Tài liệu Luận văn Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay: LUẬN VĂN:
Phát huy nhân tố con người trong quá trỡnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối đổi mới đất nước bắt đầu từ Đại hội VI mà đặc biệt là từ Đại hội VII
Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ vai trò động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội là con người. Chính con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định
hiệu quả của việc khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Từ đó đến nay,
Đảng ta luôn coi trọng con người là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng
thời là mục tiêu của CNXH.
Trong điều kiện gần 80% dân cư sống ở nông thôn, từ một nước nông nghiệp
lạc hậu bắt đầu đi vào CNH, HĐH ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con người
như mong muốn. Đặc điểm ở nông thôn vùng núi chỉ số về phát triển con người còn quá
thấp so với thành thị. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nền
nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh theo hướng XHCN ...
106 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát huy nhân tố con người trong quá trỡnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối đổi mới đất nước bắt đầu từ Đại hội VI mà đặc biệt là từ Đại hội VII
Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ vai trò động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội là con người. Chính con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định
hiệu quả của việc khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Từ đó đến nay,
Đảng ta luôn coi trọng con người là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng
thời là mục tiêu của CNXH.
Trong điều kiện gần 80% dân cư sống ở nông thôn, từ một nước nông nghiệp
lạc hậu bắt đầu đi vào CNH, HĐH ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con người
như mong muốn. Đặc điểm ở nông thôn vùng núi chỉ số về phát triển con người còn quá
thấp so với thành thị. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nền
nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh theo hướng XHCN là nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng, nhưng đồng thời cũng rất khó khăn, phức tạp.
Nhân tố con người được khẳng định là có giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định
sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn nói riêng. Vấn đề then chốt để tạo được động lực chính là có chủ trương,
chính sách đúng đắn nhằm khơi dậy mọi khả năng tích cực, năng động, sáng tạo của
nhân tố con người, đồng thời hướng tính tích cực, năng động và sáng tạo đi đúng quy
luật, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Nghệ An là một trong những tỉnh miền Trung, đất tương đối rộng, người đông,
chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Là một tỉnh nghèo, điểm xuất phát thấp, mang nhiều đặc
trưng chung cho nông nghiệp cả nước. Do đó, yêu cầu phát huy nhân tố con người trong
quá trình CNH, HĐH càng bức thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Vì vậy tôi chọn đề tài: " Phát huy nhân tố con người trong quá trỡnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay ", nhằm góp phần nhỏ bé đáp ứng đòi
hỏi trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề nhân tố con người trong sự phát triển
kinh tế - xã hội. Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và
văn hóa của các quốc gia. Nó đòi hỏi phải phân tích một cách khoa học về giá trị lớn lao
và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Đã có không ít tài liệu trong nhiều và
ngoài nước nghiên cứu về vấn đề này.
ở Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu lý luận dưới các góc độ khác nhau đã tiếp
cận một cách khoa học vấn đề: Vai trò của nhân tố con người trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội.
ở nước ta, nhất là từ giữa những năm 80 khi bắt tay vào sự nghiệp đổi mới,
chúng ta càng nhận ra vai trò đặc biệt của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu.
Với những công trình tiêu biểu như: Đề tài KX-07-13 "Về một số động lực phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay" do GS. Lê Hữu Tầng chủ nhiệm; "Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" PGS. TS Bùi Đình Thanh chủ nhiệm...
Trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
tập trung ở vấn đề phát triển CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực hiện chính sách
xã hội ở nông thôn, vai trò của nông nghiệp, nông thôn; xóa đói giảm nghèo, giải quyết
việc làm... Đáng chú ý là các công trình "40 năm kinh nghiệm Đài Loan (Nxb Đà Nẵng,
1994); Công ty ADUKI "Vấn đề nghèo ở Việt Nam" (Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội,
1996); GS Nguyễn Điền "CNH nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và Việt Nam"
(Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1997); PGS. PTS Nguyễn Đức Bách "Những lợi ích
kinh tế - xã hội tác động đến lòng tin của nông dân và con đường XHCN" (Tạp chí
nghiên cứu lý luận số 2-1992). Điển hình hơn là chương trình khoa học cấp Nhà nước
KX-08 "Phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, gồm 12 đề tài nhánh đã tập trung nghiên
cứu một cách toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn Việt Nam
theo định hướng XHCN.
Đối với khu vực Bắc Trung Bộ đã có một số công trình nghiên cứu: PGS. TS Lê
Đình Thắng, PTS Nguyễn Thanh Hiền "Xóa đói giảm nghèo ở khu IV cũ" (Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội, 1995); chương trình khoa học: "Con người Nghệ An trước yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH" (Sở khoa học công nghệ và môi trường, Vinh, 1998).
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nhân tố con người trong
quá trình CNH, HĐH, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ vai trò, vị trí của nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người. Vì vậy, tác giả mạnh
dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn Nghệ An theo định hướng XHCN.
3. Mục đích - nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc phát huy nhân tố con người trong nông
thôn, nông thôn Nghệ An hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp
phần phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Nghệ An hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Làm rõ quan điểm mác xít về nhân tố con người.
- Đánh giá thực trạng việc phát huy nhân tố con người ở nông thôn Nghệ An
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con
người trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có nội dung rộng, chúng tôi không có điều kiện và không thể đi sâu
nghiên cứu chi tiết nhân tố con người và quá trình CNH, HĐH cụ thể. Điều mà luận văn
quan tâm và tập trung nghiên cứu là: phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn (qua khảo sát thực tế Nghệ An).
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Là công trình nghiên cứu triết học, luận văn dựa trên cơ sở lý luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
đường lối của Đảng về nhân tố con người, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tiễn tình hình nông nghiệp,
nông thôn Nghệ An, có kế thừa một số kết quả thu được của các công trình khoa học
khác có liên quan, nhất là thực tế điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và nguồn lực con
người Nghệ An.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp, kết hợp
lôgic với lịch sử, trao đổi, phỏng vấn, thu thập và phân tích số liệu thống kê theo
phương pháp hệ thống.
5. Cái mới về khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng ta về nhân tố con người và vai trò nhân tố con người.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nhân
tố con người trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng để làm tư
liệu tham khảo trong việc giảng dạy nghiên cứu triết học. Góp phần phát huy nhân tố
con người đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 2 chương với 4 tiết và
danh mục các tài liệu tham khảo.
Chương 1
Nhân tố con người và vai trò của nhân tố
con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.1. quan điểm mác xít về nhân tố con người
1.1.1. Khái niệm về con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như:
sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học... Song, giải đáp những vấn đề chung nhất
về con người như bản chất con người, mục đích và ý nghĩa cuộc sống của con người,
vai trò của con người trong thế giới như thế nào là những câu hỏi lớn của các hệ thống
triết học từ cổ đại đến hiện đại, từ phương Đông sang phương Tây.
Trong triết học trước Mác đã từng tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề
con người.
Triết học thời cổ đại, trong quan niệm về con người thường tập trung tìm
kiếm xem có cái gì đó là cơ sở đầu tiên cấu tạo nên con người và cấu tạo như thế nào
theo hai xu hướng (nhất nguyên luận và nhị nguyên luận).
Do hạn chế về điều kiện lịch sử, nên quan niệm về con người thường mang tính
chất thần bí và duy tâm.
Thời kỳ Trung cổ đại ở phương Tây cùng với sự thống trị của Thiên Chúa
giáo, con người được quan niệm là do thượng đế, đức Chúa trời sáng tạo ra, con người
mắc phải tội tổ tông truyền, phải chịu khổ, chịu nạn, phải chuộc tội, phải cầu Chúa và
tin tưởng vô điều kiện vào Chúa.
Thời kỳ Phục Hưng con người được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Chủ
nghĩa nhân đạo tư sản đề cao con người với những nhu cầu cá nhân. ở thời kỳ Cận đại,
do ảnh hưởng của quan niệm siêu hình, máy móc, con người cũng được xem xét như "1
cỗ máy". Phơ-bách là một trong những nhà duy vật lớn nhất của triết học trước Mác đấu
tranh quyết liệt chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Nhưng Phơ-bách không hiểu được
hoạt động thực tiễn xã hội của con người, không hiểu được vai trò của thực tiễn sản xuất
trong quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, coi thực tiễn là hành động tầm
thường, có tính chất con buôn. Cho nên, hạn chế lớn nhất trong triết học "nhân bản" của
ông là ở chỗ hiểu không đúng về con người. Ông coi con người chỉ là một thực thể
mang bản chất tộc loại, không hiểu được bản chất xã hội của con người, không thấy
được vai trò của mối quan hệ giữa người với người quy định bản chất của họ. Quan
niệm của Phơ-bách về bản chất con người vẫn mang tính trừu tượng, phi lịch sử. Từ
quan niệm này ông đã trượt từ chủ nghĩa duy vật trong quan niệm về giới tự nhiên sang
chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm xã hội.
