Tài liệu Luận văn Phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh miền núi khi dạy học bài tập vật lí chương động lực học vật rắn (vật lí 12 - Nâng cao): Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------- ----------
NGUYỄN THỊ ĐIỆP
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC
CỦA HỌC SINH MIỀN NÚI KHI DẠY HỌC BÀI TẬP
VẬT LÍ CHƢƠNG ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN
(VẬT LÍ 12 - NÂNG CAO)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
------------ -----------
NGUYỄN THỊ ĐIỆP
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC
CỦA HỌC SINH MIỀN NÚI KHI DẠY HỌC BÀI TẬP
VẬT LÍ CHƢƠNG ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN
(VẬT LÍ 12 - NÂNG CAO)
Chuyên ngành: Lí luận và Phƣơng pháp dạy học Vật lí
Mã số : 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN KHẢI
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn:
Thầy giáo PGS. TS. Nguyễn Văn Khải đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ trong
su...
130 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1098 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh miền núi khi dạy học bài tập vật lí chương động lực học vật rắn (vật lí 12 - Nâng cao), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------- ----------
NGUYỄN THỊ ĐIỆP
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC
CỦA HỌC SINH MIỀN NÚI KHI DẠY HỌC BÀI TẬP
VẬT LÍ CHƢƠNG ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN
(VẬT LÍ 12 - NÂNG CAO)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
------------ -----------
NGUYỄN THỊ ĐIỆP
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC
CỦA HỌC SINH MIỀN NÚI KHI DẠY HỌC BÀI TẬP
VẬT LÍ CHƢƠNG ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN
(VẬT LÍ 12 - NÂNG CAO)
Chuyên ngành: Lí luận và Phƣơng pháp dạy học Vật lí
Mã số : 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN KHẢI
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn:
Thầy giáo PGS. TS. Nguyễn Văn Khải đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ trong
suốt thời gian thực hiện đề tài.
Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, các thầy cô giáo trong
khoa Sau đại học, khoa Vật lí, thư viện trường Đại học Sư phạm đã tạo mọi điều
kiện cho việc học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Các trường: THPT Tân Yên số 1; THPT Sơn Động số 1; THPT Lục Nam
và các đồng nghiệp, các em học sinh đã tận tình giúp đỡ trong quá trình tìm hiểu
thực tế và kiểm nghiệm đề tài.
Toàn thể bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ và động viên!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Nội dung viết tắt Nghĩa đầy đủ
1- ĐC
2- TN
3- TNSP
4- THPT
5- SGK
6- SBT
7- PT
8- NXB
Đối chứng
Thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm
Trung học phổ thông
Sách giáo khoa
Sách bài tập
Phương trình
Nhà xuất bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chƣơng I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát huy tính tích cực, tự lực
của học sinh trong dạy học vật lí .......................................................... 5
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu...............................................................................5
1.2. Vấn đề phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong dạy học .........................7
1.3. Vấn đề phát huy tính tự lực nhận thức của học sinh ................................................ 15
1.4. Mối liên hệ giữa tính tích cực và tính tự lực nhận thức ........................................... 17
1.5. Bài tập trong dạy học vật lí ..................................................................................... 18
1.6. Tìm hiểu thực trạng dạy học bài tập vật lí ở một số trường THPT miền núi ............ 23
1.7. Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự lực học tập bài tập vật lí của học
sinh THPT miền núi ............................................................................................... 29
Chƣơng II. Xây dựng tiến trình dạy học một số chủ đề bài tập chƣơng
Động lực học vật rắn (Vật lí 12 - Nâng cao) ..................................... 36
2.1. Đặc điểm của chương Động lực học vật rắn ............................................................ 36
2.1.1.Vị trí, vai trò của chương ............................................................................... 36
2.1.2. Cấu trúc nội dung của chương Động lực học vật rắn ..................................... 36
2.1.3. Mục tiêu cần đạt được khi dạy học chương ................................................... 37
2.1.4. Những công thức trong chương cần nhớ để vận dụng giải bài tập .................. 37
2.1.5. Lựa chọn hệ thống các bài tập vận dụng kiến thức chương Động lực học
vật rắn .......................................................................................................... 40
2.1.6. Phân tích và sử dụng hệ thống bài tập chương Động lực học vật rắn ............. 41
2.2 Xây dựng tiến trình dạy học một số chủ đề bài tập vật lí chương Động lực học
vật rắn..................................................................................................................... 47
2.2.1. Ý tưởng sư phạm xây dựng tiến trình dạy học ............................................... 47
2.2.2. Xây dựng tiến trình dạy học một số chủ đề bài tập ........................................ 51
2.3. Bài tập dùng để xây dựng kiến thức trong giờ học lí thuyết ..................................... 84
2.4. Bài tập dùng để hướng dẫn học sinh về nhà tự làm ................................................. 87
Chƣơng III. Thực nghiệm sƣ phạm ...................................................................... 93
3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm (TNSP) ........................................................... 93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2. Nhiệm vụ của TNSP ............................................................................................... 93
3.3. Đối tượng và cơ sở TNSP ....................................................................................... 93
3.4. Phương pháp TNSP ................................................................................................ 94
3.5. Phương pháp đánh giá kết quả TNSP ...................................................................... 94
3.6. Tiến hành TNSP ..................................................................................................... 96
3.7. Kết quả và xử lí kết quả TNSP ................................................................................ 97
3.8. Đánh giá chung về TNSP ...................................................................................... 104
KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 107
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu tổng quát của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và hướng nghiệp, là đào tạo con người có nhân cách,
có trí tuệ, năng động và sáng tạo, chủ động thích ứng với nền kinh tế tri thức và sự
phát triển của thời đại. Mục tiêu này đã được đưa vào Luật giáo dục, thể hiện qua
các nghị quyết của Đảng Cộng sản và cụ thể hoá trong các chương trình hành động
của các cấp quản lí giáo dục, như văn kiện đại hội Đảng lần thứ X của Ban chấp
hành Trung Ương Đảng Cộng sản khoá IX khẳng định: “…ưu tiên hàng đầu cho
việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học…Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh…”.
Điều 28 Luật giáo dục (2005) quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm của từng môn học, lớp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh…”
Trong những năm gần đây định hướng đổi mới này đã và đang được thực
hiện ở tất cả các cấp học, các môn học, được thể hiện bằng việc đổi mới nội dung,
chương trình sách giáo khoa và vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong
dạy học. Việc làm này đã góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong dạy học
và giáo dục. Tuy nhiên đối với một số trường THPT ở các tỉnh miền núi còn gặp
nhiều khó khăn trong việc đổi mới phương pháp dạy học, điều đó ảnh hưởng không
ít đến việc đào tạo ra những con người có đủ năng lực và phẩm chất để đáp ứng nhu
cầu xã hội.
Trong dạy học, bài tập Vật lí là một phần hữu cơ của quá trình dạy học Vật lí
vì nó cho phép hình thành và làm phong phú các khái niệm Vật lí, phát triển tư duy
và thói quen vận dụng kiến thức Vật lí vào thực tiễn. Về phương diện giáo dục, việc
giải các bài tập Vật lí sẽ giúp hình thành các phẩm chất cá nhân của học sinh như
tình yêu lao động, trí tò mò, sự khéo léo, khả năng tự lực, hứng thú đối với học tập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Trong thực tế dạy học, nhiều khi người học hiểu và nắm được nội dung lí
thuyết, song cũng gặp rất nhiều khó khăn khi áp dụng kiến thức vào thực tiễn, vào
việc giải các bài toán. Chẳng hạn học sinh có thể nhắc lại các định luật, quy tắc,
công thức nhưng không biết vận dụng chúng như thế nào để giải một bài tập. Vì vậy
việc rèn luyện, hướng dẫn học sinh giải các bài tập Vật lí là đặc biệt quan trọng, là
biện pháp rất có hiệu quả để phát triển tư duy Vật lí cho học sinh.
Giải các bài tập Vật lí được xem như là mục đích, là phương pháp dạy học, là
một phương pháp đơn giản để kiểm tra, hệ thống hoá kiến thức, kỹ năng và thói quen
thực hành, cho phép mở rộng và làm sâu sắc kiến thức đã học.
Qua giảng dạy và tìm hiểu thực tế dạy học vật lí ở một số trường THPT miền
núi chúng tôi nhận thấy chất lượng học tập của học sinh còn thấp, học sinh chưa có
hứng thú học tập và đặc biệt đa số học sinh rất ngại làm bài tập.
Có thể kể ra một số thực trạng sau:
* Về phía giáo viên:
- Trình độ năng lực tổ chức hoạt động dạy học của nhiều giáo viên còn hạn
chế, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều.
- Thiếu kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại nên khó
trực quan kiến thức làm cho học sinh giảm niềm tin vào khoa học.
* Về phía học sinh:
- Chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn.
- Lối tư duy thụ động, ít quan tâm đến hiện tượng nên không hiểu bản chất,
nên khi đọc bài tập học sinh rất khó định hướng cách giải mà trông chờ vào sự
hướng dẫn của giáo viên.
- Nhiều học sinh ngại lao động trí óc, do dành nhiều thời gian vui chơi giải
trí nên không chịu suy nghĩ làm bài tập, chỉ chờ “chép” bài của bạn hoặc trong sách
giải bài tập.
- Một yếu tố khách quan là nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn nên các
em có ít thời gian dành cho học tập, có ít tài liệu tham khảo, ít giao lưu, rụt rè, nhút
nhát nên trình độ tư duy lí luận thấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Trước tình hình đó giáo viên cần trau dồi và tự nâng cao kiến thức và năng
lực tổ chức hoạt động dạy học; cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với đối
tượng học sinh và điều kiện thực tế ở vùng miền.
Là giáo viên dạy môn Vật lí ở trường THPT miền núi tôi mong muốn tìm ra
một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn và hạn chế của việc dạy học bài
tập Vật lí ở các trường THPT, góp phần từng bước nâng cao chất lượng dạy và học
ở trường THPT miền núi.
Với những lí do trên chúng tôi xác định đề tài nghiên cứu: “Phát huy tính tích
cực, tự lực của học sinh miền núi khi dạy học bài tập Vật lí chƣơng “Động lực học
vật rắn”(Vật lí 12 - Nâng cao)
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu xây dựng tiến trình dạy học bài tập Vật lí chương “Động lực học
vật rắn” (Vật lí 12- Nâng cao) theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học
sinh THPT miền núi.
III. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Hoạt động dạy - học bài tập Vật lí ở các trường THPT miền núi.
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Việc lựa chọn hệ thống bài tập phù hợp, vừa sức và vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực để tổ chức hoạt động giải bài tập một cách hợp lí có thể phát
huy được tính tích cực, tự lực học tập của học sinh.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu lí luận về vấn đề phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh
- Nghiên cứu lí luận về bài tập Vật lí trong dạy học;
- Điều tra thực trạng dạy học bài tập Vật lí ở một số trường THPT miền núi;
- Tìm hiểu đặc điểm học sinh miền núi;
- Đề xuất một số biện pháp cụ thể phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh
miền núi thông qua hoạt động giải bài tập Vật lí;
- Xây dựng tiến trình dạy học một số chủ đề bài tập chương “Động lực học
vật rắn”;
- Thực nghiệm sư phạm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
VI. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận;
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tổng kết kinh nghiệm, điều tra, khảo sát
thực tế;
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
VII. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận về vấn đề phát huy tính tích cực, tự lực
của học sinh, bài tập trong dạy học vật lí.
- Đề ra các biện pháp cụ thể để tổ chức hoạt động dạy - học bài tập Vật lí
nhằm phát huy tính tích cực, tính tự lực học tập của học sinh THPT miền núi. Luận
văn cũng đóng góp một hệ thống các dạng bài tập chương Động lực học vật rắn
(Vật lí 12 - Nâng cao) và có phân tích việc sử dụng hệ thống bài tập đó trong từng
tiết học theo phân phối chương trình.
- Vận dụng cơ sở lí luận, luận văn đã xây dựng và thực nghiệm tiến trình dạy
học 2 bài học giải bài tập cụ thể thực hiện mục đích đề tài đặt ra. Luận văn cũng đề
xuất và hướng dẫn những bài tập sử dụng trong quá trình xây dựng kiến thức mới và
hướng dẫn học sinh tự học ở nhà.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên
dạy Vật lí ở trường THPT, góp phần từng bước nâng cao chất lượng dạy học Vật lí
ở trường THPT miền núi.
VIII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát huy tính tích cực, tự lực
của học sinh trong dạy học vật lí.
Chƣơng 2: Xây dựng tiến trình dạy học một số chủ đề bài tập chương “Động
lực học vật rắn” (Vật lí 12 - Nâng cao)
Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC, TỰ LỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Những nghiên cứu về việc phát huy tính tích cực, tự lực nhận thức
của học sinh
Vấn đề tổ chức quá trình dạy học có chú ý đến việc phát huy tính tích cực,
sáng tạo của con người không phải là vấn đề mới trong lý luận và thực tiễn dạy học,
nó đã có từ rất sớm cả ở Phương Tây, Phương Đông cũng như ở Việt Nam. Các tác
giả đặt vấn đề nghiên cứu tổ chức quá trình dạy học phát huy tính tích cực nhận thức
nói chung dưới nhiều góc độ và nghiên cứu ở nhiều bình diện khác nhau. Đặc biệt là
những năm gần đây việc dạy học tích cực được đề cập đến khá rầm rộ dưới nhiều
thuật ngữ khác nhau như: “dạy học lấy học sinh là trung tâm”, “dạy học hướng vào
người học”, “dạy học tập trung vào người học”, “phương pháp dạy học tích cực”, “tư
tưởng dạy học tích cực”…Vào khoảng đầu thế kỷ XX phong trào “nhà trường mới”
xuất hiện ở nhiều nước. Trong phong trào này người ta chú ý khuyến khích học sinh
tự tổ chức, sắp xếp kế hoạch, thời gian học tập theo khả năng của mình, tự mình học
cho mình, ai học giỏi thì học nhanh, ai học yếu thì học chậm lại. Chủ chương để trẻ
em hoàn toàn tự do, phát triển theo năng khiếu và khả năng của mình.
