Luận văn Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Luận văn Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: 1 Luận văn Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 2 LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế như hiện nay thì nó cũng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với nước ta. Để có thể thúc đẩy và phát triển kinh tế-xã hội nước ta, thực hiện chủ chương đường lối CNH-HĐH của Đảng và Nhà nước thì đòi hỏi lỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, các thành phần kinh tế và toàn dân. Trong đó phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, nó là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống nền kinh tế nước ta. Những đóng góp của khu vực này cho nền kinh tế là không nhỏ trong những năm qua. Khu vực kinh tế tư nhân không chỉ đóng góp lớn vào GDP của cả nước mà nó còn giúp giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động. Nhưng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân cũng gặp không ít khó khăn, thách thức và cơ hội. Nguyên nhân một phần là do xuất phát điểm c...

pdf38 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 2 LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế như hiện nay thì nó cũng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với nước ta. Để có thể thúc đẩy và phát triển kinh tế-xã hội nước ta, thực hiện chủ chương đường lối CNH-HĐH của Đảng và Nhà nước thì đòi hỏi lỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, các thành phần kinh tế và toàn dân. Trong đó phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, nó là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống nền kinh tế nước ta. Những đóng góp của khu vực này cho nền kinh tế là không nhỏ trong những năm qua. Khu vực kinh tế tư nhân không chỉ đóng góp lớn vào GDP của cả nước mà nó còn giúp giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động. Nhưng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân cũng gặp không ít khó khăn, thách thức và cơ hội. Nguyên nhân một phần là do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó còn do thói quen dựa dẫm ỷ lại, tư duy cũ của thể chế kế hoạch hoá tập trung và những suy nghĩ không đúng đắn của một số bộ phận công chức công quyền về khu vực này. Từ đó dẫn đến yêu cầu cấp thiết là phải có những giải pháp hợp lý để phát triển khu vực kinh tế tư nhân trước thềm hội nhập đang đến gần. Điều đó đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, phía doanh nghiệp …Từ những vai trò và ý nghĩa trên chúng em quyết định chọn đề tài: “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”để viết. 3 I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN THỜI GIAN QUA 1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân 1.1. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện 1.1.1. cải cách thủ tục hành chính tiếp tục được cải thiện Trong năm 2004 vấn đề cải cách thủ tục hành chính liên quan đến khu vực kinh tế tư nhân đã được cộng đồng các doanh nghiệp đánh giá cao. Chính sách thuế và các vấn đề liên quan đến thuế là một trong những vấn đề bức xúc nhất của cộng đồng doanh nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung trong nhiều năm qua. Trong năm 2004, chính sách thuế tiếp tục được cải thiện nhằm tạo “sân chơi” bình đẳng, xoá dần những bất hợp lý, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Quyết định 197/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực từ ngày 1/1/2004 thí điểm về tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế, bỏ cơ chế thông báo , áp đặt hoặc tính thuế thay doanh nghiệp. Cơ chế tự tính, tự kê khai, tự nộp thuế năm 2004 được áp dụng thí điểm ở khoảng 300 doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ninh. Kết quả thử nghiệm này sẽ được xem xét vào năm 2005 và sau đó sẽ mở rộng cho các doanh nhiệp ở các địa phương khác. Đây là một bước tiến xây dựng một hệ thống tự đánh giá theo chuẩn mực quốc tế trong việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp . các quy định về thuế suất ,quy định miễn giảm thuế trong năm 2004 đã có sự điều chỉnh theo hướng tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Mức thuế thu nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh : mức thuế suất phổ thông đã được giảm xuống còn 28%, thuế suất ưu đãi là 20%, 15%, và 10% (mức thuế suất cũ là 32% , 25%, 20% và 15% ); bỏ thuế thu nhập bổ sung đối với doanh nghiệp trong nước, mở rộng diện thuế ưu đãi, mở rộng diện thuế áp dụng thuế suất 0% đối với thuế giá trị gia tăng. Đến nay, hầu hết các chính sách thuế đã được xây dựng trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm bình đẳng giữa các đối tượng nộp. Chính sách ưu đãi thuế được áp dụng chung cho các thành phần kinh tế. Bất kì doanh nghiệp nào, nếu có đủ điều 4 kiện ưu đãi đều có thể được hưởng các ưu đãi theo quy định. Chẳng hạn, tiền sử dụng đất, các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh tế đều được hưởng các ưu đãi về khoản thu về đất theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có giá trị sản lượng hàng xuất khẩu trên 30% giá trị hàng hoá, dịch vụ sản xuất, kinh doanh cũng được giảm tiền sử dụng đất hoặc miễn tiền thuê đất trong một số năm ; miễn giảm thuế sử dụng đất với cơ sở sản xuất, kinh doanh được nhà nước giao đất để thực hiện dự án thuộc ưu đãi đầu tư. Mức ưu đãi tuỳ thuộc vào mức độ đáp ứng các điều kiện ưu đãi của dự án, không phân biệt loại hình hay thành phần kinh tế . Ngày5/4/2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 53/2004/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu công nghệ cao, theo đó nhà đầu tư sẽ được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập ở mức cao nhất (10% trong suốt thời gian thực hiện dự án; miễn bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% trong chín năm tiếp theo ) ; ưu đãi về sử dụng đất; cho phép vay vốn tín dụng trung hạn, dài hạn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư .v.v.. Các hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ đã được hưởng các chính sách ưu đãi ở mức cao hơn bình thường như: Kinh tế trang trại, làng nghề .v.v.. Nghành thuế cũng đã áp dụng phương thức thu thuế hoặc hoàn thuế phù hợp với năng lực quản lý của các hộ kinh doanh cá thể. Nhiều chính sách tài chính khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân và thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ sung như : chính sách khuyến khích nghành nghề nông thôn, chính sách khuyến tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế trang trại, dịch vụ nông thôn . Công tác kiểm tra của hải quan được chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, thực hiện kiểm tra có trọng điểm, mở rộng diện miễn kiểm tra hoặc kiểm tra xác suất, giảm bớt các loại giấy tờ trong hồ sơ, thủ tục hải quan. Các thủ tục hành chính về đăng kí kinh doanh và chế độ báo cáo của doanh nghiệp tiếp tục được đơn giản hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh 5 nghiệp. Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 về đăng ký kinh doanh thay thế Nghị định 02/NĐ-CP năm 2000, đã đưa ra một số quy định mới thuận lợi hơn cho đăng ký kinh doanh. Trình tự, thủ tục và hồ sơ thành lập doanh nghiệp được rút ngắn. Thời gian thành lập doanh nghiệp đã được giảm từ khoảng hơn 90 ngày trước đây, xuống còn 7 ngày, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ (ở nhiều địa phương thời gian đăng ký kinh doanh chỉ còn 2-4 ngày ). Thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm đăng ký kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời gian đăng ký kinh doanh còn 1 giờ, chí phí kinh doanh giảm đáng kể . Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, các cơ quan thuế, hải quan, kho bạc đã bước đầu thực hiện kết nối thông tin với nhau nên đã làm giảm được khoảng 50% số chi tiêu mà doanh nghiệp cần báo cáo và giúp cho thủ tục kê khai nộp thuê, hoàn thuế nhanh chóng hơn. Thời gian làm thủ tục đăng ký mã số thuế và hải quan ở một số địa phương đã giảm xuống còn 10 ngày. Thủ tục mua hoá đơn tài chính cũng đơn giản hơn và khuyến khích doanh nghiệp tự phát hành hoá đơn. Việc đơn giản hơn các thủ hành chính là một trong những nhân tố quan trọng làm cho số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và bổ sung ngành, nghề kinh doanh tăng nhanh trong năm 2004. 1.1.2. Môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế tư nhân cũng tiếp tục đựơc đổi mới. Cơ sở pháp lý phân định rõ quyền của Nhà nước, của cán bộ, công chức với quyền của người đầu tư và doanh nghiệp đã được xác định rõ hơn, từng bước xoá bỏ thói quen ôm đồm, làm thay và gây phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp từ phía cơ quan Nhà nước. Lần đầu tiên, thẩm quyền cấm hay hạn chế kinh doanh đựoc giới hạn vào 3 cơ quan thẩm quyền cao nhất (Quốc hội, Uỷ ban thưòng vụ Quốc hội và Chính phủ ). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bãi bỏ 116 giấy phép, chuyển 46 giấy phép sang điều kiện kinh doanh không cần giấy phép hoặc sang quản lý theo phương thức khác . Để tạo môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng cho các thành phần kinh tế, Luật Doanh nghiệp sửa đổi theo hướng thống nhất các loại hình doanh nghiệp đang được soạn thảo; Luật Đầu tư thống nhất cũng đang được nghiên 6 cứu sửa đổi chuẩn bị nhằm điều chỉnh chung cho cho hoạt động đầu tư cả trong nước và quốc tế. Dự kiến, năm 2005 sẽ ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp thống nhất . 1.1.3. Công tác quản lý đất đai cũng được cải tiến và phân cấp cụ thể hơn. Các khâu trung gian và thời gian làm các thủ tục hành chính trong việc giao đất, thuê đất làm mặt bằng kinh doanh được rút ngắn. Các doanh nghiệp được phép tự thoả thuận với người có đất trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh thông qua việc nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhiều địa phương đã ban hành các quy định thông thoáng, minh bạch, đơn giản hơn về quy trình, thủ tục giao đất, cho thuê đất và quy trình thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng . Trong năm 2004, Chính phủ đã ban hành 5 Nghị định quy định chi tiết việc thi hành Luật Đất đai: Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 13/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về thu tiền sử dụng đất. Các nghị định này đã tạo điều kiện thuân lợi hơn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Tuy chưa phát huy tác dụng trong năm 2004, những nghị định trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các năm tiếp theo trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc tồn tại nhiều năm nay. Để thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn vay, Chính phủ đã ban hành một số quyết định mở rộng đôí tượng được uỷ thác thực hiện tác nghiệp của Quỹ bảo lãnh cho Quỹ hỗ trợ phát triển; giao hoặc uỷ thác cho quỹ đầu tư tài chính địa phương. Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại cũng đã có các quy định thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể, chủ trang trại tiếp 7 cận thuận lợi hơn với các nguồn vốn tín dụng. Vì vậy, số lượng các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng chính thức đã tăng lên đáng kể. Trong những năm gần đây và năm 2004, Chính phủ, các bộ ngành và một số địa phương đã có nhiều biện pháp góp phần giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, nâng cao hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm 2004, đã bãi bỏ 343 loại phí và lệ phí, đã thống nhất áp dụng mức thu và giảm thu đối với hàng chục loại phí và lệ phí với mức giảm bình quân chung là 20%, giãn cách các mức phí, cải tiến quy trình thu phí, giảm giá cước và các dịch vụ viễn thông đến mức thấp hơn hoặc tương đương với mức bình quân khu vực, bình ổn giá xăng, xi măng. Trong năm 2004, hệ thống tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp tiếp tục được hình thành, phát huy tác dụng tích cực đối với các doanh nghiệp. Hình thành nhiều tổ chức hỗ trợ gồm các quỹ, các trương trình hỗ trợ, các câu lạc bộ, các trung tâm hỗ trợ cung cấp thông, hỗ trợ tư vấn đào tạo …Nhiều bộ, ngành đã thành lập các tổ chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp như: Cục xúc tiến thương mại (Bộ thương mại ), Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp (Bộ tư pháp), Trung tâm thông tin doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp, trong năm 2004, Chính phủ đã giao trách nhiệm cho các cơ quan hữu quan tập hợp và đề xuất cách giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp về thể chế, chính sách, đồng thời lập các nhóm công tác gồm cán bộ có trách nhiệm của một số ngành, đặc biệt là thuế hải quan, quản lý đất đai, ngân hàng trực tiếp đến các địa phương giải quyết tại chỗ các vướng mắc của doanh nghiệp. Ở nhiều địa phương như Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Nghệ An, Thành phố Hồ Chí Minh v.v.., lãnh đạo các tỉnh, thành phố cũng đã định kỳ tổ chức gặp các doanh nghiệp, không phải hàng năm mà hàng quý, hàng tháng và đã có các biện pháp rất cụ thể để giải quyết kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp 8 Tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ 64% trong giai đoạn 1991-1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000-2004. Trong khi đó, cùng với khoảng thời gian trên, tỷ trọng công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66%. Trong hơn 4 năm qua, có khoảng 7.165 công ty cổ phần đăng ký thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991-1999. Sự thay đổi về tỷ lệ loại hình doanh nghiệp mới cho thấy các nhà đầu tư trong nước đã nhận thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp; có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với quản trị nội bộ ngày càng chính quy và minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn. Hình 1. Số lưọng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thời kỳ 1992-2004 Nguồn: cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004 Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô tăng mạnh mẽ. Trong 4 năm các doanh nghiệp đã đầu tư (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 182.175 tỷ đồng (tương đương khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong 9 cùng thời kỳ); trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là gần 3 tỷ USD, năm 2003 khoảng 3,6 tỷ USD và hết tháng 5-2004 khoảng 1,8 tỷ USD. Riêng số vốn mới đăng ký giai đoạn 2000-2003 đã cao gấp hơn 4 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999). Vốn đăng ký mới ở tất cả các tỉnh thành phố từ năm 2000 đến tháng 7-2003 đều cao hơn số vốn đăng ký thời kì 1991-1999. Trong đó, có 33 tỉnh, thành phố đạt tốc tăng cao gấp hơn 4 lần; có 11 tỉnh đạt tốc độ tăng cao hơn 10 lần; thậm chí có những tỉnh như: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên …đạt tốc độ hơn 20 lần. Xét về tỷ lệ gia tăng, vốn đăng ký mới ở các tỉnh, thành phố phía bắc tăng nhanh và cao hơn nhiều so với các tỉnh khác, nhất là các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung. Hình 2. Số vốn đăng ký hàng năm của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thời kỳ 1998-2004 Đơn vị: tỷ đồng Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004 Kết quả là tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002; và năm 2003 trên 27%. Tỷ trọng đầu của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước (DDNN), gần bằng tổng vốn đầu tư của DDNN và tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồng vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, đầu tư 10 của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của DDNN và ngân sách nhà nước gộp lại (36,5%). Quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng. Thời kỳ 1991-1999 vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2001 là 1,3 tỷ đồng, năm 2002 là 1,8 tỷ đồng: 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ đồng. Doanh nghiệp đăng ký vốn thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ đồng (hơn 13 triệu USD). Nhìn chung, số vốn đăng ký cao nhất phổ biến ở các địa phương là 10 tỷ đồng. Ở Quảng Nam, mức vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp thấp nhất (422 triệu đồng ), tiếp đó là Nam Định 544 triệu đồng, mức vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp cao nhất là ở Hưng Yên, gần 3 tỷ đồng; tiếp đó là Quảng Ninh và Bình Dương gần 2,5 tỷ đồng; mức vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 1,25 tỷ đồng . Vốn đầu tư thực tế. Đây là một vấn đề khó xác định chính xác, nhưng qua phản ánh từ nhiều nguồn thông tin đều cho thấy số vốn thực tế cao hơn nhiều so với số vốn đăng ký. Đánh giá này có thể được khẳng định qua khảo sát thực tế ở một số tỉnh. Ví dụ, ở tỉnh Nam Định số vốn đăng ký của các doanh nghiệp năm 2002 là 84,5 tỷ đồng, thì số vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp tại khu công nghiệp Hoà Xá đã lên tới gần 700 tỷ trong cùng thời kỳ; ở tỉnh Lào Cai, trong khi vốn đăng ký kinh doanh năm 2002 chỉ khoảng 93 tỷ, thì vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp là 422 tỷ, trong đó phần quan trọng là của khuc vực kinh tế tư nhân. Tình hình cũng tương tự ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình và một số nơi khác. Bảng 2. Vốn đăng ký trung bình