Tóm lại, những sai lầm thiếu sót chủ yếu trong nhận thức triết học về bản chất
con người của các hệ thống triết học trước Mác là do xuất phát từ lập trường duy tâm
hoặc từ phương pháp siêu hình trong cách xem xét vấn đề con người.
Đến chủ nghĩa Mác, với chủ nghĩa duy vật triệt để và phương pháp biện chứng
khoa học, vấn đề con người đã được giải đáp một cách toàn diện khoa học.
Con người được chủ nghĩa Mác xem xét trong sự thống nhất biện chứng giữa
cái sinh vật và cái xã hội.
Tiền đề xuất phát của chủ nghĩa Mác không phải là con người trừu tượng, con
người sinh học thuần túy, con người "xã hội" trống rỗng, không có cá nhân; mà hoàn
toàn ngược lại. "Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ, và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều
kiện do hoạt động của họ sáng tạo ra" [23, tr. 267]. Đó là những con người sống trong
một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định, có những quan hệ xã hội nhất
định. Những con người sống và hoạt động, mà hoạt động bản chất nhất, có tính người
nhất là sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt của mình, mặc dầu ăn, uống, sinh con đẻ cái
cũng là hoạt động có tính người.
Triết học Mác không hề phủ nhận cũng không tuyệt đối hóa mặt tự nhiên sinh
học khi xem xét con người với tư cách là những cá nhân đang sống và hoạt động. Trước
hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp, sản phẩm của quá trình tiến hóa
tự nhiên. Mác viết: "Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là tự nhiên là
thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải duy trì một quá trình thường
xuyên để tồn tại" [23, tr. 135]. Con người, do đó không nằm ngoài sự chi phối của quy
luật tự nhiên bởi lẽ, "bản thân chúng ta... là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong
lòng giới tự nhiên" [22, tr. 657].
Thừa nhận yếu tố sinh vật của con người nghĩa là thừa nhận những quy luật
sinh học chung của con người, những đặc điểm về cấu trúc và chức năng cơ thể, đời
sống sinh lý, đặc tính di truyền... Tuy nhiên, Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng:
cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học, là bản năng thuần túy của
con người.
Cái sinh vật của con người (cái sinh vật này không còn mang tính tự nhiên
thuần túy động vật) chỉ tồn tại đối với con người xã hội. Nghĩa là trong xã hội, cái sinh
vật đã được xã hội hóa. Nếu tách khỏi quan hệ xã hội thì chỉ còn lại bản năng sinh vật.
Những thiên chức bẩm sinh do tự nhiên "ban tặng" bởi quá trình tiến hóa lâu dài của sự
sống hữu cơ, có thể được nuôi dưỡng phát triển hoặc thui chột đi tùy thuộc vào điều
kiện, môi trường xã hội, do hoàn cảnh xã hội quyết định.
Cái nền tảng căn bản - có tính chất quyết định của sự thống nhất giữa cái sinh
vật và cái xã hội - chính là hoạt động thực tiễn mà trước hết là lao động sản xuất. Thông
qua hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới hiện thực khách quan mà con người tự khẳng
định mình như một thực thể xã hội, thoát khỏi trạng thái tự nhiên thuần túy. Chính "lao
động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một
mức độ mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân
con người" [22, tr. 641]
Vạch ra vai trò của các mối quan hệ xã hội trong yếu tố cấu thành bản chất của
con người là một cống hiến quan trọng của triết học Mác.
Mác viết: "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội" [21, tr. 11]
Kế thừa tư tưởng của Mác và tri thức triết học phương Đông, vốn văn hóa dân
tộc, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến con người.
Trong quan niệm Hồ Chí Minh, con người là những cá nhân cụ thể, vừa là cộng
đồng người đang sống với những nhu cầu hiện thực của họ.
Hồ Chí Minh khẳng định, lịch sử xã hội loài người là do chính con người sáng
tạo ra bởi chính hoạt động của mình. Hồ Chí Minh viết: "vô luận điều gì đều do con
người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả" [16, tr. 241].
Con người đã sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và giá trị tinh thần cho đời sống xã
hội cũng như phương thức sử dụng, hưởng thụ những thành quả của hoạt động đó.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới. Hoàn cảnh tạo ra con người, nhưng trong chừng mực mà con người tạo ra
hoàn cảnh. Để cải tạo hoàn cảnh, trước hết con người phải ý thức rõ hơn hoàn cảnh cần
được cải tạo. Con người là chủ thể, hoàn cảnh là khách thể được cải tạo. Hồ Chí Minh
viết: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa" [18, tr.
159]. ở đây là con người giác ngộ XHCN có ý thức về sự cần thiết phải cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới.
Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân - lực lượng
sáng tạo chân chính ra lịch sử, là lực lượng nòng cốt của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là người
sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã
hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa... Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý"
[17, tr. 250].
Vấn đề quan trọng trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh là tin tưởng và tôn
trọng mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, đặc biệt là quần chúng nhân dân
lao động: "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Hồ Chí Minh rất coi trọng tính tự giác, chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo
của con người trong hoạt động (cả trong hoạt động thực tiễn và nhận thức).
Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng các nhu cầu và quyền lợi chính đáng của con
người. Bởi vì, nếu các nhu cầu và quyền lợi chính đáng của con người không được quan
tâm đúng mực thì tính tự giác, tích cực của họ bị giảm sút, xã hội mất đi nguồn động lực
của sự phát triển.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Có như vậy thì nhân dân mới tin, mới
dám nói sự thật, đấu tranh cho lẽ phải và sự công bằng, mới có sự sáng tạo, từ đó tạo ra
động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh viết: "Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân...
Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [16, tr. 368]
Nhận thức trên đây là một căn cứ xuất phát rất quan trọng định hướng cho quá
trình xây dựng và phát triển con người mới, phát huy tối đa tính tự giác, tích cực, năng
động, sáng tạo của nhân tố con người, cho quá trình xây dựng và phát triển đời sống
vật chất, văn hóa tinh thần nói chung, và đặc biệt cho sự thắng lợi của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước ta hiện nay.
Khái niệm nhân tố con người
Trong lịch sử triết học trước Mác, do quan niệm sai lầm về nguồn gốc bản chất
của con người, cho nên các nhà triết học trước Mác chưa có được một quan niệm đúng
đắn về vai trò của nhân tố con người trong tiến trình vận động của lịch sử, chưa thấy hết
được sức mạnh cải tạo thế giới của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đặc
biệt, họ không phát hiện được vai trò của quần chúng nhân dân - lực lượng sáng tạo
chân chính ra lịch sử, là nhân tố quyết định tiến trình lịch sử.
Vấn đề nhân tố con người cũng được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu.
Nhưng, do họ xuất phát từ những mục đích và phương pháp tiếp cận khác nhau mà hiện
nay có nhiều quan niệm về nhân tố con người. Có thể đưa ra một số quan niệm sau:
- Cách tiếp cận thứ nhất: Nhấn mạnh mặt hoạt động của nhân tố con người, vào
sự thể hiện các phẩm chất và đặc trưng bản chất của nó trong hoạt động có định hướng
và biến đổi (đó là các đại biểu như: G.A.En Janor; L.V.Nicolaer; O.N.Krutôva;
N.E.Zelinsky; E.F.Sulimor...)
- Cách tiếp cận thứ hai: Nhấn mạnh vào các đặc trưng, phẩm chất, năng lực đa
dạng của con người được thể hiện trong hoạt động như tác giả A.K.Ledov viết: Con
người trong mọi biểu hiện của nó vốn có những đặc trưng nhân cách nhất định. Những
quan điểm và quan niệm chính trị, đạo đức, triết học..." được con người lĩnh hội và trở
thành thế giới quan, các nguyên tắc và quy phạm ứng xử, quan điểm sống của họ, nghĩa
là những bản tính hoặc thuộc tính, phẩm chất không tách rời con người - đó là những
đặc trưng chính trị, tư tưởng, đạo đức và những đặc trưng khác của nhân tố con người.
