Tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện hiện nay: LUẬN VĂN:
phát triển kinh tế huyện bình
xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều
kiện hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, đồng thời định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế đất nước
thì từng địa phương được phân cấp quản lý nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn lãnh
thổ theo định hướng của ngành và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong đó,
phát triển kinh tế cấp huyện hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu
để làm sáng tỏ về mặt lôgíc và hoàn thiện quản lý trong thực tiễn.
Huyện Bình Xuyên là một huyện mới tái lập từ ngày 01.09.1998 được tách ra
từ huyện Tam Đảo thành huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương, sau khi tái lập
huyện có 14 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn. Khi mới tái lập định hướng của
phát triển của huyện vẫn dựa vào quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), ...
114 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
phát triển kinh tế huyện bình
xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều
kiện hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, đồng thời định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế đất nước
thì từng địa phương được phân cấp quản lý nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn lãnh
thổ theo định hướng của ngành và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong đó,
phát triển kinh tế cấp huyện hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu
để làm sáng tỏ về mặt lôgíc và hoàn thiện quản lý trong thực tiễn.
Huyện Bình Xuyên là một huyện mới tái lập từ ngày 01.09.1998 được tách ra
từ huyện Tam Đảo thành huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương, sau khi tái lập
huyện có 14 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn. Khi mới tái lập định hướng của
phát triển của huyện vẫn dựa vào quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), lấy phát triển
nông nghiệp là chủ yếu, do vậy sau 3 năm tái lập kinh tế huyện Bình Xuyên phát
triển chậm chạp, cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém, đời sống của nhân dân còn khó
khăn. Trong khi đó huyện có lợi thế gần thủ đô Hà Nội, sân bay Quốc tế Nội Bài, có
đường quốc lộ 2 và đường sắt chạy qua, mặt khác quá trình công nghiệp hoá và đô
thị hoá của Tỉnh Vĩnh Phúc đang diễn ra với tốc độ nhanh, kinh tế xã hội có bước
phát triển mạnh.
Vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền của huyện trong giai đoạn từ nay
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là nhanh chóng khắc phục nhược điểm,
khó khăn, khai thác tiềm năng điều kiện hiện có, tìm bước đi thích hợp để đẩy
nhanh quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trên địa bàn, nhằm xây dựng huyện
trở thành một huyện công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững nhằm
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính vì vậy việc nghiên cứu,
đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện và đề ra các giải pháp phát triển
kinh tế là rất cần thiết nhằm phát huy tốt những yếu tố tiềm năng, định rõ phương
hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế của huyện trong những năm tới, làm cơ sở
khoa học cho việc xây dựng các đề án, quy hoạch và kế hoạch đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn huyện, để Bình Xuyên từng bước phát triển tương xứng với
vị thế của một huyện trọng tâm phát triển công nghiệp của tỉnh với mục tiêu phấn
đấu đến năm 2015 huyện trở thành đô thị loại 4 của tỉnh Vĩnh Phúc.
Là người trực tiếp tham gia quản lý ở huyện Bình Xuyên, tôi chọn đề tài
“Phát triển kinh tế huyện Bỡnh Xuyờn tỉnh Vĩnh Phỳc trong điều kiện hiện nay”
làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài có một số đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về phát
triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại
nói riêng như:
Luận văn thạc sĩ năm 2006 của Nguyễn Anh Tuấn chuyên ngành quản lý
kinh tế, về hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội quận Long Biên thành phố
Hà Nội. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Chiến về tác động đầu tư
trực tiếp ở nước ngoài vào phát triển kinh tế -xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Lúa về thu hút đầu tư để phát triển
kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn
Hoài Khanh về tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế -xã hội ở tỉnh
Bình Dương. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Huỳnh Khánh Toàn về mối quan
hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam. Luận văn thạc
sĩ kinh tế năm 2006 của Trần Anh Đức về định hướng và giải pháp quản lý Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn quận Cẩm lệ thành phố Đà Nẵng...
Tuy vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
hoàn chỉnh về phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện
hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ căn cứ lý luận, phân tích đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế
huyện Bình Xuyên, đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó trọng tâm là các giải pháp quản lý nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế cấp huyện, xác định đúng
vai trò, vị thế của chính quyền cấp huyện đối với phát triển kinh tế trong tình hình
mới.
Phân tích đánh giá các yếu tố tiềm năng, nguồn lực và thực trạng tác động của
quản lý nhà nước đến sự phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay, chỉ
ra những nguyên nhân của thành tựu và những hạn chế, yếu kém.
Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020,.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các nhân tố cho phát triển
kinh tế và tác động của quản lý nhà nước cấp huyện tới sự phát triển kinh tế huyện
Bình Xuyên, đặt trong mối quan hệ với phát triển xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: trong phạm vi gianh giới hành chính của huyện Bình
Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
Phạm vi về thời gian: Khảo sát đánh giá thực trạng phát triển kinh tế huyện
Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay và giải pháp đến năm 2015 định hướng đến năm
2020.
Phạm vi ngành, lĩnh vực: Tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu của
huyện Bình Xuyên, không phân biệt cấp quản lý.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, các chỉ thị
nghị quyết về phát triển kinh tế của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc. huyện uỷ và
UBND huyện Bình Xuyên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề
chung về phát triển kinh tế, những căn cứ lý thuyết và thực tiễn phát triển kinh tế
cấp huyện trong điều kiện hiện nay.
Phương pháp phân tích số liệu định lượng: Trên cơ sở số liệu thu thập được
và những số liệu qua khảo sát thực tế, luận văn sử dụng phương pháp phân tích định
lượng theo nhóm vấn đề nghiên cứu phục vụ nội dung nghiên cứu và các kết luận
tổng hợp.
Phương pháp thống kê, so sánh: Sử dụng số liệu thống kê để phân tích, so
sánh nhằm đề xuất những kết luận về định hướng và giải pháp phát triển kinh tế trên
địa bàn huyện Bình Xuyên.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển kinh tế trong thời kỳ công
nghiệp hoá hiện đại hoá đối với cấp huyện trong giai đoạn hiện nay.
Làm rõ vai trò, vị trí của chính quyền của cấp huyện đối nhiệm vụ phát triển
kinh tế thời kỳ công nghiệp hoá -hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
6.2. Về thực tiễn
Trên cơ sở, tổng hợp phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế của
huyện trong những năm qua làm rõ bức tranh toàn cảnh về phát triển kinh tế trong
mối tương quan với các địa phương trong tỉnh Vĩnh Phúc. Điều này rất cần thiết cho
cấp uỷ đảng, chính quyền huyện trong việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trong những năm tới
Góp phần xây dựng mục tiêu, định hướng phát triển của huyện trong giai
đoạn 2005-2015 và định hướng đến năm 2020, đồng thời đề xuất các giải pháp cần
tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu của huyện trong thời kỳ CNH- HĐH và hội
nhập kinh tế.
Đề tài là tài liệu tham khảo giúp cấp uỷ Đảng, chính quyền huyện Bình
Xuyên trong việc hoạch định mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 03 chương, 07 tiết.
Chương 1
phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước
cấp huyện đối với phát triển kinh tế
1.1. Những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế
1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển. Trải qua thời
gian, khái niệm về phát triển cũng đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu
là: quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như
là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá
trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các
nhân tố nguồn lực của nền kinh tế và nhân tố quản lý quyết định.
Cũng có thể hiểu phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến
đổi cả về chất và lượng của cuộc sống nó đặt trong mối quan hệ với phát triển xã
hội.
Phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay có mục tiêu không những phát
triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững. Từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ
trước khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được tốc độ khá
cao, người ta bắt đầu có những suy nghĩ đến các ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng
trưởng nhanh đó đến tương lai con người và vấn đề phát triển bền vững được đặt ra.
Theo thời gian, quan niệm về phát triển bền vững ngày càng được hoàn thiện. Năm
1987, vấn đề phát triển bền vững được Ngân hàng Thế giới (WB) đề cập lần đầu
tiên, theo đó phát triển bền vững là “… Sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại
mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của hệ thống tương lai”.
Quan niệm đầu tiên về phát triển bền vững của WB chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh
sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho
con người trong quá trình phát triển. Ngày nay, quan điểm về phát triển bền vững
được đề cập một cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi trường tài nguyên thiên
nhiên, yếu tố môi trường xã hội được đặt ra với ý nghĩa quan trọng. Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Cộng hoà
Nam phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: Tăng trưởng
kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá sự
phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công
bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và
nâng cao chất lượng môi trường sống. Đảng Cộng sản Việt nam đã thể hiện rõ quan
điểm về phát triển bền vững trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
đến năm 2010: “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, gắn sự phát triển
kinh tế với giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia, tuỳ theo quan niệm khác
nhau của các nhà lãnh đạo đã lựa chọn những con đường phát triển khác nhau. Nhìn
một cách tổng thể, hệ thống sự lựa chọn ấy theo ba con đường: Nhấn mạnh tăng
trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và phát triển toàn diện.
Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa trước đây thường
lựa chọn con đường nhấn mạnh tăng trưởng nhanh. Theo cách lựa chọn này, Chính
phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng mà bỏ
qua các nội dung xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng trưởng thu nhập đã đạt được một
trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều quốc gia thực hiện theo mô hình đã làm
cho nền kinh tế rất nhanh khởi sắc, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất
cao. Tuy vậy, theo sự lựa chọn này, những hệ quả xấu đã xảy ra: một mặt, cùng với
quá trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng
gay gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan
tâm, một số giá trị văn hoá, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức, thuần
phong mỹ tục tốt đẹp của nhân dân bị phá huỷ. Mặt khác, việc chạy theo mục tiêu
tăng trưởng nhanh trước mắt đã nhanh chóng dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên
quốc gia, huỷ hoại môi trường sinh thái, chất lượng tăng trưởng kinh tế không đảm
bảo và vi phạm những yêu cầu phát triển bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo
ra lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn sau. Sự phát triển kinh tế của các
nước Braxin, Mehico, các nước OPEC và kể cả Philipin, Malaysia, Indonesia đi
theo sự lựa chọn này.
Mô hình nhấn mạnh vào bình đẳng và công bằng xã hội lại đưa ra yêu cầu
giải quyết các vấn đề xã hội ngay từ đầu trong điều kiện thực trạng tăng trưởng thu
nhập ở mức độ thấp. Các nguồn lực phát triển, phân phối thu nhập cũng như chăm
sóc sức khoẻ, giáo dục, văn hoá được quan tâm và thực hiện theo phương thức dàn
đều, bình quân cho mọi ngành, mọi vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đây
là mô hình khá nổi bật của các nước đi theo mô hình chủ nghĩa xã hội trước đây,
trong đó có cả Việt Nam. Theo mô hình này, các nước đã đạt được một mức độ khá
tốt về các chỉ tiêu xã hội. Tuy vậy, nền kinh tế thiếu các động lực cần thiết cho sự
tăng trưởng nhanh, mức thu bình quân đầu người thấp, nền kinh tế lâu khởi sắc và
ngày càng trở nên tụt hậu so với mức chung của thế giới. Các chỉ tiêu xã hội thường
chỉ đạt cao về mặt số lượng mà có thể không đảm bảo về mặt chất lượng.
Hiện nay, nền kinh tế mở cửa, hội nhập cho phép nhiều nước đang phát triển
tận dụng lợi thế để thực hiện một lựa chọn tối ưu hơn bằng con đường phát triển
toàn diện. Theo mô hình này, Chính phủ của các nước, một mặt đưa ra các chính
sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, khuyến khích dân cư làm giầu, phát triển kinh tế
tư nhân và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp nguồn lực; mặt khác,
cũng đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc
sống dân cư. Hàn Quốc, Đài Loan là những nước đã thực hiện theo sự lựa chọn này.
Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự lựa
chọn theo hướng phát triển toàn diện. Đi đôi với thực hiện mục tiêu tăng trưởng
nhanh, chúng ta đã đưa ra mục tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội ngay từ đầu
và trong toàn bộ tiến trình phát triển.
Việc hệ thống hoá con đường phát triển kinh tế mặc dù mang nội dung tương
đối, nhưng nó là cần thiết để giúp các nước, các địa phương, căn cứ vào điều kiện
kinh tế, chính trị trong và ngoài nước ở từng giai đoạn cụ thể để có hướng đi thích
hợp cho mình.
1.1.2. Các nội dung phát triển kinh tế
Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế
Muốn phát triển các mặt của đời sống kinh tế -xã hội, trước hết phải có thêm
của cải , tức là năng lực của nền sản xuất phải được mở rộng hay nền kinh tế phải
tăng trưởng với tốc độ cao trong thời gian dài. cũng vì vậy, các nước nghèo, lạc hậu
muốn tạo ra sự phát triển kinh tế, phải coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một
trong chiến lược kinh tế-xã hội của mình.
