Tài liệu Luận văn Phát triển bền vững nông nghiệp Đà Nẵng: LUẬN VĂN:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG
Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài.
Đà Nẵng là một thành phố có những bước phát triển về kinh tế xã hội vượt bậc
trong những năm gần đây. Định hướng chung của thành phố trong những năm sắp tới là
hướng tới phát triển thành phố một cách bền vững cả về kinh tế và xã hội. Ngành nông
nghiệp của thành phố củng không nằm ngoài xu hướng đó, phát triển bền vững nông
nghiệp sẽ là hướng đi chính trong tương lai. Những năm gần đây, sản suất nông nghiệp
của thành phố đã có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng
thì còn nhiều hạn chế, vì vậy việc xác định rõ những kết quả đã đạt được cũng như
những hạn chế là cần thiết để từ đó có những định hướng và đề ra những giải pháp phát
triển bền vững nền nông nghiệp thành phố nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đời
sống của nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã chọn đề tài “Phát triển bền vững
nông nghiệp Đà Nẵng”
II. Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá khái ...
67 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát triển bền vững nông nghiệp Đà Nẵng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG
Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài.
Đà Nẵng là một thành phố có những bước phát triển về kinh tế xã hội vượt bậc
trong những năm gần đây. Định hướng chung của thành phố trong những năm sắp tới là
hướng tới phát triển thành phố một cách bền vững cả về kinh tế và xã hội. Ngành nông
nghiệp của thành phố củng không nằm ngoài xu hướng đó, phát triển bền vững nông
nghiệp sẽ là hướng đi chính trong tương lai. Những năm gần đây, sản suất nông nghiệp
của thành phố đã có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng
thì còn nhiều hạn chế, vì vậy việc xác định rõ những kết quả đã đạt được cũng như
những hạn chế là cần thiết để từ đó có những định hướng và đề ra những giải pháp phát
triển bền vững nền nông nghiệp thành phố nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đời
sống của nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã chọn đề tài “Phát triển bền vững
nông nghiệp Đà Nẵng”
II. Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá khái quát thực trạng phát triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng.
Tìm hiểu các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội tác động đến quá trình phát
triển nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng.
Phân tích các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp thành phố đà nẵng một
cách bền vững.
Định hướng và đưa ra các giải pháp góp phẩn phát triển nông nghiệp thành phố
bền vững trong tương lai.
III. Bố cục đề tài nghiên cứu.
Bố cục của đề tài bao gồm:
- Phần 1: Cơ sở lý luận chung về nông nghiệp và phát triển bền vững
nông nghiệp
- Phần 2: Thực trạng phát triển của nông nghiệp thành phố Đà Nẵng.
- Phần 3: Những giải pháp và kiến nghị phát triển bền vững nông
nghiệp Đà Nẵng.
IV. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng kết hợp nhiều phương pháp như: so sánh,
thống kê, phân tích đánh giá... để làm rỏ vấn đề nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tập trung chủ yếu trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng. Bên cạnh đó có nêu thêm kinh nghiệm phát triển bền vững nông nghiệp của
một số địa phương .
Trong quá trình nghiên cứu dù đã tích cực tìn hiểu về lý luận củng như thâm
nhập thực tế để làm rỏ vấn đề nhưng với hiểu biết còn hạn chế của minh nên không
tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, rất mong được sự quan tâm, góp ý của thầy cô và
các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đở của giáo viên hướng dẩn thạc sỉ Lê Bảo
đã tận tình hướng dẩn em hoàn thành đề tài trong suốt thời gian thực hiện để tài.
Em xin chân thành cảm ơn các cô (chú), anh (chị) tại phòng Xây dựng cơ bản,
Sở Kế hoạch – Đầu tư thành phố Đà Nẵng đã tạo điều kiện cho em tham gia thực tập và
tìm kiếm tài liệu, số liệu để hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Phần 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NÔNG NGHIỆP.
I. Nông nghiệp.
1. Khái niệm.
Nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông
nghiệp đã có từ hàng ngàn năm nay kể từ khi con người từ bỏ nghề săn bắn và hái
lượm. Do lịch sử lâu đời này mà nông nghiệp thương được nói đến như là nền kinh
tế truyền thống. Ngày nay mặc dù với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật con người đã
sản xuất được những máy móc thiết bị hiện đại nhưng người nông dân vẩn thường
áp dụng những kỹ thuật đã phát triển từ hàng trăm nghìn năm trước để trồng trọt.
2. Đặc điểm vai trò của nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Lương
thực thực phẩm chỉ có ngành nông nghiệp mới sản xuất ra. Trên thực tế phần lớn
các sản phẩm chế tạo có thể thay thế nhưng không có sản phẩm nào có thể thay thế
lương thực. Do đó nước nào củng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực để phục
vụ nhu cầu của mình.
Hoạt động sản xuât nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan.
Trước hết nông nghiệp khác cơ bản với các ngành khác ở chổ tư liệu sản xuất chủ
yếu là đất đai, điều kiện tự nhiên. Ngành nào tiến hành sản xuất kinh doanh củng
cần đất đai, nhưng không có ngành nào đất đai đóng vai trò chủ đạo như nông
nghiệp. Gắn liền với vai trò của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết. Củng không có
ngành nào, ngoài nông nghiệp phụ thuộc vào sự biến động thất thường của thời tiết
như vậy. Cùng với sự biến động của thời thiết, điều kiện thổ nhưỡng, độ màu mở
của đất đai mổi nơi mổi khác nên việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi và kỹ
thuật canh tác củng khác nhau. Trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng đất
trồng, khí hậu, nguồn nước sẳn có dẩn đến việc sản xuất chủng loại cây khác nhau
và sử dụng các biện pháp canh tác khác nhau.
Ngành nông nghiệp có đặc điểm là tỷ trọng lao động và sản phẩm trong nền
kinh tế có xu hướng giảm dần. Ở các nước đang phát triển nông nghiệp tập trung
nhiều lao động hơn hẳn với các ngành khác, trung bình thường chiếm từ 60% - 80%
lực lượng lao động xã hội. Ngược lại ở các nước phát triển tỷ lệ này không quá
10%. Về sản phẩm, giá trị sản lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển thường
chiếm từ 30 – 60%, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này thường dưới 10%. Sự
biến động này chịu sự tác động của quy luật tiêu dùng sản phẩm và quy luật tăng
năng suất lao động.
3. Tác động của nông nghiệp đến tăng trưởng và phát triển.
Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đặc biệt với các
nước đang phát triển
Khu vực nông nghiệp củng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển
kinh tế. Ở các nước không giàu tài nguyên (như dầu hỏa) thì nông sản đóng vai trò
quan trọng trong xuất khẩu, và ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc,
trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Trừ một số
ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú (dầu mỏ, khoáng sản...) để xuất khẩu,
đổi lấy lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn củng như thành thị.
Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70%
dân số ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trử dồi dào cho khu vự thành thị.
Để đáp ứng nhu cầu lâu dài về mặt phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số ở khu vực
thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa đất nước.
Là ngành cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Các sản phẩm của
ngành nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào quan trọng của công
nghiệp chế biến qua đó sẽ nâng cao giá trị của nông sản trên thị trường đặc biệt là
hướng vào sản phẩm xuất khẩu.
Tạo việc làm cho đa số lao động nông thôn. Nông nghiệp tạo ra thu nhập
chính cho bộ phận dân cư ở nông thôn.
4. Tác động môi trường của nông nghiệp.
Trong khi sử dụng (và thường sử dụng chưa hợp lý) các nguồn tài nguyên
thiên nhiên nông nghiệp có thể gây ra các tác động môi trường tích cực hoặc tiêu
cực. Đến nay, nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất và làm cho nguồn
nước ngày càng khan hiếm. nông nghiệp là yếu tố chính làm suy kiệt nguồn nước
ngầm, ô nhiểm hóa chất nông nghiệp, bạc màu đất và thay đổi khí hậu toàn cầu khi
chiếm tới 30% lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên nông nghiệp củng là nới
cung cấp chính các dịch vụ môi trường thường không được công nhận và không
được trả tiền như cố định cacbon, quản lý lưu vực sông và bảo tồn đa dạng sinh học.
Với tình trạng khan hiếm nguồn tài nguyên ngày càng gia tăng, thay đổi khí hậu dẩn
đến những quan ngại về sự biến đổi môi trường và cái giá phải trả trong tương lai,
kiểu nông nghiệp hiện nay không phải là một cách hay. Quản lý các mối quan hệ
giữa nông nghiệp, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường là một phần không
thể tách rời khỏi nông nghiệp vì sự phát triển.
II. Phát triển bền vững và phát triển bền vững nông nghiệp.
1. Khái niệm.
Để duy trì sự sống của bản thân và tiếp tục sự phát triển của nòi giống, ngay
từ thời kỳ nguyên thuỷ của lịch sử nhân loại, con người đã có những hoạt động khai
thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến thành những vật phẩm cần thiết cho mình,
hoặc để cải thiện những điều kiện thiên nhiên, tạo nên môi trường sống thích hợp
với mình. Trong lúc tiến hành những hoạt động đó, con người ít nhiều đã biết rằng
mọi can thiệp vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường luôn luôn có hai mặt lợi, hại
khác nhau đối với cuộc sống trước mắt và lâu dài của con người. Một số kiến thức
và biện pháp thiết thực để ngăn ngừa những tác động thái quá đối với môi trường đã
được đúc kết và truyền đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác dưới dạng những tín
ngưỡng và phong tục. Trong các xã hội công nghiệp, với sự phát hiện những nguồn
năng lượng mới, vật liệu mới và kỹ thuật sản xuất tiến bộ hơn nhiều, con người đã
tác động mạnh mẽ vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường, can thiệp một cách
trực tiếp và nhiều khi thô bạo vào các hệ thiên nhiên. Để “chế ngự” thiên nhiên, con
người nhiều khi đã tạo nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa mục tiêu phát triển của xã
hội loài người với các quá trình diễn biến của tự nhiên. Để đạt tới những năng suất
cao trong sản xuất nông nghiệp, con người đã chuyển đổi các dòng năng lượng tự
nhiên, cắt nối các mắt xích thức ăn vốn có của thiên nhiên, đơn điệu hoá các hệ sinh
thái, sử dụng năng lượng bổ sung to lớn để duy trì những cân bằng nhân tạo mong
manh. Đặc biệt là trong nửa cuối thế kỷ 20, sau những năm hồi phục hậu quả của
thế chiến lần thứ hai, hàng loạt nước tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội chủ nghĩa
tiếp tục đi sâu vào công nghiệp hoá, nhiều nước mới được giải phóng khỏi chế độ
thực dân cũng có điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế của mình. Một số nhân
tố mới như cách mạng khoa học và kỹ thuật, sự bùng nổ dân số, sự phân hoá các
quốc gia về thu nhập đã tạo nên nhiều nhu cầu và khả năng mới về khai thác tài
nguyên thiên nhiên và can thiệp vào môi trường. Trật tự bất hợp lý về kinh tế thế
giới đã tạo nên hai loại ô nhiễm: “ô nhiễm do thừa thãi” tại các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển và: “ô nhiễm do đói nghèo” tại các nước chậm phát triển về kinh tế.
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.
Nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể ngừng tiến hoá và
ngừng sự phát triển của mình. Đó là qui luật của sự sống, của tạo hoá mà vạn vật
đều phải tuân theo một cách tự giác hay không tự giác. Con đường để giải quyết
mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao
cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phát triển đương
nhiên sẽ biến đổi môi trường, nhưng làm sao cho môi trường vẫn làm đầy đủ các
chức năng: đảm bảo không gian sống với chất lượng tốt cho con người, cung cấp
cho con người các loại tài nguyên cần thiết, tái xử lý các phế thải của hoạt động của
con người, giảm nhẹ tác động bất lợi của thiên tai, duy trì các giá trị lịch sử văn hoá,
khoa học của loài người. Hay nói một cách khác đó là: phát triển bền vững (PTBV).
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại
của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ
tương lai. Phát triển bền vững là một phương hướng phát triển được các quốc gia
trên thế giới ngày nay hướng tới, đó là niềm hy vọng lớn của toàn thể loài người
PTBV có đặc điểm:
(1) - Sử dụng đúng cách nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không làm tổn hại
hệ sinh thái và môi trường
(2) - Tạo ra các nguồn vật liệu và năng lượng mới
(3) - Ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ phù hợp với hoàn cảnh địa
phương
(4) - Tăng sản lượng lương thực, thực phẩm
(5) - Cấu trúc và tổ chức lại các vùng sinh thái nhân văn để phong cách và
chất lượng cuộc sống của ngươì dân đều thay đổi theo hướng tích cực
Mục tiêu cuối cùng của PTBV là thỏa mãn yêu cầu căn bản của con người,
cải thiện cuộc sống, bảo tồn và quản lý hữu hiệu hệ sinh thái, bảo đảm tương lai ổn
định. PTBV thực hiện và đảm bảo sự liên đới giữa các thế hệ, giữa các quốc gia,
giữa hiện tại với tương lai. PTBV có tính chất đa diện, thống nhất, toàn bộ. Muốn
PTBV phải lồng ghép được 3 thành tố quan trọng của sự phát triển với nhau: phát
triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là nguyên lý chung để
hướng sự phát triển bền vững của các lĩnh vực trong nền kinh tế.
Cùng với định nghĩa về PTBV, khái niệm phát triển nông nghiệp bền vững
cũng hình thành. Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ
yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xuớng
một số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo
một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thoả mãn
những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi
trường. Thông tin về các mô hình canh tác tổng hợp, canh tác bền vững trên đất dốc,
phòng trừ sâu bệnh tổng hợp…
Phát triển Nông nghiệp và bền vững là quá trình đa chiều bao gồm: (i) tính
bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất đến tiêu thụ, liên quan trực tiếp
đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị trường); (ii) tính bền vững trong sử dụng tài
nguyên đất và nước về không gian và thời gian; (iii) khả năng tương tác thương mại
trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an
ninh lương thực trong vùng và giữa các vùng.
Các khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững
a. Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng vẫn đảm
bảo khả năng phát triển ấy trong tương lai.
b. Phát triển nông nghiệp bền vững là gia tăng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu
lương thực, thực phẩm càng cao và đảm bảo cho giá giảm dần.
c. Phát triển nông nghiệp bền vững là nên duy trì trình độ sản xuất cần thiết đáp
ứng nhu cầu tăng dân số mà không làm suy thoái môi trường.
d. Phát triển nông nghiệp bền vững là duy trì sự cân bằng giữa sự tăng trưởng
và cân bằng sinh thái.
e. Phát triển nông nghiệp bền vững được hiểu là tối đa hoá lợi ích kinh tế trên
cơ sở ràng buộc bởi duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời gian
và tuân thủ các quy luật sau:
- Đối với tài nguyên tái sinh thì sử dụng ở mức thấp hơn hoặc bằng
- Đối với tài nguyên không tái sinh thì tối ưu hoá hiệu quả sử dụng chúng
bằng giải pháp hợp lý từ các yếu tố đầu vào ( phân bón, kỹ thật canh tác…)
f. Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu tăng trưởng
chung của nền kinh tế nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên – con
người và đảm bảo trên mức nghèo đói của người dân nông thôn.
g. Phát triển nông nghiệp bền vững là đảm bảo an ninh lương thực, tăng cải tổ
kinh tế khắc phục nghèo đói và tạo điều kiện tăng tốc công nghiệp hoá.
h. Phát triển bền vững được hiểu là giữ vững tốc độ tăng trưởng về sản xuất lẫn
y tế và giáo dục qua nhiều năm hay thập kỷ.
i. Phát triển nông nghiệp bền vững là cực đại hoá phúc lợi hiện tại không làm
giảm thiểu các phúc lợi ấy trong tương lai.
j. Phát triển nông nghiệp bền vững là hướng phát triển mà trong đó giá trị của
vốn thiên nhiên không bị suy giảm qua thời gian.