Tất cả những phẩm chất đa dạng biểu hiện trong các dạng thức hoạt động khác nhau của
con người, trong quan hệ của nó với những người khác, với thế giới chung quanh đều
bao hàm trong khái niệm "nhân tố con người". Khái niệm đó thể hiện tính tích cực xã
hội của "cá nhân" [5]. RG. Janovskij cũng đưa ra quan niệm tương tự trong định nghĩa
của mình về nhân tố con người: "Nó như là tổng hòa những khả năng, thuộc tính, tri
thức, kinh nghiệm, năng lực và thói quen đang phát triển của con người mà chúng biểu
lộ trong hoạt động của con người và qua đó ảnh hưởng đến các quá trình xã hội" [5].
ở Việt Nam, vấn đề nhân tố con người đã được nhiều người quan tâm nghiên
cứu. Một số công trình nghiên cứu xem xét nhân tố con người trong một chỉnh thể thống
nhất toàn vẹn bao quát những đặc trưng bản chất nói lên con người vừa là chủ thể hoạt
động, chủ thể mang những đặc trưng về phẩm chất, năng lực, đồng thời là chủ thể tiếp
thu sáng tạo giá trị xã hội. Quan niệm khác xem:
Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định
vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người bao gồm một
chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về
phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát
triển xã hội nhất định [27, tr. 120].
Kế thừa những quan điểm của các tác giả trên, có thể đưa ra một quan niệm như
sau:
Nhân tố con người là sự thống nhất hữu cơ các mối liên hệ, quan hệ giữa các
mặt hoạt động với các đặc trưng về năng lực, phẩm chất xã hội của con người trong
quá trình sáng tạo ra toàn bộ đời sống hiện thực.
ở đây, khái niệm "nhân tố con người" phản ánh những đặc trưng bản chất nhất
của con người hiện thực - với tính cách là một thực thể xã hội:
- Hoạt động thực tiễn là đặc trưng bản chất nhất của con người hiện thực với tư
cách là chủ thể sáng tạo. Đương nhiên, hoạt động đó của con người là do nhu cầu của con
người quyết định (chứ không phải do ý thức, tư duy), những nhu cầu đó "được phản ánh
vào trong đầu óc con người làm cho người ta ý thức rõ hơn về nhu cầu đó". Do đó, quá
trình hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có phương pháp. Qua đó, nhân tố
con người giữ vai trò là tác nhân trực tiếp tạo ra sự biến đổi, phát triển của lịch sử. Hoạt
động thực tiễn vừa là cơ sở vừa là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức, thúc đẩy sự
hình hành phát triển các đặc trưng về năng lực, phẩm chất của con người, đồng thời là
quá trình hiện thực hóa các năng lực, phẩm chất của con người. Cùng với sự tiến triển
của hoạt động thực tiễn, các đặc trưng về năng lực, phẩm chất của con người ngày càng
phát triển và hoàn thiện hơn.
- Những phẩm chất, năng lực của con người phản ánh những giá trị xã hội trong
những điều kiện lịch sử cụ thể - đặc trưng cho con người với tư cách là một nhân cách.
Các năng lực: nhận thức, tổ chức quản lý, điều hành hoạt động, khả năng tự ý thức, tự
nhận thức, tự đánh giá hành vi trong hoạt động của chủ thể... Các phẩm chất xã hội:
quan điểm đạo đức, chính trị, thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập trường, thái độ, lối
ứng xử... Những năng lực, phẩm chất đó đặc trưng cho con người với tư cách là chủ thể
mang những giá trị văn hóa - lịch sử, phản ánh trình độ phát triển, mức độ hoàn thiện
của con người.
- Mối liên hệ biện chứng giữa các mặt hoạt động (hoạt động thực tiễn và hoạt
động nhận thức), các đặc trưng về năng lực, phẩm chất tạo thành nhân tố con người như
một chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, chính sự tác động qua lại giữa các mặt, các đặc
trưng về năng lực, phẩm chất của con người làm cho nhân tố con người luôn luôn vận
động, phát triển không ngừng trong tiến trình lịch sử. Qua đó, phản ánh quá trình con
người sáng tạo ra thế giới đối tượng thì cũng sáng tạo ra chính bản thân mình. Nhân
tố con người biểu hiện ra với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo, đồng thời là đối
tượng (khách thể) của quá trình đó. Cũng với ý nghĩa này con người trở thành "vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội".
Vấn đề cần phân biệt ở đây là khái niệm "nhân tố con người" với "nguồn lực
con người" hay "nguồn nhân lực". Hiện nay khái niệm "nguồn nhân lực" dùng cùng
nghĩa với "nguồn lực con người".
Nói tới nguồn lực con người, ta thường nói tới mặt số lượng và chất lượng. Mặt
số lượng của nguồn lực con người chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực
lượng lao động cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Các chỉ tiêu về số lượng của nguồn lực
con người của một quốc gia là dân số, tốc độ tăng dân số, tuổi thọ bình quân, cấu trúc
của dân số; số dân ở độ tuổi lao động, số người ăn theo... Về mặt chất lượng nguồn lực
con người là khả năng hoạt động năng động sáng tạo của con người cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Các chỉ tiêu về chất lượng: thể lực, trí lực, kỹ năng kỹ xảo, các phẩm
chất xã hội: ý thức đạo đức, chính trị, niềm tin, lý tưởng... là yếu tố quan trọng nhất
trong nguồn lực con người. Mặt chất lượng của nguồn lực con người là yếu tố quyết
định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
Nói tới phát huy nguồn lực con người là nói tới 3 phương diện: phát triển nguồn
lực, sử dụng nguồn lực và nuôi dưỡng môi trường cho nguồn lực [35, tr. 287].
Như vậy, khái niệm nguồn lực hay "nguồn nhân lực" là dùng để nói lên khả
năng và phẩm chất của lực lượng lao động xã hội. Nội dung của nó bao gồm cả mặt số
lượng và chất lượng của lao động xã hội. Còn khái niệm nhân tố con người là phản ánh
bản chất xã hội của con người, của nguồn lực con người, là hạt nhất cốt lõi đặc trưng
cho mặt chất lượng của nguồn lực con người, nhấn mạnh vai trò chủ thể tích cực, năng
động, sáng tạo của con người.
Khái niệm "nhân tố con người" và "nguồn lực con người" có cùng một nghĩa
như nhau khi đặt trong mối quan hệ với các nhân tố khác (vật chất) đều biểu hiện ở
những đặc trưng, thuộc tính cơ bản của con người: là nhân tố hoạt động sống, khả năng
tái sản sinh và tự nhân mình lên gấp bội tiềm năng vô tận của trí tuệ và tinh thần con
người. "Do đó, phát huy nhân tố con người có thể hiểu như là phát huy nguồn lực con
người, khi con người trở thành một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra
động lực phát triển của một quá trình xã hội" [15, tr. 127].
1.1.2. Những điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố
con người ở Việt Nam
- Môi trường tự nhiên (môi trường địa lý)
Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm địa hình, khí hậu, tài nguyên sinh thái là
một thiên nhiên nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng, chứa đựng nhiều tiềm năng to
lớn, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với con người.
Tuy ba miền Bắc - Trung - Nam mà mỗi miền có những nét khác biệt nhau về
địa hình, khí hậu, môi trường sinh thái, tài nguyên, nhưng tính nhiệt đới gió mùa và bán
đảo vẫn là đặc trưng chung của thiên nhiên Việt Nam. Những điều kiện tự nhiên đó kết
hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có ảnh hưởng nhất định đến vai trò hoạt động của
nhân tố con người, đến tính tích cực, sáng tạo của con người, lòng say mê hoạt động của
họ cũng như tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ trong quá trình xây dựng nước nhà,
phát triển kinh tế, xã hội.
Trong lịch sử xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, con người Việt
Nam vừa thích nghi vừa khai phá những tài nguyên và mặt thuận lợi của thiên nhiên để
mở mang ruộng đồng, làng xóm, phát triển kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước kết hợp
với nghề thủ công, chăn nuôi, săn bắt... Mặt khác, con người cũng phải liên kết với nhau
trong cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại của thiên nhiên, chống thiên tai, nhất là
lũ lụt, hạn hán... Từ rất sớm con người Việt Nam đã biết đắp đê sông, đê biển chống lũ
lụt, bão tố, đào kênh, khơi mương làm thủy lợi để chống hạn hán, tưới tiêu cho đồng
ruộng. Công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội trong những đặc điểm
của thiên nhiên Việt Nam, sớm tạo nên sự gắn bó cộng đồng, sự gắn bó quê hương, xóm
làng là một trong những cơ sở của tình yêu đất nước. Từ đó tạo ra sự gắn bó chung sống
và hòa đồng giữa con người với thiên nhiên, sự gắn bó con người với con người trong
tính cộng đồng cao của truyền thống Việt Nam.