Tăng tưởng kinh tế là: Sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh
sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh
tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của
nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng vật chất hoặc giá trị. thu nhập bằng giá trị
phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNP và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc
tính bình quân trên đầu người.
Tăng trưởng kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt số
lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế chưa đề cập
đến mối quan hệ của nó với các vấn đề xã hội.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay
việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được
nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc
độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên
nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ, vốn và nhân lực trong một
cơ cấu kinh tế hợp lý.
Như vậy mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển có mối quan hệ biện
chứng. Tăng trưởng là điều kiện cần đối với sự phát triển, nhưng nó chưa là điều
kiện đủ. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến phân hoá giàu nghèo, khủng
hoảng xã hội, ngược lại phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong thực
tế.
Xét trên góc độ kinh tế, tăng trưởng kinh tế có tính hai mặt: lợi ích và chi
phí.
Tăng trưởng kinh tế có rất nhiều ích lợi, là cơ sở là điều kiện để cải thiện
và nâng cao đời sống của dân cư. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề quan trọng bậc
nhất để phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế -xã hội như: khoa học, giáo
dục, y tế, thể dục thể thao… do những lợi ích đó, tăng trưởng kinh tế là hết sức
cần thiết với tất cả các quốc gia. Với các nước nghèo, lạc hậu tăng trưởng kinh tế
càng quan trọng vì mức thu nhập, mức sống của dân cư rất thấp, nhiều mặt của
đời sống kinh tế xã hội còn ở trình độ thấp, lạc hậu…
Mặt thứ hai của tăng trưởng kinh tế là chi phí. Nền kinh tế tăng trưởng cành
nhanh, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên càng lớn vì vậy tài nguyên càng
sớm cạn kiệt, môi trường càng bị tổn hại , ô nhiễm. Nền kinh tế càng tăng trưởng
nhanh, càng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội : như phân hoá giàu nghèo, sự phát
triển của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội… Nền kinh tế tăng trưởng càng nhanh,
chi phí càng lớn.
Thứ hai: Sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. theo hướng tiến
bộ phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội.
Trong các nội dung của phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế được xem như là
tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá so sánh các giai đoạn
phát triển của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là: tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ
trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể nền
kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng
giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều
kiện kinh tế- xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ
thể. Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng thì xu thế chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá trình phát triển. Đánh giá
sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc độ của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ
cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế v.v... Trong đó,
cơ cấu kinh tế ngành phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là một nội
dung quan trọng của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là: tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế,
thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các
ngành với nhau. Các mối quan hệ này hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định. Luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Về lý thuyết cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả về mặt định lượng và định tính.
Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi
ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan
trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nước đang phát triển có
xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp
của các nước này thường chiếm từ 20%-30% GDP. Trong khi đó ở các nước phát
triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm từ 1%-7%. Trong quá trình phát
triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo một xu
hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi, trong khi đó tỷ trọng
của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Như vậy cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo những nội dung sau:
Trước hết, đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành, số lượng ngành
kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao
động xã hội
Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội,
biểu hiện cụ thể qua qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong
quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Các ngành kinh tế được phân thành
ba khu vực hay gọi là ba ngành gộp: Khu vực I bao gồm ngành nông nghiệp - lâm -
ngư nghiệp; Khu vực II là các ngành công nghiệp và xây dựng; khu vực III gồm các
ngành dịch vụ.
Thứ đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các
ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Mặt số
lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động vốn vv...) của mỗi ngành trong
tổng thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí tầm quan
trọng của từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau.
Sự tác động qua lại giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực
tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, có mối quan hệ gián tiếp được
thể hiện theo các cấp 1,2,3 vv... nói chung mối quan hệ của các ngành cả số và chất
lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp theo sự phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế.
Khu vực I có đặc điểm phụ thuộc nặng vào tự nhiên năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế thấp. Do đó trong cơ cấu các ngành kinh tế khu vực I càng chiếm tỷ
trọng lớn, khu vực II và II chiếm tỷ trọng nhỏ thì nền kinh tế càng phụ thuộc vào tự
nhiên năng suất và hiệu quả của nền sản xuất xã hội càng thấp và ngược lại với khu
vực I chiếm tỷ trọng nhỏ nền kinh tế ít phụ thuộc vào tự nhiên, năng suất và hiệu
quả của nền sản xuất xã hội cao. Bởi vậy cơ cấu kinh tế theo ngành thay đổi theo
hướng: khu vực I giảm về tỷ trọng; khu vực II, III tăng về tỷ trọng được coi là sự
tiến bộ và sự thay đổi đó là nội dung của phát triển kinh tế.
- Cơ cấu vùng kinh tế: Sự phát triển kinh tế được thể hiện ở cơ cấu vùng
kinh tế theo góc độ thành thị và nông thôn. ở các nước đang phát triển, kinh tế nông
thôn phát triển rất cao. Theo số liệu của WB vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước,
45 nước có thu nhập thấp, tỷ trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 36 nước có
thu nhập tiếp theo, con số này là 65%. Trong khi đó các nước phát triển có hiện
tượng đối ngược lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị.
Một xu hướng khá phổ biến của các nước đang phát triển là luôn có một
dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả “ lực đẩy” ra khỏi khu
vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như thiếu thốn đất đai ngày càng nhiều và cả
“lực hút” từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân ngày càng lớn đã tạo ra
áp lực rất mạnh đối với Chính phủ các nước đang phát triển. Mặt khác, việc thực
hiện các chính sách công nghiệp hoá nông thôn, đô thị hoá, phát triển hệ thống
công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỷ trọng kinh tế thành thị ở các nước
đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ dân số thành thị cao hơn so với tốc độ
tăng trưởng dân số chung và đó chính là xu thế hợp lý trong quá trình phát triển.
WB đã theo dõi xu thế phát triển này ở các nước đang phát triển trong 20 năm từ
1980 đến 2000 và đưa ra số liệu khá thuyết phục.
Như vậy, ở các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp và trung bình, tỷ
lệ tăng dân số thành thị gấp 1,5 đến 2 lần so với tốc độ tăng dân số tự nhiên trong
khi đó ở các nước đang phát triển thì hai tỷ lệ này gần tương đương nhau. ở Việt
nam số liệu thống kê 13 năm (1990 đến 2003) cho thấy trong khi tốc độ tăng dân số
tự nhiên bình quân năm là khoảng 1,7% thì tốc động tăng dân số khu vực thành thị
khoảng 2,5%.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: Đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội
hoá về tư liệu sản xuất và tài sản của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại
hình sở hữu là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Nhìn chung ở các nước phát
triển và xu hướng ở các nước đang phát triển, khu vực kinh tế tư nhân thường chiếm
tỷ trọng cao và nền kinh tế phát triển theo con đường tư nhân hoá. ở nước ta hiện
nay đang tồn tại 6 thành phần kinh tế là: thành phần kinh tế nhà nước; thành phần
kinh tế tập thể; thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ thành; phần kinh tế tư bản tư
nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối xử, đều
có môi trường và điều kiện phát triển như nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo. Sau nhiều năm thực hiện đổi mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng phát triển tốt, đóng góp
một phần khá lớn vào kinh tế đất nước.
- Cơ cấu khu vực thể chế: Theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế được phân
chia dựa trên cơ sở vai trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua
đó đánh giá được vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyển nền kinh tế cũng
như mối quan hệ giữa chúng trong quá trình thực hiện sự phát triển. Các đơn vị thể
chế thường trú trong nền kinh tế được chia thành 5 khu vực: Khu vực Chính phủ
bao gồm tất cả các hoạt động được thực hiện bằng ngân sách nhà nước, khu vực tài
chính, khu vực phi tài chính, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi phục vụ gia
đình bao gồm các tổ chức hoạt động với mục đích hoạt động, phi lợi nhuận. Mục
tiêu của khu vực Chính phủ là đảm bảo các hoạt động cộng đồng, tạo điều kiện bình
đẳng cho các khu vực thể chế và thực hiện công bằng xã hội. Các đơn vị thuộc khu
vực phi tài chính thực hiện chức năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ bán trên thị
trường và với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Khu vực tài chính cũng thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ở trên thị trường tài
chính. Các hộ gia đình hoạt động theo lợi nhuận mục tiêu khác với các khu vực trên,
chức năng và hành vi của họ là tiêu dùng, tuy vậy họ cũng có thể tham gia vào các
hoạt động sản xuất dưới hình thức cung cấp sức lao động cho các doanh nghiệp
hoặc tự sản xuất dưới dạng các đơn vị sản xuất cá thể. Các tổ chức vô vị lợi, phục
vụ hộ gia đình với nguồn tài chính quyên góp tự nguyện như các tổ chức từ thiện,
cứu trợ, các tổ chức giúp đỡ người tàn tật v.v… theo đuổi mục tiêu phục vụ không
vì lợi nhuận, cung cấp hàng hoá và dịch vụ thẳng cho các hộ gia đình không lấy tiền
hoặc lấy với giá không có ý nghĩa kinh tế.
Thứ ba: Sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội.
Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là
tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân, xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình
quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo dục
của quảng đại quần chúng nhân dân, cơ hội lựa chọn việc thoả mãn các nhu cầu, sự
đảm bảo về an ninh v.v.. Và người dân phải được hưởng các thành quả của tăng
trưởng kinh tế. Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá
trình phát triển.
Như vậy phát triển kinh tế có nội dung rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nếu
tăng trưởng kinh tế mới chỉ đề cập tới những thay đổi về lượng của nền kinh tế thì
phát triển kinh tế không những đề cập về lượng mà còn bao hàm cả những thay đổi
về chất.
1.1.3. Các thước đo phát triển kinh tế
Để đo lường mức độ phát triển kinh tế có rất nhiều thước đo. Có thể chia
thước đo thành 04 nhóm cơ bản sau:
Nhóm 1: Các thước đo tăng trưởng kinh tế.
a. Tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân.
Để phản ánh sự tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng hai chỉ tiêu tổng
hợp chủ yếu là tổng sản phẩm trong nước và tổng sản phẩm quốc dân cũng như giá
trị bình quân đầu người của các chỉ tiêu này.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP- Gross Domestie Product).
GDP là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, phản ánh toàn
bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các đơn vị thường trú trong
nền kinh tế quốc dân của một Quốc gia trong một thời kỳ nhất định. GDP là thước
đo kết quả hoạt động kinh tế tạo ra của cải vật chất và dịch vụ trong lãnh thổ của
một đất nước, nó bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các ngành kinh tế bao gồm
những ngành tạo ra của cải vật chất, những ngành tạo ra các loại dịch vụ, kể cả các
cơ quan quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, các tổ chức xã hội các tổ chức phục
vụ cho xã hội và dân cư không vì mục đích kinh doanh.
Vậy tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị gia tăng của toàn bộ sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ và được tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm) trong phạm vi lãnh thổ của một nước; không phân biệt nguồn vốn và chủ
sở hữu trong nước hay nước ngoài.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP- Gross Domestie Product) là tổng giá trị thị
trường của mọi hàng hoá và dịch vụ được tạo ra bởi những người có cùng quốc tịch,
bất kể hoạt động kinh doanh được tiến hành ở trong hay ngoài biên giới và được
tính trong một thời kỳ cụ thể (thường là một năm).
Trong thực tế khi lấy lấy tổng sản phẩm trong nước (GDP) cộng với thu nhập
do lao động và đầu tư từ nước ngoài đem về trừ đi phần chi trả lợi nhuận và lợi tức
cho đầu tư và lao động nước ngoài để tính tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thì cả hai
yếu tố sau đều khó xác định, đặc biệt đối với nhiều nước trình độ thống kê còn hạn
chế. Vì lẽ đó chỉ tiêu GDP vẫn còn được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước, cũng
như các tổ chức Quốc tế trong việc đánh giá tăng trưởng và so sánh Quốc tế.
Tuy nhiên chỉ số tăng thêm của tổng sản phẩm trong nước GDP hay tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) chưa phản ánh đầy đủ ý nghĩa của tăng trưởng. Bởi vì tổng
sản phẩm và tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào dân số và tốc độ tăng dân
số hàng năm. Để khắc phục nhược điểm này cần tính GDP hoặc GNP bình quân đầu
người của các thời kỳ.
Để đánh giá mức sống của một quốc gia, người ta thường sử dụng chỉ tiêu
GNP bình quân đầu người. Sở dĩ như vậy vì hai nguyên nhân cơ bản sau:
- GNP tính cả đến các khoản tiền ngoại tệ thu được của các kiều dân của
quốc gia đó ở nước ngoài chuyển về.
- Đồng thời GNP còn trừ đi các khoản lợi nhuận và lợi tức chuyển ra ngoài
đất nước trả cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Còn để đánh giá khả năng sản xuất của một quốc gia, người ta sử dụng chỉ
tiêu GDP bình quân đầu người. Sở dĩ như vậy vì nó là thước đo tốt nhất cho biết số
lượng hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân.
b.Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Đó là tỷ lệ phần trăm giữa phần tăng thêm GDP hoặc GNP so với GDP hoặc
GNP của năm gốc so sánh. Đây là thước đo hết sức quan trọng, trực tiếp đo lường
mức độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể tính cho quy mô của
nền kinh tế hay bình quân đầu người.
c. Chỉ số giá cả CPI (Consumer Price Index).