2. Những nguyên lý của canh tác bền vững
2.1 Quản lý đất bền vững
Tài nguyên đất là điều kiện thiết yếu để trồng trọt. Nhu cầu ngày càng tăng
của con người về đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác đang làm nảy sinh
những cạnh tranh và mâu thuẫn. Nếu muốn làm thoả mãn nhu cầu đòi hỏi của con
người một cách lâu bền, chúng ta phải giải quyết những mâu thuẫn đó, và tìm cách
sử dụng đất và các tài nguyên thiên nhiên khác một cách có hiệu quả và hiệu suất
hơn.
Mục tiêu là để làm cho đất được sử dụng theo những cách đảm bảo thu được
những lợi ích lâu bền lớn nhất. Cách để làm giảm thiểu các mâu thuẫn và đạt được
kết quả tốt nhất và sự lựa chọn thích hợp nhất là phải liên kết để phát triển kinh tế
và xã hội với vấn đề củng cố và bảo vệ môi trường. Hơn nữa trong hoàn cảnh phải
thoả mãn nhu cầu nuôi sống số dân đang tăng nhanh mà quỹ đất trồng trọt, nguồn
nước ngày càng cạn kiệt và chúng ta không được quyền mở rộng trên những diện
tích không phù hợp.
Quản lý đất bền vững tuỳ thuộc vào từng loại đất cụ thể. Ở những nơi đất ổn
định, phì nhiêu thì việc trồng cấy và quản lý canh tác sẽ theo phương thức bền vững,
bù đủ lượng dinh dưỡng trong các sản phẩm thu hoạch và cây trồng mang theo. Còn
những vùng đất xấu cần xác định những phương thức quản lý và sản xuất thích hợp.
. Biện pháp quản lý đất bền vững nhằm tránh sự thoái hoá đất, duy trì độ phì chính
dựa vào Quy trình quản lý tốt nhất (Best Management Practice - BMP). Quy trình
này bao gồm :
- Bảo vệ cấu trúc đất và hàm lượng hữu cơ của đất
- Quản lý dinh dưỡng
- Bảo vệ đất bằng cây che phủ
- Trồng rừng
- Duy trì độ phì đất
Sử dụng những phương pháp canh tác tiến bộ (làm đất và sử dụng máy móc,
đặc biệt ở những vùng dễ bị tổn thương) và các quy trình gieo trồng thích hợp.
2.2 Quản lý sâu bệnh bền vững
Quản lý sâu bệnh bền vững và nông nghiệp bền vững cùng chung mục tiêu là
phát triển hệ thống nông nghiệp hoàn thiện về sinh thái và kinh tế. Quy trình phòng
trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) có thể coi như cấu thành chủ đạo trong hệ thống phát
triển nông nghiệp bền vững.
Quản lý sâu bệnh là vấn đề sinh thái. Quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp
(IPM) là phương pháp dựa trên cơ sở sinh thái về mối quan hệ cây trồng/dịch hại để
kiểm soát côn trùng, cỏ dại; xây dựng ngưỡng chấp nhận kinh tế về quần thể gây hại
và hệ thống quan trắc ổn định để phát hiện dự báo dịch hại. Chương trình này gồm
nhiều kỹ thuật như: sử dụng các giống kháng/chống chịu; luân canh; các kỹ thuật
trồng trọt; tối ưu việc sử dụng phòng trừ sinh học; sử dụng hạt giống công nhận; xử
lý hạt giống; sử dụng hạt giống/vật liệu nhân giống sạch bệnh; điều chỉnh thời vụ
gieo trồng; hợp lý về thời gian sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; làm vệ sinh đồng
ruộng khi bị nhiễm sâu bệnh...
Những biểu hiện thay đổi về quy mô dịch bệnh, mức độ gây hại là sự phản
ánh chính xác phương thức thực hiện và quản lý sâu bệnh. Bước đầu tiên trong việc
phòng trừ dịch hại bền vững cần phải xem xét hệ sinh thái nông nghiệp, những điều
kiện để áp dụng phương thức quản lý phù hợp để phòng trừ sâu bệnh hiệu quả nhất,
bảo vệ thiên địch, những động vật ký sinh…Thực tế, côn trùng cỏ dại và sinh vật
hoang dã là những thành phần của tự nhiên của các hệ sinh thái với những vai trò
được quy định của chúng. Những loại hại này có vai trò cần được đánh giá đúng và
chỉ nên gọi là gây hỗn loạn khi chúng tranh chấp thức ăn hoặc gây hại đến mức con
người không chấp nhận được. Nguyên nhân gây hại theo nhiều tài liệu chính là quá
trình phá vỡ hệ thống sinh thái tự nhiên. Một ví dụ thể hiện rõ nhất sự khác nhau
giữa phương thức canh tác hiện tại và nông nghiệp bền vững là hiện tượng mất cân
bằng trong hệ thống côn trùng sâu hại mà hiện nay thế giới đang phải chịu hậu quả
nặng nề: như dịch châu chấu, dịch sâu róm, chuột hại…
Trong hệ thống sản xuất lương thực, việc thường sử dụng các hoá chất tổng
hợp chứng tỏ là dùng lượng đầu vào với năng lượng rất lớn cho hệ nông nghiệp, và
kèm theo cả những chi phí nhìn thấy và chi phí không thấy được của nông dân và xã
hội. Khái niệm phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) truyền thống là quản lý sâu bệnh
dựa vào những tương tác giữa chúng với các cá thể khác và môi trường.
Nếu tất cả đều sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu tổng hợp để bảo vệ cây trồng
thì sẽ gây hậu quả không tốt với môi trường, khả năng hồi phục của công trùng, tính
kháng thuốc, tác động có tính gây chết và nửa chết đối với sinh vật, kể cả tác động
đến con người. Những tác động này đang là mối quan tâm của công chúng, mặt
khác với nhu cầu ngày càng tăng của môi sinh sạch (không khí sạch, nước sạch, các
tập tính sống của động vật hoang dã) và thiên nhiên đẹp. Rõ ràng xu hướng giảm sự
phụ thuộc vào hoá chất trong sản xuất nông nghiệp đang được xem là chiến lược đối
với nông dân.
Chiến lược phòng trừ thông qua hệ thống trồng trọt.
Tạo điều kiện cho hoạt tính đất tốt về sinh học và dinh dưỡng (tăng cường sự
đa dạng dưới mặt đất).
Tạo tập tính thuận lợi cho sinh vật có lợi (tăng sự đa dạng trên mặt đất)
Sử dụng các giống cây trồng thích hợp.
Phòng trừ thông qua hệ thống trồng trọt là điều khiển hệ sinh thái ít thuận lợi
cho sự hình thành và phát triển của quần thể côn trùng. Tuy nhiên, vẫn có thể có
những tác động bất lợi có thể do sự phụ thuộc vào biến động của thời tiết và sự
không tuân thủ nghiêm ngặt trong sản xuất.
Duy trì và tăng cường sự đa dạng sinh học của hệ thống canh tác là chiến
lược cơ bản của việc phòng trừ thông qua hệ thống trồng trọt. Nhiều thực tế cho
thấy giảm đa dạng sinh học trong hệ thống đã làm bùng phát sâu bệnh và nhiều vấn
đề khác
Có nhiều cách để quản lý và tăng cường sự đa dạng sinh học trên đồng
ruộng, cả trên và dưới đất.
Những yếu tố tác động đến đa dạng sinh học và độ phì đất bao gồm hàm
lượng chất hữu cơ tổng số, độ pH, sự cân bằng dinh dưỡng, ẩm độ và thành phần đá
mẹ của đất. Những yếu tố này giúp cây trồng đạt năng suất tối đa và duy trì độ phì
nhiêu của đất. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khi sử dụng quá chất dinh dưỡng
(ví dụ như quá nhiều đạm, hay lượng canxi quá gấp 2 lần Mg so với hàm lượng tổng
số cân bằng của chúng) trong đất sẽ tạo ra những phản ứng của côn trùng đối với
cây. Chính sự mất cân bằng trong đất cũng là những yếu tố hấp dẫn côn trùng, làm
cây khó có khả năng hồi phục sau khi bị hại và tăng sự mẫn cảm đối với các loại
côn trùng phụ từ các nguồn khác. Khi đất ở trạng thái giàu chất dinh dưỡng sẽ có xu
hướng ngăn cản nguồn bệnh. Ước tính có khoảng 75% các loại côn trùng sống trong
đất cũng như nhiều loại thiên địch. Nói chung đất tốt với sự đa dạng sinh học có thể
giúp duy trì quần thể côn trùng dưới ngưỡng kinh tế.
2.3 Quản lý công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học là quá trình sử dụng các kiến thức truyền thống và công
nghệ hiện đại nhằm làm thay đổi vật chất gien trong thực vật, động vật, vi sinh vật
và tạo ra các sản phẩm mới.
Mặc dù nông dân đã tiến hành những kỹ thuật về công nghệ sinh học theo
nghĩa rất rộng (ví dụ như chọn tạo giống cây con để có những sản phẩm theo ý
muốn) từ hàng nghìn năm, và đến gần đây việc mở mã di truyền đã đưa ngành khoa
học này sang kỷ nguyên hoàn toàn mới. Công nghệ di truyền khác đáng kể so với
các kỹ thuật công nghệ sinh học truyền thống vì người ta có thể tổ hợp AND từ một
loài khác để tạo ra một cơ thể mới (gọi là sinh vật biến đổi di truyền – GMO). Liệu
rằng công nghệ này có tương thích với nền nông nghiệp bền vững không? Và nếu
tương hợp thì sẽ theo phương thức nào? liệu có khơi nguồn cho những cuộc tranh
luận dài trong tiến trình phát triển nông nghiệp bền vững. Sự chấp nhận sản phẩm
và những rủi ro công nghệ liên quan đến an toàn thực phẩm (ảnh hưởng đến sức
khoẻ con người, hàm lượng độc tố, ô nhiễm môi trường di truyền…).
Công nghệ sinh học đáp ứng các cơ hội mới cho sự đối tác mang tính toàn
cầu giữa các nước giàu về kiến thức công nghệ này với các nước đang phát triển
giàu về tài nguyên sinh vật nhưng thiếu vốn và kiến thức để sử dụng các tài nguyên
đó. Điều quan trọng là kỹ thuật mới phải không được làm phá vỡ tính tổng hoà về
môi trường hoặc làm tăng thêm các mối đe doạ cho sức khoẻ. Nhân dân phải nhận
thức được những lợi ích và những rủi ro của công nghệ sinh học. Ðó là một nhu cầu
đòi hỏi đối với những nguyên tắc đã được thoả thuận quốc tế về đánh giá rủi ro và
quản lý mọi khía cạnh của công nghệ sinh học.
Công nghệ sinh học cần phải được phát triển nhằm nâng cao năng suất và
chất lượng lương thực thực phẩm và các sản phẩm chăn nuôi. Phát triển các loại
vacxin và kỹ thuật phục vụ cho việc phòng chống sự lan truyền của bệnh tật và chất
độc. Nâng cao sức chống chịu trong các điều kiện bất thuận, áp dụng các kết quả
của công nghệ sinh học để giảm thiểu nhu cầu sử dụng hoá chất trong nông nghiệp.
Ðóng góp làm màu mỡ cho đất và làm tăng thêm hiệu suất cho những loài thực vật
sử dụng các chất dinh dưỡng của đất, để làm sao cho nền sản xuất nông nghiệp
không tháo đi mất các chất dinh dưỡng khỏi địa bàn hoạt động.
Cung cấp các nguồn năng lượng tái sinh và các nguyên liệu thô sơ từ các chất
thải hữu cơ và vật chất thực vật. Xử lý các chất thải hoá học hữu cơ theo cách rẻ
hơn và hiệu quả hơn so với các phương pháp truyền thống. Phát triển các giống cây
mọc nhanh có năng suất cao, đặc biệt là cây cho củi đốt. Khai thác tài nguyên
khoáng sản theo cách ít gây ra sự phá huỷ về môi trường.
2.4 Phát triển nông thôn bền vững
Thực tế là số dân nghèo trên thế giới hiện sống tập trung hầu hết ở vùng nông
thôn và phương kế sinh nhai của họ thường gắn với nông nghiệp. Như đã trình bày
ở trên, nông nghiệp là yếu tố tác động chính đến môi trường, gắn chặt với nguồn
nước, sức khoẻ, dinh dưỡng và giáo dục. Những năm gần đây, vai trò của nông
nghiệp đối với sự phát triển nông thôn và đóng góp vào ‘Mục tiêu phát triển trong
thiên niên kỷ mới của Liên hiệp Quốc’ngày càng được nhận thức rõ và đánh giá
cao.
Thúc đẩy sự phát triển nông thôn thông qua nông nghiêp được thể hiện qua
chính sách phát triển của nhiều quốc gia. Nhìn chung, những chính sách đều thể
hiện yêu cầu phải đảm bảo an ninh lương thực cho nông dân, tạo cơ hội cho họ vượt
qua đói nghèo và cân bằng giữa các mục tiêu môi trường, xã hội và kinh tế.
Tuy nhiên, những thách thức vô cùng lớn như những con số thống kê hiện
tại: khoảng 1,2 tỷ người sống thấp hơn 1 đôla mỗi ngày, hơn 800 triệu người trong
cảnh đói. Giảm đói nghèo cả khu vực nông thôn và ven đô tất nhiên sẽ phải dựa cơ
bản vào phát triển nông nghiệp bền vững, và đặc biệt lại trong bối cảnh dân số vẫn
tăng nhanh, quỹ đất trồng trọt giới hạn và khó có khă năng mở rộng diện tích.
Như vậy phát triển nông thôn là lĩnh vực đa ngành, đặt trong mối quan hệ
phức tạp giữa xã hội – tài nguyên thiên nhiên – môi trường bền vững. Không giải
quyết được tận gốc vấn đề an ninh lương thực thì không thể bảo tồn được tài nguyên
đất, bảo vệ được rừng, không thể có những hệ canh tác bền vững vì đó là những kế
sinh nhai của người dân gắn với rừng, với đồng ruộng. Vì thế, phương thức thực
hiện trong phát triển nông thôn của Tổ chức Phát triển Canada (CIDA) đặt ra theo 2
hướng: bền vững về phương kế sinh sống và sự lành mạnh của hệ sinh thái.
- Phương kế sinh sống bền vững: Có thể hiểu đây là tập hợp các hoạt động để
bảo tồn sự sống, tạo ra tài sản và những tiềm năng khác của con người.
- Hệ sinh thái lành mạnh: những tiêu chí của hệ sinh thái này tập trung vào
vấn đề sinh thái và xã hội nhằm tạo cho con người hoạt động theo phương thức bền
vững. Chính cách tiếp cận như vậy đã giúp xác định các chính sách nông nghiệp
đúng, thúc đẩy cộng đồng phát triển, bảo tồn hệ sinh thái.