Những nét đặc thù của thiên nhiên Việt Nam kết hợp với điều kiện lịch sử cụ
thể mà trong hoạt động thực tiễn sản xuất đã sớm rèn luyện cho con người Việt Nam
những đức tính tốt đẹp đáng trân trọng và cần được phát huy đó là: có lòng bao dung độ
lượng, thương người như thể thương thân, hoạn nạn có nhau; yêu quê hương nơi chôn
rau cắt rốn, yêu thiên nhiên; cần cù chịu khó trong lao động; khả năng thích ứng linh
hoạt đối phó với thiên tai bất ngờ. Đặc biệt là sớm hình thành ý thức sức mạnh của cộng
đồng mà trong đó sức mạnh của mỗi thành viên được nhân lên trong quá trình khai khẩn
đất đai, trị thủy.
- Điều kiện kinh tế- xã hội (ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người)
Điều kiện kinh tế - xã hội, xét đến cùng là cái ảnh hưởng có tính quyết định đối
với việc phát huy nhân tố con người.
Việt Nam vốn là một nước có nền sản xuất nhỏ tồn tại phổ biến, lâu dài trong
hàng ngàn năm lịch sử, ảnh hưởng rất lớn đến việc phát huy nhân tố con người.
Đặc điểm quan trọng của nền sản xuất nhỏ Việt Nam là cơ sở kỹ thuật thủ công
lạc hậu, tư liệu sản xuất thích ứng với sử dụng cá nhân, phân công lao động có tính chất
tự nhiên, truyền thống, thời vụ, giới tính, lao động cá thể chiếm ưu thế, năng suất lao
động thấp, sản xuất cò con, manh mún, nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp...
Lối tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, kém phát triển về tư duy lý luận là kết quả
của nền sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán. Trình độ kỹ thuật thủ công lạc hậu, hoạt
động cơ bắp là chủ yếu, các thao tác đơn giản dựa vào thói quen kinh nghiệm trong sản
xuất. Người nào tích lũy được nhiều kinh nghiệm coi như là "cẩm nang" của mình. Sức
lao động cơ bắp đóng vai trò quyết định. Hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm rất thấp.
Hoạt động sản xuất phụ thuộc rất lớn vào "ân huệ" của giới tự nhiên ban tặng như độ
màu mỡ của đất đai, chim muông, thú rừng...
Do đó, khả năng chinh phục giới tự nhiên rất kém, điều đó cũng có nghĩa là khả
năng phát triển trí tuệ rất thấp - tư duy khoa học không phát triển lên được, dành chỗ
cho tư duy huyền thoại vốn đã xuất hiện từ sớm cùng với lịch sử loài người.
Nền sản xuất tiểu nông, năng suất lao động thấp, người ta phải lo vun vén cho
lợi ích nhỏ nhen của mình. Tính ích kỷ nhỏ nhen, trục lợi lại trỗi dậy có khi lấn át cả
tính cộng đồng. Người ta thường chỉ thấy lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ mà không
thấy được lợi ích toàn bộ, lâu dài. Phương pháp suy nghĩ nặng về tình cảm, nhẹ về lý trí,
dễ mắc bệnh chủ quan ảo tưởng, làm kìm hãm sự phát triển trí tuệ, hạn chế tính tích cực,
năng động, sáng tạo của con người.
Nền kinh tế khép kín, tự túc, tự cấp, lại bị hàng ngàn năm Bắc thuộc, do vậy
không có khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật của nền đại công nghiệp. Đây cũng là
một nguyên nhân cản trở phát triển tư duy trí tuệ, tư duy kinh tế.
Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, với nền sản xuất nhỏ,
manh mún, đời sống bấp bênh đã rèn luyện cho con người tính cần cù, chịu khó, ý chí
vượt qua khó khăn, khả năng phản ứng mau lẹ, linh hoạt, thông minh sáng tạo.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay đòi hỏi một mặt, kiên quyết đấu
tranh khắc phục những tàn dư, tư tưởng tiêu cực, lạc hậu, mặt khác, phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc gắn liền với nâng cao, phát triển tư duy lý luận, tư duy kinh tế.
- Điều kiện văn hóa - lịch sử
Lịch sử dân tộc ta đã phải trải qua những cuộc chiến tranh tàn khốc, nguy hiểm
đến sự tồn vong của dân tộc, nguy cơ bị đồng hóa, mất nước, để lại những hậu quả hết
sức nặng nề, tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, đòi hỏi thời gian lâu dài mới khắc
phục được. Ngay cả bây giờ, các thể lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế
độ XHCN và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. ảnh hưởng cực kỳ to lớn đến công
cuộc xây dựng đất nước đi lên CNXH.
Chính tính đặc thù trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã tác
động sâu sắc đến sự phát triển tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, ý chí quật cường,
bất khuất, niềm tự hào dân tộc.
Tinh thần yêu nước, yêu quê hương xử sở, nơi chôn rau cắt rốn được hun đúc
lên và phát triển thành ý thức bảo vệ non sông đất nước, ý thức sâu sắc về lãnh thổ quốc
gia.
Chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh truyền bá vào Việt Nam cùng với
phong trào yêu nước và phong trào công nhân dẫn đến thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam đã đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945, thành lập Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Tiếp theo 30 năm kháng chiến đi đến thắng lợi mùa xuân năm
1975, giành lại được độc lập, thống nhất đất nước.
Độc lập dân tộc kết hợp với CNXH, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa
Mác - Lênin trở thành nguồn động lực tinh thần và có ý nghĩa quyết định trong thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước là giá trị truyền thống quan trọng nhất của dân tộc
Việt Nam, là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [7,
tr. 94]. Chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, bảo đảm sự phát
triển bền vững và ổn định của kinh tế, xã hội, bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hóa và hội
nhập vào cộng đồng khu vực cũng như cộng đồng thế giới. Chính thời kỳ Bắc thuộc hơn
một ngàn năm với tất cả những âm mưu đồng hóa của ngoại bang là một thử thách hết
sức ác liệt đối với sự tồn vong của đất nước, dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước vẫn là động
lực tinh thần nội sinh để chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, để xây dựng phát triển đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc Việt Nam,
là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng
đầu bậc thang giá trị dân tộc. Tinh thần đó đã được phát huy sức mạnh vô biên của nó
trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là mẫu số chung, là một động lực tinh
thần nội sinh của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta cần được nâng cao lên ngang tầm thời đại,
đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước tiến lên văn minh hiện đại, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chuyển từ động lực tinh thần
trong chống ngoại xâm sang động lực tinh thần trong xây dựng đất nước, khắc phục
nghèo nàn lạc hậu, coi nghèo nàn lạc hậu, coi thua kém các nước trong khu vực và thế
giới là nỗi nhục như nỗi nhục mất nước, nỗi nhục nô lệ.
Cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng, trong lịch sử đã phải chứng kiến không ít
trường hợp phát triển chệch hướng của tinh thần dân tộc hoặc theo khuynh hướng Sô-
vanh nước lớn, chủ nghĩa đại dân tộc, hoặc theo khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi, chủ nghĩa quốc gia vị kỷ. Trên thế giới hiện nay, cả hai khuynh hướng đó là nguyên
nhân sâu xa của nhiều xung đột sắc tộc, quốc gia, khu vực. Nhưng trong lịch sử cũng đã
thể nghiệm sức mạnh lớn lao của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của
nhiều dân tộc trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc mình.
Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của Việt Nam trong thời đại
ngày nay là:
- Kết hợp độc lập dân tộc với CNXH.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Tiếp nhận những tư tưởng tiên tiến của thời đại văn minh công nghiệp và hậu
công nghiệp.
Chủ nghĩa yêu nước giữ một vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc đổi
mới, CNH, HĐH đất nước hiện nay. Chủ nghĩa yêu nước là mẫu số chung của mọi
người Việt Nam thuộc các dân tộc người (ta có 54 tộc người quen gọi là 54 dân tộc), các
tầng lớp xã hội và tôn giáo khác nhau cũng như mọi thành viên trong cộng đồng Việt
Nam thuộc các xu hướng chính trị khác nhau đang sinh sống ở nước ngoài. Đó là cơ sở
chung cần phát huy để đoàn kết tập hợp mọi lực lượng của dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, là động lực
nội sinh tạo nên quyết tâm, ý chí, nghị lực và trí tuệ để xây dựng đất nước, vượt qua
nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp trào lưu văn minh của thời đại, đảm bảo sự phát triển bền
vững và ổn định, đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc trong giao lưu văn hóa và hội nhập
vào cộng đồng khu vực cũng như cộng đồng thế giới.