của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thời kỳ 1991-2004 Đơn vị tính: triệu đồng Loại hình doanh 1991- 1999 2000 2001 2002 2003 2004 11 nghiệp 1998 Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH Công ty cổ phần Công ty hợp danh 197 1.006 11.832 - 400 1.360 5.136 - 439 1.091 4.223 550 546 1.276 4.923 88 629 1.513 6.473 - 665 1.577 6.675 300 621 1.603 5.783 981 Tổng 570 1.099 960 1.300 1.800 2.120 2.015 Thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN), theo thống kê chưa đầy đủ, sau 9 năm thực hiện (1996-2003), cả nước đã có 12.638 dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, với tổng số vốn đầu tư thực hiện trên 192.484 tỷ đồng (tương đương 12,8 tỷ USD). Trong đó, giai đoạn 1996-1997 là trên 1,2 tỷ USD, năm 2000 là 1,7 tỷ USD, năm 2002 là 2,8 tỷ USD. Đến nay, tỷ trọng của doanh nghiệp dân doanh liên tục tăng và đã vượt lên hẳn tỷ trọng đầu tư của DNNN tương đương là 62,3% và 37,7% . Các dự án đầu tư theo Luật KKĐTTN đã thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Tính bình quân mỗi dự án có số vốn đầu tư khoảng 15,2 tỷ đồng và thu hút khoảng 120 lao động. Một điểm đáng ghi nhận nữa là sự hưởng ứng của các nhà đầu tư Việt Kiều với Luật này và cơ chế, chính sách tạo diều kiện đầu tư về nước: tính đến tháng 12-2003, trên cả nước có 1.200 dự án với lượng vốn đầu tư khoảng 2.500 tỷ đồng. Bảng 3: Số lượng dự án được hưởng ưu đãi đầu tư theo ngành nghề, địa bàn (1996- 6/2004) Dự án ưu đãi theo ngành nghề và địa bàn Số dự án Vốn đầu tư (tỷ đồng) Lao động(người) 12 Số dự án ưu đãi theo ngành nghề Số dự án được ưu đãi theo địa bàn : - Địa bàn kinh tế xã hội khó khăn - Địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn 6.496 1.863 550 63.135 8.350 1.720 789.069 165.080 76.540 Nguồn: Viện nghiên cứu QLKTTƯ tổng hợp qua báo cáo của các tỉnh/thành phố 1.3. Tạo nhiều công ăn việc làm mới Nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,4-1,5 triệu người đến tuổi tham gia thị trường lao động. Ngoài ra, số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Nhu cầu hàng năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với chính phủ và các cấp chính quyền địa phương Thực tế ở địa phương cho thấy, 1 ha trồng lúa chỉ giải quyết dược 5 lao động (gồm 2 thường xuyên và 3 thời vụ) và có doanh thu từ 20-30 triệu đồng, hàng năm 1 ha trồng cây lâu năm cho doanh thu từ 40-50 triệu đồng .Trong khi 1 ha đất phục vụ phát triển công nghiệp có thể sử dụng hàng chục hàng trăm lao động mỗi năm với thu nhập bình quân mỗi năm gần 10 triệu đồng. Theo điều tra gần đây của Viện nghiên cứu Trung ương, các doanh nghiệp kinh tế tư nhân đầu tư trung bình từ 70-100 triệu đồng là đã tạo ra một chỗ việc làm, trong khi đó với doanh nghiệp nhà nước, thì doanh số từ 210 đến 280 triệu đồng (cao gấp 3 lần), Với suất đầu tư cho một chỗ làm bình quân như vậy, trong 4 năm qua khu vực kinh tế tư nhân thu hút được phần lớn nhân công lao động (khoảng từ 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc mới). Kết quả sơ bộ tình hình thực hiện luật KKĐT cho thấy , trong 9 năm thực hiện đã có trên 1,5 triệu lao động được làm trong các dự án thực hiện theo 13 Luật. Riêng khu vực kinh tế dân doanh đã tạo ra hơn 1 triệu việc làm trực tiếp và hàng nghìn lao động gián tiếp, đưa tổng số lao động gián tiếp làm trong các doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng các doanh nghiệp nhà nước; và đưa tổng số lao động làm trong các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân lên hơn 7 triệu người. Đây là sự đóng góp tích cực vào ổn định chính trị xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao nhận thức của lao động nông thôn 1.4. Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu Nhiều sản phẩm xuất khẩu của nước ta hiện nay đều do khu vực kinh tế tư nhân sản xuất, như: hàng may mặc, giầy dép, đồ da, hàng thuỷ hải sản, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, v.v..Theo đánh giá của Bộ Thương mại, khu vực kinh tế tư nhân, mà chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thành phố trực thuộc trung ương, đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong các năm qua. Với xu thế phát triển này, kinh tế tư nhân sẽ là khu vực tạo nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước trong tương lai. Tuy vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp khu vục kinh tế tư nhân ở nhiều địa phương còn nhỏ và có tỷ lệ chênh lệch giữa các vùng và các tỉnh. Doanh nghiệp ở các tỉnh phía Nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa phương trong lúc đó ở các tỉnh phía Bắc nhìn chung còn chưa đáng kể. Các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố, khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (ở Tp.Hồ Chí Minh là 12,5%). Nhìn chung, tỷ lệ này ở địa phương là rất thấp, dưới 10%; tuy nhiên cũng có một số cá biệt như; Hà Giang chiếm 60% xuất khẩu của địa phương, Quảng Ngãi 34%, Bình Thuận 45%. 1.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào nguồn ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng lên trong mấy năm gần đây, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7,4% năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 5,2% và 6%, của DNNN là 21,6% và 23,4% ). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh 14 năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003, số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm 15% tổng số thu tăng 29,5% so với cùng kỳ các năm trước. So với ngân sách trung ương, đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu của ngân sách địa phương là 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Ninh Bình 19%, Yên Bái 16%, Thái Nguyên 17%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33% v.v.. Nhìn chung đóng góp trực tiếp vào nguồn ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể theo Luật Doanh nghiệp trong mấy năm qua là chưa tương xứng với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này. Ngoài đóng góp vào ngân sách, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương trong cả nước. 1.6. Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật KKĐTTN và các cơ chế, chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vốn đầu tư đến quy mô hoạt động, đã đóng góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc dẩy tăng trưởng kinh tế. Tác động tích cực này được chuyển tải thông qua tăng thêm vốn đầu tư, thu hút thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền kinh tế nhờ tăng thêm tính cạnh tranh trên thị trường v.v… Về sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tăng một cách đột biến, từ 11% năm 1999 lên 18,3% năm 2000 và tiếp tục duy trì ở mức cao 20,3% năm 2001, 19,3% năm 2002, 8 tháng đầu năm 2003 là 18,4% (so với cùng kỳ năm 2002). Trong 8 tháng đầu năm 2004, giá trị sản xuất ở một số địa phương tăng với mức cao như Hà Nội: 25,8%, Hải Phòng: 15 23%, Hà Tây: 38,4%, Hải Dương: 25,2%, Vĩnh Phúc 27,2%, Bình Dương: 25,6% và cần thơ: 50,3%. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc v.v..Đến nay, tỷ trọng giá trị sản xuất của doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26,5% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 1,85 điểm phần trăm so với thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2004, và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000, năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh nghiệp. 1.7. Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ Trong những năm gần đây, đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào việt Nam mang theo những công nghệ và kỹ năng quản lý mới, đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ứng dụng tiến bộ công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình trên thị trường. Năm 2002, ước tính cả nước có khoảng 200 hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó khoảng 90% số hợp đồng là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Cho đến nay, mới chỉ có một số DNNN quy mô lớn (chủ yếu là các tổng công ty 90, 91) có cơ sở hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho nghiên cứu, triển khai của khối DNNN ở Việt Nam cũng còn ở mức thấp, khoảng 0,2% doanh thu, qúa thấp so với tỷ trọng 5-10% của doanh nghiệp các nước phát triển. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân hầu như chưa tham gia hoạt động nghiên cứu và triển khai. Trong ba giai đoạn phát triển công nghệ là tiếp thu, làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam chỉ dừng ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập khẩu máy móc và thiết bị. Trong công nghệ nhập khẩu, tỷ trọng giá trị phần mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu, còn lại chủ yếu 16 là phần cứng và máy móc, thiết bị. Các doanh nghiệp hiện chưa có động lực nghiên cứu đổi mới công nghệ để tiếp cận dần tới khả năng sáng tạo công nghệ. Hàm lượng công nghệ cao và chât xám trong hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, sản phẩm được làm ra chủ yếu mới dựa vào vốn và lao động. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân khách quan là do nền kinh tế Việt Nam có quy mô sản xuất nhỏ và manh mún, trình độ chuyên môn hoá chưa cao, nguồn vốn tài chính và vốn nhân lực hạn chế, còn có những nguyên nhân khác như môi trường kinh doanh hiện tại chưa tạo áp lực đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ. Chính sách bảo hộ bất hợp lý, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cơ chế bao cấp, nhiều đặc quyền còn tồn tại với một bộ phận doanh nghiệp, sự bất ổn định trong cơ chế chính sách là những yếu tố làm cho các doanh nghiệpViệt Nam có xu hướng muốn tìm kiếm những lợi ích đặc quyền chính có được lợi ích ngắn hạn hơn là xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn,v.v.. 2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân 2.1. Những mặt hạn chế Có thể nói, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam còn yếu kém về đầu tư vốn, trình độ công nghệ, tay nghề của công nhân, năng lực quản lý và những yếu tố khác, cũng như còn gặp khó khăn trong việc duy trì lợi nhuận và đảm bảo sức cạnh tranh cần thiết. Nhìn chung, tuy các doanh nghiệp tư nhân còn đang chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, song quy mô còn quá nhỏ bé, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh để có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trình độ và kỹ năng quản lý còn yếu kém, khó ứng phó trước những tác động bên ngoài, hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiếu thông tin về thị trường. Khả năng tài chính còn hạn chế, dẫn đến quy mô kinh doanh nhỏ bé, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Kém hiểu biết về luật pháp. 2.2. Những vấn đề bức xúc cần giải quyết 17 2.2.1. Vấn đề đất đai Luật Đất đai năm 2003 và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật được ban hành trong năm 2004 là khung pháp luật rất quan trọng, mang tính đột phá, dỡ bỏ nhiều rào cản, vướng mắc cho các doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân về quyền có mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn rất nhiều tồn tại cần phải khắc phục, trong đó có ba nhóm vấn đề bức xúc nhất: Thứ nhất, cơ chế quản lý nhà nước về đất đai. Hiện tại, vẫn còn nhiều đầu mối trong việc quản lý đất đai dẫn đến khó khăn khi xác định vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý khác nhau. Thực tế là ở cấp địa phương, doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn khi phải tiếp cận với nhiều cơ quan chức năng khác nhau để giải quyết vấn đề đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Thứ hai, vấn đề quy hoặch đất. Nhiều doanh nghiệp rất bức xúc trước tình trạng nhiều thông tin không rõ ràng, không đầy đủ về quy hoạch cũng như kế hoạch sử dụng đất của địa phương. Tình trạng các địa phương không làm tốt công tác quy hoạch đất đai và tình trạng quản lý nhà nước về đất đai yếu kém đang là hiện tượng phổ biến ở các địa phương. Điều này gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và đầu tư mở rộng sản xuất. Cho đến năm 2004, tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai cho kinh doanh vẫn còn rất thấp. Thủ tục để doanh nghiệp sử dụng đất trong các KCN còn rất phức tạp, mất nhiều thời gian; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn rất chậm khiến doanh nghiệp không yên tấm sản xuất, hạn chế quyền thế chấp để vay vốn. Nhiều doanh nghiệp cho rằng, các chính sách tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, kinh doanh hiện nay dường như mới chỉ phục vụ cho một nhom đối tượng doanh nghiệp có quy mô lớn, trong khi đó ở nước ta hiện nay, có tới 96% doanh nghiệp là quy mô vừa và nhỏ. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể vào được các khu công nghiệp do giá thuê đất qúa cao. 18 Thứ ba, vẫn còn tồn tại bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh: doanh nghiệp nhà nước được giao đất không thu tiền sử dụng đất; chủ chương về giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải bao gồm giá trị quyền sử dụng đất chưa được thực hiện nhất quán. 2.2.2. Vấn đề thuế và hải quan Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, nhưng vấn đề bức xúc nhất hiện nay là việc thực thi chính sách còn yếu kém. Nhiều chính sách về thuế, hải quan đã được Chính phủ, Bộ Tài chính hứa hẹn giải quyết trong các cuộc tiếp xúc, đối thoại với doanh nghiệp trước đây, nhưng cho đến cuối năm 2004 vẫn còn rất nhiều vướng mắc. Khuôn khổ pháp lý và chính sách vẫn chưa thực sự đến với các doanh nghiệp. Kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy mới có khoảng 50% doanh nghiệp hài lòng với các thủ tục và công chức của ngành thúê. Trong hơn một năm, kể từ Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp doanh nghiệp tháng 3 năm 2003 đến Hội nghị tháng 10 năm 2004 đã có trên 1.000 kiến nghị của doanh nghiệp về lĩnh vực thuế và hải quan. Các vướng mắc của doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế và hải quan thể hiện ở một số vấn đề chủ yếu sau: Xác định thuế GTGT đầu vào và thủ tục hoàn thuế GTGT là hai vấn đề bức xúc nhất của doanh nghiệp. Về tính hợp lệ của các khoản thuế GTGT đầu vào, doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc trong việc xác minh hóa đơn GTGT. Việc chứng minh các nguồn gốc các khoản chi phí mua ngoài trị giá từ 100.000 đồng trở lên bằng hoá đơn đã gây ra nhiều trở ngại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế là nhiều đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp không có hoặc không đăng ký mua hoá đơn với cơ quan thuế (như nông dân, các hộ kinh doanh cá thể bán nông sản, dịch vụ). Như vậy, khi mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào của các cơ sở hoặc cá nhân không có hoá đơn GTGT thì doanh nghiệp không được tính vào chi phí hợp lý và buộc phải chịu 19 thuế, hoặc khi xác minh tính hợp lệ của cơ sở sản xuất hoá đơn, cơ quan thuế không tìm được vì cơ sở đó đã chấm dứt hoạt động (bỏ trốn) thì cơ quan thuế lại không cho doanh nghiệp được sử dụng những hoá đơn này để khấu trừ và thậm chí còn phạt doanh nghiệp mua hàng. Đây là một nghịch lý vì trách nhiệm quản lý, kiểm tra việc sử dụng và thu hồi hoá đơn của các cơ sở đã chấm dứt hoạt động là của cơ quan thuế. Theo quy định, từ lúc doanh nghiệp nộp hồ sơ xin hoàn thuế thì cơ quan thuế phải giải quyết trong thời hạn không qúa 60 ngày. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp phải chờ từ 3-6 tháng, cá biệt có một số doanh nghiệp phải chờ từ 2-3 năm. Thời gian hoàn thuế kéo dài làm cho nhiều doanh nghiệp không thể tận dụng nguồn tài chính của mình phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng, chịu lãi trong khi chờ đợi được hoàn thuế, hàng tỷ đồng vốn thực có của doanh nghiệp đang bị cơ quan thuế kìm giữ, làm giảm khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp chỉ được đưa chi phí khoản chi cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị… tối đa là 10% của tổng các chi phí hợp lý. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, quảng cáo và tiếp thị là một phần quan trọng của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp mới thành lập. Thực tế cho thấy, trong thời gian đầu, chi phí quảng cáo tiếp thị có thể lên tới 30% tổng chi phí của doanh nghiệp. Như vậy, quy định khống chế 10% đã làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn, do đó, quảng cáo trên báo, đài chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp lớn. Thuế nhập khẩu của một số loại hàng hóa không hợp lý đang làm cho nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường nội địa. Chính sách thuế không ổn định, việc hướng dẫn thực hiện chưa thực sự chi tiết, trong khi thực tiễn lại có nhiều hoạt động phát sinh dẫn đến cách hiểu, cách thực hiện khác nhau, thiếu đồng bộ, chưa thống nhất và doanh nghiệp bị thiệt thòi. Việc áp mã số hàng hoá, thuế suất hàng hóa trong nước trong nhiều 20 trường hợp còn lúng túng, một số tiêu thức phân biệt chưa rõ ràng đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong kê khai, khấu trừ thuế. Các quy trình giải quyết hoàn thuế, thủ tục hải quan, phân loại hàng hoá, áp mã số thuế, giá tính thuế v.v..vẫn còn chậm so với yêu cầu; hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế, hải quan và các cơ quan chức năng