Tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và giải pháp: LUẬN VĂN:
Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh, thực
trạng và giải pháp
Mở Đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Hợp tác lao động là xu thế tất yếu nhằm khắc phục những hạn chế của lao động cá
thể và tăng sức sản xuất của lao động tập thể. Nhưng hợp tác lao động chỉ phát huy được
ưu thế một khi được diễn ra theo đúng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội
hóa lao động.
Thực tế trong thời gian qua, mô hình hợp tác xã cũ trước đây đã không còn phù hợp,
đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu về kinh tế hợp tác để tìm ra những hình thức mới,
những nhân tố mới cũng như đề ra được những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy nhanh,
mạnh và vững chắc kinh tế hợp tác, qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất hàng
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa và góp phần xây dựng nông thôn mới.
Các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua cũng như các
vùng khác trong cả nước đã xuất hiện những hình thức hợp tác mới...
70 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1067 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh, thực
trạng và giải pháp
Mở Đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Hợp tác lao động là xu thế tất yếu nhằm khắc phục những hạn chế của lao động cá
thể và tăng sức sản xuất của lao động tập thể. Nhưng hợp tác lao động chỉ phát huy được
ưu thế một khi được diễn ra theo đúng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội
hóa lao động.
Thực tế trong thời gian qua, mô hình hợp tác xã cũ trước đây đã không còn phù hợp,
đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu về kinh tế hợp tác để tìm ra những hình thức mới,
những nhân tố mới cũng như đề ra được những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy nhanh,
mạnh và vững chắc kinh tế hợp tác, qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất hàng
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa và góp phần xây dựng nông thôn mới.
Các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua cũng như các
vùng khác trong cả nước đã xuất hiện những hình thức hợp tác mới, vừa mang đặc điểm
chung vừa có tính đặc thù của các huyện ven thành phố lớn. Do đó, cần phải tổng kết nhằm
phát hiện ra những mô hình kinh tế hợp tác thích hợp, đề ra phương hướng và các giải
pháp đổi mới nhằm góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và cả nước nói chung. Xuất phát từ yêu cầu đó tác giả đã chọn đề tài "Phát
triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và giải pháp"
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kinh tế hợp tác đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả như: Giáo
sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn với tác phẩm "Khảo sát các hình thức tổ chức hợp tác của nông
dân ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Thế
Tùng "Việc thực hiện khoán 10 - những vấn đề đặt ra và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, 3/1991; Giáo sư Lê Xuân Tùng (chủ biên) "Chế độ kinh tế hợp tác những vấn đề lý
luận và giải pháp thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Giáo sư Nguyễn Đình
Nam "Đổi mới các hình thức hợp tác trong nông nghiệp", Tạp chí Kinh tế và phát triển,
11/1996... Nhưng nhìn chung chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu các hình thức
kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh.
Với luận văn này, chúng tôi muốn kế thừa những thành quả nghiên cứu của các tác
giả trên, đồng thời thông qua thực tiễn sản xuất ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh để
tìm ra các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với đặc thù kinh tế của các huyện
ven thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp tác ở thành
phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với
điều kiện sản xuất ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh nói chung và các huyện ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh nói riêng phát triển.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ kinh tế hợp tác là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển nền kinh tế
từ trình độ lạc hậu đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Khảo sát, nghiên cứu tìm ra những ưu - nhược điểm của các hình thức kinh tế
hợp tác ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay.
- Đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với yêu cầu
thực tiễn sản xuất ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu khảo sát tình hình phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh như: Bình Chánh, Củ
Chi, Hóc Môn, Nhà Bè, Cần Giờ từ năm 1986 đến nay (mà chủ yếu là năm 1997 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong bản luận văn này tác giả chủ yếu kết hợp sử dụng phương pháp biện chứng
lịch sử với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và khảo sát thực tế trên địa bàn ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm ra những hình thức kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp phù hợp với điều kiện kinh tế ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh.
6. Đóng góp mới của luận văn
Tìm ra các giải pháp phát triển hợp tác trong nông nghiệp phù hợp đặc thù ở các
huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
VII. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1
Tính Tất Yếu Và Những NHÂN Tố
Tác Động Đến Sự RA Đời Và Phát Triển
KINH Tế Hợp Tác TRONG NÔNG Nghiệp
1.1. những đặc trưng của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
Hợp tác là sự hợp sức, hợp lực của những con người để tạo ra sức mạnh mới, để
thực hiện những công việc mà từng cá nhân hoặc từng hộ riêng lẻ khó thực hiện, không thực
hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả [31, 69]. Quá trình phát triển của xã hội loài người
đã chứng minh ưu thế của hợp tác lao động. Nhờ có hợp tác lao động mà con người đã xây
dựng được nhiều công trình kiến trúc vĩ đại. Trong quá trình hình thành và phát triển của
mình, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã biết kế thừa và phát triển những ưu thế đó của hợp tác
lao động. Hợp tác lao động đã trở thành khởi điểm của sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN)
cả về lôgíc và lịch sử.
Khi nghiên cứu phần sản xuất giá trị thặng dư tương đối, C. Mác đã phân tích ba
giai đoạn phát triển của CNTB trong công nghiệp mà mở đầu là hợp tác giản đơn, C. Mác
chỉ ra rằng, hợp tác giản đơn có vai trò to lớn góp phần nâng cao năng suất lao động, bởi vì
nó có rất nhiều ưu thế so với lao động riêng lẻ.
Nông nghiệp là ngành sản xuất ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, gắn
liền với những điều kiện của tự nhiên nên có nhiều nét đặc thù. Do đó, hợp tác lao động
trong nông nghiệp bên cạnh những ưu thế chung thì còn có những nét riêng:
Thứ nhất: Khác với các hoạt động sản xuất của các ngành, các lĩnh vực khác trong
nền kinh tế, sản xuất trong nông nghiệp luôn gắn liền với những cơ thể sống mà sự tồn tại
và phát triển của nó luôn tuân theo những quy luật sinh học. Mặt khác, kết quả của quá
trình sản xuất đó không chỉ là kết quả sản xuất trực tiếp của người lao động mà còn là kết
quả của sự sinh trưởng và phát triển của đối tượng sản xuất. Từ đặc điểm này cho thấy, để
đạt được hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có một kiểu tổ chức, hợp
tác gắn bó chặt chẽ giữa người lao động với đối tượng sản xuất nhằm đáp ứng kịp thời các
yêu cầu sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi.
Thứ hai: Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, quá trình lao động và quá trình
sản xuất phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều khâu kế tiếp nhau và không trùng hợp nhau về
thời gian. Hoạt động sản xuất trong nông nghiệp mang tính thời vụ rõ rệt. Đặc điểm này
quy định sản xuất nông nghiệp có thể tổ chức sản xuất theo mô hình của các hộ nông dân,
bởi vì kiểu tổ chức sản xuất dựa trên hộ nông dân là kiểu tổ chức năng động, linh hoạt, cho
phép sử dụng hợp lý mọi nguồn lực sản xuất nông nghiệp. Lịch sử phát triển của phương
thức sản xuất TBCN và sự phát triển nông nghiệp của thế giới đã cho thấy CNTB khi đã
tạo được nền đại công nghiệp cũng không công nghiệp hóa nghề nông theo con đường mà
họ đã làm đối với công nghiệp, không xây dựng trong nông nghiệp những xí nghiệp lớn
trên cơ sở chuyên môn hóa lao động mà vẫn duy trì các hình thức hợp tác dựa trên cơ sở
hộ nông dân. Trong CNTB hộ nông dân vẫn là chủ thể kinh doanh, vẫn là sự dung hợp
giữa nghề nông với phương thức kinh doanh hiện đại. Do gắn bó với ruộng đất và đối
tượng sản xuất, người nông dân thực sự am hiểu quá trình sinh trưởng cây trồng, vật nuôi.
Người nông dân lại là chủ thể quá trình canh tác, trực tiếp tổ chức thực hiện, gắn trách
nhiệm với toàn bộ quá trình canh tác từ đầu cho đến khi kết thúc. Lợi ích kinh tế là cơ sở,
là cái quyết định sự gắn bó của họ với tư cách vừa là chủ thể canh tác, vừa là chủ thể kinh
tế và cũng là cơ sở cho các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Do đó, để không
ngừng nâng cao hiệu quả của hợp tác lao động trong nông nghiệp, chúng ta phải chú trọng
lợi ích kinh tế, tôn trọng tính tự chủ của nông hộ, đặc biệt là những khâu gắn liền với quá
trình sinh học.
Quá trình sản xuất nông nghiệp trải qua nhiều khâu: chuẩn bị sản xuất, trực tiếp
sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Trong các khâu đó có những
khâu cần thiết phải có sự hợp tác lao động mới đạt hiệu quả, nhưng có những khâu thì lao
động của cá nhân hay hộ gia đình làm sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Trong ngành trồng trọt, quá
trình sản xuất có thể chia thành các giai đoạn: cày cấy, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch.
ở giai đoạn đầu, do bị ảnh hưởng bởi tính thời vụ cho nên sự hợp tác sẽ đạt hiệu quả cao
hơn là từng cá nhân làm. Thời kỳ chăm bón như tưới tiêu, chống úng, chống hạn sẽ cần có
nhiều người làm nhưng bón phân làm cỏ thì chỉ cần từng người hay hộ gia đình làm sẽ đạt
hiệu quả hơn. Thời kỳ thu hoạch, rõ ràng là cần có sự hợp tác nhằm tránh những thiệt hại
do thu hoạch chậm gây nên.
Ngoài ra, lao động của nông hộ còn có nhiều ưu điểm khác: tính tự nguyện, tự giác
cao lại được vận dụng tối đa vào trong sản xuất như cha cày, mẹ cấy, con trông gia súc,
ông bà trông cháu, coi nhà... Ưu thế này cũng được bắt nguồn từ sự thống nhất về lợi ích
của mọi thành viên trong gia đình.
Bên cạnh những ưu thế trên trong sản xuất kinh doanh, hộ nông dân cũng gặp phải
nhiều khó khăn, hạn chế mà bản thân họ không thể giải quyết có hiệu quả được. Những
vấn đề: vốn, làm đất, thủy lợi, cải tạo ruộng đồng, khai hoang, cung ứng vật tư, dịch vụ kỹ
thuật, thu hoạch, chế biến, tiêu thụ sản phẩm... là những vấn đề chỉ có thông qua hợp tác
với nhau giữa các hộ mới có điều kiện giải quyết một cách có hiệu quả nhất. Hộ nông dân
có những ưu thế cũng như những hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Những ưu thế và những hạn chế này cũng quy định sự cần thiết phải thực hiện kinh tế hợp
tác.
Thứ ba: Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất (TLSX) đặc biệt
không thể thay thế được. Ruộng đất vừa là vật chịu tác động của lao động, vừa là vật
truyền dẫn lao động của con người đến cây trồng. Mặt khác, ruộng đất cũng là không gian
rộng lớn mà ở đó con người tổ chức các quá trình lao động sản xuất và chịu tác động trực
tiếp của điều kiện tự nhiên như mưa, nắng, bão tố... vì thế hoạt động nông nghiệp mang
tính đa dạng, không có một mô hình kinh tế hợp tác cụ thể nào phù hợp cho tất cả mọi
vùng, mọi địa phương. Hơn nữa, ruộng đất lại là một loại TLSX đặc biệt (vì đất đai là cơ
sở cho sự tồn tại và phát triển của con người, đất đai lại là TLSX không thể sinh sôi nảy
nở), do đó, quá trình phát triển sản xuất cũng là quá trình bảo tồn ruộng đất và làm cho độ
phì nhiêu của đất không ngừng được nâng lên. Để thực hiện được yêu cầu này, quá trình
sản xuất nông nghiệp cũng là quá trình bắt buộc phải tổ chức hợp tác giữa những người
nông dân trong việc chống các tai họa của thiên nhiên làm hao tổn và xói mòn ruộng đất.
Như vậy, nhu cầu hợp tác trong quá trình sản xuất nông nghiệp là có thật, bắt
nguồn từ yêu cầu hiệu quả trong sản xuất. Các mô hình sản xuất hợp tác nông nghiệp kiểu
cũ trước đây không phát huy được ưu thế của hợp tác lao động, lại còn thua kém cả lao
động cá thể vì không tôn trọng tính tự chủ và lợi ích thiết thân của nông hộ, không tạo ra
những điều kiện cơ bản để phát huy ưu thế của hợp tác lao động và không tuân thủ những
nguyên tắc khi tiến hành hợp tác hóa. Hợp tác lao động thực chất là một cuộc cách mạng
về tổ chức lao động nhưng hợp tác lao động chỉ phát huy được ưu thế hơn lao động cá thể
khi nó tuân thủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, muốn tổ chức hợp tác lao động có hiệu quả, các hộ nông dân - thành
viên của tổ chức kinh tế hợp tác - phải thấy rõ lợi ích kinh tế do sự hợp tác mang lại, họ tự
nguyện gia nhập vì lợi ích của chính bản thân họ.
Thứ hai, hợp tác lao động phải được dựa trên một kế hoạch chặt chẽ, khoa học, và
được triển khai một cách đồng bộ từ một trung tâm điều hành. Điều kiện này rất quan
trọng và cần thiết để khắc phục được những hạn chế, yếu kém của từng cá nhân, để phát
huy được sức mạnh của tập thể một cách tối đa.
Thứ ba, quy mô hợp tác tùy thuộc vào lượng vốn và quy mô tập trung của tư liệu
sản xuất. Đây là điều kiện quan trọng để tổ chức sản xuất, bởi vì nói đến hợp tác lao động
là nói đến hoạt động của nhiều người trong cùng một lúc trên một quy mô nhất định, phải
đảm bảo điều kiện sản xuất nhất định thì hợp tác lao động mới được thực hiện một cách có
hiệu quả.
Thứ tư, hợp tác lao động đòi hỏi phải có sự chỉ huy điều khiển, kiểm soát, cũng
giống như một dàn nhạc phải có nhạc trưởng để tránh tình trạng "trống đánh xuôi kèn thổi
ngược". Do đó, phải có sự quản lý để tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cá
nhân, các bộ phận nhằm thực hiện kế hoạch sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ năm, phải có kế toán. Kế toán được C. Mác quan niệm như là một phương
tiện kiểm soát giúp nhà quản lý nắm được tình hình sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Do
đó, kế toán là điều kiện thiết yếu không thể thiếu đối với quá trình sản xuất có tính chất xã
hội.
Tóm lại, hợp tác là con đường dễ tiếp thu, đơn giản để giúp hộ nông dân đi lên sản
xuất lớn. Song để phát huy được sức mạnh to lớn của hợp tác lao động thì nó phải được
tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Tuyệt đối
không được gò ép, cưỡng bức. Mặt khác, muốn khắc phục những hạn chế của hộ nông dân
trong nền kinh tế thị trường, nhất thiết phải tiến hành hợp tác lao động, phải hình thành các
tổ chức kinh tế hợp tác kiểu mới, chứ không phải là phủ nhận kinh tế hợp tác.