Hai phương thức này là công cụ thúc đẩy phát triển nông thôn bền vững
thông qua nông nghiệp. Chính từ hoạt động của CIDA mà đã rút ra 5 nguyên tắc
chính trong phát triển nông thôn bền vững: (i) tạo ra những cơ hội cho người nghèo;
(ii) trao quyền cho các nước phát triển và dân của họ; (iii) xây dựng và chia sẻ kiến
thức, kinh nghiệm; (iv) tăng cường mối quan hệ liên kết lẫn nhau và (v) phải đạt
được sự bình đẳng giới.
Kế sinh nhai của dân cư nông thôn phụ thuộc vào sự giàu có của tài nguyên
thiên nhiên bao gồm nước, đất, đa dạng sinh học. Nếu tỷ lệ đói nghèo tăng lên cũng
đồng nghĩa với sự đe doạ tính bền vững của nguồn tài nguyên thiên nhiên có giới
hạn. Tổ chức CIDA khuyến cáo nên hướng dẫn dân thực hiện phương thức canh tác
giảm thoái hoá đất, sử dụng nguồn nước hiệu quả và bảo vệ đa dạng loài.
Tóm lại, tất cả những hoạt động trình bày trên đây tuy chưa đầy đủ và hệ
thống, song tất cả đều thoả mãn đồng thời 3 mục tiêu: kinh tế - môi trường – xã hội.
Ba mục tiêu này tương hỗ với nhau, bổ sung và điều khiển lẫn nhau, cũng chính vì
vậy mà phát triển bền vững là quá trình tổng hoà của nhiều quá trình tương tác và
gắn bó hữu cơ với nhau.
III. Xu hướng phát triển bền vững nông nghiệp.
Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ yếu tập
trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xướng một số
hệ thống canh tác bền vững
Phát triển bền vững đòi hỏi phải đảm bảo sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông nghiệp sạch và
nông nghiệp hữu cơ là xu hướng phát triển nông nghiệp hiện đại có tác động tích
cực đến thực hiện yêu cầu phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn.
Nông nghiệp là ngành phải đáp ứng yêu cầu này trong điều kiện quỹ đất
trồng trọt đã khai thác cạn, và lại phải tránh sử dụng những đất ít hoặc không thích
hợp cho sản xuất nông nghiệp
Nền nông nghiệp bảo tồn, nông nghiệp hữu cơ và quản lý sinh học đất tổng
hợp là 3 mô hình đang được Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc thúc đẩy.
IV. Kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển bền vững nông
nghiệp.
Tìm hiểu về kinh nghiệm phát triển bền vững nông nghiệp ở một số địa
phương trên sẽ giúp chúng ta nhận thức rỏ hơn về xu hướng củng như cách thức để
phát triển nền nông nghiệp bền vững hơn.
1. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của Đài Loan
Đài loan là một thành phố phát triển, là một trong các trung tâm kinh tế lớn
của Châu Á. Đài Loan và Đà Nẵng có những nét tương đồng, đều là đô thị có diện
tích nhỏ, diện tích đất cho nông nghiệp không lớn, giai đoạn đầu phát triển đều chú
trọng tới phát triển dịch vụ và công nghiệp. Tuy vậy hiên nay Đài loan đã phát triển
rất tốt nông nghiệp không những đáp ứng tốt nhu cầu của địa phương mà còn tạo ra
giá trị lớn phục vụ xuất khẩu.
Về dịch vụ nông nghiệp sinh thái, Đài Loan rất chú trọng phát triển và gọi là
“hưu nhàn nông nghiệp” tức là nông nghiệp nghỉ ngơi, thư giãn là rất cần thiết,
nhưng không nên xây dựng cơ ngơi đồ sộ, cao tầng theo kiểu kiến trúc đô thị. Xây
dựng các cơ sở nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn phải tôn trọng thiên nhiên, hài hòa thiên
nhiên và kiến trúc phù hợp với đặc điểm văn hóa, thẩm mỹ ở từng vùng, cho dù có
thiếu chút ít tiện nghi cũng là bình thường. Tại Đài Loan, các điạ phương và nhà
đầu tư đề xuất chính phủ sau khi duyệt đề án có thể cho vay vốn, xây dựng cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ thông tin, tuyên truyền, quảng bá.
Về sản xuất giống và cung cấp các dịch vụ đầu vào, giải quyết tiêu thụ sản
phẩm là cần thiết. Nhưng không nên ôm đồm, tản mạn nhiều loại sản phẩm. Cần tập
trung chọn tạo, nhân giống, xây dựng thương hiệu một số cây giống, con giống mà
đô thị có ưu thế, có thể là các giống hoa, cây kiểng, các cảnh, phù hợp với trình độ
tay nghề, khí hậu, thổ nhưỡng và những đặc điểm sinh học để tránh lai tạp. Đài
Loan rất chú trọng sản xuất máy móc, công nghệ (dây chuyền), các công cụ chuyên
dùng, các loại dinh dưỡng, bảo vệ thực vật... nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng và
thiếu nguồn lao động trong sản xuất nông nghiệp nói chung, ngành hoa kiểng nói
riêng. Trong lĩnh vực thu hoạch, bảo quản, sơ chế, vận chuyển cũng vậy, cần đi vào
chuyên môn hóa và tranh thủ thời gian một cách tối đa, nhất là việc tổ chức tiêu thụ
các loại hoa cắt cành (lily, cúc, hồng, layơn,….).
Đài Loan có khoảng 13.000 ha trồng các loại hoa, cây cảnh, tổng doanh thu
ước đạt 500 triệu USD; do điều kiện sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu thưởng
ngoạn hoa, cây kiểng, du lịch sinh thái ngày càng tăng lên, nên các sản phẩm từ hoa,
cây kiểng có đến 90% là tiêu thụ trong nước, xuất khẩu chỉ khoảng 50 triệu USD
chủ yếu là hoa lan và một số loại hoa cắt cành. Đài Loan có nhiều trung tâm, chợ
đầu mối do chính phủ đầu tư, xây dựng cơ sở ban đầu và giao cho các tổ chức trong
hiệp hội hoa khai thác dưới hình thức công ty cổ phần. Chợ hoa Đài Bắc rộng 4,6
ha, là một doanh nghiệp cổ phần. Cổ đông bao gồm các nhà kinh doanh (60%), các
nhà vườn, cơ sở sản xuất (40%) và kích thích tiêu thụ nhiều sản phẩm bằng chính
sách ưu đãi cho người bán buôn, các nhà phân phối lớn. Nhờ tác động của hoạt động
kinh doanh, dịch vụ mà ngành hoa kiểng Đài Loan phát triển bền vững và ngày càng
đi vào năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
2. Bài học từ nông nghiệp Hà Lan
Hà Lan là một nước nghèo tài nguyên, diện tích nhỏ song đã xây dựng được
một nền nông nghiệp có tính cạnh tranh cao phát triển bền vững và có hiệu quả cao
nhất thế giới.
Đất đai Hà Lan hiếm hoi, diện tích đất canh tác 910.000ha, đất đồng cỏ
1.020.000ha, diện tích đất canh tác khoảng 0,058 ha/người, là mức thấp nhất của thế
giới. Trên đất lục địa, đất nông nghiệp và phi nông nghiệp có tỉ lệ 30/70. Trong đất
nông nghiệp, tỉ lệ sử dụng để trồng cỏ 51,4%, cây nông nghiệp 41,3%, cây hoa-rau-
cây cảnh 5,7%. Trong đất phi nông nghiệp, rừng chiếm 9,5%, đất ở 6,6%, đất bảo
hộ tự nhiên 4,1%, đất nghỉ 2,4%, đất đường xá 4,0%, đất công nghiệp và xây dựng
3,8%. Hà Lan đả đạt được những thành tựu vượt trội về phát triển nông nghiệp.
- Hiệu suất xuất khẩu nông sản đứng đầu thế giới
Có 9 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu thế giới, 3 mặt hàng
đứng thứ hai thế giới.
- Mức xuất khẩu về nông sản cũng vượt nhiều cường quốc nông
nghiệp thế giới
- Theo cách tính của Bộ Nông nghiệp Mỹ dựa vào "đồng USD quốc
tế" của tổ chức FAO, thì hiệu suất sản xuất của đất ở Hà Lan năm 1991 đạt 2468
USD/ha, hiệu suất lao động đạt 44339 USD/người. Hiệu suất lao động tuy thấp hơn
Mỹ một chút, nhưng hiệu suất đất thì cao hơn hẳn mọi nước trên thế giới
Trên thị trường thế giới, các mặt hàng nông sản của Hà Lan có sức cạnh
tranh cao dựa vào những giải pháp chủ yếu sau đây:
- Dựa vào vốn và kỹ thuật cao, trong đó nổi bật nhất là hoa và cây cảnh là
những ngành sản xuất đòi hỏi nhiều vốn và kỹ thuật, đồng thời phải có một hệ thống
dịch vụ cao cấp mới có thể vận chuyển những mặt hàng này ra nước ngoài. Một thí
dụ khác là về khoai tây, vốn là một loại "thực phẩm bình dân" của thế giới, giá cả
bình thường, nhưng do Hà Lan tạo được giống khoai tây có kích cỡ đều đặn, vỏ
nhẵn bóng được coi là " lương thực thứ hai " được thế giới ưa chuộng, từ đó có thị
trường xuất khẩu ổn định, nhất là cung cấp cho nhu cầu chế biến thức ăn nhanh.
- Đổi mới phương thức sản xuất, để tăng sức cạnh tranh. Hà Lan dùng vốn
và công nghệ cao để thay thế có hiệu quả nguồn quỹ đất hiếm hoi, sử dụng nhà kính
để sản xuất cà chua, dưa, ớt quanh năm, tiết kiệm đất, tăng hiệu suất đất. Phương
thức sản xuất gà đẻ trứng, lợn thịt cũng được cải tiến để bảo vệ môi trường, đảm bảo
yêu cầu sức khoẻ động vật và và chất lượng quốc tế, có hiệu quả cao.
- Tăng giá trị gia tăng nhờ vào chế biến sâu.
Trải qua mấy trăm năm cải tiến các công nghệ truyền thống về chế biến pho
mát, bơ, sữa tạo được uy tín quốc tế. Công nghệ chế biến ca cao, ca phê từ thời kỳ
thực dân vẫn còn phát huy tác dụng trong công nghiệp chế biến hiện nay. Nhiều loại
nguyên liệu không sản xuất được hoặc thiếu thì dựa vào nhập khẩu, thông qua chế
biến sâu, đã vươn ra chiếm lĩnh thị trường thế giới với giá trị gia tăng rất lớn.
V. Những yêu cầu về phát triển nông nghiệp trong tương lai.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo hướng
hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn hiệu quả và bềnh vững, có năng suất, chất
lượng cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công
nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Đưa năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp lên một mức cao hơn,
tăng mức thu nhập cho người nông dân,
- Phát triển mạnh công nghiệp trên địa bàn nông thôn
- Củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn trước hết là mở rộng hệ
thống đường sá, tạo điều kiện cung ứng hàng hóa về nông thôn và tiêu thụ sản
phẩm.
Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công
nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin.
Hình thành các phương thức sản xuất mới có khã năng tận dụng tối đa các
nguồn tài nguyên, thân thiện với tự nhiên và đạt hiệu quả sản xuất cao nhất.
Phần 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
I. Giới thiệu về tình hình kinh tế xã hội Đà Nẵng.
1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Đà nẵng nằm ở trung độ của đất nước, trên trục giao thông Bắc Nam về
đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Đà nẵng cách Thủ đô Hà
Nội 764 km về phía bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam. Ngoài
ra, Đà Nẵng là trung tâm của ba di sản văn hóa thế giới nổi tiếng là cố đô Huế, Phố
cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Trong phạm vi quốc tế, Đà Nẵng là một trong
những cửa ngỏ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia,
Thái Lan, Myanma Đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua hành lang kinh tế
Đông Tây với điểm kết thúc là cảng biển Tiên Sa. Nằm ngay trên một trong những
tuyến đường biển và đường hàng không quốc tế thành phố Đà Nẵng có một vị trí địa
lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững.
Đà Nẵng nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng gió mùa nhiệt đới, chia thành
hai mùa rỏ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 9, còn lại là mùa mưa. Nhiệt độ trung
bình là 25,60 C, lượng mưa trung bình hằng năm là 1.992mm, số giờ nắng trung
bình hằng năm là 2.198 giờ, độ ẩm không khí trung bình hằng năm là 82%, hướng
gió thịnh hành là Đông bắc - Tây nam, bảo thường xuất hiện từ tháng 7 đến tháng
11 hàng nặm, cấp bảo lớn nhất lên đến 11, 12. Về sông ngòi có sông Hàn, sông Cẩm
Lệ, Túy Loan, Vĩnh Điện, Cu Đê. Tổng trử lượng nước trên 11 tỷ m3.
2. Tài nguyên thiên nhiên.
2.1 Tài nguyên đất
Thành phố có các loại đất khác nhau như: Đất xám bạc màu, đất xám, đất
đen, đất đỏ vàng, đất mùn đỏ vàng, đất cồn các ven biển, đất mặn, đất phèn, đất phù
sa... Trong đó quan trọng nhất là nhóm đất phù sa ở đồng bằng ven biển thích hợp
với trồng lúa, trồng rau và hoa quả ven đô; đất đỏ vàng đồi núi thích hợp với trồng
các loại cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và kết
cấu vững chắc phục vụ xây dựng các cơ sở công trình hạ tầng.
Tổng diện tích của thành phố là 125.654,37 ha, chia theo các loại đất có: đất
nông nghiệp 9.235,56 ha, đất lâm nghiệp 60.989,75 ha, đất chuyên dùng 42.909,38
ha, đất ở 5.561,35 ha, đất chưa sử dụng 6.958,33 ha
2.2 Tài nguyên nước.
* Biển, bờ biển: Đà Nẵng có bờ biển dài khoản 30 km, có vịnh đà nẵng nằm
chắn bởi sườn núi Hải Vân và Sơn Trà, mực nước sâu, thuận lợi cho việc xây dựng
các cảng biển lớn và các cảng chuyển dùng khác. Đà nẵng nằm trên tuyến đường
biển quốc tế nên rất thuận lợi cho việc giao thông đường thủy.
Vùng biển Đà Nẵng có ngư trường rộng trên 15.000 km2, có các loài động
vật biển phong phú trên 266 giống loài, trong đó hải sản có giá trị kinh tế cao gồm
16 loài (11 loài tôm, 02 loại mực và 03 loại rong biển) vời tổng trử lượng 1.136.000
tấn hải sản các loại (theo dự báo của bộ thủy sản) và được phân bố ở những vùng
nước có mực nước sâu từ 50-200m (chiếm 48%). Hàng năm có khả năng khai thác
trên 150.000 – 200.000 tấn hải sản các loại.
Đà Nẵng còn có một bờ biển dài với nhiều bải tắm đẹp như Non Nước, Mỹ
khê, Ngủ Hành Sơn, Nam Ô, Xuân Thiều với nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, ở
khu vực quanh bán đảo Sơn Trà có các bải san hô lớn thuận lợi cho việc phát triển
các loại hình kinh doanh du lịch dịch vụ biển.
