Luận văn Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay

Tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay Phần mở đầu Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Đặc điểm kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay đang cố gắng không ngừng để tìm kiếm xây dựng những mô hình thể chế kinh tế thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao trong đó mô hình có sự kết hợp kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là cốt lõi. ở nước ta sau một thời gian duy trì nền kinh tế tập trung cao đã thấy xuất hiện những mặt không phù hợp của nó. Sau Đại hội VI (1986), Đảng và nhà nước ta mở ra con đường XHCN của đất nước bằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Sau khi có chính sách đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu và bước đầu có ý nghĩa rất lớn nhưng hiện nay chúng ta đang đứng trước những khó khăn t...

pdf40 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1068 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay Phần mở đầu Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Đặc điểm kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay đang cố gắng không ngừng để tìm kiếm xây dựng những mô hình thể chế kinh tế thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao trong đó mô hình có sự kết hợp kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là cốt lõi. ở nước ta sau một thời gian duy trì nền kinh tế tập trung cao đã thấy xuất hiện những mặt không phù hợp của nó. Sau Đại hội VI (1986), Đảng và nhà nước ta mở ra con đường XHCN của đất nước bằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Sau khi có chính sách đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu và bước đầu có ý nghĩa rất lớn nhưng hiện nay chúng ta đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn, cái cũ và cái mới đan xen nhau triệt tiêu lẫn nhau. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho cái mới cái tiến bộ thay thế cái cũ nhưng không có nghĩa là phủ định hoàn toàn cái cũ, nhận thức được điều này em đã chọn đề tài “ Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay” làm đề tài cho tiểu luận của mình để qua việc tìm tài liệu nghiên cứu đề tài nâng cao hiểu biết của mình về kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, giúp cho em trong quá trình học tập tại trường và hiểu biết thêm về hiện trạng của đất nước để sau khi ra trường có thể góp một phần công sức của mình xây dựng đất nước giàu đẹp. Nội dung I. Cơ sở lí luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH nói chung. 1/ Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự phát sinh phát triển của sản xuất hàng hoá: a/ Sự ra đời của sản xuất hàng hoá: Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải quyết vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ sản xuất mà trong đó sản phẩm của người lao động làm ra được dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho nội bộ gia đình, từng công xã hay từng cá thể riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp còn được gọi là sản xuất tự cấp tự túc hoặc kinh tế tự nhiên. Đây là kiểu tổ chức sản xuất khép kín nên nó thường gắn với bảo thủ trì trệ, nhu cầu thấp, kỹ thuật thô sơ, lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại ở các giai đoạn phát triển thấp của xã hội( công xã nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến ) ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tự nhiên vẫn còn tồn tại ở vùng sâu vùng xa vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động xã hội được mở rộng thì dần xuất hiện trao đổi hàng hoá khi trao đổi hàng hoá trở thành mục đích thường xuyên của sản xuất hàng hoá thì lúc đó sản xuất hàng hoá ra đời. Sản xuất hàng hoá : là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi để bán trên thị trường, sản phẩm ở đây không phải là sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu nội bộ của người sản xuất mà sản xuất ra để trao đổi. Cơ sở kinh tế- xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này và người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Phân công lao động là việc phân chia người sản xuất vào các ngành nghề khác nhau của xã hội hoặc nói cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất. Do chuyên môn hoá nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm nhất định.Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mọi người đều có nhiều loại sản phẩm vì vậy họ đòi hỏi phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau, phân công lao động là điều kiện của sản xuất hàng hoá. Điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do các quan hệ khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất làm họ tách biệt nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau, sản phẩm lao động đây trở thành hàng hoá. Khi sản phẩm lao động xã hội trở thành hàng hoá thì người sản xuất trở thành người sản xuất hàng hoá, lao động của người sản xuất hàng hoá vùa có tính chất xã hội vừa có tính chất tư nhân cá biệt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá thể hiện ở chỗ do phân công lao động xã hội nên sản phẩm lao động của người này trở nên cần thiết cho người khác, cần cho xã hội. Tinh chất tư nhân cá biệt thể hiện ở chỗ sản xuất ra cái gì bằng công cụ nào, phân phối cho ai là công việc cá nhân của chủ sở hữu tư liệu sản xuất, do họ định đoạt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá chỉ được thưà nhận khi họ tìm được người mua trên thị trường và bán đưọc hàng hoá do họ sản xuất ra. Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sở hữu thống nhất giữa hai mặt đối lập là tính chất xã hội và tính chất cá biệt của lao động. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất cá biệt của lao động sản xuất hàng hoá là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Những mâu thuẫn này được giải quyết trên thị trường , đồng thời nó được tạo ra một cách liên tục thường xuyên với tư cách là mâu thuẫn của nền kinh tế hàng hoá nói chung. Chính mâu thuẫn này là nguyên nhân kinh tế của khủng hoảng sản xuất thừa. Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử sở hữu lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hoá giản đơn dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản. b/ Hàng hoá: + Hàng hoá là vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và được sản xuất ra để bán Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.Trong đó giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Hai thuộc tính này là 2 mặt đối lập cùng tồn tại trong hàng hoá, cũng từ hai thuộc tính này mà lao động sản xuất hàng hoá mang tính hai mặt lao động cụ thể là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Giá trị và giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng là những công dụng khác nhau của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của nó mang lại. Giá trị sử dụng của vật phẩm được thể hiện ra khi ta mang tiêu dùng chúng. Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng phát triển dần dần người ta tìm thấy thêm được nhiều thuộc tính có ích. Giá trị sử dụng của hàng hoá rất phong phú, vừa thả mãn nhu cầu về vất chất vừa thoả mãn nhu cầu về mặt tinh thần. Nó là một phạm trù vĩnh viễn, nhưng trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị hàng hoá là một phạm trù rất trừu tượng vì nó là thuộc tính xã hội của hàng hoá và muốn tìm hiểu được giá trị hàng hoá ta phải xuất phát từ việc nghiên cứu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà một giá trị sử dụng này trao đổi với một giá trị sử dụng khác Ví dụ : 1 rìu = 20 kg thóc hai hàng hoá có công dụng khác nhau mà có thể trao đổi cho nhau là do chúng có chung một thuộc tính chung duy nhất, chúng đều là sản phẩm của lao động của con người. + Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá Lao dộng cụ thể là lao động được tiến hành dưới một hình thức nhất định, có mục đích, phương pháp hoạt động đối tượng và kết quả riêng biệt Mỗi loại lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định có bao nhiêu loại sản phẩm hàng hoá thì có bấy nhiêu loại lao động cụ thể khác nhau, các loại lao động đó hợp thành hệ thống phân công lao động ở từng quốc gia. Xã hội càng phát triển thì phân công lao động càng cao. Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn nó tạo ra giá trị sử dụng cho hàng hoá Lao động trừu tượng : Đó là hao phí lao động nói chung của người sản xuất hàng hoá ( hao phí thần kinh và cơ bắp ). Khi có những lao động nào sản xuất ra hàng hoá thì mới quy thành lao động trừu tượng. Không phải có hai lao động cùng kết tinh trong một hàng hoá mà là lao động mang tính chất hai mặt. + Thời gian lao động xã hội cần thiết Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để làm ra 1 hàng hoá trong những điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ khéo léo trung bình, cường độ lao động trung bình của người sản xuất. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá có xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất mà họ cung cấp một hàng hoá nào đó trên thị trường. Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết là năng suất lao động và cường độ lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động hay sức sản xuất của lao động. Luồng giá trị của hàng hoá thay đổi theo tỉ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Cường độ lao động là mức tiêu hao về lao động trong một đơn vị lao động. Nó cho biết mức độ khẩn trương của lao động. + Lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là sự tiêu hao sức lực giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hành được để làm ra hàng hoá. Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi đào tạo tỉ mỷ công phu và có sức khéo léo, tài nghệ, phải có sự tích luỹ lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp sáng tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. + Thị trường và cơ chế thị trường Thị trường là một hình thức trao đổi hàng hoá mà trong đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá làm ra. Thị trường thường gắn với một địa điểm cụ thể nhất định như chợ, cửa hàng, văn phòng giao dịch… Thị trường đầu ra bao gồm : lương thực thực phẩm và những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được giải quyết thông qua thị trường ( mua bán và trao đổi hàng hoá ). Cơ chế thị trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người tiêu dùng thường tác động qua lại lẫn nhau để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: Sản xuất cho ai, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào. Trong thị trường có 3 yếu tố chính : hàng hoá, tiền tệ, người mua bán, . Động lực hoạt động của con người trong cơ chế thị trường là lợi nhuận, nó bị chi phối bởi một số quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. c/ Kinh tế hàng hoá: Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán trên thị trường. Kinh tế hàng hoá đối lập với kinh tế tự nhiên và kinh tế chỉ huy, khi sản xuất hàng hoá lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng đồi dào phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu ngày càng đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. ở đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta, cần đẩy mạnh và chú trọng phát triển các loại thị trường. Quá trình chuyển đổi ở nước ta cần phải từng bước hình thành thị trường thống nhất thông suốt cả nước. Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn tiền tệ… Cần phải mở rộng giao lưu hàng hoá, phát triển thị trường trong nước chú trọng nông thôn, miền núi xoá bỏ triệt để mọi hình thức chia thị trường theo địa giới hành chính. Đồng thời gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các chính sách khuyến khích sản xuất nội địa để phát triển mạnh mẽ thị trường nước ta hội nhập với thị trường khu vực và thế giới. ở nước ta kinh tế hàng hoá mà Đảng chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH là “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước” + Ưu thế của sản xuất hàng hoá Lịch sử phát triển của xã hội là từ sản xuất tự cấp tự túc tiến lên sản xuất hàng hoá. So với nền sản xuất tự cấp tự túc thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt - Thứ nhất : nền sản xuất tự cấp tự túc là nền sản xuất khép kín làm cho nền sản xuất bị hạn chế không phát triển, mặt khác sản xuất hàng hoá là sản xuất ra hàng hoá để đem đi bán nên nhu cầu là rất lớn và không ngừng tăng lên bởi vậy nó là động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển. - Thứ hai : nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc không có sự thay đổi kỹ thuật và phát triển, hơn nữa những nguồn tự nhiên thì bị sử dụng một cách rất lãng phí. Còn môi trường họat động cuả sản xuất hàng hoá là một môi trường cạnh tranh gay gắt, quy mô sản xuất lớn, nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, điều này buộc các nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, linh động trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên trái với sản xuất tự cấp tự túc. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội - Thứ ba : đối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản phẩm ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng với nhau đời sống vật chất, văn hoá tinh thần nghèo nàn thấp kém, không có sự giao lưu, trao đổi văn hoá giữa các vùng. Nhưng sản xuất hàng hoá đã khắc phục được tình trạng này, do sản xuất hàng hoá phát triển với vai trò động lực của nhu cầu nên giao lưu văn hoá kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân đều được nâng cao ngày càng phong phú đa dạng, tạo điều kiện cho phát triển độc lập, tự do, bình đẳng của mỗi cá nhân - Thứ tư : nền sản xuất tự cấp tự túc thấp kém đã cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hoá các ngành sản xuất làm cho các ngành sản xuất ngày càng được chuyên môn hoá và phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao. Trên thế giới hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển vô cùng nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử. + Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kì quá độ Ta thấy rằng, từ khi CNXH ra đời và phát triển như một hệ thống thế giới cho đến trước thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tài tranh luận trong giới nghiên cứu lý luận macxít. Nhìn chung về phương diện lý luận quan điểm chính thống chi phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm kinh tế XHCN là nền kinh tế phát triển theo quy luật cân đối và có kế hoạch cùng với các quy luật kinh tế đặc thù khác của CNXH. Nhà nước có vai trò chủ yếu trong quá trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm mà không cần đến những trao đổi hàng hoá trên thị trường. Kinh tế hàng hoá bị coi nhẹ được coi là đặc trưng riêng của CNTB cần phải được hạn chế và đi tới xoá bỏ. Nhưng trên thực tế chính diều đó là nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ, làm kìm hãm đưa một số nền kinh tế của các quốc gia XHCN đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực tế trên quan điểm cho rằng “ sản xuất hàng hoá là đặc trưng riêng của CHTB” là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo Các Mác sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bởi vậy sản xuất hàng hoá tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì: - Thứ nhất : khi mà phân công lao động xã hội phát triển cao kéo theo chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó nảy sinh thêm những mối quan hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội. - Thứ hai: đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt độc lập với nhau nhưng họ đều nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Do đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuợc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hoá tức là phải có sản xuất hàng hoá. - Thứ ba : quan hệ hàng hoá tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng nó vẫn có sự tách biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cạnh tranh hay hiệp tác với nhau, nó còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, về hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến có sự khác biệt nhau về lợi ích kinh tế, chúng ta không thể dùng phương pháp bình quân san bằng ở đây được. - Thứ tư : sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ còn chính là điều kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước trên thế giới bởi vì mỗi nước vẫn còn là một quốc gia riêng biệt là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hoá. Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng hoá tồn tại là một tất yếu cần thiết không thể cưỡng lại được và không thể dùng mệnh lệnh để ngăn cấm, xoá bỏ sản xuất hàng hoá. II. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam 1/ Phát triển kinh tế hàng hoá do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Xuất phất từ quy luật chung phổ biến. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thật vậy mỗi thành phần kinh tế bao giờ cũng thích ứng với một tính chất trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung và luôn có vai trò quyết định tới quan hệ sản xuất và đồng thời với các thành phần kinh tế. ở nước ta hiện nay do tính đa dạng về trình độ của lực lượng sản xuất nên về hình thức quan hệ sản xuất và thành phần kinh tế được đa dạng hoá là tất yếu. Vì vậy khi xác định các thành phần kinh tế cần phải xem xét đến tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và tất nhiên phải xem xét trong trạng thái động. Một trong những tư tưởng xuyên suốt do hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành TƯ Đảng khoá VIII nhằm cụ thể hoá và thực hiện thành công những mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội VIII của Đảng đề ra là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất cho phù hợp theo định huớng XHCN. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta đã bắt nguồn từ việc tất yếu phải giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Xét từ quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất luôn là yếu tố động nhất, quyết định đối với sự phát triển của sản xuất xã hội. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bằng cách ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. 2/ Phát triển kinh tế hàng hoá do ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đó là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng VIII khẳng định : “ Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay đó là kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản và kinh tế tư bản nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế Việt Nam vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển cả trong điều kiện ngân sách hạn hẹp. Để có những chính sách và chiến lược phát triển thích hợp cho từng thời kỳ ta phải tìm hiểu rõ các thành phần kinh tế đang tồn tại hiện nay. - Thứ nhất thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước, hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước Các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng cơ bản nhất của kinh tế nhà nước. Các doanh nghiệp này trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Chẳng hạn như cac nhà máy thuỷ điên Hoà Bình, công ty gang thép Thái Nguyên… Các ngành kinh tế thuộc sở hữu nhà nước cung cấp hàng hoá hay dịch vụ cho xã hội. Bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, bưu điện, hệ thống ngân hàng tài chính, bảo hiểm( ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng đầu tư và phát triển, kho bạc..). Các xí nghiệp liên doanh trong đó nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế (51%). Những lực lượng vật chất thuộc sở hữu nhà nước bao gồm: đất đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia… Cac doanh nghiệp ở nước ta đựoc hình thành qua ba con đường: - Nhà nước đầu tư vốn để hình thành ngay từ đầu - Nhà nước cấp vốn để liên doanh với các ngành khác - Nhà nước tiến hành việc đòi nợ, quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân Ngoài ra với bản chất nhà nước XHCN, Nhà nước xác định đất đai tài nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng…do Nhà nước nắm giữ, chi phối để điều tiết, định hướng sự phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, thực hiên phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo chủ trương của Đảng ta, kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội,hệ thống tài chính, ngân hàng, những cơ sở như giải quyết kinh doanh thương mại,dịch vụ quan trọng, những cơ sở kinh tế phục vụ an ninh quốc phòng và vấn đề xã hội, để đảm bảo cân đối lớn chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện trò chủ đạo của nền kinh tế thị trường. Tiếp tục đổi và phát triển kinh tế nhà nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế xã hội. Trước hết cần hoàn thiện chế độ chính sách luật pháp đảm bảo doanh nghiệp nhà nước thực là một đơn vị có tư cách pháp nhân. Phân định dứt khoát quyền sở hữu Nhà nước với quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước; quyền sở hữu Nhà nước với quyền sử dụng, quản lý… - Thứ hai, thành phần kinh tế hợp tác là sự liên minh liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia, có thể hoặc không dẫn tới pháp nhân. Hình thức tồn tại của kinh tế hợp tác là: Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng. Các hợp tác xã được hình thành với các quy mô góc độ khác nhau, tuỳ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, ở đây người lao động có quyền tự do tham gia và rút lui khỏi hợp tác xã. Trong những năm đổi mới, kinh tế hợp tác có những thay đổi cơ bản: hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, ruộng đất được giao sử dụng lâu dài. Thực tế xuất hiện những hình thức hợp tác giản đơn, từng khâu như hợp tác xã cổ phần, hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại phát triển. - Thứ ba, thành phần kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước, nhằm sử dụng, khai thác phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, dưới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà nước. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các Nhà nước tư bản. Lênin chỉ rõ “ trong một nước tiểu nông .. phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhà nước cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư ở phía Việt Nam. Đồng thời áp dụng nhiều hình thức góp vốn kinh doanh giữa Nhà nước và các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm tạo thế và lực mới cho các doanh nghiệp trong nước phát triển tăng sức cạnh tranh và hợp tác với bên ngoài. - Thứ tư thành phần kinh tế cá thể là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào kinh nghiệm của bản thân là chính. Kinh tế cá thể, tiểu chủ của nông dân thợ thủ công những người bán buôn dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán manh mún, trình độ công nghệ kỹ thuật thủ công, mục đích kinh doanh chủ yếu là để nuôi sống mình, còn tiểu chủ, bản thân vừa lao động trực tiếp vừa thuê một số công nhân. Thế mạnh của thành phần kinh tế cá thể là phát huy nhanh, có hiệu quả, tiền vốn, sức lao động, say nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội. Do các ưu thế của nó, Nhà nước và các thành phần kinh té khác không thể tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn và kỹ thuật…Để nó từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “ Vệ sinh” cho các doanh nghiệp của nền kinh tế. Thành phần kinh tế thứ năm và cũng là thành phần kinh tế cuối cùng. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong nước và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… Từ năm 1991 sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân phát triển mạnh và đóng gopá nhất định vào sự phát triển kinh tế xã hội. Cần khẳng định nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư và sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lí, tạo điều kiện thuận lợi và củng cố lòng tin cho các nhà đầu tư phát triển. Tuy nhiên cần lưu ý rằng mỗi thành phần kinh tế đồng thời vừa tồn tại độc lập tương đối vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa hợp tác cạnh tranh với nhau vừa thống nhất vừa mâu thuẫn trong một chỉnh thể kinh tế xã hội. Không nên hiểu mỗi thành phần kinh tế như những bộ phận tách rời, những lực lượng tự trị và theo đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là sự hợp nhất cơ học của các thành phần đó. Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, một vấn đề có tính nguyên tắc cần phải nắm vững, đó là kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế. Nếu thành phần kinh tế Nhà nước đủ mạnh và đóng được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. Nừu ngược lại, sẽ không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ lớn mạnh hơn và kéo theo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Cần phải luôn nhớ rằng thành phần TBCN đã đang và sẽ có sự hậu thuẫn quốc tế rất mạnh. Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực chống phá XHCN đang tìm cách cho kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa ở nước ta thắng thế. Ta phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để sản xuất liên tục, không bị gián đoạn, tạo sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường. 3/ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp theo đó là chiến tranh kéo dài. Khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam có thời gian nhìn lại mình thì đã tụt hậu về kinh tế quá xa so với thế giới. Sự hỗ trợ to lớn của các nước XHCN là hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến. Nhưng ở thời kì hoà bình xây dựng, hỗ trợ đó hầu như không có hiệu quả, thể hiện ở tình trạng lạc hậu về kỹ thuật so với các nước tư bản phát triển, ở cơ cấu kinh tế bất hợp lý, và kinh nghiệm quản lý theo nền kinh tế kế hoạch tập trung…Cùng với sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu, Việt Nam đứng bên bờ của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nhóm các nước nghèo nhất thế giới So sánh một số chỉ tiêu kinh tế xã hội giữa Việt Nam và các nước ASEAN năm 1993 Chỉ tiêu Việt Nam Indônêx ia Malaixi a Philipin Singapo Thái Lan GDP bình quân đầu người-USD Phương pháp Atlas 170 730 3160 830 19310 2040 GDP bình quân đầu người USD Phương pháp PPP 1040 3140 8630 2660 20470 6390 Chỉ số HDI 0,514 0,568 0,794 0,621 0,836 0,798 Vị trí HDI trong 176 nước 116 105 57 99 43 54 HDI: chỉ số phát triển con người Trước đây,việc thực hiên chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp khiến cho sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh, đới sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn vất vả.Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp kém. Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó nguồn tài chính từ ngân sách và các nguồn lực khác có thể huy động cho yêu cầu phúc lợi xã hội vừa hạn chế vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng. Văn hoá phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Sự thành công của một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững, môi trường được bảo vệ. III. Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra hàng hoá để bán, để trao đổi trên thị trường. Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt Nam là: Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại tương ứng với tính chất và trình độ sản xuất. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó việc “ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với việc tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và khắc phục hậu quả của mặt trái của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế xã hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, truyền thống, giáo dục và một số công cụ khác. Nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó có thái độ thật đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng có nghĩa là có các quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật thị trường. Thông qua hoạt động của các quy luật thị trường mà nó đào thải những mặt, yếu tố bất hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. 1. Phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín, kém phát triển, bảo thủ trì trệ. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động gắn bó với thị trường thế giới. Việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu vượt qua phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đồng thời đó cũng là tất yếu sự phát triển nhu cầu. Biệt lập trong sự phát triển kinh tế một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới cho phép đáp ứng nhu cầu về cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan hệ quan hệ hợp tác với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo thuận lợi cho quá trình phát triển rút ngắn ở nước ta. Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước bằng nhiều cách như: Tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút vốn đầu tư cho nước ta, gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những mặt hàng mũi nhọn có trong tương lai, gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới… nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu của nền kinh tế thế giới Việc “mở cửa” về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, bảo đảm chủ quyền và cùng có lợi. 2. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà nước. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm nhưng nền kinh tế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Vì vậy sự tác động của nhà nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội. Thiên sử “can thiệp” của nhà nước vào kinh tế, để cho thị trường tự do hoạt động, thì việc điều tiết kinh tế kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả. Nhà nước sử dụng luật pháp và các công cụ kinh tế vĩ mô khác để quản lý kinh tế hàng hoá, làm cho nền kinh tế “ lành mạnh” hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột biến xấu trên con đường của nó, khắc phục được tình trạng phân hoa bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trưởng của đất nước. Sự vận dụng của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở nươc ta là sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường-“ bàn tay vô hình”, và sự quản lý của nhà nước- “ bàn tay hữu hình”. 1. Thực trạng kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay. Nước ta đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các đặc điểm sau: Một là kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau: nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị trường. Mỗi kiểu hàng hóa, tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc thù về bản chất kinh tế và xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là các bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy chúng ta vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hóa của mỗi thành phần kinh tế đều xuất hiện cái mới. Trong đó, sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, định hướng với các kiểu sản xuất hàng hoá khác. Nhận thức được tính chất nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục cụ cho việc đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hai là nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn ở trình độ kém phat triển. Biểu hiện ở số lượng và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông thị trương và kim nghạch xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chât lượng thấp, quy mô và dung lượng thị trường hẹp, sưc cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hoá trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn yếu, đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp… Trình độ phát triển thấp của hàng hoá bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm của nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH. Ba là nền kinh tế phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới và khu vực. Cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển trình độ xã hội hoá cao dẫn đến quá trình khu vực hoá quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế thị trường không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà còn phải tính đến quan hệ quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị trường của mỗi quốc gia muốn phát triển không thể không gắn với thị trường thế giới. Bất cứ một quốc gia nào dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hoá. Vì vậy mỗi nước phải tuỳ theo lợi thế của mình lựa chọn mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hoá của nươc ta sẽ phát triển nếu biết cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới để khai thác các tiềm năng của nền kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mở hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Bốn là nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò của Nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá thông qua cơ chế thị trường không thể giải quyết được những vấn đề như: Lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như các hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiên tượng trên ở những mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với nền kinh tế mở là tất yếu nhưng trong quá trình đó bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hoá Việt Nam, thực hiên có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền không chấp nhận thương mại hoá mọi hoạt động của đời sống xã hội kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân tộc, xây dựng những yếu tố văn hoá XHCN. ở nước ta,khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới từ 70% sức lao động và 80% dân số- nơi khai sinh của sự nghiệp đổi mới bằng “ khoán 10” “ chỉ thị 100”, từ chỗ thiếu đói đã vươn lên đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo. Khu vưc kinh tế tư nhân là khu vực phát triển mạnh thứ hai, cho đến nay chúng ta có khoảng 22000 doanh nghiệp tư nhân gấp 2 lần số doanh nghiệp nhà nước khi bắt đầu đi vào công cuộc đổi mới và gấp 3 lần số doanh nghiệp nhà nước có đến hiện nay. Trong đó có những doanh nghiệp sử dụng 10000 công nhân. Khu vực ngoài quốc doanh ( bao gồm không nhiều bộ phận của kinh tế hợp tác ) chiếm trên dưới 2/3 tổng sản phẩm trong nước. Bình quân tăng trưởng 5 năm ( 1990-1995) là 8,2% một năm. ( Năm 1995 tăng trưởng bình quân hoàn toàn thế giớ 3,5% trong đó cao nhất là vùng Đông á- Thái Bình Dương: 8,1%, Mĩ 3%; Nga 1,6%…Các nước ASEAN vẫn tiếp tục giữ mức độ tăng trưởng khá: Singapo 8,9%; Philipin 5%; Thái Lan 8,9%… Trước đây, chính sách hợp tác hoá ở Liên Xô cũ khi thực hiện có phạm sai lầm là nóng vội, ở nước ta do hoàn cảnh lịch sử nhất định, phong trào hợp tác hoá cũng đã có tác dụng ở miền Bắc trong những năm chiến tranh chống Mĩ cứu nước nhưng tiếc rằng chúng ta không duy trì được, cho đến năm 1990 các nhà soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 không còn biết tỉ trọng bộ phận kinh tế hợp tác là bao nhiêu. Nhận thấy rõ những khiếm khuyết của nền kinh tế kế hoạch tập trtung quan liêu bao cấp, tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, qua thực hiện 5 năm đổi mới Đảng ta khẳng định “ Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Sự tác động của Nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Thiếu sự “ can thiệp” của Nhà nuớc vào thị trường tự do hoạt động, thì sự điều hành kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả cũng như ta muốn vỗ tay mà chỉ có một “bàn tay”. Nhà nước sử dụng luật pháp vào các công cụ vĩ mô khác để quản lí kinh tế làm cho nền kinh tế lành mạnh hơn. Giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Như vậy sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là sự vân hành được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường- bàn tay vô hình và sự quản lý của Nhà nước- bàn tay hữu hình. 2. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam: Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. a. Đối với kinh tế nhà nước: Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, một vấn đề quan trọng cần nắm được đó là kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Khi mà nền kinh tế nhà nước đủ mạnh và giữ được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu không, thì loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản tư nhân sẽ lớn mạnh hơn và kéo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa, thêm nữa thành phần kinh tế tư bản tư nhân đã, đang và sẽ được sự hậu thuẫn rất lớn của quốc tế. Nhất là trong bối cảnh đất nước ta hiện nay mọi thế lực chống đối phản động đang tìm mọi cách cho thành phần kinh tế tư bản tư nhân thắng thế ở nước ta. Do vậy, để kinh tế nhà nước thắng thế chúng ta cần thực hiện một số vấn đề:  Thành phần kinh tế nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy vai trò chủ đạo, để thực hiện và phát huy nghĩa vụ mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nó phải đảm bảo phát triển hàng hoá công cộng còn những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi thì nên để cho các thành phần kinh tế khác phát triển.  Một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nhà nước là doanh nghiệp nhà nước phải phát triển trên nguyên tắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao và phải bình đẳng với các doanh ngiệp thuộc thành phần kinh tế khác ) vì chỉ trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế rõ ràng, cụ thể mới có tiêu chuẩn tìm chọn nhân tài, có đạo đức tốt, khả năng quản lý giỏi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế ) phải làm sao cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành một công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được các khiếm khuyết của thị trường và có thể can thiệp vào nền kinh tế bất cứ lúc nào cần thiết. Hiện nay, trong cơ cấu thành phần kinh tế khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa được quan tâm nhiều đến việc đổi mới công nghệ, giải quyết vốn lưu động để phát huy năng lực sản xuất, hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, còn quá nhiều doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ kéo dài. Tuy nhiên để khắc phục tình trạng trên chúng ta cần phải sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thưo định hướng nắm ngành, khâu, mặt hàng then chốt, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt. Việc xắp xếp lại có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Để kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò chủ đạo của mình chúng ta cần đổi mới theo hướng sau: - Thứ nhất, hoàn thành việc phân định các doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cũng như các doanh nghiệp kinh doanh có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ số vốn lưu động cần thiết, được vay vốn ưu đãi để đổi mới thiết bị công nghệ kiện toàn tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý. Còn đối với các doanh nghiệp kinh doanh chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần thật sự tự chủ thì phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình. - Thứ hai, xác định loại doanh nghiệp được nhà nước đầu tư 100% vốn loại doanh nghiệp mà nhà nước nắm số cổ phần khống chế và những doanh nghiệp mà nhà nước chỉ cần giữ số cổ phần ở mức thấp và đa dạng hoá sở hữu thông qua các biện pháp: cổ phần hoá, cho thuê kinh doanh chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng… trên cơ sở khắc phục mọi trở ngại khách quan và chủ quan để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Hướng dẫn, đôn đốc quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp theo những danh mục đã xác định đảm bảo tiến độ triển khai và kịp thời rút kinh ngiệm để tiến hành một cách vững chắc, không để xảy ra những sai lầm đáng tiếc. Đối với biện pháp tổng công ty hoá các doanh nghiệp cần được xem xét lại theo hướng thu hẹp các tổng công ty đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện trực tiếp với cạch tranh nước ngoài, song song với việc xây dựng các công ty đa ngành, đa sở hữu và tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và thành viên của tổng công ty. b/ Đối với các thành phần kinh tế khác có một câu hỏi lớn đặt ra: Mặc dù Nhà nước khuyến khích phát triển nhưng tốc độ tăng chậm chạp và không tương xứng với tiềm năng hiện có . Muốn phát triển sản xuất thì nguyên lý muôn thủa là phải tăng suất đầu tư, trước hết là đầu tư về tài chính. Nguồn tài chính này trong dân khá lớn nhưng chưa được sử dụng để phát triển sản xuất. (Ước tính có khoảng trên 10000 tỷ đồng, bao gồm 5000 tỷ nằm ở dự trữ vàng và đôla; 3000 tỷ xây xựng nhà cửa; 1000 tỷ mua sắm đồ dùng cao cấp như xe máy, tivi màu, video, catset, máy điều hoà nhiệt độ.. đó là chưa kể trên 3000 tỷ tiền gửi tiết kiệm của dân cư). Để các nguồn vốn này có thể góp phần tăng thêm suất đầu tư cho sản xuất kinh doanh cần phải giải quyết hàng loạt các biện pháp: + Có thể phải bắt đầu ngay từ tên gọi. Không nên xuất phát từ kinh tế quốc doanh để đặt tên cho cho các thành phần kinh tế khác, gọi họ là “ ngoài quốc doanh”. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, cho dù kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo thì vẫn phải đảm bảo tính bình đẳng của các thành phần kinh tế và thực chất mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất không có bộ phận này là “trong” còn bộ phận khác là “ ngoài”. Thay đổi cách gọi cũng là giải pháp xoá đi tâm lý tự ti, bi quan của các thành phần kinh tế khác mà một thời họ bị chèn ép, lãng quên. + Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được tiến hành theo nguyen tắc tự nguyện và trên cơ sở tính chất xã hội hoá thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao chính là không cô lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các hình thức hợp doanh, đan xen các quan hệ sử dụng khác nhau vào cùng một lĩnh vực, thậm chí trong cùng một công ty, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp doanh giữa Nhà nước và tư nhân, giữa hợp tác xã và tư nhân, giữa Nhà nước và hợp tác xã, tư nhân…cần phải trở thành một trong những hình thức cơ bản tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần.Trong sản xuất nông nghiệp, do tính đặc thù của nó nên ngoài việc phải giải quyết tốt quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, còn phải chuyển kinh tế hợp tác hiện nay thành kinh tế nông trại. Kinh tế hộ nhận khoán là cơ sở hình thành kinh tế nông trại và các tổ chức nông trại. Đây cũng đang là xu hướng chung của nông nghiệp thế giới.Trong điều kiện nông nghiệp nước ta hiện nay không cần tổ chức các nông trại lớn và cũng chưa vội hợp tác nhiều nông trại với nhau. Có thể mỗi nhóm chỉ nên 5-20 hộ tự nguyện góp ruộng đất, lao đọng và tiền vốn để sản xuất kinh doanh hoặc tổ chức những nhóm 20-30 hộ như ở Đài Loan hợp tác với nhau làm chung một hoặc nhiều khâu trong quá trình sản xuất như làm đất, gieo cấy, làm cỏ, bón phân, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch, phơi sấy, vận chuyển. Ngoài ra còn có các hình thức hợp tác khác như: các nông trại chung nhau mua “ đầu vào” hoặc chung nhau bán “đầu ra”, hoặc cũng có thể hợp tác dưới hình thức uỷ thác kinh doanh. Tổ chức nông trại là sự hợp tác giữa các nông trại, chính là hình thức hợp tác xã nông nghiệp theo mô hình mới cần đạt được. + Để nhân dân yên tâm bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh và hoạt động đúng hướng. Nhà nước phải đưa ra được một hệ thống các văn bản pháp quy như luật kinh doanh, luật thừa kế, luật chuyển nhựng, luật mua bán lao động…đòng thơi hoàn thiện chế độ đăng kí kinh doanh, kế toán, thống kê, thuế, hợp đồng kinh tế. Các luật và chế độ này không chỉ nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước mà phải giải quyết thoả đáng 3 lợi ích: Nhà nước- tập thể- cá nhân, khuyến khích làm giàu trên cơ sở bỏ vốn kinh doanh đúng pháp luật. Việc định ra các luật thuế và chế độ phải giữ ổn định trong thời gian tương đối dài, nếu có thay đổi chỉ nên theo hướng có lợi cho người bỏ vốn chứ không phải là thắt dần và tước bỏ bớt lợi ích của họ. Luật và chế độ ban hành cần phải đạt được yêu cầu hết sức quan trọng là xoá bỏ được ấn tượng đã ăn