỡnh doanh nghiệp khỏc nhau hoạt động theo những luật lệ, chính sách khỏc nhau. Một trong những hệ quả dễ nhận thấy nhất là sự phõn bổ khụng hợp lý của nguồn vốn vay thương mại. Tính đến tháng 9-2002, 50 phần trăm lượng vốn cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh (chiếm đến 70% tổng lượng vốn cho vay trong nước ta) là dành cho các doanh nghiệp nhà nước. Các ngân hàng nước ngoài thỡ chủ yếu cung cấp cỏc dịch vụ tài chớnh cho cỏc cụng ty đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. Do đó, nguồn vốn chính cung cấp cho khu vực kinh tế tư nhân là từ các ngân hàng cổ phần, trong khi các ngân hàng này chỉ chiếm 12% tổng lượng vốn cho vay. Nếu các ngân hàng quốc doanh bớt dành ưu đói cho khu vực doanh nghiệp nhà nước thỡ chắc chắn nguồn vốn của đất nước ta sẽ được sử dụng hiệu quả hơn khi được rót vào những doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng phát triển nhanh. Sân chơi bỡnh đẳng dĩ nhiờn khụng giới hạn chỉ trong việc cho vay mà cũn trong mụi trường phỏp lý và những chớnh sỏch hỗ trợ khỏc của chớnh phủ. Để khắc phục tỡnh trạng này, cần phải ban hành một hệ thống phỏp luật chung cho cỏc thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Tại kỳ họp thứ 8 (tháng 11/2005), Quốc hội khóa XI đó thụng qua Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất. Việc thông qua hai Luật này sẽ tạo dựng được một sân chơi chung cho cỏc loại hỡnh doanh nghiệp: Doanh nghiệp dõn doanh trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn để khi Luật có hiệu thi hành (1/7/2006), các doanh nghiệp có thể vận dụng được ngay. 2.Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ cho kinh tế tư nhân. Trong thời gian tới, các cơ quan nhà nước, một mặt phải xóa bỏ hoàn toàn sự phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân, mặt khác cần xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trỡnh hỗ trợ doanh nghiệp: - Tăng cường hoạt động trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cả quản lý kinh doanh và trỡnh độ nghề nghiệp cho lao động trong doanh nghiệp. Khai thác năng lực của các trường nghề, các cơ sở đào tạo của các bộ, ngành để giúp đào tạo cơ bản các cán bộ quản lý và cỏn bộ kỹ thuật cho cỏc doanh nghiệp dõn doanh. - Đẩy mạnh khả năng tiếp cận các nguồn tài chính chính thức cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa: Phát triển thị trường cổ phiếu, trái phiếu, tín dụng; tiếp tục đổi mới các cơ chế đầu tư, tín dụng; ban hành đồng bộ cơ chế về các hỡnh thức cấp tớn dụng của hệ thống tài chớnh tớn dụng (cho vay, cho thuờ, bảo lónh, chiết khấu thương phiếu, bảo lónh tớn dụng; tạo vốn từ nước ngoài thông qua nguồn vốn ODA, vay thương mại, tài trợ trực tiếp cho các dự án tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa của các tổ chức tài chính quốc tế...). - Tổ chức thường xuyên và có hệ thống các hoạt động thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được các thông tin về khoa học và công nghệ, thị trường, thông tin quản lý..., giới thiệu được sản phẩm và năng lực của mỡnh. - - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của các hội, hiệp hội doanh nghiệp; tạo mối liên kết hữu cơ, cộng đồng trách nhiệm và quyền lợi giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau và với các khu vực khác. - Nghiên cứu và bước đầu trợ giúp thí điểm hỡnh thành một số cụm liờn kết cụng nghiệp (cluster) của cỏc doanh nghiệp nhỏ và vừa trên cơ sở tính kinh tế của quy mô, một số "vườn ươm doanh nghiệp" (incubator). 3. Phát triển những mối quan hệ hợp doanh giữa nhà nước với tư nhân, giữa tư nhân trong nước và nước ngoài. - Xây dựng mối liên kết kinh tế thực sự giữa các tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước, các doanh nghiệp lớn thuộc các thành phần kinh tế khác trong các ngành với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành để phát huy lợi thế của cả hai bên. - Từng bước mở cửa các ngành kinh tế trong nước để các nhà đầu tư nước ngoài tham gia làm ăn, hợp tác với kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước. - Đẩy mạnh quá trỡnh cổ phần húa ở cỏc doanh nghiệp Nhà nước, từng bước dỡ bỏ các mức trần để phát huy sự kết hợp giữa kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước. 4. Đổi mới cơ chế chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân. Tập trung sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc biệt là các chính sách sau đây: - Thứ nhất, chính sách đất đai là vấn đề quan trọng và cũng rất bức bách đối với kinh tế tư nhân. Cần sửa đổi, bổ sung luật đất đai theo hướng: đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng đất đang được tư nhân dùng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh do mua lại một cách hợp pháp quyền sử dụng đất hoặc được nhà nước giao đã thu tiền thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài, không phải chuyển sang. Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhà nước có chính sách xây dựng các khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết, áp dụng giá cho thuê phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể, thuê làm mặt bằng kinh doanh. - Thứ hai, chính sách tài chính, tín dụng: Cần thực hiện chính sách tài chính, tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng như đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, bảo đảm để kinh tế tư nhân tiếp nhận và thụ hưởng các ưu đãi của nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư của doanh nghiệp vào các mục tiêu được nhà nước khuyến khích. - Thứ ba, chính sách lao động tiền lương. Để khắc phục một số hạn chế về điều kiện làm việc và thu nhập của người lao động, kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng quy định của luật lao động về việc kí kết hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công… đồng thời có chế tài cần thiết để xử lý vi pham. Kinh tế tư nhân thực hiện chế độ, chính sách tiền lương, tiền công, tiền thưởng theo nguyên tắc thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Bên cạnh đó, cần ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân đều được tham gia, bổ sung chế tài bắt buộc người sử dụng lao động phải thực hiện nghiêm túc. Mặt khác, cần nghiên cứu, ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng người sử dụng lao động và người lao động cùng đóng góp, có sự hỗ trợ của nhà nước. - Thứ tư, chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ có vị trí quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân. Nhà nước hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn, miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ, mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học công nghệ. - Thứ năm, chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại là rất cần thiết để các thành phần kinh tế khác cũng như kinh tế tư nhân tiếp cận được thông tin về chính sách, pháp luật… 5. Tăng cường công tác quản lí, kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân. - Xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý.Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở các bộ, ngành và uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Các cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp của tư nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật. - Bản thân chính quyền các tỉnh, thành phố cũng nên thiết lập hệ thống chấm điểm và xếp hạng các doanh nghiệp tư nhân có tính đến định hướng phát triển của địa phương. Để từ đó, có thể công bố và khen thưởng các điển hỡnh doanh nghiệp tư nhân. Chính quyền địa phương có thể xây dựng những trang web để một mặt là nơi quảng cáo, tiếp cận thị trường thế giới cho các doanh nghiệp tư nhân, mặt khác là diễn đàn cho các doanh nghiệp tư nhân lẫn nhà nước trao đổi, học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau. - Chính quyền địa phương cần có hệ thống thu thập thông tin một cỏch chớnh thức cỏc ý kiến, thắc mắc của doanh nghiệp tư nhân. Việc thu thập cần tiến hành có tính định kỳ và trở thành việc làm thường xuyên. Những thông tin về yêu cầu của doanh nghiệp tư nhân cần được các cơ quan công quyền tham khảo. Và các cơ quan này phải cú trỏch nhiệm thụng bỏo lịch trỡnh giải quyết cỏc khiếu nại của doanh nghiệp tư nhõn, và xử lý nghiờm những trường hợp cán bộ, công chức làm sai. Có như thế mới tạo ra lũng tin trong giới doanh nhõn (khụng chỉ trong nước mà cũn ở nước ngoài) vào lập trường và quyết tâm của chính quyền là cùng nhau xây dựng và phát triển. Đây là một trong những yếu tố then chốt quyết định tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong nước (và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài). C. KẾT LUẬN Từ quá trỡnh phỏt triển kinh tế trong lịch sử của nhiều nước phát triển trên thế giới , chúng ta có thề thấy rằng cho dù ở nước nào thỡ kinh tế tư nhân cũng đóng một vai trũ cực kỡ quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Có thề nói kinh tế tư nhân đó là một phần khụng thể tỏch rời cựng với tiến trỡnh lịch sử của sự phỏt triển loài người. Đặc biệt ở Việt Nam, nền kinh tế của nước ta đi lên từ xuất phát điểm rất thấp, chúng ta chủ trương đi theo con đường CNXH, vốn cần một xuất phát điểm là một nền kinh tế phát triển với những tiền đề về vật chất rất lớn. Trong khi đó, Đảng ta chủ trương đi lên thẳng CNXH, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, có nghĩa là bỏ qua giai đoạn phát triển của nền kinh tế tạo ra nhiều của cải vật chất nhất trong lịch sử. Chớnh vỡ vậy, chỳng ta sẽ gặp rất nhiều khú khăn. Nhận thức được điều này, trong thời kỡ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đó chủ trương xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trũ chủ đạo. Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế của ta đó cú nhiều thay đổi tích cực: kinh tế tăng trưởng cao trong nhiều năm liền (khoảng 8 – 8,5%/năm), đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao... trong đó có một thực tế không thể phủ nhận là kinh tế tư nhân càng ngày càng thể hiện vai trũ quan trọng của mỡnh. Cứ theo xu hướng hiện nay thỡ trong vũng 5 năm tới, tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực tư nhân sẽ hơn hẳn khu vực Nhà nước. Chính vỡ thế nờn thực tế càng khẳng định vai trũ của kinh tế tư nhân. Cũn “kinh tế Nhà nước giữ vai trũ chủ đạo” có thể hiểu là tạo nền tảng cho kinh tế tư nhân phát triển, như xây dựng cơ sở hạ tầng, chứ không phải là tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp nhà nước phải lớn hơn khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế nhà nước giữ những nhân tố quyết định, tạo nền tảng, cơ sở cho cả nền kinh tế quốc dân, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Hiểu như thế thỡ khụng cú mõu thuẫn giữa kinh tế nhà nước là chủ đạo và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, hiện nay kinh tế tư nhân vẫn chưa phát triển đúng mức và cũn nhiều hạn chế: tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, quy mô sản xuất còn nhỏ bé, manh mún, do thiếu nhiều điều kiện nên chưa ứng dụng được những thành tựu của khoa học công nghệ, sản phẩm làm ra có chất lượng thấp, mẫu mã nghèo nàn, sức cạnh tranh kém. Bộ phận kinh tế tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài tuy trình độ khá hơn bộ phận kinh tế tư nhân trong nước về các mặt trên đây nhưng hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Nguyên nhân phần lớn là do kinh tế tư nhân vẫn chưa được đặt ở đúng vị trớ của mỡnh, nhiều ngành kinh tế vẫn tồn tại độc quyền Nhà nước, các dự án lớn vẫn tồn tại tại nhiều trở ngại cho sự tham gia của kinh tế tư nhân... Khi nói về các thành phần trong xó hội, Dự thảo văn kiện đại hội Đảng X tiếp tục đặt ra tuần tự trong văn bản là công nhân, nông dân, trí thức và doanh nhân. Doanh nhân lần này đó được đưa vào, nhưng vị trí lại không thể hiện sự coi trọng thực sự hoặc đặt đúng tầm vai trũ của doanh nhõn trong xó hội, trong khi đó trong 5 năm gần đây, phải nói là, sức ép từ những chấn động bên ngoài rất lớn, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển chính là nhờ khu vực kinh tế tư nhân. Ngay cả khai thác khả năng xuất khẩu trong thời gian qua cũng nhờ khu vực kinh tế tư nhân nhiều hơn là khu vực kinh tế Nhà nước. Chớnh vỡ thế từ trong tư tưởng, phải dành cho khu vực này một vị trí thích đáng, kể cả trong đầu tư, trong phân vai..., từ đó tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho kinh tế tư nhân để thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển hơn nữa, hiệu quả hơn nữa, xứng đáng với tiềm năng của mỡnh. Tài liệu tham khảo 1. www.Dangcongsan.com. 2. www.Diendandoanhnghiep.com 3. Tạp chí nghiên cứu kinh tế 4. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp 5. Giáo trình Kinh tế chính trị. MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 B. NỘI DUNG I. Những vấn đề lí luận về kinh tế tư nhân. ........................................................ 3 1. Quan niệm và đặc điểm của kinh tế tư nhân.................................................... 3 2. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường. .................................................................................... 5 II. Đánh giá thực trạng của kinh tế tư nhân trong quá trỡnh hỡnh thành và phỏt triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. ................................................ 5 1. Tiến trỡnh phỏt triển. ...................................................................................... 5 a. Trước đổi mới. .............................................................................................. 5 b. Thời kỡ đổi mới............................................................................................. 6 2. Đánh giá chung về thực trạng kinh tế tư nhân Việt Nam. ............................. 9 a. Thành tựu. ..................................................................................................... 9 b. Tồn tại và nguyên nhân tồn tại. .................................................................... 10 III. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong nền kinh tế định hướng XHCN. ................................................................... 13 C. KẾT LUẬN .................................................................................................... 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 19 sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ ở việt nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.pdf
Tài liệu liên quan