1.2. Sự ra đời và những đặc trưng cơ bản của kinh tế hợp tác kiểu mới trong
nông nghiệp
1.2.1. Sự phát triển của kinh tế hộ và yêu cầu cấp thiết phải phát triển kinh tế
hợp tác kiểu mới trong nông nghiệp ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
Kinh tế hộ được hiểu theo những cách khác nhau, nhưng nhiều người đồng ý: hộ
gia đình nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông nghiệp và nông thôn, đã
từng tồn tại từ lâu ở các nước nông nghiệp. Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc,
hay không cùng chung huyết tộc ở chung một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có
chung một ngân quỹ [13, 9].
Dưới ánh sáng Đại hội Đảng lần thứ VI, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị ngày 5/4/1988 thì hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn.
Mỗi hộ có quyền tự quyết định mục tiêu và quá trình sản xuất kinh doanh, trực tiếp quan
hệ với thị trường khi có sản phẩm hàng hóa, tự hạch toán, lời ăn lỗ chịu... chính sự công
nhận hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt động theo những nội dung trên đã làm
cho các hợp tác xã kiểu cũ hầu như mất dần tác dụng. Trước đây, trong hợp tác xã cũ hộ
gia đình tuy chỉ chiếm 5% ruộng đất nhưng lại đảm bảo đến 60 - 70% nguồn sống. Điều đó
cho thấy, khi các hộ nông dân trở thành các đơn vị kinh tế tự chủ thì kinh tế hộ nông dân
có điều kiện phát huy tối đa thế mạnh của mình để phát triển sản xuất. Từ khi có đường lối
đổi mới, sự phát triển kinh tế hộ ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh đã góp
phần tạo ra những biến đổi to lớn trong năng suất lao động nông nghiệp và trong đời sống
của nông dân và nông thôn.
— Về năng suất: Năng suất thâm canh lúa đông xuân tăng lên từ
33,2 tạ/ ha năm 1997 tăng lên 33,5 tạ/ha, năm 1998 và 1999 là 34,2 tạ/ha.
Để có được những thay đổi trên là do nhiều nguyên nhân tác động nhưng nổi bật là
do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
+ Nhờ được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và được quyền sở hữu về các
TLSX khác đã làm cho các hộ gia đình hăng say, phấn khởi. Qua đó sức sản xuất của nông
hộ không ngừng được nâng cao.
+ Nếu trước đây sức lao động của các hộ nông dân bị ràng buộc do chế độ quản lý
của các hợp tác xã kiểu cũ thì ngày nay sức lao động đó được hoàn toàn giải phóng, người
nông dân có quyền tự do di chuyển, tìm kiếm việc làm, tự do tham gia các hình thức tổ
chức sản xuất khác nhau, không phân biệt địa giới hành chính [19, 21].
+ Sự phát triển của kinh tế hộ nông dân trong thời gian qua góp phần đưa kinh tế
nông nghiệp chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp là chủ yếu trước đây sang sản xuất hàng
hóa, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp trên địa bàn các
huyện ngoại thành thành phố theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, mở rộng ngành
nghề, hoạt động dịch vụ và hướng tới mô hình hoạt động phi nông nghiệp.
— Về đời sống: Nhờ có sự phát triển trong sản xuất mà mức sống và điều kiện
sống của người nông dân ngày càng được nâng cao. Điều này được phản ánh qua số liệu
về mức chi tiêu của người dân ngoại thành so với người dân nội thành của thành phố qua
các năm như sau:
Bảng 1:
Đơn vị tính: nghìn đồng/ người/ tháng
Năm 1996 1997 1998 1999
Nội thành 452.836 497.840 519.304 552.280
Ngoại thành 312.256 334.042 362.242 376.021
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1999.
Ngoài ra, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở ngoại thành ngày càng
được phát triển, cho đến năm 2000 đã có 98,9% các hộ nông dân ngoại thành có điện, 80%
số hộ được dùng nước sạch. Đời sống văn hóa của người dân ngoại thành cũng không
ngừng được nâng cao, có 62,5% người đọc báo (25,2% là đọc thường xuyên còn 37,3% là
không đọc thường xuyên), 86% người nghe tin tức qua Tivi, Radio (trong đó thường xuyên
là 51,4% và không thường xuyên là 34,8%), 7,9% người đi tham quan hàng năm ...
Bảng 2: Tỷ lệ hộ gia đình nông dân ngoại thành có tiện nghi sinh hoạt
Đơn vị tính: %
Loại hình 1995 1999
- Ti vi 70% 75,9%
- Radio cassette 68% 78,5%
- Tủ lạnh 11,8% 13,8%
- Bếp ga - điện 9,2% 15,4%
- Điện thoại 2,6% 6,8%
- Xe máy 55% 63,9%
- Nhà ở kiên cố 9,8%
- Bán kiên cố 65%
- Nhà tranh 25,2%
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1999.
Bên cạnh những thành tựu mà kinh tế hộ nông dân đã đạt được thì trong quá trình
phát triển trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,
kinh tế hộ nông dân đã dần dần bộc lộ những hạn chế nhất định, điều đó đã làm ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp. Đó là:
+ Nguồn lực sản xuất như đất đai, vốn còn gặp nhiều hạn chế, luôn luôn bị biến
động. Diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm. Nếu diện tích đất nông nghiệp năm
1995 là 9.916.401 ha thì đến năm 2000 chỉ còn lại 9.528.855 ha, giảm 387.546 ha. Các hộ
nông dân cũng gặp nhiều khó khăn về vốn kinh doanh bởi vì các huyện ngoại thành thành
phố là những vùng ven, trước đây chủ yếu là những vùng căn cứ của cách mạng (Hóc
Môn, Củ Chi, Bình Chánh...), lại là những vùng sâu vùng xa, đời sống người dân còn gặp
nhiều khó khăn (theo Ban chỉ đạo chương trình xóa đói giảm nghèo của thành phố thì hiện
nay các huyện ngoại thành có 9/13 xã, phường thuộc diện nghèo nhất thành phố) [1], do đó
phần lớn các hộ ngoại thành chỉ mới đầu tư sản xuất theo chiều rộng, chưa có điều kiện
đầu tư chiều sâu. Những khó khăn về vốn, về ruộng đất cũng là nguyên nhân làm hạn chế
sự phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành trong thời gian qua.
+ Lao động ở các huyện ngoại thành chủ yếu là lao động thủ công, giản đơn. Dân
số ở các huyện vẫn tăng nhưng số lao động ở các hộ nông dân làm nông nghiệp thì ngày
càng giảm vì bộ phận lao động trẻ, có học thức, tay nghề ở các hộ nông dân đã chuyển vào
làm ở các khu chế xuất hay các quận nội thành với thu nhập cao ngày càng nhiều. Tình
trạng thiếu lực lượng lao động trẻ, có trình độ trong nông nghiệp ở các huyện ngoại thành
hiện nay đang là vấn đề bức xúc.
+ Phần lớn các huyện ngoại thành là vùng sâu, vùng xa, do đó quy mô thị trường nhỏ
hẹp, có nơi hệ thống giao thông chưa được phát triển như Cần Giờ, Nhà Bè..., trình độ văn hóa
của đại đa số hộ nông dân còn thấp là nguyên nhân cản trở việc ứng dụng những thành tựu của
khoa học công nghệ vào sản xuất. Cho nên sức cạnh tranh của hàng hóa thấp, tiêu thụ sản
phẩm gặp nhiều khó khăn và thường là bị tư thương ép giá, người nông dân bị nhiều thiệt thòi.
Từ sự trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, kinh tế hộ nông dân ngoại thành trong
quá trình đổi mới đã không ngừng phát huy những ưu thế của mình để phát triển sản xuất,
họ đã cùng với nhân dân thành phố tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, thực sự
là động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thành phố nói chung và kinh tế nông thôn
nói riêng. Việc phát triển kinh tế hộ là một hướng đi hợp quy luật, góp phần thúc đẩy việc
khai thác các tiềm năng sẵn có, phát huy nội lực để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân trong
quá trình phát triển đi lên cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Để khắc phục những khó
khăn đó kinh tế hộ nông dân chỉ có con đường đi vào hợp tác để cùng nhau phát huy thế
mạnh của lao động tập thể, khắc phục những nhược điểm của lao động cá thể nhằm phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đó là
một xu thế tất yếu khách quan và cũng là con đường tốt nhất giúp kinh tế hộ vượt qua
những khó khăn, tiến hành sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
1.2.2. Hợp tác xã và sự khác nhau cơ bản giữa hợp tác xã kiểu mới và hợp tác
xã kiểu cũ
Theo Luật hợp tác xã được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20/3/1996 thì hợp tác xã được định nghĩa như sau:
"Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu lợi ích chung tự
nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của
tập thể và của từng xã viên nhằm giúp đỡ nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế xã hội của
đất nước" [19, 5].
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng, hợp tác xã là hình thức hợp tác cao nhất,
đặc trưng nhất của kinh tế hợp tác. Căn cứ vào Luật hợp tác xã và tư duy mới về kinh tế
hợp tác, có thể thấy kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, theo tư duy mới có các nội
dung chủ yếu sau đây:
Một là, kinh tế hợp tác bao gồm những hình thức hợp tác giản đơn hay "lỏng lẻo"
nội dung chủ yếu là trao đổi lao động như tổ đổi công, vần công, trao đổi kinh nghiệm kỹ
thuật, hợp tác chỉ mang tính chất thời vụ hay từng công việc cụ thể. Loại hình này thường
không có tổ chức ổn định, chưa có tư cách pháp nhân, không có vốn chung, không có tổ
chức bộ máy hoạt động theo Luật dân sự. Nó được hình thành trên cơ sở thỏa thuận trực
tiếp giữa các hộ để giải quyết một công việc hay dịch vụ cụ thể như: hoạt động của tổ
đường nước, tổ hợp tác chăn nuôi, tổ hợp tác sản xuất rau sạch. Do trình độ hợp tác còn
giản đơn, chưa đủ các điều kiện để được thừa nhận là hợp tác xã, nhưng nó được chính
quyền, các tổ chức đoàn thể (như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội thanh niên...) tạo điều
kiện và khuyến khích phát triển để dần dần có thể trở thành hợp tác xã.
Hai là, kinh tế hợp tác lại bao gồm cả những đơn vị kinh tế hợp tác xã do những
chủ thể kinh doanh độc lập tự nguyện góp vốn, góp sức cùng kinh doanh. Loại hình này
được tổ chức chặt chẽ, có vốn chung và đủ tư cách pháp nhân, có điều lệ riêng, hoạt động
theo Luật hợp tác xã. Tuy có sự khác nhau về qui mô, trình độ và tính chất, nhưng nhìn
chung cơ sở kinh tế đầu tiên hình thành nên loại hình kinh tế này chủ yếu là vốn cổ phần,
chứ không phải là công hữu hóa các tài sản. Các cổ đông là người chủ sở hữu cổ phần của
mình, nhưng cùng làm chủ toàn bộ nguồn vốn cổ phần được tạo nên vào mục đích kinh
doanh. Việc phân phối cho các hộ cổ đông phải căn cứ vào số lượng cổ phần, công đóng
góp và số lượng dịch vụ sử dụng của hợp tác xã mà các hộ thành viên sử dụng.
Ba là, nội dung phạm vi hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế hợp tác là
không bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh tế của các hộ xã viên mà chỉ tập trung vào
những khâu, những lĩnh vực đòi hỏi phải có sức mạnh tập thể mới có hiệu quả, còn những
khâu, những lĩnh vực, kinh tế hộ hoạt động có hiệu quả hơn thì các hộ tự tổ chức làm.
Bốn là, các hình thức kinh tế hợp tác là những đơn vị kinh tế tự chủ hoạt động theo
pháp luật và chính sách của nhà nước và không có cấp trên trực tiếp. Đối với loại hình có
tổ chức ổn định, có tư cách pháp nhân, thì đại hội các cổ đông là cơ quan quyền lực cao
nhất, quyết định phương hướng kinh doanh, điều lệ hợp tác xã, số lượng góp vốn cổ phần
tối thiểu, cách thức quản lý, phân phối và bầu ra Ban Quản trị hợp tác xã.
Năm là, các tổ chức kinh tế hợp tác hoạt động không bị giới hạn bởi địa giới hành
chính, được tự do đăng ký kinh doanh, tự chịu trách nhiệm vật chất trước các thành viên và
pháp luật. Có quyền bình đẳng với các thành viên kinh tế khác về quyền hạn, nghĩa vụ theo
qui định của pháp luật. Một hộ có thể tham gia nhiều tổ chức kinh tế hợp tác.
Nếu chỉ tính riêng về hợp tác xã, thì hợp tác xã kiểu mới khác với hợp tác xã kiểu
cũ trên các mặt sau đây:
Thứ nhất: Đối với các hợp tác xã kiểu mới thì các hộ xã viên là người có quyền tự
quyết định phương án sản xuất của mình. Từ việc trồng cây gì, nuôi con gì đến từng khâu
chăm bón, thu hoạch. Dù tồn tại dưới bất cứ loại hình kinh tế hợp tác nào thì hộ nông dân
vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Các hình thức kinh tế hợp tác không làm mất đi vai trò tự chủ
của kinh tế hộ, hoặc "hòa tan" kinh tế hộ vào kinh tế hợp tác mà nó có tác dụng phục vụ,
hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển. Bởi vì, trong môi trường kinh tế hàng hóa, giữa các hộ có
quan hệ kinh tế với nhau dựa trên những tất yếu kinh tế - kỹ thuật khách quan đòi hỏi. Trong
đó, sự phát triển không ngừng của kinh tế hộ là điều kiện ra đời, tồn tại và phát triển của
các hình thức kinh tế hợp tác. Các hình thức kinh tế hợp tác chỉ có giá trị đích thực khi có
những yêu cầu kinh tế khách quan giữa các hộ đòi hỏi. Vì vậy, các hình thức kinh tế hợp
tác là điều kiện và môi trường để hỗ trợ, phục vụ hoặc bổ sung cho sự phát triển mạnh mẽ,
vững chắc của kinh tế hộ nông dân ở những khâu, những lĩnh vực hay công việc mà các hộ
tự mình không làm được hoặc làm không có hiệu quả. Hộ là người chịu trách nhiệm về các
quyết định của mình chứ không phải là ai khác. Còn các hợp tác xã kiểu cũ xã viên là
người chỉ biết nhận phần việc do hợp tác phân công và hưởng theo công điểm. Khoán gọn
và sau này là khoán theo từng khâu cũng là sự biến tướng của chế độ công điểm mà thôi.