khác còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp, không sử dụng kết quả của nhau; thiếu sự bình đẳng giữa các cơ quan thuế và doanh nghiệp trong xử lý truy thu, phạt chậm nộp, hoàn thuế chậm hoặc gây thiệt hại, khó khăn cho doanh nghiệp. Một số cán bộ trong ngành thuế còn gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp. 2.2.3. Thủ tục hành chính Thủ tục hành chính rườm rà đang là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp. Theo Hội hội Công thương Thành phố Hà Nội, sau khi đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp còn phải hoàn tất nhiều thủ tục khác nữa và mất nhiều thời gian thì mới có thể chính thức hoạt động như xin phép khắc dấu, đăng ký mã số thuế, xin cấp sổ mua hoá đơn… sau khi nhận giấy đăng ký kinh doanh, trung bình một doanh nghiệp phải mất từ 54 – 63 ngày mới có thể hoàn thành hàng loạt công đoạn với nhiều thủ tục. Cho đến nay, khi gia nhập thị trường, doanh nghiệp còn phải trải qua 6 bước: 1) đăng ký kinh doanh; 2) khắc dấu; 3) đăng ký mã số thuế; 4) đóng thuế môn bài; 5) mua hoá đơn lần đầu; 6) đăng báo. Doanh nghiệp chi phí khoảng 170 USD (1/3 GDP bình quân/người) để hoàn thành công đoạn gia nhập thị trường. Trong khi đó, ở Australia chỉ cần 2 thủ tục và 2 ngày với chi phí 2% GDP bình quân/người; Singapore chỉ cần 7 thủ tục trong 8 ngày với chi phí bằng 1,2% GDP bình quân/người để thành lập doanh nghiệp. Cho đến nay, một số bộ, UBND tỉnh vẫn có lệnh cấm kinh doanh áp dụng riêng cho ngành, địa phương mình, phổ biến nhất là nhóm ngành, nghề được coi là nhạy cảm. Trong hơn 4 năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã ba lần chỉ thị UBND các địa phương bãi bỏ ngay các quy định không đúng thẩm quyền về tạm dừng hoặc cấm kinh doanh. Tuy nhiên, hiện tượng này không giảm mà còn tăng lên. Theo thống kê chưa đầy đủ của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, 21 đến tháng 6 năm 2004 vẫn còn một số bộ và 12 tỉnh/thành phố còn duy trì các lệnh cấm, hoặc tạm dừng đăng ký kinh doanh không đúng với quy định của Luật Doanh nghiệp. Trong bốn năm qua, đã có hàng chục giấy phép được ban hành mới, không ít hiện tượng làm trái quy định về đăng ký kinh doanh vẫn tiếp tục tồn tại như đòi nộp thêm hồ sơ trái quy định (xác nhận lý lịch tư pháp của người chủ doanh nghiệp, xác nhận địa chỉ, trụ sở chính, chi nhánh và văn phòng đại diện v.v..), xác nhận hợp đồng thuê trụ sở, địa điểm kinh doanh, đòi hỏi giấy chứng nhận điều kiện kinh doanh trước khi thành lập doanh nghiệp. Cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, thủ tục hành chính là một khâu có tốc độ chuyển biến chậm mặc dù nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều thủ tục mặc dù đã được cải hiện song vẫn chưa đáp ứng được với những thay đổi môi trường bên ngoài, không so sánh được với những cải cách của các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp đang thực sự bức xúc với những vướng mắc trong thủ tục, trong cách hành sử của một bộ phận công chức đối với các quy định của luật pháp. Tình trạng chậm trễ trong việc thực hiện các chính sách đang trở lên khá phổ biến trong các cơ quan hành chính. Sự nhất quán trong cơ chế chính sách, giữa các quy định pháp luật và việc thực thi chính sách của các cấp chính quyền đang nổi lên như là điểm nóng nhất. 2.2.4. Môi trường pháp lý vẫn đang là vấn đề bức xúc nhất đối với khu vực kinh tế tư nhân. Một số văn bản pháp lý chưa theo kịp với các chế tài quy định trong Luật Doanh nghiệp. Sự chậm chễ trong việc ban hành các văn bản pháp lý vẫn là hiện tượng phổ biến như thông tư hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghế tư nhân pháp lý, hướng dẫn xác định thân nhân người thành lập doanh nghiệp. Trên thực tế, môi trường kinh doanh sau Luật vẫn chưa thực sự bằng phẳng, thậm chí có những tác động làm méo mó thể chế kinh tế thị trường như xu hướng hình thành sự hoá các quan hệ dân sự. Một số bộ ngành và địa phương có lúng túng trong công tác quản lý, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp. Những bức xúc về môi trường pháp lý cũng 22 như sự yếu kém, bất cập của các cơ quan quản lý nhà nước ở một số nơi đã làm sai lệch, méo mó những chủ trương, chính sách của Đảng kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân. Chi phí trung gian vẫn đang ở mức cao làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập. Hiện nay, giá thành một số sản phẩm đầu vào của doanh nghiệp cao hơn các nước ASEAN và Trung Quốc từ 1,2 đến 1,5 lần. Chẳng hạn, giá điện, dầu, than, ga ở nước ta cao hơn 30% đến 40%; chi phí vận tải cao hơn 1,5 lần; cước điện thoại Internet vẫn cao hơn 6 lần so với Singapore, gần 5 lần so với Philipines, 3 lần so với Indonesia. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải đóng nhiều lệ phí, loại phí khác. Mức chi phí đầu vào cao đã tác động đến giá thành sản phẩm làm cho kinh tế tư nhân khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và hạn chế vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và quốc tế. Ngoài ra, cho đến năm 2004, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc, như sự bình đẳn thực sự giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng; sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực như điện, nước, bưu chính, viễn thông…; việc cụ thể hoá quyền của các doanh nghiệp theo nguyên tắc doanh nghiệp được phép làm những gì mà pháp luật không cấm như doanh nghiệp được quyền thuê lao động nước ngoài mà không cần xin phép, quyền góp vốn liên doanh, liên kết và bán cổ phần với nhà đầu tư nước ngoài ở những ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cấm; thực hiện đồng bộ chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ; kiện toàn hệ thống kinh doanh trong toàn quốc; thành lập ngân hàng dữ liệu cung cấp thông tin về khoa học – công nghệ mới; hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại, thâm nhập thị trường mới, hỗ trợ thông tin thị trường; đào tạo doanh nhân; xây dựng vườn ươm doanh nghiệp; thực hiện các quy định kiểm tra sau đăng ký kinh doanh…Các vấn đề này đã được cộng đồng doanh nghiệp đề xuất và đã được Chính phủ, các bộ, ngành hứa sẽ tiếp tục giải quyết. 23 2.2.5. Một bộ phận cán bộ, công chức và dư luận xã hội chưa thực sự có cái nhìn đồng thuận về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân Sở dĩ như vậy là do nhận thức và tâm lý, thói quen tư duy cũ, một bộ phận không nhỏ trong xã hội, trong đó có cả cán bộ, công chức nhà nước vẫn chưa hết mặc cảm với kinh tế tư nhân, chưa có cách nhìn nhận đúng vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa thực sự quán triệt chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước ta. Vẫn có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế tư nhân là đối lập với định hướng XHCN. Tâm lý dè dặt, e ngại đối với kinh tế tư nhân đang là rào cản đối với sự phát triển của khu vực kinh tế này. Từ một số biểu hiện sai trái của một số ít doanh nghiệp, một số người còn cho rằng kinh tế tư nhân là trốn lậu thuế, làm ăn phi pháp v.v.. Mặc dù đã gần 20 năm đổi mới nhưng thái độ và cách nhìn nhận đối với kinh tế tư nhân như trên đã làm giảm ý chí kinh doanh và tinh thần lập nghiệp của một bộ phận dân cư, đặc biệt là các doanh nhân. 3. Nguyên nhân và những tồn tại 3.1. Vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư nhân Một yếu tố không thể nói đến là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn có tâm lý dè dặt trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Sự lo ngại này có nguồn gốc sâu xa từ những biến cố trong lịch sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước, cũng như từ thực tế diễn ra hàng ngày ở các cấp khác nhau hiện nay. Tư duy cũ của thể chế kế hoạch hoá tập trung không công nhận thị trường, không công nhận kinh tế tư nhân v.v.. vẫn còn tồn tại, chi phối một số cán bộ lập cơ chế chính sách, luật pháp cũng như trong hoạt động thực tiễn của bộ máy nhà nước. Giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân còn tồn tại nhiều phân biệt đối xử, cả trong việc đề ra chính sách, lẫn trong việc thực hiện chính sách, chẳng hạn DNNN có những lợi thế hơn so với doanh nghiệp tư nhân trong vay vốn ngân hàng như thủ tục và điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế chấp, dễ dàng thuê đất hơn, tiếp cận tín dụng ưu đãi của Chính phủ dễ dàng hơn. 24 Luật Doanh nghiệp quy định rõ việc cấm và hạn chế một số lĩnh vực kinh doanh. Tuy vậy, khái niệm “các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm” đang bị lạm dụng bởi một số cơ quan có thẩm quyền nhằm cản trở người dân kinh doanh các ngành kinh tế mới. 3.2. Những nguyên nhân từ cơ chế, chính