* Sông ngòi, ao hồ: Sông ngòi của thành phố Đà nẵng đều bắt nguồn từ phía
tây, tây bắc thành phố và tỉnh Quảng Nam. Hầu hết các sông ở Đà Nẵng đều ngắn
và dốc. Có hai sông chính là sông Hàn (chiều dài khoảng 204 km, tổng diện tích lưu
vực khoảng 5.180 km2) và sông Cu Đê (chiều dài khoảng 38 km, lưu vực khoảng
426 km2). Ngoài ra còn có các con sông như: Sông Yên. Sông Chu Bái, sông Vỉnh
Điện, sông Túy Loan, sông Phú Lộc...Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có
khả năng nuôi trồng các loại thủy hải sả, Với tiềm năng về diện tích mặt nước, tạo
điều kiện tốt để xây dựng các cùng nuôi trồng thủy sản với các loại như: cá mú, cá
cam, tôm sú và tôm hùm.
2.3 Tài nguyên rừng.
Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn thành phố là 60.989,75 ha, tập trung
chủ yếu ở phía tây và tây bắc thành phố, gồm 3 loại rừng: rừng đặc dụng (22.745
ha) trong đó đất có rừng 15.933 ha; rừng phòng hộ20.895 ha, trong đó đất có rừng
17.468 ha; rừng sản xuất 23.508 ha, trong đó đất có rừng là 18.176 ha.
Rừng ở Đà Nẵng tập trung chủ yếu ở phía tây huyện Hòa Vang, một số ít ở
quận Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngủ Hành Sơn. Tỷ lệ che phủ là 49,6%, trữ lượng gổ
khoảng 3 triệu m3, phân bố chủ yếu ở nơi có độ dốc lớn, địa hình phức tạp.
Rừng của thành phố ngoài ý nghĩa về kinh tế còn có ý nghĩa nghiên cứu khoa
học, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển du lịch. Thiên nhiên đã ban tặng cho
thành phố nhiều khu bảo tồn thiên nhiên đặc sắc như: Khu bảo tồn thiên nhiên Bà
Nà, khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà và khu văn hóa lịch sử môi trường Nam Hải
Vân
2.4 Tài nguyên khoáng sản.
Thành phố có các loại tài nguyên như:
Cát trắng: Tập trung ở Nam Ô, trữ lượng khoảng 5 triệu m3.
Đá hoa cương: ở Non Nước, nhưng để bảo vệ khu di tích nổi tiếng Ngũ
Hành Sơn nên loại đá này đã bị cấm khai thác.
Đá xây dựng: đây là loại đá khoáng sản chủ yếu của thành phố, tập
trung chủ yếu ở khu vực phía tây, bắc và tây nam thành phố.
Đá phiến lợp: tập trung chủ yếu ỏ thôn Phò Nam, xã Hòa Bắc. Đây là
loại đá filit màu xám đen, có thể tách ra từng tấm với kích thước (0.5x10)x0.3-0.5m.
Trữ lượng khoảng 500.000m3.
Cát, cuội sỏi xây dựng: cát lòng sông Vĩnh Điện, Túy Loan, sông Yên,
Cầu Đỏ, Cẩm Lệ, Cu Đê, cuội sỏi Hòa Bắc, Hòa Liên.
3. Tình hình kinh tế - xã hội.
Cùng với sự phát triển đi lên của cả nước nói chung thì tình hình kinh tế xã
hội của thành phố Đà Nẵng củng đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ không
ngừng. Tuy chỉ mới thay da đổi thịt trong hơn mười năm trở lại đây nhưng Đà Nẵng
đã từng bước khẳng định được vị trí trung tâm của mình ở khu vực miền Trung -
Tây Nguyên. Với những lợi thế về mặt địa lý, tiềm năng kinh tế, năng lực cạnh
tranh trong thu hút đầu tư, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Toàn thể lành đạo
củng như nhân dân thành phố đã và đang hướng tới mục tiêu tự tin vững bước trong
quá trình phát triển chung của cả nước với mục tiêu chính là xây dựng thành phố trở
thành một đô thị văn minh, hiện đại nhưng vẫn bảo đảm được tính bền vững
3.1 Tình hình kinh tế.
Từ 1997 đến nay, cơ cấu ngành của thành phố đã có sự chuyển dịch mạnh
theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp-xây
dựng và dịch vụ. Sự chuyển dịch này là phù hợp với xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên điều này chỉ là rất bình
thường do Đà Nẵng là một đô thị lớn, phát triển theo hướng là trung tâm công
nghiệp, dịch vụ của khu vực
Giai đoạn 1997-2000: năm 1997, năm đầu tiên trở thành đơn vị trực thuộc
trung ương, kinh tế thành phố đạt mức tăng trưởng kinh tế khá, ở mức 12,7%. Tuy
nhiên cuối năm 1997, cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á đả tác động xấu đến kinh tế
nước ta, bên cạnh đó do tác động của cơn lủ gây thiệt hại nặng nề nên tốc độ tăng
trưởng của thành phố giảm mạnh trong năm 1998 và tăng chậm trong 2 năm 1999-
2000 (9,5% và 9,9%). Kết quả cả giai đoạn 1997-2000, tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm quốc nội (GDP, giá cố đinh 1994) chỉ đạt bình quân 10,2%/năm, trong đó
thủy sản nông lâm tăng 3,1%, công nghiệp xây dựng tăng trong GDP tăng từ 35,2%
năm 1997 lên 41,3% năm 2000. GDP bình quân đầu người năm 2000 đạt trên 430
USD/người, tăng gấp 1,45 lần so với năm 1997. Giá trị săn xuất các ngành dịch vụ
tăng bình quân 8,47%/năm.
Giai đoạn 2001-2005: Từ năm 2001, thành phố từng bước phát huy nhân tố cơ
chế mới, huy động nguồn lực đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất, vượt qua ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính, khắc phục thiên tai... đưa kinh tế tăng trưởng
mạnh trở lại với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 12% vào năm 2001. Đến năm
2002 là 12,56% và năm 2003 trở thành đô thị loại 1. Thành phố Đà nẵng là trung
tâm của khu vực miền trung tây nguyên đã từng bước hoàn thiện môi trường đầu tư,
moi trường sản xuất kinh doanh theo hướng mở rộng và nâng cao năng lực cạnh
tranh trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh
(năm 2003 là 13,26% ; 2004 là 13,84%; năm 2005 là 14%)
Bảng 1. Một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội TP Đà nẵng (2001-2005)
Chỉ tiêu
ĐVT
Thực hiện 5 năm
Tốc độ
tăng
BQ
(%)
2001 2002 2003 2004 2005
1. GDP (giá cố định)
- Tốc độ tăng trưởng
Tỷ
đồng
%
3.804,
9
12,23
4.282,
9
12,56
4.823,
4
13,26
5.462,
8
13,84
6.224,
9
14
13,18
2. GDP bình
quân đầu người
USD 493 565 687 796 950
3. Cơ cấu GDP
- Nông - lâm - thủy sản
- Công nghiệp - xây
%
100
27,18
28,76
100
24,54
36,73
100
23,45
38,25
100
22,18
39,78
100
20,6
41
dựng
- Dịch vụ
44,06 38,74 38,30 38,04 38,4
4. Kim ngạch xuất khẩu
Tr.
USD
236,52 247,03 260,85 309,35 500 14,21
Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm kinh tế- xã hội UBND TP Đà Nẵng
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 13,18%, thành phố Đà nẵng là một
trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của cả nước.
Tổng giá trị GDP của thành phố năm 2005 gấp 1,64 lần so với năm 2001. Năm
2005 GDP của thành phố là 6.224,96 tỉ đồng chiếm 0,8% so với cả nước.
Cơ cấu kinh tế của thành phố chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là Công nghiệp – Dịch vụ - Nông nghiệp. Tỷ trọng GDP của công nghiệp
tăng từ 28,7% (2001) lên 41% (2005); ngành dịch vụ từ 44,06% (2001) giảm xuống
còn 38,4% (2005); ngành nông nghiệp từ 27,18% (2001) giảm xuống còn 20,06%
(2005). Ngành thủy sản – nông – lâm có xu hướng chuyển dịch đúng hướng, giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp thuần túy, tăng hàm lượng công nghiệp dịch vụ trong nội
bộ sản xuất ngành, chuyển đổi cơ cấu theo hướng tăng cây thực phẩm, cây ăn quả,
rau sạch và tỷ trọng ngành chăn nuôi.
Mức sống của người dân thành phố được tăng lên, GDP bình quân tăng từ 493
USD (2001) lên 950 USD (2005).
Bảng 2: một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội TP Đà Nẵng (2006-2008)
Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007
GDP (giá cố định)
Tốc độ tăng trưởng
Tỷ
đồng
%
6776,12
11,2
7545,443
13,2
GDP bình quân
Tr.
Đồng
Cơ cấu GDP
- Nông nghiệp
- Công nghiệp xây dựng
- Dịch vụ
%
333,559
3248,366
3194,193
346,806
3543,741
3654,896
Nguồn: Niên giám thống kê TP Đà Nẵng.
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay, cùng với sự hội nhập kinh tế ngày càng sâu
rộng của nước ta thách thức của việc hội nhập này ngày càng lớn và biến động giá
làm cho nhịp độ phát triển bị chậm lại. Năm 2006 tốc độ tăng GDP chỉ đạt 11,2%.
Năm 2007, được sự chỉ đạo kịp thời của chính quyền, thành phố đả tập trung chỉ
đạo, chủ động nắm bắt cơ hội, đề ra các giải pháp, chương trình hành động thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đưa kinh tế thành phố tăng trưởng trở lại ở
mức 13,2%.
Riêng trong năm 2008, tác động của làm phát và khủng hoảng kinh tế đã tác
động không ít đến hoạt động kinh tế của thành phố. Tốc độ tăng trường kinh tế bình
quân đạt 11%.
3.2 Tình hình xã hội.
Đà nẵng trung tâm của khu vực Miền trung - Tây nguyên, là nơi tập trung các
cơ quan nghiên cứu các cơ sở đào tạo của cả khu vực. trình độ dân trí và trình độ kỹ
thuật nguồn nhân lực của thành phố Đà Nẵng tương đối cao so với trung bình của cả
nước, lao động trình độ đại học chiếm khoảng 14,5%, lao động trình độ trung học
chiếm 7,5%, công nhân kỹ thuật khoảng 25,1%. Tỷ lệ cơ cấu lao động giữa các
ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp là 31,8% - 42,5% - 19,4%.
Thành phố đả hoàn thành mục tiêu phổ cập THCS, hướng tới phổ cập THPT.
Đến nay toàn thành phố không có hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm đáng
kể.
Cơ sở hạ tầng: TP Đà Nẵng trong giai đoạn đầu tư mạnh cho cơ sở hạ tầng
phục vụ thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Hệ thống tài chính tín dụng: số lượng các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng
đầu tư tại Đà Nẵng tương đối nhiều và đa dạng, bênh cạnh có còn có các công ty tài
chính và quỷ hổ trợ phát triển cho các doanh nghiệp trong đầu tư. Hệ thống thanh
toán nhanh và tiện dụng.
Y tế, giáo dục cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu của người dân địa phương và
khu vực lân cận cả vế số lượng và chất lượng.
Về chính trị tương đối ổn định và đảm bảo trật tự an toàn cho nhân dân củng
như môi trường đầu tư và phát triển của các thành phần kinh tế.
II. Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Đà Nẵng.
1. Thực trạng chung.
Thành phố Đà Nẵng là một thành phố phát triển năng động nhất của nước ta,
các ngành kinh tế mủi nhọn đều tăng trưởng nhanh và có tốc độ tăng trưởng cao.
Ngành nông nghiệp ở Đà Nẵng có xu hướng chuyển dịch theo đúng xu
hướng của một thành phố phát triển, theo hướng thành phố công nghiệp, thương
mại, du lịch, dịch vụ. Tỷ trọng đóng góp trong GDP của thành phố ngày càng giảm
nhưng giá trị của nông nghiệp thì càng được tăng lên.
- Phân tích tình trạng nông nghiệp qua các năm
Bảng 3. Giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản theo giá cố định 94.
Giá trị sản
xuất (giá cố
định 94)
Đơn vị
tính
2004 2005 2006 2007 2008
Nông nghiệp Triệu 217586 204975 192222 186185 197025
đồng
Lâm nghiệp " 22700 24934 23601 23465 25438
Thủy sản " 395407 438278 412089 444619 468254
Tổng " 635693 668187 627912 654269 690717
(Nguồn niên giám thống kê 2007 và báo cáo tổng kết của Sở Nông Nghiệp năm
2008)
Qua bảng số liệu trên nhìn một cách tổng thể, ta thấy giá trị sản xuất của ngành
tăng lên qua các năm, tốc độ tăng trưởng trung bình trong cả giai đoạn là 1,68% do
có sự sụt giảm giá trị của ngành nông nghiệp trong khi tốc độ tăng trưởng của ngành
lâm nghiệp và thủy sản là không được cao như mong đợi.
Giá trị sản xuất thủy sản, nông, lâm (giá cố định 94) ước cả năm 2008 đạt 690
tỷ đồng, tăng gần 5% so với năm 2007 (654,269 tỷ đồng).
0
100000
200000
300000
400000
500000
Triệu
đồng
2004 2005 2006 2007 2008
Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản
Nông
nghiệp
Lâm
nghiệp
Thủy
sản
Bảng 4. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản (giá CĐ 94)
Nhìn vào biểu đồ ta có thể nhận thấy trong tổng giá trị của nông nghiệp thành
phố đạt được thì đóng góp của ngành thủy sản là lớn nhất tiếp đó là ngành nông
nghiệp và cuối cùng là ngành lâm nghiệp. Điều đó cho thấy những lợi thế về phát
triển thủy sản đã được phát huy song nhìn chung vẩn chưa tương xứng với tìm năng.
Diện tích đất nông nghiệp bố trí không đều ở các quận, huyện trong địa bàn
thành phố, tập trung chủ yếu ở huyện Hòa Vang, Ngủ Hành Sơn...
Tổng diện tích đất nông nghiệp của thành phố năm 2007 là 9240,37 ha.
Trong đó phân chia ở các quận huyện như sau.
Bảng 5. Diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm
2007
ĐVT Ha %
Tổng số 9240.370 100
Hải Châu 23.360 0.25
Thanh Khê 18.030 0.20
Sơn Trà 40.190 0.43
Ngũ Hành
Sơn 1092.520 11.82
Liên Chiểu 676.150 7.32
Cẩm Lệ 825.530 8.93
Hòa Vang 6564.590 71.04
Hoàng Sa -
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng năm 2007
Có thể nhận thấy rỏ ràng diện tích đất nông nghiệp thành phố Đà Nẵng tập
trung chủ yếu ở các quận huyện ngoại thành, nơi mà quá trình đô thị hóa còn diển ra
chậm hơn so với các quận khác của thành phố. Nhưng củng có thể thấy với tác động
của quá trình đô thị hóa thì diện tích đất dành cho nông nghiệp đang bị co hẹp lại
dần, điều này gây không ít khó khăn cho bà con nông dân. Về đất canh tác, Đà Nẵng
chỉ còn 5.000ha, trong đó đất lúa 4.100ha. Đáng lẽ diện tích canh tác ít, nông nghiệp
Đà Nẵng phải khai thác đất đai triệt để cho sản xuất, song đáng tiếc, hiện tại, ngoại
trừ cánh đồng rau 17ha ở Khuê Mỹ, khoảng 50ha lúa giống ở HTX 1 Hòa Tiến, sản
xuất theo lối thâm canh, hiệu quả kinh tế khá cao, còn lại đều sản xuất cầm chừng,
hiệu quả thấp.
Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nông thôn ngày càng được
cải thiện theo hướng hiện đại hóa. Hệ thống giao thông được nâng cấp, xây mới
thuận lợi. Thành tựu về phát triển kinh tế đã góp phần tô điểm cho nông thôn Đà
Nẵng diện mạo mới. Tuy vậy, nông thôn Đà Nẵng phát triển không đều. Trong khi ở
khu vực đồng bằng, hệ thống điện-đường-trường-trạm được đầu tư xây dựng khá
hoàn thiện thì ở trung du miền núi, nhiều nơi hệ thống điện đang tạm bợ, đường bê-
tông chưa vươn tới, thậm chí tình trạng người dân lội suối hoặc phải đi lại trên
những chiếc cầu tạm vẫn còn.
Bộ mặt nông thôn phản ánh rõ nét nhất đời sống của nông dân. So với cả
nước, nông thôn Đà Nẵng chưa có gì nổi bật, thậm chí mức sống của người dân thấp
hơn nhiều địa phương khác. Số hộ nông dân đầu tư làm ăn lớn, thu nhập trên 100
triệu đồng/năm quá ít.
Hệ thống thủy lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ngày được hoàn thiện
hơn. Công trình thủy lợi và các trạm bơm của các hợp tác xã cơ bản đảm bảo nước
tưới phục vụ sản xuất góp phần hoàn thiện nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp năm
2008 và đáp ứng yêu cầu thủy lợi cho các năm tiếp theo.
Nguồn con giống, cây giống đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất của bà con
nông dân củng được quan tâm. Hình thành nguồn cung cấp con giống, cây giống có
chất lượng...
Phát triển các loại hình nông nghiệp như kinh tế trang trại, doanh nghiệp tư
nhân nông nghiệp chưa có gì đặc biệt đa số đều nhỏ về quy mô và giá trị tạo ra thấp
hơn so với các địc phương khác.
2. Các lỉnh vực chính.
2.1 Nông nghiệp.
Giá trị ngành nông nghiệp năm 2008 ước đạt 182 tỷ đồng giảm 1,7% so với
năm 2007. Trong năm 2008 giá trị ngành nông nghiệp của thành phố có sự phục hồi
và tăng trưởng nhanh cao hơn so với cùng kỳ các năm trước đó
Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của thành phố có sự biến động qua các
năm.
Bảng 6. Giá trị sản xuất nông nghiệp (triệu đồng)(giá cố định 94)
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Nông nghiệp 217586 204975 192222 186185 182 852
-Trồng trọt 132 094 123 153 126 516 126 662 123 350
-Chăn nuôi 83 884 79 157 62 013 56 831 56 730
-Dịch vụ nông
nghiệp (trừ thú y)
1 608 2 665 2 693 2 692 2 772
Nguồn: niên giám thống kê 2007 và báo cáo tổng kết năm 2008 của Sở Nông
Nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng.
Nhìn chung giá trị sản xuất ngành nông nghiệp có xu hướng sụt giảm. Giá trị
sản xuất ngành nông nghiệp ước cả năm đạt 182852 triệu đồng, giảm 1,79% so với
năm 2007 do tác động của tình hình thiên tai diển biển phức tạp trong những năm
vừa qua, nhất là trong giai đoạn 2005-2007 có sự xuất hiện của hàng loạt cơn bảo
lớn như Chanchu, Xangsane năm 2006 và cơn lủ lịch sử tháng 11/2007. Mặt khác
do quá trình đô thị hóa diển ra nhanh chóng diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp
đáng kể đả ảnh hưởng lớn đến ngành nông nghiệp của thành phố. Bên cạnh đó tình
hình dịch bệnh trên gia súc gia cầm có những diển biến rất phức tạp như dịch heo tai
xanh, cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng... dịch rầy nâu trên cây lúa củng đã tác
động xấu đến sản xuất lương thực của thành phố. Mặt khác do bị tác động mạnh
bởi vốn đầu tư cho nông nghiệp hạn chế, giá cả vật tư, phân bón tăng cao, cơ sở hạ
tầng phục vụ nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa.
Tình hình kết quả sản xuất trên một số loại cây trồng trong năm 2008 như sau:
- Cây lúa: 8.100 ha, năng suất bình quân đạt 53.9 tạ/ha (giảm gần 4,5 tạ/ha so
với năm 2007), sản lượng 43.635 tấn. Các loại giống chủ lực được sử dụng là
NX30, Xi23, MT1, BT7...
- Cây ngô: 803 ha, năng suất 56 tạ/ha, sản lượng 4.498 tấn, bằng 99,1% so
với năm 2007
- Cây có bột (khoai lang, sắn...): 658 ha,năng suất 67 tạ/ha, sản lượng 878
tấn, bằng 96,5% so với năm 2007.
- Cây thực phẩm: rau các loại diện tích gieo trồng cả năm là 1.850 ha, sản
lượng 26.825 tấn, tăng 3,9% so với năm 2007. Đậu các loại có diện tích gieo trồng
742 ha, năng suất 18taj/ha, sản lượng 110 tấn.
- Mía: 245 ha, chủ yếu tập trung ở các xã miền núi của huyện Hòa Vang,
năng suất 330 tạ/ha, sản lượng 8.085 tấn.
- Mè: 189 ha, năng suất 7 tạ/ha, sản lượng 132 tấn.
- Thuốc lá: 62 ha, sản lượng 124 tấn
- Cây hằng năm khác: 300 ha, bao gồm các loại như: hoa, cây cảnh, dưa hấu
hắc mỹ nhân, cỏ chăn nuôi...
Trong tổng giá trị của ngành nông nghiệp thì giá trị trồng trọt đóng góp lớn
nhất tiếp theo
Quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi củng theo hướng tích cực:
Giảm dần diện tích đất sản xuất nông nghiệp (chủ yếu là trông lúa) để chuyển sang
trồng các loại cây nông nghiệp khác có giá trị kinh tế cao hơn như: ngô, đậu, rau...
mặc dù vậy cây lúa vẩn là cây sản xuất chính.
Bảng7: Diện tích, năng suất và sản lượng cây lương thực.
Diện tích (ha) Lúa Ngô
Khoai
lang Sắn
Năm 2000 11 256 147 1 424 692
Năm 2001 11 125 414 1 545 878
Năm 2002 10 225 802 1 524 750
Năm 2003 9 524 828 1 283 453
Năm 2004 9 001 831 912 325
Năm 2005 8 003 761 415 174
Năm 2006 8 082 835 708 281
Năm 2007 7 970 797 562 286
Năm 2008 8 100 765 560 135
Năng suất
(tạ/ha)
Năm 2000 46,39 41,15 60,23 66,21
Năm 2001 46,95 56,72 62,41 67,50
Năm 2002 48,04 57,95 61,89 66,02
Năm 2003 52,34 57,49 62,96 65,05
Năm 2004 53,09 55,67 65,37 67,73
Năm 2005 52,23 54,97 66,61 69,20
Năm 2006 57,30 56,17 67,08 66,83
Năm 2007 56,75 57,01 66,21 69,34
Năm 2008 53,9 58,36 65,12 65,24
Sản lượng
(Tấn)
Năm 2000 52 223 605 8 577 4 582
Năm 2001 52 234 2 350 9 645 5 924
Năm 2002 49 125 4 646 9 433 4 952
Năm 2003 49 868 4 758 8 078 2 944
Năm 2004 47 788 4 624 5 962 2 198
Năm 2005 41 806 4 181 2 761 1 204
Năm 2006 46 312 4 693 4 749 1 879
Năm 2007 45 231 4 541 3 721 1 983
Năm 2008 43.635 4.437 3.154 1.877
Nguồn: niên giám thống kê 2007 và báo cáo tổng kết năm 2008 của Sở Nông
Nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng.
Ta có thể dể dàng nhận thấy diện tích trồng cây lương thực đã liên tục giảm
qua các năm do tác động của quá trình đô thị hóa nhanh chóng của thành phố đã
chiếm một phần lớn diện tích đất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Năng suất có
tăng qua các năm nhưng không ổn định và có các diển biến thất thường do tác động
của nhiều mặt như giá cả đầu vào, tác động của thiên tai...Chỉ có diện tích trồng ngô
là có xu hướng tăng lên từ 147 ha năm 2000 lên 765 ha năm 2008. Diện tích trồng
lúa giảm từ 11256 ha năm 2000 xuống còn 8100 ha năm 2008, tuy vậy năng suất
cây lúa có xu hướng tăng từ 46,39 tạ/ha năm 2000 đến năm 2008 đã là 53,9 tạ/ha.
Diện tích đất trồng lúa tập trung chủ yếu ở huyện Hòa Vang và quận Cẩm Lệ.
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2004 2005 2006 2007 2008
-Dịch vụ nông
nghiệp (trừ thú y)
-Chăn nuôi
-Trồng trọt
Bảng 8: Tỷ lệ giá trị đóng góp vào ngành nông nghiệp.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp củng có xu hướng chuyển dịch theo hướng
hiện đại tức là tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và từng bước đưa chăn nuôi trở thành
ngành sản xuất chính
Tình hình chăn nuôi phát triển khá trong các năm qua. Cụ thể trong năm
2008 số lượng gia súc gia cầm gia tăng, về số lượng cụ thể gia súc gia cầm đến
tháng 10/2008 là: đàn trâu 1.950 con, đàn bò 17.000 con, đàn heo 82.000 con, đàn
gia cầm 450.000 con.
Trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang trại đã và đang có xu hướng phát
triển, so với trước số trang trại chăn nuôi ngày một tăng. Theo kết quả điều tra đến
10/09/2008, toàn thành phố có 58 cơ sở chăn nuôi heo; 22 cơ sở chăn nuôi bò, dê;
46 cơ sở chăn nuôi gà quy mô 200 con trở lên, 3 cơ sở nuôi cút, 1 cơ sở nuôi vịt đẻ.
2.2 Lâm nghiệp.
Diện tích đất lâm nghiệp tăng lên nhanh chóng. Từ gần 52000 ha năm 2000
lên gần 57.195,6 ha năm 2008, độ che phủ của rừng tăng từ 41.7% năm 2003 lên
gần 48,54% năm 2008 cao hơn mức độ che phủ bình quân cả nước. Bảo đảm cân
bằng môi trường sinh thái và cải thiện môi trường thành phố trong quá trình phát
triển theo hướng công nghiệp hóa.
Diện tích đất lâm nghiệp của thành phố trong năm 2008 như sau:
- Đất có rừng: 51.598,1 ha
+ Rừng tự nhiên: 36.462,2 ha
+ Rừng trồng 15.135,9 ha
- Đất chưa có rừng 5.597,5 ha
Phân theo 3 loại rừng thì:
- Rừng đặc dụng: 33.165,3 ha
- Rừng phòng hộ: 8.578,5 ha
- Rừng sản xuất: 15.351,8 ha
Bảng 9. Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp (triệu đồng)
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Lâm nghiệp 22700 24934 23601 23465 25412.6
Lâm sinh 6351 5588 5615 6029 7299.595
-Khai thác gỗ, lâm
sản
16349 19346 17986 17832 18113
Nguồn: niên giám thống kê 2007 và báo cáo tổng kết năm 2008 của Sở Nông
Nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng.
Giá trị lâm nghiệp năm 2008 đạt 25412.6 triệu đồng, tăng 8.3% so với năm
1997. Trong đó tốc độ tăng của lâm sinh là cao hơn rất nhiều so với lỉnh vực khai
thác gổ và lâm sản (gần 21% so với 1.5%) đó là do thành phố đả có chủ trương chú
trọng vào trồng và nuôi dưỡng rừng bên cạnh đó thực hiện đóng cửa rừng để bảo vệ
nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này.
Lâm sinh
-Khai thác
gỗ, lâm sản
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2004 2005 2006 2007 2008
Bảng 10. Giá trị đóng góp vào ngành lâm nghiệp.
Có thể thấy giá trị đóng góp trong lâm nghiệp có sự tăng dần của lỉnh vực
lâm sinh, điều này chứng tỏ thành phố đả có chủ trương đúng đắn trong việc phát
triển lâm nghiệp đó là giảm dần khai thác rừng và tăng cường phục hồi và trồng mới
rừng để tăng giá trị rừng trong tương lai không vhir về mặt kinh tế mà còn lợi ích rất
lớn về mặt sinh thái, môi trường. Trong lỉnh vực lâm sinh thành phố đã chú trọng tới
việc phát triển rừng một cách hiệu quả bằng các phương pháp như: khoán bảo vệ
rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng tập trung... bên cạnh đó thành phố đả
thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ rừng, và phòng cháy chửa cháy trong mùa khô.
2.3 Thủy sản.
Giá trị sản xuất ngành thủy sản tăng liên tục qua các năm 1997 – 2007 mặt
dù diện tích đất nuôi trồng thủy sản giảm đáng kể do công tác quy hoạch đất nuôi
trồng thủy sản chưa hợp lý.
Bảng 11. Giá trị sản xuất ngành thủy sản (triệu đồng)
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Thủy sản 395407 438278 412089 444619 451288.3
-Nuôi trồng 42940 42478 20017 25214 25592.21
-Khai thác hải sản 333644 38 825 378537 406376 412471.6
-Khai thác thủy sản
nước ngọt
1123 701 595 709 719.635
-Dịch vụ thủy sản 17700 13 274 12940 12320 12504.8
Nguồn: niên giám thống kê 2007 và báo cáo tổng kết năm 2008 của Sở Nông
Nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng.
Giá trị sản xuất ngành thủy sản năm 2008 tăng 1.5% so với cùng kỳ năm
trước. Xét trong cả thởi kỳ 2004-2008 giá trị của ngành thủy sản tăng trung bình
2.67%. Trong đó lỉnh vực nuôi trồng lại có chiều hướng giảm suốt chứng tỏ thành
phố đã không có định hướng hợp lý cho lỉnh vực này bởi vì Đà Nẵng có tiềm năng
lớn trong lỉnh vực này với đường bờ biển dài và hệ thống sông lớn.
Hoạt động khai thác một số lỉnh vực chính như: nghề lưới cản, nghề câu mực,
nghề giả đôi... hoạt động có chuyển biến tích cực về tổ chức sản xuất, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động. Đến nay, thành phố có 90 tổ đội khai thác với 585 tàu,
trong đó tàu công suất 90 Cv trở lên là 180 chiếc. Cơ cấu trong các tổ theo nghề
khai thác như xau: Giả cào 32 tổ, lưới cản 23 tổ, câu mực 11 tổ, lưới vây 8 tổ, nghề
khác 16 tổ...
Về lỉnh vực nuôi trồng thì tập trung nuôi một số giống chính như: nuôi tôm
(tôm sú, tôm hùm, tôm chân trắng ba ba,)140 ha; các loại các như: điêu hồng, rô pho
đơn tính, cá trôi, mè, chép...ngoài ra còn có nuôi ếch, ba ba...