Thứ hai: Hoạt động kinh tế trong hợp tác xã kiểu mới khác với hợp tác xã kiểu cũ
ở chỗ: vốn do xã viên đóng góp (xã viên góp vốn chứ không góp đất), ban quản lý do
những người góp vốn cử ra và chịu trách nhiệm trước xã viên về hiệu quả sử dụng đồng
vốn đó. Sau một chu kỳ sản xuất tùy theo quy định của đại hội xã viên người góp vốn có
thể rút vốn khi thấy hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả. Người có nhiều vốn có thể tham
gia nhiều hợp tác xã. Việc phân phối lợi nhuận do xã viên tự nguyện góp vốn quyết định.
Ngoài việc đóng góp đầy đủ nghĩa vụ thuế và các khoản chi khác cho nhà nước, phần còn
lại do hợp tác xã chủ động xử lý. Các quan hệ giữa hộ với hợp tác xã và giữa các hợp tác
xã với nhau trở nên phong phú, nhưng đều thực hiện trên nguyên tắc "thuận mua vừa bán".
Thứ ba: Hợp tác xã kiểu mới ra đời là xuất phát từ yêu cầu thực tế trong sản xuất
của hộ nông dân. Hoạt động của hợp tác xã chỉ là nhằm giúp đỡ tháo gỡ những khó khăn
mà hộ nông dân không thể giải quyết một cách có hiệu quả. Do đó, hợp tác xã chỉ đảm
nhận một số khâu trong quá trình sản xuất của kinh tế hộ mà thôi. Vì thế, hợp tác xã mới là
một đơn vị kinh tế tự chủ, không làm chức năng của một tổ chức xã hội hay làm chức năng
hành chính ở địa phương.
Còn các hợp tác xã kiểu cũ là một tổ chức không phải chỉ để hoạt động về kinh tế
mà còn là một đơn vị quản lý hành chính xã hội. Trong sản xuất hợp tác xã là người chỉ
đạo các khâu của quá trình sản xuất và là người nắm ba quyền cơ bản (sở hữu về tư liệu
sản xuất, về quản lý và phân phối).
Như vậy, sự ra đời của kinh tế hợp tác xã kiểu mới là một xu thế tất yếu, do nhu
cầu phát triển của kinh tế hộ trong nền kinh tế thị trường và kinh tế hợp tác hoạt động với
tính chất, nội dung hoàn toàn mới so với mô hình cũ trước đó. Cũng vì nhu cầu bức xúc
cần phải có sự hợp tác với nhau giữa các hộ nông dân là cơ sở quyết định để cho kinh tế
hợp tác kiểu mới ra đời, nên mỗi vùng, mỗi địa phương kinh tế hợp tác ra đời và phát triển
khác nhau do có nhiều nhân tố khác nhau tác động
1.3. Những nhân tố cơ bản tác động đến sự hình thành và phát triển của kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp
Giống như những hình thức sản xuất kinh doanh khác có nền tảng là kinh tế hộ gia
đình, trong quá trình phát triển kinh tế, kinh tế hộ nông dân có những nhu cầu tất yếu phải
liên kết với nhau một cách tự nguyện hình thành nên các loại hình kinh tế hợp tác trong
sản xuất. Các nhu cầu đó có thể được xuất phát từ bên trong như: Sự hạn chế về lao động,
vốn, kỹ thuật hay về thủy lợi... hoặc có thể xuất phát từ bên ngoài như: Sự cạnh tranh bất
hợp lý giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, sự phân chia quyền lợi một
cách chênh lệch thông qua chính sách hoặc qua giao dịch quốc tế... Vì thế, mục tiêu nâng
cao thu nhập và tự bảo vệ thông qua phát triển sản xuất tạo nên nhu cầu hình thành các
hình thức kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Chính các yếu tố của các nhu cầu trên đã biến kinh
tế hợp tác trở thành một yếu tố tất yếu trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Khi đặt nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên của kinh tế hợp tác, người ta đã coi
nhu cầu hình thành một cách khách quan là một trong những sức sống quan trọng giúp
cho kinh tế hợp tác vượt qua mọi trở ngại để có thể hình thành và phát triển.
Trong thực tế, việc hình thành và phát triển kinh tế hợp tác mà hợp tác xã là hình
thức cao nhất nhiều khi cũng không bắt nguồn từ nhu cầu của bản thân xã viên mà xuất phát từ
các tác động bên ngoài. ở nhiều nước trên thế giới hay ở Việt Nam thời kỳ trước đây, hợp tác
hóa từng là giải pháp để thu mua lương thực có hiệu quả, là con đường để thực hiện đầu tư
phát triển, là tổ chức để củng cố cơ sở chính trị ở nông thôn... Tuy nhiên, các tác động bên
ngoài đó chỉ có thể thành công một cách vững chắc một khi chúng thống nhất, hoặc khơi
dậy được nhu cầu chính đáng của hộ nông dân, bằng không sớm muộn cũng sẽ bị thất bại,
nhiều khi còn đem lại những thiệt hại to lớn.
Từ sự phân tích ở trên chúng ta thấy rằng, kinh tế hợp tác được hình thành một
cách khách quan do tác động bởi các nhân tố chủ yếu sau:
1.3.1. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Thực tiễn của quá trình phát triển kinh tế hợp tác cho thấy, khi lực lượng sản xuất
chưa phát triển thì mức độ, cũng như nhu cầu hình thành và phát triển kinh tế hợp tác thấp,
còn khi lực lượng sản xuất đã phát triển thì mức độ cũng như nhu cầu phát triển sẽ được
mở rộng.
Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, tư liệu sản xuất còn thô sơ, sự tác động của
thị trường chưa cao, người nông dân sản xuất chủ yếu là nhằm mục đích tự cung, tự cấp do
đó chưa có nhu cầu hợp tác sản xuất (nếu có thì mức độ thấp và qui mô nhỏ bé). Nhưng
khi lực lượng sản xuất đã được phát triển, tư liệu sản xuất được cải tiến từ đơn giản, thô sơ
lên cơ khí, máy móc..., khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản
xuất tăng lên, thị trường ngày càng mở rộng và sự tác động của các quy luật kinh tế của
nền kinh tế thị trường cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Điều đó
đã đặt những người sản xuất cá thể trong ngành nông nghiệp trước hai
con đường:
Một là, họ sẽ bị phá sản nếu không thích ứng kịp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Hai là, các hộ nông dân phải hợp tác với nhau để khắc phục những hạn chế của
từng cá nhân, phát huy ưu thế của hợp tác lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến lượt nó lại tạo điều kiện đòi hỏi mức độ
hợp tác tăng lên và hình thức hợp tác được phát triển đa dạng, phong phú. Nếu trước đây
lực lượng sản xuất chưa phát triển thì mức độ hợp tác chỉ nằm ở một số khâu của quá trình
sản xuất (như hợp tác về thủy lợi chẳng hạn...) và qui mô hợp tác chỉ bó hẹp ở một hộ sản
xuất, nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển thì mức độ hợp tác trong quá trình sản xuất
sẽ nhiều hơn (hợp tác trong khâu làm đất, chọn giống, bảo vệ thực vật, trong thu hoạch,
trong chế biến, tiêu thụ sản phẩm...) và qui mô hợp tác cũng được mở rộng theo (có thể là
hợp tác giữa các hộ sản xuất, có khi hợp tác với các thành phần kinh tế khác trong các
khâu phục vụ quá trình sản xuất). Có thể nói, các hình thức khác nhau của kinh tế hợp tác
là kết quả lâu dài của việc phát triển LLSX và phân công lao động xã hội. Khâu tưới tiêu
nước trong nông nghiệp chứng minh cho điều này:
Nếu công cụ là thủ công (gàu sòng) Nếu công cụ là cơ khí (máy bơm)
- Mức đầu tư mua sắm thấp hộ nông
dân nào cũng có thể mua được.
- Kỹ thuật sử dụng giản đơn, đa số
thành viên trong hộ đều có thể sử
dụng được
- Tác dụng trên từng thửa ruộng nhỏ
hẹp
- Kỹ thuật tưới tiêu đơn giản, úng thì
tát bớt, hạn thì tát thêm
- KL: Mỗi gia đình có thể đảm nhận,
không có nhu cầu hình thành một bộ
phận lao động chuyên môn đảm
nhiệm điều hòa lợi ích chung cho các
hộ
- Vốn đầu tư lớn, xuất hiện yêu cầu
vay, hùn vốn.
- Kỹ thuật sử dụng pháp tạp không
phải bất cứ nông dân nào cũng có
khả năng sử dụng tốt.
- Tác dụng cho nhiều thửa ruộng,
thậm chí cho nhiều thôn xã, cần điều
hòa phối hợp
- Tưới tiêu theo yêu cầu thâm canh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- KL: một người, một hộ không thể
đảm nhận tốt nên xuất hiện yêu cầu
có những cá nhân, bộ phận có trình
độ đứng ra đảm nhiệm phục vụ
chung cho nhiều hộ, nhiều cánh
đồng.
Từ sự phân tích trên có thể lý giải được tình trạng sai sót khi hình thành các đội
chuyên ồ ạt ở các hợp tác xã nông nghiệp cũ trước đây. Hiện nay, nhiều hợp tác xã nông
nghiệp chuyển sang làm dịch vụ nhưng số khâu dịch vụ và mức độ đảm nhiệm từng khâu
rất thấp. Do nhiều nguyên nhân nhưng có nhiều nguyên nhân là thiếu những tiền đề kinh tế
để thúc đẩy nhu cầu dịch vụ của các hộ đối với hợp tác xã nông nghiệp.
Kinh tế hợp tác với nhiều hình thức khác nhau hoạt động tương trợ lẫn nhau sẽ tạo
được môi trường cho việc áp dụng những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Với những ưu thế đó kinh tế hợp tác là cơ sở đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của kinh tế hộ, của nông nghiệp, nông thôn. Kinh tế hợp tác
vừa là kết quả, vừa là động lực của sự phát triển LLSX. Sự phát triển của LLSX trong nông
nghiệp là nhân tố khách quan tất yếu thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phải hợp tác và chỉ có
thông qua hợp tác hộ nông dân mới tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện
nay.
1.3.2. Sự tác động về mặt vĩ mô của Nhà nước
Đây chính là nhân tố có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của kinh tế hợp tác cả
về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn. Bởi lẽ, sự định hướng của Nhà nước ở tầm vĩ mô
vừa là sự định hướng, vừa là sự hỗ trợ tạo điều kiện để cho các thành phần kinh tế hoạt
động một cách có hiệu quả nói chung, để cho kinh tế hợp tác phát triển nói riêng.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm, chú ý đến việc xây dựng và phát triển kinh
tế hợp tác và hợp tác xã và Đảng ta coi đó là con đường tốt nhất để đưa nông dân thoát
khỏi đói nghèo. Vì vậy, các chính sách, các quyết định của Nhà nước về thuế, về giá, về
đào tạo cán bộ, về giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân... là những tác động ở tầm
vĩ mô để tạo cho người dân yên tâm sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần ổn định
đời sống và xây dựng nông thôn mới.
Thực tế cho thấy ở đâu, ở địa phương nào chính quyền quan tâm, giúp đỡ thì ở đó
phong trào kinh tế hợp tác sẽ được phát triển mạnh mẽ, ngược lại, phong trào gặp khó
khăn. Đặc biệt khi cả nước đang ra sức thực hiện mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn thì việc phát triển kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp lại càng có ý nghĩa quan trọng, vai trò hướng dẫn cùng với
các chính sách hỗ trợ của nhà nước ở tầm vĩ mô càng không thể thiếu.
Vai trò của Đảng và Nhà nước đối với phong trào hợp tác thể hiện ở:
+ Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện của người nông dân trong việc hợp tác cũng như
trong việc thành lập hợp tác xã.
+ Hỗ trợ nông dân xây dựng những hợp tác xã đa dạng cả về hình thức, qui mô
cũng như cả về trình độ.
+ Xây dựng các chính sách kinh tế đối với nông nghiệp và hợp tác nông nghiệp
trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đúc rút và phổ biến kinh nghiệm để thúc đẩy kinh tế hợp tác
phát triển.
1.3.3. Mức độ phát triển của thị trường hàng hóa
Trong quá trình phát triển sản xuất, kinh tế hộ nông dân phải chịu sự tác động rất
lớn của nền kinh tế thị trường. ở đó, người nông dân không thể sản xuất những hàng hóa
mà họ muốn (họ có khả năng). Họ phải sản xuất theo yêu cầu của thị trường từ các loại
mặt hàng, số lượng, chất lượng, thời gian, giá cả... Khi thị trường phát triển, mở rộng phạm
vi hoạt động thì những yêu cầu đó ngày càng đòi hỏi cao hơn. Do đó, để đáp ứng yêu cầu
của thị trường, để tồn tại và phát triển, kinh tế hộ nông dân phải không ngừng áp dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật, phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi nhằm đạt
hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Từng hộ nông dân tự thực hiện điều đó, chắc chắn
không thu được kết quả như mong muốn. Để khắc phục được những mặt yếu kém của sản
xuất cá thể trong nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu của thị trường các hộ nông dân phải hợp
tác với nhau ở từng mức độ, từng hình thức tùy theo điều kiện sản xuất, quy mô sản xuất
của từng vùng, từng địa phương thì mới đạt được hiệu quả cao nhất.
1.3.4. Sự nhận thức của hộ nông dân về kinh tế hợp tác
Thực tiễn phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong thời gian qua ở cả nước
cũng như ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh đã chứng tỏ rằng có nơi kinh tế
hợp tác và hợp tác xã vẫn ra đời và phát triển, có nơi hợp tác xã không còn và nếu còn hoạt
động thì gặp rất nhiều khó khăn... Một trong những nguyên nhân của tình hình đó là do sự
nhận thức của người nông dân chưa đúng, chưa đủ về kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Nhận
thức của nông dân về kinh tế hợp tác và hợp tác xã chưa tốt là do:
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế hợp tác và hợp tác xã chưa được
phổ biến rộng rãi ở nông thôn.
Do trình độ học vấn của người nông dân còn thấp (thậm chí có người không biết
chữ.)
Do sự thiếu quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ chức,
hướng dẫn tạo điều kiện giúp đỡ (đặc biệt trong việc đào tạo cán bộ) để hộ nông dân có
điều kiện phát triển kinh tế hợp tác.
Hộ nông dân nông nghiệp, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa cách trung tâm
thành phố thường thiếu các thông tin có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, đến kinh
nghiệm phát triển kinh tế hợp tác cũng như các mô hình kinh tế hợp tác có hiệu quả.