Ở Việt Nam tư tưởng dạy học phát huy tính tích cực của người học cũng xuất
hiện từ rất sớm và cũng nhanh chóng trở thành trào lưu rộng khắp do những đòi hỏi
của sự phát triển kinh tế, xã hội cũng như các nhân tố bên trong quá trình dạy học
đặt ra sự bức thiết phải phát triển lý luận dạy học nói chung và phương pháp dạy
học nói riêng. Nhiều công trình nghiên cứu về dạy học phát huy tính tích cực của
các tác giả như: Nguyễn Kỳ: Mô hình dạy học tích cực, lấy người học làm trung
tâm [19]; Phương pháp giáo dục tích cực [20]. Phạm Viết Vƣợng: Bàn về phương
pháp giáo dục tích cực [21]… đã đóng góp không nhỏ cả về lý luận lẫn thực tiễn
vào đổi mới phương pháp dạy học “nhằm hình thành và phát triển những giá trị
nhân cách tích cực, năng động, sáng tạo của học sinh”. Các công trình cũng đã vạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
ra các phương hướng nhằm phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của
người học. Theo tác giả Thái Duy Tuyên: “Cần phát động phong trào cải tiến dạy
học theo hướng phát triển tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh vì đó là phẩm
chất nhân cách rất cơ bản mà ta muốn hình thành” [18].
Về tính tự lực nhận thức, không nhiều công trình nghiên cứu độc lập mà chủ
yếu nghiên cứu cùng tính tích cực. Điển hình là tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
cho giáo viên THPT của Nguyễn Ngọc Bảo: “Phát triển tính tích cực, tính tự lực
của học sinh trong quá trình dạy học”[15]. Trong công trình này, tác giả trình bày
khái niệm tính tích cực, tính tự lực một cách độc lập và mối liên hệ giữa chúng. Đây
là hai khái niệm độc lập, song khi trình bày về phương pháp phát huy tính tích cực,
tự lực nhận thức tác giả trình bày chung với nhau. Không có sự phân biệt rõ ràng
giữa tính tích cực và tự lực để người đọc thấy được các cấp bậc phẩm chất của tư
duy. Trên cơ sở lý luận đó một số luận văn Thạc sĩ đã nghiên cứu các phương pháp
và các biện pháp cụ thể phát huy tính tích cực, tự lực nhận thức của học sinh ứng
dụng trong dạy học một số kiến thức cụ thể, như: Vi Thị Thu (1999), “Một số biện
pháp nhằm phát huy tính tích cực, tự lực nhận thức của học sinh THPT miền núi khi
dạy phần Cơ học -Vật lí lớp 10” [25]; Dƣơng Nghĩa Bộ (2000) “Định hướng hành
động học tập nhằm nâng cao tính tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức vật lí cho học
sinh PTTH miền núi” [28]; …..
1.1.2. Những nghiên cứu về bài tập Vật lí
Thực tế dạy học cho thấy sự cần thiết phải có những công trình khoa học
nghiên cứu nghiêm túc về hoạt động dạy học đối với từng nội dung kiến thức cụ
thể. Nói riêng về phương diện bài tập Vật lí, có thể có vấn đề đặt ra là: trong khuôn
khổ thời gian qui định của chương trình đối với một chương nào đó thì số lượng bài
tập Vật lí có thể sử dụng là bao nhiêu? Đó là những bài tập cụ thể nào? Hoạt động
cụ thể xác định cho mỗi bài tập như thế nào để đạt hiệu quả mong muốn.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về các vấn đề của bài tập Vật lí, đã có rất nhiều
công trình khoa học nghiên cứu vấn đề này. Các nghiên cứu đó đề cập tới nhiều mặt
của bài tập Vật lí với những nội dung cơ bản như: lí luận dạy học về bài tập Vật lí;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Phân loại và phương pháp giải các bài tập Vật lí, các nghiên cứu cụ thể về tiến trình
dạy học bài tập Vật lí ở từng đơn vị kiến thức cụ thể…
Đối với việc phân loại và giải các bài tập Vật lí không chỉ dừng lại ở các
công trình nghiên cứu, hay các báo cáo khoa học, mà đã trở nên phổ biến trong hoạt
động dạy học đó là các giáo trình, như bộ sách “Giải toán Vật lí - lớp 10, 11, 12”
của tác giả Bùi Quang Hân (Chủ biên); cuốn “Bài tập Vật lí sơ cấp” của tác giả
Vũ Thanh Khiết và Phạm Quý Tƣ;…Các tác giả đã thể hiện được cơ bản sự phân
loại và đưa ra phương pháp giải chung, và phương pháp giải cụ thể cho từng phần,
từng nội dung kiến thức, và từng bài tập.
Vấn đề phát huy tính tích cực, tự lực trong hoạt động nhận thức của học sinh
khi dạy học bài tập Vật lí cũng được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu như những
luận văn Thạc sĩ của các tác giả: Lục Thị Na [24]; Nguyễn Thị Mai Anh [26]; Lê Văn
Đình [27]; …..
Bộ sách giáo khoa Vật lí nâng cao của chương trình THPT đã biên soạn
xong, so với chương trình cơ bản và chương trình cải cách giáo dục, thì bộ sách này
có thêm một phần kiến thức mới, đó là chương “Động lực học vật rắn”. Vì mới
được biên soạn xong và đưa vào dạy chính thức ở THPT nên trong tổ chức hoạt
động dạy học, nhiều giáo viên còn gặp nhiều khó khăn về phương pháp. Đặc biệt là
trong tổ chức hoạt động giải bài tập của chương này thì vấn đề làm thế nào để học
sinh tích cực và tự lực nắm vững kiến thức thì cần được nghiên cứu một cách
nghiêm túc.
Để bổ sung những phần mà các tác giả trên chưa đề cập nghiên cứu chúng tôi
lựa chọn đề tài theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh khi dạy học
bài tập vật lí chương “Động lực học vật rắn” (Vật lí 12 - Nâng cao)
1.2. VẤN ĐỀ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC
1.2.1. Khái niệm về tính tích cực nhận thức [10,16,18]
Tính tích cực là các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ
thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ động tìm kiếm tri
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
thức để nâng cao hiệu quả học tập. “Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động
nhận thức của học sinh được đặc trưng ở khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị
lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức”.
Tính tích cực nhận thức vừa là mục đích hoạt động, vừa là phương tiện - điều
kiện để đạt được mục đích, đồng thời là kết quả của hoạt động.
Học tập là một quá trình của nhận thức, thực hiện dưới sự chỉ đạo, tổ chức
hướng dẫn của giáo viên vì vậy nói tới tính tích cực học tập thực chất là nói tới tính
tích cực nhận thức. Tính tích cực học tập biểu hiện ở sự gắng sức cao về nhiều mặt
trong hoạt động học tập.
Như vậy, tính tích cực học tập chính là phẩm chất, là sự cố gắng của mỗi học
sinh. Đối với học sinh trong quá trình học tập đòi hỏi phải có những nhân tố tích
cực lựa chọn thái độ đối với đối tượng nhận thức, đề ra cho mình mục đích, nhiệm
vụ cần giải quyết.
1.2.2. Phân loại tính tích cực nhận thức [10,15]
Tuỳ theo việc huy động và mức độ huy động các chức năng tâm lý nào mà
người ta phân tính tích cực thành ba loại:
- Tính tích cực tái hiện: Chủ yếu dựa vào trí nhớ và tư duy tái hiện.
- Tính tích cực tìm tòi: Đặc trưng bằng sự phê bình, tìm tòi tích cực về mặt
nhận thức, óc sáng kiến, lòng khao khát hiểu biết, hứng thú học tập. Tính tích cực
này không bị hạn chế bởi yêu cầu của giáo viên trong giờ học.
- Tính tích cực sáng tạo: Là mức độ cao nhất của tính tích cực nhận thức, đặc
trưng bằng sự khẳng định con đường riêng của mình, không giống những con
đường mà mọi người đã thừa nhận, đã trở thành chuẩn mực, để đạt được mục đích.
1.2.3. Các mặt của tính tích cực nhận thức: [10] bao gồm 2 mặt:
- Mặt tự phát: là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu
kỳ, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà ở cá nhân nào cũng có, tuỳ
thuộc các mức độ khác nhau.
- Mặt tự giác: là trạng thái tâm lí có mục đích và đối tượng rõ rệt, thể hiện ở
óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học… Tính tích cực nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
thức của học sinh được nảy sinh trong quá trình học tập và là kết quả của nhiều
nguyên nhân. Nhìn chung, tính tích cực nhận thức của học sinh phụ thuộc vào
những nhân tố: hứng thú, nhu cầu, động cơ, năng lực, ý chí, sức khoẻ, môi trường.
Trong những nhân tố trên thì có những nhân tố có thể hình thành ngay, nhưng có
những nhân tố chỉ được hình thành qua một quá trình lâu dài dưới ảnh hưởng của
rất nhiều tác động.
1.2.4. Biểu hiện của tính tích cực nhận thức [10]
Để phát hiện xem học sinh có tích cực hoạt động nhận thức không, cần dựa
vào một số dấu hiệu sau:
+ Học sinh có chú ý học tập không? Có hăng hái tham gia vào các hoạt động
học tập không (thể hiện ở giơ tay phát biểu ý kiến, ghi chép, thái độ học tập…)?
+ Có hoàn thành nhiệm vụ được giao không?
+ Có ghi nhớ tốt những điều đã học không?
+ Có hiểu bài không? Có thể trình bày lại nội dung bài học theo sự hiểu biết
của bản thân không?
+ Có vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn không?
+ Có đọc thêm, làm thêm các bài tập khác không? Tốc độ học tập có nhanh
không? Tích cực nhất thời hay thường xuyên liên tục?
+ Có hứng thú trong học tập không hay vì một ngoại lực nào đó mà phải
học?
+ Có quyết tâm, có ý chí vượt khó khăn trong học tập không?
+ Có sáng tạo trong học tập không?
1.2.5. Các phƣơng pháp dạy học phát huy tính tích cực nhận thức của
học sinh [9,10]
1.2.5.1. Phƣơng pháp tích cực
- Phương pháp dạy học: là cách thức hoạt động có trình tự, phối hợp, tương tác
với nhau của giáo viên và học sinh nhằm đạt được mục đích dạy học.
Nói cách khác: Phương pháp dạy học là hệ thống những hành động có chủ
định, theo một trình tự nhất định của giáo viên và học sinh nhằm tổ chức hoạt động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh, đảm bảo cho họ lĩnh hội được nội
dung dạy học và chính vì vậy đạt được mục đích dạy học.
- Phương pháp tích cực: là một nhóm phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Cần hiểu phương
pháp dạy học tích cực thực chất là cách dạy hướng tới việc học tập chủ động, chống
lại thói quen học tập thụ động.
1.2.5.2. Những đặc trƣng cơ bản của phƣơng pháp dạy học tích cực
* Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy
học hiện nay. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học, biến từ
học thụ động sang tự học chủ động, phát triển tự học ngay trong trường phổ thông,
không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn
của giáo viên.
* Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
Trong phương pháp tổ chức người học được cuốn hút vào các hoạt động học
tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình
chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt.
Người học không rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm
năng sáng tạo của mình. Theo cách dạy học này người giáo viên không chỉ truyền
đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động.
* Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Phương pháp tích cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của mỗi học
sinh trong quá trình tự lực dành lấy kiến thức mới. Tuy nhiên, trong học tập không
phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng con đường thuần tuý cá
nhân mà con đường đi tới chân lí còn được tạo nên qua mối quan hệ hợp tác giữa
các cá nhân trong tập thể. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến của
mỗi cá nhân được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ, qua đó bài học vận dụng được
vốn hiểu biết, kinh nghiệm của mỗi cá nhân và của cả lớp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
* Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Trong học tập, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn tạo điều kiện nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trong phương pháp dạy học tích cực,
giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá và tạo điều kiện để
học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau từ đó để tự điều chỉnh cách học.
Thực hiện phương pháp dạy học tích cực, vai trò của giáo viên không hề
giảm bớt mà lại có yêu cầu cao hơn, giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu
rộng, có kinh nghiệm sư phạm, có óc sáng tạo và nhạy cảm mới có thể tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động độc lập của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự
kiến của giáo viên.
1.2.5.3. Một số phƣơng pháp dạy học tích cực
Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ phương pháp dạy
học truyền thống. Trong hệ thống các phương pháp dạy học quen thuộc đã được sử
dụng trong mấy thập kỉ gần đây cũng đã có nhiều phương pháp tích cực. Việc đổi
mới phương pháp dạy học cần kế thừa và phát triển những phương pháp dạy học đã
quen thuộc, đồng thời cần học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới, phù
hợp với hoàn cảnh, điều kiện ở nước ta, để giáo dục từng bước tiến lên vững chắc.
Theo quan điểm về phương pháp dạy học tích cực, một số phương pháp dạy
học dưới đây cần được quan tâm trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh.
1. Dạy học vấn đáp, đàm thoại
Vấn đáp, đàm thoại là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra các câu hỏi để
học sinh trả lời hoặc tranh luận với nhau, với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội
được nội dung bài học.
Mục đích của phương pháp này là nâng cao chất lượng của giờ học bằng
cách tăng cường hình thức hỏi - đáp, đàm thoại giữa giáo viên và học sinh, rèn
luyện cho học sinh bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề trước tập thể.
Muốn thực hiện điều đó, đòi hỏi giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi phù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
hợp với yêu cầu bài học, hấp dẫn, sát đối tượng, xác định vai trò, chức năng của
từng câu hỏi, mục đích hỏi, các yếu tố kết nối các câu hỏi, thứ tự hỏi. Giáo viên
cũng cần dự kiến các phương án trả lời của học sinh để có thể chủ động thay đổi
hình thức, cách thức, mức độ hỏi, có thể dẫn dắt qua các câu hỏi phụ, tránh đơn
điệu, nhàm chán, nặng nề, bế tắc; tạo hứng thú học tập của học sinh và tăng hấp dẫn
của giờ học.
Căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh, mục tiêu của mỗi hoạt động
nhận thức mà người giáo viên lựa chọn các mức độ vấn đáp cho phù hợp. Có ba
mức độ: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích - minh hoạ và vấn đáp tìm tòi.
- Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ
lại những kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Đây là
một biện pháp được dùng khi cần đặt mối quan hệ giữa kiến thức đã học với kiến
thức mới chuẩn bị tiếp cận, hoặc củng cố kiến thức vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Nhằm mục tiêu làm sáng tỏ một vấn đề nào
đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để làm
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi sử dụng phương
tiện nghe nhìn.
- Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để
hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện
tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi
ý kiến (kể cả tranh lụân) giữa thầy và cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết
một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên giống như người tổ chức sự tìm
tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc
cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự khám phá, trưởng thành thêm một
bước về trình độ tư duy.
2. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề (Dạy học nêu vấn đề)
Nội dung cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là đặt ra trước
học sinh một hệ thống tình huống có vấn đề, những điều kiện đảm bảo việc giải
quyết các vấn đề đó và những chỉ dẫn nhằm đưa học sinh vào con đường tự lực giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
quyết các vấn đề đã đặt ra. Bằng con đường đó, không những học sinh thu được
những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới mà họ còn rèn luyện năng lực tự lực nhận thức
và phát triển được năng lực sáng tạo.
Dạy và học phát hiện và giải quyết vấn đề không chỉ giới hạn ở phạm trù
phương pháp dạy học, nó đòi hỏi cải tạo nội dung, đổi mới cách tổ chức quá trình
dạy học trong mối quan hệ thống nhất với phương pháp dạy học.
Quá trình dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề có thể chia thành 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức:
Công việc của giai đoạn này là
- Tạo tình huống có vấn đề
- Phát hiện và nhận dạng vấn đề nảy sinh
- Phát biểu vấn đề cần giải quyết.
* Giai đoạn 2: Giải quyết vấn đề đặt ra:
Các công việc của giai đoạn này là:
- Đề xuất các giả thuyết
- Lập kế hoạch giải quyết vấn đề
- Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề.
* Giai đoạn 3: Kiểm tra, vận dụng kết quả:
Các công việc cụ thể của giai đoạn này là:
- Thảo luận kết quả và đánh giá
- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu ra
- Phát biểu kết luận
- Đề xuất vấn đề mới.
Tuỳ theo mức độ tham gia của học sinh vào quá trình nghiên cứu và giải
quyết vấn đề, người ta phân chia dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề thành bốn
mức độ:
Mức 1: Giáo viên nêu vấn đề và nêu cách giải quyết vấn đề; học sinh thực
hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết
quả làm việc của học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn
đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống, học sinh phát hiện và
xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp, học
sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo
viên cùng học sinh đánh giá.
Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình
hoặc của cộng đồng, lựa chọn vấn đề phải giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự
đánh giá chất lượng và hiệu quả.
3. Dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ
Là phương pháp dạy học trong đó lớp học (nhóm lớn) được chia thành những
nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người, hoặc nhiều hơn tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp
hoặc yêu cầu của vấn đề học tập, để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm
việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của cả nhóm mình về
vấn đề đó.
Tiến trình của một tiết học (hoặc một buổi học) hoạt động theo nhóm có thể
thực hiện như sau:
Bước 1: Làm việc chung cả lớp
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức;
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ;
- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
- Phân công trong nhóm;
- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm;
- Cử đại diện (hoặc phân công) người trình bày kết quả.
Bước 3: Tổng kết trƣớc lớp
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
- Thảo luận chung;
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong
giờ học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
1.2.6. Các biện pháp phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học
sinh [14,17,18]
Các biện pháp để phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh có
thể được tóm tắt như sau:
- Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu.
- Nội dung dạy học phải mới, cái mới ở đây không phải là xa lạ quá đối với
học sinh, cái mới phải liên hệ với cái cũ; kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi
với sinh hoạt, với suy nghĩ hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận thức của các em.
- Phương pháp dạy học phải đa dạng (phát hiện và giải quyết vấn đề, thí
nghiệm, thực hành, so sánh, làm việc độc lập…) và phối hợp chúng với nhau.
- Sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt là các dụng cụ trực quan có tác
dụng tốt trong quá trình kích thích hứng thú của học sinh.
- Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau: Cá nhân, nhóm, tập thể,
làm việc trong phòng thí nghiệm….
- Thầy giáo, bạn bè động viên, khen thưởng kịp thời khi có thành tích học tập tốt.
- Luyện tập dưới các hình thức khác, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, các
tình huống mới.
- Kích thích tính tích cực qua thái độ, cách ứng xử giữa thầy và trò.
- Phát triển kinh nghiệm sống của học sinh trong học tập.
1.3. VẤN ĐỀ PHÁT HUY TÍNH TỰ LỰC NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
1.3.1. Khái niệm về tính tự lực nhận thức [15]
* Theo nghĩa rộng: Bản chất của tính tự lực nhận thức là sự sẵn sàng về mặt
tâm lí cho sự tự học (tìm hiểu và lĩnh hội tri thức).
* Theo nghĩa hẹp: Tính tự lực nhận thức là phẩm chất tư duy thể hiện ở năng
lực, nhu cầu học tập và tính tổ chức học tập cho phép học sinh tự học.
1.3.2. Biểu hiện của tính tự lực nhận thức [15]
- Ý thức được nhu cầu học tập của mình, yêu cầu của xã hội, của tập thể hoặc
nhiệm vụ do người khác đề ra đối với việc học tập của mình.
- Ý thức được mục đích học tập, thực hiện được mục đích đó, làm thoả mãn
nhu cầu nhận thức của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
- Suy nghĩ kĩ, đánh giá đúng những điều kiện hoạt động học tập của mình,
tích cực hoá những kiến thức, kinh nghiệm đã tích luỹ được có liên quan tới việc
giải quyết nhiệm vụ và yêu cầu học tập. Trên cơ sở đó, xác định những cách thức
hợp lí để giải quyết nhiệm vụ và yêu cầu học tập.
- Dự đoán trước những diễn biến tâm lí: cảm xúc, động cơ, ý chí,... đánh giá
đúng mối tương quan giữa khả năng, nguyện vọng và sự cần thiết phải đạt được kết
quả học tập nhất định.
- Động viên mọi sức lực phù hợp với điều kiện và nhiệm vụ đòi hỏi.
1.3.3. Cấu trúc của tính tự lực nhận thức [15]
Tính tự lực nhận thức có các thành phần cấu trúc như sau:
- Động cơ nhận thức: thể hiện ở nhu cầu nhận thức, hứng thú nhận thức,
động cơ có tính chất xã hội. Thiếu động cơ nhận thức thì không thể diễn ra hoạt
động nhận thức học tập.
- Năng lực học tập: Được đặc trưng bằng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo vững vàng
làm chỗ dựa cho hoạt động nhận thức (thể hiện bằng sự phát triển trí tuệ, phương
pháp suy nghĩ) nhờ đó mà người học có thể dễ dàng tự mình xác định được nhiệm
vụ nhận thức của mình, thay đổi những cách thức hành động của mình để phù hợp
với những hoàn cảnh mới, biết đánh giá đúng những yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Từ đó
mà người học có thể tự lực lĩnh hội tri thức mới từ nguồn nhận thức khác nhau, có
thái độ phê phán, bình phẩm trong học tập, biết vận dụng tri thức đã tiếp thu được
để tự học, để giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn học tập và thực tiễn cuộc sống
đặt ra. Nhờ đó, đủ niềm tin để bảo vệ ý kiến của mình và bảo vệ chân lí.
- Tổ chức học tập: là sự thống nhất giữa phương pháp suy nghĩ và phương
pháp lao động chung của hoạt động tự lực nhận thức (phương pháp lao động chung
bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức lao động học tập và tự kiểm tra kết quả học tập).
Tự kiểm tra là phương tiện kích thích phát triển hơn nữa hoạt động tự lực
nhận thức. Học sinh càng nắm được cách thức kiểm tra thì càng lĩnh hội được tri
thức và việc hình thành kĩ năng, kĩ xảo đạt được kết quả. Từ đó mà tạo cho học sinh
phát triển hứng thú học tập, kích thích nhu cầu hiểu sâu và rộng tri thức. Tự kiểm
tra cũng là sự thể hiện năng lực học tập, tự mình nhận thấy những sai lầm của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
- Hành động ý chí: Thể hiện ở tính mục đích, tính kiên trì, tinh thần khắc
phục khó khăn nhằm thực hiện có kết quả nhiệm vụ học tập.
Bốn thành phần cấu trúc của tính tự lực nhận thức liên hệ mật thiết với nhau,
phụ thuộc và qui định lẫn nhau. Thiếu một trong những thành tố đó thì không biểu
hiện được tính tự lực nhận thức.
1.3.4. Các biện pháp phát huy tính tự lực nhận thức của học sinh [24]
- Tác động vào ý thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú học tập của học sinh:
Giáo viên giúp học sinh hiểu ý nghĩa, lợi ích của việc học tập đối với bản thân.
Động viên, khen thưởng kịp thời học sinh bằng những điểm số hoặc lời khen, chú ý
đến học sinh kém nhưng có tiến bộ dù nhỏ. Xây dựng tình huống có vấn đề, đề ra hệ
thống các nhiệm vụ học tập để kích thích nhu cầu nhận thức của học sinh. Xây dựng
tâm thế hướng tâm lí tích cực cho học sinh khi bắt đầu giờ học. Tổ chức các câu lạc
bộ bộ môn; ...
- Hình thành phương pháp tự học cho học sinh: Giáo viên hướng dẫn học
sinh cách thu nhận kiến thức, cách vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề và biến
tri thức thành kiến thức của chính mình.
- Tạo lập thói quen tự lực trong học tập cho học sinh: Giúp học sinh tự thể
hiện trong học tập theo tinh thần hợp tác: tổ chức thảo luận nhóm, trao đổi trò -trò,
thầy - thầy.
- Giáo viên kiểm tra, định hướng các hoạt động học tập của học sinh và giúp
học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập của mình.
1.4. MỐI LIÊN HỆ GIỮA TÍNH TÍCH CỰC VÀ TÍNH TỰ LỰC NHẬN
THỨC [15]
Theo lí luận dạy học: Cơ sở để hình thành tính tích cực là tính tự giác, tính
tích cực phát triển đến mức nào đó thì nảy sinh tính tự lực. Như vậy, tính tự lực
chứa đựng trong nó cả tính tự giác và tính tích cực, chúng được hình thành và phát
triển dưới ảnh hưởng chủ đạo của giáo viên.
Từ đây ta thấy, tính tích cực nhận thức liên hệ mật thiết với tính tự lực nhận
thức, tính tích cực nhận thức là điều kiện cần thiết của tính tự lực nhận thức, không
thể có tính tự lực nhận thức mà thiếu tính tích cực nhận thức được. Tính tích cực nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
thức là kết quả và biểu hiện của sự nảy sinh, phát triển tính tự lực nhận thức. Trong
tính tự lực nhận thức đã thể hiện tính tích cực nhận thức, đồng thời trong sự thể hiện
đó lại có tác dụng hướng cá nhân đến tính tự lực nhận thức ở mức độ cao hơn.
1.5. BÀI TẬP TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
1.5.1 Khái niệm bài tập Vật lí [9,13]
Trong thực tế dạy học, bài toán vật lí được hiểu là một vấn đề đặt ra đòi hỏi
phải giải quyết nhờ những suy lí lôgíc, những phép toán và thí nghiệm dựa trên cơ
sở các định luật và các phương pháp vật lí.
Bài toán Vật lí, hay đơn giản gọi là các bài tập Vật lí, là một phần hữu cơ của
quá trình dạy học Vật lí vì nó cho phép hình thành và làm phong phú các khái niệm
Vật lí, phát triển tư duy Vật lí và thói quen vận dụng kiến thức Vật lí vào thực tế.
1.5.2. Tác dụng của bài tập Vật lí [9]
Ngày nay trong thực tiễn dạy học vật lí người ta ngày càng chú ý tăng cường
các bài toán vật lí vì chúng đóng vai trò quan trọng trong dạy học và giáo dục học
sinh, đặc biệt trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục kĩ thuật tổng hợp. Các tác
dụng cơ bản của việc sử dụng bài tập trong dạy học Vật lí đó là:
- Giúp cho việc ôn tập, củng cố, mở rộng kiến thức, kĩ năng cho học sinh.
- Bài tập có thể là khởi đầu kiến thức mới.
- Rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn, phát
triển thói quen vận dụng kiến thức một cách khái quát.
- Phát triển năng lực tự lực làm việc của học sinh.
- Phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
- Dùng để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của học sinh.
Có thể thấy, việc giải các bài toán Vật lí được xem là mục đích, là phương
pháp dạy học. Trong dạy học Vật lí, giải các bài toán Vật lí đóng vai trò hết sức
quan trọng, cụ thể:
- Về phương diện giáo dục, giải các bài tập Vật lí sẽ giúp hình thành các
phẩm chất cá nhân của học sinh như tình yêu lao động, trí tò mò, sự khéo léo, khả
năng tự lực, hứng thú đối với học tập, ý chí và sự kiên trì đạt tới mục đích đặt ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
- Việc rèn luyện, hướng dẫn học sinh giải bài tập Vật lí là biện pháp rất hiệu
quả phát triển tư duy Vật lí cho học sinh.
- Trong dạy học, việc giải các bài tập vật lí đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện nguyên tắc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh. Các bài tập Vật
lí gắn với cuộc sống, với kĩ thuật, với thực tiễn sản xuất thường đem lại hứng thú rõ
rệt cho học sinh.