Yêu cầu đặt ra trong việc phát huy chủ nghĩa yêu nước trong quá trình CNH,
HĐH thực hiện sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh là phải nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa yêu nước, lòng tự
tôn dân tộc. Do vậy, cần phải có những giải pháp đồng bộ trong giáo dục gia đình,
trường học và tạo lập môi trường văn hóa xã hội mang tính giáo dục cao của toàn xã
hội.
1.2. vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
1.2.1. Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam - thuận lợi và khó khăn
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước nói chung và cũng là chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước ta
nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn có thể nêu ra một số đặc điểm
sau đây:
- Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát triển LLSX
vừa củng cố hoàn thiện QHSX XHCN ở nông thôn phù hợp với mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế, xã hội nói chung của đất nước trong từng thời kỳ. Thực chất là quá
trình tạo ra những tiền đề cần thiết về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ,
phương tiện, phương pháp - những yếu tố cơ bản của LLSX cho CNXH... Trong giai
đoạn đầu của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã chỉ rõ: quá trình phát triển LLSX là "quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo năng suất lao động xã hội cao" [11,
tr. 4].
- Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trước hết nhằm khai thác có
hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, đảm bảo vững chắc yêu cầu an
toàn lương thực cho xã hội; tạo nguồn nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao,
giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công nghệ chế biến; tăng giá trị hàng xuất
khẩu; tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; phân công lại lao động xã
hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị hóa tại chỗ, mở rộng thị trường
sản phẩm và dịch vụ công nghiệp...
- Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn không chỉ đơn giản là phát triển
công nghiệp nông thôn và HĐH một số công đoạn sản xuất nông nghiệp như cơ giới
hóa, điện khí hóa mà nó còn bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
đời sống vật chất và văn hóa tinh thần nói chung ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất
công nghiệp hiện đại và phương thức tổ chức tiên tiến. Đó là quá trình phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp; hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp
lý về cây trồng vật nuôi, thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa;
phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản với công nghệ ngày càng cao gắn
với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp đô thị; phát triển các ngành nghề
truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi
nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân; xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới, văn minh
hiện đại.
- Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước gắn liền với thị trường trong và ngoài nước. Nền kinh tế sản
xuất hàng hóa nhiều thành phần chính là xây dựng một hệ thống QHSX phù hợp với
tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, có tác dụng to lớn
trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển LLSX, có khả năng hội nhập
vào thị trường quốc tế.
Tóm lại: Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải giữ vững định
hướng XHCN vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của LLSX, vừa là nhân tố tích cực để
củng cố, hoàn thiện QHSX XHCN ở nông thôn phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội chung của đất nước trong từng thời kỳ. CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn trước hết và chủ yếu nhằm tăng nhanh tốc độ tăng trưởng nông nghiệp,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ, xây dựng nông thôn mới và
nâng cao đời sống nhân dân. Song đích cuối cùng phải hướng tới đó là nâng cao hiệu
quả tổng hợp của toàn bộ đất nước, bao gồm cả kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng,
môi trường, sinh thái.
Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn:
Những thuận lợi:
- Chính quyền thuộc về nhân dân, nước nhà đi vào giai đoạn hòa bình để xây
dựng, nhân dân ta vốn có truyền thống yêu nước tinh thần đoàn kết, lòng tự tôn dân tộc
với quyết tâm chống nghèo nàn lạc hậu, có tinh thần lao động cần cù, chịu khó, thông
minh, sáng tạo... Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta sẽ là động lực tinh thần phát
huy sức mạnh nội lực thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo
đảm cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu là khâu đột phá. Chỉ thị 100 của Ban bí thư
(khóa IV), nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) được triển khai cùng các nghị
quyết, chỉ thị khác của Đại hội và hội nghị Trung ương các khóa V, VI, VII và VIII đã
thực sự đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đã đưa lại những thành tựu
to lớn trong nông nghiệp, nông thôn càng khẳng định vai trò to lớn của Đảng.
- Nông thôn nước ta chiếm đại bộ phận dân cư, với trên 70% lực lượng lao động
xã hội, là nguồn nhân lực dồi dào cho quá trình CNH, HĐH để mở rộng phát triển phân
công lao động xã hội, phát triển mở rộng các ngành nghề, phát triển công nghiệp, dịch
vụ... Đây chính là nguồn nhân lực to lớn, có khả năng phát huy sức sáng tạo vô tận
không cạn kiệt. CNH gắn liền với đô thị hóa và thu hút nguồn lao động từ nông nghiệp
chuyển sang ngành nghề phi nông nghiệp, chủ yếu là dịch vụ. Quá trình CNH, HĐH tuy
không đòi hỏi tăng nhanh về số lượng lao động vào các hoạt động thuần túy nông
nghiệp, nhưng nó đòi hỏi nhiều hoạt động dịch vụ hỗ trợ như vận chuyển, bao bì, đóng
gói, phân loại sản phẩm, ngân hàng, tiếp thị, thông tin thị trường, y tế, văn hóa, giáo
dục, môi trường, điện nước... Khi các hoạt động này tăng nhanh cả về số lượng và năng
lực thì đòi hỏi nguồn lao động bổ sung rất lớn từ nông nghiệp.
- Gần 80% dân số cả nước sống ở nông thôn là một thị trường rộng lớn cho
CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Với
thị trường đông dân và sức mua hiện nay còn thấp, tiềm năng có thể khai thác rất lớn. Vì
CNH và HĐH nền kinh tế muốn phát triển bền vững và ổn định phải dựa vào thị trường
trong nước, trước hết là nông dân. Có thể nói, sức mua của nông dân có vai trò quan
trọng đôi khi là quyết định đối với quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch
vụ.
- Nông nghiệp, nông thôn chiếm tuyệt đại đa số tài nguyên thiên nhiên như đất
đai, khoáng sản, động, thực vật, rừng và biển... là nơi ẩn chứa những tiềm năng to lớn
cho quá trình CNH, HĐH. Sự phong phú đa dạng của tài nguyên thiên nhiên sẽ là điều
kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cây trồng vật nuôi... cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến xuất khẩu...
Quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa nền sản xuất và đời sống xã hội, đã tạo khả
năng vận dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại qua giao lưu, hội nhập
và hợp tác quốc tế đa phương đa diện. Điều đó cho phép bỏ qua những "nấc thang" mà
loài người đã phải trải qua một cách chậm chạp trong tiến trình lịch sử. Đó chính là cơ
hội tốt nhất mà thời đại đưa đến cho các nước chậm phát triển đi lên CNXH bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như Việt Nam.
Khó khăn:
- Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh để lại hậu quả hết sức nặng nề.
Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc của nhân dân. Đây là một khó khăn
lớn cho việc xây dựng nông thôn mới, văn minh hiện đại - một trở lực cho quá trình
CNH, HĐH.
- Nền kinh tế Việt Nam vốn có điểm xuất phát thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu,
sản xuất manh mún, lại bị thiên tai, địch hoạ tàn phá nặng nề nên cơ sở vật chất - kỹ
thuật, nhất là hệ thống thủy lợi bị xuống cấp nghiêm trọng, vốn đầu tư lại bị thiếu. Thêm
vào đó, ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp kéo dài trong nhiều năm
cũng tạo ra những yếu tố kìm hãm đối với sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa gắn với thị trường, làm cho tiềm năng sản xuất, tài nguyên thiên nhiên ở vùng
nông thôn không được phát huy có hiệu quả. Điều đó, làm chậm tiến trình CNH, HĐH
đất nước cũng như đối với nông nghiệp, nông thôn.
- Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào CNH, HĐH ta chưa có chỉ số cao về
phát triển con người như mong muốn, mặt bằng dân trí thấp, số người được đào tạo tay
nghề chưa cao cũng như số người có học vấn đại học và sau đại học đều đang ít. Hiện
nay số phần đông lao động chưa được đào tạo về nghề nghiệp. Đây là khó khăn lớn nhất
cho việc tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại nhằm đạt tới mục tiêu CNH, HĐH.
- Thừa lao động là một sức ép lớn cho xã hội.
Theo số liệu điều tra của Bộ Lao động, thương binh và xã hội, tỷ lệ thất nghiệp
trong độ tuổi lao động ở nước ta có xu hướng tăng: năm 1996 tỷ lệ thất nghiệp 5,88%;
năm 1997: 6,61%; năm 1998 là 6,85% [4, tr. 35]. Theo dự báo của các nhà kinh tế từ
năm 1997 đến năm 2000, nước ta có nhu cầu giải quyết việc làm lên đến gần 8 triệu lao
động (gồm lao động đến tuổi, thất nghiệp năm trước để lại, dôi dư trong các doanh
nghiệp gặp khó khăn...), trong khi đó khả năng mỗi năm chỉ có thể tạo việc làm cho 1,1
đến 1,2 triệu lao động. Đây là một trong những khó khăn lớn hiện nay đối với việc phát
huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH.