Sự thay đổi của GDP và GNP có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thay đổi
giá cả, muốn biết tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế là bao nhiêu người ta phải loại
bỏ tác động của giá cả bằng cách lấy GDP hoặc GNP danh nghĩa chia cho giá cả.
d. Sức mua ngang giá PPP (Pur chasing power parity).
Mức giá của hàng hoá dịch vụ của các Quốc gia không giống nhau. Do đó để
có thể so sánh chính xác hơn GDP hoặc GNP của các Quốc gia, cần phải sử dụng
thước đo sức mua ngang giá PPP.
Nhóm 2: Các thước đo cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là một nội dung của phát triển kinh tế. Để đo lường cơ cấu
kinh tế, người ta sử dụng các thước đo kinh tế sau:
a. Tỷ trọng ngành GDP.
Đây là thước đo trực tiếp đo lường cơ cấu kinh tế, mức đo này cho biết mức
độ phát triển nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế thể hiện ở chỗ: Tỷ trọng của
các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm
xuống, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng lên.
b. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.
Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế do cơ cấu ngành kinh tế quy định. Do đó
cơ cấu lao động là sự phản ánh trình độ phát triển của cơ cấu kinh tế.
c. Cơ cấu dân cư theo khu vực thành thị- nông thôn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ cũng là quá trình đô
thị hoá, do đó làm cho tỷ lệ dân cư sống ở thành thị ngày càng tăng. Bởi vậy cơ cấu
dân cư theo khu vực thành thị và nông thôn là thước đo cơ cầu kinh tế.
đ. Tỷ trọng hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu trong GĐP và cơ cấu xuất
nhập khẩu.
Tỷ trọng cơ cấu xuất nhập khẩu không chỉ phản ánh mức độ phát triển các
quan hệ kinh tế đối ngoại của các Quốc gia, mà còn phản ánh cơ cấu các ngành kinh
tế trong nền kinh tế mở, những ngành có tiềm năng có lợi thế sẽ có điều kiện phát
triển và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế.
Nhóm 3: Các thước đo động lực của tiến bộ kinh tế
a. Tỷ lệ vốn đầu tư nội địa trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế.
Vốn là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng phát triển kinh tế, nếu nguồn
vốn trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, thì có thể
kết luận những tiến bộ kinh tế xuất phát tự nội lực.
b. Tỷ lệ lao động kỹ thuật và lao động quản lý là người bản địa trong tổng
lao động kỹ thuật và lao động quản lý trong nền kinh tế.
Lao động là một trong bốn nguồn lực cơ bản để tăng trưởng phát triển kinh
tế. Trong nguồn lực này lao động kỹ thuật và lao động quản lý có vai trò rất quan
trọng. Do đó để đánh giá động lực của các tiến bộ kinh tế cần phải sử dụng thước đo
này.
d. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong
nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu không chỉ thể hiện quy mô của nền kinh tế, sự phát
triển của các quan hệ thị trường mà còn phản ánh cơ cấu các ngành kinh tế. Do đó
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đo
lường động lực tiến bộ kinh tế.
Nhóm 4: Các thước đo chất lượng cuộc sống.
a. Thu nhập bình quân trên đầu người.
Mức thu nhập quyết định mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất và các nhu
cầu tinh thần. Do vậy thu nhập bình quân trên đầu người là thước đo hết sức quan
trọng đo lường chất lượng cuộc sống.
b. Các chỉ số giáo dục.
Các chỉ số giáo dục bao gồm: Tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong
các độ tuổi, số năm đi học bình quân, số giáo viên trên một nghìn dân, số sinh viên
trên một nghìn dân..v.v., các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển của giáo dục
của một quốc gia và mức độ thụ hưởng của các dịch vụ của dân cư.
c. Các chỉ số y tế.
Các chỉ số Ytế bao gồm: Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi, tỷ lệ dân cư được tiêm
phòng, số bác sỹ trên một nghìn dân, số giường bệnh trên một nghìn dân..v.v., các
chỉ số này phản ánh trình độ phát triển y tế của một quốc gia và mức độ thụ hưởng
các dịch vụ y tế của dân cư.
d. Các chỉ số công bằng xã hội.
Đó là các chỉ số như : Hệ số Gini, tỷ lệ người nghèo đói, hệ số chênh lệch
giàu nghèo.vv..Các chỉ số này đo lường mức độ công bằng trong phân phối thu
nhập.
e. Các chỉ số phát triển con người (HDI, Humande velop ment Index)
Đây là chỉ số tổng hợp phản ánh trình độ phát triển của con người và mức độ
thụ hưởng các thành quả kinh tế của dân cư. Chỉ số này bao gồm ba chỉ số như:
Tuổi thọ trung bình, mức độ phổ cập giáo dục, thu nhập bình quân trên đầu người.
Như vậy HDI không chỉ phản ánh mức sống vật chất, mà còn đo lường cả
mức sống tinh thần của dân cư và do đó chỉ số này đo lường chính xác hơn chất
lượng cuộc sống của dân cư.
Trên đây là thước đo chất lượng cuộc sống chủ yếu, ngoài ra đo lường chất
lượng cuộc sống, các thước đo khác có thể được sử dụng như: số lần xem phim/
người/ năm, tỷ trọng các gia đình được sử dụng nước sạch, có ti vi, tủ lạnh, máy
giặt, điện thoại, xe máy, ô tô v.v..
1.2. Các yếu tố điều kiện về nguồn lực và tác động của quản lý nhà nước
cấp huyện đối với phát triển kinh tế
1.2.1. các yếu tố điều kiện về nguồn lực cho phát triển kinh tế
Sự phát triển của mọi quốc gia đều phải dựa vào những nguồn lực nhất định,
được gọi là nguồn lực phát triển.
Các nguồn lực phát triển kinh tế có thể được hiểu là những thực lực và tiềm
lực bao gồm những yếu tố, những điều kiện hợp thành cơ sở vật chất cho sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân trong những thời kỳ nhất định.
Theo khái niệm về các nguồn lực như trên thì các điều kiện, các yếu tố đóng
vai trò là các nguồn lực phát triển kinh tế ở một quốc gia là rất đa dạng. Song ở các
quốc gia khác nhau thì các nguồn lực phát triển cũng rất khác nhau và ngay trong
một quốc gia, các nguồn lực cũng có thể biến đổi và có vai trò khác nhau giữa các
thời kỳ.
1.2.1.1. Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên
Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên là các nguồn cung cấp điều kiện và nguyên
liệu cho phát triển sản xuất. Nó bao gồm đất đai, không khí, nước, rừng, biển, các
loại năng lượng và những khoáng sản nằm trong lòng đất… con người có thể khai
thác và sử dụng những ích lợi do tài nguyên thiên nhiên ban tặng để thoả mãn
những nhu cầu đa dạng của mình. Ngoài ra vị trí địa lý cũng có ảnh hưởng rõ nét
đến sự phát triển của nền kinh tế và trong một chừng mực nào đó có thể xem đây
như là một nguồn lực tự nhiên của đất nước.
Theo công dụng có thể chia nguồn tài nguyên thiên nhiên thành các loại sau:
+ Nguồn năng lượng
+ Các loại khoáng sản
+ Nguồn tài nguyên rừng
+ Nguồn đất đai
+ Nguồn nước
+ Biển và thuỷ sản
+ Khí hậu
Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên được coi là một nguồn lực rất quan trọng
trong phát triển kinh tế. Nó được xem như món quà của thiên nhiên ban tặng cho
các quốc gia. Những quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ có những điều
kiện đặc biệt thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên trên thế giới
cũng có những nước nghèo tài nguyên khoáng sản (Nhật bản, Xingapo…) nhưng
do biết phát huy tốt các nguồn lực khác, nhất là nguồn lực con người, thì vẫn đạt
được tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng.
Số lượng và chất lượng của tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia không
phải hoàn toàn cố định. Nếu có sự đầu tư thoả đáng cho việc điều tra, nghiên cứu và
phát triển thì một quốc gia có thể phát hiện được thêm những nguồn tài nguyên mới
và phát triển, mở rộng được các nguồn tài nguyên đã có trong phạm vi biên giới
quốc gia, nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2.1.2. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của một quốc gia là tổng thể năng lực và tiềm lực lao động
biểu hiện bằng số lượng và chất lượng lao động của một quốc gia đó. Nó bao gồm
cả lực lượng lao động đơn giản, lao động phức tạp.
Nguồn nhân lực thể hiện ở số lượng lao động (những người trong độ tuổi lao
động và có khả năng lao động) và ở chất lượng lao động (chủ yếu ở trình độ giáo
dục và trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động, sức khoẻ… của con người). Chất
lượng nguồn nhân lực là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với nguồn nhân lực của
một quốc gia.
Nguồn lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những
người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang tham gia làm việc trong
các ngành kinh tế quốc dân.
Nguồn lao động cũng được biểu hiện trên hai mặt: Số lượng và chất lượng
như nguồn nhân lực.
Lực lượng lao động theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế(ILO -
International Labour Organization) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Theo
quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm sau: lực lượng lao động là bộ
phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp.
Tầm quan trọng của nguồn lực con người không chỉ dừng lại ở nhận thức lý
luận, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách mà luôn được
khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn lực con người đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao, luôn là nguồn lực to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là yếu
tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất và vì vậy nó là
một trong những yếu tố quyết định nhất của tăng trưởng kinh tế.
1.2.1.3. Nguồn vốn
Khác với yếu tố tài nguyên và lao động, vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho
quá trình sản xuất, song bản thân chúng lại là kết quả đầu ra của các quá trình sản
xuất trước đó. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân sau nhiều năm tích luỹ, toàn bộ
vốn cho hoạt động nền kinh tế là rất lớn và rất đa dạng.
Theo mục đích sử dụng của vốn không chỉ có sản xuất trực tiếp phục vụ cho
việc sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, mà còn bao gồm khối lượng
đáng kể và phong phú các hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng khác
phục vụ cho các nhu cầu kinh tế-xã hội của đất nước.
Theo hình thức tồn tại cụ thể của vốn, không chỉ có các loại vốn tồn tại dưới
dạng vật thể (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công trình kiến trúc,…) mà còn
bao gồm cả các loại vốn phí vật thể. Đó là kết quả của các loại hoạt động đầu tư cần
thiết cho hoạt động của nền kinh tế, những sản phẩm của nó không tồn tại dưới
dạng vật thể, mà tồn tại dưới dạng các phát minh, sáng chế, các giải pháp hữu ích
hay đơn thuần chỉ là những khoản đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ngoài ra, vốn còn tồn tại dưới dạng các tài sản chính. (tiền, các loại cổ
phiếu, trái phiếu, các loại nợ khác,…). Tiền là các loại tài sản chính cần đảm bảo
cho các hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường, liên tục. Còn các loại cổ
phiếu, trái phiếu, các loại công nợ khác là phương thức để chuyển tiết kiệm thành
đầu tư.
Như vậy, có thể hiểu: vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các tài sản
nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai.
* Vốn được hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn vốn trong nước:
+ Nguồn vốn tiết kiệm của ngân sách nhà nước là: phần được dành để chi
cho đầu tư phát triển từ thu của ngân sách nhà nước.
+ Tiết kiệm của các doanh nghiệp là: phần lãi sau thuế được các doanh
nghiệp để lại dành cho đầu tư phát triển.
+ Tiết kiệm của dân cư là: phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của các hộ
gia đình
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: bao gồm các nguồn vốn của Chính phủ,
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế và của tư nhân đầu tư vào các nước
đang phát triển dưới các hình thức trực tiếp và gián tiếp khác nhau.
+ Viện trợ phát triển chính thức (Officcial Development Assistance-ODA)
ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức của Chính phủ của một số nước,
hoặc của các tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy, hỗ
trợ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
+ Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ(Non Gocvernment Organization) Viện
trợ NGO là viện trợ không hoàn lại. Trước đây chủ yếu là viện trợ vật chất đáp ứng
các nhu cầu nhân đạo như cung cấp thuốc men, lương thực. Ngày nay, viện trợ này
bao gồm cả chương trình hỗ trợ phát triển với mục tiêu dài hạn hơn. Viện trợ NGO
tuy nhỏ nhưng cũng có vai trò tích cực. Song sử dụng viện trợ NGO cũng là vấn đề
nhạy cảm về chính trị.
+ Vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài: Đây là nguồn vốn do tư nhân nước
ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của nước chủ nhà, nhưng
không tham gia công việc quản lý; hoặc cấp tín dụng thông qua các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính; hoặc thông qua các khoản tín dụng thương mại
mà các nhà xuất khẩu nước ngoài dành cho các nhà nhập khẩu của nước chủ nhà.
+ Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài(Foreign Direct Invest ment- FDI) Đây là
vốn của nước ngoài đầu tư trực tiếp vào một nước (Nước tiếp nhận đầu tư).
1.2.1.4. Khoa học công nghệ
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng rộng lớn trong
việc khám phá, khai thác và sử dụng nguồn lực tài nguyên thiện nhiên. Những phát
triển mới về năng lượng nguyên tử, mặt trời, địa nhiệt,… đã cho con người” chìa
khoá” để giải quyết tình trạng cạn kiệt tài nguyên hiện nay. Những nghiên cứu mới
về sinh vật biển, về công nghệ sinh học… không chỉ có tác dụng làm tăng năng suất
cây trồng, vật nuôi, mà còn cải tạo môi trường sinh thái, kéo dài tuổi thọ con người.
Chính khoa học và công nghệ đã làm biến đổi chất lượng nguồn lao động theo
hướng chuyển từ lao động thủ công, cơ bắp sang lao động sử dụng máy móc, lao
động trí tuệ; làm biến đổi cơ cấu nguồn lực lao động theo hướng giảm dần tỷ trong
lao động nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ, từ đó làm
tăng năng suất lao động. Khoa học và công nghệ còn làm cho việc huy động, tập
trung và di chuyển vốn diễn ra một cách nhanh chóng, an toàn, thuận tiện và chính
xác. Do đó làm cho hiệu quả sử dụng vốn tăng lên.
Với tác động nêu trên, khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng chuyển
chiến lược phát triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu khi các nguồn tài nguyên
đang bị cạn kiệt dần.
1.2.2. Tác động của quản lý nhà nước cấp huyện trong phát triển kinh
tế
1.2.2.1. Vị trí, vai trò cấp huyện trong hệ thống tổ chức hành chính nhà
nước
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, quận/ huyện là một trong bốn cấp
hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời quận/ huyện
còn được tổ chức là một cấp chính quyền thuộc hệ thống chính quyền địa phương,
là cấp trên của xã, phường - chính quyền cơ sở và cấp dưới của tỉnh/ thành phố.
Về tổ chức không gian địa lý, huyện là địa bàn lãnh thổ với cư dân và tổ
chức xã hội đô thị, bao gồm diện tích tự nhiên và một lượng dân cư nhất định, tuỳ
thuộc vị trí, tính chất và điều kiện phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội. Về hành
chính, huyện là cơ quan nhà nước địa phương quản lý một số xã, thị trấn nhất định.
Số lượng xã, thị trấn thuộc mỗi huyện không có chỉ tiêu thống nhất, tuỳ theo đặc
điểm và tính chất của từng khu vực quyết định hình thành huyện và địa giới huyện
thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Xét về tổ chức xã hội - kinh tế, huyện là một phần lãnh thổ của tỉnh được
phân chia theo địa giới hành chính bao gồm đất đai, dân cư, ở các huyện, hầu hết
đều có hệ thống kết cấu hạ tầng chưa phát triển, có đường giao thông, hệ thống cung
cấp điện, nước sinh hoạt còn khó khăn, dân cư phân bố không đồng đều, tầng lớp
làm ăn sinh sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, thương mại, dịch vụ
Với hoạt động đa dạng, phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của hàng
vạn người trên một địa bàn lãnh thổ, đòi hỏi phải có sự quản lý, điều hành của một
tổ chức chính quyền, đó là cơ quan nhà nước cấp huyện.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi),
Điều 118 xác định như sau:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc
trung ương chia thành quận, huyện và thị xã.
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường, xã; quận chia thành phường.
Như vậy, đơn vị hành chính của nước ta hiện nay được chia thành bốn cấp:
cấp trung ương, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận, huyện, thị xã
và thành phố thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn. Trong mối quan hệ giữa các cấp
hành chính theo phân định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992, thì cấp huyện là một cấp trung gian có mối liên hệ giữa cấp tỉnh,
cấp cơ sở là cấp xã, thị trấn.
Trong mối quan hệ ấy, đơn vị hành chính cấp huyện có vai trò rất quan
trọng, quyết định sự thành công hay thất bại trong thực hiện nhiệm vụ của tỉnh. Các
hoạt động trong quản lý hành chính nhà nước ở huyện, sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng
được thể hiện ở đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn; đó là những
vấn đề quan hệ với tất cả lĩnh vực trong đời sống xã hội có tầm chiến lược, tác động,
ảnh hưởng lâu dài đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng những vấn
đề về đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn ấy chỉ trở thành hiện thực
khi thông qua hoạt động của hệ thống chính quyền cấp huyện là Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân, qua sự hưởng ứng thực hiện của quần chúng nhân dân. Để quần
chúng nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tự
giác thực hiện tất yếu phải thông qua quá trình tổ chức thực hiện trên phạm vi địa bàn
hoạt động của mỗi địa phương, cơ sở. Vì vậy, không thể thiếu vai trò trung gian của
cấp huyện.
Cấp huyện là một cấp hành chính được lập ra ở các tỉnh trong cả nước. Cấp
huyện trực tiếp lĩnh hội mọi vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách từ cấp tỉnh,
chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của tỉnh. Đối với cấp huyện, nhiều vấn đề trên
địa bàn bị chi phối rất lớn và gắn bó về kinh tế, kế hoạch và sự quản lý của tỉnh. Do
sự phát triển về kinh tế - xã hội và quá trình đô thị hoá đang diễn ra ngày càng
nhanh ở nước ta, việc hình thành đơn vị hành chính cấp huyện là rất cần thiết.
Trong vài thập kỷ qua, qua việc cải cách thí điểm, một số quận, huyện, tỉnh,
thành phố ở nước ta được sáp nhập với quy mô không thích hợp với điều kiện thực
tế. Đến nay, nhà nước đã phải hoạch định lại địa giới theo hướng nhỏ và gọn hơn,
phù hợp thực tế của từng vùng, cấp huyện trở thành đơn vị hành chính có vai trò
thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
1.2.2.2. Chức năng, quyền hạn quản lý nhà nước cấp huyện trên các lĩnh
vực
Theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, chính quyền địa
phương ở nước ta được tổ chức làm ba cấp: tỉnh - thành phố trực thuộc trung ương,
quận (huyện), phường (xã). Cơ sở pháp lý tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương được quy định trong Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở mỗi cấp (25-6-1996). Trong cơ cấu chính quyền
địa phương, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có
tính tự quản và thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định
chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương phù hợp với lợi ích
của nhân dân và pháp luật. Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân và nằm trong tổng thể các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia. Vì vậy,
Uỷ ban nhân dân thực hiện sự kết hợp chặt chẽ các quá trình quản lý nhà nước cả về
mặt lãnh thổ và cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Cụ thể, Hội đồng nhân dân quận (huyện) có chức năng, quyền hạn sau:
- Hội đồng nhân dân huyện quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm; chủ trương, biện pháp về xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế
hộ gia đình ở địa phương. Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và phát huy mọi tiềm năng của
các thành phần kinh tế ở địa phương, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của
các cơ sở kinh tế theo quy định của pháp luật. Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn; dự toán thu chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê
chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển
khai thực hiện ngân sách.
- Quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng mạng lưới
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung. Quyết
định biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất, điều kiện phát triển sự nghiệp văn hoá,
thông tin, thể dục thể thao tại địa phương. Giữ gìn, bảo quản, trùng tu và phát huy
giá trị các công trình văn hoá, nghệ thuật, di tích lịch sử - văn hoá và danh lam
thắng cảnh theo phân cấp.
- Quyết định biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy
sáng kiến cải tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân
dân ở địa phương. Quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sống hồ, nguồn nước, tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp
luật.
- Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân và quốc phòng toàn dân; bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây
dựng lực lượng dự bị động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu
phương quân đội và chính sách đối với lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương.
Đối với Uỷ ban nhân dân quận (huyện) có chức năng và quyền hạn sau:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; tổ chức
và kiểm tra thực hiện kế hoạch đó. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương, phương án phân bổ dự toán ngân sách
cấp mình; quyết toán ngân sách địa phương.
- Xây dựng và trình hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua các chương
trình khuyết khích phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp ở địa phương và
tổ chức thực hiện các chương trình đó. Chỉ đạo Uỷ ban nhân dân phường (xã) thực
hiện các biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, bảo vệ rừng,
trồng rừng và khai thác lâm sản, phát triển ngành, nghề đánh bắt, nuôi trồng và chế
biến thuỷ sản.
- Tham gia với Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố) trong việc xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Xây
dựng và phát triển các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở các
phường (xã). Tổ chức thực hiện xây dựng và phát triển các làng nghề truyền thống
sản xuất các sản phẩm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu; phát triển các cơ sở chế
biến nông, lâm, thuỷ sản và các cơ sở công nghiệp khác theo sự chỉ đạo của Uỷ ban
nhân dân tỉnh (thành phố).
- Tổ chức lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền quy hoạch xây
dựng xã, thị trấn, điểm dân cư nông thôn trên địa bàn huyện; quản lý việc thực hiện
quy hoạch xây dựng đã được duyệt. Quản lý, khai thác, sử dụng các công trình giao
thông và kết cấu hạ tầng cơ sở theo sự phân cấp. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy
phép xây dựng và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về xây dựng; tổ chức thực hiện
các chính sách về nhà ở; quản lý đất đai và quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước trên địa
bàn. Quản lý việc khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng theo phân cấp
của Uỷ ban nhân dân tỉnh (thành phố).
- Xây dựng, phát triển mạng lưới thương mại, dịch vụ, du lịch và kiểm tra
việc chấp hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch
trên địa bàn huyện. Kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về an toàn và vệ sinh hoạt
động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn. Kiểm tra việc chấp hành quy định
của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn.
- Xây dựng các chương trình, đề án phát triển văn hoá, giáo dục, thông tin,
thể dục thể thao, trên địa bàn quận (huyện) và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế; quản lý các
trung tâm y tế, trạm y tế; chỉ đạo và kiểm tra việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân.
- Thực hiện các biện pháp ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất
và đời sống nhân dân ở địa phương. Tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường; phòng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp
luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm; kiểm tra chất lượng sản phẩm
và hàng hoá trên địa bàn; ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng kém
chất lượng ở địa phương.
- Tổ chức phong trào quần chúng tham gia lực lượng vũ trang và quốc
phòng toàn dân; thực hiện kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ quận (huyện);
quản lý lực lượng dự bị động viên; chỉ đạo việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ,
công tác huấn luyện dân quân tự vệ. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh, bảo vệ bí mật nhà
nước; thực hiện các biện pháp phòng ngừa, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các
hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương.
Như vậy, cấp huyện không chỉ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà
nước ở địa phương mà còn được pháp luật trao thẩm quyền cho chính quyền trên
các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
Đối với các cấp chính quyền địa phương trong đó có cấp huyện, ngoài Hiến
pháp 1992, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền địa phương
mỗi cấp (25-6-1996), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm
2003, còn có Pháp lệnh về giám sát và hướng dẫn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Hướng dẫn và nguyên tắc kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân, Pháp
lệnh Cán bộ công chức, các luật, nghị định, thông tư về quản lý nhà nước ở các lĩnh
vực ngân sách, đất đai, lao động, thương mại... Các văn bản pháp lý nêu trên đã xác
định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của quận (huyện) và đặt chính quyền quận (huyện)
vào khung pháp lý chặt chẽ, bảo đảm hoạt động quản lý của bộ máy chính quyền
được thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật, ràng buộc bởi
pháp luật theo đúng định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.2.2.3. Quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện
* Quan niệm quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện
Theo quy định tại điều 118, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992, các đơn vị hành chính lãnh thổ ở nước ta chia thành 04 cấp. Cấp
Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (cấp xã bao gồm xã, phường, thị trấn). Cấp
huyện là một cấp trong cấu trúc của hệ thống chính trị, là cầu nối trung gian của
toàn bộ hệ thống chính trị với dân trong quá trình thực hiện chủ trương chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Trong điều kiện chuyển đổi và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế rất
quan trọng và ngày càng tăng lên trong toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước nói
chung. Trong đó quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện chiếm một vị trí ngày càng
quan trọng đối với phát triển kinh tế, là hoạt động chính quyền cấp huyện nhằm tổ
chức quản lý đời sống kinh tế -xã hội ở địa phương theo quy định của pháp luật. Hệ
thống quản lý nhà nước cấp địa phương nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế
cấp huyện có tầm quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế-văn hoá- xã
hội của đất nước.