Một bộ phận nông dân thiếu niềm tin về kinh tế hợp tác do bị ảnh hưởng của
phong trào hợp tác hóa cũ trước đây, họ sợ vào hợp tác xã sẽ bị tập thể hóa về tư liệu sản
xuất...
Kinh tế hợp tác có thể ra đời, tồn tại và phát triển được hay không là do các hộ
nông dân quyết định. Do đó, việc hướng dẫn giúp đỡ và tạo điều kiện cho người nông dân
hiểu và thấy được những ưu thế của kinh tế hợp tác cũng như chỉ ra hợp tác lao động là
con đường để người nông dân vượt qua được những hạn chế của lao động cá thể, khắc
phục được những tác động xấu của nền kinh tế thị trường là một yêu cầu cấp thiết và có ý
nghĩa to lớn trong việc thực hiện tốt đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng
và Nhà nước, trong việc thực hiện thành công công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại: Kinh tế hợp tác là một xu thế khách quan. Các hình thức kinh tế hợp tác
được hình thành là do yêu cầu và để hỗ trợ cho sự phát triển của kinh tế hộ. Những thành
tựu lý luận cũng như thực tiễn hoạt động của các hợp tác xã ở các nước trên thế giới cũng
như ở nước ta trong thời gian qua đều đã khẳng định kinh tế hợp tác có vai trò to lớn trong
việc phát triển LLSX. Vấn đề đặt ra đối với thành phố Hồ Chí Minh và các huyện ngoại
thành là phải xuất phát từ trình độ phát triển của LLSX và thời điểm cụ
thể để chọn lọc những hình thức kinh tế hợp tác và phương thức hoạt động thích hợp, đem
lại hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển.
Vì thế, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định: "Kinh tế hợp tác mà
nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm
kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả
những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Phát triển kinh tế hợp tác với nhiều
hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã. Tuân thủ nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ" [34, 95].
Chương 2
Thực Trạng KINH Tế Hợp Tác
ở Các Huyện Ngoại Thành Thành phố Hồ Chí Minh
2.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là thành phố) trong địa giới hiện nay bao gồm
thành phố Sài Gòn, tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Chợ Lớn trước đây.
Thành phố Hồ Chí Minh ở vào 10038’-110 vĩ Bắc và 106022’-186024’ kinh Đông;
diện tích tự nhiên: 2093,7 km2 trong đó khu vực nội thành rộng 440 km2, ngoại thành rộng
1.653,7km2. Thành phố Hồ Chí Minh có 1 hải cảng quan trọng, cảng sông Sài Gòn có độ
sâu có thể tiếp nhận các tàu biển có trọng tải trên 30.000 tấn. Có một hệ thống sông đi từ
thành phố lên miền Đông, xuống miền Tây và sang Campuchia. Thành phố Hồ Chí Minh
là đầu mối đường bộ với khu vực Đông Dương. Ngoài ra thành phố còn có sân bay Tân
Sơn Nhất cách trung tâm 7 km.
Khí hậu thành phố nóng ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa, nhiệt độ trung bình 27,3
0C; lượng mưa bình quân hàng năm là 1879 mm; thời tiết thuận hòa, ít bão, ít ngập lụt là
điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất-kinh doanh.
Theo quyết định số 03 QĐ/CP ngày 6/1/1997 của Chính phủ về việc thành lập các
quận mới ở thành phố Hồ Chí Minh, thì hiện nay thành phố Hồ Chí Minh có 17 quận và 5
huyện ngoại thành bao gồm: Huyện Bình Chánh, Củ Chi, Cần Giờ, Hóc Môn và Nhà Bè
(số liệu cụ thể xin xem bảng biểu số 6 phần phụ lục).
- Về tự nhiên: Các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh xét về địa giới hành
chính là những huyện nằm ở vùng ven của trung tâm thành phố Hồ Chí Minh là vùng tiếp
giáp giữa trung tâm với các tỉnh lân cận (như Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An,
Bà Rịa Vũng Tàu...). Có diện tích tự nhiên là 1653,7 km2, đất đai bằng phẳng không có đồi
núi, nhiệt độ trung bình hàng năm là 27,3 0C, lượng mưa trung bình là 1878 mm/năm, ít bị
ảnh hưởng lũ lụt, bão là những điều kiện thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp toàn
diện.
- Về kinh tế: Trước 1975, Sài Gòn được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông",
nhưng các huyện ngoại thành chỉ là những vùng dân cư thưa thớt, chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp; kết cấu hạ tầng chưa phát triển...
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, đặc biệt là sau những năm đổi mới, thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn
trên các lĩnh vực: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16,7 %/năm chiếm 36,9 %
giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Nông nghiệp tăng 5,2 %/năm. GDP thành phố tăng liên
tục 12,6 %/năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 610 USD năm 1990 lên 912 USD
năm 1995 và đến năm 2000 sẽ là 1.500 USD. Nhưng sự phát triển kinh tế của thành phố
trong những năm qua chỉ tập trung ở những vùng nội thành. Các huyện ngoại thành tuy đã
được lãnh đạo thành phố quan tâm đầu tư nhưng cho đến nay tốc độ phát triển vẫn còn
chậm, kinh tế chưa đạt được hiệu quả cao. Đời sống nhân dân ngoại thành thấp hơn và còn
gặp nhiều khó khăn so với nội thành. Nhưng với ưu thế là những huyện nằm gần trung tâm
thành phố lớn, một trung tâm phát triển mạnh về các lĩnh vực: Công nghiệp - thương mại -
du lịch - ngân hàng - khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo - nghiên cứu khoa học so với cả
nước... nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh trong thời gian tới trên cả hai
phương diện:
Một là: Có thể nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản
xuất để đạt được hiệu quả cao về kinh tế.
Hai là: Có thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn.
- Về xã hội: Trước đây, các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh đã từng là
những căn cứ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ,
là nơi có truyền thống anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh, cần cù, chịu
thương, chịu khó trong lao động, đoàn kết, gắn bó trong sinh hoạt cộng đồng... Ngày nay,
trong công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội khi những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp lòng dân và được vận dụng một cách
khoa học, thiết thực vào cuộc sống thì truyền thống quý báu đó lại càng được phát huy mạnh
mẽ hơn, đặc biệt là sự hợp tác mạnh mẽ giữa các hộ nông dân để tạo ra sức mạnh tổng hợp
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn làm cho các huyện ngoại
thành trở thành vùng kinh tế phát triển, văn hóa và khoa học kỹ thuật tiên tiến, chính trị -
xã hội ổn định, đời sống nhân dân ấm no hạnh phúc.
Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII)
tháng 9/1992 đã đánh giá vị trí của thành phố Hồ Chí Minh trong nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc như sau:
"Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn, trung tâm giao dịch quốc tế
và du lịch của nước ta. Thành phố Hồ Chí Minh có một vị trí chính trị quan trọng sau thủ
đô Hà Nội. Nhân dân lao động thành phố Hồ Chí Minh vốn có tinh thần yêu nước nồng
nàn, có truyền thống cách mạng kiên cường, đồng thời lại rất năng động và giàu sáng tạo
trong sản xuất và kinh doanh.
Riêng về kinh tế, thành phố là một trung tâm công nghiệp lớn, có năng lực sản
xuất công nghiệp khá phát triển, nhất là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp rất phong phú; đội ngũ công nhân và thợ thủ công có tay nghề khá,
lực lượng khoa học, kỹ thuật đông đảo, có tài năng, có kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát
triển công nghiệp, xuất nhập khẩu và du lịch.
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông lớn cả về thủy, bộ và hàng không;
thông thương thuận tiện với các tỉnh ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ... cả nước và quốc tế.
Điều đặc biệt quan trọng là kinh tế của thành phố gắn liền với một vùng nông lâm,
ngư nghiệp trù phú (B2 cũ) có nền sản xuất hàng hóa phát triển, có những khả năng to lớn
về lao động, đất đai bảo đảm cho thành phố một hậu phương phong phú về lương thực, thực
phẩm, nông sản, nguyên liệu...
Với những điều kiện khách quan đặc biệt thuận lợi. Thành phố Hồ Chí Minh có
khả năng cùng với các tỉnh trong vùng sớm hình thành một cơ cấu kinh tế công-nông
nghiệp, kết hợp chặt chẽ kinh tế trong và ngoài nước, đóng góp rất quan trọng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế chung của cả nước.
Tóm lại, thành phố Hồ Chí Minh nói chung và các huyện ngoại thành thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng có những đặc điểm hết sức thuận lợi nhưng cũng có không ít khó
khăn trong phát triển kinh tế. Đó sẽ là những nhân tố trực tiếp quy định thực trạng hoạt
động của các hình thức kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. thực trạng kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố hồ chí minh
2.2.1. Thời kỳ 1975 - 1988
Sau ngày miền Nam thống nhất, thành phố Hồ Chí Minh đã tập trung xây dựng và
phát triển kinh tế trên nhiều lĩnh vực. Vấn đề xác lập quan hệ sản xuất XHCN đã được
Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm. Phong trào HTX đã được hoàn thành và phát triển
mạnh mẽ. Tính đến 1985 thành phố đã tổng kết và báo cáo cơ bản hoàn thành hợp tác hóa
nông nghiệp với 190 HTX, 460 tập đoàn sản xuất (TĐSX) và hàng trăm tổ đoàn kết sản
xuất tập trung ở các huyện ngoại thành (trong đó, huyện Củ Chi là huyện điển hình về
phong trào HTX nông nghiệp, đã xây dựng được 90 HTX/190). Những HTX, TĐSX cơ
bản tồn tại đến 1988-1989.
Các HTX thời kỳ này hoạt động chủ yếu theo phương thức khoán sản phẩm, tính
công điểm và ăn chia vào cuối vụ. Xã viên được HTX phục vụ về vật tư, giống, vốn, điện
nước, lương thực... còn xã viên chỉ lo sản xuất trên phần đất nhận khoán và giao nộp sản
phẩm cho HTX theo quy định. Phong trào HTX thời kỳ này đã có những tác dụng tích cực,
đóng góp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển nói riêng và kinh tế nói chung, đó là:
- Hình thành nên một quan hệ sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp, các xã
viên gắn bó, đoàn kết góp phần củng cố đời sống ổn định.
- Góp phần giải quyết những vấn đề cho đời sống và sự phát triển ở nông thôn
như: cơ sở hạ tầng, điện nước, thủy lợi và việc ứng dụng KHKT vào sản xuất.
- Thể hiện sự liên minh công nông chặt chẽ, sự gắn bó hỗ trợ lẫn nhau giữa nông
dân và công nhân về trao đổi sản phẩm; đầu tư xây dựng, nâng cao trình độ học tập, văn
hóa, kỹ thuật...
- Góp phần đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp tạo ra năng suất cao, nhất là vào thời
kỳ đầu; sau thời gian sản xuất nông nghiệp bị gián đoạn, phân tán do chiến tranh.
Tuy nhiên, thời kỳ này phong trào HTX cũng bộc lộ những mặt
hạn chế:
+ Nông dân lo sản xuất theo kế hoạch, theo sự chỉ đạo của HTX nên không chủ
động, sáng tạo trong sản xuất-kinh doanh; Họ không tích cực học hỏi, không chú trọng đầu
tư trong sản xuất kể cả việc áp dụng KHKT... Đây là một hạn chế lớn nhất đối với nông
dân ở thành phố vốn có trình độ văn hóa và có điều kiện tiếp xúc với các thành tựu
KHKT...
+ Sự bình quân trong phân phối và việc hưởng bình quân về chế độ bao cấp của
nhà nước đã không kích thích, động viên được những người nông dân tích cực và có ý thức
sử dụng, khai thác các nguồn đầu tư của Nhà nước có hiệu quả.
+ Nông dân phải chịu những khoản chi phí gián tiếp không phù hợp...
2.2.2. Thời kỳ 1989 - 1996
Năm 1989, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán hộ ra đời, nông dân được
giao ruộng đất, giao quyền chủ động trong sản xuất và trở thành chủ thể kinh tế. Do đó,
kinh tế hộ vào thời điểm này được chú trọng.
Phương thức sản xuất khoán sản phẩm lúc này đã không còn phù hợp, các HTX và
các TĐSX cũng không có điều kiện để hoạt động. Do không đủ sức cạnh tranh trong cơ
chế thị trường, các HTX dần dần bị thu hẹp, không còn điều kiện, khả năng hoạt động hỗ
trợ dịch vụ cho xã viên và cuối cùng phải tan rã hay chỉ tồn tại ở dạng hình thức. Chỉ có
một số ít HTX tồn tại được do ban quản lý cố gắng làm dịch vụ: Quản lý điện, nước, cho
thuê mặt bằng, tài sản của HTX để có thu nhập mà tồn tại, một số HTX và TĐSX tự giải
thể.
Theo số liệu điều tra thống kê vào thời kỳ này từ chỗ có 190 HTX thì đến thời
điểm này chỉ còn 19 HTX-quản lý một số tài sản trị giá 5.546 tỷ đồng bao gồm:
- 3.989 tỷ đồng tài sản cố định như nhà kho, sân phơi, văn phòng làm việc...
- 1556 tỷ đồng vốn lưu động.
Như vậy, sau khi có NQ 10, thì đây là giai đoạn có sự biến đổi lớn trong sản xuất
nông nghiệp; đây cũng là thời kỳ tan rã hàng loạt các HTX trong cả nước nói chung và ở
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Sự tan rã đó do những nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Chủ trương khoán hộ ra đời đã làm cho khoán sản phẩm trở nên lỗi thời, không
còn phù hợp và không còn chỗ đứng.
- Mô hình HTX trước đây nặng về hình thức, về phong trào... Các HTX được xây
dựng nóng vội, không đi đúng nguyên tắc, trình tự.
- Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai là yếu tố sản xuất quan trọng. Nhưng
ngày nay kinh tế hộ là đơn vị kinh tế tự chủ được nhà nước giao đất. HTX không còn sở
hữu tập thể về ruộng đất nữa nên đã tan rã nhanh chóng.
Trình độ quản lý của cán bộ hợp tác xã yếu kém, nhận thức của nông dân về HTX
còn hạn chế, người xã viên không thật sự được chủ
động trong sản xuất, họ chỉ là đối tượng được hợp tác xã phục vụ, họ chưa phải là chủ thể
của tổ chức hợp tác xã nên không thể phát huy hết năng lực, nhiệt tình để phát triển sản
xuất, làm giàu cho xã hội. Vì thế, sản xuất của hợp tác xã không hiệu quả, chi phí không
hợp lý dẫn đến giá thành sản phẩm cao.
- Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể đã can thiệp quá sâu vào tổ chức của
hợp tác xã - điều đó làm cho hợp tác xã không còn chủ động trong sản xuất kinh doanh, lại
phải làm nhiều việc vốn thuộc trách nhiệm của chính quyền.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển;
góp phần nâng cao đời sống của nông dân, đến nay đã bộc lộ, nảy sinh những vấn đề mới
trong sản xuất mà tự mỗi hộ gia đình không thể tự giải quyết một cách có hiệu quả được.