- Giải các bài tập Vật lí là một phương pháp đơn giản để kiểm tra, hệ thống
hoá kiến thức, kĩ năng và thói quen thực hành, cho phép mở rộng, làm sâu sắc các
kiến thức đã học. Việc giải các bài tập Vật lí là công cụ để thực hiện mối quan hệ
liên môn.
- Sử dụng các định luật vật lí, đặc biệt là các định luật bảo toàn, sẽ tạo cơ hội
hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh, phát triển tư duy biện
chứng, đồng thời với tư duy lôgic hình thức.
1.5.3. Phân loại bài tập Vật lí [9,29]
Các bài tập Vật lí khác nhau về nội dung, về phương pháp giải, về mục tiêu
dạy học. Do vậy, việc phân loại bài tập Vật lí cũng có nhiều phương án khác nhau.
1.5.3.1. Phân loại theo nội dung:
Các bài tập vật lí được phân thành: Bài tập cơ học, bài tập nhiệt học, bài tập
điện học, bài tập quang học… Cách chia này cũng có tính quy ước, vì trong nhiều
trường hợp trong một bài toán có sử dụng kiến thức của nhiều phần khác nhau của
giáo trình Vật lí.
Các bài tập cũng có thể phân chia thành các bài tập có nội dung trừu tượng
và các bài tập có nội dung cụ thể.
- Các bài tập có nội dung trừu tượng: chứa đựng các dữ kiện dưới dạng các
kí hiệu, lời giải cũng được biểu diễn dưới dạng một công thức chứa đựng ẩn số và
dữ kiện đã cho. Ưu điểm của các bài tập này là nhấn mạnh bản chất vật lí của hiện
tượng mô tả trong bài tập.
- Các bài tập có nội dung cụ thể: các dữ kiện cho đều dưới dạng các con số
cụ thể, các bài tập cụ thể mang đặc trưng trực quan gắn liền với kinh nghiệm sống
của học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Ngoài ra người ta còn phân ra các bài tập có nội dung kỹ thuật, bài tập có nội
dung lịch sử, bài tập vui.
1.5.3.2. Phân loại theo phƣơng pháp giải:
Theo cách này, người ta phân các bài tập Vật lí thành 4 loại: bài tập định tính,
bài tập định lượng, bài tập thí nghiệm, bài tập đồ thị. Phân loại này có ý nghĩa quan
trọng vì nó cho phép giáo viên lựa chọn bài tập tương ứng với sự chuẩn bị toán học
của học sinh, mức độ kiến thức và sự sáng tạo của học sinh.
a. Bài tập định tính:
Đặc điểm nổi bật của bài tập định tính là ở chỗ trong các điều kiện của bài
toán đều nhấn mạnh bản chất Vật lí của hiện tượng. Giải các bài tập định tính
thường bằng các lập luận logic trên cơ sở các định luật Vật lí.
Khi giải bài tập định tính, học sinh rèn được tư duy logic, khả năng phân tích
hiện tượng, trí tưởng tượng khoa học, kĩ năng vận dụng kiến thức. Vì vậy việc luyện
tập tốt nên bắt đầu từ bài tập định tính.
b. Bài tập định lượng (Bài tập tính toán)
Bài tập định lượng là những bài tập khi giải phải sử dụng các phương pháp
Toán học (dựa trên các định luật và quy tắc, thuyết Vật lí, …). Đây là dạng bài tập
phổ biến, sử dụng rộng rãi trong chương trình Vật lí phổ thông. Dạng bài tập này có
ưu điểm lớn là làm sâu sắc các kiến thức của học sinh, rèn luyện cho học sinh phương
pháp nhận thức đặc thù của Vật lí, đặc biệt là phương pháp suy luận Toán học.
c. Bài tập đồ thị
Bài tập đồ thị là dạng bài tập phân tích đồ thị từ đó tìm các điều kiện giải bài
toán. Dạng bài tập này rèn kĩ năng đọc và vẽ đồ thị cho học sinh. Việc áp dụng
phương pháp đồ thị cho phép diễn đạt trực quan hiện tượng Vật lí, cho cách giải
trực quan hơn, phát triển kĩ năng vẽ và sử dụng đồ thị là các kĩ năng có tác dụng sâu
sắc trong kĩ thuật.
d. Bài tập thí nghiệm
Đây là dạng bài tập trong đó thí nghiệm là công cụ được sử dụng để tìm các đại
lượng cần cho giải bài toán, cho phép đưa ra lời giải hoặc là công cụ kiểm tra các tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
toán phù hợp ở mức độ nào với điều kiện bài toán. Công cụ đó có thể là một thí nghiệm
biểu diễn hoặc một thí nghiệm thực tập của học sinh.
1.5.3.3. Phân loại theo mức độ phức tạp của hoạt động tƣ duy khi tìm lời giải
Qua việc xem xét hoạt động tư duy của học sinh trong quá trình tìm kiếm lời
giải bài tập vật lí phân chia bài tập vật lí thành hai loại: Bài tập cơ bản và bài tập
phức hợp.
- Bài tập cơ bản: là loại bài tập vật lí mà để tìm được lời giải chỉ cần xác lập
mối quan hệ trực tiếp, tường minh giữa những cái đã cho và một cái phải tìm chỉ
dựa vào một kiến thức cơ bản vừa học mà học sinh chỉ cần tái hiện chứ không thể tự
tạo ra.
- Bài tập phức hợp: là các bài tập vật lí mà trong đó, việc tìm lời giải phải
thực hiện một chuỗi lập luận lôgic, biến đổi toán học qua nhiều mối liên hệ giữa
những cái đã cho, cái phải tìm với những cái trung gian không cho trong đầu bài.
Việc xác lập mối liên hệ trung gian đó là một bài tập cơ bản. Và do đó, muốn giải
được một bài tập phức hợp, buộc phải giải được thành thạo các bài tập cơ bản,
ngoài ra còn phải biết cách phân tích bài tập phức hợp để quy nó về các bài tập cơ
bản đã biết.
1.5.4. Các bƣớc giải bài tập Vật lí [9]
Mặc dù các bài tập Vật lí khác nhau về loại và mục đích sử dụng trong dạy
học, song trong thực tế người ta cũng thừa nhận một quan điểm chung về một quá
trình giải bài tập Vật lí. Theo quan điểm đó người thầy không chỉ đơn giản trình bày
cho học sinh cách giải mà phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng học sinh
trong quá trình giải bài tập, cần dạy học sinh tự lực giải bài tập Vật lí. Quá trình giải
một bài tập Vật lí, đặc biệt là giải bài tập phức tạp có thể chia thành các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề bài
- Đọc kĩ đề bài để xác định rõ các điều kiện và làm rõ ý nghĩa các thuật ngữ,
các cụm từ quan trọng.
- Tóm tắt đề bài, có thể sử dụng các kí hiệu, hình vẽ hoặc sơ đồ nếu cần thiết.
Khi tóm tắt đề bài cần kiểm tra và đổi đơn vị của các đại lượng về cùng một hệ
thống đơn vị (thông thường là dùng đơn vị trong hệ SI).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Bước 2: Phân tích hiện tƣợng
Ở bước này cần phân tích nội dung bài tập với mục đích làm rõ bản chất Vật
lí của các hiện tượng được mô tả trong bài, gợi lại trong đầu óc học sinh những khái
niệm, định luật có liên quan, cần thiết cho việc giải bài tập.
Bước 3: Giải bài tập
Ở bước này có thể thực hiện theo các bước sau:
- Lập kế hoạch giải bài tập, bổ sung các điều kiện bằng hằng số Vật lí hoặc
bảng số liệu, phân tích các bảng số liệu, phân tích các đồ thị (nếu có).
- Tìm quy luật liên hệ các đại lượng phải tìm với các đại lượng đã cho, viết ra
các công thức tương ứng.
- Lập các phương trình dưới dạng tổng quát hoặc lắp ráp các thí nghiệm cần
thiết (bài tập thí nghiệm) cho việc giải bài toán.
- Giải phương trình để tìm ẩn số (hoặc phân tích các số liệu thực nghiệm).
Bước 4: Biện luận
- Phân tích lời giải hoặc đáp số (biện luận), đánh giá ảnh hưởng của các số
gần đúng trong điều kiện của bài toán.
- Thảo luận tìm kiếm cách giải khác, lựa chọn cách giải phù hợp, mở rộng
bài toán, …
Trong các bước giải bài tập nêu trên, bước thứ nhất và bước thứ hai rất quan
trọng, nó đóng vai trò quyết định phương pháp giải bài tập.
1.5.5. Hƣớng dẫn học sinh giải bài tập vật lí [9,11]
Muốn hướng dẫn học sinh giải một bài toán cụ thể nào đó thì trước hết giáo
viên phải giải được bài toán đó, nhưng như vậy chưa đủ. Muốn cho việc hướng dẫn
giải bài toán được định hướng một cách đúng đắn, giáo viên phải phân tích được
phương pháp giải bài toán cụ thể, bằng cách vận dụng những hiểu biết về tư duy giải
bài toán vật lí để xem xét việc giải bài toán cụ thể. Mặt khác phải xuất phát từ mục
đích sư phạm cụ thể của việc cho học sinh giải bài toán để xác định kiểu hướng dẫn
phù hợp. Điều này có thể được minh hoạ bằng sơ đồ sau đây:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
* Trong thực tế dạy học, thường vận dụng ba hình thức cơ bản sau để hướng
dẫn học sinh giải bài tập vật lí:
1. Giáo viên phân tích, ghi lên bảng các bài tập điển hình hoặc tương đối
phức tạp, nêu các câu hỏi, tổ chức và động viên tập thể học sinh tham gia vào công
việc giải bài toán đặt ra.
2. Giáo viên tổ chức cả lớp phân tích và thảo luận, một học sinh ghi cách giải
lên bảng, để có hiệu quả giáo viên nên dành thời gian để từng học sinh có thời gian
suy nghĩ và làm việc độc lập, tự lực.
3. Giáo viên nêu đề bài còn học sinh tự suy nghĩ giải quyết, ngoài việc thực
hiện vai trò cố vấn cho học sinh khi cần thiết (gợi ý, giải đáp các thắc mắc, chỗ
chưa rõ của đầu bài…). Giáo viên cần kiểm tra kết quả công việc của từng học sinh,
uốn nắn và hệ thống hoá các sai sót, ưu nhược điểm chung của học sinh khi tổng kết
bài giải.
1.6. TÌM HIỂU THỰC TRẠNG DẠY HỌC BÀI TẬP VẬT LÍ Ở MỘT SỐ
TRƢỜNG THPT MIỀN NÚI
1.6.1. Mục đích
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi điều tra, khảo sát thực trạng
dạy học bài tập Vật lí với mục đích:
- Tìm hiểu về cơ sở vật chất phục vụ dạy học;
- Tìm hiểu việc sử dụng các phương pháp dạy học bài tập Vật lí, những thuận lợi
và khó khăn trong dạy và học bài tập vật lí của giáo viên và học sinh THPT miền núi;
- Tìm hiểu tính tích cực và tự lực giải bài tập vật lí của học sinh miền núi;
- Trên cơ sở điều tra thực tế, phân tích hạn chế, khó khăn để tìm ra nguyên
nhân, biện pháp khắc phục nhằm phát huy tính tích cực và tính tự lực học tập của
học sinh qua các giờ giải bài tập Vật lí.
Tư duy giải bài
toán vật lí
Phân tích Phương pháp
giải bài toán cụ thề
Mục đích
sư phạm
Xác định
kiểu hướng dẫn
Phương
pháp
hướng
dẫn giải
bài toán
cụ thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
1.6.2. Phƣơng pháp
Để đạt được mục đích nói trên, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp:
- Điều tra qua giáo viên: Trao đổi trực tiếp, dùng phiếu điều tra, hỏi ý kiến,
xem giáo án, dự giờ;
- Trao đổi với lãnh đạo nhà trường, tổ trưởng tổ chuyên môn, tham quan các
phòng dạy học bộ môn;
- Điều tra qua học sinh: trao đổi trực tiếp, dùng phiếu điều tra.
1.6.3. Kết quả điều tra
Chúng tôi đã thực hiện điều tra, trao đổi với giáo viên và học sinh lớp 12
THPT ở các trường trên địa bàn tỉnh Bắc Giang: Trường THPT Tân Yên số 1;
Trường THPT Sơn Động số 1; Trường THPT Lục Nam. Căn cứ vào thông tin thu
nhận được qua điều tra, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau đây:
1.6.3.1. Cơ sở vật chất và đồ dùng dạy học
- Nhìn chung cả ba trường chúng tôi điều tra đều thiếu phòng học vì thế học
sinh phải học hai ca.
- Về phòng thí nghiệm và dụng cụ thí nghiệm vật lí cơ bản đầy đủ và đồng
bộ, nhưng ít được sử dụng và nếu sử dụng chưa đem lại hiệu quả cao vì các nguyên
nhân sau:
+ Giáo viên chưa được tập huấn đầy đủ về cách sử dụng các thiết bị thí
nghiệm nên chưa khai thác hết được tác dụng của thí nghiệm và đôi khi làm thí
nghiệm chưa khớp với nội dung lí thuyết.
+ Chưa có cán bộ chuyên trách phòng thí nghiệm.
+ Giáo viên các trường thường phải làm thêm giờ, dạy hai ca nên không có
đủ thời gian để nghiên cứu, chuẩn bị thí nghiệm cho tiết học. Do đó nếu sử dụng
cũng không đem lại hiệu quả mong muốn.
- Về phòng học bộ môn và thiết bị dạy học hiện đại: các trường đều có phòng
học chuyên môn, mỗi trường đều có hai phòng học chung (phòng học giáo án điện
tử). Các trường đều được trang bị các thiết bị dạy học hiện đại như máy vi tính, máy
chiếu projector, máy chiếu vật thể (camera), các phần mềm dạy học… Nhưng việc sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
dụng các thiết bị vẫn chưa thường xuyên và chưa đem lại hiệu quả cao do giáo viên
miền núi còn hạn chế về tin học và không có đủ thời gian thích đáng để nghiên cứu
ứng dụng tin học trong dạy học.