Ngành thủy sản Đà Nẵng còn rất nhiều hạn chế:
Trong lỉnh vực khai thác thủy sản thì có diển biến phức tạp hơn do ngư dân có
nguồn vốn hạn chế cho những chuyến đi biển xa, dài ngày. Mặc khác do tác động
của giá nhiên liệu tăng cao trong những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008 làm
cho số lượng tàu nằm bờ rất nhiều chiếm tới 40 – 50%. Bên cạnh đó đầu ra cho sản
phẩm còn bị nhiều hạn chế, chưa có được đầu ra ổn định, dể dàng bị tư thương ép
giá. Ví như ở Quận Sơn Trà có gần 1.500 tàu thuyền các loại. Tùy theo cỡ tàu và
loại hình khai thác mà mỗi tàu có số thuyền viên khác nhau, nhưng khó khăn chung
hiện nay là đa số tàu cá trong quận đang thiếu thuyền viên để ra khơi, sản phẩm bán
ra bị tư thương ép giá.
Ngư trường thì không ổn định do công tác dự báo ngư trường ít được quan
tâm, ngư dân chỉ dựa vào kinh nghiệm là chính trong việc xác đinh ngư trường dẩn
đến hiệu quả không cao
Khai thác thủy sản ở gần bờ là chủ yếu do đội tàu còn nhỏ, thiều những tàu
công suất lớn có khả năng bám biển lâu dài. Việc khai thác gần bờ diển ra tràn lan
hầu như không có tiêu chuẩn nào trong việc khai thác dể dản đến tình trạng cạn kiệt
nguồn lợi thủy sản. một tác động không nhỏ trong thời gian qua là nạn ô nhiểm do
các sự cố tràn dầu diển ra liên tiếp làm tổn hại nghiêm trọng tới môi trường, gây
thiệt hại cho sinh vật biển và lỉnh vực nuôi trồng thủy hải sản.
Trong lỉnh vực nuôi trồng thủy hải sản thì quy mô không lớn, kỹ thuật nuôi
trồng còn lac hậu chưa có nhiều nơi áp dụng công nghệ cao vào việc sản xuất. con
giống cho nuôi trồng thì vẩn đang là bức xúc của người dân, nguồn con giống tại
chổ không đủ đáp ứng nhu cầu.
Vấn đề ô nhiểm do nuôi trông thủy hải sản chưa được quan tâm.
3. Thị trường tiêu thụ.
3.1 Thị trường đầu vào
Thành phố đà nẵng là trung tâm kinh tế lớn của Miền Trung – Tây
nguyên, có lợi thế về giao thông nên hệ thống cung ứng dịch vụ đầu vào cho sản
xuất nông nghiệp rất phong phú và đa dạng. Thức ăn cho gia súc gia cầm, thuốc
phòng trừ sâu bệnh, các loại máy móc trng thiết bị phục vụ sản xuất... được cung
ứng khá đầy đủ, và đa dạng về số lượng củng như chất lượng bởi hệ thống các
công ty thương mại, các đại lí phân phối. trong những năm vừa qua trên địa bàn
thành phố chưa diển ra tình trạng khan hiếm thức ăn gia súc gia cầm , thuốc thú
ý, bảo vệ thực vật...
Tuy nhiên thời gian qua với diển biến phức tạp của thị trường nông sản
trong nước củng như của thế giới, giá các loại thức ăn chăn nuôi, đặt biệt là thức
ăn gia súc gia cầm tăng lên nhiều so với trước đây. Đó là do tác động của các
loại dịch bệnh liên tục xuất hiện trong những năm vừa qua, tuy thành phố đã
khống chế khá tốt tình hình dịch bệnh tuy vậy vẩn không tránh khỏi tác động của
nó. Mặt khác củng đã xuất hiện tình trạng phân bón giả, thuốc trừ sâu giả làm
gây ra không ít khó khăn và bức xúc cho bà con nông dân.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ sinh học thì con
giống, cây giống ngày càng đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
vai trò sản xuất. chi phí cho giống chiếm từ 20% trở lên trong tổng chi phí sản
xuất. Con giống, cây giống là tiền đề gia tăng năng suất của cây trồng vật nuôi,
là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, giảm giá thành cho sản phẩm và nâng
cao tính cạnh tranh của sản phẩm, quyết định đến kết quả và hiệu quả sản xuất.
Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chỉ có một cơ sở sản xuất giống heo của nhà
nước nên chưa thể đáp ứng nhu cầu rất cao về con giống của bà con nông dân.
Ngoài ra đối với các loại giống mà bà con rất cần để nâng cao năng suất trồng
trọt chăn nuôi như các loại cá giống, rau giống, lúa... thì hầu như trên địa bàn
thành phố chưa có cơ sở sản xuất hoặc chưa đủ khả năng đáp ứng để phục vụ
nhu cầu cầu của bà con.
Các loại giống không có tại địa phương thì phải nhập từ các tỉnh miển bắc
hoặc ở các tỉnh phía nam với chi phí cao. Một số giống do bà con nông dân tự áp
dụng kinh nghiệm của mình để sản xuất thì không đảm bảo về chất lượng dẩn
đến năng suất kém, hiệu quả thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
3.2 Thị trường đầu ra.
Thị trường đầu ra cho nông sản nói chung vẩn đang là nổi lo lắng của
người sản xuất. Hầu hết giá cả của sản phẩm nông nghiệp đều rất bấp bênh, khi
được mùa thì lại mất giá và ngược lại khi được giá lại mất mùa, ngoài ra còn các
nguyên nhân làm cho giá cả không có lợi cho người sản xuất là do:
- Sản phẩm làm ra chất lượng chưa đạt yêu cầu, chất lượng còn kám do
vậy tính cạnh tranh của sản phẩm thấp.
- Do mối liên hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp chế biến còn lỏng lẻo,
chưa thể nâng cao giá trị cho nông sản qua sản phẩm đả chế biến.
- Sản xuất chưa gắn liền với phân phối, tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc quá
nhiều vào tư thương nên dể bị ép giá.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn thành phố chủ
yếu vẩn là đáp ứng nhu cầu của nhân dân thành phố Đà Nẵng. Một số sản phẩm
đáp ứng nhu cầu của khu vực lân cận và xuất khẩu như: Gổ, thủy sản (EU, Hàn
Quốc, Nhật Bản...)
Với các tác động như vậy làm cho nông nghiệp trên địa bàn tăng trưởng
còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng.
4. Sự quản lý của chính quyền với phát triển nông nghiệp.
4.1 Công tác khuyến nông
Đà nắng là đơn vị hành chính duy nhất không có trạm khuyên nông huyện.
Trong hơn mười năm qua ở Đà nẵng nói riêng và trong cả nước nói chung chưa
có một đề tài nghiên cứu nào về chủ đề, về cách tập huấn cho nông dân như thế
nào để đạt hiệu quả cao nhất.
Khuyến nông là các biện pháp khuyến khích người nông dân phát triển sản
xuất một cách chủ động, tích cực, sáng tạo và hiệu quả. Thông qua quá trình
truyền bá kiến thức đào tạo nghề cho người sản xuất, tổ chức sản xuât thử
nghiệm và và quảng bá các mô hình sản xuất tiên tiến, khuyến cáo các phương
pháp giúp bà con nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Trong những năm gần đây công tác khuyến nông ở thành phố Đà nẵng đã
được coi trọng cà về chất lượng và số lượng. Với việc mở các lớp tập huấn,
truyền bá kỹ thuật, tổ chức sản xuất theo mô hình khảo nghiệm và sản xuất ứng
dụng một số con giống mới đã đem lại những hiểu biết nhất định cho bà cong
nông dân. Hiện có tới 6 trung tâm kỹ thuật với hơn 220 cán bộ, đa số là kỹ sư
làm nhiệm vụ chỉ đạo. Tuy vậy hiệu quả là không cao do cán bộ kỹ thuật chưa
theo sát được nhu cầu của người dân, chưa đáp ứng được yêu cầu hiểu biết cho
bà con. Các phương pháp tập huấn chỉ đạo chưa kết hợp chặt chẻ giữa lý thuyết
và thực tế làm cho bà con nông dân vận dụng vào thực tế vẩn còn nhiều lúng
túng, hiệu quả mang lại chưa cao. Trong mạng lưới khuyến nông viên ở cơ sở
chưa được xây dựng. Việc hổ trự kỹ thuật chưa kịp thời, nhất là công tác phòng
trừ dịch bệnh cho cây trồng vật nuôi.
4.2 Công tác dự báo thị trường nông sản
Công tác dự báo thị trường nông sản có tác động rất lớn tới quá trình sản xuất
nông nghiệp nhưng hầu như chưa được chú trọng.
Giá cả nông sản biến động rất khó lường. Cả thị trường đầu vào và thị trường
đầu ra. Tuy vậy ở Đà Nẵng hầu như chưa có cơ quan chuyên trách phục vụ cho
công tác dự báo thị trường nông sản làm cho bà con nông dân gặp nhiều khó
khăn, làm cho có những sản phẩm được sản xuất ra không thể tiêu thụ được.
nhất là trong bối cảnh nông dân Đà Nẵng nói riêng và của cả nước ta nói chung
đều có xu hướng sản xuất theo phong trào, thấy cái gì được giá là lao vào sản
xuất làm như vậy đến khi sản phẩm được làm ra đồng loạt lại gây ra tình trạng
cung nghiều hơn cầu và dẩn đến rớt giá sản phẩm gây thiệt hại nặng nề cho nông
dân.
Việc dự báo ngư trường cho ngư dân còn chưa được chú trọng. Hầu hết ngư
dân đều dựa vào kinh nghiệm của mình để phát thiện ra các ngư trường do vậy
rủi ro gặp phải là rất cao và không chắc chắn.
III. Các yếu tố tác động đến phát triển nông nghiệp bền vững ở Đà Nẵng.
Ta có các yếu tố tác động đến phát triển bền vững nông nghiệp như sau:
TIÊU CHÍ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
Tăng Tài nguyên đất nông nghiệp Quy mô, năng suất đất, hệ số sử
trưởng đều
và liên tục
dụng đất, cơ cấu sử dụng đất…
Nguồn nhân lực
Năng suất lao động, số lượng,
trình độ chuyên môn, đào tạo
nghiệp vụ…
Nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn, đòn cân nợ,
tỷ suất lợi nhuận trên vốn
Khoa học công nghệ
Vốn đầu tư cho KHCN, tỷ suất
hàng hoá, sự chuyển giao KHCN
Chính sách đầu tư nhà nước
(vốn, thuỷ lợi, trợ giá các
yếu tố đầu vào…)
Tổng vốn đầu tư vào thuỷ lợi,
cho vay sản xuất, trợ giá giống,
vật tư..
Quy hoạch vùng sản xuất
Thay đổi cơ cấu diện tích đất
nông nghiệp
Phân bổ
hợp lý từ sự
tăng trưởng
Chính sách đầu tư:
+ Khu vực nhà nước
- Hạ tầng cơ sở nông thôn
- Phát triển nông thôn
- Công nghiệp hoá nông
thôn
- Giảm độ cận biên thị
trường
….
+ Khu vực tư nhân
- Thu nhập ở khu vực nông
thôn
- Đầu tư cho nước sạch
- Đầu tư điện, trường, trạm
- Tỷ lệ hộ nghèo/bình quân
XH
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng
- Tỷ lệ bỏ học của học sinh
các cấp
- Tỷ lệ người mắc bệnh/
năm
- Tỷ lệ di dân trong khu
vực
- Tỷ lệ thất nghiệp
Bảo vệ tài
nguyên môi
trường
Chính sách của nhà nước về
quản lý và bảo vệ tài nguyên
môi trường
Vốn đầu tư cho việc trồng rừng,
diện tích rừng , xử lý chất thải,
kênh rạch
Ý thức bảo vệ tài nguyên
môi trường
Khả năng, nhận thức về công tác
bảo vệ tài nguyên môi trường.
Chỉ số đánh giá môi trường
nước, không khí, tiếng ồn…
1. Sự quản lý của chính quyền
Đưa ra các phương án phát triển cho ngành nông nghiệp thành phố, đồng thời có
các phương pháp kiểm tra giám sát và hổ trợ cho hoạt động nông nghiệp của nông
dân nhằm hướng đến phát triển một nền nông ngiệp bền vững.
Vai trò quản lý của chính quyền thể hiện rỏ nhất trong các chính sách nông
nghiệp như: chính sách thuế, chính sách quản lý đất đai, chính sách tín dụng, chính
sách ổn định sản xuất...
Bộ máy chính quyền quản lý sản xuất nông nghiệp ở Đà Nẵng không hề nhỏ so
với các địa phương lân cận. hiện có tới hơn 6 đầu mối với 220 cán bộ, đa số là kỹ sư
với nhiệm vụ hướng dẩn và phục vụ sản xuất nông nghiệp nhưng hiệu quả thì lại
không cao. Công tác hổ trợ nông dân phục vụ sản xuất chưa tốt đặc biệt là trong
việc định hướng cho phát triển và hổ trợ kỹ thuật tiên tiến cho bà con nông dân.
Định hướng phát triển cho nông nghiệp Đà Nẵng chưa rỏ ràng, chưa định hình
được sản phẩm nông nghiệp chủ lực của thành phố.
Sự quản lý của chính quyền với thị trường tiêu thụ hầu như bị bỏ lỏng, thị trường
nông sản chưa được quản lý tốt, tình trạng được mùa mất giá, mất mùa được giá liên
tiếp xảy ra nhưng chưa có biện pháp nào giải quyết hiệu quả.
Tình trạng ô nhiểm môi trường diển ra trên thành phố tuy không trầm trọng so
với các địa phương khác nhưng củng còn rất nhiều điều cần phải được quan tâm
giải quyết. Tác động môi trường do sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố
chưa được quan tâm đúng mức. quá trình trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy
sản gây ra không ít tác động gây ô nhiểm môi trường vì sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật, thuốc kháng sinh, dư thừa thức ăn chăn nuôi, chất thải sau khi thu hoạch chưa
qua xử lý... Hiện nay, sản xuất thực phẩm an toàn và bảo vệ môi trường là vấn đề
thời sự nóng hổi, ngay cả trong sản xuất nông nghiệp. Do người dân chưa thấy hết
vai trò của nó, nên nhiều sản phẩm làm ra tuy đạt năng suất cao, quay vòng vốn
nhanh nhưng không tiêu thụ được dẫn đến thua lỗ. Việc sử dụng các hóa chất trong
sản xuất một cách tùy tiện dẫn đến dư lượng thuốc bảo vê thực vật, vượt quá mức
cho phép nhất là trong sản xuất rau, màu có vòng quay ngắn đang là vấn đề bức
xúc trong dư luận xã hội. Chính quyền thành phố củng đã có áp dụng các phương
pháp để bảo vệ môi trường như áp dụng quy trình chăn nuôi khép kín, sử dụng mô
hình Biôga để xử lý chất thải, hay mô hình chế biến phân vi sinh từ chất thải nông
nghiệp... Tuy nhiên các mô hình này chưa sử dụng rộng rải và hiệu quả chưa cao.