Những vấn đề về: lao động, vốn, thủy lợi nội đồng, về KHKT... và đặc biệt là vấn đề tiêu
thụ sản phẩm sau thu hoạch sao cho có hiệu quả nhất, là những vấn đề mà tự
bản thân từng hộ không sao giải quyết một cách thỏa đáng được. Sự hạn
chế của kinh tế hộ đã tác động lớn đến sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp ở các
huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh. Những người nông dân thấy cần phải hợp tác
với nhau để giải quyết những vấn đề khó khăn nhằm sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao
nhất. Vì thế, thời điểm này các hình thức hợp tác trong nông nghiệp lại được hình thành và
phát triển theo hình thức và nội dung mới. Đó là một đòi hỏi khách quan được xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh sau một thời kỳ hợp tác xã và các hình thức
hợp tác sản xuất cũ trong nông nghiệp bị giải thể, lãng quên.
Trước tình hình đó vào tháng 11/1993, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đã tổ
chức, sơ kết đánh giá về hợp tác xã nông nghiệp và các hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới
ở các huyện ngoại thành, nhằm tìm ra các
giải pháp tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp của các huyện ngoại thành
và cũng để tìm ra những mô hình kinh tế hợp tác kiểu mới hoạt động có hiệu quả phù hợp
với điều kiện sản xuất ở các huyện ngoại thành của thành phố. Hội nghị đã khẳng định sự
tất yếu của việc phát triển kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN. Sau hội nghị một số huyện ngoại thành đã tiến hành kiểm tra đánh giá lại tình hình
các hợp tác xã nông nghiệp, rà soát lại các tồn đọng về tài sản, vốn, công nợ...để tìm giải
pháp đẩy mạnh phong trào trong thời gian tới. Như vậy, sau một thời gian dài phong trào
hợp tác hóa bị thả nổi, lãng quên, giờ đây đã được các cấp chính quyền và cơ quan chủ
quản quan tâm tạo thuận lợi để cho các hợp tác xã và các mô hình kinh tế hợp tác kiểu mới
nảy sinh và phát triển.
2.2.3. Thời kỳ từ khi có Luật hợp tác xã đến nay
Sau khi Luật HTX ra đời và có hiệu lực thực hiện trong cả nước, thành phố Hồ Chí
Minh nói chung và các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã chấp hành
Nghị định 16 CP ngày 21/2/1997 của Chính phủ; Quyết định 753/QĐ-UB-KT ngày 18/2
1997 của UBND thành phố để đăng ký chuyển đổi HTX ở thành phố.
Theo đăng ký kinh doanh sản xuất của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp ở các
huyện ngoại thành (gồm 5 huyện) thì con số HTX nông nghiệp là 12, được thể hiện như
sau:
Bảng 3:
Địa phương Số HTX
Đang
hoạt động
Đang
giải thể
Ghi chú
- Hóc Môn 5 3 2
- Củ Chi 4 3 1
- Bình Chánh 1 1 0
- Nhà Bè 1 1 0
- Cần Giờ 1 1 0
Tổng cộng 12 9 3
Bảng 4 sẽ cho biết tình hình hoạt động cụ thể của các HTX (trang 33).
Từ tình hình cụ thể, có thể rút ra nhận xét:
2.2.3.1. Một số HTX chuyển đổi không có hiệu quả nay chỉ còn là hình thức
hoặc đã ngừng hoạt động
Tính đến tháng 4/2000 có một số HTX nông nghiệp xin chuyển đổi sang hoạt động
kinh doanh theo mô hình HTX kiểu mới nhưng do làm ăn không hiệu quả nên đã phải
ngừng hoạt động hay đang chờ để giải thể. Tình trạng của các HTX này là: tuy vẫn còn
Ban quản trị và Chủ nhiệm HTX nhưng không còn hoạt động gì (nếu còn cũng là cầm
chừng hay đang chuyển sang hình thức khác, lĩnh vực khác). Nguồn tài chính để duy trì bộ
máy chủ yếu dựa vào thu nợ hoặc bán tài sản của HTX, thậm chí thu quỹ theo đầu diện
tích ruộng đất của xã viên để chi tiêu... Nhìn chung các HTX này chỉ còn tồn tại trên hình
thức, đang trở thành lực cản đối với sự phát triển của kinh tế hộ. Vì vậy, xã viên đề nghị
giải thể HTX. Có thể nêu các HTX cụ thể sau đây:
- HTX Đông Thạnh III (huyện Hóc Môn): Sau khi đăng ký xin chuyển đổi và đi
vào hoạt động dịch vụ nông nghiệp nhưng do làm ăn không hiệu quả nên đến đầu năm 1999
xin giải thể. Đã tiến hành qua các bước:
+ Họp hội đồng đánh giá tài sản.
+ Tổ chức đại hội xã viên - làm đơn xin giải thể.
+ Xử lý nợ với ngân hàng nông nghiệp, với HTX tín dụng và với các HTX khác.
+ Với toàn bộ số đất công có diện tích: 111.484 m2 do HTX quản lý trước đây thì
nay HTX quản lý một phần (8.400 m2); còn lại là xã viên chiếm dụng, hoặc nhận khoán
(73.085 m2) hiện được giao cho huyện xử lý đúng quy định của pháp luật.
- HTX nông nghiệp Trung Đông (huyện Hóc Môn): Thành lập tháng 12/1997
với số vốn 25.000.000đ và 97.000 m2 đất. Với 63 hộ xã viên, Ban quản trị là 3 người. Sau
hơn một năm hoạt động không hiệu quả nên đến đầu năm 1999 xin giải thể.
Các bước giải thể cũng làm như HTX Đông Thạnh III. Riêng đối với phấn đất đai,
địa phương khoán cho 63 hộ nguyên canh và đề nghị UBND huyện xem xét giải quyết
theo quy định của Pháp luật.
- HTX Một Thoáng Việt Nam (huyện Củ Chi): Được thành lập 28/2/1995 với nội
dung vừa kinh doanh nông nghiệp: Nghiên cứu, thử nghiệm nuôi trồng đại trà thủy sản,
cây ăn trái, hoa kiểng và một số thú hiếm; vừa tổ chức kinh doanh du lịch xanh.
HTX có vốn tiền mặt do xã viên đóng góp là 7 tỷ, bao gồm 22 ha đất (quy ra tiền
667.830 triệu đồng), và máy móc thiết bị trị giá 247,7
triệu đồng.
HTX có 48 xã viên với 171 lao động, và có bộ máy quản lý: 9 người gồm quản trị:
5 người; 1 giám đốc, và một ban kiểm soát: 3 người.
Từ thực trạng phá sản của những mô hình HTX này cho thấy một vấn đề có tính
quy luật trong sự phát triển của nền kinh tế là hình thức tổ chức kinh tế phải phù hợp với
nội dung hoạt động kinh tế khách quan. Trong cơ chế cũ HTX là người sở hữu ruộng đất,
TLSX và phần lớn sản phẩm, nên có quyền trực tiếp điều hành tập trung toàn bộ quá trình
sản xuất, phân phối và lưu thông. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, nội dung kinh tế hộ
nông dân và của HTX đã có sự thay đổi cơ bản. HTX không còn là chủ thể trực tiếp tổ
chức và điều hành quá trình sản xuất mà trở thành chủ thể làm dịch vụ đầu vào và đầu ra
cho các hộ nông dân, nhưng vẫn duy trì hình thức cũ, nên các HTX trở thành người chủ
hình thức. Việc duy trì các HTX như vậy trong suốt thời gian qua, thực chất là duy trì bộ
máy quản lý HTX và các nhân tố tiêu cực làm tăng gánh nặng đóng góp của xã viên, gây
cản trở cho sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. Chính vì thế mà sự tồn tại của các HTX
theo cơ chế cũ trong điều kiện của môi trường kinh tế mới đang trở thành nhân tố cản trở
hoạt động của kinh tế hộ, do đó cũng cản trở sự ra đời và phát triển của các hình thức kinh
tế hợp tác kiểu mới. Vì vậy, việc phải đổi mới một cách căn bản các hình thức tổ chức, nội
dung kinh doanh và cơ chế quản lý của các HTX là một đòi hỏi khách quan và cấp bách
hiện nay.
2.2.3.2. Các mô hình kinh tế hợp tác mới ra đời, tồn tại và có xu hướng phát
triển ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
Mô hình HTX dịch vụ chăn nuôi bò sữa
Chăn nuôi bò sữa ở thành phố Hồ Chí Minh phát triển từ rất sớm. Nhưng chỉ phát
triển ở một số hộ gia đình có nguồn gốc từ ấn Độ, Pakistan. Việc chăn nuôi lúc đầu chỉ là
biểu tượng tôn giáo, gợi nhớ về quê hương của họ, sau đó dần dần mới được sử dụng để
khai thác sữa. Sau giải phóng, ngành chăn nuôi bò sữa trải qua các giai đoạn:
- Từ năm 1975 đến 1990: bò sữa đã được phát triển ở các nông trường nhà nước,
sản lượng sữa rất thấp bình quân 3-4 lít/ngày/con. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là các nhà
trẻ ở thành phố. Việc sản xuất sữa ở các nông trường quốc doanh (NTQD) theo cơ chế sản
xuất theo kế hoạch, giao sữa theo kế hoạch.
- Từ năm 1990-1995: Đây là thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị (1988), hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Do đó thời kỳ này nhiều
hộ nông dân đã chăn nuôi bò sữa và đã thu nhiều lợi nhuận. Lúc này, do các NTQD không
thích ứng được với cơ chế thị trường, hoạt động kém hiệu quả, nên đã bán đàn bò cho
nông dân hay giao cho nông dân nuôi gia công.
- Từ năm 1996 cho đến nay: Cùng với quá trình đô thị hóa, một số hộ nông dân đã
chuyển hẳn sang kinh doanh - chăn nuôi bò sữa, tập trung ở Hóc Môn, Củ Chi và Bình
Chánh, nhằm đáp ứng yêu cầu cho nhân dân thành phố.
Số lượng bò sữa ở thành phố Hồ Chí Minh từ 1990-1998 được biểu hiện ở bảng 5
sau đây:
Bảng 5:
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Tổng đàn 5.160 5.492 6.550 8.330 10.420 14.238 14.172 18.359 19.500
NTQD 800 993 923 132 124 120 120 146 146
Tư nhân 4.360 4.499 5.627 8.202 10.296 14.118 14.152 18.213 19.354
Từ số liệu trên chúng ta thấy, đàn bò sữa của các NTQD trước đây chỉ còn một bộ
phận rất nhỏ (0,75%), còn lại trong các hộ nông dân (99,25%).
Sau khi chuyển giao đàn bò sữa cho nông dân, các NTQD chuyển qua làm các
dịch vụ cho chăn nuôi bò sữa như:
- Sản xuất và cung cấp con giống.
- Làm dịch vụ thụ tinh nhân tạo.
- Cung cấp một số loại thức ăn cho bò sữa.
- Làm dịch vụ chuyển giao, tập huấn kỹ thuật khuyến nông cho nông dân...
Tuy nhiên, việc chăn nuôi và phát triển đàn bò sữa của các hộ nông dân lúc này
gặp nhiều khó khăn như:
- Khó khăn về giống: Trên địa bàn thành phố nhiều đơn vị là doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) tham gia nhập giống tinh từ nhiều nguồn, nhiều nước nhưng không có một
cơ quan quản lý thống nhất. Vì vậy người dân không biết giống nào là tốt để phát triển.
Hơn nữa, có tình trạng cạnh tranh giữa các dẫn tinh viên nên người nông dân
không lấy được giống tốt, do vậy chất lượng đàn bò sữa ít được cải thiện.
- Khó khăn về giá cả thức ăn chăn nuôi: Giá một số loại thức ăn cao, bị động và
luôn thay đổi đã dẫn đến quyền lợi trực tiếp của người chăn nuôi bị ảnh hưởng.
- Khó khăn trong tiêu thụ sữa: Chính sách thu mua sữa thiếu nhất quán, việc đánh
giá chất lượng sữa chưa khách quan, vì chưa có một tổ chức trung gian hoặc hiệp hội của
ngành chăn nuôi bò sữa đứng ra bảo vệ quyền lợi của người sản xuất.
- Khó khăn về kỹ thuật chăn nuôi: Nói chung, trình độ chăn nuôi còn thủ công, lạc
hậu... nên hiệu quả kinh tế không cao. Chưa áp dụng các tiến bộ KHKT và cơ giới hóa vào
chăn nuôi. Nguyên nhân là: Phong trào chăn nuôi của các hộ gia đình mang tính tự phát,
điểm xuất phát thấp với mục tiêu ban đầu chỉ là cải thiện đời sống và tận dụng lao động
nhàn rỗi nên người chăn nuôi chưa suy nghĩ tới biện pháp cải tiến kỹ thuật, áp dụng cơ giới
hóa vào sản xuất.
- Quy mô chăn nuôi của các hộ còn nhỏ và ít vốn.
- Công tác quản lý vệ sinh sản phẩm và con người chưa thật tốt. Hiện chưa có một
cơ quan nào quản lý đội ngũ người vắt sữa thuê và kiểm tra chất lượng, vệ sinh sữa tươi
tiêu thụ trên thị trường thành phố nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, ảnh
hưởng đến việc đầu tư chăn nuôi và thu nhập của người chăn nuôi.
Sau đây là một số mô hình HTX dịch vụ chăn nuôi bò sữa ở thành phố Hồ Chí
Minh:
- HTX dịch vụ phát triển chăn nuôi bò sữa Xuân Lộc- Thạnh Lộc (Hóc Môn):
Xuất phát trừ yêu cầu khắc phục những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, 21 hộ
chăn nuôi bò sữa Xuân Lộc, Thạnh Lộc (Hóc Môn) đã tình nguyện đăng ký thành lập
HTX-với số vốn điều lệ là 10.500.000đ và được cấp giấy phép thành ngày 11/7/1998.
Hình thức hoạt động:
+ Hộ xã viên là những người sở hữu và là người trực tiếp chăn nuôi bò sữa.
+ HTX đảm nhận các khâu:
- Tư vấn hướng dẫn về mặt kỹ thuật chăn nuôi (như: thụ tinh, kỹ thuật vắt sữa,
chăm sóc thú y).
- Đảm nhận việc tìm kiếm, cung cấp thức ăn cho bò sữa như: Cám thực phẩm, hèm
bia, cỏ, rơm...
- Tổ chức thu mua sữa bò do hộ xã viên và nông dân sản xuất ra với giá hỗ trợ
50đ/lít. Ngoài ra, những hộ nông dân bán nhiều sữa cho HTX với chất lượng tốt còn được
HTX trích thưởng 100.000đ/năm /hộ.