1.2.2. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam
Con người là nguồn lực của mọi nguồn lực
Trong bất cứ thời đại lịch sử nào cái quyết định sự phát triển sản xuất - nền
tảng của toàn bộ đời sống xã hội và là cơ sở của sự tiến bộ lịch sử - không phải là
nhân tố nào khác mà là hoạt động của nhân tố con người. Đương nhiên, hoạt động của
con người là do nhu cầu của con người quyết định.
Thực tiễn lịch sử loài người đã và đang ngày càng chứng minh rằng, "coi trọng
nhân tố con người" và "phát triển nguồn lực con người" là bí quyết thành công của mỗi
quốc gia, dân tộc - ưu thế của sự phát triển bền vững.
Ngày nay, với thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
khoa học ngày càng "trở thành LLSX trực tiếp" - đúng như dự đoán của Mác. Một
bước ngoặt mới về chất của nền sản xuất xã hội đã mở ra, mà trong đó đặc biệt hàm
lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu cấu thành sản phẩm. Do xu thế mới của thời đại mở
ra - xu thế chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế trí tuệ. Con người càng
trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất xã hội, nguồn lực vô tận không bao giờ
cạn kiệt.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bước vào giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH chúng ta càng nhận thức được vị trí, vai trò to lớn của nhân tố con người.
Đảng ta xác định: "nhân tố con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải
vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của mọi quốc gia" [9, tr. 5].
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn - một bộ phận gắn liền với CNH,
HĐH đất nước - diễn ra trong những điều kiện thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy
cơ đan xen, tác động lẫn nhau. Để tận dụng những thuận lợi và thời cơ, khắc phục
những khó khăn và nguy cơ, để có thể "đi tắt, đón đầu" thực hiện mục tiêu CNH, HĐH
tùy thuộc trước hết vào chất lượng nhân tố con người.
Vai trò của nhân tố con người được biểu hiện tập trung ở vai trò nguồn lực con
người, nhưng nó có ý nghĩa rộng hơn, bao gồm những mục tiêu, động lực, phẩm chất và
năng lực của con người. Vì vậy, vai trò nhân tố con người còn được xem xét ở vai trò
của nhân tố tinh thần, tư tưởng mà sự giải phóng tinh thần và ý thức xã hội là một xung
lực to lớn, một trong những động lực căn bản của sự phát triển xã hội" [3, tr. 128].
Khi nói đến vai trò của nhân tố con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
phải đặt nó trong mối quan hệ với các nhân tố khác như: nhân tố tự nhiên (tài nguyên),
nhân tố kỹ thuật, kinh tế, quốc tế... Nhưng nhân tố con người vẫn là nguồn lực quyết
định nhất - nguồn lực của mọi nguồn lực và không bao giờ cạn kiệt.
Nhân tố tài nguyên thiên nhiên là cái sẵn có, có hạn, được con người khai thác
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên, tài nguyên thiên nhiên dù có phong
phú đến mức nào đó mà không được con người khai thác một cách hợp lý sẽ làm cho nó
chóng cạn kiệt và mặt khác, những hậu quả khôn lường của nó nguy hiểm đến sự tồn
sinh của con người. Bởi vậy, tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành một nhân tố cho sự
phát triển kinh tế - xã hội bền vững khi và chỉ khi biết phát huy tính tích cực, tự giác,
năng động, sáng tạo của nhân tố con người nhằm khai thác nó một cách có hiệu quả
nhất, bảo vệ tốt nhất môi trường tự nhiên trong lành vì sự sống của con người. Do đó,
yêu cầu cấp thiết của quá trình CNH, HĐH là phải phát huy vai trò nhân tố con người
nhằm bảo vệ và từng bước khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học vì tương
lai lâu dài của đất nước và của cả nhân loại.
Về nhân tố kỹ thuật được hiểu là:
Toàn bộ công cụ lao động và các tư liệu lao động khác mà xã hội
dùng để khai thác và chế biến sản phẩm tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu
của mình; một trong những bộ phận cấu thành của LLSX xã hội... Sự phát
triển của kỹ thuật liên hệ trực tiếp với sự phát triển của khoa học tự nhiên và
phụ thuộc lẫn nhau... [30, tr. 296].
Nhân tố kỹ thuật, đặc biệt là máy móc hiện đại đóng vai trò hết sức quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội khi được kết hợp với sức lao động của con người.
Công cụ lao động như Ăngghen nói là "khí quan của bộ óc", là sức mạnh trí tuệ con
người. Bởi vậy, khi công cụ lao động đạt tới trình độ tin học hóa, được tự động hóa...
thì vai trò "khí quan vật chất" của nó trở nên kỳ diệu. Nhưng trong điều kiện của chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhân tố kỹ thuật còn là phương tiện hữu hiệu để thực
hiện sự tha hóa bản chất con người. Chỉ khi hoàn toàn xóa bỏ chế độ tư hữu thì nhân
tố kỹ thuật mới thực sự trở thành duy nhất chỉ là phương tiện cho con người trở về với
bản chất đích thực của con người với tư cách là con người xã hội.
Thực tế hiện nay, những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại trước
khi đem lại khả năng to lớn cho các nước chậm phát triển vượt lên thì nó còn phải làm
nốt công việc giúp cho giai cấp tư sản quyền thống trị đối với các nước nhỏ yếu. Đối
với Việt Nam, từ một nền kinh tế thấp kém đi lên CNXH cũng không nằm ngoài sự chi
phối đó. Những thuận lợi và khó khăn, nguy cơ và thời cơ đang đặt ra trong việc phát
huy vai trò nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhân tố
kỹ thuật là sự vật chất hóa những thành tựu của tri thức nhân loại đóng vai trò to lớn
hơn bao giờ hết để lao động sống đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Cho nên, nó
là phương tiện để phát huy có hiệu quả nhất vai trò nhân tố con người trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Nhân tố kỹ thuật chỉ là phương tiện, khả năng sử dụng nó là
do con người, do trình độ hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo của họ quyết định. Do đó, để thực
hiện CNH, HĐH thành công trước hết phải chăm lo bồi dưỡng nguồn lực con người.
Ngay cả khi có vốn (tài chính) lớn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cũng
chỉ được phát huy sức mạnh khi con người biết sử dụng có mục đích, đúng mục đích và
có hiệu quả.
- Nhân tố quốc tế: Điểm nổi bật là do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa nền sản xuất và đời sống xã hội
là một tất yếu đang diễn ra cuốn hút tất cả các nước vào quá trình hội nhập quốc tế. Đây
là cơ hội lớn để chúng ta đẩy mạnh CNH, HĐH. Nhưng, sự tác động của toàn cầu hóa
đến quá trình CNH, HĐH phải thông qua con người, phụ thuộc vào việc con người tiếp
thu vận dụng được hay không những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phụ thuộc
vào khả năng giữ vững định hướng XHCN hay không. Bởi lẽ, những thành tựu khoa
học và công nghệ hiện đại với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa cũng đem lại cho chủ
nghĩa tư bản hiện đại nhiều phương tiện tối tân hơn và điều kiện dễ dàng hơn để bắt tất
cả các nước phải hàng phục nó, phải trở thành tư sản. Do đó, cái có tính quyết định cho
sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững vẫn phải là bồi dưỡng, phát triển nhân tố con
người cả về trí tuệ, năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Từ sự phân tích trên cho thấy tất cả các nhân tố của quá trình phát triển kinh tế -
xã hội thì nhân tố con người là trung tâm, là đóng vai trò quyết định.
Phát huy nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội
Nhân tố con người là động lực thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội, mà kết
quả cuối cùng đạt được là đem lại điều kiện thực tế cho việc giải phóng con người khỏi
mọi sự tha hóa, đưa "con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do".
Theo Mác, đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tự tạo ra những điều kiện, những
khả năng do chính mình đem lại sự phát triển toàn diện, tự do và hài hòa cho mỗi cá
nhân con người trong cộng đồng xã hội. Chỉ khi xã hội loài người đạt đến một trình độ
phát triển cao về LLSX thì khi đó "sự phát triển độc đáo và tự do của cá nhân" mới
"không còn là lời nói suông".