Chính sách đất đai cho nông nghiệp của đà Nẵng đã và đang cho thấy sự bất hợp
lý, diện tích đất đai cho nông nghiệp liên tục giảm qua các năm. Quy hoạch sử dụng
thì chưa hợp lý gây hoang mang cho người dân, người cần đất để sản xuất thì không
có trong khi người có đất thì lại không biết phải làm thế nào để sử dụng cho hiệu
quả do đó tình trạng đất đai bỏ hoang không phải là hiếm trên địa bàn thành phố. Do
tình trạng đô thị hóa nên gây hoang mang cho bà con nông dân dẩn đến họ chỉ sản
xuất cầm chừng để giử đất là chính điều này thật sự gây tình trạng lảng phí lớn tài
nguyên của địa phương. Ví như cánh đồng Thiên 15 ha ở Hòa Hiệp Bắc bỏ hoang
hóa nhiều năm nay.
Các chính sách nông nghiệp của chính quyền nói trên hầu như chưa thể hiện
được vai trò chủ đạo trong định hướng cho nông nghiệp thành phố phát triển bền
vững.
2. Khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển
một nền nông nghiệp bền vững, nó tác động đến tất cả các hoạt động nông nghiệp
trong tương lai
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cũng như thực tiễn ở nước ta cho
thấy chính sách vĩ mô và khoa học kỹ thuật bao giờ cũng là động lực cho sự phát
triển kinh tế xã hội. Đà Nẵng cũng không năm ở ngoại lệ. Từ thực tế cho thấy, trong
lĩnh vực nông nghiệp, yếu tố KHKT phải hiện diện trong các đối tượng mang tính
đặc thù đó là các trang trại, các HTX chuyên môn hoá cao, là các khu chăn nuôi tập
trung theo quy hoạch, các Khu Nông nghiệp công nghệ cao v.v...
Tuy vậy tình hình áp dụng khoa học công nghệ vào thực tế sản xuất nông
nghiệp tại Đà Nẵng vẩn còn nhiều bất cập.
- Cơ giới hoá nông nghiệp còn rất hạn chế, tỷ lệ làm đất bằng máy chỉ đạt
khoảng 25%. Cơ giới hóa chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất. Hơn 10 năm lúa chưa
thay giống mới nên hạn chế về năng suất, sản lượng. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng
vật nuôi diển ra chậm và chưa có sự chuyển biến rỏ rệt.
- Trình độ và năng lực cạnh tranh thị trường của người nông dân thành phố còn
thấp, xu hướng phát triển cơ cấu sản phẩm hướng tới giá trị gia tăng cao diễn ra
chậm, kênh tác động từ phía công nghiệp đến nông nghiệp chưa được khơi thông,
một phần do công nghiệp nông thôn còn quá kém phát triển, v.v.
- Cán bộ kỹ thuật hổ trợ cho nông dân chưa hiệu quả, tuy số lượng đông nhưng
hoạt động còn nhiều điều bất cập có thể nói là chỉ hoạt động bề nổi, hoạt động theo
các lân phát động phong trào sản xuất, dẩn đến hiểu biết của bà con nông dân về áp
dụng công nghệ cho sản xuất còn yếu kém, làm cho nông nghiệp của thành phố có
phần bị trì trệ lại so với các địa phương khác.
- Công tác giống nông nghiệp ở Đà Nẵng đã có tín hiệu đổi mới. Tuy vậy, sự đổi
mới đó chưa tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và sản lượng nông sản.
Những giống cây-con mới đưa vào sản xuất đang dừng lại ở mô hình, chưa nhân ra
diện rộng và đều do các địa phương triển khai. Đơn vị chịu trách nhiệm về công tác
này là Trung tâm Giống nông nghiệp Đà Nẵng chưa tạo được loại giống nào có ý
nghĩa đáp ứng nhu cầu của nông dân.
- Tuy vậy thành phố củng đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đạt
được một số thành tựu như: thực hiện chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ,
hỗ trợ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi theo hướng năng suất, chất lượng
cao, chú trọng phát triển các đối tượng mới, đã xây dựng nhiều mô hình sản xuất có
hiệu quả như: Sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn GAP; sản xuất nấm rơm tại 10,
xã phường tại huyện Hoà Vang, Cẩm Lệ, Liên Chiểu; Chương trình “3 giảm, 3
tăng” với 250 hộ; mô hình trồng hoa ly, hoa đồng tiền, trồng hoa lan; chăn nuôi lợn
sinh sản hướng nạc, đảm bảo vệ sinh môi trường; cải tạo đàn bò theo hướng chuyên
thịt; hỗ trợ bảo quản sản phẩm khai thác và tập huấn kỹ thuật sản xuất cho hơn
1.000 lượt/người
Khoa học công nghệ là công cụ sản xuất không thể thiếu, nó sẽ góp phần
nâng cao năng suất nông nghiệp, cải tạo điều kiện sản xuất, nâng cao giá trị sản
phẩm nông nghiệp.
Nông nghiệp áp dụng khoa học công nghệ sẽ là hướng đi chính trong tương
lai một khi các yếu tố khác không còn được thuận lợi.
3. Nguồn vốn cho phát triển.
Nguồn vốn cho việc phát triển nông nghiệp có tác động rất lớn, khi không có
vốn thì người nông dân không thể tiếp tục sản xuất đươc mà những người nông dân
thì lại rất khan hiếm về vốn cho nên các chính sách khuyến khích đầu tư vào lỉnh
vực nông nghiệp là vô cùng quan trọng
Nguồn vốn để phát triển nông nghiệp là từ các ngân hàng thương mại hổ trợ
nông dân. Tuy vậy người dân còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận với nguồn vốn.
Các thủ tục vay vốn còn rườm rà.
Chính sách tín dụng cho nông dân để phục vụ nông nghiệp còn nhiều điều bất
cập. Ngân hàng còn vốn nhưng không thể giải ngân, còn hàng nghìn nông dân cần
thêm vốn để mở rộng đầu tư thì không vay được. Nghịch lý này đã và đang tồn tại
trong nhiều năm qua và hiện tại vẫn chưa có giải pháp tháo gỡ. định mức cho nông
dân vay vốn là chưa hợp lý, cho nên những người có khác vọng cần vay vốn để
phục vụ sản xuất chưa được đáp ứng hợp lý.
Về vốn, sự thiếu hụt vốn và sử dụng kém hiệu quả nổi lên rất rõ. Các vấn đề
chính của nông dân khi vay vốn tín dụng chính thức là (1) rủi ro không trả được nợ;
(2) không đủ thế chấp; (3) chi phí tiếp cận dịch vụ cao, thời gian xét duyệt kéo dài.
Tín dụng phi chính thức lại có lãi suất quá cao. Hiện nay, đa số nông dân thiếu vốn
tái đầu tư sản xuất mở rộng, chỉ đủ để tái sản xuất giản đơn; một bộ phận lâm vào
cảnh nợ nần triền miên, không trả dứt nợ được.
Ngoài ra các nguồn vốn hổ trợ nông dân khác như để học nghề, chuyển đổi sản
xuất tuy củng đã có được một số thành tựu như: Quỹ HTND thành phố Đà Nẵng đã
càng ngày càng phát triển, đến nay tổng số dư nợ lên đến 4,416 tỷ đồng, trong đó
nguồn vốn do Trung ương Hội ủy thác 447,155 triệu đồng, thành phố ủy thác 3,968
tỷ đồng, cho gần 2.500 lượt hộ nông dân vay, chủ yếu là nông dân nghèo và hết đất
sản xuất có điều kiện để sản xuất, kinh doanh (SXKD), giải quyết việc làm và ổn
định đời sống nhưng củng chưa phát huy tốt vai trò của mình.
Các doanh nghiệp đầu tư vào lỉnh vực nông nghiệp đầu tư còn chưa mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
4. Thị trường mục tiêu.
Thị trường mục tiêu có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp vì
người nông dân phải biết được sản phẩm họ sản xuất ra có thể bán được hay không,
bán cho ai, có lợi nhuận hay không thì họ mới tham gia sản xuất sản phẩm
Thị trường mục tiêu của nông nghiệp Đà Nẵng hiện nay vẩn là phục vụ nhu
cầu tại chổ của nhân dân thành phố, bên cạnh đó là một số sản phẩm phục vụ các
địa phương lân cận ở khu vưc miền trung và còn có một số mặt hàng phục vụ xuất
khẩu.
IV. Đánh giá về nông nghiệp thành phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng nông dân không nhiều, giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp không lớn nhưng tác động của nó đến đời sống kinh tế xã hội nhất là vùng
nông thôn của thành phố thì không hề nhỏ. Mặc dù những năm gần đây phạm vi của
ngành nông nghiệp bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa nhanh chóng của thành phố
nhưng nông nghiệp Đà Nẵng vẩn giữ nhịp độ tăng trưởng bền vững, ổn định, giá trị
sản xuất toàn ngành không hề giảm mà còn có xu hướng tăng lên.
Hiện tại, nông nghiệp Đà Nẵng nhỏ về quy mô và thấp về giá trị sản xuất. 6
tháng đầu năm 2008, toàn ngành chỉ đạt giá trị tổng sản lượng 332 tỷ đồng, giảm
2,5% so cùng kỳ năm 2007, trong đó giá trị nông-lâm chỉ 140 tỷ đồng. Năng suất
lúa 50,5 tạ/ha, sản lượng thóc trên 23 nghìn tấn, thấp nhất kể từ trước đến nay. Việc
phát triển nông nghiệp ở Đà Nẵng còn nhiều bất cập do diện tích canh tác giảm
1.900ha trong hơn 10 năm qua, trong đó đất lúa 1.116ha, hơn 300ha ao hồ nuôi
trồng thủy sản bị giải tỏa. Do giải tỏa, tâm lý bất an trong nông dân khá rõ. Họ
không mạnh dạn đầu tư cho sản xuất, thậm chí chỉ sản xuất cầm chừng theo kiểu giữ
đất. Việc dồn điền đổi thửa không triển khai được đã đẩy sản xuất lâm vào tình cảnh
manh mún, nhỏ lẻ kéo dài. Tiến bộ khoa học kỹ thuật có triển khai nhưng ít đứng
vững trên đồng ruộng, chuồng trại. Thành phố Đà Nẵng hiện chỉ còn 4.200ha đất
trồng lúa. Đúng ra, với diện tích ít ỏi ấy, lúa ở Đà Nẵng phải có đặc điểm riêng, tức
là phải đạt chất lượng cao, gạo thơm ngon, hoặc tạo ra năng suất cao. Tuy vậy,
nhiều năm nay giống lúa chậm đổi mới, dẫn đến năng suất không thể tăng lên được,
vụ được mùa nhất cũng chỉ 57 tạ/ha, trong khi ở Quảng Nam đạt trên 60 tạ/ha.
Cơ giới hóa chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất. Hơn 10 năm lúa chưa thay
giống mới nên hạn chế về năng suất, sản lượng. Hầu hết lao động trẻ quay lưng với
đồng ruộng tìm kế mưu sinh ở phố xá, giao phó đồng ruộng cho lao động lớn tuổi,
sản xuất theo kiểu được chăng hay chớ. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp liên tiếp
đối mặt với rủi ro, thất bát do thiên tai, dịch bệnh, giá vật tư phân bón tăng cao, giá
nông sản thấp. Về chủ quan, nông dân Đà Nẵng chưa nhạy bén với cái mới, khát
vọng làm giàu không cao
Trong khi đó, nông nghiệp Đà Nẵng có nhiều thuận lợi. Khí hậu, thời tiết
không đến nỗi quá khắc nghiệt. Hệ thống thủy nông tương đối hoàn thiện. Các cơ
quan chỉ đạo với đội ngũ cán bộ kỹ thuật hùng hậu, sự đầu tư của thành phố và các
quận, huyện kịp thời. Thị trường nông sản phong phú, vận chuyển vật tư, nông sản
thuận lợi.
Ô nhiểm môi trường và cạn kiệt tài nguyên do khai thác thủy sản quá mức là
vấn đề đáng báo động ở Đà Nẵng. Đà Nẵng đang phải đối mặt với hai vấn đề lớn
trong khai thác là đánh bắt quá mức trong vùng ven bờ và sử dụng những phương
tiện đánh bắt có tính huỷ diệt. Đánh bắt hải sản hiện tập trung chủ yếu vào cá, tôm ở
vùng biển ven bờ (độ sâu 0-30m) và động vật thân mềm ở các bãi cát và bãi triều
(khu Sơn Trà). Sản lượng khai thác trung bình hàng năm của Đà Nẵng vào khoảng
36801 tấn/năm (2004), trong đó 68,2 % sản lượng này đã khai thác ở vùng nước
nông ven biển. Điều tra đã xác nhận, trong khi tổng sản lượng đánh bắt tăng rõ rệt,
thì sản lượng đánh bắt cá tính theo từng mẻ (CUE) lại giảm (từ 1,2 tấn/CV năm
1985 xuống còn 0,65 tấn/CV năm 1995), và kích cỡ cá càng ngày càng nhỏ. Nhiều
loài cá và sinh vật biển có nguy cơ tuyệt chủng, trong đó có nhiều loài có giá trị
kinh tế cao. Đội tàu đánh bắt của Đà Nẵng hiện có 1.939 chiếc, trong đó chỉ có 90
chiếc đánh bắt xa bờ, phần còn lại chủ yếu tàu gắn máy nhưng số tàu thuyền nhỏ có
công suất dưới 23CV chiếm khoảng hơn 80%. Điều đó cho thấy rằng việc khai thác
cá truyền thống trong các vùng nước ven bờ ở độ sâu dưới 30 mét, là nguyên nhân
chính gây cạn kiệt nguồn lợi hải sản. Khai thác cá thủ công, bắt bằng lưới rất nhỏ
(lưới mùng, lưới vét, vó gạt) để đánh bắt tất cả các loại cá, kể cả cá con; áp dụng các
biện pháp đánh bắt cá dùng thuốc nổ, xung điện, ánh sáng và hoá chất xyanua; thiếu
kinh nghiệm quản lý và khả năng thi hành luật pháp của lực lượng kiểm soát cũng
như việc đánh bắt trái phép, vô ý thức là các nguyên nhân chính gây suy giảm các
loài cá, các rạn san hô và các sinh vật biển khác, dẫn tới suy giảm đa dạng sinh học.
Chương trình đánh bắt xa bờ tuy có đầu tư và quan tâm, nhưng chưa đem lại hiệu
quả cao do sự tăng lên của chi phí nhiên liệu, thiên tai. Cuối cùng ngư dân quay lại
đánh bắt gần bờ, hậu quả là sức ép của các hoạt động phát triển ven bờ không giảm
và tình trạng khai thác quá mức ngày càng nặng nề.
Cơ cấu ngành nông nghiệp (nông-lâm-thuỷ sản) đang có xu hướng chuyển
dịch theo hướng phù hợp với thành phố công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng ngành
nông nghiệp đóng góp vào GDP thành phố giảm từ 9,70% năm 1997 xuống còn
7,86% năm 2000 và 4,17% năm 2006.
Số liệu thống kê cho thấy giá trị sản xuất ngành nông-lâm-thuỷ sản tăng bình
quân 6,3%/ năm trong thời kỳ 1997-2006, cao hơn so với mức tăng bình quân của
cả nước là 5,4%. Tuy nhiên cũng giống như tình hình chung của cả nước, Đà Nẵng
với lao động nông nghiệp chiếm 13% nhưng chỉ tạo ra 4,17% GDP, đồng nghĩa với
năng suất ngành nông nghiệp còn quá thấp. Đặc biệt lao động trong ngành nông
nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) chiếm tới 83% nhưng chỉ tạo ra 30% giá trị toàn
ngành nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp trong 5 năm qua hầu như không tiến thêm
được bước nào, thậm chí giảm mạnh ở ngành thủy sản... Đó là dấu hiệu của sự phát
triển không bền vững. Cơ cấu nông nghiệp của Đà Nẵng cho thấy sự tăng trưởng
của ngành vẫn dựa chủ yếu tài nguyên như đất đai, rừng, biển, thiếu sự ổn định để
chuyển sang cơ cấu hiện đại có khả năng tăng trưởng theo chiều sâu.