- Đứng ra bảo lãnh cho các xã viên vay tiền để chăn nuôi bò. Trung bình thời gian
qua cứ mỗi hộ được vay 10.000.000đ và qua 3 năm đã trả được vốn, tích lũy được 1 bò sữa
và có hộ được thêm một con bê con.
HTX làm người trung gian đứng ra bảo lãnh, giúp đỡ các hộ nghèo đến với các tổ chức;
giúp đỡ người nghèo thông qua giá trị con bò sữa ban đầu (nghĩa là thông qua các hộ chăn
nuôi bò sữa). Đây chính là biện pháp làm hay, năng động, vì đối với các hộ nghèo khi có
tiền họ có thể sử dụng cho việc khác cấp bách hơn như trả nợ, mua sắm... Các hộ nghèo
mua bò sữa không bị thương lái, trung gian ép giá.
Nhờ có HTX mà mà các hộ xã viên có điều kiện và an tâm đầu tư phát triển đàn bò
sữa. Qua hơn một năm hoạt động đến tháng 1/ 2000 đàn bò sữa của các hộ xã viên tăng từ
80 con lên 120 con bò cho sữa và 160 con bò tơ hậu bị, số hộ nuôi cũng tăng từ 20 hộ lên
30 hộ. Mặt khác, nhờ HTX mở dịch vụ thu mua sữa bò và hỗ trợ cho xã viên nên doanh
thu của xã viên và của cả HTX đều tăng. Nhờ vậy, góp phần giải quyết được một số lao
động trong địa phương. Bà con xã viên ngày càng tin tưởng vào HTX.
Để ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mà khi nuôi bò sữa như thay
giống cũ bằng giống mới; xây dựng chuồng trại ... và mở rộng quy mô chăn nuôi thì các hộ
xã viên cần đầu tư thêm vốn. Do đó HTX đã đề nghị các cấp chính quyền, ngân hàng, các tổ
chức quỹ tín dụng nên có sự hỗ trợ để các hộ nuôi bò sữa có điều kiện phát triển, đạt hiệu quả
cao hơn.
- HTX dịch vụ - chăn nuôi bò sữa Tân Thông Hội (huyện Củ Chi):
Đây là HTX mới thành lập vào 10-1999, do kinh nghiệm của HTX Hóc Môn - và nhất
là do nhu cầu hợp tác trong sản xuất chăn nuôi bò sữa. Hiện nay 51 hộ xã viên đã đăng ký
thành lập HTX với vốn là 600.000.000 đồng.
Hình thức hoạt động:
+ Hộ xã viên là những người sở hữu và là người trực tiếp chăn nuôi bò sữa.
+ HTX phụ trách các khâu:
- Tư vấn hướng dẫn về kỹ thuật (thụ tinh, kỹ thuật vắt sữa, chăm sóc thú y ...).
- Dịch vụ thức ăn: cỏ, hèm bia, cám tổng hợp ...
Tuy HTX mới được thành lập nhưng qua hơn 6 tháng hoạt động HTX đã làm được
một số công việc thiết thực như:
+ Tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa giữa các báo cáo
viên kỹ thuật của nhà máy sữa; Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho các hộ xã viên
được 6 lần.
+ Xây dựng, ký kết với Xuân Lộc, Đồng Nai về cung cấp thức ăn của bò thường
xuyên cho các hộ xã viên.
+ Thành lập được hai trạm thu mua sữa để thu mua sữa cho các hộ xã viên của
HTX và các hộ xung quanh, khắc phục được tình trạng ép giá; hạ thấp giá trị sản phẩm của
tư thương trước đây. Điều này làm cho các xã viên yên tâm sản xuất hơn.
Các mô hình HTX dịch vụ khác
- Mô hình HTX dịch vụ Phước Long, huyện Nhà Bè (Mô hình hỗ trợ dịch vụ nuôi
vịt chạy đồng).
Xuất phát từ đặc điểm của huyện Nhà Bè là vùng có diện tích sông nước rộng rất
thuận lợi cho việc phát triển nuôi vịt chạy đồng- và cũng xuất phát từ yêu cầu sản xuất của
các hộ nông dân nuôi vịt- nên họ đã tự nguyện thành lập HTX dịch vụ kỹ thuật nông
nghiệp, nhằm giúp nhau tổ chức sản xuất có hiệu quả, góp phần xóa đói, giảm nghèo và
phát triển kinh tế gia đình. Vì thế, HTX dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp Phước Long được
thành lập 1/1999, có 26 xã viên, vốn điều lệ 80.000.000đ.
Nội dung của mô hình:
- Cung cấp cho xã viên và nông dân vịt con khoảng 2 tuần tuổi và được hướng dẫn
kỹ thuật nuôi, đảm bảo tỷ lệ hao hụt dưới 3%; tỷ lệ tăng trọng cao 1/2,35 kg thực phẩm.
- Cung ứng thực phẩm cho vịt, đảm bảo dinh dưỡng và rút ngắn chu kỳ thu hoạch
sau 75 ngày và đạt từ 2,5 kg-3kg/con.
- Thu mua sản phẩm cho xã viên. Giá thu mua căn cứ theo giá thị trường trong
từng thời điểm cụ thể.
- Ngoài ra HTX đứng ra vay vốn từ quỹ xóa đói giảm nghèo để hỗ trợ cho xã viên
phát triển kinh tế gia đình.
Đây là mô hình đã được hộ nông dân thành phố biểu dương và được đem nhân
rộng ra các huyện ngoại thành ... nhằm giúp cho các hộ nông dân phát triển chăn nuôi, góp
phần xóa đói giảm nghèo, thu hút và giải quyết được một bộ phận lao động nhàn rỗi ở
ngoại thành. Do đó, cũng là một mô hình cần được nghiên cứu và ứng dụng vào thực tế
trên địa bàn các huyện ngoại thành thành phố HCM trong thời gian tới.
- Mô hình HTX dịch vụ sản xuất rau an toàn Tân Phú Trung (huyện Củ Chi).
HTX dịch vụ sản xuất rau an toàn Tân Phú Trung - Củ Chi được thành lập 12/1998,
với vốn điều lệ 10.000.000đ, 70 hộ xã viên, với mục đích góp phần đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng ngày càng cao về rau sạch, hỗ trợ xã viên và nông dân tiêu thụ rau sạch
sản xuất có hiệu quả, tránh bị các tư thương ép giá làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời
sống.
Nội dung hoạt động:
- HTX hướng dẫn cho các xã viên và nông dân về kỹ thuật trồng rau an toàn (rau
sạch) và có kế hoạch cụ thể cho từng hộ trồng những chủng loại rau thích hợp với kinh
nghiệm, đất đai của từng hộ xã viên.
- HTX tổ chức thu mua rau của từng xã viên và nông dân tự nguyện sản xuất theo
quy trình của HTX để đi tiêu thụ ở các cửa hàng HTX thương mại, siêu thị (như siêu thị
Coopmak) và các trường học. Giá thu mua phù hợp với giá thị trường tại từng thời điểm cụ
thể (trong 5 tháng đầu năm 2000 HTX đã tiêu thụ được 35 tấn rau sạch - do các hộ xã viên
và nông dân trên địa bàn sản xuất) nhằm góp phần làm ổn định sản xuất và nâng cao thu
nhập cho bà con xã viên.
- Ngoài ra, HTX còn cung cấp các loại giống, cây con, phân bón cho các xã viên
để giúp các hộ xã viên đạt hiệu quả cao trong sản xuất.
Mô hình dịch vụ sản xuất và tiêu thụ rau an toàn ở huyện Củ Chi là một mô hình
đã và đang được nhân rộng nhằm đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về rau sạch cho
thành phố. Mô hình này đang được phát triển rộng ở các huyện Hóc Môn, Bình Chánh.
Các mô hình về tổ hợp tác sản xuất
+ Hiệp hội chăn nuôi bò sữa: Là một mô hình hợp tác cần được nghiên cứu. Ai
cũng biết nuôi bò sữa phụ thuộc rất nhiều khâu từ khâu cung cấp con giống, phương pháp
gieo tinh, chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, chuyển giao công nghệ... do đó các hộ xã viên
tất yếu phải hợp tác để cùng tồn tại và phát triển.
Hiện nay hiệp hội bò sữa có 28 chi hội với trên 2.000 hộ thường xuyên duy trì chế
độ sinh hoạt cung cấp các thông tin về quy trình, kỹ thuật chăn nuôi và vắt sữa, về giá cả
tiêu thụ và những biện pháp đấu tranh bảo vệ người chăn nuôi đúng pháp luật.
Mô hình hợp tác này đã và đang được phát triển mạnh ở các huyện Củ Chi, Hóc
Môn. Đó cũng là mô hình có nhiều triển vọng thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện phân công lại lao động trên lĩnh vực một ngành nghề, một
sản phẩm. Nếu có đủ điều kiện và có sự giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể chính quyền thì
các mô hình này sẽ là cơ sở để phát triển thành các HTX trong tương lai.
+ Tổ quản lý đường nước kênh đông Củ Chi: Do Hội nông dân thành phố đứng ra
tổ chức, ký hợp đồng với Công ty dịch vụ thủy lợi cùng phối hợp điều tiết nước để phục vụ
cho trên 12 ngàn ha. Hiện nay có 111 tổ quản lý đường nước với nhiệm vụ tổ chức cho hội
viên nông dân đăng ký diện tích sử dụng nước kênh đông để điều tiết nước có hệ thống
đảm bảo có đủ nước để từng hộ sản xuất. Tổ giúp cho các hộ nông dân có ý thức trách
nhiệm bảo quản xây dựng kênh mương tưới tiêu. Mỗi vụ từng hộ hội viên phải trực tiếp
tham gia lao động, nạo vét kênh mương tưới tiêu, chống úng... Tổ tập huấn cho từng hộ
hội viên về kỹ thuật sử dụng giống mới trước khi vào vụ sản xuất; tổ chức hướng dẫn cho
từng hộ nông dân lập thủ tục vay vốn từ các chương trình tín dụng, tổ chức nông dân vần đổi
công cày cấy ... và sinh hoạt định kỳ hàng tuần hàng tháng nhằm động viên giúp đỡ nhau
trong sản xuất kinh doanh. Tổ đường nước tuyến kênh N38 - N5 xã Thái Mỹ (Củ Chi) là
một trong số này: Tổ quản lý chiều dài 1.450 m phục vụ tưới tiêu cho 38 ha với 70 hộ trực
tiếp sản xuất, luôn luôn gắn bó với mọi công tác, bảo vệ tốt kênh mương, góp phần nâng
diện tích sản xuất 3 vụ trong năm. Có 30 hộ thiếu đất sản xuất, đời sống kinh tế khó khăn
đã được tổ vận động giúp đỡ cho mượn 5 ha đất sản xuất và cho mượn trên 7.000.000 đ
vốn không lấy lãi để phát triển sản xuất. Hiện nay có 45 hộ trong tổ đạt danh hiệu nông
dân sản xuất giỏi và 80% số hộ có đời sống khá giả ổn định.
+ Tổ hợp tác làm thủy lợi bao đê ngăn mặn chống úng ở Đa Phước, Bình Chánh:
Để chống tình trạng thường xuyên bị ngập úng nhiễm mặn trên diện tích 60 ha nên lúc đầu
có 3 nông dân đứng ra vận động 40 hộ góp vốn trên 10 triệu đồng và cùng lao động đắp bờ
bao trên 2 km, xây dựng hệ thống cấp thoát nước. Sau khi hoàn thành, công trình đã mang
lại hiệu quả thiết thực: trước đây một công thu được 10 giạ nay tăng lên 20 - 25 giạ. Dọc
theo hệ thống kênh mương còn tổ chức nuôi tôm, cá bán gây quỹ, được 8 triệu đồng, nông
dân rất phấn khởi. Đây là mô hình đang được các nông dân ở các vùng xung quanh học tập
để tổ chức xây dựng 4 công trình làm bờ bao chống úng, ngăn mặn cho hàng trăm ha
ruộng lúa, ao hồ ...
+ Tổ hợp tác làm dịch vụ cày kéo xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh: Được thành lập
từ 1994 tập hợp 20 chiếc máy cày lớn nhỏ, có tổ trưởng, tổ phó và có quan hệ với hội viên
nông dân trong xã để nhận hợp đồng, bố trí phục vụ khâu làm đất, thu hoạch cho nông dân
với giá rẻ và được ưu tiên thanh toán vào cuối vụ. Mô hình này hiện nay đang hoạt động
có hiệu quả.
+ Tổ hợp tác liên kết trồng bắp do hội nông dân xã Phước Thạnh, Phước Hiệp,
Thái Mỹ (Củ Chi): Đứng ra quan hệ với công ty giống cây trồng miền Nam để trồng bắp
giống SSCO3. Công ty giao giống, tiền mặt cho hội viên nông dân có điều kiện về đất đai,
lao động để trồng. Sau khi thu hoạch công ty bao tiêu 100% sản phẩm với giá cả ổn định.
Do đó đã thu hút nông dân tham gia một cách tự nguyện. Hiện nay mô hình này đang phát
triển mạnh trên diện tích 90 ha.
+ Tổ hợp tác sản xuất nuôi nghêu ở xã Cần Thạnh, xã Long Hóa Cần Giờ: Phát
huy lợi thế ở vùng biển, những người nông dân ở hai xã này đã liên kết thành lập 6 tổ hợp
tác sản xuất nuôi nghêu. Chính quyền địa phương cấp đất theo hướng 10 hộ thành một tổ
để dễ dàng quản lý và để bà con có điều kiện gần gũi hợp tác trong sản xuất.
Mô hình này từng bước đã mang lại hiệu quả kinh tế - góp phần ổn định đời sống
của các hộ nông dân.
+ Tổ hợp tác sản xuất lúa giống ở Đông Thạnh, Củ Chi: 14 hộ xã viên đứng ra xin
thành lập tổ hợp tác sản xuất lúa giống vào 1/2000 nhằm góp phần tạo ra những giống lúa
có năng suất cao; chất lượng gạo tốt; phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của vùng đất ngoại
thành. Tuy mới được thành lập nhưng tổ hợp tác đã sản xuất được 45 tấn lúa giống, năng
suất bình quân đạt 5-7 tấn/ ha, bước đầu đã tiêu thụ (bán) được 25 tấn cho các vùng xung
quanh.
Đây là mô hình mới, rất phù hợp với điều kiện sản xuất ở ngoại thành thành phố vì
diện tích không nhiều, xu hướng nông nghiệp ngoại thành là chuyển dịch từ trồng trọt sang
chăn nuôi và dịch vụ. Do đó để
tận dụng được ưu thế về việc ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật do
gần các trung tâm nghiên cứu; các trường đại học, việc chọn mô hình sản xuất lúa giống là
phù hợp, chắc chắn sẽ đặt được những kết quả cao trong tương lai.