* Đặc điểm quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện
Trong hệ thống tổ chức quản lý hành chính nhà nước cấp huyện là đơn vị hành
chính trong cấu trúc của hệ thống chính trị nên có những đặc điểm sau:
Một là, chính quyền cấp huyện là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương chính sách kinh tế-xã hội của Đảng và nhà nước. Chính quyền cấp
huyện không chỉ thực hiện chức năng trong việc ban hành các văn bản quy phạm
theo quy định của pháp luật mà còn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức quản lý
điều hành việc thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng pháp luật của
nhà nước trên địa bàn, là cấp trực tiếp quản lý nhà nước ở địa phương, có chức năng
quản lý điều hành các lĩnh vực của đời sống kinh tế -văn hoá -xã hội theo Hiến Pháp
và pháp luật. Các chủ trương đường lối chính sách của Đảng và nhà nước muốn đi
vào cuộc sống và phát huy được hiệu lực thì phải thông qua hoạt động của chính
quyền cấp huyện. Điều đó cho thấy cấp huyện là địa chỉ, là đích tới của mọi chỉ đạo
chiến lược từ trung ương xuống địa phương, là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn, tính
khả thi, tính hiệu quả và trên cơ sở đó có thể điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực
tế ở cơ sở.
Hai là, chính quyền huyện là cấp tiếp xúc trực tiếp với dân, gần dân, là nơi
trực tiếp tổ chức các hoạt động quản lý, điều hành các công việc hành chính và trực
tiếp tổ chức thi hành pháp luật. Đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cấp huyện
trong công tác cũng như trong sinh hoạt hàng ngày luôn luôn tiếp xúc với mọi
người dân. Họ là những người hàng ngày trực tiếp giải quyết các vấn đề về dân
quyền và dân sinh, dân trí của địa phương, đảm bảo theo đúng đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước, đồng thời việc xử lý, giải quyết mọi vấn đề phải
sát hợp với tình hình thực tế của địa phương. Theo xu thế phát triển của xã hội sự
đổi mới từng ngày ở huyện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá- xã hội đang đòi hỏi
đội ngũ cán bộ công chức của chính quyền cấp huyện phải có tư duy mới có trình độ
kiến thức về chính trị kinh tế, quản lý khoa học công nghệ cũng như nắm bắt được mọi
giá trị truyền thống tốt đẹp của địa phương mới có thể đảm đương được nhiệm vụ trọng
trách được giao.
Ba là, chính quyền cấp huyện là nơi tiếp nhận trực tiếp sự góp ý và đề đạt
nguyện vọng của nhân dân, thông qua đó thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện quyền tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chính quyền
cấp huyện ở nước ta là loại lãnh thổ hành chính được hình thành theo đặc điểm dân
cư, địa lý phong tục tập quán, văn hoá lịch sử … Mọi vấn đề ở cấp huyện đều liên
quan chặt chẽ với nhau và cần được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hoà các lợi ích
nhà nước và dân cư. Vì vậy chính quyền không chỉ là cơ quan cai trị mà là cơ quan
thể hiện lợi ích chung của dân cư. Việc tổ chức quản lý ở những vùng lãnh thổ này
cần thiết phải tính đến nguyện vọng và ý chí của cộng đồng dân cư.
* Chức năng quản lý nhà nước cấp huyện đối với phát triển kinh tế
Chức năng là những nhiệm vụ tổng quát mà cơ quan quản lý Nhà nước phải
thực hiện để phát huy vai trò và thực thi quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế.
Chức năng có các bậc khác nhau như: Chức năng cơ bản và chức năng cụ
thể. Trong đó chức năng cụ thể phải tuân thủ chức năng cơ bản.
- Chức năng cơ bản của quản lý Nhà nước về kinh tế của cấp huyện
Một là, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế.
Đây là chức năng rất quan trọng, nó xuất phát từ sự phân cấp quản lý của
tỉnh, xuất phát từ thực tế trên địa bàn huyện và trên cơ sở dự báo sự phát triển kinh
tế mà xây dựng các loại quy hoạch như:
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội.
- Quy hoạch ngành kinh tế.
- Quy hoạch đô thị
- Quy hoạch cụ thể khác
Từ quy hoạch phải xây dựng các kế hoạch, các phương án thực hiện cho dài hạn
và ngắn hạn; kế hoạch định hướng và kế hoạch trực tiếp phát triển kinh tế.
Hai là, tạo lập môi trường điều kiện cho phát triển kinh tế.
Cấp huyện gắn với cơ sở, trực tiếp với hoạt động kinh tế như việc tạo môi
trường và điều kiện cho sản xuất kinh doanh phải rất cụ thể.
Trước hết là môi trường, trên cơ sở pháp luật và các văn bản pháp lý của
Trung ương và Tỉnh. Huyện vừa là nơi tuyên truyền, phổ biến, giải thích và thực thi
ở địa phương cần giúp cơ sở một môi trường pháp lý thuận lợi, rõ ràng minh bạch
để người dân yên tâm bỏ vốn kinh doanh và phát triển; môi trường chính trị, xã hội
ổn định, trật tự kỷ cương, môi trường cho văn hoá phát triển, môi trường kinh tế,
môi trường đầu tư thoáng…
Về điều kiện cho phát triển: trong phạm vi quyền hạn của cấp huyện cần phổ
biến các chính sách, hướng dẫn về thực hiện chính sách, vận dụng các điều kiện của
huyện để chính sách được thực hiện thuận lợi, xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển
như giao thông, điện, khu công nghiệp, các điều kiện cụ thể hơn như: Thủ tục hành
chính, địa điểm, môi trường sản xuất kinh doanh v.v…
Ba là, tổ chức thực thi quản lý Nhà nước đối với phát triển kinh tế.
ở cấp huyện cần hai nội dung cơ bản, thứ nhất là tổ chức bộ máy quản lý Nhà
nước bao gồm các phòng, ban chuyên quản lý trong lĩnh vực kinh tế; xác định rõ
chức năng quyền hạn cho từng phong, ban chuyên kinh tế cùng với sự phối hợp của
các cơ quan không chuyên chỉ thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể về kinh tế. Thứ hai,
tổ chức hoạt động cụ thể như: tổ chức cho mọi đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần
kinh tế tiến hành sản xuất kinh doanh theo pháp luật; tổ chức đăng ký cấp phép xây
dựng đô thị, cấp phép sản xuất kinh doanh; tổ chức kiểm tra kiểm soát các hoạt
động kinh tế trên địa bàn huyện.
- Chức năng nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của quản lý Nhà nước cấp
huyện đối với phát triển kinh tế
Chức năng quản lý của cơ quan nhà nước cấp huyện tồn tại khách quan bởi
cấp huyện là một cấp chính quyền nhà nước, được nhà nước phân công, phân cấp,
do đời sống xã hội đòi hỏi.
Chức năng nhiệm vụ quyền hạn, kinh tế hay hoạt động quản lý kinh tế cụ thể
của nhà nước cấp huyện là: Lập quy hoạch, kế hoạch, giải pháp khai thác tiềm năng
phát triển kinh tế xã hội toàn huyện.
Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án kinh tế trong
huyện.
Quản lý tài nguyên, khai thác, sử dụng đúng quy hoạch, kế hoạch, đúng pháp
luật, hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao.
Quản lý và chỉ đạo cấp xã thị trấn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện.
Quản lý và chỉ đạo các đơn vị, các tổ chức trên địa bàn huyện không thuộc
địa bàn cấp trên quản lý hoặc cấp xã quản lý.
Phối hợp cùng các ngành các cấp để quản lý theo ngành, kết hợp quản lý
theo lãnh thổ.
Kiểm tra, kiểm soát các đối tượng quản lý để chỉ đạo uốn nắn kịp thời, xử lý
đúng mức những vi phạm pháp luật.
Thẩm định, quyết định những vẫn đề theo quy định của pháp luật.
Sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để nâng cao năng lực quản lý chỉ đạo, báo
cáo đề xuất với cấp trên tiếp thu thông tin chỉ đạo của cấp trên, thông tin kinh
nghiệm, những tri thức tiến bộ văn minh của nhân loại vận dụng vào điều kiện cụ
thể của huyện, tạo ra sự tăng trưởng phát triển trong huyện đúng chính sách pháp
luật của nhà nước.
Từ những chức năng nhiệm vụ chung nhà nước còn phân rõ nhiệm vụ quyền
hạn của 3 loại cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện (quyền lực, hành pháp, tư pháp).
Nhằm nâng cao trách nhiệm của mỗi chủ thể quản lý, nâng cao nghiệp vụ chuyên
sâu, tránh đùn đẩy, chồng chéo hoặc bỏ sót.
Chương 2
thực trạng phát triển kinh tế và tác động
của quản lý nhà nước đối với phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên
2.1. Hiện trạng các yếu tố điều kiện về nguồn lực phát triển kinh tế
huyện Bình Xuyên
2.1.1. Các điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Bình Xuyên là huyện trung du miền núi nằm ở phía nam tỉnh Vĩnh Phúc,
phía bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, phía nam giáp thị trấn Yên Lạc, phía đông giáp thủ
đô Hà Nội, phía tây giáp thành phố Vĩnh Yên, huyện Tam Đảo và huyện Tam
Dương. Huyện nằm giữa hai trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh là thành phố Vĩnh
Yên và thị xã Phúc Yên. Huyện có lợi thế gần sân bay quốc tế Nội Bài, có đường
quốc lộ 2 và đường sắt chạy qua, gần kề các khu công nghiệp tập trung của tỉnh là
khu công nghiệp Vĩnh Yên, Phúc Yên, cách không xa các khu công nghiệp lớn tập
trung của Hà Nội. Với vị trí địa lý thận lợi trong những năm qua, cùng với quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước, nền kinh tế Bình Xuyên đã phát triển
nhanh chóng. Từ một huyện nông nghiệp, đến nay Bình Xuyên đã có cơ cấu kinh tế
công nghiệp là chủ đạo và được tỉnh định hướng trở thành vùng công nghiệp trọng
điểm của tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
2.1.1.2. Địa hình
Huyện có địa hình đa dạng, thấp dần từ Bắc xuống Nam, chia thành 3 vùng
sinh thái rõ rệt là đồng bằng, trung du, miền núi.
Vùng đồng bằng đất đai bằng phẳng có tiềm năng phát triển nông nghiệp
thâm canh cao. Tuy vậy, độ chênh lệch giữa các cốt ruộng trong vùng khá lớn,
nguồn nước từ dãy Tam Đảo thường gây úng lụt cục bộ, tạo ra một diện tích lớn
ruộng trũng chỉ cấy được 1 vụ lúa chiêm;
Vùng trung du có quỹ đất đồi lớn phù hợp trồng cây ăn quả, cây công
nghiệp, cây màu kết hợp chăn nuôi đại gia súc, đồng thời là vùng có quỹ đất xây
dựng lớn. Tuy vậy đất đai trong vùng có độ màu mỡ kém, độ chia cắt mạnh gây khó
khăn cho phát triển các công trình thuỷ nông và kết cấu hạ tầng nói chung.
Vùng miền núi có quỹ rừng lớn, có tiềm năng phát triển kinh tế đồi rừng và
du lịch sinh thái.
2.1.1.3. Khí hậu, thuỷ văn
Bình Xuyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm; có lượng mưa khá cao,
khoảng 1500-1700mm/năm, riêng vùng núi có lúc đạt 3000mm, tập trung từ tháng 7
đến tháng 10.
Trên địa bàn huyện có sông Bá Hạ, sông Phan chảy qua, lưu lượng dòng
chảy nhỏ, chỉ lớn đột xuất sau những trận mưa lũ Tam Đảo. Hiện tượng úng lụt
thường xảy ra do ảnh hưởng của nguồn nước từ dãy Tam Đảo gây không ít khó
khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
2.1.1.4. Tài nguyên đất
Huyện Bình Xuyên có diện tích tự nhiên 14.559,094 ha, phân theo công
dụng kinh tế như sau: đất nông nghiệp chiếm 47,0%, đất lâm nghiệp có rừng chiếm
19,60%, đất chuyên dụng chiếm 17,3%, đất ở chiếm 3,8%, và đất chưa sử dụng,
sông suối và núi đá là 12,4% (xem biểu 1).
Xem xét tình hình sử dụng đất đai của huyện trong các năm gần đây cho
thấy, sau khi xã Minh Quang tách ra khỏi huyện cùng với một phần lớn đất lâm
nghiệp có rừng và đất chưa sử dụng thì các loại đất còn lại của huyện tiếp tục biến
động. Đất nông nghiệp đã giảm trên 231 ha cho xây dựng khu cụm công nghiệp,
đường xá; đất lâm nghiệp cũng giảm trên 244 ha, trong đó rừng tự nhiên giảm 126
ha, rừng trồng giảm 84ha. Đất chuyên dùng tăng gần 460 ha do quá trình xây dựng
diễn ra mạnh trong những năm gần đây; Tuy vậy, điều đáng chú ý là đất ở, đặc biệt
là đất đô thị tăng ít, thể hiện quá trình đô thị hoá của huyện còn rất chậm. Cho đến
năm 2005 có tới 86,1% tổng diện tích đất ở là không gian sinh sống của dân nông
thôn.