- Về SGK và tài liệu tham khảo: học sinh các trường đều có đủ SGK, SBT và
cũng có đến 40% số học sinh được hỏi là có sách tham khảo môn vật lí để phục vụ
cho việc học tập và ôn luyện thi.
1.6.3.2. Tình hình học tập của học sinh:
Qua điều tra bằng phiếu thăm dò, tham khảo các sổ điểm, các bài kiểm tra
chất lượng của học sinh, trao đổi trực tiếp với giáo viên, học sinh và dự giờ chúng
tôi thu được những kết quả sau:
Chất lượng học tập các môn của học sinh miền núi tương đối thấp, trong đó
chất lượng môn vật lí rất thấp, điều đó thể hiện rõ qua tỉ lệ chất lượng bộ môn: tỉ lệ
khá, giỏi chỉ chiếm khoảng 10%, số học sinh giỏi chiếm tỉ lệ rất ít; 50% trung bình,
còn lại là yếu kém.
Tìm hiểu về những khó khăn của học sinh khi giải bài tập cho thấy: đa số học
sinh được hỏi cho rằng không xác định được phương hướng giải bài tập (80%);
30% không hiểu và tóm tắt được đầu bài; 50% không nhớ lý thuyết; 60% không biết
vận dụng lý thuyết vào giải bài tập; 20% gặp khó khăn trong tính toán.
Tìm hiểu về mức độ tích cực, tự lực học môn vật lí và giải bài tập vật lí:
+ Nhiều học sinh cho rằng chỉ học bài khi giáo viên cho biết trước là sẽ có
bài kiểm tra, hoặc chuẩn bị thi học kì (60%); 45% chỉ học tối hôm trước nếu hôm
sau có giờ vật lí; không có học sinh nào học thường xuyên vào các buổi trong tuần.
+ Có 15% học sinh đánh giá khả năng tự lực học của mình ở mức khá hoặc
tốt; 40% cho là trung bình; còn lại tự đánh giá là yếu.
+ Đa số học sinh được hỏi đều cho rằng chỉ giải những bài tập được giao về
nhà (80%); số ít cho rằng làm hết các bài tập trong SGK, SBT (5%), và cũng có
những học sinh không bao giờ làm bài tập.
+ Khi gặp phải bài tập khó thì số ít cho rằng đọc kĩ lại lí thuyết rồi tiếp tục
suy nghĩ, hoặc trao đổi thảo luận với bạn bè (10%); đa số học sinh thường xem
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
hướng dẫn trong sách giải bài tập (40%); nhiều học sinh đợi giáo viên chữa rồi chép
lại (50%).
Vấn đề học sinh quan tâm khi giải bài tập vật lí: phần lớn các em quan tâm
đến việc tìm ra đáp án cho bài toán; những học sinh trung bình, yếu thì quan tâm
đến độ khó hay dễ của bài toán. Số học sinh quan tâm đến tính thực tiễn của hiện
tượng nêu ra trong bài toán thì không nhiều (10%).
Những điều ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của học sinh miền núi về
môn vật lí, qua điều qua, trò chuyện với học sinh chúng tôi nhận thấy có nhiều yếu
tố: do hoàn cảnh gia đình khó khăn, do năng lực nhận thức của bản thân còn hạn
chế, khả năng tư duy trừu tượng còn kém, tính mạnh dạn hay rụt rè của bản
thân,…Các em cũng rất mong muốn mình học tốt môn vật lí, giải được các bài tập
để có thành tích cao trong học tập, và để hiểu được những hiện tượng trong đời
sống có liên quan đến kiến thức vật lí.
Về chương Động lực học vật rắn: các em cho rằng đây là chương mới mà
phải vận dụng nhiều kiến thức nên các em chỉ làm được những bài tập dễ và trả lời
được những câu hỏi đơn giản, còn những bài tập phức tạp thì các em không biết
cách phân tích hiện tượng xảy ra và không biết tìm phương hướng giải. Chỉ có 40%
học sinh trả lời đúng các câu hỏi đưa ra trong phiếu thăm dò, còn lại các em cũng
trả lời được 2 đến 3 câu.
1.6.3.3. Tình hình dạy của giáo viên
Các giáo viên vật lí khi được hỏi ý kiến đều cho biết là đã có sự tìm hiểu và
vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh
như vấn đáp-đàm thoại, phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học theo nhóm
nhỏ,…Tuy nhiên, tuỳ theo năng lực sư phạm mà khả năng vận dụng đem lại hiệu
quả là khác nhau. Các đồng chí cũng cho biết là phương pháp diễn giảng, thuyết
trình - hỏi đáp vẫn sử dụng chủ yếu vì như vậy mới truyền tải hết nội dung kiến
thức trong một bài học cho học sinh.
Tìm hiểu về mục đích chính của giờ bài tập: đa số các giáo viên đều cho là
nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức lí thuyết, và rèn luyện phương pháp giải bài tập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Nhưng thực tế cho thấy việc lựa chọn bài tập của giáo viên cũng chưa có mục đích
rõ ràng, chưa đầu tư đúng mức cho việc lựa chọn hệ thống bài tập, thường chỉ lấy
ngay những bài tập trong SGK, và số ít trong SBT để cho học sinh làm.
Về hình thức tổ chức giải bài tập trong các giờ lên lớp: 30% cho biết là giáo
viên chữa bài, học sinh ghi chép; 50% cho biết là một học sinh chữa bài, giáo viên
nhận xét, cả lớp chép. Còn hình thức giáo viên nêu bài toán, cho học sinh suy nghĩ,
thảo luận, phân tích để giải chỉ khoảng 20%. Điều đó cho thấy quá trình giải bài tập
chưa phải là quá trình hướng dẫn học sinh giải bài tập, chưa phát huy được tính tích
cực và tự lực giải bài tập của học sinh. Trong quá trình giáo viên chữa bài cho học
sinh thì thông thường giáo viên chỉ giải thích cách làm của mình mà không chú ý
đến phát triển năng lực tự lực giải quyết vấn đề của học sinh, hoặc chỉ hướng dẫn
theo kinh nghiệm chứ không theo một kế hoạch nào.
Các giáo viên cho rằng 20% học sinh hứng thú trong giờ bài tập, 20% có khả
năng tự lực giải bài tập, số học sinh giải được bài tập bằng nhiều cách rất ít, mà
phần lớn là chỉ giải được khi đã chỉ rõ từng bước cần thực hiện. Trong các giờ bài
tập nhiều giáo viên cho biết là học sinh không hăng hái bằng khi học lí thuyết
(50%), thậm chí nhiều học sinh có tâm lí ngại học giờ bài tập vì sợ bị kiểm tra bài
cũ, kiểm tra việc làm bài tập ở nhà hoặc bị gọi lên bảng giải bài tập.
Việc soạn một giáo án cho một tiết bài tập lên lớp của giáo viên đa số chỉ là
giải sẵn bài tập vào giáo án chứ không có hệ thống các câu hỏi định hướng.
1.6.3.4. Phân tích những nguyên nhân và biện pháp khắc phục
* Về phía giáo viên:
- Nguyên nhân:
+ Phương pháp dạy học theo cách cũ lâu ngày, áp lực công việc nhiều gây
nên tư tưởng ngại đổi mới. Thậm chí nhiều giáo viên có quan niệm sai lầm là không
thể áp dụng được các phương pháp dạy học tích cực, tiên tiến đối với học sinh miền
núi, vì học sinh miền núi nhận thức chậm sẽ không truyền tải được nhiều nội dung
kiến thức trong một tiết học.
+ Kiến thức về phương pháp và đổi mới phương pháp dạy học còn chưa được
cập nhật hoặc được cập nhật nhưng chưa biết vận dụng thực hành trong giảng dạy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
+ Điều kiện kinh tế của giáo viên còn nhiều khó khăn, nên nhiều giáo viên
ngoài giờ lên lớp phải tăng gia sản xuất hoặc làm thêm công việc khác để tăng thêm
thu nhập. Bên cạnh đó do điều kiện công tác nhiều giáo viên phải làm kiêm nhiệm,
làm thêm giờ.
+ Nhiều giáo viên chưa chịu khó tìm hiểu nguồn tài liệu tham khảo có liên
quan đến kiến thức vật lí để đưa vào bài giảng, chưa chịu nghiên cứu thêm những
dạng bài tập để bồi dưỡng cho học sinh.
- Biện pháp khắc phục:
+ Cần tăng cường bồi dưỡng và tự bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; tích
cực tìm hiểu và thường xuyên ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực vào thực
tế bài giảng. Học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp nhằm tìm ra biện
pháp hữu hiệu đối với quá trình dạy học thực tế ở trường mình công tác.
+ Tăng cường đọc và tìm hiểu các tài liệu tham khảo để thấy được ý nghĩa
thực tiễn của việc ứng dụng các kiến thức vật lí phổ thông trong đời sống, trong kĩ
thuật để làm phong phú hơn cho bài giảng và tạo cho học sinh có được niềm tin và
tình yêu môn vật lí. Tích cực sưu tầm và nghiên cứu những bài tập theo từng chủ đề
kiến thức để tạo ra lôgic giữa các chương, các phần.
* Về phía học sinh:
- Nguyên nhân:
+ Do điều kiện kinh tế khó khăn, nên các em phải vừa học vừa làm thêm
công việc nhà để giúp đỡ gia đình. Do đó thời gian và điều kiện đầu tư cho học tập
không nhiều.
+ Do các em ít được giao lưu với các hoạt động xã hội, ít được có cơ hội thể
hiện mình, nên các em rụt rè. Khả năng tư duy trừu tượng kém nên các em ngại làm
bài tập, ngại suy nghĩ những vấn đề phức tạp.
+ Nhiều em chưa có động cơ học tập đúng đắn, chưa có biện pháp học tập
phù hợp và hiệu quả.
+ Ngoài ra, còn do sự tác động mạnh mẽ của các tệ nạn xã hội, các trò chơi,
giải trí trên mạng Internet đã làm phân tán về tư tưởng và về thời gian học tập của
học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
- Biện pháp khắc phục:
+ Tạo môi trường thân thiện, gần gũi, động viên khích lệ kịp thời sự cố gắng
trong học tập của các em, để các em có được sự tự tin trong giao tiếp, trong học tập.
Hướng dẫn cách học và ra những bài tập vừa sức với trình độ tư duy của các em để
nâng cao năng lực tự lực học tập cho học sinh.
+ Tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh, phối hợp với nhà
trường, gia đình và các tổ chức xã hội để giáo dục và giúp đỡ học sinh.
* Về phía nhà trƣờng và các cấp quản lí giáo dục:
- Cần tạo điều kiện về thời gian và kinh tế để giáo viên yên tâm công tác, học
sinh chăm chỉ học tập, quan tâm đến đời sống của giáo viên và học sinh.
- Cần quan tâm đến việc bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn và nghiệp
vụ cho giáo viên, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học.
- Trang bị phòng học và phương tiện phục vụ dạy học đảm bảo cho hoạt động
dạy học được thực hiện đầy đủ và có hệ thống và phù hợp với yêu cầu của bộ môn.
- Tạo môi trường sư phạm trong học đường, phối hợp với gia đình, xã hội để
quản lí giáo dục, giúp đỡ học sinh. Chú trọng rèn luyện đạo đức đi đôi với học tập
kiến thức.
1.7. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC HỌC
TẬP BÀI TẬP VẬT LÍ CỦA HỌC SINH THPT MIỀN NÚI
1.7.1. Đặc điểm học sinh miền núi [22,28]
Qua quá trình tìm hiểu và thực tế dạy học ở trường THPT miền núi chúng tôi
có thể tóm tắt một số đặc điểm của học sinh THPT miền núi như sau:
* Về điều kiện kinh tế - xã hội: Đa phần gia đình học sinh là nông thôn thu
nhập thấp, kinh tế không ổn định. Dân cư sống ở những vùng có địa hình khó khăn,
sống xa nhau, xa trường. Điều kiện phương tiện thiếu thốn nên đi lại khó khăn, điều
đó gây cản trở không ít đến việc học tập của các em.
* Về ngôn ngữ tiếng Việt: Do phần đa các em là người dân tộc thiểu số, hoàn
cảnh sống khó khăn, ít được tiếp xúc với các phương tiện hiện đại nên ngôn ngữ tiếng
Việt còn nghèo, nhiều khi trong lớp các em giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng của dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
mình; kĩ năng đọc, diễn đạt câu, phát âm các thuật ngữ khoa học nhiều khi chưa chính
xác. Kĩ năng viết và diễn đạt bài kiểm tra còn lủng củng và không lôgic.
* Về khả năng tư duy của học sinh: Học sinh miền núi thường tư duy chậm,
khi gặp tình huống phức tạp thường ngỡ ngàng bối rối, không nhanh chóng tìm ra
phương án giải quyết vấn đề.
Khả năng tư duy trừu tượng, tư duy lôgic, tư duy biện chứng chưa cao, các
em thường xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ riêng lẻ, tĩnh và đơn giản.
Các em quen với tư duy cụ thể, tiếp thu tri thức theo kiểu bắt chước, dập khuôn,
máy móc. Nên khi gặp bài toán phức tạp các em thường không tích cực suy nghĩ mà
chờ sự hướng dẫn của giáo viên hoặc của người khác.
Khả năng vận dụng liên hệ giữa lí thuyết với thực tiễn còn hạn chế. Khả năng
phân tích, tổng hợp, so sánh còn yếu hơn so với học sinh miền xuôi và thành thị.
* Về nhân cách trong giao tiếp: Các em sống hồn nhiên, vô tư, có tình cảm
yêu - ghét rõ ràng. Có lòng tự trọng cao, bản tính thật thà, nhiệt tình và trách nhiệm
trong công việc. Nhưng học sinh miền núi cũng rụt rè, ít nói và có lòng tự ti dân tộc
rất cao.