Xuất phát từ bản chất của CNXH, phát huy nhân tố con người, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Hoạt động của nhân tố con người là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vậy, trước hết cần xác định nguồn gốc, động lực của sự phát triển là thế nào ?
Theo quan điểm Mác xít:
Thứ nhất: Mâu thuần là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của
mọi sự vật, hiện tượng kể cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thứ hai: Quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo
khuynh hướng nào, mức độ nhanh hay chậm là tùy thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn
của sự vật hiện tượng đó. Nhấn mạnh động lực của sự phát triển, Lênin viết: "Sự phát
triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập" [19, tr. 379].
Từ tiền đề lý luận đó, có thể nói rằng khái niệm động lực của sự phát triển bao
hàm cả nguồn gốc của sự phát triển (cái gì gây nên sự phát triển) của sự vật hiện tượng.
Mặt khác, động lực của sự vận động, phát triển còn nói lên vai trò, vị trí của các mặt,
yếu tố, các mối liên hệ trong sự tác động qua lại lẫn nhau, bài trừ phủ định lẫn nhau,
thúc đẩy nhanh tốc độ vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Vận dụng vào lĩnh vực của đời sống xã hội cụ thể ở đây là hiểu thế nào về quan
điểm "con người là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội".
Nói đến con người, không phải là những con người chung chung, trừu tượng
phi lịch sử mà là những cá nhân hiện thực cảm tính đang sống và hoạt động trong những
quan hệ xã hội do họ sáng tạo ra, mà trước hết là hoạt động sản xuất vật chất.
Chính trong lao động sản xuất, con người có quan hệ với giới tự nhiên thì giữa
người với người phải có những quan hệ tất yếu khách quan nhất định. Đó là những quan
hệ trước hết trong sản xuất, trao đổi, tiêu dùng. Những quan hệ này là cơ sở của toàn bộ
các quan hệ xã hội khác và tạo thành xã hội. Đến lượt nó - tổng hòa của các quan hệ xã
hội - lại trở thành cái quy định tính tích cực, năng động, sáng tạo của hoạt động con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Phụ thuộc vào các mối quan hệ xã hội
cụ thể nhất định mà tính tích cực, năng động, sáng tạo của hoạt động của con người bị
kìm hãm hay thúc đẩy. Cho nên, hoạt động của con người là hoạt động được lý giải
được nhận thức, hoạt động có mục đích định sẵn cũng không có nghĩa hoạt động đó
hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà xét đến cùng là do quan
hệ kinh tế quyết định (không phải là duy nhất).
Thông qua các mối quan hệ xã hội gắn với phương thức sản xuất nhất định mà
trong đó người ta sống và hoạt động mới biết được vai trò, địa vị của họ, cũng như sứ
mệnh lịch sử của các giai cấp, tập đoàn xã hội có còn giữ vai trò tiên phong thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội hay đang là một trở lực của quá trình đó. Cũng chính vì vậy
mà lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa Mác đã phát hiện ra quần chúng nhân dân là
người sáng tạo chân chính ra lịch sử, khẳng định sức mạnh to lớn của tính cộng đồng,
tính tập thể của con người với tư cách là chủ thể của lịch sử. Quần chúng nhân dân là
chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Trong lịch
sử, mỗi khi lợi ích của quần chúng bị đe dọa, bị tước đoạt thì sớm hay muộn họ cũng
đứng lên đấu tranh chống lại sự tước đoạt đó, và được kết thúc bằng một cuộc cách
mạng xã hội lật đổ mọi ách thống trị, thúc đẩy sự tiến bộ vượt bậc của xã hội.
Do vậy, chỉ thông qua các mối quan hệ xã hội gắn với phương thức sản xuất
nhất định mới biết được yếu tố nào, mối liên hệ nào gây nên, kích thích, thúc đẩy hoạt
động của nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Qua đó mới có
thể tạo điều kiện khách quan nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò nhân tố con người (nhân
tố chủ quan) với tư cách là chủ thể của mọi sáng tạo các giá trị xã hội. Đặc biệt là phát
huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng XHCN.
Điều đó cũng xuất phát từ quy luật và bản chất tốt đẹp của CNXH, con người không chỉ
là động lực mà còn là mục tiêu của các quá trình kinh tế - xã hội, tất cả từ con người, do
con người và vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân.
Khi xem xét con người là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội thì không
thể tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội trong đó họ thực hiện hoạt động cải biến
các quá trình kinh tế - xã hội, mà phải xem xét con người như một nhân tố trung tâm
của quá trình đó. Trước hết phải xem xét con người trong hai mặt của mối "quan hệ
song trùng" thống nhất biện chứng với nhau, đó là mối quan hệ biện chứng giữa LLSX
và QHSX.
Thứ nhất: Trong quan hệ với giới tự nhiên con người biểu hiện ra như một nhân
tố trong mối liên hệ, quan hệ biện chứng chặt chẽ với tư liệu sản xuất tạo thành một
chỉnh thể thống nhất, đó là LLSX. Sự tác động qua lại giữa các nhân tố trong chỉnh thể
thống nhất đó là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng giữa nhân tố chủ quan (nhân tố
con người) với nhân tố khách quan (nhân tố vật chất sản xuất). Đặc biệt trong quá trình
đó vai trò nhân tố chủ quan ngày càng được nâng cao "Sự vận động đó, đối với chúng ra
ít ra cũng là vô tận - vô tận đi lên trong sự nối tiếp của các thế hệ". Điều này thể hiện ở
quá trình hoạt động sản xuất của con người không ngừng tạo ra những công cụ lao động
mới ngày càng tinh xảo hơn, hiện đại hơn, trở thành phương tiện nâng cao sức sản xuất
của họ. Đồng thời sự hiểu biết, trí thông minh, kinh nghiệm sản xuất... của con người
cũng được phát triển nâng cao. Nói cách khác, thông qua hoạt động sản xuất mà con
người ngày càng phát hiện ra những quy luật của giới tự nhiên và vận dụng nó một cách
có hiệu quả hơn. Do đó, quá trình giải quyết mâu thuẫn trên đây là động lực thúc đẩy
sự phát triển của LLSX và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi, phát triển mọi mặt
của đời sống xã hội.
Thứ hai: Để làm rõ vai trò động lực của nhân tố con người trong sự phát triển
kinh tế - xã hội phải xem xét nó trong sự thống nhất biện chứng giữa LLSX và QHSX.
Những QHSX là quan hệ kinh tế được hình thành một cách khách quan không
phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người, nhưng không tồn tại bên ngoài mà ngược lại
gắn liền với hoạt động của con người với tư cách là nhân tố cấu thành LLSX. QHSX
biểu hiện về mặt xã hội là quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã
hội. Do đó, nó trở thành cái chi phối mạnh mẽ nhất, xét đến cùng là cái quyết định động
cơ, mục đích và phương thức hoạt động của con người. Bởi vậy, hoạt động có tính chất
"tự do" theo đuổi mục đích của con người lại bị chi phối, quy định, ràng buộc, giới hạn
bởi tính tất yếu khách quan của những quan hệ lợi ích giữa các cá nhân với nhau, giữa
cá nhân với xã hội và điều đó tạo nên khuynh hướng vận động của lịch sử.
Thế là, quá trình vận động của lịch sử diễn ra không phải là thẳng tắp mà ngược
lại, rất phức tạp thể hiện ở tính đứt đoạn trong vận động liên tục, tính quanh co khúc
khuỷu có những bước nhảy vọt lớn nhưng không loại trừ những bước thụt lùi tạm thời.
Quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã
hội thực chất là giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa chúng, và tạo thành động lực thúc
đẩy mạnh mẽ hoạt động tự giác sáng tạo của con người trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội.
Mối quan hệ lợi ích này, "mặc dù có thể bị những quan hệ khác - những quan hệ
chính trị tư tưởng - ảnh hưởng đến đâu chăng nữa", nhưng xét đến cùng vẫn là cái quyết
định nhất đối với hành động của con người. Với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo,
khả năng phát huy tính tự giác, tích cực, năng động, sáng tạo của con người được quy
định trước hết bởi việc giải quyết mối quan hệ lợi ích chứ không phải bằng sự cưỡng
chế đối với họ. Việc giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân và xã hội là động lực to lớn nhất làm cho người lao động, phát huy năng lực thể
chất và năng lực tinh thần trong quá trình cải biến kinh tế - xã hội.