Biểu 2.1: Hiện trạng sử dụng đất đai huyện Bìng Xuyên phân theo công dụng
kinh tế năm 2005
Mục đích sử dụng Diện tích, ha Cơ cấu,%
Tổng diện tích tự nhiên 14559.09 100%
I Đất NN 6844.17 47.0%
1 Đất trồng cây hàng năm 6047.04 41.5%
a Trong đó đất trồng lúa, hoa màu 5535.03 38.0%
b Đát trồng cây hàng năm khác 712.01 4.9%
2 Đất vườn tạp 600.01 4.1%
3 Đất trồng cây lâu năm 86.49 0.6%
4 Đồng cỏ dùng vào chăn nuôi 12.32 0.1%
5 Đất có mặt nước nuôi trồng TS 98.31 0.7%
II Đất lâm nghiệp có rừng 2846.39 19.6%
1 Rừng tự nhiên 1088.99 7.5%
2 Rừng trồng 1756.45 12.1%
3 Đất ươm cây giống 1,0 0.04%
III Đất chuyên dùng 2514.08 17.3%
1 Đất xây dựng 572.18 3.9%
2 đất giao thông 772.61 5.3%
3 Đất Thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 745.88 5.1%
4 Đất di tích LS, VH 7.08 0.0%
5 Đất an ninh, quốc phòng 272.5 1.9%
6 Đất khai thác khoáng sản 0.0%
7 Đất làm nguyên VLXD 28.21 0.2%
8 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 80.72 0.6%
9 Đất chuyên dùng khác 34.45 0.2%
IV Đất ở 553.27 3.8%
1 Đất ở đô thị 76.66 0.5%
2 Đất ở nông thôn 476.61 3.3%
V.
Đất chưa sử dụng, sông suối và núi
đá 1801.18 12.4%
1 Đất bằng chưa sử dụng 86.43 0.6%
2 Đất đồi núi chưa SD 1001.65 6.9%
3 Đất có mặt nước chưa SD 59.89 0.4%
4 Sông suối 645.17 4.4%
5 Đất chưa SD khác 8.04 0.1%
Nguồn: Phòng tài nguyên-môi trường huyện Bình Xuyên năm 2005.
Bình Xuyên đang trong quá trình phát triển. Chắc chắn quỹ đất nông nghiệp
sẽ chịu áp lực lớn của việc xây dựng đường xá, khu công nghiệp, đô thị và các công
trình công cộng khác. Để đảm bảo phát triển nông nghiệp trong điều kiện đất canh
tác bị thu hẹp, cần đẩy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ sinh học
trong sản xuất nông nghiệp, kết hợp mở rộng và khai thác nguồn đất đai chưa sử
dụng để bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác; Quy hoạch
sử dụng đất đai theo quan điểm và định hướng phát triển mới cần phải được triển
khai kịp thời.
2.1.1.5. Tài nguyên nước
Nguồn cung cấp nước mặt chính cho huyện gồm 2 sông chính là sông Bá
Hạ, sông Phan và các ao hồ nhỏ. Các xã phía Nam là vùng cuối của hệ thống thuỷ
nông Liễn Sơn. Nhìn chung nguồn nước mặt về cơ bản đảm bảo cho nhu cầu sản
xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên, do nguồn nước phân bố không đều trong năm nên về
mùa khô vẫn thiếu nước. Về lâu dài phải xây dựng thêm các công trình điều tiết
nước mặt mới đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất và dân sinh.
Theo số liệu điều tra, nguồn nước ngầm của huyện không lớn, chỉ đủ cung
cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất quy mô nhỏ. Tuy vậy, việc khai thác nguồn
nước ngầm không lớn này cũng sẽ khó khăn do khả năng ảnh hưởng đến môi trường
đã được cảnh báo.
2.1.1.6. Tài nguyên rừng
Huyện Bình Xuyên có 2.846,39 ha đất lâm nghiệp có rừng (năm 2005),
chiếm 19,6% diện tích tự nhiên. Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 38,3%, rừng
trồng chiếm 61,7% và đất ươm cây giống chiếm 0,04%. Phần lớn quỹ rừng của
huyện thuộc rừng quốc gia nên hoạt động kinh tế trong lĩnh vực lâm nghiệp rất
hạn chế. Quỹ rừng của huyện có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi
trường sinh thái, rừng phòng hộ, chống xói mòn, giảm lũ xô.
2.1.1.7. Tài nguyên khoáng sản
Theo kết quả điều tra về khoáng sản, trên địa bàn huyện không có khoáng
sản quý hiếm, chỉ có một số nguyên vật liệu xây dựng như đất sét, sỏi, cuội, cát ở
vùng ven sông;
2.1.1.8. Tài nguyên du lịch và nhân văn
Cũng như tỉnh Vĩnh Phúc, Bình Xuyên là huyện có khá nhiều di tích lịch sử
văn hoá, mang giá trị lịch sử, tâm linh, văn hoá dân gian độc đáo. Đó là cụm đền
Hương Canh, đền Đông Cung (Thanh Lanh, Trung Mầu) thờ tản Viên Sơn Thần,
Miếu Tam thánh (xã Tam Hợp), Thành Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương (Thanh
Lanh-Trung Mỹ) và nhiều lễ hội dân gian hấp dẫn khách thập phương...... Cùng với
những di tích văn hoá- lịch sử, huyện còn có vùng hồ Thanh Lanh xã Trung Mỹ là
nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và không khí trong lành, có thể phát triển du
lịch sinh thái. Tổng cộng trên địa bàn huyện có tới 21 di tích lịch sử văn hoá được
xếp hạng, trong đó, 10 di tích cấp nhà nước xếp hạng và 11 di tích địa phương xếp
hạng. Những lợi thế về tài nguyên du lịch và nhân văn nếu được khai thác tốt sẽ
đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho huyện.
2.1.2. Dân số và nguồn lao động
2.1.2.1. Dân số
Bình Xuyên có dân số ít so với các huyện trong tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2005
dân số toàn huyện có 105.678 người (mật độ 683 người/km2), trong đó, dân số đô
thị có 13.203 người chiếm 12,5%, dân số nông thôn chiếm 87,5% tương đương
92.475 người.
Trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2008, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của
huyện tăng từ 1,20% (2005) lên 1,46% (2007) và năm 2008 chỉ còn 1,44% (xem
biểu 2.2).
Xem xét dân số theo độ tuổi cho thấy, dân số Bình Xuyên thuộc loại trẻ.
Số dân dưới 40 tuổi (2005) chiếm khoảng 76,7%, trong đó số dân từ 15 - 39 tuổi
chiếm 41,3% so với tổng dân số. Đây có thể coi là một điểm lợi thế của huyện về
nguồn nhân lực và lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên
đây cũng là một thách thức lớn đối với chính quyền huyện trong vấn đề giải
quyết công ăn, việc làm, giáo dục và đào tạo một đội ngũ lao động trẻ, trình độ
cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế huyện theo hướng phát công nghiệp hoá,
hiện đại hoá dựa vào tri thức và công nghệ cao.
Biểu 2.2: Dân số huyện Bình Xuyên giai đoạn 2005 - 2008
Đơn vị: Người
Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008
1 -Dân số trung bình 105.678 107.436 109.438 109.322
Formatted Table
2 -Dân số trong độ tuổi LĐ 54.368 54.852 55.452 55.018
- % so với DS 51,5 51,0 50,7 50,3
3 -Thành thị 13.203 13.638 34.183 34.511
- % so với DS 12,5 12,7 31,2 31,7
4 Nông thôn 92.475 93.798 75.255 74.811
- Tỷ trọng so với DS 87,5 87,3 68,8 68.3
Tốc độ tăng (%) 1,2 1,34 1,46 1,44
Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng thống kê huyện Bình Xuyên.
2.1.2.2. Lao động
Tổng số người trong độ tuổi lao động của huyện Bình Xuyên tính đến năm
2008 có 55.018 người chiếm 50,3% tổng dân số. Lao động làm việc trong các ngành
kinh tế trên địa bàn huyện có 54.120 người (chiếm 98,3% dân số trong tuổi lao
động), trong đó tỷ trọng lao động ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm khoảng
79,1%, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là 15,1%
và dịch vụ là 5,8% trong tổng số lao động (xem biểu 2.3).
Biểu 2.3: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế 2005-2008
Đơn vị: Người
Stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008
1 Tổng số 52.930 53.340 53.788 54.120
2 Nông lâm thuỷ sản 41.940 41.510 40.610 39.860
3 Công nghiệp - Xây dựng 7.910 8.610 9.738 10.640
4 Dịch vụ 3.080 3.220 3.440 3.620
Cơ cấu (%)
1 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0
2 Nông lâm thuỷ sản 79,2 77,8 75,5 73,7
3 Công nghiệp - Xây dựng 14,9 16,1 18,1 19,6
4 Dịch vụ 5,9 6,1 6,4 6,7
Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng thống kê huyện Bình Xuyên.
Số liệu về nguồn lao động của huyện giai đoạn 2005-2008 cho thấy cơ cấu
lao động đã chuyển dịch theo xu hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng lao động ngành
nông - lâm - thuỷ sản, tăng dần tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ. Tốc độ giảm lao động trung bình trong ngành nông nghiệp khoảng
1,7%/năm, tốc độ tăng lao động công nghiệp bình quân 11,5%/năm và lao động
dịch vụ tăng 5,8%/năm. Nhưng tốc độ chuyển dịch chưa tương xứng với với tiềm
năng thế mạnh của huyện.
Tương lai phát triển thành một trung tâm công nghiệp của tỉnh và trung tâm
huyện lỵ trở thành đô thị loại IV vào năm 2020 đòi hỏi huyện phải chuyển dịch
mạnh cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch
vụ; giảm nhanh tỷ lệ lao động nông nghiệp, đồng thời với việc đào tạo và nâng cao
tay nghề cho lực lượng lao động. Trình độ lao động thấp không tương xứng với tốc
độ và quy mô phát triển công nghiệp của huyện sẽ một thách thức lớn đối với huyện
trong những năm sắp tới.
2.2. Tình hình phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước tới
phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên giai đoạn 2005-2008
2.2.1. Tổng quan về phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên
Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, nằm giữa các trung tâm công nghiệp của tỉnh
(Vĩnh Yên, Phúc Yên, Xuân Hoà), gần các khu công nghiệp của Hà Nội (Nội Bài,
Sóc Sơn..) và sẵn có một số điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật (điện, giao
thông..), dưới sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc, kinh
tế huyện Bình Xuyên đã và đang chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá và
đạt tốc độ tăng trưởng rất cao trong những năm vừa qua.
Tốc độ tăng GTSX của huyện giai đoạn 2005-2008 đạt khoảng 29,4%/ năm
(cao hơn mức trung bình 20% của tỉnh trong cùng kỳ), trong đó, nông - lâm-ngư
nghiệp tăng 11,3%, công nghiệp-TTCN tăng 29,5%/năm và dịch vụ-TM tăng
64,5%/năm. Tốc độ tăng trưởng cao đã đưa tổng GTSX trên địa bàn huyện tăng gần
1,9 lần sau 3 năm, từ 2.931 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 5.518 tỷ đồng năm 2008.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hoá; Năm
2005 tỷ trọng giá trị sản xuất CN-TTCN-XDCB chiếm 83,9% Nông-Lâm- Thuỷ sản
chiếm 10,6% Thương mại-Dịch vụ chiếm 5,5%. Năm 2006 tỷ trọng giá trị sản xuất
CN-TTCN-XDCB chiếm 83,1% Nông-Lâm- Thuỷ sản chiếm 9,3% Thương mại-
Dịch vụ chiếm 7,6%. Năm 2007 tỷ trọng giá trị sản xuất CN-TTCN-XDCB chiếm
84,3% Nông-Lâm- Thuỷ sản chiếm 8,6% Thương mại- Dịch vụ chiếm 7,1%. Năm
2008 tỷ trọng giá trị sản xuất CN-TTCN-XDCB chiếm 84% Nông-Lâm- Thuỷ sản
chiếm 7,6% Thương mại- Dịch vụ chiếm 8,4%.
Công nghiệp phát triển mạnh đã cải thiện cơ bản mức GTSX bình quân đầu
người trong huyện: Từ 27,5 triệu đồng năm 2005 tăng lên 32,5 triệu đồng/người vào
năm 2006; Năm 2007 là 38,6 triệu đồng/người; Năm 2008 là 50,5 triệu đồng/người.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng nhanh trong những năm vừa qua. Năm
2005 tổng thu ngân sách mới đạt trên 47 tỷ đồng, năm 2006 tổng thu là 59,2 tỷ
đồng, năm 2007 tăng lên 90,4 tỷ đồng và năm 2008 đạt 182,4 tỷ đồng, trong đó thu
từ khu vực ngoài quốc doanh tăng mạnh.
Cơ cấu thu ngân sách của huyện chuyển dịch theo hướng tích cực và mang
tính bền vững. Trong đó, tỷ trọng nguồn thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
trên địa bàn tăng đều đặn qua các năm và chiếm tỷ lệ khá cao. bình quân từ năm
2005 đến năm 2008 đều chiếm tỷ trọng trên 80% trong tổng nguồn thu.