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại thành
thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Về quan hệ sở hữu
Hiện nay xét về mặt quan hệ sở hữu KTHT ở các huyện ngoại thành TP. Hồ Chí
Minh tồn tại ba hình thức sở hữu chủ yếu:
- Hình thức sở hữu của tập thể xã viên (HTX): Bao gồm máy móc, thiết bị, quỹ
không chia... đã được tích lũy trong quá trình của những năm tháng trước đây. Đó cũng là
giá trị tài sản, tiền được tích lũy với sức đóng góp của xã viên trong quá trình tham gia
HTX. Những vốn, quỹ này được khuyến khích tăng lên hàng năm nhằm củng cố, tạo lực
cho HTX, động viên xã viên gắn bó thêm với HTX.
- Hình thức sở hữu cá nhân xã viên: Loại hình này vẫn được tồn tại và được tôn
trọng. Xã viên có quyền sử dụng đất đai (với 5 quyền theo luật), vốn, trang thiết bị để sản
xuất, kinh doanh... xã viên có quyền cho thuê, cho muợn... vốn hoặc các phương tiện sản
xuất của mình. Nếu HTX cần sử dụng cũng phải thuê hoặc mượn của xã viên.
- Vốn góp xã viên: Đây là vốn xã viên đóng góp khi vào HTX, trở thành sở hữu tập
thể. Nhưng khi xã viên ra khỏi HTX vốn góp đó sẽ được HTX trả lại cho xã viên và trở
thành sở hữu riêng của xã viên.
Khác với mô hình của HTX cũ trước đây. HTX mới hiện nay với nhiều hình thức
sở hữu như trên là phù hợp và có tác dụng tốt trong việc ổn định, phát triển HTX cũng như
thúc đẩy kinh tế hộ phát triển sản xuất, tạo tâm lý an tâm cho các hộ nông dân.
2.4.2. Về xã viên
Qua điều tra khảo sát các hộ xã viên ở các HTX nông nghiệp ngoại thành thành
phố Hồ Chí Minh (6/1999) của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bằng hình thức
điều tra xã hội học, chúng ta thấy:
Một là, 74,6% xã viên có mục đích được nhận khoán đất khi vào HTX vì ruộng đất
là tư liệu sản xuất chủ yếu, vào HTX là có đất để sản xuất, tạo miếng cơm manh áo, đây
chính là yếu tố quan trọng nhất.
Hai là, có khá đông xã viên (60,2%) muốn vào HTX với mục đích là để ủng hộ
HTX. Đây cũng là suy nghĩ và tình cảm của nhiều xã viên bởi vì dầu sao họ cũng đã tham
gia HTX từ nhiều năm nay, ở trong HTX họ không bị thiệt thòi, mất mát gì, ngược lại họ
còn được thụ hưởng những mặt tích cực khác do HTX đem lại như: chuyển giao KHKT,
phúc lợi... thêm tình làng nghĩa xóm.
Ba là, có 61,4% xã viên vào HTX là để có việc làm, điều đó khẳng định sự cần
thiết phải có công ăn việc làm cho người nông dân. Số xã viên này hầu hết đã lớn tuổi, họ
chỉ biết làm ruộng và suốt đời gắn bó với
đồng ruộng.
Bốn là, 48% xã viên có nguyện vọng được tiêu thụ sản phẩm. Tỷ lệ này khá thấp
so với các mục đích, nguyện vọng khác. Điều đó có thể được lý giải như sau: Đứng về mặt
lý luận và thực tiễn sản xuất trong cơ chế thị trường thì người nông dân đang cần có sự
hợp tác với nhau để giải quyết những khó khăn về vật tư, giống, vốn, kỹ thuật... nhất là về
vấn đề tiêu thụ sản phẩm để tạo sức mạnh trên thị trường...Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng
với các xã viên vùng ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện nay chỉ mới đúng một nửa -
bởi vì, hầu hết quy mô sản xuất của xã viên nhỏ, đa phần là nông dân nghèo, dựa vào đất
khoán.. Do đó họ mới chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu cuộc sống gia đình: cái ăn, cái mặc.
Trước mắt chưa có điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa. Vì thế, việc tiêu thụ sản
phẩm tập trung, ổn định chưa bức bách đối với họ. Điều họ cần là được giúp đỡ đầu vào để
ổn định sản xuất trước đã. Khi có tích lũy, mở rộng sản xuất thì họ mới có nguyện vọng
giải quyết đầu ra cho sản phẩm của họ. Thực sự họ chưa thấy ở hợp tác xã có khả năng,
cũng như bản thân họ chưa có điều kiện để hai bên ký kết "chuyển mình" mở rộng sản xuất
- kinh doanh làm giàu...
Năm là, đối với các hợp tác xã chăn nuôi bò sữa mới thành lập thì cả mục đích và
nguyện vọng của xã viên vào hợp tác xã là để được phục vụ đầu vào. Điều đó phù hợp với
thực tế của các gia đình chăn nuôi bò sữa. Bởi vì, hiện tại đầu ra của con bò sữa là ổn định
nhất so với sản xuất các cây, con khác. Một khi đầu ra đã được giải quyết cơ bản rồi thì
yếu tố cần thiết là phải giải quyết tốt đầu vào. Làm được điều đó sẽ thúc đẩy được chăn
nuôi bò sữa phát triển, góp phần ổn định, nâng cao đời sống xã viên.
2.3.3. Về hoạt động sản xuất kinh doanh
9/12 HTX nông nghiệp hiện nay của các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh đều có hoạt động dịch vụ hỗ trợ. Cụ thể là:
- 5 HTX có dịch vụ về thủy lợi. Đây là số HTX có đất đai nằm ở vùng bưng; giáp
rạch, sông ngòi. Các HTX này thường xuyên đầu tư vốn, công lao động xã viên hoặc nhận
vốn của chính quyền để thi công các công việc về nạo vét kênh mương, lỗ cống kênh nội
đồng... nhằm chống ngập úng, hạn chế phèn mặn. Xã viên không phải đóng góp thủy lợi
phí, chỉ tham gia công lao động.
- 3 HTX làm dịch vụ về bảo vệ thực vật. Các HTX này thường tổ chức thăm đồng,
phát hiện sâu bệnh hoặc thực hiện chống dịch bệnh, hướng dẫn kỹ thuật sử dụng thuốc và
phun xịt thuốc... Khi thu hoạch xã viên sẽ hoàn trả lại tiền vật tư, HTX không thu phí bảo
vệ thực vật của xã viên.
- 3 HTX làm dịch vụ chăn nuôi thú y. HTX hướng dẫn bà con kỹ thuật chăn nuôi,
phòng bệnh gia súc và chữa những bệnh đơn giản, hướng dẫn cách dùng thuốc, vệ sinh
chuồng trại, vệ sinh vắt sữa, đào cán bộ truyền giống...
- 2 HTX làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, tiêu thụ sữa bò. HTX kết hợp với việc
hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, hướng dẫn vệ sinh cho bò sữa và thu mua sữa bò do dân sản
xuất. Khi HTX làm dịch vụ tiêu thụ thì thanh toán tiền tương đối nhanh, không có tình
trạng gây khó, ép chất lượng sữa, ép giá... Hoạt động dịch vụ trung chuyển sữa của HTX
đã làm cho nông dân yên tâm về đầu ra, tập trung phát triển đàn bò sữa, tạo hiệu quả cao
trong sản xuất.
2.3.4. Về bộ máy quản lý
Từ khi đổi mới, việc tổ chức bộ máy quản lý HTX có những đặc điểm mới:
- So với trước, bộ máy gọn nhẹ hơn, trình độ cán bộ được nâng cao hơn và định kỳ
được bồi dưỡng nghiệp vụ. Trong 11 HTX, thường Ban quản trị có 2 người, có trình độ đại
học, một số có trình độ cấp 2, cấp 3 (15 người).
- Cán bộ do xã viên bầu chọn theo nguyên tắc dân chủ. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp có sự can thiệp sâu của chính quyền. Trong những trường hợp này, có trường hợp
không được xã viên tín nhiệm.
2.3.5. Về hiệu quả kinh tế - xã hội
- Về hiệu quả kinh tế:
Qua khảo sát thực tế về thực trạng KTHT ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ
Chí Minh - xét về mặt hiệu quả kinh tế - thì các mô hình KTHT còn rất hạn chế. Do quy
mô HTX nhỏ, xã viên còn nghèo, do đó nguồn lực để phát triển sản xuất - kinh doanh rất
hạn hẹp. Các HTX nông nghiệp chủ yếu mới giải quyết được một số hoạt động dịch vụ hỗ
trợ cho xã viên. Các hoạt động sản xuất kinh doanh khác còn rất nhỏ bé với mong muốn có
một phần chi phí để trang trải cho khối văn phòng, đó là chưa nói đến một số hợp tác xã cơ
bản sống được là nhờ tiền cho thuê mặt bằng, tiền lãi gửi tiết kiệm hoặc đang chờ giải
thể... Hợp tác xã dịch vụ sản xuất bò sữa Xuân Lộc (huyện Hóc Môn) là ví dụ: Đây là một
hợp tác xã làm ăn căn cơ, có hướng phát triển hiện đang kinh doanh khá nhưng qua hai
năm hoạt động (1998 1999) kết quả đạt được như sau:
Bảng 6:
Năm Doanh thu Chi Phí Lãi
Các Quỹ
Chia lãi
vốn góp
XV
Quỹ tích
lũy PTSX
1998 346.648.32
3
333.496.44
1
13.151.882 5.260.752 2.760.000
1999 561.261.65
3
549.353.57
5
11.908.078 4.763.231 2.581.198
Từ số liệu trên chúng ta thấy rằng: Hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã
chỉ mới đóng được thuế, chưa có lãi nhiều. Do đó, chưa thể tích lũy và hình thành các dạng
quỹ để đầu tư cho phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ ...
Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động của các mô hình kinh tế hợp tác đã có
những tác dụng tích cực, thúc đẩy sản xuất phát triển thông qua các hoạt động dịch vụ hỗ
trợ về kỹ thuật, về vốn... Đó là những thành quả mà thực tế không thể chối cãi được.
- Về hiệu quả xã hội:
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, kinh tế hợp tác cũng tạo ra những hiệu quả xã hội trên
các mặt:
- Qua hình thức hỗ trợ, kinh tế hợp tác đã tạo tâm lý ổn định, yên tâm sản xuất cho
hàng ngàn xã viên mà đại đa số là những nông dân
nghèo. Thông qua việc giúp đỡ nông dân sản xuất mà góp phần xóa đói giảm nghèo.
- Góp phần chăm lo cuộc sống cho người nông dân đặc biệt là xã viên của các hợp
tác xã. Như vậy, xã viên vừa được sự quan tâm, chăm lo chung của chính quyền như
những người dân khác, vừa được hưởng sự chăm sóc của hợp tác xã.
- Góp phần gìn giữ an ninh, trật tự trên địa bàn.
Tóm lại: Nhu cầu hợp tác của nông dân để phát triển sản xuất là có thực, là tất yếu
của quá trình phát triển sản xuất hàng hóa. Đó là một yêu cầu khách quan. Nếu không hợp
tác để cùng hỗ trợ nhau giải quyết những khó khăn trong sản xuất thì tự người nông dân
vốn đã đơn lẻ lại càng bất lực hơn trước những khó khăn liên tiếp mà họ phải hứng chịu
trong quá trình sản xuất, nhất là việc giải quyết đầu vào và đầu ra. Nếu người nông dân
không được giúp đỡ giải quyết những vấn đề đó, chắc chắn họ sẽ bị lỗ và phá sản trong
điều kiện khắc nghiệt của kinh tế thị trường. Vì vậy, để tồn tại và phát triển người nông
dân phải hợp tác kinh tế, hợp tác là vấn đề cần thiết, cấp bách của nông dân nói chung và
nông dân ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Tuy nhiên, kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, nhìn chung chưa
phát triển, còn hạn chế. Với một vùng ngoại thành có đất đai rộng lớn (1.653,7 km2), đa
dạng (có đồng bằng, có ven biển...), lại có dân cư đông (917.933 người), nhất là, là một
vành đai cho một thành phố dân cư đông nhất nước, mà mới chỉ có 12 HTX dịch vụ nông
nghiệp là quá ít. Nguyên nhân là:
Thứ nhất: Đã một thời gian dài, hợp tác xã nông nghiệp bị lãng quên. Vị đắng của
hợp tác xã cũ vẫn còn đọng trong mỗi người dân, thậm chí trong các hộ. Vì vậy, mỗi khi
có ai đề cập đến hợp tác xã là mọi người hình dung ngay kiểu "đánh kẻng chấm công";
"cha chung không ai khóc"; "tập thể hóa tư liệu sản xuất"...
Mặc dù đã có Luật hợp tác xã làm cơ sở cho HTX kiểu mới, nhưng công tác tuyên
truyền cho các hộ nông dân chưa sâu rộng, ảnh hưởng đến nhận thức về kinh tế hợp tác
của người dân. Do đó, Luật hợp tác xã và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà
nước chưa đến được với người dân. Hơn nữa, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương
cũng còn thiếu quan tâm đẩy mạnh công tác này.
Thứ hai: Các mô hình kinh tế hợp tác ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay mà hợp tác xã là nòng cốt, tuy đã qua một thời gian dài tự mày mò, tự chuyển đổi, tìm
hướng đi cho mình, nhưng các hợp tác xã vẫn chưa tránh khỏi những quan niệm cũ. Cách
làm việc, quản lý, việc xác định trách nhiệm với xã viên, tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ
của nhà nước... vẫn còn đè nặng trong ý thức của cả HTX và của mỗi hộ - xã viên.
Vì thế, có một thực trạng là: Những hợp tác xã cũ chuyển đổi chưa thực sự thoát
thai cái cũ, trong khi cái mới tuy đã xuất hiện nhưng chưa đủ điều kiện để khẳng định
mình.
Thứ ba: Cơ chế chính sách chưa thật sự khuyến khích, tạo điều kiện để thúc đẩy
kinh tế hợp tác phát triển. Mặt khác, việc triển khai lại chậm chạp, thiếu sáng tạo, không
kịp thời tháo gỡ khó khăn, đề xuất các ý kiến để có những chính sách phù hợp.
Thứ tư: Kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện đang gặp khó
khăn về nhiều mặt: vốn ít, trang thiết bị nghèo nàn lạc hậu, lao động có sức khỏe, tay nghề
kỹ thuật cao thiếu. Vì vậy, kinh tế hợp tác và hợp tác xã cứ quanh quẩn trong khuôn viên
ấp, xã của mình thì không thể mở rộng tầm hoạt động được.
