Luận văn Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Tài liệu Luận văn Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: LUẬN VĂN: Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp tác xã (HTX) là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Có thể nói, ý tưởng HTX là một ý tưởng hợp tác kinh tế vĩ đại của các bậc tiền bối. Ý tưởng này đã hình thành một cách tự nhiên từ những đòi hỏi, nhu cầu thực tế của con người trong hoạt động kinh tế. Con đường hợp tác đưa nông nghiệp, nông thôn quá độ lên CNXH ở nước ta đã trải qua hơn 50 năm. Quá trình ấy đã có những biến đổi, những bước thăng trầm do những điều kiện khách quan và những nhân tố sai lầm chủ quan. Song kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX trong những năm qua, đã có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển KT- XH của đất nước. Thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, đặc biệt thực hiện Nghị quyết 13 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu qu...

pdf102 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp tác xã (HTX) là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Có thể nói, ý tưởng HTX là một ý tưởng hợp tác kinh tế vĩ đại của các bậc tiền bối. Ý tưởng này đã hình thành một cách tự nhiên từ những đòi hỏi, nhu cầu thực tế của con người trong hoạt động kinh tế. Con đường hợp tác đưa nông nghiệp, nông thôn quá độ lên CNXH ở nước ta đã trải qua hơn 50 năm. Quá trình ấy đã có những biến đổi, những bước thăng trầm do những điều kiện khách quan và những nhân tố sai lầm chủ quan. Song kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX trong những năm qua, đã có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển KT- XH của đất nước. Thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, đặc biệt thực hiện Nghị quyết 13 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, phong trào phát triển HTXNN ở Quảng Nam không ngừng được củng cố và ngày càng khẳng định vai trò hết sức to lớn, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn, không những thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm... Trong củng cố và phát triển HTX ở Quảng Nam đã khơi dậy và đáp ứng nhu cầu hợp tác đa dạng trong nhân dân, tôn trọng tính tự nguyện, tự chủ của HTX, xuất phát từ lợi ích của xã viên, người lao động, chăm lo phúc lợi tập thể, hỗ trợ giúp đỡ người nghèo, đóng góp tích cực vào xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn... Từ đó tạo được sự phát triển bền vững, cán bộ xã viên gắn bó với HTX không chỉ đơn thuần về lợi ích kinh tế mà còn thể hiện tính xã hội tốt đẹp, sâu sắc. Qua thực tiễn các HTX tiên tiến, sự kết hợp hài hoà giữa tính tự chủ của kinh tế hộ xã viên với HTX thông qua mối quan hệ dịch vụ, trợ giúp chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mà bản thân từng hộ xã viên không thể tự làm được hoặc làm không có hiêụ quả, cả trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Qua đó, kinh tế hộ càng phát triển đã tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển HTX. Mối quan hệ giữa kinh tế hộ xã viên với HTX được nâng lên ở cấp độ cao hơn, HTX từng bước mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, dich vụ... và ngày càng thể hiện rõ nét là tổ chức kinh tế, vừa có tính xã hội sâu sắc. Nhiều HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã minh chứng bản chất tốt đẹp của một tổ chức kinh tế gần giũ với mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, sự tồn tại và phát triển của kinh tế HTX là một tất yếu khách quan trong điều kiện cơ chế thị trường khi kinh tế hộ thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu kết quả phát triển HTX trên địa bàn của tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm như: Kinh tế hộ nông dân Quảng Nam hầu hết là nhỏ bé, thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu hiểu biết về kỹ thuật canh tác và nhiều khâu của quá trình sản xuất hộ nông dân không tự làm được, năng lực nội sinh, địa vị và quyền lợi của xã viên, và người lao động; vị thế kinh tế HTX trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi những người sản xuất phải liên kết lại với nhau trên nguyên tắc tự nguyện, kết hợp sức mạnh tập thể và sức mạnh của từng thành viên để đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Từ yêu cầu khách quan đó, sự tồn tại của các hình thức kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp là cần thiết. Mặt khác trước yêu cầu của sự nghiệp phát triển KT-XH của tỉnh, vai trò kinh tế HTX ngày càng giữ vị trí quan trọng trọng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, phấn đấu đưa Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015-2020. Vì vậy vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra đối với Quảng Nam là phải đánh giá đúng tình hình và kết quả hoạt động của các HTX, rút ra những kinh nghiệm và đề ra những giải pháp tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế HTX kiểu mới trong nông nghiệp trong thời gian đến. Đề tài “Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, nhằm góp phần thực hiện mục các yêu cầu đặt ra đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH. 2. Tình hình nghiên cứu Đây là mảng đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong quá trình thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn ở nước ta. Trên phạm vị địa bàn tỉnh Quảng Nam đã có một số công trình nghiên cứu như: HTX Duy Sơn 2, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Những gợi mở từ thực tiễn về con đường đưa nông nghiệp, nông thôn lên CNXH của tập thể tác giả, GS.TS Lưu Văn Sùng; PGS.TS. Ngô Quang Minh; Thạc sĩ. Nguyễn Phong Duễ; TS. Ngô Huy Đức; TS. Lê Minh Quân; Nguyễn Thanh Quang PGĐ Sở NN&PTNT Quảng Nam, tháng 4/2001. Đề tài khoa học Mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp ở Quảng Nam- Bước đi và giải pháp của Kỹ sư Nguyễn Cứu Quốc.v.v... Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập những khía cạnh khác nhau trên lĩnh vực này. Song, với giác độ chung trên các lĩnh vực xây dựng và phát triển mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về chủ đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn là phân tích thực trạng tổ chức và quản lý HTXNN và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 3.2. Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về HTX kiểu mới trong nông nghiệp. - Phân tích quá trình hình thành và phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp tỉnh Quảng Nam những năm vừa qua (2001-2005). Đề xuất những giải pháp để phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu là các HTX kiểu mới trong nông nghiệp 4.2. Phạm vi nghiên cứu các HTX kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đề tài chú trọng sử dụng phương pháp tổng kết thực tiễn, phân tích, so sánh, điều tra khảo sát... trong đó trực tiếp trao đổi với một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh, cán bộ quản lý HTX... Tham khảo kinh nghiệm các HTXNN điển hình trong và ngoài nước. 6. Ý nghĩa của luận văn Thông qua việc nghiên cứu về thực trạng tình hình hoạt động của các HTXNN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, đánh giá những kết quả đã đạt được, những mặt hạn chế. Đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm góp phần phát triển HTXNN kiểu mới đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH tỉnh Quảng Nam trong thời kỳ CNH-NĐH nông nghiệp và nông thôn. 7. Kết cấu luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; luận văn được kết cấu 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP 1.1. QUAN ĐIỂM VỀ HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin bàn về hợp tác xã nông nghiệp Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của sự phát triển LLSX, đi với nó là một QHSX phù hợp. Sự hợp tác giữa người và người không chỉ vì yêu cầu của sản xuất mà còn cả yêu cầu của cuộc sống để nương tựa nhau, hỗ trợ nhau và bảo vệ cho nhau. Trong bộ Tư bản cũng như trong nhiều tác phẩm khác của C. Mác, đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những QHSX và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy. Với quan điểm triết học, nắm vững và vận dụng quy luật QHSX phải phù hợp với LLSX, C. Mác đã phân tích quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản theo 3 giai đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí. Đó là ba giai đoạn phát triển có tính tuần tự của LLSX, tương ứng với nó là QHSX phù hợp, bao gồm cả quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý với những hình thức tổ chức sản xuất tương ứng dựa trên chế độ hiệp tác. C. Mác đã cho rằng hình thức hiệp tác (giản đơn) là điểm xuất phát lịch sử và lôgích của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa [24, tr.468]. Sự khởi đầu này bắt nguồn từ sự mở rộng các xưởng sản xuất của những người thợ cả làm nghề thủ công có tính chất phường hội thành các công xưởng. Trong các công xưởng đó, sự hiệp tác được hiểu là sự hoạt động của một số công nhân làm việc trong cùng một thời gian, trên cùng một không gian (hoặc trên cùng một địa điểm lao động) để sản xuất ra cùng một loại hàng hóa dưới sự điều khiển của một nhà tư bản [24, tr.468]. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn hiệp tác đơn giản, khái niệm hiệp tác đã được mở rộng hơn, đó là hình thức lao động trong đó nhiều người làm việc theo kế hoạch bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong cùng một quá trình sản xuất hay trong những quá trình khác nhau nhưng gắn liền với nhau [24, tr.478]. Theo tiến trình phát triển của lịch sử, LLSX không ngừng phát triển và ngày càng nâng cao thì tất yếu sẽ xuất hiện các QHSX và hình thức tổ chức sản xuất tương ứng. Chuyển sang giai đoạn công trường thủ công tư bản chủ nghĩa, tuy cơ sở kỹ thuật vẫn dựa trên công cụ và lao động thủ công nhưng do qui mô sản xuất tăng lên nhờ sự hiệp tác của nhiều ngành nghề khác nhau, tất yếu xuất hiện các hình thức phân công và hiệp tác lao động với trình độ và qui mô lớn hơn mà C. Mác đã khái quát thành ba loại: phân công lao động chung, phân công lao động đặc thù, phân công lao động cá biệt, tức là sự hiệp tác diễn ra trên ba phạm vi: xã hội, trong từng ngành và trong từng công xưởng, và như vậy sự trao đổi hàng hóa, phát triển thị trường trở thành cơ sở và động lực của sự hiệp tác trên phạm vi toàn xã hội, thúc đẩy những người sản xuất hàng hóa không chỉ hiệp tác mà còn cạnh tranh với nhau. C. Mác viết: "Sự phân công lao động trong xã hội đặt những người sản xuất hàng hóa độc lập đối diện với nhau, những người này không thừa nhận một uy lực nào khác ngoài uy lực của cạnh tranh [24, tr.517]. Và cũng chính từ sự hiệp tác trên qui mô rộng lớn dựa trên nền sản xuất hàng hóa đi đôi với những phát kiến về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chuyển sang giai đoạn đại công nghiệp cơ khí dựa trên cơ sở lao động và công cụ máy móc. Về phần mình, đại công nghiệp cơ khí lại tạo cho sự hiệp tác trở thành một tất yếu kỹ thuật không thể nào cưỡng chế nổi, khi C.Mác nói là quá trình sản xuất đó không liên quan gì đến bàn tay của con người mà là dựa trên các nguyên lý của kỹ thuật học. "Nền đại công nghiệp không ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất, và cùng với chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của quá trình lao động" [24, tr.692]. Chính trong giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, khoa học và kỹ thuật không chỉ là cơ sở của sản xuất mà còn là điều kiện của hiệp tác và là đối tượng hiệp tác của sản xuất và kinh tế. Như vậy, cùng với sự phát triển không ngừng của LLSX mà quy mô và trình độ của sự hiệp tác cũng tăng lên, đi liền với nó là hình thức tổ chức sản xuất cũng trở nên hết sức đa dạng, đồng thời cũng chính từ qui mô, trình độ và hình thức hiệp tác không ngừng tăng lên lại thúc đẩy phát triển LLSX. Mối quan hệ tác động biện chứng đó diễn ra trong lịch sử nhân loại hàng trăm năm nay, đưa loài người bước sang nền văn minh mới với sự hiệp tác trên phạm vi toàn thế giới. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã viết: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới... thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ thường, sự phát triển này lại thúc đẩy công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải càng phát triển làm tăng tư bản của giai cấp tư sản lên" [23, tr.598]. Rõ ràng, hiệp tác là một quá trình khách quan, không ngừng phát triển, cũng giống như khoa học là một lực lượng tự nhiên, không tốn kém gì đối với nhà tư bản mà chỉ mang lại lợi ích mà thôi. Trong tác phẩm của mình, C. Mác đã chỉ ra những lợi ích của sự hiệp tác giản đơn như sau: - Sử dụng chung các tư liệu lao động - Tạo ra sức mạnh gấp bội để làm những công việc mà cá nhân riêng rẽ không thể làm nổi. - Tạo ra không khí thi đua tăng năng suất lao động. - Tạo cho đối tượng lao động được chuyển vận nhanh chóng. - Phân công chuyên môn hóa nên có thể rút ngắn thời gian tạo ra sản phẩm. - Hoàn thành công việc khẩn cấp trong một thời gian nhất định. - Mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi không gian của lao động một cách phù hợp. - Tạo ra sức sản xuất của lao động xã hội, qua đó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Ở trình độ cao hơn, hiệp tác có phân công sẽ tạo ra điều kiện để chuyên môn hóa công cụ và lao động, thúc đẩy sản xuất các máy móc ngày càng tinh xảo, đồng thời thúc đẩy thị trường phát triển. Tuy nhiên, để tận dụng và phát huy các lợi thế của hiệp tác cần phải có các điều kiện, trong đó C. Mác đã chỉ ra các điều kiện tiên quyết sau đây: Thứ nhất, phải có một lực lượng tư bản đủ để mua sức lao động và tư liệu lao động. C. Mác viết: "Con số những công nhân hiệp tác, hay qui mô sự hiệp tác, phụ thuộc trước hết vào đại lượng của tư bản mà một nhà tư bản riêng rẽ có thể chi ra trong việc mua sức lao động... sự tích tụ một khối lượng lớn tư liệu sản xuất vào trong tay những nhà tư bản riêng rẽ là điều kiện vật chất cho sự hiệp tác của những công nhân làm thuê và qui mô hiệp tác hoặc qui mô sản xuất phụ thuộc vào qui mô của sự tích tụ đó" [24,tr.479]. Thứ hai, phải có sự chỉ huy, quản lý với trình độ có thể đảm bảo cho quá trình sản xuất luôn suôn sẻ và đạt hiệu quả cao, và quản lý trở thành một tất yếu của lao động hiệp tác. C.Mác viết: "Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" [24, tr.480]. Thứ ba, cần phải có những người lao động tự do, bán sức lao động cho nhà tư bản. C. Mác viết: "Hình thức tư bản của sự hiệp tác thì ngay từ đầu đã giả định phải có người lao động làm thuê tự do, bán sức lao động của mình cho nhà tư bản" [24, tr.485]. Thứ tư, đảm bảo lợi ích thỏa đáng là một điều kiện của sự hiệp tác. Nhà tư bản phát triển các hình thức hiệp tác từ thấp đến cao là nhằm thu được giá trị thặng dư cao nhất, còn người lao động làm thuê tiến hành hiệp tác lao động trước hết là vì lợi ích của bản thân và qua đó đem lại lợi ích cho nhà tư bản. C. Mác viết: "Động cơ thúc đẩy và mục đích quyết định của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự tăng lên càng nhiều càng tốt của tư bản, tức là sự sản xuất ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt" [24, tr.480]. Qua nghiên cứu lý luận "hiệp tác" trong học thuyết của C. Mác có thể rút ra một số vấn đề sau đây: Hiệp tác là một hiện tượng khách quan của xã hội loài người và đã xuất hiện rất sớm kể từ khởi đầu nền văn minh của loài người và không ngừng phát triển theo sự phát triển của LLSX, tuy nhiên mỗi chế độ xã hội khác nhau có nội dung và hình thức hiệp tác khác nhau. Hiệp tác tư bản chủ nghĩa là sự hiệp tác của những người lao động làm thuê tự do, bán sức lao động của mình cho nhà tư bản, còn hiệp tác XHCN theo C. Mác là sự hiệp tác của những người sản xuất tự do và bình đẳng liên hiệp lại để tiến hành lao động xã hội theo một kế hoạch chung và hợp lý [21, tr.86]. Hiệp tác diễn ra đồng thời với quá trình phân công lao động, do đó có các phạm vi hiệp tác khác nhau: cá biệt, đặc thù và trên toàn xã hội và còn diễn ra trên phạm vi thế giới với các hình thức hết sức đa dạng và phong phú. Hiệp tác mang lại nhiều lợi ích có thể sánh như khoa học là lực lượng tự nhiên mà nhà tư bản khai thác nó không tốn một đồng xu, do đó nó cũng có lợi nhất định cho người lao động và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên việc khai thác lợi thế của sự hiệp tác không tốt cũng sẽ gây ra những tác hại to lớn không thể lường trước được. Để đảm bảo cho hiệp tác phát huy lợi thế, tránh sai lầm, thua thiệt cần có nhiều điều kiện, trong đó có bốn điều kiện tiên quyết: - Có đủ lượng tư bản cần thiết để mua sức lao động và tư liệu lao động; - Có sự quản lý với trình độ phù hợp với qui mô của hiệp tác; - Người lao động được tự do bán sức lao động và tham gia hiệp tác; - Đảm bảo lợi ích thỏa đáng. Phát triển lý luận về hợp tác của C. Mác, Lênin đã luận giải sự cần thiết, các tiền đề của kinh tế hợp tác và các nguyên tắc hợp tác dưới CNXH. Theo Lênin, đi lên CNXH có nghĩa là tiến tới chế độ xã hội văn minh cần cả một thời kỳ cải biến cách mạng có tính lịch sử nhằm tạo nên tiền đề cho một chế độ kinh tế mới - chế độ hợp tác kinh tế XHCN. Và khi tất cả những người lao động đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột và tự nguyện hợp tác lao động với nhau thì sẽ có CNXH. Theo V.I. Lênin, HTX có ý nghĩa đặc biệt, nó là bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Lênin viết: "Khi nhân dân lao động đã vào hợp tác xã với mức độ nhất định, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện". Lênin cũng nêu lên các tiền đề của chế độ hợp tác dưới CNXH bao gồm: - Tiền đề chính trị, có tính tiên quyết, đó là chính quyền thuộc về nhân dân và do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; - Tiền đề kinh tế mà cốt lõi là quan hệ kinh tế giữa các HTX với kinh tế nhà nước để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Tiền đề văn hóa, xã hội tạo cho chế độ hợp tác tính nhân bản, trình độ văn minh trong lao động hợp tác và quản lý kinh tế hợp tác. Lênin rất quan tâm đến việc Nhà nước giúp đỡ tài chính cho HTX. “Một chế độ xã hội chỉ nảy sinh nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính... Trong lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta ủng hộ hơn hết là chế độ HTX.... Phải cho chế độ HTX hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân hàng; sự ủng hộ mà nhà nước XHCN của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ chức mới của dân cư phải là như vậy” [21]. Cũng chính Lê nin đã phát triển quan điểm mác - xít về kinh tế hợp tác và nêu lên các nguyên tắc và hình thức tổ chức kinh tế hợp tác. Nguyên tắc đầu tiên của hợp tác là tự nguyện, không cưỡng ép nông dân vào HTX bằng bất cứ hình thức nào, ngoài ra phải tôn trọng nguyên tắc cùng có lợi, quản lý dân chủ và có sự giúp đỡ của nhà nước. Bước đi của hợp tác là phải tiến hành từng bước, phù hợp với quá trình phát triển KT-XH, tức là theo qui luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Trong chính sách kinh tế mới (NEP) Lênin nêu ra bước đi của hợp tác là từ thương mại rồi dần đi vào sản xuất. Lênin nhấn mạnh tính thiết thực, cụ thể, phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực SXKD, phù hợp với phong tục, tập quán và dân trí của từng vùng. 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta Hồ Chí Minh, trong tác phẩm "Đường cách mệnh" viết năm 1927 đã để một chuyên mục viết về HTX, trong đó nêu rõ lịch sử phát triển HTX của thế giới mà đầu tiên là HTX dệt vải ở Anh năm 1761 và lan rộng ra các nước khác như Nga, Đức, Đan mạch, Nhật bản. Lý luận về hợp tác theo Hồ Chí Minh thật là đơn giản khi Người nêu ra các câu tục ngữ Việt Nam: "nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó", "một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao". Hình thức hợp tác có 4 loại, hay 4 cách, đó là: HTX tiền bạc; HTX mua; HTX bán và HTX sinh sản nhằm mục đích giúp nhau, nhờ lẫn nhau, "làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây". Đặc biệt Hồ Chí Minh nhấn mạnh cách tổ chức HTX đảm bảo tính đa dạng, tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lập HTX, không rập khuôn, nên tạo sự liên kết các HTX với nhau, đảm bảo các thành viên được hưởng lợi và bình đẳng. Khi lãnh đạo nhân dân xây dựng CHXH ở miền Bắc Chủ tịc Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng củng cố HTX “ Muốn nâng cao đời sống là chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ chức nông dân vào HTXNN... Chúng ta phải củng cố thật tốt các tổ đổi công mà các HTX đã tuyên truyền và giáo dục nông dân, làm cho phong trào phát triển vững chắc... Tổ đổi công và HTX phát triển cái nào phải củng cố thật tốt cái ấy. Cần phải nêu cao tính chất hơn hẳn của HTX bằng chứng kết quả thiết thực làm cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên sau khi vào HTX thu hoạch nhiều hơn hẳn khi còn ở ngoài. Như thế thì xã viên sẽ phấn khởi, sẽ gắn bó chặt ché với HTX của mình. Đó là phương pháp tuyên truyền thuyết phục tốt nhất để khuyến khích nông dân vào HTX. Phải cần kiệm xây dựng HTX vì HTX là lực lượng chính ở nông thôn. Mục đích tổ chức HTX là để tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là của nông dân. Thế là vừa lợi riêng cho nông dân và lợi chung cho Nhà nước, hai cái lợi đó đi đôi với nhau. Vì vậy phải củng cố HTX. Về mặt vật chất phải quản lý cho tốt; về mặt tinh thần, phải giáo dục cho nông dân hiểu vì sao phải củng cố HTX. Qua nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác cho chúng ta thấy rằng. Những vấn đề lý luận về hợp tác, kinh tế hợp tác và HTX không quá phức tạp và đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. Một xã hội muốn tồn tại phải có sản xuất, hoạt động kinh tế và đều là một quá trình phân công và hợp tác lao động hoặc là tự phát, hoặc là tự giác. Bản thân thị trường là một hệ thống sản xuất và trao đổi, lúc đầu mang tính tự phát và tiến dần tới tự giác khi có sự tổ chức và điều chỉnh của các chủ thể kinh doanh và đặc biệt có sự quản lý của Nhà nước. Trong thị trường có các tổ chức kinh tế như doanh nghiệp và HTX là những hệ thống phân công và hợp tác lao động một cách tự giác, tuy nhiên sự hợp tác trên trên thị trường cũng không thể loại trừ hết tính tự phát, và chính sự phân công và hợp tác sản xuất và trao đổi trên thị trường một cách tự phát, mang tính tự nhiên cũng là một ưu thế, một vẻ đẹp của thị trường. Chính sự phân công và hợp tác lao động, hợp tác kinh tế và tổ chức các hình thức hợp tác cũng đi từ tự phát đến tự giác. Trong sản xuất nông nghiệp nước ta từ xa xưa đã có sự hợp tác nào đó như đổi công, vần công, hợp tác trong chăn trả trâu bò, trong tưới tiêu nước... do các hộ nông dân tự liên kết với nhau. Sự hình thành các hình thức tổ chức hợp tác đó mang tính tự phát nhưng lại dựa trên tính tự giác của từng người nông dân. Chỉ từ sau khi có Đảng lãnh đạo thì sự hợp tác mới thực sự là tự giác, có đường lối hợp tác hóa và sự chỉ đạo thành lập các hình thức hợp tác từ thấp đến cao và tác động vào ý thức tự giác của nông dân đi vào con đường hợp tác hóa. Tất nhiên không phải mọi sự chủ động, có tổ chức tiến hành một công việc nào đó dưới một sự chỉ đạo chung nào đó đều được coi là một sự tự giác mà phải thấy rằng tự giác phải là sự thể hiện tính chủ quan trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng các qui luật khách quan. Cái gọi là "tự giác" mà không phù hợp với qui luật khách quan thì vô tình hay hữu ý cũng là một sự chủ quan duy ý chí, còn nguy hại hơn cả tính tự phát theo sự vận động tự nhiên của sự vật. Hợp tác là một nhu cầu khách quan của con người cả trong sản xuất và đời sống, bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn của con người theo qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, là một qui luật phổ biến đối với mọi chế độ xã hội khác nhau. Tính tự giác và chủ động trong sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là không ngừng tác động để thúc đẩy phát triển LLSX và tùy theo trình độ của LLSX và nhu cầu của sản xuất mà chủ động xây dựng QHSX phù hợp. Quá trình lãnh đạo xây dựng QHSX trong nông nghiệp nước ta đã trải qua nửa thế kỷ với các bước thăng trầm trong tổ chức thực tiễn, cũng là quá trình nhận thức cơ sở lý luận về HTX ngày càng tự giác hơn. 1.1.3. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp 1.1.3.1. Quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội (kể từ Đại hội VI đến nay) Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế HTX được khẳng định cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải đi đôi với sự phát triển đa dạng của các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, HTX là bộ phận nòng cốt của kinh tế hợp tác. Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VI) đã khẳng định, kinh tế HTX có nhiều hình thức từ thấp đến cao, mọi tổ chức SXKD do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là HTX. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá VII) tháng 6/1993 làm rõ thêm bản chất của HTX trên cơ sở phát huy tính tự chủ của kinh tế hộ, coi kinh tế hộ là bộ phận khắng khít của kinh tế HTX. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm của Đảng coi kinh tế HTX với nhiều hình thức phong phú và đa dạng từ thấp đến cao, phù hợp với nguyện tác tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, kết hợp với sức mạnh của hộ xã viên, làm cho kinh tế hợp tác trở thành một thành phần kinh tế vững mạnh, cùng với kinh tế quốc doanh trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân. Đến Đại hội VIII, quan điểm phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Quan điểm của Đảng được cụ thể hoá trong Nghị quyết 13-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) đã nêu: Thứ nhất: kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX thời gian tới phải phát triển đa dạng về hình thức, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, với nhiều trình độ khác nhau, từ tổ hợp tác đến HTX và lên đến trình độ cao là liên hiệp HTX. Sở hữu trong kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi với các thành phần kinh tế khác, không giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn; Phân phối vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và mức độ tham gia của dịch vụ; Nguyên tắc hoạt động: tự chủ; tự chịu trách nhiệm; Thành viên tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân... cùng góp vốn, cùng góp sức trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Thứ hai: kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX phải là một tổ chức kinh tế kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội của các thành viên và lợi ích tập thể: Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên và phát triển cộng đồng. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế-chính trị-xã hội, cả hiệu quả của tập thể và hiệu quả của các thành viên; Thứ ba: khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục phát triển rộng rãi các hình thức kinh tế tập thể trong tất cả các ngành, lĩnh vực và địa bàn, trong đó trọng tâm là khu vực nông nghiệp, nông thôn; Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại; Khẳng định kinh tế tập thể tuyệt nhiên không thay thế hoặc thủ tiêu kinh tế hộ, trang trại; Gắn phát triển kinh tế tập thể với quá trình CNH- HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; Thúc đẩy kinh tế tập thể không ngừng phát triển sức sản xuất, vươn lên cạnh tranh trong quá trình hội nghập kinh tế quốc tế. Thứ tư: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong phát triển kinh tế tập thể: Nhà nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng KH-CN, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây, khuyến khích việc tích luỹ và sử dụng có hiệu quả vốn tập thể trong HTX; Phát huy vai trò Liên minh HTX Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, đảm bảo công tác kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí. Thứ năm: Nghị quyết 13/NQ/TW chỉ rõ phương châm phát triển kinh tế tập thể trong thời gian tới: Phát triển HTX phải theo phương châm tích cực, chủ động, nhưng phải vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đa dạng về mô hình, vì hiệu quả thiết thực, trước hết là vì sự phát triển của sức sản xuất, triệt để tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, nhất quyết không nóng vội, chủ quan duy ý chí, áp đặt; Nhưng cũng yêu cầu cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp cần khắc phục sự buông lỏng lãnh đạo, bị động ngồi chờ, để mặc sự phát triển tự phát của nền kinh tế, mà chậm trể trong việc nắm bắt và đáp ứng những đòi hỏi của nhân dân về phát triển kinh tế tập thể. Nghị quyết Trung ương yêu cầu phải xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển như: Sửa đổi bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tập thể, bảo đảm tính nhất quán giữa các luật, Luật Đất đai, Luật Ngân hàng, Luật các tổ chức Tín dụng, các Luật về Thuế, Bộ Luật Dân sự, Luật về Bảo hiểm xã hội, Pháp lệnh Cán bộ công chức... tạo điều kiện cho Luật HTX đi nhanh vào cuộc sống theo hướng giảm tối đa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thành viên HTX bao gồm cả thể nhân và pháp nhân; cán bộ công chức được tham gia HTX với tư cách là xã viên; phân định rõ chức năng quản lý của Ban quản trị và chức năng điều hành của Chủ nhiệm; Chủ nhiệm có thể là xã viên hoặc ngoài HTX do ban quản trị thuê; HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong lựa chọn ngành, nghề kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu, đa dạng lĩnh vực hoạt động phù hợp với nhu cầu thị trường; Ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản dưới luật, sửa đổi bổ sung Điều lệ mẫu phù hợp với đặc thù của các loại hình HTX để dễ vận dụng; Hướng dẫn về tổ chức, hoạt động đối với tổ hợp tác theo Bộ luật Dân sự. Tạo lập môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển bằng việc: Tăng cường tuyên tryền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác, HTX và các mô hình làm ăn có hiệu quả; Biểu dương, khen thưởng những cá nhân và tập thể có thành tích và đóng góp cho kinh tế hợp tác, HTX; Đưa nội dung phát triển kinh tế hợp tác, HTX vào giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. 1.1.3.2. Chính sách Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường Chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX của Nhà nước qua các thời kỳ: Trước thời kỳ đổi mới, các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX của Đảng và Nhà nước được thiết kế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp; quan hệ giữa Nhà nước-HTX- xã viên không đựơc phân chia hợp lý, đặc biệt lợi ích xã viên và người lao động trong HTX ít được chú trọng. Giai đoạn từ thời điểm khởi đầu công cuộc đổi mới đến trước khi có Luật HTX 1996, xu hướng chính sách lại coi trọng khuyến khích và tạo điều kiện tối đa cho lợi ích cá nhân, mở rộng quyền tự chủ cho xã viên, có phần coi nhẹ sự phát triển của HTX, thậm chí “lãng quên” việc xây dựng chính sách cho các HTX trong cơ chế kinh tế thị trường. Giai đoạn từ thời điểm Luật HTX 1996 có hiệu lực đến trước Nghị quyết 13-NQ/TW của Hội nghị Trung ương (khoá IX), các chính sách được ban hành để khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác và HTX chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa được triển khai thực hiện. Nghị định 02/CP và 15/CP cho đến khi ban hành Luật HTX năm 2003 vẫn chưa có Thông tư hương dẫn thực hiện. Do vậy, sự quan tâm về chính sách thời kỳ này hầu như không mấy tác dụng đối với sự phát triển của HTX. Các HTX hầu như không được thụ hưởng chính sách gì đáng kể. Kinh tế hợp tác, HTX vẫn bị “thả lỏng, buông trôi” cả về chính sách và quản lý nhà nước. 1.1.3.3. Chính sách phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã từ sau Nghị quyết 13- NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) và Luật hợp tác xã năm 2003 Từ khi Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) ra Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX, các chính sách phát triển kinh tế tập thể được quan tâm một cách toàn diện và đầy đủ hơn với sự ra đời của Luật HTX mới, cùng với quá trình chuẩn bị các chính sách cụ thể hoá và đồng bộ theo theo thần Nghị quyết và Luật HTX mới. Hướng chính của các chính sách phát triển kinh tế hợp tác, HTX như sau: * Chính sách cán bộ đào tạo nguồn nhân lực: Điểm mới trong chính sách cán bộ cho HTX đã xác định rõ hơn trách nhiệm đào tạo cán bộ cho HTX của các ngành, địa phương với sự hỗ trợ kinh phí của Nhà nước, chế độ thuê Chủ nhiệm, chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ xã viên HTX. Cụ thể như sau: - Các ngành, các địa phương chủ động xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ cho khu vực kinh tế tập thể. - Nhà nước hỗ trợ toàn bộ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho HTX. - Có chính thu hút cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật về công tác tại HTX. - Thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với xã viên HTX và người lao động làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo Bộ luật lao động; các thành viên khác không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tạo điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo nhu cầu. * Chính sách đất đai: Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân “dồn điền, dồn thửa”, tập trung ruộng đất theo chính sách của Nhà nước để phát triển sản xuất hàng hoá, mở mang ngành nghề. - Nhà nước giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTXNN xây dựng trụ sở, làm cơ sở SX-KD... - HTX phi nông nghiệp được thuê đất dài hạn, giảm mức nộp thuế sử dụng đất cho HTXNN trong một thời gian nhất định và được nộp tiền thuê đất nhiều lần. - Đất do HTX đầu tư để khai phá, tôn tạo, khi Nhà nước chuyển sang chế độ cho thuê, cần trả lại chi phí cho HTX. * Chính sách tài chính, tín dụng: - Chính sách thu: Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền đến năm 2010 cho hộ nông dân; Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định đối với HTX nông, lâm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc thành lập. - Thực hiện chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. - Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất...của thành viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho HTX, nhưng phải công khai hoá những đóng góp của thành viên. - Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của HTXNN từ năm 1996 về trước; tiếp tục xem xét để xử lý nợ tồn đọng cho HTX phi nông nghiệp. - Những tài sản của HTX cũ và tài sản của Nhà nước giao cho HTX sử dụng trước đây cho phép HTX chuyển đổi để làm vốn không chia thuộc sở hữu chung. * Chính sách tín dụng: HTX là một loại hình doanh nghiệp, được vay vốn bình đẳng như doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Các tổ chức tín dụng tăng mức cho vay và tạo thuận lợi đối với hộ và các tổ hợp tác, HTX, liên HTX; Các HTX được vay vốn cả bằng hình thức thế chấp và tín chấp: được thế chấp hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án SX-KD có hiệu quả; HTX được vay vốn từ các chương trình dự án quốc gia và các tổ chức phi chính phủ, được làm chủ một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng cho kinh tế tập thể. Tăng cường quản lý và củng cố Quỹ tín dụng nhân dân, hướng dẫn nghiệp vụ và chỉ đạo chặt chẽ đối với hoạt động tín dụng nội bộ trong HTX nhằm tăng khả năng đáp ứng vốn sản xuất cho xã viên. * Chính sách hỗ trợ về khoa học-công nghệ: Nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tập thể ứng dụng các thành tựu KH-CN, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ thông tin... qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyên lâm, khuyến ngư, khuyến công. Đầu tư tập trung để nâng cao của một số Viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao KH-CN theo vùng nhằm hỗ trợ HTX và hộ nông dân. Khuyến khích cơ quan chuyển giao các thành tựu KH-CN mới cho HTX, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới, khai thác và sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề...ở nông thôn, hướng dẫn và giúp các HTX tiểu thủ công nghiệp đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành, tạo sức cạnh tranh. * Chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường: Các ngành, các địa phương, các hiệp hội ngành nghề và Liên minh HTX hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường giúp đỡ các hộ, tổ hợp tác và HTX; tổ chức các hình thức giới thiệu sản phẩm ở trong và ngoài nước phù hợp với trình độ hiện tại và xu hướng phát triển của kinh tế tập thể. Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp với nông dân qua các HTX. Các doanh nghiệp cung ứng vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua sản phẩm cho HTX theo các hợp đồng dài hạn đối với những sản phẩm có khối lượng lớn, có chế độ ưu đãi các doanh nghiệp này. Khuyến khích nông dân và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở thành cổ đông của các doanh nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản. * Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: Những đổi mới về chính sách đầu tư phát triển hạ tầng cũng được quan tâm từ phía Nhà nước. Theo định hướng chính sách đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX). Nhà nước sẽ thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, công trình thuỷ lợi... trước hết cho phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH; tạo điều kiện hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng hoá lớn, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của kinh tế hợp tác, HTX. 1.2. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm, đặc trưng hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp - Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp HTXNN là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội. Do đó có ưu thế về số lượng lao động. Lực lượng lao động ở HTXNN nếu được bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo về khoa học, kỹ thuật và công nghệ sẽ là yếu tố cơ bản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển KT-XH nông thôn. HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người yếu thế nhất về trình độ dân trí, vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Điều này được thể hiện rõ ở các nước đang phát triển. Đây là hạn chế lớn nhất đối với kinh doanh của loại hình tổ chức kinh tế này. Do đó vai trò của nhà nước đối với HTXNN là tất yếu về các mặt: quản lý nhà nước, giúp đỡ, hỗ trợ và tham gia quản lý HTX. HTXNN cũng không thể không liên kết, liên doanh với các tổ chức KT-XH khác trong quá trình phát triển. Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi, nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Đặc điểm này thường làm cho các HTXNN phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp, tích luỹ ít và chậm. Sự kiện bùng nổ dịch cúm gia cầm trên cả nước và châu Á, rét đậm và hạn hán nặng, lũ lụt... vừa qua là những ví dụ rõ nét. Tuy nhiên, nếu được đầu tư tốt và bản thân HTXNN nào năng động, sáng tạo thì sẽ có nhiều lợi thế trong việc tung ra thị trường những loại hàng hoá đặc sản có chất lượng cao và sức cạnh tranh lớn cũng như đối với việc thực hiện chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản phẩm. - Đặc trưng của hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp Từ các nội dung quy định của Luật HTX năm 2003 và các quan điểm có tính nguyên tắc trong xây dựng kinh tế tập thể đã nêu trong Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” có thể nêu lên những đặc trưng cơ bản của mô hình HTX kiểu mới như sau: + Về thành viên tham gia HTX Khác với HTX kiểu cũ, thành viên HTX chỉ gồm các cá nhân, HTX kiểu mới là một tổ chức kinh tế do các thành viên, bao gồm cả cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân (người lao động, cán bộ, công chức, các hộ sản xuất, kinh doanh, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế...), cả người có ít vốn và người có nhiều vốn có nhu cầu tự nguyện cùng nhau góp vốn hoặc có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình theo quy định của pháp luật về HTX, HTX không thủ tiêu tính tự chủ SX- KD của các thành viên, mà chỉ làm những gì mỗi thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển. Thành viên tham gia HTX vẫn là những “đơn vị kinh tế tự chủ” + Về quan hệ sở hữu: Trong mô hình HTX kiểu cũ, sở hữu cá nhân không được thừa nhận, sở hữu của các hộ gia đình bị xoá bỏ chỉ thừa nhận chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất; người lao động vào HTX phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu. Trong HTX kiểu mới, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của các thành viên được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng và tài sản do Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ làm tài sản không chia và các quỹ không chia. Thành viên khi tham gia HTX không phải góp tư liệu sản xuất mà điều kiện tiên quyết là góp vốn theo quy định của Điều lệ HTX, có thể góp sức khi HTX yêu cầu; suất vốn góp không hạn chế, song được khống chế một tỷ lệ nhất định so với tổng số vốn góp của các thành viên (vốn Điều lệ của HTX) nhằm bảo đảm tính chất của HTX (theo Luật HTX năm 2003 thì không quá 30%). Vốn góp của thành viên được chia lãi hằng năm và được rút khi thành viên ra khỏi HTX. Thành viên có thể góp vốn bằng ngoại tệ, tài sản, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các loại giấy rờ có giá khác, được quy ra tiền Việt Nam theo giá trị thị trường tại thời điểm góp và giá trị đó được ghi thành vốn góp của thành viên, còn bản thân hiện vật thuộc sở hữu tập thể HTX. Sở hữu thuộc cá nhân thành viên được tôn trọng; thành viên có toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện thuộc sở hữu riêng để SX-KD. Những thành viên của HTX vẫn là những chủ thể độc lập, có kinh tế riêng. Vị trí và vai trò, cũng như quyền tự chủ của kinh tế thành viên không bị mất đi mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ phía HTX để phát triển. + Về quản lý trong HTX: Trong HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc. Xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX, tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn. Trong các HTX kiểu mới, quan hệ HTX và các thành viên là quan hệ bình đẳng, thoả thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong SX-KD. Đặc trưng chung của HTX kiểu mới là hoạt động SX-KD của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động SX-KD của thành viên như HTX kiểu cũ, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công việc, công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành viên tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như sửa đổi Điều lệ HTX, tổ chức lại HTX, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý HTX, xác định phương án SX-KD, phương án phân phối thu nhập trong HTX… Nguyên tắc bầu cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên một phiếu bầu, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX tổ chức gọn, nhẹ, hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ của Ban quản trị, Ban kiểm soát; Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm HTX được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm HTX được giao quyền chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. + Về quan hệ phân phối: Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối mang nặng tính bình quân, chủ yếu phân phối theo công lao động, việc phân phối theo vốn góp gần như không được thực hiện (vì việc góp vốn chỉ mang tính hình thức). Vì vậy không khuyến khích người lao động hăng hái, tích cực làm việc, xã viên thiếu gắn bó với HTX, giành công sức làm kinh tế gia đình. Trong HTX kiểu mới, hình thức phân phối được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. Người lao động là xã viên, ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; lợi nhuận và vốn góp càng lớn, mức độ sử dụng dịch vụ càng nhiều, thì thu nhập càng cao. Đây là động lực khuyến khích người lao động hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, các HTX còn tạo ra được các quỹ không chia, một mặt để mở rộng SX-KD, mặt khác tạo nên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên trong HTX được hưởng chung, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. + Về cơ chế quản lý đối với HTX: Các HTX kiểu mới được giải phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Nếu như trước đây, mọi hoạt động SX-KD, cũng như hạch toán lỗ lãi, phân phối, giá cả…của HTX đều theo sự chỉ huy của cơ quan quản lý cấp trên và theo kế hoạch của Nhà nước, thì nay HTX đã thực sự là một tổ chức kinh tế độc lập, tự chủ có đầy đủ tư cách pháp nhân trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động SX-KD, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế khác, cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động SX-KD, dịch vụ của HTX, không còn can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đối với HTX được chuyển qua việc ban hành pháp luật và các chính sách khuyến khích phát triển HTX. Các nghĩa vụ đóng góp vật chất quá nặng trước kia của HTX đối với chính quyền và cộng đồng, nhất là đối với HTX ở nông thôn đã từng bước được xoá bỏ, HTX tập trung vào phục vụ và thực hiện các nghĩa vụ đối với các thành viên của chính mình là chủ yếu. + Về quy mô và phạm vi hoạt động: Hoạt động của các HTX kiểu cũ trước đây, đặc biệt là các HTX tín dụng, HTX mua bán và HTXNN, thường bị giới hạn trong địa giới hành chính xã, phường và những ngành, nghề, mặt hàng đã được phân công. Quy mô và phạm vị hoạt động của HTX kiểu mới trong nông nghiệp không còn bị giới hạn như trước. Mỗi HTX có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, không giới hạn địa giới hành chính. Các HTX có thể liên kết thành liên hiệp HTX. Mỗi thành viên có thể tham gia nhiều HTX (HTX không cùng ngành nghề) nếu Điều lệ HTX không hạn chế. Không giới hạn số lượng thành viên tham gia HTX. + Về hiệu quả hoạt động của HTX: HTX là một tổ chức kinh tế tập thể gồm nhiều chủ sở hữu, hoạt động lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm cả lợi ích thành viên và lợi ích tập thể, nhưng HTX còn có vai trò quan trọng trong việc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng…Do đó, mọi hoạt động của HTX phải được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp, cả về kinh tế-chính tri-xã hội; cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên. - Về mô hình HTX: Khác với HTX kiểu cũ được áp dụng nhất loại trên cả nước theo mô hình sản xuất tập trung và chủ yếu được phát triển trong lĩnh vực sản xuất, hầu như không có loại hình HTX làm dịch vụ cho thanh viên, mô hình HTX kiểu mới trong nông nghiệp linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành; với nhiều trình độ phát triển, từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động SX-KD của các thành viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành các doanh nghiệp trực thuộc dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; từ HTX phát triển thành liện hiệp HTX. Với những đặc trưng trên, HTX kiểu mới trong nông nghiệp không chỉ dừng lại chỉ sản xuất nông nghiệp mà còn cả làm dịch vụ, ngành nghề, SX-KD tổng hợp… hoàn toàn khác với mô hình HTX kiểu cũ được xây dựng trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây, có các đặc trưng là tập thể hoá toàn bộ tư liệu sản xuất, không thừa nhận vai trò của kinh tế hộ, phủ nhận kinh tế hàng hoá, tổ chức hoạt động theo địa giới hành chính, sản xuất tập thể, tập trung, phân phối theo ngày công lao động, thực hiện quá nhiều trách nhiệm xã hội; mô hình HTX được áp dụng nhất loạt trong cả nước, ít chú ý đến đặc điểm của từng nơi… 1.2.2. Vai trò hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiêp đối với sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - Hội nghị TW5 (khoá IX) đã khẳng định: CNH- HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng thành tựu KH-CN, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. Trên cơ sở đó, có thể nhận biết nội dung chủ yếu của CNH, HĐH nông nghiệp bao gồm: + Phát triển nông nghiệp theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá quy mô lớn với chất lượng tốt, đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp chế biến và thị trường. + CNH, HĐH chu trình của sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp từ sản xuất, chế biến, lưu thông trên cơ sở ứng dụng các thành tựu KH-CN với nội dung và mức độ thích hợp, đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất sinh học, tăng năng suất lao động, đảm bảo hiệu quả sản xuất cao, tiến tới một nền nông nghiệp sản xuất hữu cơ, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, tăng sản lượng nông nghiệp, phục vục công nghiệp hoá. Về CNH-HĐH nông thôn. Theo tinh thần của Hội nghị TW5 (khoá IX), CNH-HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng QHSX phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Và theo đó có thể hiểu nội dung chủ yếu của CNH- HĐH nông thôn bao gồm: Phát triển các ngành, nghề phi nông nghiệp như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn, chế