Trong thời gian qua từ huyện đến xã, thị trấn đã tích cực chủ động khai
thác và nuôi dưỡng các nguồn thu, các khoản thu hàng năm đều đạt và vượt dự
toán được giao, trong đó tăng chủ yếu là thuế giá trị gia tăng của các doanh
nghiệp tư nhân, thu cấp quyền sử dụng đất và các khoản đóng góp xây dựng cơ
sở hạ tầng khi giao đất. Mặc dù tổng nguồn thu của huyện quy mô còn rất nhỏ
nhưng cơ cấu thu ngân sách đã chuyển biến tích cực. Tăng thu từ các nguồn trên
thể hiện xu thế làm ăn có hiệu quả của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên
địa bàn và là nguồn thu bền vững trong điều kiện đất nước tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số nguồn thu không được khai thác triệt
để là các loại phí, lệ phí, thu khai thác đất đá cát sỏi.v.v..
Cùng với việc tăng thu, chi ngân sách huyện cũng tăng để phục vụ kịp thời
cho phát triển kinh tế. Tổng chi ngân sách từ 32,6 tỷ đồng năm 2005 đã tăng lên
67,1 tỷ đồng vào năm 2008, chưa tính vốn đầu tư của tỉnh đầu tư trên địa bàn bình
quân mỗi năm trên 70 tỷ đồng.
Biểu 2.4: Cơ cấu kinh tế giai đoạn 2005-2008
Đơn vị tính: tỷ đồng
Đơn vị tính 2005 2006 2007 2008
Tổng giá trị sản
xuất
Tổng
số
Tỷ
trọng
%
Tổng
số
Tỷ
trọng
%
Tổng
số
Tỷ
trọng
%
Tổng
số
Tỷ
trọng
%
2.931 100 3.525 100 4.227 100 5.518 100
Giá trị công
nghiệp xây dựng
2.460,
4
83,9 2930,8 83,1 3562,7 84,3 4637,2 84
Giá trị Nông lâm-
Thuỷ sản
313,6 10,6 327,9 9,3 364,4 8,6 420 7,6
Giá trị Thương
Mại- Dịch vụ
157 5,5 266,3 7,6 299,9 7,1 460,8 8,4
Nguồn: báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng tài chính kế hoạch huyện Bình
Xuyên.
Biểu 2.5: Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội chủ yếu
huyện Bình Xuyên giai đoạn 2005- 2008
Số
TT
Chỉ tiêu ĐV
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Dân số
Người
10634
7
10852
4
10943
8
10933
2
Lực lượng lao động xã hội Người 54.368 54.852 55.452 55.018
I Chỉ tiêu Kinh tế
1 Giá trị sản xuất tỷ 2.931 3.525 4.227 5.518
1.1 Giá trị Công nghiệp- xây
dựng
tỷ
2.460,
4
2.930,
8
3.562,
7
4.637,
2
1.2 Giá trị Nông lâm- Thuỷ sản tỷ 313,6 327,9 364,4 420
1.3 Giá trị Thương mại - Dịch
vụ
tỷ 157 266.3 299,9 460,8
2 Tổng thu ngân sách trên địa
bàn
tỷ 47 59,2 90,4 182,4
3 Tổng chi ngân sách trên địa
bàn
tỷ 32,6 44,8 50,6 67,1
II Chỉ tiêu xã hội
1 Số lao động được đào tạo
nghề
% 28,56
2 Số lao động được giải quyết
việc làm hàng năm.
Lao
động
1.881 2.000 2.402 2.618
3 Tổng số giường bệnh GB 131 131 140 145
4 Tổng số Bác sỹ trên 100 dân BSỹ 0,017 0,0176 0,02 0.023
5 Tỷ Lệ hộ nghèo
%
13,49
%
11,42
%
9,01% 6,7%
6 Số điện thoại trên 100 dân đt/100
d
6,8 9,28 10,53 13,2
7 Thu nhập trên đầu
người.(theo giá trị sản xuất)
Tr.đ 27,5 32,5 38,6 50,5
Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng tài chính kế hoạch huyện
Bình Xuyên.
2.2.2. Hiện trạng phát triển các ngành và lĩnh vực
2.2.2.1. Ngành nông - lâm - ngư nghiệp
Tốc độ tăng bình quân GTSX thời kỳ từ 2005 đến nay luôn duy trì ở trên
10%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 8,4%/năm; thuỷ sản tăng 15,2%/năm và lâm
nghiệp tăng 10,5%/năm; dịch vụ tăng 10,7%/năm. Giá trị sản xuất của ngành từ
313,6 tỷ đồng năm 2005, tăng lên 327,9 tỷ đồng năm 2006, năm 2007 là 364,4 tỷ
đồng, năm 2008 là 420 tỷ đồng.
Cơ cấu GTSX nội bộ ngành nông nghiệp trong những năm qua đã chuyển
dịch theo hướng tích cực hơn. Tỷ trọng ngành trồng trọt từ 54,3% năm 2005 giảm
xuống còn 49,7% năm 2008; tỷ trọng ngành chăn nuôi từ 41,3% năm 2005 tăng lên
45% năm 2008.
Biểu 2.6: Hiện trạng phát triển ngành nông-lâm- thuỷ sản của huyện
ĐVT: Triệu đồng
Năm Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tổng số 313.624 327.963 364.399 420.056
I- Ngành trồng trọt 166.944 155.892 167.009 208.780
1- Cây lương thực 108.300 107.024 120.544 135.363
2- Cây rau đậu 10.866 12.002 11.143 23.720
3- Cây công nghiệp hàng
năm
11.675 7.478 9.588 21.301
4- Cây lâu năm 15.641 15.179 16.177 19.155
5- Các loại cây khác 14.312 10.872 7.756 7.420
6- Sản phẩm tự trồng trọt 6.150 3.400 1.801 1.821
II- Ngành lâm nghiệp 3.466 3.414 2.797 4.564
1- Trồng và chăm sóc rừng 1.608 1.754 1.044 2.456
2- Sản phẩm lâm nghiệp 1.858 1.660 1.753 2.108
III- Chăn nuôi, thuỷ sản 129.671 151.445 177.504 188.816
1- Gia súc 82.112 94.628 112.670 121.706
2- Gia cầm 25.046 31.150 35.045 39.413
3- Chăn nuôi khác 2.168 3.912 4.440 5.060
4- Nuôi trồng thuỷ sản 12.497 14.195 20.879 12.458
5- Sản phẩm phụ chăn nuôi 7.848 7.200 4.470 10.179
IV- Dịch vụ nông lâm
nghiệp
13.543 17.212 17.089 17.896
1- Làm đất cộng tưới tiêu 10.863 13.493 13.258 13.984
2- Giống gia súc, gia cầm 365 675 525 670
3- Giống cây trồng 2.000 2.500 2.700 2.800
4- Dịch vụ khác 315 544 606 530
Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu chủ yếu phòng thống kê huyện Bình Xuyên.
* Trồng trọt
Diện tích đất nông nghiệp năm 2005 của huyện là 6844,17 ha, chiếm 47,0%
tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, đất trồng cây hàng năm chiếm 88,4%; đất vườn
8,8%; đất trồng cây lâu năm 1,3%; đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi 0,2% và đất có
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản chiếm 1,4%. Ngoài sự thay đổi diện tích trồng trọt do
tách xã Minh Quang khỏi Bình Xuyên, diện tích trồng các loại cây trên địa bàn hầu
như không biến động nhiều qua các năm, thể hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn
chậm.
Tính đến năm 2005 tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm của huyện có
khoảng 11.728,5ha, trong đó, diện tích cây lương thực chiếm gần 81,1%, cây rau đậu
chiếm 5,6%; cây công nghiệp hàng năm chiếm 6,5% và cây hàng năm khác chiếm
6,8%. Cơ cấu diện tích gieo trồng cây hàng năm cho thấy cây nông nghiệp chủ đạo của
huyện vẫn là cây lương thực, là loại cây truyền thống đem lại giá trị gia tăng thấp. Một
số loại cây có giá trị kinh tế cao và có thị trường trong và ngoài nước như cây rau đậu,
cây ăn quả...chiếm diện tích không đáng kể.
Diện tích trồng cây lâu năm của huyện rất nhỏ, ổn định ở mức 520 ha, chủ
yếu là trồng cây ăn quả như nhãn, vải, chuối, bưởi và một ít chè. Cây lâu năm của
huyện không nhiều, năng suất thấp, hướng chuyển đổi còn khó khăn.
Nhìn chung, trong thời gian qua (2005-2008) tốc độ tăng GTSX ngành trồng
trọt đạt mức 8,4%/năm, đưa giá trị sản xuất từ 166,9 tỷ đồng năm 2005 tăng lên
208,8 tỷ đồng năm 2008. Tỷ trọng ngành trồng trọt trong cơ cấu GTSX ngành nông
nghiệp có xu hướng giảm dần, từ 54,3% năm 2005 xuống còn 49,7% năm 2008.
- Cây lương thực
Lúa là cây lương thực chủ lực của huyện, chiếm tỷ lệ khoảng 80% tổng diện
tích trồng cây lương thực và hiện có khoảng trên 5.000 ha, tập trung nhiều ở xã Bá
Hiến, Thanh Lãng, Đạo Đức.
Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp, năng suất lúa bình quân đã tăng
liên tục trong các năm qua. Năm 2005 năng suất lúa bình quân đạt 49,31 tạ/ha; năm
2008 tăng lên 51.72 ta/ha, góp phần nâng sản lượng lương thực có hạt của huyện từ
40,086 nghìn tấn năm 2005 tăng lên 41,571 nghìn tấn vào năm 2008. Dự kiến, tổng
sản lượng lương thực có hạt năm 2009 chỉ đạt khoảng 39,75 nghìn tấn do phải tiếp
tục chuyển 356 ha đất nông nghiệp sang sử dụng mục đích khác.
Tính so với các huyện khác trong tỉnh, Bình Xuyên có diện tích trồng lúa
đứng thứ 5 nhưng do dân số ít, năng suất vào loại khá nên mức lương thực (lúa)
bình quân đầu người năm 2005 đạt mức cao nhất nhì trong tỉnh với mức lương thực
có hạt bình quân đầu đạt khoảng 410 kg/người
- Cây thực phẩm
Diện tích trồng cây thực phẩm của huyện năm 2005 có 655,1 ha, trong đó rau
xanh chiếm gần 93% tổng diện tích (chủ yếu là trồng rau vụ đông), còn lại là trồng
đậu.
Cây thực phẩm là một trong những mặt hàng nông sản có giá trị kinh tế cao,
thị trường rộng lớn. Đặc biệt, nhu cầu của các thành phố và các khu công nghiệp về
các loại rau đậu sạch ngày càng tăng đã và đang trở thành một một hướng sản xuất
chiến lược của nhiều địa phương. Tuy vậy, diện tích gieo trồng, năng suất và sản
lượng cây thực phẩm của huyện hầu như không tăng trong nhiều năm qua. Sản xuất
cây thực phẩm của huyện hiện đóng góp GTSX rất nhỏ, khoảng hơn 15 tỷ đồng
năm.
Huyện Bình Xuyên có vị trí địa lý nằm giữa các trung tâm công nghiệp của
tỉnh và gần Thủ đô Hà Nội, có lợi thế về sản xuất các loại cây thực phẩm phục vụ
cho nhu cầu ngày càng tăng của các đối tác này cho nên cần có biện pháp cải tạo đất
đai, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và mở rộng diện tích trồng rau, đậu để nâng giá trị
thu nhập trên 1 ha đất canh tác, cải thiện đời sống và tạo việc làm cho người nông
dân;
- Cây công nghiệp hàng năm
Diện tích cây công nghiệp hàng năm của huyện có 764 ha (năm 2005),trong đó
diện tích trồng đậu tương chiếm tỷ lệ 64,5%, lạc chiếm 35,5%; thanh hao hoa vàng
chiếm 11,5%; mía chiếm 4%. Năng suất và sản lượng các loại cây trồng trên tăng
không ổn định trong các năm qua; riêng diện tích trồng lạc, dâu tằm đã giảm rõ rệt và
sản lượng cũng giảm theo. Cây công nghiệp hàng năm của huyện đóng góp giá trị sản
xuất rất nhỏ bé, khoảng 10 tỷ đồng năm.
Các loại cây cây công nghiệp trồng trên địa bàn huyện thuộc loại cây có giá
trị kinh tế cao, đồng thời có thị trường trong và ngoài nước. Tuy vậy, do điều kiện
đất đai kém màu mỡ, sản xuất manh mún, khả năng mở rộng diện tích và trồng quy
mô lớn khó khăn nên các loại nông sản này còn đóng vai trò thứ yếu trong phát
ngành nông nghiệp nói riêng và kinh tế huyện nói chung.