sách Hiện nay có 4 rào cản chính đang hạn chế sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đó là: Hiện đang tồn tại mâu thuẫn: đổi mới kinh tế đang được đẩy mạnh, Đảng và Nhà nước đã đề ra những quyết sách để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, hâm nóng lại môi trường đầu tư trong nhân dân và doanh nghiệp, những bộ máy quản lý nhà nước và công chức chuyển không kịp. Bộ máy chưa được sắp xếp theo yêu cầu của thể chế mới, đang còn nhiều trường hợp bộ máy trùng lắp, nhiều cơ quan cùng làm một việc nhưng đùn đẩy nhau, trách nhiệm không rõ ràng. Vẫn còn không ít công chức lưu luyến cung cách quản lý cũ, không chịu rời bỏ thứ quyền lực đã nhiều năm gây phiền hà cho doanh nghiệp. Còn tồn tại nhiều thủ tục hành chính rườm rà, không cần thiết hoặc bất cập với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến không những tạo cơ hội phát triển tệ sách nhiễu, tham nhũng của các cơ quan và công chức hành chính, mà còn có thể khiến doanh nghiệp đánh mất những cơ hội kinh doanh tốt, hoặc phải trả giá đắt hơn cho các giao dịch làm ăn của mình. Hiện nay có hiện tượng là văn bản pháp quy do bộ, ngành nào dự thảo thì thường nghiêng về quyền lực và lợi ích của bộ, ngành đó, không đứng về phía người thi hành là doanh nghiệp, thậm chí không đứng về lợi ích của toàn xã hội, do đó nhiều văn bản không khả thi, không đi vào cuộc sống, ngược lại, gò bó, trói buộc người dân và doanh nghiệp. Trên lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, Chính phủ đã có Nghị định 61, ngày 15-8-1998, quy định rõ về công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền. Luật Doanh nghiệp cũng quy định rõ: việc thanh tra tài chính được thực hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp; thời hạn 25 thanh tra không quá 30 ngày; khi thanh tra phải có quyết định và kết thúc phải có biên bản kết luận; công chức lợi dụng thanh tra để sách nhiễu doanh nghiệp thì phải bị xử lý, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không nhiều doanh nghiệp dám thực hiện quyền “tư chối” của mình trong trường hợp thanh tra, kiểm tra không đúng pháp luật. Bởi lẽ, doanh nghiệp kiện cơ quan hành chính là việc “dân kiện quan”, rất không dễ dàng, nên phần lớn đều tìm giải pháp mềm dẻo hơn để được việc và khỏi mất thời gian. Nguyên nhân chính của tình trạng này là cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và bộ máy của Toà Hành chính đang có nhiều bất cập. 3.3. Những nguyên nhân của bản thân doanh nghiệp Một số nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp dân doanh dường như phát triển chậm về quy mô (kể cả quy mô về vốn và lao động). Có một số cách giải thích cho tình trạng này. Thứ nhất, các doanh nghiệp lúc mới đăng ký thường rất nhỏ và phải mất vài năm để đạt tới quy mô lao động từ vài chục đến vài trăm người. Thứ hai, những khó khăn về vốn, thị trường và bí quyết sản xuất, kinh doanh cản trở doanh nghiệp tăng quy mô. Thứ ba, đó là những lo lắng về rủi ro đầu tư và rủi ro kinh doanh. Thứ tư là những khó khăn về hành chính, trong đó có cả sự sách nhiễu từ phía các cơ quan công quyền, đã cản trở doanh nghiệp mở rộng, phát triển. 3.3.1. Khó khăn về vốn Tình trạng thiếu vốn rất phổ biến của bản thân các doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập và phát triển trong những năm gần đây, nên vốn đầu tư và tài sản ít, không đủ thế chấp cho các khoản vay cần thiết, chưa đủ uy tín để vay mà không cần thế chấp. Hệ thống ngân hàng thương mại mà nòng cốt là ngân hàng thương mại quốc doanh lại ngần ngại cho các doanh nghiệp tư nhân vay vốn. Bên cạnh đó, các quy định về thế chấp còn chưa đầy đủ, phức tạp, tình trang ngân hàng đánh giá quá thấp giá trị tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhằm đảm bảo an toàn cho mình là phổ biến. 26 3.3.2. Khó khăn về mặt bằng sản xuất Thiếu mặt bằng sản xuất, cũng như các điều kiện hạ tầng sản xuất cần thiết là tình trạng chung của khu vực kinh tế tư nhân. Các địa phương còn chậm quy hoạch mặt bằng dành cho các hoạt động sản xuất công nghiệp, nên các doanh nghiệp tư nhân thường không có cơ hội thuê đất tại địa phương để xây dựng nhà xưởng sản xuất. Các khu công nghiệp lớn, có cơ sở hạ tầng hiện đại, giá thuê đất cao, thường chỉ thích hợp cho các doanh nghiệp lớn và DNNN mà không phù hợp với các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, vốn chủ yếu có quy mô còn nhỏ và eo hẹp về tài chính. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phải thuê đất của các doanh nghiệp nhà nước với giá cao để sản xuất. Điều đó đã làm tăng giá thành sản phẩm, đồng thời doanh nghiệp tư nhân đi thuê lại đất (thường là thuê ngắn hạn) không dám đầu tư dài hạn vào máy móc thiết bị vì e ngại phải trả lại đất vào bất kỳ lúc nào. Trước tình hình “sốt giá đất” như hiện nay, thì khó khăn về mặt bằng kinh doanh đối với doanh nghiệp khu vực tư nhân càng trầm trọng hơn. 3.3.3. Khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu Thị trường trong nước còn quá nhỏ bé tăng trưởng chậm do thu nhập dân cư còn thấp và tăng trưởng chậm chạp. Chiến lược CNH kiểu thay thế nhập khẩu với các dự án với quy mô lớn bằng ngân sách nhà nước mà lại tạo được rất ít việc làm đã làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư chậm được cải thiện. Ngoài ra, Nhà nước là một hộ tiêu thụ lớn, nhưng hàng hóa mà Nhà nước mua sắm, như thực tế các năm qua cho thấy, hầu hết là do các sản phẩm do các doanh nghiệp tư nhân làm ra. Kết quả là thị trường trong nước đối với các sản phẩm của họ phát triển chậm. Về xuất khẩu, những khó khăn chính mà doanh nghiệp tư nhân gặp phải là: tiếp cận hạn ngạch xuất khẩu còn hạn chế và dường như DNNN vẫn có ưu thế hơn; thiếu thông tin về thị trường và bạn hàng nước ngoài, thiếu mạng lưới tiếp thị; tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu chưa đáp ứng được nhu cầu 27 của doanh nghiệp tư nhân; thủ tục hải quan còn phức tạp, phiền toái, việc thực hiện thuế nhập khẩu tuỳ tiện do mã số thuế không đầy đủ; Về xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp tư nhân gặp phải các khó khăn là: ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có diều kiện trưng bày và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu nhân viên có năng lực, kiến thức và thương mại quốc tế. 3.3.4. Khó khăn về quản lý, nguồn nhân lực Đội ngũ các nhà kinh doanh tư nhân ở Vịêt Nam chủ yếu được hình thành trong những năm 90. Vì vậy, họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường… Khó khăn chính về nguồn nhân lực là thiếu cán bộ kỹ thuật như kỹ sư có trình độ và thợ lành nghề bậc cao. Do thái độ của xã hội còn chưa thật sự coi trọng khu vực kinh tế tư nhân, nên nhiều người có trình độ cao còn ngại làm việc cho khu vực này. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, việc tiếp cận các dịch vụ đào tạo nguồn nhân lực do Nhà nước cung cấp có nhiều hạn chế, chủ yếu là do nguồn ngân sách cho việc đào tạo này còn rất hạn hẹp. II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Xoá bỏ sự mặc cảm của xã hội và sự kỳ thị của một số công chức trong bộ máy công quyền đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Một số nhà hoặch định chính sách cũng như triển khai thực hiện vẫn còn nhìn phiến diện đối với các doanh nghiệp dân doanh. Trên thực tế các doanh nghiệp nhà nước vẫn có những ưu thế hơn hẳn về đất đai và tín dụng… so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thời gian tới, cần xác định rõ doanh nghiệp công ích và các sản phẩm, dịch vụ công ích để có cơ chế hoạt động, quản lý riêng. Tiến tới các doanh nghiệp kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều hoạt động “một luật chung” nhằm phát huy triệt để lợi thế so sánh và nội lực của mỗi thành phần kinh tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. 28 Xây dựng cơ chế kinh tế hợp lý theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của quốc gia, đi đôi với đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Đồng thời tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng các công cụ kinh tế nhằm phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường để hướng tới hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Cần quán triệt sâu rộng quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân cho mọi tầng lớp nhân dân lao động trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là một số cán bộ lãnh đạo của các địa phương cần nhận thức rõ và coi việc phát triển kinh tế tư nhân là nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của các địa phương; phải xoá bỏ ngay sự phân biệt bất bình dẳng giữa các thành phần kinh tế. Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân phải được thể hiện trong phương thức làm việc thống nhất, trong nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương. Ví dụ như tiếp tục cải cách hành chính trong công tác đăng ký kinh doanh, công khai hoá thủ tục hành chính đối với các thành phần kinh tế tư nhân; tuyên truyền các chính sách ưu đãi của Nhà nước một cách rộng rãi để mọi người đều biết. 2. Phải tạo môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng Một số chính sách kinh tế của ta còn thiếu tính rõ ràng và hệ thống pháp luật hay thay đổi, do vậy cần hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế theo hướng minh bạch, ổn định, phù hợp dần với thông lệ khu vực và quốc tế, đồng thời chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện tránh tình trạng “trên thông, giữa thắt, dưới bóp” nhằm tạo môi trường cho tự do kinh doanh trên một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trước hết, phải kiên quyết chống độc quyền và bán phá giá. Chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái, chính sách giá, chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách thuế…phải bình đẳng. Cần tách biệt giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội theo 29 hướng Nhà nước dùng các công cụ kinh tế là chủ yếu để điều tiết kinh tế, thu nhập từ đó phục vụ cho chính sách xã hội của Nhà nước… Cần sớm ban hành Luật Doanh nghiệp chung, Luật Đầu tư chung và cần có các cơ quan đầu mối theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của kinh tế tư nhân; tạo mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp. Sớm có các nghị định hướng dẫn và quy định cụ thể đối với đất ở, đất chuyên dùng, đất nhận chuyển nhượng hợp pháp, vấn đề thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế chuyển mục đích sử dụng, tiền thuê đất, quy hoặch đất, tái định cư. Sửa đổi quy định đất ở đã được cấp quyền sử dụng đất đang dùng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh do doanh nghiệp mua lại quyền sử dụng, hoặc đã được giao đất có thu tiền sử dụng đất đều được cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất lâu dài thay vì thuê đất. Chính thức hoá các giao dịch trên thị trường nhà đất. Nhà nước thu hồi và tiến hành đền bù những diện tích bỏ hoang, sử dụng sai mục đích theo quy định của Luật Đất đai để cho doanh nghiệp thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp quy hoạch chung của địa phương; không yêu cầu cơ sở sản xuất, kinh doanh được thuê đất phải tự tiến hành đền bù. Tiếp tục nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích việc sử dụng đất ở những vùng còn nhiều đất chưa sử dụng, đất trống, đồi núi trọc. Tăng cường công tác chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân. Giải quyết tốt việc cho thuê đất để các doanh nghiệp phấn khởi đầu tư hình thành cụm công nghiệp ở các huyện, cụm làng nghề và các làng nghề trong tỉnh. Kiên quyết xử lý những hiện tượng tiêu cực trong việc giao đất cho thuê đất. Nhà nước quy hoạch dành đất xây dựng các khu công nghiệp trong nước, các chợ, siêu thị, văn phòng, nhà kho; sử dụng một phần vốn ngân sách và huy động thêm của các thành phần kinh tế để xây dựng kết cấu hạ tầng cho các hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê được với giá phù hợp. 30 Về chính sách về khu công nghiệp, cụm công nghiệp: Nhà nước cần sớm có những quy định quản lý nhà nước về xây dựng phát triển các khu công nghiệp do địa phương tổ chức thực hiện tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế được đầu tư sản xuất kinh doanh. Cần sớm ban hành cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp dân doanh, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp với trình độ doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa chống thất thu thuế vừa đảm bảo công tác quản lý nhà nước với doanh nghiệp dân doanh sử dụng dich vụ kiểm toán, thực hiện công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm. Thực hiện chính sách tài chính tín dụng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo đảm kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi. Nhà nước hỗ trợ về cơ sở hạ tầng (giao thông, điện nước, thông tin liên lạc,…), tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Khuyến khích thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước. Ban hành qui định về sở hữu trí tuệ tài sản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp khu vực tư nhân được dùng tài sản hình thành tư nguồn vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay đi liền với tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân; bổ sung sửa đổi một số quyết định để tạo thuận lợi cho việc xử lý tài sản thế chấp người vay không trả được nợ đến hạn. 3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng Mười lăm năm đổi mới, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý…của người lao động đã được nâng lên một bước, song vẫn còn rất hạn chế, chưa ngang tầm với đòi hỏi của phát triển nền kinh tế thị trường theo xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế. Theo Bộ Tài chính thì đội ngũ giám đốc của các DNNN (năm 2000) có tới 67% không biết đọc bản báo cáo tài chính hàng năm của 31 doanh nghiệp, vậy làm sao để họ có thể quản lý và sử dụng đồng vốn có hiệu quả được; hơn nữa đa số lại được đào tạo từ thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp nên không ít giám đốc vẫn còn tư tưởng dựa dẫm vào “bầu sữa” Nhà nước. Vậy, cần phải tiến hành quy trình và tiêu chuẩn bổ nhiệm giám đốc DNNN, cần xác định rằng giám đốc doanh nghiệp không chỉ là một chức, mà còn là một nghề phải có trình độ chuyên môn sâu và năng lực tổ chức tốt. Nhiều giám đốc doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ trình độ văn hoá còn chưa hết phổ thông, đây có lẽ cũng là nguyên nhân dẫn đến đa số các vụ án kinh tế lớn vừa qua đều rơi vào các giám đốc có trình độ thấp này. Cần có tiêu thức để công nhận giám đốc các doanh nghiệp dân doanh. Cùng với việc đổi mới hệ thống giáo dục-đào tạo và với chính sách hỗ trợ tích cực cho đào tạo nguồn nhân lực của Nhà nước, các doanh nghiệp cần phải có chiến lược đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao dộng, làm cho việc học tập, nhất là tự học là suốt đời của mỗi người để có tri thức thực sự mà trước hết phải làm chủ được công việc thuộc lĩnh vực công tác được giao. Các Mác đã chỉ ra rằng con người là nhân tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất và suy cho cùng mọi thành công hay thất bại đều do con người tạo ra. Hiện nay, các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cũng đánh giá rất cao nhân tố con người, trên cơ sở nghiên cứu về mọi loại hình doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giáo sư Cô-pen-man, giảng dạy ở Trường quản lý kinh doanh New York, đã kết luận sự thành công của mọi loại hình doanh nghiệp dưa trên ba yếu tố chính là: 1/Sự thoả mãn của người lao động trong doanh nghiệp về vật chất, tinh thần như tiền lương và nhu cầu phát triển nghề nghiệp; 2/Sự thoả mãn của khách hàng khi mua hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp; 3/Hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực khác của doanh nghiệp. Mô hình quản lý này được đánh giá rất cao ở các nước kinh tế phát triển, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng vào quản lý và mang lại hiệu quả thiết thực. Theo họ, khi doanh nghiệp đối xử với người lao động như thế nào thì người lao động sẽ 32 đối xử với khách hàng như vậy. Do đó, công tác quản trị, nhân sự của doanh nghiệp có tốt thì mới thu hút được nhân tài, người lao động mới trung thành và tận tâm, tận lực với doanh nghiệp mình. Nó là động lực bên trong, sức mạnh nội lực thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý nhà nước và người lao động. Các địa phương cần có chính sách trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh doanh của chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối với chủ doanh nghiệp, cần quan tâm bồi dưỡng, giáo dục, phát huy tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp. 4. Doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp Cần phải xây dựng một số chiến lược như: chiến lược phát triển khoa học – công nghệ, chiến lược mặt hàng, chiến lược thị trường…trong điều kiện có sự cạnh tranh của các đối thủ khác trên thương trường. Từ đó có hướng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ phù hợp để nâng cao chất lượng hàng hoá một cách tối ưu, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm… Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học – công nghệ, tại Điều 38, Luật Khoa học và Công nghệ đã được kỳ họp thứ 7 Quốc