1.7.2. Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự lực học tập bài tập
Vật lí của học sinh THPT miền núi
Trên cơ sở phân tích lí luận về tính tích cực, tính tự lực nhận thức của học
sinh, tìm hiểu đặc điểm học sinh miền núi và thực trạng dạy học bài tập vật lí của
học sinh THPT miền núi, chúng tôi đưa ra một số biện pháp nhằm phát huy tính tích
cực và tự lực của học sinh miền núi qua rèn luyện giải bài tập vật lí như sau:
a. Lựa chọn bài tập phù hợp vừa sức với học sinh miền núi
- Hệ thống bài tập được lựa chọn cần chú ý đến yêu cầu đảm bảo cho học
sinh nắm vững kiến thức, rèn luyện kĩ năng vận dụng thực hành giải bài tập; đồng
thời phải chú ý sao cho vừa sức với học sinh để gây được hứng thú cho học sinh đối
với công việc giải bài tập. Từ đó phát huy được tính tích cực và tự lực trong học tập
của học sinh.
- Để kích thích hứng thú cho học sinh nên chọn những bài tập có nội dung
thực tế, gần gũi với đời sống, sản xuất của các em. Ngoài ra cũng cần lựa chọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
những bài tập mang những yếu tố nghiên cứu, mở rộng, nâng cao nhằm phát triển
năng lực tư duy và sáng tạo cho học sinh, để học sinh không chỉ áp dụng một cách
máy móc các công thức vật lí mà cần suy nghĩ sâu sắc, cẩn thận, vận dụng linh hoạt
các kiến thức để giải bài tập. Khi học sinh đã tìm ra phương hướng giải thì sẽ gây
được hứng thú cho bản thân, từ đó phát huy được năng lực tự lực giải bài tập.
- Hệ thống bài tập được lựa chọn phải thoả mãn các yêu cầu sau:
+ Số lượng bài tập trong hệ thống phải phù hợp với thời lượng của chương
trình học, thời gian học ở nhà của học sinh. Tránh sự quá tải để học sinh ngại học.
+ Các bài tập được sắp xếp trong mỗi chủ đề phải từ dễ đến khó, phù hợp với
nội dung kiến thức cần vận dụng và trình độ tư duy của học sinh.
+ Hệ thống bài tập phải góp phần khắc phục những khó khăn chủ yếu, những
sai lầm phổ biến của học sinh trong học tập, làm rõ được những kiến thức mà lí
thuyết đề cập chưa đầy đủ.
+ Mỗi bài tập phải đóng góp một phần nào đó vào việc nắm vững kiến thức và
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức đã chiếm lĩnh được, phát triển được năng lực của
học sinh trong việc giải quyết các vấn đề học tập và thực tiễn. Mỗi bài tập sau phải đem
lại cho học sinh một điều mới lạ nhất định và một khó khăn vừa sức.
- Để lựa chọn được hệ thống bài tập phù hợp với học sinh, giáo viên có thể
tiến hành như sau: xác định kiến thức cơ bản học sinh cần nắm vững, các kĩ năng
cần rèn luyện cho học sinh trong mỗi chủ đề. Từ đó lựa chọn các bài tập cho mỗi
chủ đề có yếu tố mới cần vận dụng giải bài tập mà trước khi học kiến thức ấy học
sinh không thể nghĩ ra được.
b. Sử dụng phối hợp các phƣơng pháp và các phƣơng tiện dạy học hiện
đại khi giải bài tập vật lí
- Sử dụng phương pháp mô hình, phương pháp tương tự trong dạy học bài
tập vật lí với sự hỗ trợ của phương tiện dạy học hiện đại: sử dụng máy vi tính, máy
chiếu dễ dàng đưa ra các bảng so sánh, đối chiếu một cách nhanh chóng; hoặc trình
chiếu đồng thời các hiện tượng, các quá trình có tính tương tự để học sinh dễ dàng
thực hiện các thao tác tư duy tương tự. Ngoài ra sử dụng máy vi tính có thể tạo ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
các mô hình: hình vẽ tĩnh, hình động, phần mềm mô phỏng,...có thể giúp học sinh
dễ nhận ra bản chất của hiện tượng nêu ra trong bài toán, thay vì dùng lời để mô tả
học sinh khó tưởng tượng hơn. Từ đó giúp cho các em định hướng và tìm tòi cách
giải quyết bài toán nhanh chóng và chính xác hơn.
- Sử dụng phương pháp thí nghiệm lí tưởng với sự hỗ trợ của phương tiện
dạy học hiện đại khi giải bài tập vật lí: các thí nghiệm lí tưởng thường khó thực hiện
trong điều kiện phòng thí nghiệm ở trường phổ thông, nên giáo viên thường dùng
lời để mô tả cùng với các hình vẽ tĩnh. Để tăng cường tính hiệu quả của phương
pháp thí nghiệm lí tưởng giáo viên có thể sử dụng các phần mềm dạy học để giới
thiệu các thí nghiệm với tính trực quan cao.
Nhờ phối hợp các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại để hỗ trợ
trong quá trình dạy học đã phát huy tốt tính tích cực và tự lực giải bài tập vật lí của
học sinh.
c. Tổ chức hoạt động học tập tích cực, tự lực giải bài tập vật lí
* Tạo tình huống có vấn đề trong giải bài tập vật lí
Giáo viên soạn thảo những nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề tương ứng với nhiệm
vụ cần thực hiện giải bài tập để giao cho học sinh, sao cho nhiệm vụ đó được học
sinh hăng hái đảm nhận thực hiện theo sự suy nghĩ của mình. Tất yếu học sinh sẽ
gặp khó khăn, ý thức được vấn đề và do khó khăn là vừa sức nên học sinh có thể tự
chủ, tích cực suy nghĩ tìm tòi để vượt qua khó khăn để giải quyết vấn đề. Trong sự
khó khăn đó, cùng với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên, học sinh sẽ xây dựng
được cho mình tri thức khoa học sâu sắc, vững chắc và có thể vận dụng được ở
những giai đoạn sau. Từ đó năng lực tự lực cùng với sự tích cực của học sinh sẽ
được nâng cao.
* Phát huy tác dụng của việc trao đổi giữa các cá nhân và hợp tác trong
nhóm nhỏ
Các cá nhân trong một lớp học có trình độ tư duy không đồng đều tuyệt đối
nên trước mỗi vấn đề, mỗi chủ đề kiến thức thì mỗi học sinh sẽ có một sự hiểu biết
nhất định.
Trong quá trình giải bài tập vật lí, sự hình thành tri thức của học sinh sẽ được
tạo thuận lợi và có hiệu quả hơn nhờ sự trao đổi, tranh luận giữa các thành viên. Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
hợp tác trong một nhóm giúp các thành viên chia sẻ băn khoăn, kinh nghiệm của
bản thân. Bài học trở thành sự tự học hỏi lẫn nhau không phải chỉ là sự tiếp nhận
thụ động từ giáo viên.
Thông qua việc trao đổi giữa các cá nhân giúp cho mỗi học sinh tự sửa sai,
có chủ kiến trước những vấn đề tìm ra: đúng hay sai, phù hợp hay chưa phù hợp.
Khi học sinh giải được bài tập sẽ kích thích được hứng thú từ đó phát huy
được tính tích cực và tự lực của bản thân.
* Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ qua hình thức vấn đáp - đàm thoại
Khi giải quyết một vấn đề nêu ra, không đơn thuần chỉ là sự độc thoại của
chỉ riêng giáo viên hoặc riêng học sinh. Giáo viên cần nêu ra những câu hỏi phù hợp
và sát với yêu cầu của bài học để học sinh trả lời hoặc tranh luận với nhau, với cả
giáo viên, qua đó học sinh có phương hướng để tìm ra lời giải cho bài toán.
Đối với những bài toán phức tạp hoặc có nhiều yếu tố mới đối với khả năng
tự lực giải bài tập của học sinh thì giáo viên sử dụng hình thức vấn đáp-đàm thoại
để dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề. Hoặc khi cần tìm hiểu đề bài thì giáo viên
cũng cần đưa ra những câu hỏi giúp học sinh định hướng được những cái cần tìm
trong bài toán.
Thông qua những câu hỏi giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh đi đến cái đích
cần tìm, vừa tạo được sự gần gũi giữa thầy và trò, từ đó tạo cho học sinh có được
niềm tin và kích thích được tính tích cực và tự lực giải bài tập.
d. Chú trọng rèn luyện những kĩ năng cơ bản, cần thiết trong quá trình
giải bài tập
- Kĩ năng thực hiện các phép toán: cộng, trừ, nhân, chia, rút gọn phân số, giải
phương trình, vẽ đồ thị, ... rèn thao tác bấm máy tính, cách sử dụng máy tính để tìm
nghiệm phương trình, hệ phương trình.
- Kĩ năng nói, diễn đạt một vấn đề trước tập thể. Kĩ năng viết, trình bày lời
giải bài tập, trình bày bài kiểm tra rõ ràng, mạch lạc, khoa học.
- Kĩ năng viết đúng đơn vị đo của các đại lượng, cách tìm đơn vị đo của các
đại lượng từ các công thức tính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Khi học sinh đã giải được một bài toán, biết trình bày một cách khoa học, và
biết diễn đạt trước đám đông thì họ sẽ tự tin và từ đó khích lệ được nhiệm vụ giải
bài tập tiếp theo.
e. Kiểm tra, đánh giá và khuyến khích sự tự kiểm tra, đánh giá của học
sinh khi giải bài tập vật lí
* Tiến hành kiểm tra, đánh giá: việc kiểm tra, đánh giá có thể được tiến hành
ở sau mỗi chủ đề kiến thức, mỗi chương, mỗi phần; ở đầu hoặc cuối giờ học thậm
chí ngay trong tiến trình của giờ dạy học. Giáo viên có thể sử dụng các phương tiện
dạy học như máy vi tính, máy chiếu để hỗ trợ đưa hệ thống câu hỏi và bài tập để
kiểm tra nhanh ở đầu hoặc cuối mỗi giờ học; sử dụng các phần mềm dạy học như
powerpoint, violet để thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá: trắc nghiệm khách
quan, trắc nghiệm tự luận, trò chơi ô chữ, câu hỏi điền khuyết... nhằm gây hứng thú
cho học sinh. Và giáo viên cũng có thể kiểm tra nhanh chóng kết quả hoạt động giải
bài tập của học sinh nhờ sử dụng máy chiếu, máy vi tính.
* Khuyến khích sự tự kiểm tra, đánh giá của học sinh khi giải bài tập vật lí
Để vai trò độc lập, tự lực của học sinh được nâng cao thì giáo viên tập dượt
cho học sinh tự kiểm tra đánh giá trong quá trình giải bài tập vật lí. Mỗi câu trả lời,
mỗi bước thực hiện giải bài tập cần tự kiểm tra lại bằng cách đặt ra các câu hỏi như:
+ Câu trả lời có phù hợp với yêu cầu câu hỏi đặt ra không?
+ Các mối liên hệ đã xác lập như hệ thức, đại lượng vật lí viết đã đúng chưa?
+ Việc thực hiện phép tính đã đúng chưa? Đơn vị của từng đại lượng đã
đúng chưa?
+ Giải theo cách khác có cho cùng kết quả không? Có cách nào ngắn gọn và
khoa học hơn không?
Học sinh có thể sử dụng các công cụ tự kiểm tra kết quả giải bài tập của
mình như đáp số, lời giải, đáp án của bài toán.
Dưới sự định hướng của giáo viên, việc tự kiểm tra, đánh giá sẽ xác định
đúng đắn khả năng học tập của bản thân người học, góp phần phát huy tính tích cực,
tự lực của học sinh, từ đó giúp học sinh tìm ra phương hướng chất lượng cho quá
trình học tập tiếp theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Trong chương này chúng tôi đã trình bày cơ sở lí luận của việc phát huy tính
tích cực, tự lực của học sinh trong hoạt động học tập. Phân tích và làm rõ khái niệm,
tác dụng, phân loại và các bước giải bài tập vật lí.
Tìm hiểu về thực trạng dạy học bài tập vật lí ở một số trường THPT miền
núi, tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục những hạn chế của việc dạy và học.
Trên cơ sở phân tích lí luận, tìm hiểu đặc điểm học sinh miền núi và thực
trạng dạy học bài tập vật lí ở trên, chúng tôi đã đề xuất một số biện pháp phát huy
tính tích cực, tự lực học tập của học sinh miền núi trong quá trình dạy học như sau:
1. Lựa chọn bài tập phù hợp vừa sức với học sinh miền núi;
2. Sử dụng phối hợp các phương pháp và các phương tiện dạy học hiện đại
khi giải bài tập vật lí;
3. Tổ chức hoạt động học tập tích cực, tự lực giải bài tập vật lí;
4. Chú trọng rèn luyện những kĩ năng cơ bản, cần thiết trong quá trình giải
bài tập;
5. Kiểm tra, đánh giá và khuyến khích sự tự kiểm tra, đánh giá của học sinh
khi giải bài tập vật lí.
Vận dụng những lí luận nghiên cứu nêu trên, chúng tôi xây dựng tiến trình dạy
học một số chủ đề bài tập chương Động lực học vật rắn theo hướng của đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
CHƢƠNG II
XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC MỘT SỐ CHỦ ĐỀ BÀI TẬP
CHƢƠNG ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN (VẬT LÍ 12 - NÂNG CAO)
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHƢƠNG ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN
2.1.1.Vị trí, vai trò của chƣơng
* Vị trí: Chương Động lực học vật rắn là chương đầu tiên trong chương trình
Vật lí lớp 12 Nâng cao, mà ở chương trình cơ bản không đề cập đến. Chương này
được đưa vào chương trình phổ thông từ năm học 2008-2009.
* Vai trò: Phần cơ học lớp 10 đã nghiên cứu chuyển động tịnh tiến của chất
điểm, chuyển động quay của vật, cân bằng của vật rắn khi chịu tác dụng của các vật
khác. Chương động lực học vật rắn ở lớp 12 nghiên cứu về sự chuyển động quay của
vật rắn quanh một trục, nghiên cứu về tính chất chuyển động, về sự chuyển động quay
của vật rắn khi chịu tác dụng của những vật khác.