biến nông sản, mở mang các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống... Phát triển các ngành dịch vụ cho đời sống của dân cư ở nông thôn. Mở mang các dịch vụ kinh tế và kỹ thuật như tưới tiêu, chế biến, vật tư, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng khoa học và kỹ thuật... Xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn như điện, đường, trường, trạm, công trình phục vụ sản xuất chế biến, lưu thông sản phẩm công trình văn hoá tiến tới đô thị hoá nông thôn... Từ đó có thể giúp ta cảm nhận rằng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu của phát triển HTXNN và hình thành các mô hình HTXNN phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. - Vai trò của HTX kiểu mới: + Thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ KH-CN vào sản xuất nông nghiệp, thông qua các dịch vụ kỹ thuật phòng chống dịch bệnh, các phương pháp thâm canh, sử dụng giống mới, phát triển nông nghiệp sinh thái, vườn rau sạch, nông nghiệp công nghệ cao. + Là đầu mối cung ứng tiêu liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vật tư nông nghiệp đồng thời thu mua nông sản hàng hoá nên thúc đẩy phát triển thị trường ở khu vực nông thôn... + Góp phần xây dựng kết cầu hạ tầng, KT-XH, xây dựng nông thôn văn minh, giàu đẹp. + Thực hiện sự phân công chuyên môn hoá, thúc đẩy kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá đồng thời tạo mối quan hệ liên kết giữa các hộ gia đình với HTX với khu vực kinh tế nhà nước, gắn kết giưã nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước trong quá trình CNH-HĐH. + HTX là nơi có thể bảo vệ lợi ích cho nông dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội đồng thời là môi trường học tập, nâng cao trình độ tổ chức, quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và yêu cầu mở cửa hội nhập. + Khôi phục, phát triển các loại ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Một số yếu tố cơ bản tác động tới phát triển HTXNN và mô hình của nó trong giai đoạn hiện nay. - Yếu tố pháp lý: Đó là Luật HTX, các chính sách, văn bản liên quan và điều lệ HTX. Luật HTX là văn kiện có tính chất cơ bản và quan trọng của Nhà nước nhằm tạo điều kiện pháp lý để HTX hình thành, hoạt động và phát triển. Nội dung cơ bản của Luật HTX bao gồm: khái niệm về HTX; các nguyên tắc của HTX; các loại hình HTX; việc thành lập HTX; xã viên HTX, tổ chức, quản lý trong HTX; vốn, tài sản, phân phối thu nhập của HTX; tổ chức đại diện của các HTX. Các chính sách và văn bản liên quan đến HTX đều hướng vào mục đích hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý HTX hoạt động có hiệu quả theo luật định. Về Điều lệ HTX, có điều lệ mẫu và điều lệ riêng của từng HTX nhằm quy định cụ thể các điều khoản đối với việc thành lập, hoạt động kinh tế, xã hội, tổ chức, quản lý... phù hợp với đặc thù của cơ sở. Có thể khẳng định, pháp lý là điều kiện tiên quyết đối với sự hình thành và phát triển HTX. Luật, các chính sách, văn bản liên quan và điều lệ HTX luôn được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với điều kiện phát triển chung của nền KT-XH đất nước và riêng của HTX. Và đương nhiên sẽ xuất hiện những mô hình HTX mới phù hợp hơn. - Yếu tố kinh tế: Yếu tố kinh tế bao gồm: trình độ phát triển, năng lực... của kinh tế hộ, trình độ phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, cơ chế vận hành của nền kinh tế, trình độ phát triển kinh tế của quốc gia và thế giới, khủng hoảng kinh tế, cơ hội kinh tế, thuế, giá cả, tỷ giá, cạnh tranh trong kinh tế, lợi thế kinh doanh, đối thủ và đối tác trong kinh doanh... Tất cả những nhân tố cụ thể đó đều tác động rõ rệt đến hoạt động của HTX. Điều quan trọng là từng HTXNN cần kịp thời nắm bắt thông tin, dự báo tình hình cung cầu nông sản, lựa chọn sản phẩm thị trường cần, kinh doanh các ngành hàng được ưu đãi về thuế, linh hoạt tránh né những nhân tố bất lợi để kinh doanh có hiệu quả và nâng cao thu nhập cho xã viên. Thông thường những nhân tố kinh tế nằm ngoài tầm tay quản lý của HTX nên đòi hỏi phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ và điều tiết kịp thời ở tầm vĩ mô của Nhà nước. - Yếu tố KH-CN: Đây là nhân tố và cũng là điều kiện quyết định trình độ về năng lực quản lý và sản xuất, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Bản thân HTXNN cần chú trọng đầu tư về khoa học kỹ thuật nông nghiệp, quản lý kinh doanh và công nghệ sinh học. Đồng thời, Nhà nước luôn có vai trò rất lớn trong việc hướng dẫn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng tay nghề xã viên, áp dụng KH-CN tiên tiến thông qua các hoạt động của các cơ quan chức năng với nhiều hình thức phù hợp. - Yếu tố văn hoá: Trình độ văn hoá thấp của xã viên HTXNN luôn là vật cản lớn đối với mọi yêu cầu hoạt động của nông hộ và tập thể. Điều kiện văn hoá là cơ sở để nhận thức và vận dụng các nhân tố khác tác động đến hoạt động của HTX và cuộc sống của xã viên. Tuy nhiên, nhân tố văn hóa không dừng lại ở cách hiểu thông thường, mà còn là hiểu biết về bản chất và yêu cầu đối với người thành lập, tham gia loại hình tổ chức HTX, nghĩa là khả năng của những xã viên trong việc hợp tác cùng nhau để phát triển HTX của họ, có thể coi đó là văn hóa HTX, thiếu nhân tố này thì cho dù trình độ văn hóa thông thường có cao bao nhiêu đi nữa cũng khó mà phát triển được HTX. Văn hóa HTX là văn hóa cộng đồng, văn hóa cùng chia sẻ lợi ích và trách nhiệm một cách tự nguyện, bình đẳng, là văn hóa không thủ tiêu lẫn nhau... Để có được văn hóa này cần có một quá trình giáo dục công phu, thường xuyên và lâu dài. - Yếu tố tâm lý - xã hội: Nhân tố tâm lý - xã hội thể hiện ở các khía cạnh: tâm tư, tình cảm, nguyện vọng...; dân tộc; giai cấp; tầng lớp; thế hệ, họ hàng; quan hệ đồng nghiệp, bạn bè, làng bản, cộng đồng; an ninh xã hội; nghèo đói, việc làm... Các nhân tố về mặt tâm lý - xã hội luôn ảnh hưởng đến thái độ, cách làm, kết quả, chất lượng và hiệu quả hoạt động của HTXNN cũng như tính chất, đặc trưng của mô hình HTXNN. - Yếu tố chính trị: Chính trị ở đây thường thể hiện rõ 2 yếu tố: chế độ chính trị và thái độ của nhà cầm quyền. Đổi mới hay bảo thủ; quan tâm hay thờ ơ; thực sự đầu tư, hỗ trợ hay chỉ nói mà không làm; năng động, sáng tạo, sâu sát thực tế hay trì trệ, quan liêu... Mọi thái cực và hiện tượng đó đều tuỳ thuộc vào 2 yếu tố về chính trị đã nêu hoặc tác động tích cực hay tiêu cực đến HTXNN, mô hình HTXNN cũng như đối với đối tượng khác trong xã hội. - Yếu tố môi trường quốc tế: Trong thời đại hội nhập và phát triển, sự tác động của môi trường quốc tế đối với hoạt động của HTXNN là rất nhanh nhạy và to lớn. Đó là sự tác động về KT-XH, KH-CN, môi trường sinh thái... Ngày nay sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và trên thế giới ngày càng gia tăng và thêm phức tạp như khủng hoảng tiền tệ, giá cả, chiến tranh, khủng bố, biến đổi bất thường về thời tiết, khí hậu, dịch bệnh... đã và đang gây ra nhiều nguy cơ mới đối với xã hội nước ta. Do đó, đối với HTXNN cũng luôn gặp phải cơ hội và thách thức khó lường. Đặc biệt khi Việt Nam trở thành viên thư 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quá trình đàm phán, Việt Nam tiếp tục mở cửa và cải cách nền kinh tế của mình, và sẽ có thêm nhiều cuộc cải cách nữa trong vòng 5 năm tới sau khi gia nhập để hoàn tất các cam kết đã ký trong Nghị định thư gia nhập WTO. Động lực chính để nước ta tìm cách gia nhập WTO là hy vọng tư cách thành viên sẽ thúc đẩy xuất khẩu của họ, nhờ cải thiện được khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Việt Nam cũng hy vọng như thế, nhất là mở rộng được việc bán nông sản và thuỷ sản cũng như hàng dệt may. Tư cách thành viên WTO làm tăng sức hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam tận dụng lợi thế của cơ chế xử lý tranh chấp của WTO, một cơ chế áp dụng các luật lệ thương mại quốc tế. Là thành viên WTO, Việt Nam sẽ có tiếng nói trong việc xây dựng các luật lệ này. Hơn nữa, tin tưởng rằng việc Việt Nam trở thành thành viên WTO và thực thi các cam kết mở cửa sẽ là động lực tiếp tục thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước. Vì vậy, các cuộc cải cách nền kinh tế nước ta sẽ mang đến những điều chỉnh cơ cấu lớn liên quan đến hộ gia đình, doanh nghiệp... Trong khi toàn nền kinh tế có thể thu lợi lớn từ những điều chỉnh cơ cấu này nhưng có khả năng làm giảm sút thu nhập hộ nông dân, khoảng cách thu nhập giữa nông thôn- thành thị ngày càng xã hơn và có khả năng làm tăng tỷ lệ nghèo đói đang trên đà giảm. Cuộc cạnh tranh đối với những nông dân tham gia xuất khẩu nông sản và những nông dân sản xuất phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước sẽ gia tăng trên mọi phương diện, có thể dẫn đến hạ giá sản phẩm. Điều đó có hại cho nông dân và có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại bộ phận dân nghèo đang sống ở vùng nông thôn, hoặc là hộ sản xuất nhỏ hoặc là người dân không đất làm thuê. Nền kinh tế nông thôn và kế sinh nhai của người lao động phụ thuộc vào việc họ có bán được sản phẩm làm ra với một giá cả hợp lý hay không. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, việc mở cửa thị trường không nhất thiết mang lại giá rẻ cho người nghèo thành thị; lợi nhuận dường như rơi vào túi các công ty nhập khẩu hay chế biến lớn. Hơn nữa, giá lương thực rẻ của ngày hôm nay có thể gây tác động lâu dài đến khả năng tự chủ lương thực của một quốc gia trong tương lai. Những người lao động ở nông thôn có thế mạnh về một số sản phẩm xuất khẩu mà có thể tiếp tục duy trì hoặc mở rộng trong tương lai (như gạo, hạt tiêu, điều). Song, một số sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước sẽ gặp khó khăn vì nước ta chưa có khả năng cạnh tranh về những sản phẩm này (như đường, ngô, sản phẩm sữa và thịt). Thách thức đối với việc thực hiện cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vất ngay sau khi Việt Nam trở thành thanh viên WTO là rất lớn. Hiệp định này đòi hỏi sự hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia trong nông nghiệp và thuỷ hải sản. Đây là mốt thách thức lớn đặc biệt cho những người sản xuất nghèo, qui mô nhỏ, nhất là vùng sâu vùng xa, và chắc chắn phải mất một thời gian để hoàn thành. - Yếu tố môi trường sinh thái: Môi trường sinh thái luôn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hiệu quả kinh doanh của HTXNN. Vì vậy, việc bảo vệ môi sinh cũng như phòng tránh những yếu tố tự nhiên bất lợi là nhiệm vụ tất yếu, quan trọng và thường xuyên đối với HTXNN. Trong thời đại kinh tế phát triển, xu hướng tăng trưởng, cạnh tranh và phát triển kinh tế bền vững đều không thể không tính đến giải pháp bảo vệ môi sinh. Cho nên môi trường sinh thái vừa là nhân tố, điều kiện, vừa là mục tiêu của mọi hoạt động trong xã hội nói chung và của HTXNN nói riêng. - Yếu tố năng lực nội tại của HTXNN và mô hình HTXNN: Năng lực nội tại thường bao gồm các điều kiện về lao động, vốn, đất đai và tài nguyên, cơ sở vật chất - kỹ thuật từ sự đóng góp và tạo ra trong quá trình SX-KD của xã viên. + Lao động (sức lao động) của xã viên vừa là chủ thể, vừa là yếu tố "đầu vào" quyết định đến mọi hoạt động và sự phát triển của HTX. Trình độ của người lao động ở HTXNN vốn có điểm xuất phát rất thấp, nên phải bằng mọi cách nâng cao chất lượng lao động về học thức, kỹ năng và sức khoẻ. Đối với cán bộ HTX và các chủ hộ nông nghiệp còn cần thiết phải chú ý về khoa học quản lý. Hiện nay quản lý được xem là một yếu tố "đầu vào" hết sức quan trọng của quá trình SX-KD. Hiệu quả của quản lý phụ thuộc vào năng lực và phẩm chất của cán bộ và các xã viên cốt cán ở HTX. Thực tế ở nuớc ta đã chứng minh điều đó, nhiều HTX kinh doanh giỏi, đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao thu nhập của xã viên và cộng đồng chủ yếu là do cán bộ chủ chốt ở đó luôn năng động, sáng tạo trong công tác quản lý. Chính vì vậy vấn đề cán bộ và xã viên nòng cốt là điều kiện có tính quyết định đối với HTX. + Vốn của HTX quyết định đến đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất và tái sản xuất, nhất là đối với thâm canh, áp dụng kỹ thuật tiên tiến và ứng dụng công nghệ mới. Thường nguồn vốn đóng góp ban đầu của xã viên không nhiều, nên Nhà nước phải ưu tiên đầu tư hỗ trợ qua hệ thống ngân hàng và HTX phải huy động thêm từ nhiều nguồn khác bằng nhiều hình thức hợp pháp. Để đảm bảo việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, một mặt HTX phải có chiến lược kinh doanh phù hợp với thị trường, mặt khác phải chú ý nâng cao chất lượng đội ngũ nghiệp vụ kế toán của mình. + Đất đai và tài nguyên của HTX là của xã viên, ngoài ra còn có trường hợp HTX đi thuê của người khác. Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản và đặc trưng của HTXNN. Đất đai và tài nguyên thể hiện lợi thế so sánh trong sản xuất của HTXNN. Năng suất đất đai và giá trị sản xuất/ha phụ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên, kỹ thuật, quản lý, khoa học công nghệ. Để thoát khỏi tình trạng sản xuất thuần nông, tự cung tự cấp, manh mún, hiệu quả thấp, chưa khai thác tốt tiềm năng đất đai, HTXNN nhất thiết phải có giải pháp nâng cao năng lực của kinh tế hộ, năng lực quản lý, kinh doanh của mình, tập trung đất đai và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá với quy mô lớn. + Cơ sở vật chất - kỹ thuật thể hiện trình độ của công cụ sản xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng và là điều kiện quan trọng để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hợp tác, cạnh tranh của HTX. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của HTXNN ở nước ta vốn còn lạc hậu, nên cần được gia tăng đầu tư, hợp tác, liên kết và gắn với quy hoạch phát triển nông thôn. Hiệu quả của việc sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật phụ thuộc vào kỹ năng, ý thức của xã viên cũng như quy chế về trang bị, sử dụng, quản lý của tập thể và cộng đồng. Năng lực nội tại của HTXNN, nhất là năng lực sản xuất của hộ nông dân một khi đã vượt qua khỏi vạch tự cung tự cấp để đủ sức sản xuất hàng hoá theo kinh tế thị trường cùng với sự đầu tư hỗ trợ và quản lý có hiệu lực của Nhà nước là những điều kiện chủ yếu cho sự phát triển vững chắc HTXNN trong giai đoạn hiện nay. 1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước 1.3.1.1. Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản Từ xa xưa, dưới thời đại phong kiến, nông dân Nhật Bản đã lập ra những Hiệp hội để hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống. Luật HTX lần đầu tiên được ban hành vào năm 1900. Theo luật này các HTX có thể đảm nhận một số trong 4 chức năng: tín dụng, tiêu thụ, chế biến và thu mua. Năm 1930 luật HTX sửa đổi đã thừa nhận tư cách pháp lý của HTXNN. Sau chiến tranh thế giới thứ hai luật HTX lại chia nhỏ theo chức năng chế định các HTX chuyên ngành. Hiện tại HTXNN ở Nhật Bản được tổ chức theo ba cấp: Liên đoàn toàn quốc các HTXNN; Liên đoàn HTXNN tỉnh; HTXNN cơ sở. Trong nội bộ các HTX, cơ cấu tổ chức quản lý cũng theo mô hình chung gồm 3 bộ phận: - Đại hội xã viên thông qua các vấn đề quan trọng của HTX theo thời hạn 1 năm 1 lần và 1 xã viên 1 phiếu bầu. Đại hội có thể họp bất thường khi 1/5 xã viên chính thức yêu cầu. Ban giám đốc do Đại hội xã viên bầu theo nhiệm kỳ 3 năm, trong đó 3/4 ban giám đốc phải là xã viên chính thức. Ban giám đốc cử 1 chủ tịch và 1 giám đốc điều hành hoạt động thường trực; Ban thanh tra, kiểm soát có nhiệm vụ giám sát Ban giám đốc và sử dụng tài sản của HTX. Ngoài ra, mỗi HTXNN đều có một tổ chức địa phương làm nhiệm vụ thông tin, truyền bá kiến thức. Ở Nhật Bản các HTXNN cơ sở gồm 2 loại: đơn chức năng và đa chức năng. Từ những năm 1961 trở về trước các HTX đơn chức năng khá phổ biến. Nhưng từ 1961 trở về đây do Nhật Bản khuyến khích hợp nhất các HTXNN nhỏ thành HTXNN lớn nên mô hình hoạt động chủ yếu của HTXNN Nhật Bản hiện nay là đa chức năng. Các HTXNN đa chức năng chịu trách nhiệm đối với nông dân trên tất cả các lĩnh vực như cung cấp nông cụ, tín dụng, mặt hàng nhu yếu phẩm cũng như giúp nông dân chế biến, tiêu thụ sản phẩm và bảo hiểm cho hoạt động của họ. - Về chức năng, các HTXNN đa năng Nhật Bản đảm đương các nhiệm vụ sau: + Cung cấp cho nông dân dịch vụ khoa học - kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi cũng như giúp họ hoàn thiện kỹ năng quản lý hoạt động sản xuất. + Tiến hành kinh doanh, giúp nông dân tiêu thụ hàng hóa. + HTX cung ứng hàng hóa cho xã viên theo đơn đặt hàng và theo giá thống nhất và hợp lý. + HTXNN đa chức năng cung cấp tín dụng cho các xã viên của mình và nhận tiền gửi của họ với lãi suất thấp. + HTXNN còn sở hữu các phương tiện sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản để tạo điều kiện giúp nông dân sử dụng các phương tiện này hiệu quả nhất, hạn chế sự chi phối của tư nhân. + Ngoài ra, các HTXNN Nhật Bản còn tiến hành các nhiệm vụ giáo dục xã viên tinh thần HTX thông qua các tờ báo, phát thanh, hội nghị, đào tạo, tham quan cả ở ba cấp HTXNN cơ sở, tỉnh và trung ương. + Các HTXNN còn là diễn đàn để nông dân kiến nghị với Chính phủ các chính sách hợp lý cũng như tương trợ lẫn nhau giữa các HTX và địa phương. Liên hiệp HTXNN Trung ương tổ chức Hội nghị toàn quốc để kiến nghị lên Nghị viện và Chính phủ. Như vậy, có thể thấy HTXNN của Nhật Bản đã bén rễ và phát triển cả quãng đường dài hơn 100 năm. Từ các đơn vị tự phát lẻ tẻ ban đầu, các HTXNN Nhật Bản đã phát triển vững mạnh qua giai đoạn đơn chức năng ngày nay trở thành các tổ chức đa chức năng dịch vụ mọi mặt cho đời sống của nông dân và tổ chức liên kết quy mô lớn toàn quốc. Hiện nay, Liên hiệp HTXNN toàn quốc Nhật Bản đã có 25.000 đơn vị (chủ yếu là HTXNN cơ sở) với 250.000 nhân viên. Rõ ràng là ở một số nước công nghiệp hóa như Nhật Bản, hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp hiệu quả vẫn là hộ gia đình, do đó HTXNN, một mặt được thành lập để hỗ trợ nông dân, giúp họ vừa nâng cao hiệu quả sản xuất, vừa cải thiện cuộc sống ở nông thôn, mặt khác vẫn tôn trọng mô hình kinh tế hộ nông dân và chỉ thay thế hộ nông dân và tư thương ở khâu nào HTX tỏ ra có ưu thế hơn hẳn trong tương quan với mục tiêu hỗ trợ nông dân. 1.3.1.2. Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Hàn Quốc Mặc dù vai trò của ngành nông nghiệp Hàn Quốc trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có sự thay đổi nhanh chóng trong những năm gần đây (năm 1960 nông nghiệp chiếm 50% GDP và 50% lực lượng lao động; năm 1999, chỉ còn chiếm 4,4% GDP và 11,6% lao động) nhưng Chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm đến phát triển nông nghiệp. Góp phần quan trọng vào việc phát triển hiệu quả nền nông nghiệp Hàn Quốc là các HTXNN. Ở Hàn Quốc, Liên đoàn quốc gia các HTXNN (viết tắt là NACF, thành lập 1961) có vai trò rất quan trọng đối với các HTXNN thành viên. Hiện nay NACF có 1.387 HTX thành viên và 5.000 trung tâm kinh doanh khác nhau. Khác với các nước khác, NACF của Hàn Quốc có chức năng đa dạng và điều phối khá mạnh các HTX thành viên. Một mặt, NACF cung cấp các dịch vụ tiếp thị, chế biến, cung ứng vật tư và hàng hóa tiêu dùng. Mặt khác, NACF còn hoạt động như tổ chức tín dụng, tổ chức bảo hiểm, vận tải, lưu kho... Hiện tại NACF thực sự là tổ chức có sức mạnh cạnh tranh lớn nhất trên thị trường nông sản Hàn Quốc với 40% thị phần, là ngân hàng có số tiền gửi lớn nhất Hàn Quốc. Những hoạt động thành công của HTXNN Hàn Quốc là: + Tiếp thị sản phẩm cho nông dân: Đây là hoạt động được các HTXNN Hàn Quốc coi trọng hàng đầu. Hiện tại NACF và các HTXNN quản lý 99 trung tâm tiếp thị bán buôn nông sản, 2.206 siêu thị cho người không phải xã viên HTX và 12 cửa hàng giảm giá cho xã viên, 7 trung tâm phân phối. Nhờ sự hoạt động của các HTX, nông dân Hàn Quốc tiêu thụ sản phẩm rất thuận lợi. NACF có 26 cửa hàng đóng gói rau xanh nhằm tiêu chuẩn hóa nông sản cung cấp cho các siêu thị với các máy móc, phương tiện hiện đại, có 1.348 xe tải chở hàng, 74 xe lạnh, 1.108 trung tâm thu mua ở ngay trang trại phục vụ nông dân thu hoạch rất thuận tiện. NACF có 830 tụ điểm bán nông sản đến tận tay người tiêu dùng. Các HTX của Hàn Quốc còn đầu tư rất lớn cho các siêu thị bán lẻ. Cùng với sự hỗ trợ của Bộ Những vấn đề nông nghiệp Hàn Quốc, hoạt động tiếp thị của các HTX Hàn Quốc thực sự có hiệu quả và là nguyên nhân quan trọng giúp nông dân Hàn Quốc vượt khó, vươn lên làm giàu. + Chế biến lương thực: HTXNN Hàn Quốc rất chú trọng đẩy mạnh hoạt động chế biến nông sản. Hiện tại NACF có 147 nhà máy sản xuất và chế biến nông sản, 168 tổ hợp chế biến gạo. + Cung cấp hàng hóa và tín dụng cho xã viên: các HTXNN cung cấp hầu hết vật tư cho sản xuất và hàng hóa tiêu dùng cho xã viên với giá phải chăng nhờ khắc phục tính thời vụ và giảm chi phí quảng cáo, tiếp thị. Bên cạnh đó, HTXNN còn mở rộng hoạt động sang lĩnh vực tín dụng và đầu tư tài chính, trong đó tín dụng trực tiếp phục vụ nông nghiệp chiếm 54% tổng hoạt động tài chính của các HTXNN năm 2000. Các hoạt động tín dụng của HTXNN Hàn Quốc gồm: huy động và cho vay, đầu tư trên thị trường tài chính, tín dụng tương hỗ giữa các xã viên, bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm, thẻ tín dụng... + HTXNN Hàn Quốc cũng cung cấp cho nông dân dịch vụ khuyến nông theo các loại hình: Hướng dẫn nông dân phát triển ngành nghề kinh doanh sinh lợi; đào tạo hệ thống cán bộ khuyến nông trợ giúp trực tiếp nông dân; đổi mới tinh thần cho nông dân; tổ chức triển lãm về tri thức làm nông nghiệp; thiết lập quản lý hiệu quả... Hàng tháng NACF chọn 20 cặp vợ chồng nông dân kiểu mẫu để trao phần thưởng, đồng thời tạo điều kiện cho họ đi học tập kinh nghiệm tiên tiến ở nước ngoài, cấp tín dụng ưu đãi để tạo nòng cốt và hình ảnh người nông dân mới. + Hoạt động văn hóa giáo dục: các HTXNN khuyến khích phụ nữ tham gia HTX, hỗ trợ các tổ chức của phụ nữ nông thôn, trợ giúp kiến thức và dịch vụ pháp lý (HTX có một nhóm luật sư phục vụ mình hoặc ký hợp đồng với Công ty hỗ trợ pháp lý của Chính phủ). Hàng năm các HTX hỗ trợ pháp lý cho nông dân hàng chục tỷ Won. Ngoài ra, các HTXNN còn cung cấp kinh phí cho một số loại hoạt động y tế: phòng bệnh, kiểm tra sức khỏe, thăm hỏi đau ốm, chi phí tang lễ (hàng chục tỷ Won/năm), xây dựng cơ sở phúc lợi và giáo dục cho xã viên như thư viện, câu lạc bộ, phòng cưới, trung tâm chăm sóc sức khỏe trẻ em... NACF có Viện phát triển nguồn nhân lực, 5 cơ sở đào tạo cấp tỉnh đào tạo nhân viên, 3 cơ sở đào tạo cán bộ lãnh đạo cho HTXNN, 1 trường cao đẳng HTX... Nhìn chung, các HTXNN đa năng của Hàn Quốc, cũng giống như của Nhật Bản, hoạt động khá hiệu quả nhờ những nguyên nhân sau: + Các HTXNN đã hoạt động đúng hướng (tiếp thị, cung ứng, tín dụng và chế biến). + Được sự hỗ trợ của Chính phủ về tín dụng ưu đãi, về các dự án xây dựng đường nông thôn (đường nhựa đến tận chân ruộng, giảm thuế)... + Cơ cấu hai cấp linh hoạt với vai trò tổ chức rất hiệu quả của NACF. 1.3.1.3. Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Ấn Độ Ấn Độ là nơi phát triển HTXNN sớm nhất trong các nước châu Á nói riêng, các nước đang phát triển nói chung. Do là một nước nông nghiệp nên việc tìm các hình thức phát triển nông nghiệp hiệu quả luôn được Chính phủ Ấn Độ quan tâm. Các HTXNN của Ấn Độ chủ yếu cung cấp tín dụng, cung cấp các đầu vào, giúp nông dân chế biến sản phẩm và tiêu thụ trên thị trường. Hiện tại Ấn Độ có tới 488.158 HTX ở các cấp và các loại hình với hơn 200 triệu xã viên, chiếm 67% hộ gia đình ở các làng xã. Các HTX tín dụng nông nghiệp của Ấn Độ cũng phát triển, chiếm 43% tổng số tín dụng trong cả nước. Ngoài ra, các loại hình HTX sản xuất phân bón (34% thị trường) và sản xuất đường (62,4% tổng lượng đường cả nước) cũng hoạt động hiệu quả. Các HTXNN của Ấn Độ đều hoạt động theo nguyên tắc tự lực, dân chủ, tự nguyện, khá hiệu quả và đều đặt mục tiêu phục vụ xã viên lên hàng đầu, do đó rất được chính phủ quan tâm giúp đỡ. Năm 1904 Ấn Độ có Pháp lệnh về HTX và năm 1912 nó được chuyển thành luật. Chính phủ Ấn Độ đã thành lập Công ty quốc gia phát triển HTX. Công ty này thực hiện nhiều dự án khác nhau để giúp các HTX chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông lâm sản cũng như phát triển các vùng nông thôn lạc hậu. Gần đây Chính phủ Ấn Độ đã có chiến lược phát triển HTX nhằm vào các mục tiêu: - Sửa đổi luật HTX, tạo điều kiện cho HTX hoạt động tự chủ và năng động. - Tạo nên những thay đổi nhằm hỗ trợ HTX hoạt động hiệu quả. - Cung cấp thông tin trong nông dân về ích lợi của HTX. Về đại thể, ở Ấn Độ có các loại hình HTXNN sau: - HTX tín dụng nông nghiệp: Trước năm 1952 loại hình HTX tín dụng nông nghiệp còn phát triển yếu. Sau khi có kiến nghị của Ủy ban các chuyên gia của ngân hàng dự trữ Ấn Độ, Chính phủ đã có động thái ủng hộ tích cực hoạt động của loại hình này và gắn phát triển HTX tín dụng nông nghiệp với kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế. Từ đó HTX tín dụng nông nghiệp có bước phát triển tốt, chiếm 97% ở các vùng nông thôn về cho vay ngắn hạn (41 triệu xã viên) với 343 trung tâm ngân hàng HTX cấp huyện, 19 trung tâm ngân hàng phát triển đất đai, 893 ngân hàng phát triển đất đai cơ sở và 668 chi nhánh cung cấp tín dụng dài hạn phát triển nông nghiệp. HTX tín dụng chủ yếu cho nông dân vay, nhất là ưu đãi cho vay người nghèo. Các HTX tín dụng nông nghiệp còn làm trung gian trong chuyển tải tín dụng từ ngân hàng thương mại tới nông dân. - HTX dịch vụ nông nghiệp: Theo sáng kiến của Ủy ban nông nghiệp quốc gia, các HTX dịch vụ nông nghiệp Ấn Độ đã được thành lập nhằm cung ứng các đầu vào và khuyến nông cho nông dân. Tuy nhiên, trên thực tế các HTX này phát triển yếu ớt và phụ thuộc vào tín dụng của ngân hàng thương mại. - HTX kinh doanh nông sản khá phát triển ở Ấn Độ. Vào thập kỷ 90 Ấn Độ đã có tới 3.127 HTX kinh doanh nông sản ở các thị trường cấp cơ sở, 170 HTX kinh doanh cấp huyện, 25 tập đoàn cấp bang và liên hiệp toàn quốc. Nhìn chung các HTX kinh doanh nông sản hoạt động hiệu quả. HTX loại này ngoài kinh doanh tiêu thụ nông sản còn làm đại lý cho các tổ chức tín dụng (trả tín dụng bằng tiền bán sản phẩm) và chế biến nông sản. 1.3.2. Một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở trong nước - HTX nông nghiệp An Mỹ, Mỹ Đức, Hà Tây được thành lập từ 1976 và chuyển đổi từ 1998. Hoạt động kinh tế chủ yếu là dịch vụ tưới tiêu, bảo vệ thực vật, sản xuất giống cây trồng, làm đất, vật tư nông nghiệp, điện dân sinh, khuyến nông. Là HTX có quy mô toàn xã. Dịch vụ có kết quả các khâu kinh tế và dân sinh thiết yếu cho xã viên và cư dân nông thôn. Hoạt động kinh tế gắn liền với hoạt động xã hội phục vụ cộng đồng như thực hiện tốt chế độ phúc lợi cho xã viên, hỗ trợ kinh phí cho các đoàn thể, ngày Nhà giáo Việt Nam, ủng hộ đồng bào bị bão lụt, quỹ Đền ơn đáp nghĩa. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền cho xã viên nhận thức về luật HTX. Công khai, dân chủ trong chuyển đổi HTX, vốn và tài sản, phân phối lãi, phương án hoạt động. Chú ý liên kết HTX với các tổ chức, cơ quan, nhà khoa học trong hoạt động khuyến nông, dịch vụ bảo vệ thực vật, xây dựng mô hình sản xuất lúa giống. - HTXNN kinh doanh tổng hợp Bình Tây, Thanh Nhật, Gò Công Tây, Tiền Giang được thành lập 1978, chuyển đổi 1996. Sau khi chuyển đổi số xã viên mới vào HTX rất đông: 359 người, chiếm tỷ lệ 42% so với tổng số xã viên. Đa số hộ nông dân đã đi vào sản xuất hàng hoá nên thực sự có nhu cầu đối với HTX. Đã tổ chức mua bảo hiểm xã hội và y tế cho xã viên Phân phối lãi theo tỷ lệ 50% cho thành lập các quỹ, 50% theo vốn đóng góp của xã viên. + Hoạt động dịch vụ và sản xuất đa dạng, phong phú: giống cây trồng, vật tư, nông dược, tiêu thụ sản phẩm, chăn nuôi lợn giống, cá giống, gà, thú y, sấy lúa, xay xát lúa, sản xuất xơ dừa, chiếu cói, cung cấp nước sinh hoạt, quản lý chợ. + Có đầy đủ các tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng, trạm y tế, nhà trẻ, mẫu giáo trong HTX. Có vai trò trong đầu tư xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng ở nông thôn, có quy hoạch đào tạo cán bộ HTX và cán bộ khoa học kỹ thuật. Chú ý hợp tác, liên kết với các tổ chức, cơ quan và các nhà khoa học liên quan. Chủ nhiệm HTX là người có vị trí thực sự, có uy tín, có trình độ PTTH, qua nhiều lớp đào tạo tập huấn quản lý kinh tế và kỹ thuật, nhiệt tâm và hoạt động có kết quả cao. + Thực hiện tốt 5 tiêu chí về đời sống cho cư dân, cụ thể: Ăn đủ, no, ngon (100g thịt, cá/ngày/người); Nhà ở kiên cố, có điện, nước sạch, 4 điện thoại/100 dân; 1,2 xe máy/hộ; 90% trẻ em trong độ tuổi đến trường; Có 1 trạm xá có y, bác sĩ - HTX nông nghiệp Đình Bảng, Tiên Sơn, Bắc Ninh được thành lập 1976, chuyển đổi 1999. Kinh doanh chủ yếu là dịch vụ nông nghiệp và điện sinh hoạt. Đặc điểm nổi bật ở đây là HTX đã chủ động tổ chức mô hình khu chăn nuôi tập trung cách xa khu dân cư gồm 44 trang trại gia đình chăn nuôi lợn siêu nạc, vịt siêu thịt, siêu trứng và gà sinh sản kết hợp với trồng cây ăn quả, nuôi cá. Mô hình sản xuất cụ thể này đã tạo cho ngành chăn nuôi phát triển, mở ra hướng đưa chăn nuôi ra đồng có hiệu quả và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường trong khu dân cư. Ngoài ra, HTX đã sớm có quy hoạch phát triển lâu dài KT-XH. Cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn được tăng cường đầu tư có tính hệ thống, sản xuất hàng hoá. Hoạt động xã hội luôn có phong trào và hiệu quả thiết thực. - HTX dịch vụ nông nghiệp Gò Me, Khu phố 5, phường Thống nhất, Thành phố Biên Hoà được thành lập từ 1984, chuyển đổi 1999. HTX này chủ yếu là dịch vụ sản xuất nông nghiệp và xay xát. Ngoài ra còn sản xuất giấy tái sinh, dịch vụ câu cá giải trí, và có dự án kinh doanh ký túc xá. Thành công của mô hình HTX này là đã chuyển bớt diện tích lúa sang rau an toàn, chú ý sản xuất giống lúa thơm để phục vụ cho thành phố, xã viên được hưởng lợi do HTX dịch vụ với giá thấp hơn thị trường, chú ý đến hoạt động phúc lợi cho xã viên và cộng đồng, tích luỹ HTX tăng, chú ý công tác đào tạo cán bộ, đoàn kết trong lãnh đạo. Hạn chế lớn nhất là thiếu vốn và đất đai của xã viên cũng như đất do HTX quản lý chưa được cấp giấy chứng nhận. - HTX nông nghiệp Minh Tân, Vụ Bản, Nam Định được thành lập từ 1973 và chuyển đổi 1997 có qui mô toàn xã. Mô hình này đã được chọn làm thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới. Bên cạnh các hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho xã viên, HTX đã sản xuất lúa giống, lúa thơm và rau hàng hoá xuất khẩu, tổ chức các nghề mới như mộc, mây tre, thêu, may; chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây con; xây dựng mô hình hộ gia đình chăn nuôi lợn hướng nạc; hoạt động xã hội có hiệu quả; liên kết nhằm tạo vốn để hỗ trợ xã viên tham gia các chương trình phát triển kinh tế hộ và nông thôn. Mô hình còn một số hạn chế như: hoạt động kinh tế vẫn còn chịu sự can thiệp của chính quyền xã, dịch vụ còn trong phạm vi ngành nông nghiệp. 1.3.3. Một số vấn đề trong thực tiễn và kinh nghiệm rút ra từ các mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở trong và ngoài nước * Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn của các mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong và ngoài nước - Vai trò vị trí của HTX nói chung và HTXNN nói riêng đều được các nước xem trọng nên sớm có luật HTX và nhiều chính sách phù hợp để HTX phát triển, thực hiện các mục tiêu KT-XH của xã viên, xác lập vai trò của HTX đối với khu vực dân cư vốn kém thế lực về kinh tế. - HTX, trong đó có HTXNN, thật sự là một tổ chức tự nguyện của xã viên, đa dạng và phong phú về hình thức do yêu cầu của xã viên và cộng đồng. Mục đích của HTX là gắn bó cùng nhau để tạo ra mọi dịch vụ đáp ứng nhu cầu xã viên và hoạt động xã hội vì cộng đồng. - Nhà nước luôn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, nuôi dưỡng và phát triển phong trào HTX nhằm vừa phát triển kinh tế vừa góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội trên cơ sở pháp lý là không bao cấp và không can thiệp vào công việc của HTX, HTX được bình đẳng với mọi loại hình kinh tế khác. - Các HTXNN ở nước ta hiện nay đã chuyển đổi theo Luật HTX ban hành năm 1996. Đa số các HTX chuyển đổi đã thể hiện rõ các nguyên tắc HTX, hoạt động kinh tế chủ yếu là dịch vụ cho xã viên, thực hiện các mục tiêu xã hội ở nông thôn có kết quả, bước đầu đã thể hiện vai trò, vị trí quan trọng đối với việc phát triển KT-XH trong nông thôn. Đặc biệt, HTX nào năng động, sáng tạo, tích cực phục vụ kinh tế hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá thì ở đó mới có sức sống rõ rệt, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu KT-XH trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tại địa phương. - Do xuất phát từ nền KT-XH ở trình độ thấp lại đang mới chuyển sang thực hiện Luật HTX, nên hoạt động của các HTXNN còn đang gặp những trở ngại như nhận thức về Luật HTX, vốn, trình độ KH-CN, tổ chức và quản lý, cơ chế chính sách, cơ sở vật chất kỹ thuật. * Kinh nghiệm được rút ra từ các mô hình hợp tác xã nông nghiệp: - HTXNN ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử KT-XH nhất định. Mục đích hoạt động của HTXNN là dịch vụ vì nhu cầu KT-XH của xã viên và cộng đồng ở nông thôn. Do đó, HTXNN là hình mẫu phản ánh sự phù hợp về tổ chức, quản lý, mục tiêu và phương thức hoạt động của loại HTX này với từng giai đoạn, điều kiện KT-XH tương ứng. - Phát triển của HTXNN cùng với mô hình của nó là sức mạnh đoàn kết của nông dân, vì lợi ích của đông đảo nông dân và cộng đồng ở nông thôn, vì người nghèo. Ở nước ta trong tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, các HTXNN phải tuân theo sự đổi mới để phù hợp với quá trình phát triển hiện đại. - Xây dựng và phát triển HTXNN không thể thoát ly đặc điểm vốn có của nó và những yêu cầu, nội dung về thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. - Có rất nhiều nhân tố và điều kiện luôn tác động đến hoạt động của HTXNN. Vì vậy, một mô hình HTXNN mang tính phát triển phù hợp với tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta phải phù hợp với môi trường kinh doanh của thời đại và năng lực phát triển của từng HTXNN cụ thể. Trong đó phải rất chú ý về điều kiện pháp lý, điều kiện sản xuất hàng hoá, điều kiện về năng lực và phẩm chất của cán bộ HTXNN. - Kinh nghiệm từ các mô hình HTXNN trong và ngoài nước đều cho thấy: HTXNN vốn có mục đích, tổ chức và phương thức hoạt động không giống với các loại hình doanh nghiệp khác và có vai trò, vị trí quan trọng đối với khu vực kinh tế nông thôn; Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm giúp đỡ để HTXNN phát triển theo luật định; hoạt động kinh tế của HTXNN là dịch vụ cho yêu cầu sản xuất và của xã viên; để phát triển tự chủ và bình đẳng, HTXNN hiện nay cần được quan tâm đầu tư hỗ trợ về vốn, KH-CN, đào tạo cán bộ, đồng thời phải từ bỏ sự can thiệp của Đảng và chính quyền địa phương vào công việc của HTX. - HTXNN ở nước ta ít nhất phải đạt cho được những yêu cầu như sau: Thành lập và hoạt động trên cơ sở Luật HTX và điều lệ HTX đã được hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH; Mục đích hoạt động kinh tế là tạo điều kiện cho hộ xã viên thoát khỏi tình trạng kinh tế tiểu nông manh mún, chậm phát triển để sản xuất hàng hoá quy mô lớn, sản phẩm có chất lượng và sức cạnh tranh cao; Có năng lực về vốn, cán bộ, chất lượng lao động dịch vụ, cơ sở vật chất kỹ thuật; Hợp tác và liên kết phải thể hiện rõ sức mạnh về quy mô, trình độ khoa học và hiệu quả đạt được; Các tiêu chí thể hiện kết quả và hiệu quả về KT-XH của xã viên và cộng đồng trong địa bàn của HTX được nâng lên rõ rệt và hơn hẳn so với mức bình quân của địa phương trong huyện, hoặc vùng thậm chí có thể là cả khu vực nông thôn trong nước. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI TRONG NÔNG NGHIỆP Ở QUẢNG NAM 2.1.1. Vị trí địa lý và tiềm năng phát triển tỉnh Quảng Nam - Điều kiện tự nhiên: Quảng Nam là một tỉnh được tái lập từ tháng 01 năm 1997 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Quảng Nam nằm giữa Trung bộ, cũng là trung lộ của đất nước, có hình thể như hình bình hành, hơi khuyết ở góc tây nam, là tỉnh lớn và đông dân ở miền Trung.Tỉnh Quảng Nam cách thủ đô Hà Nội 759 km về phía nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 971 km về phía bắc, trên vĩ độ 15o13- 16o12 bắc, kinh độ 107o13-108o44 đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum, phía đông giáp biển, phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Chiều ngang theo đường chim bay từ biển đến biên giới Lào nơi rộng nhất là 125 km, nơi hẹp nhất là 72km. Ngoài khơi, cách thị xã Hội An 40km, có Cù Lao Chàm, gồm 6 hòn đảo lớn nhỏ, nay là xã Tân Hiệp thuộc thị xã Hôi An.. Tổng diện tích tự nhiên 10.406,83km2, núi rừng chiếm trên 70,5% diện tích toàn tỉnh nằm về phía Tây theo hình cung. Đặc biệt Quảng Nam đang triển khai xây dựng Khu kinh tế mở Chu Lai, có hai di sản văn hoá thế giới: phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn Về mặt hành chính, Quảng Nam có 17 huyện, thị xã, có 6 huyện vùng cao: Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My, 2 huyện miền núi: Tiên Phước, Hiệp Đức, 2 thị xã: Tam Kỳ, Hội An. - Dân số và lao động: Dân số Quảng Nam là 1.454.324 người, chiếm khoảng 3,1% về diện tích tự nhiên và 1,8% dân số cả nước. Trong đó, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm 7,5%. Vùng miền núi là địa bàn cư trú lâu đời các thành phần dân tộc thiểu số: Cơ tu, Xơ đăng, Cà dong, Bho nong, Ve, Tà riềng, Cor. Toàn tỉnh có 815.700 người trong độ tuổi lao động (chiếm 56,3% dân số), trong đó lao động nữ có 414.000 người (chiếm 50,8% lực lượng lao động). Lực lượng lao động trẻ từ 15- 35 tuổi chiếm 48 % lực lượng lao động [Chương trình thực hiện NQ TW5- Tỉnh ủy Quảng Nam]. - Tiềm năng phát triển kinh tế: + Nông lâm nghiệp: Quảng Nam có bờ biển dài 125km, với 40.000km2 ngư trường và trên 10.000ha có khả năng nuôi trồng thuỷ sản, sản lượng đánh bắt hàng năm gần 50.000 tấn. Trên 400.00 ha đất rừng với nhiều lâm đặc sản có giá trị. Ngoài sản lượng gỗ, mây, tre, nứa, cây quế Trà My-Quảng Nam nổi tiếng về chất lượng được nhiều nước trên thế giới ưa chuộng, đặc biệt cây sâm Ngọc Linh, Ba kích dược liệu quý. + Tài nguyên khoáng sản: Quảng Nam cũng khá phong phú, phân bổ đều khắp, có núi đá vôi ở huyện Đông Giang, Nam Giang, đá Tràng Thạch huyện Đại Lộc với trữ lượng lên đến hàng trăm triệu tấn, có mỏ đá ở huyện Quế Sơn, Đại Lộc trên 10 triệu tấn, mở vàng Bồng Miêu, vàng sa khoáng có đều khắp trên dãi đất các huyện miền núi phía tây của tỉnh, có mỏ silicát trên 150 triệu tấn ở huyện Thăng Bình, Núi Thành. + Du Lịch: Quảng Nam có tiểm năng du lịch hấp dẫn, cảnh quan thiên nhiên, có 2 di sản văn hoá thể giới Khu đền tháp Mỹ Sơn và đô thị cổ Hội An. + Làng nghề truyển thống: có nhiều làng nghề truyền thống gắn liền với lịch sử văn hoá lâu đời độc đáo như: tơ lụa Mã Châu, nhôm đồng Phước Kiều, trống Lâm Yên, mộc chạm trổ Kim Bồng, nước mắn Tam Áp, làng hương Quán Hương - Thăng Bình... + Về tốc độ tăng trưởng GDP: Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối ổn định và tăng cao hơn mức bình quân chung cả nước. Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm 10,4%. GDP bình quân đầu người là 380 USD. + Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: [Báo cáo tổng kết công tác quản lý HTXNN năm 2005-UBND tỉnh Quảng Nam] Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, phù hợp với xu thế phát triển chung của cả nước. Ngành nông, lâm, thuỷ hải sản chiếm 41,53% năm 1997, năm 2005 còn 31%. Ngành công nghiệp và xây dựng từ 25,3% năm 1997 tăng lên 34% vào năm 2005. Ngành du lịch dịch vụ từ 33,1% năm 1997 lên 35% năm 2005. - Về sản xuất công nghiệp: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng với tốc độ cao, đạt bình quân hàng năm gần 25,5%. Trong đó khu vực quốc doanh tăng 31,21%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,21% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,48%. Tính theo giá trị sản xuất, quy mô sản xuất công nghiệp năm 2005 gấp 3,1 lần năm 1997. Hình thành được 05 khu công nghiệp và 18 cụm công nghiệp với những chính sách ưu đãi hấp dẫn đang thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. 2.1.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp và nông thôn Quảng Nam Quảng Nam là một tỉnh mà nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Với 84% cư dân sống ở khu vực nông thôn, 72,3% lao động nông, lâm, ngư nghiệp, đóng góp 33,27% trong cơ cấu GDP của tỉnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng đối với phát triển KT-XH của tỉnh. Trong những năm qua, xuất phát từ lợi thế cùng với sự nỗ lực đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, nền nông nghiệp tỉnh có bước phát triển mới, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá, góp phần tích cực trong việc ổn định KT-XH. Với hơn 113.373 ha đất nông nghiệp, chiếm 10,89% diện tích đất tự nhiên, bình quân 0,38 ha/hộ nông nghiệp, trong đó hơn ½ diện tích đất có độ phì kém, lại nằm trong khu vực có địa hình đa dạng và khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên thiên tai, nhưng Quảng Nam là tỉnh có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên. Hơn nữa, lực lượng lao động dồi dào, cần cù, chịu khó, sáng tạo... Từ những lợi thế đó, Quảng Nam có điều kiện để phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong những năm qua, là tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo ra nông sản hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường. Thành tựu nổi bật về chuyển dịch cơ cấu mùa vụ là chuyển hẳn từ sản xuất 3 vụ lúa sang 2 vụ lúa/năm, có điều kiện áp dụng những tiến bộ KH-CN để tăng năng suất và hiệu quả sản xuất lúa. Song diện tích sản xuất lúa có giảm (từ 105.929 ha năm 1997 xuống còn 86.391 năm 2005, giảm 18,4%) nhưng bình quân năng suất lúa năm sau cao hơn năm trước 2tạ/ha (tăng 15,8%) so với năm 1997. Sản lượng lúa tăng, chi phí đầu tư giảm...đã tạo cơ sở thực tiễn thuyết phục, củng cố kết quả chuyển đổi mùa vụ lúa một cách vững chắc. Bên cạnh đó, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng đã mang lại hiệu quả kinh tế. Diện tích ngô lai cả tỉnh tăng mạnh (từ 8.907ha năm 2000 lên 10.648 ha năm 2005), sản lượng đạt 42.914 tấn, tăng 1,6 lần so với năm 2000. Kết quả chuyển dịch cơ cấu cây lương thực có hạt đã đảm bảo an toàn lương thực, là cơ sở quan trọng để thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy phát triển chăn nuôi...Đối với diện tích cây công nghiệp ngắn ngày có xu hướng giảm (từ 9.580 ha năm 1997 xuống còn 8.484 ha năm 2005) và có sự thay đổi trong cơ cấu loài cây. Cây thực phẩm cho hiệu quả kinh tế cao mặc dù thị trường thiếu ổn định nhưng diện tích vẫn tăng nhanh (từ 10.491 ha năm 1997 lên 14.579 ha năm 2005); cây công nghiệp dài ngày có diện tích tăng khá (2.671ha năm 1997 lên 5234 ha năm 2005). Với chủ trương đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính, lĩnh vực chăn nuôi trong những năm gần đây có sự phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Tổng đàn con vật nuôi đạt trên 5 triệu con (trong đó trâu 57.671 con, bò 176.992 con, lợn 542.301 con, gia cầm trên 4 triệu con). Đồng thời, giá trị ngành thuỷ, hải sản liên tục đạt chỉ số phát triển trên 8%/năm. Đặc biệt có sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu giá trị nuôi trồng và dịch vụ tăng nhanh. Nghề nuôi trồng thuỷ sản như nuôi tôm nước ngọt tiếp tục phát triển mạnh cả về diện tích và sản lượng. Nhìn chung, từ việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nên giá trị nông, lâm, thuỷ sản tăng bình quân hằng năm từ 4 - 5% ; nhiều mô hình canh tác đạt từ 40 -50 triệu đồng/ha/năm với quy mô hàng trăm ha, cá biệt có những cánh đồng đạt 120-150 triệu đồng/ha. Bình quân giá trị trồng trọt tăng dần từ 15,7 triệu đồng (năm 2000) lên 19,13 triệu đồng/ha (năm 2005). Giá trị sản xuất nông nghiệp có tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 1995-2000 đạt 2,21%/năm, giai đoan 2001-2005 đạt 3,77%/năm, riêng ngành trồng trọt đạt chỉ số phát triển khá cao trong hai năm gần đây (trên 6%) [Báo cáo tổng kết công tác quản lý HTXNN năm 2005-UBND tỉnh Quảng Nam]. Hiện nay, cả tỉnh có 2749 ha diện tích cải tạo vườn tạp, mở mới 114 ha vườn đồi, vườn rừng, hơn 1000 trang trại, trong đó có 110 trang trại sản xuất tổng hợp, 144 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, hơn 500 trang trại chăn nuôi, trồng trọt, gần 200 trang trại chuyên canh cây lâm nghiệp, cây công nghiệp ngắn ngày và các loại cây khác, với tổng giá trị đầu tư trên 65 tỷ đồng. Có nhiều mô hình tiêu biểu, thu lãi hàng năm từ 100-200 triệu đồng/năm. Phong trào nuôi tôm giống, tôm thịt, ba ba, hươu, cá sấu, dê, cá nước ngọt…quy mô trang trại đang phát triển ở nhiều vùng trong tỉnh, kể cả các vùng miền núi. Hình thức kinh tế trang trại bước đầu đã tạo mũi đột phá trong ứng dụng tiến bộ KH-CN và quản lý, sử dụng hợp lý các nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Từ những thành tựu về nông nghiệp, công tác tuyên truyền, vận động các hộ nông dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, mùa vụ, thực hiện các chương trình trồng rừng, nhận khoán quản lý bảo vệ rừng, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển ngành nghề…đã góp phần tích cực trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nông thôn. Trên cơ sở tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ KH-CN vào sản xuất nên trình độ và năng lực sản xuất của nông dân ngày càng được nâng lên. Nhiều hộ đã phát huy nội lực và tranh thủ sự hỗ trợ của cộng đồng, đã đầu tư xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp, hình thành các trang trại, có phương thức tổ chức sản xuất phù hợp với nguồn vốn và trình độ công nghệ lấy ngắn nuôi dài, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, tạo ra những sản phẩm hàng hoá đa dạng, phong phú, thích nghi với thị trường, góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Từ những kết quả đạt được, đời sống người dân ở khu vực nông thôn ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần, kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư, phát triển. Với chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm, Quảng Nam đã bê tông hoá được hàng nghìn km đường giao thông nông thôn, hàng trăm km kênh mương thuỷ lợi; xây dựng tầng hoá nhiều trường học, trạm xá và các nhà văn hoá, khu vui chơi; điện lưới được kéo về tận thôn, xóm…tạo điều kiện phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu cuộc sống và sinh hoạt phong phú, lành mạnh của người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, phong trào phổ cập giáo dục, tuyên truyền, vận động đã được các cấp, các ngành quan tâm, từng bước nâng cao nhận thức cho nhân dân trong việc tiếp cận KH-CN, nâng cao vai trò người nông dân trong thời kỳ mới, góp phần đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình sản xuất nông nghiệp ở Quảng Nam vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Đó là, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn chậm so với yêu cầu, tiềm năng và thế mạnh. Sản xuất còn manh mún, chưa hình thành những vùng chuyên canh tập trung tạo ra sản lượng hàng hoá đủ khả năng đáp ứng cho công nghiệp chế biến hoặc tạo sức hút với các nhà đầu tư, từ đó chưa tạo được sự chuyển dịch mạnh mẽ và đồng đều giữa các vùng. Mặt khác, thị trường tiêu thụ sản phẩm đang gặp nhiều khó khăn, cơ cấu vốn đầu tư cho chuyển dịch theo yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế chính sách, năng lực quản lý điều hành, khả năng và cách thức làm ăn của nhân dân cũng là nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển nông nghiệp của tỉnh. Mặt khác, người nông dân chưa tiếp cận được nhu cầu thị trường, đầu ra của sản phẩm nông nghiệp thiếu ổn định, việc mở rộng sản xuất, kết hợp một hoặc nhiều ngành, nhiều nghề gắn với dịch vụ, thương mại còn hạn chế, do vậy người nông dân luôn bị động, lúng túng trong việc xử lý sản phẩm sau thu hoạch. Cùng với hạn chế trên, kết cấu hạ tầng nông thôn tuy đã được đầu tư nâng cấp, xây dựng nhưng vẫn chưa đồng đều, nhất là vùng sâu, vùng xa vẫn chưa được quan tâm đúng mức, ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất, đời sống người dân, nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt vẫn còn thiếu. Trước thực tế đời sống, sản xuất và những đòi hỏi cấp bách từ cuộc sống, ở khu vực nông thôn hiện nay rất cần phát triển các HTX kiểu mới trong nông nghiêp để phục vụ sản xuất, đáp ứng nhu cầu của nông dân. 2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ QUA CÁC GIAI ĐOẠN 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Quảng Nam - Giai đoạn trước năm 1981: HTXNN theo đúng nghĩa là tổ chức quản lý SX-KD nông nghiệp. HTXNN là đơn vị kinh tế cơ sở và cơ bản ở nông thôn, kinh tế hộ tự chủ không tồn tại, mà chỉ có kinh tế phụ gia đình gắn với sử dụng đất 5% cho chăn nuôi. HTX trực tiếp quản lý ruộng đất, tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm với bộ máy quản lý rất lớn. Bên cạnh các HTXNN thường có các HTX tiểu thủ công nghiệp, HTX mua bán, HTX tín dụng. Các HTX này tồn tại độc lập với nhau trong cơ chế quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.pdf
Tài liệu liên quan