hội khó X thông qua ngày 9-6-2000 đã nêu rõ: Doanh nghiệp được trích một phần vốn để đầu tư công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được tính vào giá thành sản phẩm; doanh nghiệp được lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên trọng 33 điểm của Nhà nước được xét tài trợ một phần kinh phí nghiên cứu và được vay vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ. Đây là lần đầu tiên, hoạt động khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp được thể chế hóa cao. Do vậy, cần phải triển khai thực hiện Luật Khoa học và Công nghệ để luật này đi vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp mà trước hết là các doanh nghiệp mũi nhọn sẽ có cơ sở để đổi mới công nghệ, rút ngắn dần khoảng cách với các nước phát triển, tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh và năng lực sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Với công nghệ hiện đại cộng với đội ngũ làm chủ được các công nghệ đó và có cơ chế quản lý thích ứng nhất định các doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Đồng thời đây cũng là tiền đề để hình thành và hoạt động của thị trường khoa học và công nghệ ở nước ta. 5. Phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp trong thu thập và cung cấp thông tin, mở rộng và tìm kiếm thị trường mới cho doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh theo hướng xuyên quốc gia. Tăng cường sự liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp để có tiếng nói chung trên thương trường, hạn chế bị các đối tác nước ngoài ép cấp, ép giá. Khuyến khích các hiệp hội doanh nghiệp thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro theo ngành hàng… Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là rất mới mẻ và cũng chưa có tiền lệ trên thế giới, nên trong quá trình vừa xây dựng phát triển vừa tổng kết đúc rút kinh nghiệm, do đó còn những bất cập nhất định về chính sách, luật pháp và chưa tương thích, phù hợp với trong thông lệ khu vực, quốc tế là điều khó tránh khỏi, song với quyết tâm của Đảng và Nhà nước nó nhất định sẽ được hoàn thiện dần trên nền tảng kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan điểm của Đảng và sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ là luôn tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi nhất cho quá trình phát triển kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp không thể ỷ lại mãi vào sự bảo hộ của Nhà nước mà mỗi doanh nghiệp phải nỗ lực tự thân đổi mới để có phương pháp quản 34 lý hiện đại với đội ngũ lao động vốn sẵn có lòng yêu nước, ngày càng vững về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ cùng công nghệ tiên tiến. Như thế nhất định làm ra các sản phẩm chất lượng cao giá thành hạ, kiểu dáng đẹp, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng đa dạng của mọi người trên các thị trường khác nhau. Có như vậy mới chiến thắng được trong các cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn khi chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết kinh tế quốc tế. Sớm thành lập các Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tinh thần hướng dẫn tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23-11-2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cơ chế hoạt động, đối tượng được vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ đầu tư phát triển đã được Chính phủ sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 106/2004/NĐ-CP, tuy nhiên vẫn tồn tại một số vấn đề; đối tượng được vay bị thu hẹp (lý do, phục vụ đầu tư trọng điểm, tập trung); mức lãi suất áp dụng chưa được phù hợp, cần có mức ưu đãi hơn cho các dự án đầu tư tại các địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Cần hình thành các chương trình trợ giúp phát triển những doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Nghị định số 90/2001/NĐ-CP. Khuyến khích hình thành các tổ chức khoa học công nghệ để tư vấn hỗ trợ, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về ứng dụng công nghệ và bồi dưỡng kiến thức khoa học. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học cho kinh tế tư nhân. Các địa phương cần có những chính sách hỗ trợ như: mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin thuê, mua trả góp thiết bị để đổi mới công nghệ, thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; khen thưởng các cá nhân và doanh nghiệp áp dụng có hiệu quả công nghệ tiên tiến. 35 KẾT LUẬN Qua đề tài chúng em nhận thấy được vai trò to lớn của khu vực kinh tế tư nhân trong hệ thống nền kinh tế nước ta không chỉ trong thời điểm hiện nay mà còn cả trong tương lai. Đặc biệt là những đóng góp không nhỏ của khu vực kinh tế tư nhân cho nền kinh tế như: đóng góp vào nguồn thu ngân sách, phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều công ăn việc làm… Nhưng qua đề tài chúng em cũng nhận thấy vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề đang làm cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua. Từ đó chúng em đã quyết tâm nghiên cứu và tìm tòi để cùng nhau đưa ra một số giải pháp, hy vọng nó sẽ giúp giải quyết một số khó khăn, vướng mắc và tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua. Đặc biệt nó càng có ý nghĩa hơn đối với những nhà hoạch định chính sách, những người chủ doanh nghiệp… khi bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang đến gần kề. Chúng em hy vọng những giải pháp đó sẽ phát huy tác dụng giúp cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phát triển ổn định và vững mạnh trong thời gian tới. 36 Tài liệu tham khảo 1.Thời báo kinh tế số 211/2004 2.Nghiên cứu kinh tế số 319-tháng 12/2004 2.Việt Nam với tiên trình hội nhập kinh tế quốc tế 3.Những vấn đề kinh tế nổi bật năm 2004 4.Webtise Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn 37 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN THỜI GIAN QUA ........................................................................................................ 2 1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân ............................................ 2 1.1. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện ............................................ 2 1.2. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp ................................................................ 5 1.3. Tạo nhiều công ăn việc làm mới ................................................................. 8 1.4. Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu ....................................... 9 1.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách ............................................................. 9 1.6. Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .................................... 9 1.7. Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ...................................................... 10 2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân ........................................... 11 2.1. Những mặt hạn chế .................................................................................. 11 2.2. Những vấn đề bức xúc cần giải quyết ........................................................ 11 3. Nguyên nhân và những tồn tại ...................................................................... 16 3.1. Vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư nhân ............................ 16 3.2. Những nguyên nhân từ cơ chế, chính sách ................................................. 16 3.3. Những nguyên nhân của bản thân doanh nghiệp ........................................ 17 II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ........................................................................... 18 1. Xoá bỏ sự mặc cảm của xã hội và sự kỳ thị của một số công chức trong bộ máy công quyền đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ............................. 18 2. Phải tạo môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng .............................. 19 3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng ............................................................................................... 20 4. Doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp22 5. Phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp trong thu thập và cung cấp thông tin, mở rộng và tìm kiếm thị trường mới cho doanh nghiệp ..... 23 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 24 38 Tài liệu tham khảo ......................................................................................... 25

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.pdf
Tài liệu liên quan