sâu vào trong tư tưởng của những người sản xuất kinh doanh tư nhân, cá thể về cách thức Nhà nước tước đoạt hoặc cải tạo gò ép trước đây và phải có điều khoản cam kết về vấn đề này. Thực hiện được các yêu cầu này tức là giải quyết được một trong những hướng cơ bản trong chiến luực tạo vốn. Chuyển từ việc cung cấp vốn chủ yếu từ ngân sách Nhà nước sang sử dụng vốn xã hội. c/ Tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mô để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả, bao gồm: - Hoàn thiện nhanh chóng hệ thống tài chính ngân hàng bằng những công nghệ kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, đảm bảo thông suôt trong và ngoài nước. Đại bộ phận cac khoản thanh toán ngân hàng phải đảm đương được qua bộ máy của mình; sử dụng tiền mặt chỉ ở mức hạn chế. Tín dụng ngân hàng phải thực hiện đi vay để cho vay chứ không dựa vào nguồn phát hành và chủ yếu đảm bảo cho kinh tế quốc doanh như hiện nay. Hoạt động tài chính cũng phải được đổi mới, lấy thu lường chi, thu đủ và chi đúng, trong điều kiện nguồn ngân sach có hạn không nên vượt quá khả năng bằng cách đi vay nợ nước ngoài và phát hành. Điều đó chỉ dẫn đến lạm phát. Trong nền kinh tế lạm phát thì không thể nâng cấp bất cứ ngành nào, lĩnh vực nào, do đó cần phải từ bỏ ngay ý định nâng cấp ngành này hay lĩnh vực kia bằng lạm phát. Lâu nay tài chính của nước ta chạy theo nhu cầu chi quá lớn của một số ngành, một số lĩnh vực trong khi nguồn thu hạn hẹp. Đây rõ ràng là hướng đi không thực tế, do đó chống lạm phát không đạt được mục tiêu đề ra. - Phải nhanh chóng xây dựng được một thị trường đầy đủ ở nước ta hiện nay còn thiếu nhiều thị trường quan trọng của nền sản xuất hàng hoá như: thị trường vốn, thị trường lao động… - Thời đại ngày nay thông tin được coi là yếu tố của lực lượng sản xuất. Thông tin là sức mạnh của quyền lực. Do vậy phải hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ các nhà doanh nghiệp phát huy dân chủ hoá trong đời sống kinh tế. Hệ thống thông tin kinh tế của nước ta còn rất yếu và tổ chức không hợp lý, thông tin bị chia cắt. Số người hiểu biết về việc thu thập, xử lý, tổng hợp và sử dụng thông tin trong nền kinh tế thị trường chưa nhiều, nhìn chung vẫn theo lối quản lý nền kinh tế theo nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trước đây. Để đổi mới hoạt động này, phải coi hoạt động thông tin trong nền kinh tế là một ngành dịch vụ, trong đó tất cả các thành phần kinh tế có thể và cần thiết tham gia. - Xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi và các nhà quản lý vĩ mô có tài, đồng thời liên kết họ lại. Cái thiếu hụt lớn nhất của chúng ta hiện nay là ở chỗ này. Chúng ta đang có một đội ngũ cán bộ quản lý khá đông đảo nhưng chất lượng không phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế. Có một bộ phận đã quá quen với cơ chế quản lý cũ, đến nay hoàn toàn không đủ khả năng năng thích ứng với cơ chế mới. Biểu hiện của bộ phận này là luôn kêu khó khăn, không tự tìm cách tháo gỡ mà chỉ đi tìm sự trợ giúp theo kiểu bao cấp trước đây của Nhà nước. Một bộ phận khác chưa được đào tạo chu đáo trước khi bố trí họ đảm nhận các cương vị chủ chốt trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong số 4584 đơn vị kinh tế quốc doanh thua lỗ năm 1989, có tới 2630 đơn vị giám đốc không có bằng cấp chuyên môn, trong sản xuất nông nghiệp, phần lớn cán bộ quản lý ở xã và hợp tác xã mới đạt trình độ văn hoá cấp I và II, hầu hết chưa qua đào tạo có hệ thống nên áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chậm. Nếu tính ba chức danh chủ yếu trong nông thôn là bí thư đảng uỷ xã, chủ tịch xã và chủ nhiệm hợp tác xã thì chỉ có 52,9% đạt trình độ văn hoá cấp II; 32,2% văn hoá cấp III. Về trình độ quản lý trong ba chức danh trên mới có 22,4% đã qua lớp học quản lý kinh tế và 15,3% được đảo tạo về quản lý Nhà nước. Có một bộ phận không nhỏ trong cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô hiện nay đang dấn sâu vào tệ nạn tham nhũng. thời gian gần đây chúng ta đã đặt vấn đề chống tham nhũng, nhưng kết quả còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là xử lý chưa nghiêm, còn né tránh và hình như mối liên hệ của căn bệnh này đã bắt đầu có kích cỡ về phạm vi nên việc xử lý cũng khó khăn. Đã đến lúc cần phải có thái độ dứt khoát đối với loại cán bộ này và phải loại bỏ họ càng nhanh càng tốt. Trong số cán bộ quản lý kinh tế cũng có một bộ phận đang thích ứng dần với cơ chế quản lý mới, có thể tiếp tục sử dụng trong việc điều hành kinh tế vĩ mô và vi mô, tuy nhiên số này chưa nhiều. Tóm lại là đại bộ phận số cán bộ hiện có phải được bố trí sắp xếp và đào tạo lại. Về chính sách sử dụng cán bộ thì mạnh dạn được coi là một trong những phương châm chủ yếu không muốn nói là số một. - Nhanh chóng phổ cập nghề cho người lao động. Mỗi năm nước ta có trên 1 triệu thanh niên đến tuổi lao động. Hệ thống 936 trường chuyên nghiệp hiện có mỗi năm chỉ đào tạo được 20 vạn người, chủ yếu là lao động chính quy, dài hạn theo yêu cầu của khu vực Nhà nước. Như vậy còn phần lớn thanh niên đến tuổi lao động không được đào tạo nghề hoặc có nghề nhưng không thành thạo thì cũng khó có khả năng tìm được việc làm. ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, tay nghề của người lao động cũng chưa cao, do đó vấn đề tiếp tục đào tạo và bồi dưỡng họ phải được đặt ra. Hướng ưu tiên đầu tư của thế giới hiện nay là lao động có kỹ thuật chứ không phải sử dụng lao động không kỹ thuật, giá cả sức lao động rẻ như những năm trước đây, vì sản phẩm hàng hoá có thị trường lớn là sản phẩm có hàm lượng chất xám và khoa học kỹ thuật cao. d/ Đối với thành phần kinh tế hợp tác Thành phần kinh tế hợp tác ở nước ta hiện nay còn lúng túng, số hợp tác xã hoạt đọng kém hình thức còn nhiều. Đây là một vấn đề cần tháo gỡ kịp thời để đảm bảo cho kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng hướng XHCN. Để tháo gỡ vấn đề hoạt động kém của hợp tác xã chúng ta cần tổng kết kinh nghiệm phát triển của các hợp tác xã kiểu cũ trong nông nghiệp thương nghiệp…để rút ra những bài học kinh ngiệm phát triển hợp tác xã trong những năm tới. Hiện nay, mô hình hợp tác xã kiểu cũ không còn phù hợp với quy luật xã hội hoá sản xuất đối với sản xuất nhỏ ở nước ta. Thực tế hơn 10 năm vừa qua đã chứng tỏ hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ là cần thiết trong các khâu dịch vụ sản xuất, các khâu đầu vào và đầu ra cho sản xuất nhỏ, bởi vậy cần phải có sự tổng kết hướng dẫn phát triển hợp tác xã ở các khâu này và tạo điều kiện để kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. e/ Đối với loại hình sản xuất nhỏ của nông dân và người buôn bán nhỏ Như ở trên đã nói đối với những năm đổi mới của nước ta kinh tế hộ đóng một vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế ở nước ta, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với loại hình sản xuất này Nhà nước cần có những chính sách trợ giúp cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, Nhà nước thông qua những chính sách thuế để trợ giúp cho thành phần kinh tế này, khuyến khích những người sản xuất phát triển làm sao để kinh tế hợp tác cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. f/ Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân sản xuất lớn ở nước ta còn rất nhỏ bé, lại nặng về hoạt động thương mại, dịch vụ phục vụ đời sống còn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tỷ trọng thành phần kinh tế tư bản tư nhân chưa đáng kể, một điều khó khăn của thành phần kinh tế này là tâm lý e ngại đầu tư trong nhân dân. Do vậy Nhà nước cần có chính sách thành phần kinh tế tư bản tư nhân tự do phát triển theo luật định không hạn chế tư nhân, cá thể bỏ vốn đầu tư vào sản xuất những sản phẩm mà Nhà nước cho phép, nhất là Nhà nước cần có những chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư kinh doanh phát triển nông nghiệp từng bước đưa sản xuất nông nghiệp của nước ta lên sản xuất lớn. Do vậy cần có kế hoạch nghiên cứu lại chính sách hạn điền chuyển dịch ruộng đất theo hướng tích tụ và tập trung ruộng đất, phát triển mô hình kinh tế trang trại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân này không tránh khỏi tính tự phát là chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Hiện nay, ở nước ta tình trạng buôn lậu trốn thuế, làm hàng giả và tiêu thụ hàng giả còn phổ biến, bởi vậy đối với những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này Nhà nước cần phải sử dụng nhiều biện pháp dể hạn chế ngăn chặn những khuynh hướng tự phát, những hiện tượng tiêu cực và hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng XHCN. g/ Đối với thành phần kinh tế tư bản Nhà nước Đối với thành phần kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay, số vốn đầu tư phát triển còn thấp, do vậy Nhà nước cần có những chính sách thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước, đối với các nhà tư bản nước ngoài để khuyến khích hộ đầu tư Nhà nước cần tạo tâm lý yên tâm cho họ bằng cách giữ vững ổn định chính trị xã hội để họ thấy rằng những khoản đầu tư của họ được an toàn. Nhà nước cần có những chính sách khai phá những vùng đất còn bị bỏ hoang những vùng thuộc nông thôn, miền núi như có những ưu đãi đặc biệt cho những người đi khai phá và phát triển ở những vùng này, mặt khác cần phải xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, giao lưu buôn bán giữa các vùng này với những vùng kinh tế phát triển trong nước. 3. Đẩy mạnh quá trình phân công lao động xã hội. Việc đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội cũng chính là việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước ta ta cần phải phát triển mạnh theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu. Trong mấy năm vừa qua, tỷ lệ xuất khẩu của nước ta tăng lên đáng kể nhưng việc thúc đẩy xuất khẩu gặp một số khó khăn như công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta chủ yếu được hình thành trong cơ chế tập trung bao cấp, do vậy máy móc lạc hậu mấy thế hệ, các xí nghiệp, kho tàng bến bãi quá cồng kềnh nhưng công suất lại thấp. Hiện nay tuy đã có sự thay đổi công nghệ lạc hậu bằng những công nghệ hiện đại hơn và có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu nhưng những hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng ở dạng thô và nguyên liệu chưa qua chế biến nên tuy rằng tài nguyên rất lớn nhưng không thu được bao nhiêu, trong lĩnh vực này Nhà nước cần có biện pháp phát triển công nghiệp chế biến để sao cho xuất khẩu của nước ta không phải là xuất khẩu hàng hoá ở dạng thô chưa qua chế biến mà là xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến, có như vậy việc xuất khẩu của nước ta mới phát triển mạnh và dần thay thế được nhập khẩu. Cần phải phân công lại lao động theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng sản xuất kinh doanh, tăng cường và phát triển ngành phi sản xuất vật chất ( ngành kinh tế dịch vụ) coi trọng lao động trí tuệ đẩy mạnh sự nghiệp nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất, phát triển những ngành có lợi thế như nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm hải sản. 4. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Thị trường là sản phẩm tất yếu của kinh tế hàng hoá. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng phát triển nghĩa là sản xuất hàng hoá quyết định thị trường, song bên cạnh đó thị trường cũng tác động trở lại đối với sản xuất hàng hoá, có tác động thúc đẩy sản xuất hàng hoá khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô sản xuất cũng tăng lên và sự phân lớp trong sản xuất ngày càng sâu sắc hơn. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, công nghệ, tài nguyên , thực hiện mở rộng phân công lao động xã hội cần phải từng bước hình thành đồng bộ các loại thị trường: tiền tệ,vốn, sức lao động … điều này sẽ góp phần đảm bảo cho việc phân phối và sử dụng các yếu tố đầu vào đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá. a/ Đối với thị trường hàng hoá dịch vụ Thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước, phát triển thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin tư vấn, thiết bị …kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm minh những trướng hợp gian lận thương mại như: kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. Thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, một số lĩnh vực nhất định vì lợi ích chung của đất nước. Chỉnh đốn hoạt động của các tổ chức thương nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống thương nghiệp Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo khắc phục tình trạng buông lỏng thị trường nông thôn miền núi. Cần phải có phương án kết hợp cả hai phương hướng: giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá và tăng khối lượng sản phẩm cung ứng cho thị trường. Khi đó, sẽ kết hợp được cả hai yếu tố của người sản xuất và người tiêu dùng. b/ Đối với thị trường các yếu tố sản xuất Nhà nước cần phải kìm hãm nguy cơ thất nghiệp, cần chú trọng vào việc tạo thêm chỗ làm việc và tự tạo việc làm khuyến khích các cá nhân, tổ chức tốt dịch vụ giới thiệu việc làm và đào tạo nghề nghiệp. Tổ chức quản lý hướng dẫn tốt việc thuê mướn lao động thông qua các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, kiểm tra giám sát tốt việc thuê mướn lao động nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và đảm bảo sự công bằng, bình đẳng của người lao động và người sử dụng lao động trước pháp luật. c/ Tổ chức quản lý tốt thị trường bất động sản. Đất đai là thuộc quyền sở hữu của toàn dân, không phải của tư nhân, không cho phép việc mua bán đất đai, thực hiện tốt đúng luật đất đai, xác định đúng giá các loại đất để sử dụng có hiệu quả. Chăm lo giải quyết vấn đề nhà ở cho nhân dân nhất là nhân dân ở những vùng đô thị phát triển khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và kinh doanh nhà ở theo sự hướng, quản lý của Nhà nước. d/ Xây dựng thị trường vốn và từng bước hình thành thị trường chứng khoán Hiện nay, nước ta đã hình thành được thị trường chứng khoán nhưng do thị trường mới thành lập nên tổng giá trị của một phiên giao vẫn còn ở mức thấp, Nhà nước cần phải có những biện pháp, chính sách thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn qua các ngân hàng và phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa thị trường chứng khoán phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam. e/ Thực hiện sự cân bằng giữa các loại thị trường Sự cân bằng thị trường là điều kiện tất yếu để xác lập mối quan hệ cân đối giữu sản xuất và tiêu dùng, để giải quyết vấn đề cân bằng thị trường ta cần giải quyết những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, cần xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối và sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng và chuyển chúng sang quan hệ hàng hoá tiền tệ điều này có nghĩa là toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng đều được mua bán trên thị trường một cách tự do. Hiện nay, ở nước ta về cơ bản và vật phẩm tiêu dùng đã là hàng hoá song có những yếu tốvẫn chưa được tính đủ giá trị của nó đặc biệt là đất đai, địa tô chính là cơ sở để xác định giá cả ruộng đất nhưng bên cạnh việc tính tới vấn đề địa tô cần phải có những chính sách hợp lý tạo điều kiện cho sự thông suốt của thị trường bất động sản ở nước ta. Thứ hai tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả và thực hiẹn tốt sự bình ổn giá cả trong thị trường. Bình ổn giá trong cơ chế thị trường tức là dùng những giải pháp kinh tế hữu hiệu để giá cả vận động ở mức quá cao hoặc quá thấp trở về mức hợp lý của nó như vậy muốn bình ổn giá cả thì phải có sự can thiệp của Nhà nước và sự can thiệp này chủ yếu thông qua các giải pháp kinh tế vĩ mô phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan. Thứ ba, phát triển thị trường hướng ngoại, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, thị trường hướng ngoại là thị trường phân phối đa dạng về hình thức, thể loại bao gồm lực lượng tham gia, phát triển thông suốt, không biệt lập giữa các vùng các địa phương trong nước và quốc tế. Nhưng có điểm cần phải chú ý đó là việc xác định thị trường hướng ngoại phải dựa trên cơ sở là thị trường trong nước. Thực hiện xuất siêu những sản phẩm mũi nhọn, dựa trên thế mạnh về lợi thế so sánh và xuất siêu ở đây cần phải xuất thành phẩm chứ không phải là xuất nguyên liệu do vậy cần chú ý khuyến khích phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến. 5. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước phải có định hướng vĩ mô, phát triển nền kinh tế bằng các kế hoạch các dự án. Những kế hoạch mà Nhà nước đặt ra phải được kêt hợp với thị trường đều được xem là những công cụ điều tiết kinh tế khách quan, mặcu dù chúng là hai cơ chế hoạt theo những nguyên tắc khác nhau. Trong mối quan hệ này thị trường được coi vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch và phát triển theo sự điều tiết và định hướng của kế hoạch vĩ mô. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường trong nền kinh tế của thời kì quá độ ở nước ta hiện nay cần phải đổi mới các hoạt động của công tác kế hoạch hoá chứ không phải từ bỏ nó. Phương pháp cơ bản để đổi mới công tác kế hoạch hoá hiện nay là : thực hiện kế hoạch hoá cấp vĩ mô và vi mô trong đó kế hoạch hoá vi mô lấy hiệu quả kinh tế ( lợi nhuận ) là mục tiêu chủ yếu và thị trường là căn cứ, đối tượng trực tiếp. Phải đổi mới nội dung và chức năng của kế hoạch vĩ mô, cần phải xoá bỏ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, áp đặt chuyển sang thực hiện kế hoạch hoá định hướng gián tiếp coi trọng việc sử dụng rộng rãi hệ thông đòn bẩy kinh tế, công tác dự đoán, chương trình hoá nâng cao năng lực của Nhà nước trong việc sử dụng các chính sách tài chính, tiền tệ, dùng các công cụ đó tác động gián tiếp vào tổng cung tổng cầu của nền kinh tế đồng thời nâng cao chất lượng của các công trình, dự án phát triển xã hội. Việc đổi mới các chính sách kế hoạch phải tuân theo nguyên tắc phù hợp với phương thức quản lý của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. 6. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách nền hành chính quốc gia. Pháp luật xét từ nguồn gốc dến bản chất không chỉ là hình thức pháp lý phản ánh các hệ giai cấp mà còn là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế. Ngay từ vừa xuất hiện, pháp luật đã gắn liền với kinh tế. Trên phương diện lý luận, pháp luật luôn là yếu tố quan trọng của thượng tầng chính trị, chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị nhưng trên thực tế việc nhận thức quan niệm về vai trò của pháp luật của từng người từng nhóm xã hội, giai cấp và trong tứng thời kỳ cũng rất khác nhau. Có giai đoạn vai trò của pháp luật khá mờ nhạt và trở nên thứ yếu trước sức mạnh của phương pháp điều chỉnh hành chính- mệnh lệnh. Điều này được thể hiện rõ trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Ngày nay với cơ chế thị trường nhiều thành phần ở nước ta pháp luật trỏ thành công cụ đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ kinh tế nó riêng. Vai trò của pháp luật không chỉ được xác lập thừa nhận mà việc củng cố tăng cường vai trò của pháp luật đối với các quan hệ kinh tế hiện nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Hơn 10 năm qua, những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta đã gắn liền với những bước biến đổi quan trọng của hệ thống pháp luật, khẳng định vai trò to lớn của pháp luật trong việc mở đường cho các quan hệ kinh tế mới phát triển. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, dù đã được đổi mới cơ bản nhưng hệ thống pháp luật nước ta, đặc biệt là các văn bản trong lĩnh vực kinh tế vẫn là hệ thống pháp luật của quá trình chuyển đôỉ từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường nhiều thành phần. Tính chất chuyển đổi quá độ này làm cho pháp luật nước ta nằm trong quá trình có nhiều biến động và chưa thể hình thành hệ thống pháp luật hoàn chỉnh có tính ổn định lâu dài. Hệ thống pháp luật nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự hoàn thiện và đồng bộ nhiều thủ tục còn rườm rà gây nhiều khó khăn cho các hoạt động kinh doanh, trong hệ thống luật kinh tế còn nhiều vẫn còn nhiều bất cập còn có những khe hở tạo diều kiện cho một số những phần lợi dụng những khe hở đó để làm ăn phi pháp, tham ô tài sản Nhà nước. Để thực hiện có hiệu quả sự kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động của đời sống kinh tế mà không phương hại đến quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp, bên cạnh việc xây khung pháp luật kinh tế, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và an toàn, cần ephải xây dựng cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế thông qua việc ban hành các đạo luật về kế toán thống kê, kiểm toán theo các chuẩn mực kế toán thống kê quốc tế. Kết luận Cuối cùng, Kinh tế thế giới hiện nay là các quốc gia đang cố gắng xây dựng mô hình kinh tế có sự kết hợp kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là cốt lõi. Nước ta, sau một thời gian dài duy trì mô hình kinh tế tập trung cao độ đã thấy sự không phù hợp của nó. Quá trình đi tìm một mô hình kinh tế mới manh nha từ những năm cuối thập kỷ 70 nhưng có lúc bùng lên có khi chững lại chần chừ trong tư duy và do dự trong hành động.Nhưng rồi cái phải đến đã đến. Đại hội Đảng lần thứ VI ( 12-1986) là cái mốc quan trọng đánh dấu quá trình đổi mới nói chung và đổi mới kinh tế nói riêng. Phương hướng đổi mới kinh tế là xây dựng XHCN. Đại hội Đang lần thứ thứ VII lại tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán đó.Đây là sự lựa chọ phù hợp với xu thế thời đại và thực trạng cung như xu hướng phát triển của nền kinh tế nước ta.Trên con đường hoàn thiện đường lối kinh tế mới đó, chúng ta gặt hái nhiều thành tựu bước đầu có ý nhĩa rất quan trọng nhưng không phải chỉ có hoa thơm và trái ngọt. Chúng ta đang đứng trước những khó khăn và thách thức lớn lao.Cái cũ và cái mới cùng tồn tại đan xen nhau triệt tiêu nhau. Bổn phận của chúng ta là làm cho cái mới tất thắng. Song ủng hộ cái mới không có nghĩa là phủ định sạch trơn cái cũ và cũng không được để cái mới bị lợi dụng. Sở dĩ phải đặt ra vấn đề này vì trước đây không ít người đã coi Mác và Ănghen, Lênin là ông thánh, chủ nghĩa tư bản sắp bị diệt vong. Đến nay tiềm lực kinh tế chủ nghĩa tư bản còn lớn, một số mặt về phúc lợi nhân dân còn vượt xa các nước xây dựng CNXH thì chính những nguời đó lại cho rằng Mác, Ănghen, Lênin chưa bao giờ đúng, chủ nghĩa xã hội chỉ là huyền thoại. Đối với họ tất cả những gì làm trái với cái cũ, phá bỏ cái cũ tức là đổi mới. Trong đường lối phát triển kinh tế, họ muốn xoá bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Đó là tư tưởng hết sức sai lầm. Các giải pháp phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta chỉ có thể chấp nhận khi nó củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và sử dung được sức mạnh tổng hợp của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Trong tình hình hiện nay, kinh tế quốc doanh và tập thể cần phải thu gọn lại phạm vi, vì đó là hành động sửa chữa những lỗi lầm của quá khứ. Nhưng một khi lực lượng sản xuất phát triển, tính chất xã hội hoá của sản xuất được nâng lênthì kinh tế quốc doanh sẽ từng bước mở rộng thích ứng với các điều kiện ấy. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng được CNXH với bản chất kinh tế là sở hữu toàn dân. Tuy nhiên đây là một quá trình dài không thể nóng vội, duy ý chí. Quá trình này dài bao nhiêu tuỳ thuộc vào kết quả xử lý của chúng ta bằng các giải pháp phù hợp. Nhưng cho dù lựa chọn giải pháp nào thì cũng phải giữ cho được sự ổn định về chính trị. Chỉ có ổn định chính trị mới tận dụng được tiềm lực của đất nước và cơ hội của thế giới. Các nước lục địa châu Phi tiềm lực khá lớn và nhiều lần để tuột tay những cơ hội chính vì tình hình chính trị không đạt được sự ổn định. Tuy nhiên, trong tiến trình đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới có trọng điểm hệ thông chính trị, vì giữa chúng có sự tác động qua lại trong hệ thống kinh tế chính trị thống nhất. Cơ hội làm giàu đang đến với mọi người và thực tế có không ít người trong mấy năm vừa qua đã đạt được sự giàu có bằng con đường chính đáng. Con người có nhiều việc phải làm và cần phải làm là con người hạnh phúc. Đất nước có nhiều gia đình giàu là đất nước mạnh. Không thể nói đến độc lập tự chủ trong khi phải nhờ vả người khác. Muốn giàu có hạnh phúc và độc lập tự chủ phải biết suy nghĩ và dám hành động. Trong quốc gia gần 80 triệu người như ở nước ta, nếu chỉ có một số người suy nghĩ và hành độang chưa đủ mà phải tạo nên một sức mạnh của cả dân tộc kiên quyết đứng lên vượt qua đói nghèo bằng mô hình kinh tế đã lựa chọn: phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trong tiểu luận nhỏ này em đã nêu lên một số giải pháp nhưng dù lựa chọn giải pháp nào thì cũng phải giữ vững ổn định chính trị. Chỉ có ổn định chính trị mới tận dụng được tiềm lực của đất nước và của thế giới, nước ta mấy năm vừa qua đã giữ vững được ổn định chính trị, bởi vậy nền kinh tế phát triển khá đều, diều này đưa đến cho chúng ta không ít những cơ hội làm giàu, đã có không ít người đã đạt được sự giàu có bằng con đường chính đáng nhưng cũng có không ít số phần tử thoái hoá biến chất tìm cách bòn rút tiền của Nhà nước, do làm ăn phi pháp mà giàu lên nhanh chóng đây là những phần tử cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt, chỉ có loại bỏ những phần tử xấu này mới có thể làm cho kinh tế nước ta phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu xong đề tài này em đã nhận thức ra được nhiều điều mà trước đây em chưa nhận thức được hoặc nhận thức không đúng, giờ đây em hiểu thêm nhiều điều về nền kinh tế đất nước đang trên đà đổi mới, hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn thì việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phàn theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một giải pháp cơ bản. Tài liệu tham khảo 1. Phát triển kinh tế 68-96 2. Nghiên cứu kinh tế số 4-1996 3. Phát triển kinh tế số 99-1998 5. Thương mại số 10-1999 6. Thương mại số 13 –1996 7. Thương mại số 12-1998 8. Thương mại số 16-1997 9. Thông tin lý luận số 6-2000(268) 10. Kinh tế phát triển số 86-1997 11. Nghiên cứu trao đổi số 9-(5/98) 12. Giáo trình kinh tế chính trị tập I và II

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf50855_2132.pdf
Tài liệu liên quan