Phần 3
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG
NGHIỆP ĐÀ NẴNG
I. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển bền vững ngành nông
nghiệp
1. Quan điểm.
Tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp hướng mạnh vào công nghiệp chế biến,
công nghiệp hàng tiêu dùng phục vụ cho xuất khẩu, công nghiệp vật liệu xây dựng,
công nghiệp hoá chất, từng bước tăng tỷ trọng dịch vụ và du lịch.
Chuyển dịch cơ cấu thủy sản – nông – lâm theo hướng tăng tỉ trọng thủy sản,
giảm tỷ trọng nông nghiệp và lâm nghiệp. tăng nhanh khối lượng phẩm hàng hóa,
nhất là sản phẩm đã qua chế biến.
Phát triển ngành nông nghiệp thành phố theo hướng bền vững thân thiện vơi
môi trường đáp ứng tốt nhu cầu lương thực thực phẩm của nhân dân thành phố
2. Mục tiêu.
- Để ngành nông nghiệp Đà Nẵng phát triển ổn định và bền vững, mục tiêu
của thành phố đặt ra đến năm 2010 đưa sản xuất chăn nuôi trở thành lĩnh vực sản
xuất chính, có tỷ trọng giá trị hàng hóa chiếm 70% trong cơ cấu sản xuất của ngành
nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, Thành phố tập trung khuyến khích phát
triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản
phẩm, có giải pháp quản lý vùng chăn nuôi an toàn và phòng ngừa dịch bệnh.
- Thành phố đang chỉ đạo sớm hoàn thành công tác quy hoạch phát triển chăn
nuôi, từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch chi tiết vùng nuôi. Thành phố đã xác
định 3 vùng nuôi cơ bản: Vùng cấm nuôi, vùng cho phép nuôi (nuôi có điều kiện
cấp phép của cơ quan Nhà nước) và vùng khuyến khích nuôi; đề ra cơ chế, chính
sách hợp lý về huy động vốn, ưu đãi lãi suất, đất đai, lao động, chuyển giao ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển
chăn nuôi quy mô lớn. Trước mắt thành phố chỉ đạo các tổ chức cho vay (Ngân
hàng Nông nghiệp địa phương) có cơ chế cho vay ưu đãi về thời hạn, lãi suất, phù
hợp đặc tính, đặc thù của ngành, để các hộ nông dân chăn nuôi được tiếp cận dễ hơn
nguồn vốn vay. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục đầu tư phát triển thêm các cơ
sở giống có giá trị kinh tế cao như: Bò, dê, đà điểu, gà nhằm phục vụ nhu cầu sản
xuất của thành phố và khu vực. Thành phố cũng khẩn trương khảo sát quy hoạch và
đầu tư mới thêm một số cơ sở chế biến giết mổ tập trung tại 2 quận Ngũ Hành Sơn
và Hoà Vang giải quyết triệt để tình trạng chế biến, giết mổ phân tán trong dân,
quản lý tốt vệ sinh an toàn thực phẩm trong chăn nuôi.
- Phát triển một nền nông nghiệp sạch theo hướng đa dạng hoá. Đồng thời
phát triển nhanh các cây thực phẩm, rau, đậu đỗ, các loại cây ăn quả, cây cảnh, chăn
nuôi... với tỷ suất hàng hoá nông sản ngày càng cao, đáp ứng tốt yêu cầu tiêu dùng
và xuất khẩu.
- Phát triển mạnh chăn nuôi gia súc và gia cầm, coi trọng chất lượng cây
giống. Mở rộng nuôi bò lai, bò sữa, lợn nạc và nuôi gà theo phương pháp công
nghiệp để tăng hiệu quả chăn nuôi đáp ứng yêu cầu thị hiếu tiêu dùng của thị
trường.
- Phát triển các ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn.
- Bảo vệ, khôi phục rừng tự nhiên, phát triển trồng rừng trên đất trống đồi
trọc, trồng rừng chống cát và rừng cảnh quan ven biển theo phương thức kết hợp
cây lâm nghiệp với trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, dược liệu, chăn nuôi đại gia
súc v.v... Xây dựng và bảo vệ các khu rừng Bà Nà, Nam Hải Vân và khu bảo tồn
thiên nhiên Sơn Trà.
3. Phương hướng.
3.1 Về kinh tế.
Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh
mún, phân tán bằng phương pháp dồn điền đổi thửa; tiến tới xây dựng các mô hình
sản xuất với quy mô lớn đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hóa, phù hợp cho chuyển
giao kỹ thuật công nghệ.
Phát triển sản xuất gắn với tăng cường sản xuất chế biến và mở rộng thị
trường tiêu thụ nông – lâm – thủy sản; đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi và cơ cấu lại kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Chú trọng nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
Giải quyết tốt quy hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch bố trí khu công
nghiệp và phát triển làng nghề, bố trí cấp nước và xữ lý chất thải sản xuất và chất
thải sinh hoạt ở nông thôn để ngăn chặn ô nhiểm.
3.2 Về xã hội.
Tiếp tục tăng cường hệ thống hạ tầng nông thôn, tập trung củng cố hệ
thống tưới tiêu, tăng cường hệ thống đê sông, đê biển và công trình phòng chống
thiên tai. Nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thông tin và các dịch vụ
xã hội khác đáp ứng nhu cầu tiếp cận đến các dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội của
người dân.
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, trước hết tăng cường
chất lượng hệ thống cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn kỹ thuật, kinh tế cho
vùng nông thôn có đủ năng lực tiếp ứng cho tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế.
Hổ trợ tốt hoạt động của người dân bằng các chính sách cho vay vốn, hổ
trợ sản xuất và tăng cường khoa học công nghệ vào xản xuất góp phần nâng cao
chất lượng đời sống của nông dân.
3.3 Về môi trường.
Tăng cường biện pháp chống suy thoái đất, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả
và bền vững tài nguyên đất trên cơ sở áp dụng các mô hình canh tác hợp lý trên từng
vùng, từng loại đất và từng loại địa hình.
Rà soát quy hoạch lại ba loại rùng: phòng hộ, đặt dụng, sản xuất theo
hướng phát triển bền vững. Nâng cao nhận thức đầy đủ về giá trị của rừng bao gồm
lợi ích kinh tế, lợi ích sinh thái và các gí trị phi sử dụng khác.
Bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước, có biện pháp khai
thác và bảo vệ các nguồn nước một cách hợp lý tránh tình trạng thất thoát lảng phí
củng như nguy cơ ô nhiểm và cạn kiệt nguồn nước.
Tăng cường công tác nghiên cứu và thu thập bảo tồn nguồn gen giống cây
nông nghiệp, cây lâm nghiệp và các vật nuôi tại địa phương nhằm tăng tính đa dạng
sinh học. tâp trung thay đổi chất lượng cây trồng, vật nuôi, áp dụng quy trình sản
xuất tiên tiến hạn chế sử dụng các hóa chất nông nghiệp, thuốc trừ sâu phòng bệnh
trong sản phẩm nông nghiệp và trong môi trường đất, nước.
II. Giải pháp phát triển bền vững ngành nông nghiệp ở Đà Nẵng.
1. Áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến phù hợp
Thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp đào tạo, bồi dưởng nâng cao trình độ của
cán bộ kỹ thuật phục vụ nông nghiệp và người nông dân để họ có đủ khả năng nắm
bắt, quản lý và thực hiện, áp dụng khoa học kỹ thuật vào thực tiển sản xuất.
Thực hiện chính sách khuyến khích áp dụng khoa học kỹ thật vào sản xuât
như: hổ trợ kinh phí mua thiết bị cơ giới hóa quy trình sản xuất, hổ trợ chuyển đổi
sang các loại giống, cây trổng, vật nuôi mới có khã năng sinh lợi cao hơn và ít tác
động đến môi trường hơn. Hiện tại ở Đà Nẵng đang có xu hướng chuyển biến tích
cực về cây trồng vật nuôi như trồng dưa hấu hắc mỹ nhân, nuôi ếch, trồng rau mầm,
trồng nấm... Nhưng vẩn còn tự phát, rời rạc và chưa có định hướng phát triển rỏ
ràng và chưa định hình thương hiệu riêng cho loại hàng hóa mới này. Vì vậy cần có
sự phối hợp của nông dân và cơ quan chức năng để đầu tư công nghệ khoa học kỹ
thuật để phát triển các loại này thành những hàng hóa mới với quy mô lớn đáp ứng
nhu cầu của thị trường thành phố Đà Nẵng nói riêng hướng tới thị trường miền
trung Tây nguyên và đẩy mạnh hướng tới có thể xuất khẩu được ra thế giới. Công
nghệ áp dụng phải phù hợp trong sản xuất chế biến và bảo quản sản phẩm. Công
nghệ phải được hướng dẩn tận tình tới bà con nông dân để họ có thể áp dụng một
cánh hiểu biết và thành thạo để đạt được hiệu quả cao nhất.
Thành phố phải hướng tới xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao để
hướng tới nắm bắt nhu cầu tương lai. Trên cơ sở đó Đà Nẵng phải phát triển được
cây trồng vật nuôi có lợi thế của địa phương như rau an toàn, dưa hấu, cá nước ngọt,
nuôi ếch, trồng các loại cây cảnh hoa cảnh... Tuy nhiên, để phát triển nông nghiệp
công nghệ cao đòi hỏi vốn đầu tư lớn và lao động chất lượng cao mà hầu hết các
nông nông dân ở thành phố chưa thể đáp ứng được vì vậy chính quyền thành phố
cần có các chính sách đầu tư thích hợp, khuyến khích áp dụng công nghệ cao vào
sản xuất.
Xây dựng các cơ sở nghiên cứu, tuyển chọn áp dụng các loại giống mới, phát
triển các phương tiện phục vụ sản xuất hiệu quả. Để phát triển nông nghiệp thì vấn
đề cây giống, con giống đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Cán bộ phải kip thời theo giỏi phát thiện tình hình chuyển biến của nông
nghiệp thành phố qua đó có các biện pháp giải quyết phù hợp
Hướng dẩn áp dụng công nghệ sinh học, bảo quản, sơ chế nông sản nhằm
nâng cao chất lượng nông sản trên thị trường.
Ứng dụng giống cây trồng theo nguyên lý bền vững
2. Đổi mới tư duy phát triển nông nghiệp
Tạo nhận thức đúng của những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn về sự
cần thiết xây dựng nền nông nghiệp sạch và nông nghiệp hữu cơ. Sự cần thiết này
bắt nguồn từ chính lợi ích của họ cũng như lợi ích của cộng đồng
Phát triển nông nghiệp thành phố theo hướng nông nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp hữu cơ. Sự phát triển nền nông nghiệp sạch và nông nghiệp hữu cơ phụ
thuộc vào sự phát triển công tác nghiên cứu công nghệ sinh học và chuyển giao các
kết quả nghiên cứu vào sản xuất. đến lượt mình, phát triển nghiên cứu công nghệ
sinh học phải được định hướng ưu tiên vào phục vụ trực tiếp và có hiệu quả nhất
việc phát triển nền nông nghiệp sạch và nền nông nghiệp hữu cơ trên cơ sở khai
thác và hiện đại hoá những kinh nghiệm sản xuất truyền thống sẵn có ở từng vùng.
Hiện nay, người nông dân chưa mặn mà với việc sử dụng phân hữu cơ, phân vi sinh
trong canh tác, cũng như với những biện pháp sinh học bảo vệ mùa màng và dùng
thảo dược trừ sâu bệnh. Nguyên nhân của tình trạng này là họ chưa thấy đầy đủ ý
nghĩa của việc giữ công nghiệp môi trường trong lành và bảo vệ sức khoẻ. Mặt
khác, các biện pháp hữu cơ truyền thống thường mang lại hiệu quả chậm hơn so với
việc dùng các chế phẩm hoá học, nhiều khi lại phải bỏ ra chi phí lớn.
Để mở rộng phát triển nền nông nghiệp hữu cơ cần chú trọng những vấn đề
lớn sau đây:
- Sản xuất và sử dụng rộng rãi các loại giống cây trồng và con vật nuôi có
khả năng kháng bệnh và sâu rầy. Điều cho phép hạn chế đến mức tối đa việc sử
dụng các thuốc thú y và thuốc trừ sâu bệnh có nguồn gốc từ các chế phẩm hoá học.
- Áp dụng biện pháp canh tác phòng chống sâu bệnh và cỏ dại mang tính tích
cực, như đốt rơm rạ ngay sau khi thu hoạch, làm ải, tưới tiêu nước theo khoa học,
trừ cỏ dại và chỉ dùng các loại phân hữu cơ.
- Sử dụng rộng rãi các chế phẩm sinh học, thảo dược để phòng chống sâu
bệnh, kích thích sinh trưởng cây trồng, vật nuôi. Giảm đến mức tối đa việc sử dụng
các chế phẩm hoá học, nếu dùng thì phải đúng lúc, đúng cách, đúng liều lượng.
Tránh tình trạng làm nông nghiệp theo phong trào, theo lợi ích trước mắt.
thực tế nông nghiệp của nước ta hiện nay là làm nông nghiệp theo phong trào, làm
theo lợi ích trước mắt mà không có chiến lượt cụ thể cho tương lai vì vậy nhất thiết
phải thay đổi được tư duy lạc hậu này mới mong có thể thay đổi diện mạo nền nông
nghiệp thành phố một cách toàn diện. Muốn làm được như vậy thì cần có các hướng
dẩn cụ thể cho người dân, định hướng cho họ vào một nền nông nghiệp sản xuất
hàng hóa thật sự. Hướng tới mục tiêu lâu dài trong tương lai bằng cách phát triển
nông nghiệp sạch, chất lượng cao phục vụ nhu cầu tại chổ và hướng tới đẩy mạnh
xuất khẩu. phải nhận thức rỏ ràng nông nghiệp sạch và chất lượng cao là xu hướng
không thể khác được của tương lai.
Phát triển mạnh các mô hình mới có thể phát triển mạnh mẻ như mô hình
vườn trong đô thị: Trồng cây cảnh, rau mầm, trồng nấm, nuôi các loại vật nuôi có
giá trị cao. Đây là xu hướng rất phổ biến của các thành phố lớn trên thế giới hiện
nay nó sẽ giải quyết phần nào nhu cầu về thực phẩm tại chổ của người dân và có thể
tạo ra giá trị lớn nếu phát triển đúng cách.
Hướng đến canh tác sinh học chú trọng đến bảo vệ môi trường tự nhiên giảm
tối thiểu việc sử dụng hoá chất trừ sâu để bảo vệ cây trồng. Khái niệm canh tác sinh
học và sinh thái được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao hàm các kỹ thuật và quy trình
canh tác đặc biệt hơn đối với tính bền vững của hệ canh tác, chẳng hạn như canh tác
hữu cơ, chức năng sinh học, chính thống và tự nhiên…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG.pdf