Vận dụng được kiến thức của phần cơ học lớp 10 để nghiên cứu chuyển động
quay, so sánh để thấy được sự tương tự giữa các đại lượng của chuyển động quay và
chuyển động thẳng.
Nhờ nghiên cứu chuyển động quay của vật rắn mà chúng ta ứng dụng nhiều
trong thực tế, nghiên cứu mômen động lượng để các vận động viên nhảy cầu biết
điều chỉnh tốc độ quay để đạt được thành tích cao và tiếp nước an toàn, vận động
viên trượt băng nghệ thuật có màn trình diễn đẹp mắt,…
Kiến thức của chương cũng là nền tảng cho những học sinh học tập và
nghiên cứu ở các bậc học cao hơn: đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Các
trường khối ngành kĩ thuật, khối ngành sư phạm và một số trường có đào tạo bộ
môn vật lí, kĩ thuật.
2.1.2. Cấu trúc nội dung của chƣơng Động lực học vật rắn
Chương Động lực học vật rắn của chương trình Vật lí 12 nâng cao được triển
khai thực hiện từ năm học 2008-2009 được phân bố như sau:
Loại bài học
Nội dung
Lý
thuyết
Bài tập Thực
hành
Kiểm
tra
Tổng
số tiết
Chương I: Động lực học vật rắn 6 2 0 1 9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Trong đó, các bài được phân phối như sau:
Bài 1 Chuyển động quay của vật rắn quanh một trục cố định 1 tiết
Bài 2 Phương trình động lực học của vật rắn quay quanh một trục cố định 2 tiết
Bài 3 Mômen động lượng. Định luật bảo toàn mômen động lượng 2 tiết
Bài 4 Động năng của vật rắn quay quanh một trục cố định 1 tiết
Bài 5 Bài tập về động lực học vật rắn 2 tiết
2.1.3. Mục tiêu cần đạt đƣợc khi dạy học chƣơng
a. Về kiến thức:
- Nêu được vật rắn và chuyển động tịnh tiến của một vật rắn là gì.
- Nêu được cách xác định vị trí của vật rắn trong chuyển động quay quanh
một trục cố định.
- Viết được biểu thức của gia tốc góc và nêu được đơn vị đo gia tốc góc.
- Nêu được mômen quán tính là gì.
- Viết được phương trình cơ bản của chuyển động quay của vật rắn quanh
một trục.
- Nêu được mômen động lượng của một vật đối với một trục là gì và viết
được công thức tính mômen này.
- Phát biểu được định luật bảo toàn mômen động lượng của một vật rắn và
viết được hệ thức của định luật này.
- Viết được công thức tính động năng của vật rắn quay quanh một trục.
b. Về kĩ năng
- Vận dụng được phương trình cơ bản của chuyển động quay của vật rắn
quanh một trục cố định để giải các bài tập đơn giản khi biết mômen quán tính của vật.
- Vận dụng được định luật bảo toàn mômen động lượng đối với một trục.
- Giải được các bài tập về động năng của vật rắn quay quanh một trục.
2.1.4. Những công thức trong chƣơng cần nhớ để vận dụng giải bài tập
1. Các đại lượng đặc trưng cho chuyển động quay:
+ Toạ độ góc:
(rad) + Mômen lực: M (N.m)
+ Tốc độ góc:
(rad/s) + Mômen quán tính: I (kg.m
2
)
+ Gia tốc góc:
(rad/s
2
) + Mômen động lượng:L (kg.m2/s)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
2. Các phương trình động học của chuyển động quay:
a. Chuyển động quay đều (
/ ; 0h s
):
0 t
b. Chuyển động quay biến đổi đều (
/h s
):
0 t
;
2
0 0
1
2
t t
;
2 2
0 02 . 2 ( )
- Chuyển động quay nhanh dần đều:
0
- Chuyển động quay chậm dần đều:
0
3. Liên hệ giữa tốc độ góc và tốc độ dài:
;
v
v r
r
4. Gia tốc của điểm trên vật chuyển động quay:
- Gia tốc tiếp tuyến
ta
đặc trưng cho sự thay đổi về độ lớn của
v
Độ lớn:
ta r
- Gia tốc pháp tuyến
na
đặc trưng cho sự thay đổi về hướng của
v
Độ lớn: 2
2
n
v
a r
r
Gia tốc của điểm chuyển động tròn không đều:
2 2
n ta a a
5. Mômen lực đối với một trục quay: M = F.d
6. Mômen quán tính của một số vật rắn đồng chất đối với trục quay đi qua khối tâm
(trục đối xứng):
a. Thanh có tiết diện nhỏ so với chiều dài:
21
12
I ml
b. Vành tròn hay hình trụ rỗng:
2I mR
c. Đĩa tròn hay hình trụ đặc:
21
2
I mR
d. Khối cầu đặc:
22
5
I mR
* Chú ý: Mômen quán tính của vật rắn đồng chất đối với trục quay bất kì song song
với trục đối xứng:
2
0I I ma
Trong đó: + I0: là mômen quán tính đối với trục quay là trục đối xứng;
+ a: là khoảng cách từ trục quay bất kì đến trục đối xứng;
+ m: là khối lượng của vật rắn.
7. Phương trình động lực học của vật rắn quay quanh một trục cố định:
M I
8. Mômen động lượng:
L I
- Định luật bảo toàn mômen động lượng:
1 1 2 2/L h s I I
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
9. Động năng của vật rắn quay quanh một trục cố định
- Động năng quay của vật rắn:
21
2
dW I
- Định lí biến thiên động năng:
2 2
2 1
1 1
2 2
dW I I A
* Bảng so sánh sự tƣơng tự giữa chuyển động quay và chuyển động thẳng:
Chuyển động quay
(trục quay cố định, chiều không đổi)
Chuyển động thẳng
(chiều không đổi)
Toạ độ góc
(rad)
Tốc độ góc
(rad/s)
Gia tốc góc
(rad/s
2
)
Mômen lực M (N.m)
Mômen quán tính I (kg.m
2
)
Mômen động lượng
L I
(kg.m
2
/s)
Động năng quay
21
2
dW I
(J)
Toạ độ x (m)
Tốc độ v (m/s)
Gia tốc a (m/s2)
Lực F (N)
Khối lượng m (kg)
Động lượng p = mv (kg.m/s)
Động năng
21
2
dW mv
(J)
Chuyển động quay đều:
/ ; 0h s
:
0 t
Chuyển động quay biến đổi đều:
= hằng số
0 t
2
0 0
1
2
t t
2 2
0 02 . 2 ( )
Chuyển động thẳng đều:
v = hằng số; a = 0; x = x0 +vt
Chuyển động thẳng biến đổi đều:
a = hằng số
0v v at
2
0 0
1
2
x x v t at
2 2
0 02 ( )v v a x x
Phương trình động lực học:
dL
M I hay M
dt
Định luật bảo toàn mômen động lượng:
1 1 2 2 /iI I hay L h s
Phương trình động lực học:
dp
F ma hay F
dt
Định luật bảo toàn động lượng:
i im v
không đổi
Công thức liên hệ giữa các đại lượng góc và đại lượng dài
2; ; ;t ns r v r a r a r
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
2.1.5. Lựa chọn hệ thống các bài tập vận dụng kiến thức chƣơng Động
lực học vật rắn
2.1.5.1. Nguyên tắc lựa chọn bài tập
* Cơ sở để xây dựng nguyên tắc:
- Căn cứ vào mục tiêu cần đạt được khi dạy học chương;
- Căn cứ vào thực trạng học môn vật lí và bài tập vật lí của học sinh THPT
miền núi;
- Căn cứ vào những yêu cầu của việc lựa chọn hệ thống bài tập vật lí cho
từng chủ đề và bám sát vào các biện pháp phát huy tính tích cực, tự lực học tập của
học sinh THPT miền núi, chúng tôi nêu ra một số nguyên tắc sau:
* Các nguyên tắc lựa chọn
1. Hệ thống bài tập được lựa chọn phải đi từ dễ đến khó, sắp xếp theo trình tự
các chủ đề kiến thức, đảm bảo các yêu cầu chung của lựa chọn bài tập nói chung và
yêu cầu của việc phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh nói riêng. Có thể phân
chia bài tập thành những phần nhỏ vừa sức với trình độ nhận thức của học sinh, sao
cho họ có thể tự lực giải quyết vấn đề với sự cố gắng vừa sức.
2. Nội dung bài tập phải đa dạng và có tính sáng tạo, đó là những bài tập mà
học sinh muốn giải được không chỉ áp dụng máy móc các công thức vật lí, mà đòi hỏi
học sinh phải tư duy sáng tạo, suy nghĩ cẩn thận và vận dụng các kiến thức một cách
linh hoạt. Từ đó tính tích cực và tự lực học tập của học sinh dần được phát huy.
3. Có bài tập hướng dẫn giải tại lớp, có bài hướng dẫn về nhà giải, có phần
bài tập xây dựng kiến thức mới trong giờ học lí thuyết, bài tập bổ sung những nội
dung kiến thức lí thuyết chưa nêu rõ hoặc chưa đề cập đầy đủ. Nhằm phân phối thời
gian hợp lí giúp cho quá trình giải bài tập và tự lực giải hết các bài tập trong phạm
vi của chương, và góp phần mở rộng kiến thức để học sinh dễ liên hệ với thực tế.
4. Có bài tập định tính, bài tập định lượng; bài tập cơ bản, bài tập phức hợp
nhằm tạo ra logic kiến thức giúp rèn luyện kĩ năng giải thích hiện tượng và kĩ năng
tính toán, kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh,…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
2.1.5.2. Hệ thống bài tập
Trong hệ thống bài tập đã lựa chọn của chương, căn cứ vào đặc điểm phân
loại bài tập, trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi phân các bài tập trong mỗi chủ
đề thành bài tập cơ bản và bài tập phức hợp, trong đó có cả bài tập định tính và bài
tập định lượng. (Hệ thống bài tập trình bày ở phụ lục 4)
2.1.6. Phân tích và sử dụng hệ thống bài tập chƣơng Động lực học vật rắn
2.1.6.1. Phân tích hệ thống bài tập.
Chúng tôi tiến hành việc lựa chọn hệ thống bài tập trên cơ sở xác định các kiến
thức cơ bản của chương Động lực học vật rắn mà học sinh cần nắm vững, các kĩ năng
cơ bản cần rèn luyện cho học sinh khi giải bài tập của chương này, từ đó chỉ ra các
dạng bài tập cơ bản tương ứng với từng đơn vị kiến thức. Sau đó căn cứ vào các bài tập
cơ bản để lựa chọn các bài tập tổng hợp theo chiều tăng dần độ phức tạp. Các bài tập
được sắp xếp theo trình tự từng chủ đề kiến thức trong chương. Mỗi bài tập là một mắt
xích trong hệ thống bài tập, đóng góp một phần nào đó vào việc giúp học sinh nắm
vững kiến thức, rèn luyện kĩ năng giải bài tập trong chương, các bài tập có quan hệ với
nhau, việc giải bài tập trước có thể là cơ sở cho bài tập sau.
* Chủ đề: Chuyển động quay của vật rắn quanh một trục cố định: gồm 11
bài (từ bài 1.1 đến bài 1.11)
Các bài tập này chủ yếu để củng cố kiến thức về chuyển động quay của vật
rắn quanh một trục cố định về phương diện động học, đó là: các đại lượng đặc trưng
cho chuyển động quay, qui luật chuyển động của vật. Vì đây là bài học đầu tiên của
chương và cũng là bài học đầu tiên của năm học nên chúng tôi chỉ đưa ra những bài
tập có nội dung vừa sức và thực tế, dễ vận dụng để gây được hứng thú cho học sinh.
Từ đó học sinh sẽ tự lực giải được bài tập và giáo viên cũng dễ nhận ra trình độ nhận
thức và mức độ tích cực của học sinh lớp mình dạy. Khi tự lực giải được những bài
tập này sẽ tạo động lực cho học sinh giải quyết những bài tập ở những chủ đề sau.
Từ bài 1.1 đến bài 1.10 là những bài tập cơ bản, chủ yếu sử dụng để củng cố
kiến thức ngay khi học xong mỗi phần lí thuyết trên lớp. Bài 1.1, 1.2 là những câu
hỏi định tính có tác dụng kiểm tra nhanh mức độ hiểu bài của học sinh. Bài 1.3 là sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
vận dụng câu trả lời của bài 1.2, mà học sinh không cần phải tính toán. Bài 1.4, 1.5
vận dụng các công thức tính tốc độ dài, tốc độ góc, gia tốc góc của chuyển động
quay, giúp rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng đổi đơn vị và sử dụng đơn vị đo của
các đại lượng. Sang bài 1.6, 1.7 học sinh không phải tính toán nhưng phải biết vận
dụng các công thức tính gia tốc tiếp tuyến, gia tốc pháp tuyến, gia tốc toàn phần và
phải có kĩ năng biến đổi các công thức để tìm ra biểu thức tính các đại lượng cần
tìm. Bài 1.8, 1.9, 1.10 là những bài tập có nội dung thực tế và gần gũi, học sinh thấy
được Trái Đất là vật rắn chuyển động quay quanh trục của nó và quanh Mặt Trời.
Học sinh sẽ tò mò khi tìm tốc độ quay của Trái Đất, và biết được ở những vĩ độ
khác nhau trên mặt đất thì các vật có tốc độ dài khác nhau.
Bài 1.11 là bài tập phức hợp, học sinh phải biết đổi đơn vị tương đương và
biết vận dụng linh hoạt các công thức của chuyển động quay biến đổi đều mới tìm
ra được đáp án bài toán. Cũng qua bài tập này học sinh hiểu rõ hơn về cách vận
dụng các công thức của chuyển động quay biến đổi đều tương tự như chuyển động
thẳng biến đổi đều mà các em đã được học ở lớp 10.