Thứ năm: Trình độ năng lực của cán bộ hợp tác xã hiện nay hết sức hạn chế, sự
nhanh nhạy, năng động, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm quản lý trong cơ chế thị trường
và cả mối quan hệ trên thương trường...
Có hai hiện tượng đáng lo ngại: Một là, việc lao động nông nghiệp trẻ có trình độ
bỏ nông nghiệp để đi tìm những việc khác có thu nhập cao hơn. ở nông thôn chỉ còn lại
những người già, những người hạn chế về trình độ. Hai là, đất nông nghiệp ngày càng bị
giảm do quá trình đô thị hóa tăng lên làm hao tổn các nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh
tế hợp tác.
Thứ sáu: Kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong thời gian qua chưa được sự hỗ trợ
của kinh tế nhà nước, và các thành phần kinh tế khác chưa có sự liên kết chặt chẽ với các
thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng, cả hai cùng có lợi. Đây là một nguyên nhân góp
phần tác động làm cho kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại thành chậm được phát triển trong
thời gian qua.
Chương 3
phương Hướng Và những Giải Pháp
Phát Triển KINH Tế Hợp Tác trong NÔNG Nghiệp
ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
3.1. PHƯƠNG hướng phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp Ngoại Thành
Thành phố Hồ Chí Minh THEO TƯ DUY Mới
3.1.1. Phát triển kinh tế hợp tác phải phù hợp với hình thức, mức độ yêu cầu
cấp thiết của hộ nông dân
Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là một tất yếu khách quan,
nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của người lao động. Các huyện ngoại thành thành phố
Hồ Chí Minh là nơi sản xuất nông nghiệp với nhiều vùng, nhiều cây, con khác nhau. Nhu
cầu phát triển kinh tế hàng hóa đòi hỏi phải phát triển kinh tế hợp tác khác nhau tùy từng
vùng khác nhau vì hoạt động của các đơn vị kinh tế hợp tác chỉ tập trung vào những khâu,
những lĩnh vực đòi hỏi phải có sự hợp tác, liên kết nhau nhằm giúp đỡ các hộ tiến hành sản
xuất có hiệu quả hơn.
Chính việc xác định rõ yêu cầu của từng vùng, đặc điểm sản xuất, tập quán của
nhân dân - cũng như việc điều tra tình hình cụ thể để xác định nông dân cần hợp tác ở mức
độ nào, với hình thức nào là một vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế hợp
tác phát triển, góp phần làm giàu cho người lao động, làm giàu cho xã hội.
3.1.2. Phát triển kinh tế hợp tác phải mang lại hiệu quả kinh tế và phải có sự
tác động, hỗ trợ của nhà nước
Thực tiễn của quá trình đổi mới kinh tế hợp tác cho thấy rằng: Kinh tế hộ chỉ có
thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường khi tham gia vào các tổ chức kinh tế
hợp tác đa dạng. Chính sự cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường buộc các hộ nông dân
phải liên kết lại để nhân sức mạnh của mình lên. Trong quá trình hoạt động, các đơn vị
kinh tế hợp tác chỉ tồn tại và phát triển khi mang lại lợi ích thiết thực cho các thành viên
tham gia hợp tác.
Nhưng để có được ưu thế trong cạnh tranh, trước hết các hộ xã viên phải nỗ lực để
tạo ra một sức mạnh của chính mình, ngoài ra các tổ chức kinh tế hợp tác phải được sự tác
động, giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước. Thiếu sự giúp đỡ của Nhà nước, các HTX sẽ gặp rất
nhiều khó khăn về vốn, về khoa học công nghệ, về thị trường tiêu thụ và về cán bộ. Sự
giúp đỡ của Nhà nước trên các mặt này là yếu tố quan trọng, nếu không nói là quyết định
cho sự thành công của phong trào kinh tế hợp tác. V.I.Lênin đã chỉ rằng: "Mỗi chế độ xã
hội chỉ nảy sinh ra nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính... Trong
lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta phải ủng hộ hơn hết là chế độ hợp tác xã" [18, 423].
3.1.3. Phát triển kinh tế hợp tác phải trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc hợp
tác hóa
Các hợp tác xã là những tổ chức kinh tế tự nguyện của các hộ xã viên. Thực tiễn
hoạt động của những tổ chức này vừa qua đã chứng minh: muốn tổ chức thành công và
hoạt động có hiệu quả thì trong quá trình chỉ đạo thực tiễn cần phải có phương châm,
phương pháp và đặc biệt là phải thực hiện đúng các yêu cầu các nguyên tắc hợp tác hóa.
Điều 7 của Luật hợp tác xã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 23/3/96 và có hiệu lực bắt đầu từ 1/1/1997 đã qui định 5 nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của hợp tác xã:
Một là: Nguyên tắc tự nguyện gia nhập hợp tác xã.
Đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất của quá trình hình thành và phát triển của
hợp tác xã. V.I.Lênin đã nói rằng: "ở đây mà dùng bạo lực có nghĩa là làm nguy hại đến
toàn bộ sự nghiệp... điều cần làm là công tác giáo dục lâu dài và không bao giờ được dùng
mệnh lệnh" [17, 242-243]. C. Mác và Ph.Ăngghen đã từng nhắc nhở: cần phải để cho
người nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ.
Hai là: Nguyên tắc quản lý dân chủ.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải coi xã viên là người trực tiếp tham
gia quản lý đối với những hoạt động của hợp tác xã. Bác Hồ luôn nhấn mạnh: quản lý phải
thật dân chủ, tài chính phải công khai, sổ sách phải thật minh bạch.
Ba là: Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
Hợp tác xã tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tự quyết
định về phân phối thu nhập trên cơ sở hợp tác xã và xã viên cùng có lợi. HTX phải đặc biệt
quan tâm coi trọng lợi ích của các thành viên vì đây chính là động lực trực tiếp thúc đẩy
nông dân tự nguyện, tự giác tham gia vào tổ chức kinh tế hợp tác.
Bốn là: Nguyên tắc chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển
của hợp tác xã.
Nội dung của nguyên tắc này qui định hợp tác xã sau khi làm nghĩa vụ nộp thuế,
phần lãi còn lại sẽ được chia như sau: Trích một phần để tích lũy cho hợp tác xã, một phần
được chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên
theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã do đại hội xã viên quyết định.
Năm là: Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng.
Theo nguyên tắc này, HTX phải động viên xã viên phát huy tinh thần tập thể, nâng
cao ý thức hợp tác trong hợp tác xã và trong cộng đồng xã hội; khuyến khích hợp tác giữa
các hợp tác với nhau; giữa hợp tác xã với các thành phần kinh tế khác.
3.1.4. Phát triển kinh tế hợp tác phải phù hợp với điều kiện, tiềm năng, đặc
điểm của vùng ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
Như trên đã nêu, ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh có nhiều điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng, có vị trí là vành đai cho thành phố đông dân
nên kinh tế hợp tác cần phù hợp và phát huy được các điều kiện thuận lợi đó. Từ thực tiễn
nêu ở phần trên, theo chúng tôi, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX ở ngoại thành thành
phố Hồ Chí Minh nên là:
- Phát triển các đơn vị hợp tác trong các ngành nông nghiệp có tính chất cao cấp
như: trồng rau sạch, rau cao cấp, nuôi trồng cây, con cảnh. chăn nuôi gia súc, gia cầm theo
lối công nghiệp để lấy thịt, trứng, sữa.
- Kinh tế hợp tác thực hiện các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho các nông hộ
như dịch vụ kỹ thuật canh tác, dịch vụ vốn, dịch vụ đầu vào và dịch vụ bao tiêu đầu ra...
- Kinh tế hợp tác phải đa dạng về hình thức, có loại hợp tác "lỏng" với nhiều loại
hình tổ hợp tác, có loại là HTX cổ phần chặt chẽ.
3.2. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ lợi thế là các huyện ngoại thành của một trung tâm thành phố (như đã
trình bày ở chương 2), trong quá trình lãnh đạo Đảng bộ thành phố đã nhận thức được vị
trí vai trò quan trọng của việc phát triển kinh tế nói chung cũng như việc phát triển kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp nói riêng. Vì vậy, trong quá trình chỉ đạo thực tiễn lãnh đạo
thành phố luôn chú ý tập trung việc phát triển kinh tế hợp tác ở khu vực ngoại thành nhằm
đẩy mạnh sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân, góp phần nâng cao
đời sống và từng bước xây dựng nông thôn mới. Việc chỉ đạo triển khai Luật hợp tác xã và
các chủ trương chính sách của Đảng trong lĩnh vực nông nghiệp, đã được lãnh đạo thành
phố chú trọng. Với sự cố gắng của các cấp thành phố đã đạt được một số kết quả song vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng nông nghiệp của các huyện ngoại thành, sự đầu tư của nhà
nước và nhân dân. Do đó, để đưa nông nghiệp ở ngoại thành phát triển đạt được mức tăng
trưởng cao, đi đôi với tăng cường phúc lợi xã hội, nhằm đưa sự nghiệp văn hóa, xã hội,
giáo dục, y tế phát triển một bước mới trong thời gian tới, cần phải thực hiện một số giải
pháp chủ yếu để phát triển kinh tế hợp tác.
3.2.1. Tổ chức định hướng, điều chỉnh nhu cầu hiệp tác, từng bước tạo lập
hoàn thiện những điều kiện cho quá trình hình thành, củng cố kinh tế hợp tác
Nền tảng cho sự hình thành, phát triển các mô hình hợp tác là nhu cầu hiệp tác sản
xuất của các hộ, các đơn vị. Do vậy mức độ, nội dung, nhu cầu cũng như trình độ thỏa mãn
các nhu cầu hiệp tác quyết định khả năng phát triển các hình thức hợp tác và nhu cầu hiệp
tác của các hộ là điều kiện cần cho việc ra đời, củng cố, phát triển các đơn vị hợp tác.
Thực tế quá trình hợp tác hóa nông nghiệp ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
cho thấy, nhu cầu, động cơ tham gia hợp tác rất phức tạp như phần thực trạng đã nêu. Có
những nhu cầu không đúng với nội dung,trở thành nhu cầu sai lạc và từ đó,việc tham gia
vào hợp tác xã chỉ để thực hiện một mục đích nào khác (như được phân đất) và các HTX
được xây dựng trên nền tảng này sẽ không thể đứng vững. Trong những trường hợp khác,
mức độ nhu cầu chưa đủ lớn, chưa đủ tạo động lực để mọi người quan tâm, tha thiết với
HTX, do vậy, HTX chưa có cơ hội phát triển, phát huy vai trò mặc dù có chính sách đúng.
Để kinh tế hợp tác phát triển theo mục tiêu chất lượng, hiệu quả, thực hiện đúng
vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cần giải quyết một vấn đề căn bản:
Định hướng, điều chỉnh nhu cầu hợp tác cho đúng với yêu cầu, qui luật để từ đó, tạo động
lực nền tảng phát triển hệ thống kinh tế hợp tác.
Sự hình thành, phát triển các hình thức hợp tác không chỉ dựa trên nền tảng nhu
cầu hợp tác sản xuất, chuyển hóa nó thành nhu cầu tham gia các hình thức hợp tác mà còn
dựa vào những điều kiện về tinh thần, vật chất nhất định.
Việc có điều kiện tinh thần xuất phát từ đặc điểm của nông dân Việt Nam nói
chung, thành phố nói riêng. Trước đây, việc vận động nhân dân tham gia hợp tác xã dựa
trên lòng yêu nước thì ngày nay dựa trên cơ sở lòng tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên
tham gia. Đây là tính đặc thù về mặt tâm lý còn tồn tại của nông dân ngoại thành: đa số
mọi người rất ngại thực hiện quan hệ hiệp tác, tham gia vào tổ chức hiệp tác với những
người chưa hiểu, chưa tin. Do đó lòng tin dựa trên cơ sở thân tộc, xóm giềng, bằng hữu
chiếm vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo sự tồn tại của hợp tác. Có sự tin cậy lẫn nhau,
mỗi người sẽ đem hết tiềm năng của mình cống hiến cho sự nghiệp của đơn vị hợp tác mà
không cần so sánh. Đây là đặc tính Nam bộ cần phát huy. Ngược lại, nếu không tin nhau
thì việc tham gia hợp tác xã chỉ là hình thức, không có động lực. Như vậy sự tin nhau đã
tạo động lực tinh thần cho sự hình thành các quan hệ hợp tác và đặc biệt, nối kết các thành
viên tham gia để tạo sức mạnh, tiềm lực cho hoạt động hợp tác.
Điều kiện vật chất lại có những nội dung vật chất cụ thể phù hợp
với yêu cầu tổ chức hoạt động của các hợp tác xã trên các lĩnh vực khác nhau. Đó là các
điều kiện về vốn, tài sản, thiết bị, trình độ khoa học - công nghệ v.v... Đây là các yếu tố
đầu vào để đảm bảo hoạt động của hợp tác xã với tính cách là thực thể kinh tế, doanh
nghiệp. Trong thực tế, điều kiện vật chất do các chủ thể tham gia xây dựng ban đầu và
được phát triển qua quá trình hoạt động. Tuy nhiên, vai trò của các tổ chức tín dụng, các
đơn vị thương mại, kỹ thuật cũng rất quan trọng ở các nội dung hỗ trợ vật chất hoặc cung
cấp thông tin để hoàn thiện hơn điều kiện vật chất. Đó là hoạt động hỗ trợ nhằm tạo động
lực vật chất cho quá trình phát triển hợp tác xã mà nhà nước phải thực hiện.
Để thực hiện nội dung định hướng, điều chỉnh nhu cầu hiệp tác, hoàn thiện những
điều kiện cho quá trình hình thành, củng cố kinh tế hợp tác cần thực hiện các giải pháp:
- Tăng cường công tác giáo dục truyền thống về kinh tế hợp tác để mọi đối tượng
hiểu rõ hơn về mô hình pháp lý hợp tác xã, xác định đúng vai trò thực sự của hợp tác xã;
những nhiệm vụ, quyền lợi mà mỗi thành viên tham gia. Thông qua đó tạo điều kiện cho
mọi người chủ động được hoạt động của mình trong quá trình tham gia hợp tác xã.
- Phát triển các hoạt động hỗ trợ để tăng qui mô, hiệu quả sản xuất của kinh tế hộ,
tạo tiền để cho việc hình thành các nhu cầu hiệp tác. Nâng qui mô hoạt động của các hộ đủ
lớn để hình thành nhu cầu hiệp tác trong quan hệ chuyên môn hóa và phụ thuộc vào các
yếu tố: thị trường, tiềm năng tài chính v.v... Như vậy giải pháp để thực hiện vấn đề này
chính là các giải pháp để phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại.
- Tuyên truyền, nhân rộng các mô hình h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và giải pháp (2).pdf