- Cây ăn quả
Diện tích trồng cây ăn quả của huyện khoảng 520 ha, trong đó nhãn, vải
chiếm 24% tổng diện tích; chuối chiếm 21,4% ; phần diện tích còn lại trồng các loại
cây như dứa, táo, bưởi. Sản lượng các loại cây ăn quả của huyện nhìn chung không
ổn định trong nhiều năm qua.Tuy vậy, do giá các loại trái cây khá cao, lại dễ tiêu
thụ nên ngành cũng đã đóng góp giá trị kinh tế khá hơn các loại cây khác với giá trị
trên dưới 15 tỷ đồng năm.
Biểu 2.7: So sánh năng suất một số loại cây trồng của Bình Xuyên
với các huyện khác trong tỉnh năm 2005
ĐVT: Tạ/ Ha
Bình
Xuyên
Lập
Thạch
Tam
Dương
Tam
Đảo
Yên Lạc
Vĩnh
Tường
Lúa cả năm 49,31 43,55 48,77 42,97 57,10 57,95
Ngô 37,28 34,24 37,60 35,24 41,86 43,63
Khoai 77,66 69,94 88,70 70,71 107,16 122,00
Sắn 105,0 105,5 102,50 101,00 - 100,0
Rau xanh 110,32 88,56 164,08 90,00 150,29 217,21
Đậu các loại 4,0 2,9 8,6 6,8 11,0 12,0
Lạc 15,20 13,66 13,82 15,65 18.80 20,52
Đậu tương 14,49 12,15 14,48 12,73 15,49 17,44
Mía 567,91 555.0 630,0 620,0 600.0 850.0
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc 2005.
* Chăn nuôi - thuỷ sản
- Chăn nuôi
Thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong các năm qua huyện
đã tích cực triển khai một số dự án về chăn nuôi : dự án cải tạo và nâng cao chất
lượng giống đàn bò thịt, dự án cải tạo và chăn nuôi lợn hướng nạc, xây dựng hệ
thống thú y cơ sở đảm bảo an toàn dịch bệnh. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi
được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao chất lượng giống gia súc gia cầm; nhiều
giống gia súc gia cầm mới được đưa vào sản xuất, tăng nhanh khối lượng hàng hoá
cung cấp ra thị trường.
Hiện nay, hầu hết đàn lợn được cải tạo giống theo hướng siêu nạc; đến năm
2005 tỷ lệ đàn bò lai sind chiếm 40,1% tổng đàn, năm 2008 chiến 50% tổng đàn,
(cao hơn mức bình quân 45% của tỉnh); đã xuất hiện các mô hình chăn nuôi tập
trung theo phương pháp công nghiệp có khối lượng hàng hoá lớn. Huyện cũng đã làm
tốt công tác phòng và chống dịch, ngăn chặn kịp thời dịch cúm gia cầm, hạn chế phát
sinh các ổ dịch mới. Tính đến năm 2005, tổng đàn bò của huyện có khoảng 12.068 con,
đàn lợn có trên 49.290 con, trong đó, lợn thịt chiếm tỷ lệ 86%; đàn gia cầm có khoảng
374.800 con; trâu có 3.354 con.
Phát triển của ngành chăn nuôi đã đóng góp cho mức tăng GTSX huyện
khoảng trên 100 tỷ đồng năm.
Đánh giá chung, ngành chăn nuôi của huyện hiện đang đứng vị trí trung bình
của tỉnh về tổng đàn nuôi và cả sản lượng thịt hơi xuất chuồng, trong đó lợi thế của
huyện là chăn nuôi bò thịt và lợn. Sản phẩm chăn nuôi đang có xu hướng trở thành
nông sản hàng hoá quan trọng của huyện.
- Thuỷ sản
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, diện tích nuôi trồng thuỷ
sản của huyện liên tục được tăng lên, từ 752 ha 2005 tăng lên 832 ha năm 2006 và
936 ha năm 2008. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng nhờ đó cũng đã tăng từ trên 804
tấn năm 2005 lên 940 tấn năm 2006, 1091 tấn năm 2007 và 969 tấn năm 2008.
Hiện nay tổng số hộ chăn nuôi thuỷ sản có quy mô lớn trên địa bàn toàn
huyện có khoảng 180 hộ. Các hộ chăn nuôi thuỷ sản đã tích cực ứng dụng kỹ thuật
tiến tiến trong sản xuất, tỷ lệ các giống cá có năng suất và giá trị thấp giảm dần,
thay thế bằng các giống cá có năng suất và giá trị cao như cá chép lai, chim trắng, rô
phi đơn tính
Ngành thuỷ sản trong những năm qua (2005-2008) đạt tốc độ tăng GTSX
bình quân 14,7%/năm. Giá trị sản xuất của ngành tuy còn nhỏ trong cơ cấu ngành
nông-lâm-ngư nhưng có xu hướng tăng lên rõ rệt, từ 12,4 tỷ đồng năm 2005 tăng
lên 20,8 tỷ đồng năm 2007.
Huyện Bình Xuyên có hơn 2000 ha đồng chiêm trũng nên hướng tập trung
đầu tư để phát triển một vụ lúa một vụ cá tại các khu vực này sẽ giúp ngành thuỷ
sản của có thể trở thành một sản phẩm chủ lực. Hiện tại và trong tương lai, ngành
thuỷ sản vẫn là ngành kinh tế quan trọng mang lại hiệu quả cao, đóng góp giá trị gia
tăng lớn cho huyện. Vì vậy, ngành cần phải được đầu tư, củng cố để tiếp tục phát
triển hơn.
* Dịch vụ nông nghiệp
Trên địa bàn huyện hiện nay có 20 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ nông nghiệp. Nhờ sự hoạt động tích cực của các đơn vị này, công tác thú y, bảo
vệ thực vật, cung cấp phân bón, cung cấp giống, vật tư nông nghiệp đã đáp ứng
được nhu cầu sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm qua GTSX ngành dịch vụ nông nghiệp đã tăng khá nhanh,
đạt tốc độ tăng bình quân 10,7%/năm, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Năm 2005
đạt giá trị 13.5 tỷ đồng, năm 2007 đạt 17 tỷ đồng và 17.9 tỷ đồng năm 2008 và chiếm tỷ
trọng khoảng 5% trong cơ cấu ngành nông nghiệp.
Tóm lại: Ngành đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá, ổn định. Cơ cấu kinh tế
nông nghiệp đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm,
chăn nuôi và thuỷ sản tăng. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được thực
hiện trong cả lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi; dịch vụ nông nghiệp đã hoạt động
tích cực đảm bảo hậu cần cho sản xuất nông nghiệp. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn
một số tồn tại
Cơ cấu nông nghiệp còn nặng về trồng trọt và cơ cấu cây trồng còn thiên về
trồng lương thực; các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao chưa được phát triển mạnh
(rau đậu, cây ăn quả);
Năng suất các loại cây trồng còn thấp; hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao
(giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác chưa cao, đạt khoảng 24 triệu đồng/ha, thấp hơn
nhiều so với mức trung bình 26 triệu đồng/ha của tỉnh Vĩnh Phúc).
Các phân ngành chưa phát triển đồng bộ; việc dồn ghép ruộng đất còn chậm.
Quy mô sản xuất chủ yếu là hộ gia đình chưa xây dựng được các mô hình sản xuất
lớn nên sản phẩm hàng hoá còn manh mún; hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng
trong nông nghiệp còn khó khăn;
2.2.2.2. Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng
* Công nghiệp
Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước, trong
những năm qua huyện Bình Xuyên đã huy động các thành phần kinh tế, tập trung
vốn đầu tư để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và đạt được những
kết quả to lớn.
Tính đến 31/12/2008 trên địa bàn huyện Bình Xuyên có 276 doanh nghiệp
đăng ký sản xuất kinh doanh trên địa bàn với tổng số vốn đăng ký 14.694,76 tỷ
đồng. Trong đó có 187 công ty TNHH; 52 doanh nghiệp tư nhân; 9 công ty nước
ngoài; 24 hợp tác xã và 3 doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp, cơ sở công
nghiệp tiểu thủ công nghiệp đóng trên địa bàn thu hút được khoảng 11.336 lao động
(lao động tại chỗ chiếm tỷ lệ 30-40%), trong đó doanh nghiệp FDI thu hút được
1.512 lao động.
Ngành công nghiệp trên địa bàn đã cho nhiều sản phẩm hàng hoá như: vật
liệu xây dựng, thức ăn gia súc, bao bì, má phanh ô tô và xe máy, hàng may mặc và
một số hàng thực phẩm (thịt lợn, gà,,,). Đặc biệt, tại đây đã hình thành khu công
nghiệp Bình Xuyên, khu công nghiệp Bá Thiện, cụm công nghiệp Hương Canh, tạo
môi trường đầu tư hấp dẫn và giúp cho việc quản lý sản xuất và bảo vệ môi trường
được tốt hơn. Các khu, cụm công nghiệp đã thu hút được một lượng vốn đầu tư
trong và ngoài nước tạo cho huyện một vị thế mới trong nền kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc.
Tính đến nay 100% diện tích cụm công nghiệp Hương Canh (24 ha) đã được lấp
đầy và một phần diện tích khu công nghiệp Bình Xuyên đã được đưa vào sử dụng.
Trong giai đoạn 2005-2008, tốc độ tăng GTSX ngành công nghiệp- xây dựng
đã đạt mức rất cao trên 30%/năm (cao hơn nhiều so với mức trung bình 18,6% của
tỉnh), Tốc độ tăng trưởng cao đã đưa GTSX của ngành từ 2460,4 tỷ đồng năm 2005
tăng lên 4637,2 tỷ đồng vào năm 2008. Kết quả là đến năm 2008 ngành công
nghiệp-xây dựng đã nhanh chóng chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu GTSX của
huyện, khoảng 84%. Khác với nhiều địa phương trong tỉnh và trong cả nước, khu vực
đầu tư trong nước của Bình Xuyên lớn mạnh nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng cao
trong tổng GTSX của huyện. Dưới đây là các chỉ tiêu về phát triển công nghiệp- xây
dựng huyện trong giai đoạn vừa qua.
Biểu 2.8: Các chỉ tiêu phát triển ngành công nghiệp-xây dựng
của huyện 2005-2008
ĐVT: tỷ đồng
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008
I. GTSX CN + XD 2.460,4 2.930,8 3.562,7 4.637,2
1. Công nghiệp 2.104 2.515 2.857 3.465
- Khai thác 101 150 200 250
- Chế biến 1.849 2.205 2.477 3.015
- Khác 154 160 180 200
2. Xây dựng 356,4 415,8 705,7 1.172,2
III. Cơ cấu GTSX 100% 100% 100% 100%
1. Công nghiệp 85,5 85,8% 80,2% 74,7%
- Khai thác 4,1 5,1% 5,6% 5,4%
- Chế biến 75,1 75,2% 69,5% 65,0%
- Khác 6,3 5,5% 5,1% 4,3%
2. Xây dựng 14,5 14,2% 19,8% 25,3%
Nguồn: phòng thống kê huyện Bình Xuyên.
Như vậy, từ một huyện nông nghiệp vào năm 1998, đến nay sau gần 10 năm
Bình Xuyên đã trở thành một huyện có công nghiệp là chủ đạo.
Ngoài các ngành công nghiệp mới, các nghề thủ công truyền thống của
huyện cũng được quan tâm khôi phục và phát triển, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và kinh tế huyện nói chung.
* Tiểu thủ công nghiệp.
Do có nhiều khó khăn về vốn, thị trường, trình độ kỹ thuật, các mặt hàng có
tính cạnh tranh chưa cao nên các làng nghề TTCN của Bình Xuyên phát triển còn
khó khăn, cho giá trị sản xuất rất nhỏ, từ 3 đến 5 tỷ đồng/năm. Tiếp tục khôi phục
lại các làng nghề truyền thống là một trong những hướng phát triển sản xuất đúng
đắn nhằm chuyển đối cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, giải quyết công ăn việc
làm và tăng thu nhập cho người dân.
- Làng gốm Hương Canh: Năm 2003 huyện đã quy hoạch 6 ha đất ở khu
Đồng Bèo thị trấn Hương Canh để khôi phục làng nghề gốm. Đến nay các cơ sở sản
xuất đã được phục hồi và đưa ra thị trường các sản phẩm được người tiêu dùng chấp
nhận như gốm mỹ nghệ, ngói cổ dùng phục chế các đền chùa và các công trình văn
hoá. Tổng doanh thu nghề này tăng từ 1,3 tỷ năm 2005 lên 1,8 tỷ năm 2008. Hoạt
động của làng nghề đã thu hút được 100 lao động làm việc tại làng gốm này.
- Làng mộc Thanh Lãng: Năm 2004 huyện đã quy hoạch 17.6 ha ở khu vực
Thống Nhất xã Thanh Lãng để phát triển nghề mộc. Ngoài ra tỉnh và huyện đã tích
cực đầu tư đào tạo nghề, xúc tiến thương mại, tổ chức thăm quan học tập và du nhập
thêm nghề mây, tre xiên xuất khẩu, khảm trai. Nghề mộc Thanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- phát triển kinh tế huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều kiện hiện nay.pdf