* Chủ đề: Phƣơng trình động lực học của vật rắn quay quanh một trục:
gồm 17 bài (từ bài 2.1 đến 2.17)
Từ bài 2.1 đến 2.7 là các bài tập cơ bản chủ yếu dùng để củng cố kiến thức
mới. Bài 2.1, 2.2 rèn kĩ năng vận dụng lí thuyết vào trả lời câu hỏi định tính, để
kiểm tra sự nắm vững kiến thức của học sinh. Bài 2.3, 2.4 đề cập đến vật rắn có trục
quay không đi qua khối tâm của vật, không phải là trục đối xứng. Từ những ví dụ
thực tế (bài 2.3) nảy sinh cái cần tìm là biểu thức tính mômen quán tính đối với trục
quay đi qua một đầu của thanh có chiều dài l (bài 2.4). Kết quả bài toán là kiến thức
mới cần cung cấp cho học sinh. Bài 2.5, 2.6, 2.7 là những bài tập cơ bản làm cơ sở
để học sinh giải các bài tập phức hợp sau, giúp rèn luyện kĩ năng vận dụng các công
thức tính mômen quán tính để giải. Với bài 2.6, 2.7 học sinh tính mômen quán tính
trực tiếp từ công thức lí thuyết
2
i iI m r
Từ bài 2.8 đến bài 2.17 là những bài tập phức hợp nhằm vận dụng phương
trình động lực học của vật rắn quay quanh một trục
M I
. Khi giải những bài tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
này cần xét đến tính chất chuyển động của các vật: vật nào chuyển động quay, vật
nào chuyển động tịnh tiến; chuyển động biến đổi đều nhanh dần hay chậm dần.
Chuyển động của vật dưới tác dụng của lực nào hay mômen lực nào. Vì vậy cần xác
định được các lực tác dụng vào vật, và phân tích xem lực nào gây ra mômen quay rồi
vận dụng phương trình động lực học của vật rắn. Sau khi phân tích lực tác dụng vào
vật cần phân tích được chuyển động của từng vật, và xác lập mối quan hệ giữa các
đại lượng xuất hiện trong bài toán. Vận dụng các công thức của chuyển động quay để
tìm các đại lượng về góc, thời gian, quãng đường,…
Bài 2.8 đến bài 2.14 là những bài tập về vật rắn quay quanh một trục cố
định, mỗi bài là một dạng chuyển động khác nhau (có hình vẽ tương ứng). Bài 2.12,
2.13, 2.14 rèn luyện kĩ năng phân tích lực và kĩ năng vận dụng phương trình động
lực học vật rắn, phương trình động lực học chất điểm.
Ở đây chúng tôi đưa ra 3 bài tập 2.15, 2.16, 2.17 về chuyển động của vật rắn
quay quanh một trục chuyển động. Học sinh phải biết phân tích thành hai chuyển
động thành phần ứng với từng phần của vật: chuyển động quay của vật rắn và
chuyển động tịnh tiến của chính trục quay, phải có kĩ năng vận dụng tổng hợp kiến
thức của cả hai phần này mới giải được bài toán. Về sự chuyển động quay của vật
có trục quay chuyển động học sinh sẽ gặp nhiều trong thực tế hơn.
Những bài tập phức hợp trên nhằm rèn luyện cho học sinh khả năng phân
tích, tổng hợp, so sánh, rèn kĩ năng phân tích lực và kĩ năng vận dụng linh hoạt các
công thức đã học vào các tình huống khác nhau.
Chủ đề về phương trình động lực học của vật rắn có nhiều dạng bài tập, cần
rèn cho học sinh nhiều kĩ năng. Nên trong tiết luyện tập để đảm bảo cho học sinh
nắm vững được những kiến thức và kĩ năng cơ bản chúng tôi lựa chọn 3 bài tập để
hướng dẫn cho học sinh: bài 2.4 là bài tập cơ bản; bài 2.14 là bài tập về vật rắn quay
quanh một trục cố định; bài 2.15 là bài tập về vật rắn quay quanh một trục chuyển
động. Sau đó hướng dẫn thêm cho học sinh tự làm những bài tương tự ở nhà 2.12,
2.13, 2.16, 2.17.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
* Chủ đề: Mômen động lƣợng. Định luật bảo toàn mômen động lƣợng:
Gồm 12 bài (từ bài 3.1 đến 3.12)
Từ bài 3.1 đến 3.8 là những bài tập cơ bản, chủ yếu để củng cố kiến thức
mới và làm cơ sở để học sinh giải các bài tập phức hợp. Bài 3.1 đến 3.5 là những
câu hỏi định tính để rèn kĩ năng vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng
trong thực tế có liên quan đến bảo toàn mômen động lượng. Bài 3.6, 3.7, 3.8 là
những bài tập định lượng cơ bản, rèn kĩ năng vận dụng công thức để tính mômen
động lượng đối với trục quay cố định
L I
. Bài 3.7 có nội dung thực tế, bài toán
cho thấy Trái Đất trong chuyển động tự quay xung quanh trục thì Trái Đất là một
quả cầu, nhưng trong chuyển động quay quanh Mặt Trời thì Trái Đất chỉ như là một
chất điểm. Khi tìm được tốc độ góc quay của Trái Đất nhiều học sinh sẽ tò mò tại
sao Trái Đất quay nhanh như vậy mà chúng ta lại không bị văng khỏi mặt đất? Từ
đó kích thích được tính tò mò và sự hiếu kì của học sinh về các hiện tượng thực tế.
Từ bài 3.9 đến bài 3.12 là các bài tập phức hợp vận dụng định luật bảo toàn
mômen động lượng
1 1 2 2I I
. Bài 3.11 là sự va chạm mềm giữa 2 vật nên năng
lượng không được bảo toàn, ở bài toán này học sinh sẽ biết thêm một điều kiện nữa
để áp dụng định luật bảo toàn mômen động lượng. Bài 3.12 có sự chuyển động
tương đối giữa người và sàn, nên học sinh phải biết vận dụng cả kiến thức về
chuyển động tương đối, công thức cộng vận tốc đã học ở lớp 10. Những bài tập
phức hợp này có liên quan đến nhiều hiện tượng vật lí mà các em đã được học, do
đó khi giải bài tập các em phải biết phân tích kĩ hiện tượng xảy ra trong bài rồi vận
dụng các kiến thức tương ứng và định luật bảo toàn mômen động lượng để giải.
Qua đó rèn cho học sinh khả năng phân tích, tổng hợp và vận dụng linh hoạt các
công thức toán học, kiến thức vật lí vào mỗi trường hợp khác nhau của bài toán.
Các bài tập trên có nội dung phong phú và thực tế, đó là cơ sở để giúp các
em giải thích những hiện tượng vật lí tương tự trong cuộc sống, hoặc giúp cho chính
bản thân các em trong quá trình luyện tập thể dục thể thao và ứng dụng trong kĩ
thuật khi các em tham gia lao động sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
* Chủ đề: Động năng của vật rắn quay quanh một trục: gồm 10 bài (từ bài
4.1 đến 4.10)
Từ bài 4.1 đến 4.6 là các bài tập cơ bản, có tác dụng củng cố kiến thức mới
học về động năng quay của vật rắn. Bài 4.1 đến 4.4 là những bài tập định tính giúp
học sinh hiểu rõ hơn về động năng quay, vì đây là khái niệm hoàn toàn mới đối với
học sinh. Bài 4.1, 4.4 là các bài tập chứng minh để tìm ra dạng khác của công thức
tính động năng quay: 2
2
d
L
W
I
. Bài 4.4 là chứng minh để tìm ra biểu thức của định lí
biến thiên động năng
2 2
2 1
1 1
2 2
dW I I A
, đây là kiến thức mới cần cung cấp cho
học sinh để vận dụng giải bài tập. Bài 4.5, 4.6 chủ yếu rèn kĩ năng tính toán và sử
dụng đơn vị đo.
Từ bài 4.7 đến 4.10 là các bài tập phức hợp. Bài 4.7 cho thấy động năng thay
đổi khi cấu trúc của hệ thay đổi, nghĩa là mômen quán tính thay đổi, do đó phải vận
dụng cả định luật bảo toàn mômen động lượng để giải. Bài 4.8 phải vận dụng cả các
công thức của chuyển động quay biến đổi đều. Bài 4.9 có sự chuyển động tương đối
giữa người và sàn theo phương bán kính của sàn, nên vận tốc tiếp tuyến phụ thuộc
thời gian, do đó trong biểu thức tính động năng quay cũng phụ thuộc thời gian t. Bài
4.10 là bài toán về vật rắn vừa chuyển động quay vừa chuyển động tịnh tiến (bánh
xe đang đi) nên động năng toàn phần là tổng của động năng quay và động năng tịnh
tiến. Qua đó rèn cho học sinh nhiều kĩ năng cần thiết: tổng hợp, phân tích, so sánh,
tính toán. Trong tiết luyện tập thứ 2, để đảm bảo cho học sinh nắm vững những kiến
thức và kĩ năng cơ bản, chúng tôi lựa chọn 3 bài tập điển hình để hướng dẫn cho
học sinh: bài 4.1 là bào tập cơ bản; bài 3.11 là bài tập về vật rắn quay quanh một
trục cố định; bài 4.10 là bài tập về vật rắn quay quanh một trục di động. Sau đó
hướng dẫn thêm cho học sinh tự làm những bài tập tương tự ở nhà 3.12, 4.8, 4.9.
Qua việc phân tích trên cho thấy hệ thống bài tập mà chúng tôi lựa chọn là từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Các bài tập được sắp xếp theo các chủ đề kiến
thức tương ứng với lí thuyết để giúp cho giáo viên dễ sử dụng bài tập trong hoạt động
dạy học, đồng thời cũng nhằm giúp học sinh nắm được phương pháp giải từng loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
bài tập cụ thể. Hệ thống bài tập được xây dựng đảm bảo yêu cầu chung của lựa chọn
bài tập và yêu cầu của việc phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh.
Mỗi chủ đề đều được bắt đầu bằng các bài tập cơ bản, đơn giản. Các bài này
phần lớn học sinh có thể tự lực giải sau khi đã học xong lí thuyết hoặc chỉ cần sự
gợi ý nhỏ của giáo viên là các em có thể vượt qua. Việc nắm vững phương pháp giải
các bài tập cơ bản là cơ sở để các em phân tích và tìm lời giải cho các bài tập có nội
dung tổng hợp. Các bài tập nêu ra vừa sức với học sinh miền núi, và cũng chú trọng
rèn luyện kĩ năng thực hành vận dụng kiến thức, kĩ năng phân tích, tổng hợp, so
sánh, tính toán và nhận xét kết quả bài toán cho học sinh. Với sự cố gắng của các
em cùng với sự hướng dẫn khoa học, phù hợp của giáo viên sẽ phát huy được tính
tích cực và tự lực học tập của học sinh trong các giờ luyện giải bài tập vật lí.
2.1.6.2. Phƣơng án sử dụng hệ thống bài tập đã lựa chọn
Qua điều tra tìm hiểu chúng tôi nhận thấy trong các tiết học nghiên cứu tài
liệu mới, nội dung kiến thức trong mỗi bài của chương tương đối dài, do đó không
có đủ thời gian trên lớp để giải hết các bài tập đã ra cho học sinh. Nên phần lớn các
bài tập chúng tôi đã lựa chọn sẽ được ra cho học sinh làm ở nhà sau mỗi tiết học có
nội dung tương ứng. Chỉ hướng dẫn học sinh giải một số bài tập cơ bản ở đầu giờ,
cuối mỗi giờ học nghiên cứu tài liệu mới, và tổ chức hướng dẫn học sinh giải một số
bài tập tổng hợp trong các tiết bài tập theo phân phối chương trình của Bộ giáo dục
và Đào tạo (trong luận văn này chúng tôi soạn hai giáo án chi tiết). Cụ thể các bài
tập được phân bố như sau:
Tiết
học
Nội dung Bài tập
giải tại lớp
Bài tập
giao về nhà
Tiết 1 Chuyển động quay của vật rắn quanh
một trục cố định
1.1, 1.2, 1.3,
1.4, 1.5
1.6, 1.7, 1.8, 1.9,
1.10, 1.11
Tiết 2 Phương trình động lực học của vật
rắn quay quanh một trục cố định
2.1, 2.3, 2.5 2.2, 2.6, 2.7
Tiết 3 Phương trình động lực học của vật rắn
quay quanh một trục cố định (tiếp theo)
2.11 2.8, 2.9, 2.10
Tiết 4 Bài tập 2.4, 2.14, 2.15 2.12, 2.13, 2.16, 2.17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Tiết 5 Mômen động lượng. Định luật bảo
toàn mômen động lượng
3.6 3.7, 3.8
Tiết 6 Mômen động lượng. Định luật bảo
toàn mômen động lượng (tiếp theo)
3.1, 3.4, 3.5 3.2, 3.3, 3.9, 3.10
Tiết 7 Động năng của vật rắn quay quanh
một trục cố định
4.2, 4.3, 4.4 4.5, 4.6, 4.7
Tiết 8 Bài tập 3.11, 4.1, 4.10 3.12, 4.8, 4.9
Tiết 9 Kiểm tra 1 tiết
2.2 XÂY DỰNG TIẾN TRÌNH DẠY HỌC MỘT SỐ CHỦ ĐỀ BÀI TẬP VẬT
LÍ CHƢƠNG ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN
Trên cơ sở lí luận đã phân tích ở chương I, trong nội dung phần này chúng
tôi xây dựng một số giáo án nhằm làm sáng tỏ những vấn đề, những biện pháp đã đề
ra. Quan điểm của chúng tôi là để học sinh tự lực học tập thì trước hết học sinh phải
tích cực học tập, để học sinh tích cực thì học sinh phải có hứng thú và do đó chúng
tôi tạo hứng thú bằng cách tạo ra những vấn đề học tập vừa sức và có sự gợi mở
hướng dẫn kịp thời để học sinh hiểu được bước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2010_SP_NguyenThiDiep.pdf