Tình hình trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng cũng tương tự. Trước thực tế của
Việt Nam, khi Tổ quốc lâm nguy, ngàn cân treo đầu sợi tóc bởi kẻ thù xâm lược, sự
sống còn của mỗi thành viên gắn liền với cả cộng đồng dân tộc - một sự thống nhất
cao về lợi ích đã thúc đẩy toàn dân nhất tề đứng lên tạo thành một sức mạnh của tính
tự giác chiến thắng bất cứ kẻ thù nào.
ở đây cần nhấn mạnh hơn rằng, nhu cầu lợi ích của con người là vô cùng phong
phú, đa dạng, không thể cùng một lúc đáp ứng đầy đủ, bởi nhu cầu lợi ích luôn luôn nảy
sinh. Cho nên, việc đáp ứng nhu cầu lợi ích ngày càng tăng của người lao động chỉ được
thực hiện thông qua việc giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với xã hội. Chính việc giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích này trở thành
động lực thúc đẩy hoạt động của con người vì lợi ích chính đáng của họ được bảo đảm
tương ứng với sức sản xuất của họ.
Mối quan hệ lợi ích trên không phải dựa vào ý muốn chủ quan của con người
mà ngược lại, được quyết định bởi QHSX (quan hệ kinh tế) hiện có tương ứng với
trình độ của một LLSX nhất định. Thực chất được quyết định bởi mối quan hệ biện
chứng giữa LLSX và QHSX. Nếu QHSX không phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX thì sẽ kìm hãm sức sáng tạo của người lao động với tư cách là một nhân tố quan
trọng nhất của LLSX.
Tính ổn định của các quan hệ xã hội được bảo vệ, duy trì, củng cố bởi hệ thống
các chính sách - cái phản ánh cơ sở kinh tế đó. Bản thân các chính sách này là sản phẩm
chủ quan của chính Đảng đang cầm quyền lãnh đạo với tính cách là chủ thể định hướng
đối với các quan hệ kinh tế - xã hội. Do đó, tính đúng đắn của các chính sách phụ thuộc
vào năng lực nhận thức của chính Đảng (chủ thể định hướng) đối với các quá trình kinh
tế - xã hội (cái khách quan).
Thế là, nhân tố con người (quần chúng lao động) với tư cách là chủ thể hoạt
động cải biến các quá trình kinh tế - xã hội, đồng thời vừa là khách thể, đối tượng của
chính sách, của quản lý. Tính đúng đắn của cơ chế, chính sách trước hết là phản ánh
đúng đắn các quan hệ kinh tế (quan hệ lợi ích), lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy
hoạt động tích cực, năng động, sáng tạo của nhân tố con người trong quá trình cải biến
kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính sách đúng đắn còn biểu hiện ở khả năng ngăn chặn một
khuynh hướng phát triển nào đó để hướng quá trình phát triển theo một khuynh hướng
khác ổn định, bền vững hơn.
Từ phân tích đó cho thấy rằng, vai trò của chủ thể định hướng lại trực tiếp quyết
định sự phát triển. Do đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tính đúng đắn của đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ:
- Tiền đề lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Từ thực tiễn: xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của quần chúng
nhân dân lao động, vì hạnh phúc của nhân dân.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn xuất phát từ một nền kinh tế
kém phát triển, trình độ LLSX thấp, trước hết cần phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ lợi ích kinh tế giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Đó là nền tảng
cho việc đáp ứng các nhu cầu lợi ích khác nhau của mỗi con người và cộng đồng xã
hội - tạo nên sức mạnh cộng đồng thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội
một cách bền vững.
Có một cơ chế chính sách nhằm giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích giữa
các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với xã hội trên cơ sở trình độ phát triển của LLSX
hiện có, sẽ làm cho người lao động ý thức rõ hơn về sự cần thiết phải liên kết, đoàn kết
với nhau trong tập đoàn, cộng đồng xã hội. Hơn nữa, họ càng ý thức được rằng, chính
trong sự đoàn kết cộng đồng mà sức mạnh của mỗi thành viên càng được nhân lên gấp
bội và sự hưởng thụ cũng theo đó mà tăng lên - một sự hưởng thụ thực sự chính đáng
bằng sức lao động sáng tạo của mình. Qua đó, quần chúng nhân dân lao động ý thức rõ
hơn về quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhau và đối với xã hội, tạo thành động cơ tư
tưởng thúc đẩy họ hoạt động sáng tạo trong quá trình cải biến kinh tế - xã hội. Sự tác
động của động cơ tư tưởng chính là ở chỗ người ta ý thức được tồn tại. Đúng như
Ăngghen nói:
Cái trực tiếp thúc đẩy con người ta hành động trước hết chính là
động cơ tư tưởng của họ, nhưng bản thân những động cơ tư tưởng ấy lại
do hoàn cảnh bên ngoài, xét đến cùng là hoàn cảnh kinh tế quyết định [24,
tr. 406].
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích kinh tế là nền tảng cho việc giải quyết
tối quan hệ giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng,
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, đảm bảo sự thắng lợi của quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Đây là cơ sở lý luận để hiểu thực chất vai trò động lực của nhân tố con người
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nói đến phát huy vai trò nhân tố
con người, một mặt tạo ra những điều kiện, môi trường xã hội cho hoạt động tự do sáng
tạo của con người, mặt khác phải nâng cao năng lực nhận thức, năng lực thực tiễn cùng
với những phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng... nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động sáng tạo trong quá trình cải biến tự nhiên và xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt đối với nước ta, từ một nền kinh
tế kém phát triển đi vào CNH, HĐH thì việc bồi dưỡng, nâng cao, phát triển trình độ
nhận thức, trình độ lý luận, năng lực thực tiễn, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng... có một ý nghĩa quyết định rút ngắn tiến trình lịch
sử.
Có nhiều ý kiến khác nhau về động lực của con người như: vai trò lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước; chế độ dân chủ; chính sách xã hội; giáo dục - đào tạo; văn hóa;
truyền thống; lý tưởng; niềm tin; nhu cầu lợi ích; công bằng; dân chủ; môi trường tâm
lý... Tùy đối tượng và phương pháp nghiên cứu mà coi đó là động lực của con người.
Do điều kiện hạn chế, đề tài chỉ tập trung chỉ ra những động lực cơ bản nhất có
tính quy luật nhằm phát huy vai trò nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn hiện nay.
- Cơ chế chính sách đúng đắn đối với nông dân nhằm đảm bảo khả năng thỏa
mãn nhu cầu lợi ích ngày càng cao trên cơ sở phát triển sản xuất của họ là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động tích cực, năng động, sáng tạo của người dân nông thôn
phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng và bền vững. Mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta đối với người dân nông thôn cũng đều tạo điều kiện và cơ hội tốt
nhất cho mọi người tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả nhất và hưởng
thụ chính đáng những thành quả do sự nghiệp đổi mới đem lại, bảo vệ quyền và nghĩa
vụ chính đáng của nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân đang là một động lực to lớn
thúc đẩy quần chúng lao động ở nông thôn phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Dân chủ gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con người, là nhu cầu không thể
thiếu của từng cá nhân cũng như cộng đồng xã hội. Dân chủ XHCN là một động lực
chính trị - tinh thần to lớn thúc đẩy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong quá
trình xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
- Phát triển trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật và trình độ sản xuất kinh
doanh cho nông dân, đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng nhân tố con người là
một động lực quan trọng nhằm khơi dậy và phát huy tối đa sức sáng tạo "tiềm ẩn" của
người lao động đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động
thực tiễn cải biến các quá trình kinh tế - xã hội có đem lại sự phát triển nhanh và bền
vững hay không, một mặt dựa vào nhận thức đúng đắn quy luật khách quan, mặt khác
phụ thuộc vào phẩm chất xã hội của con người. Nâng cao dân trí không chỉ là động
lực mà còn là mục tiêu của CNXH.
Chương 2
Phát huy nhân tố con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn Nghệ An - thực trạng và giải pháp
2.1. thực trạng việc phát huy nhân tố con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nghệ An
2.1.1. Vài nét về tình hình, đặc điểm Nghệ An ảnh hưởng trực tiếp đến việc
phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Tỉnh Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, trên tuyến giao lưu
kinh tế - xã hội Bắc Nam. Có diện tích tự nhiên 16.360 km2, dân số tính đến 1/4/1999 là
2.858.265 người [28]. Đứng thứ 3 toàn quốc.
Phía Bắc tiếp giáp với Thanh Hóa, phía Nam tiếp giáp với Hà Tĩnh. Phía Đông
có bờ biển dài 82km thuận lợi cho xây dựng và phát triển kinh tế biển và kinh tế đối
ngoại. Phía Tây giáp nước bạn Lào với đường biên giới 419km, đã có lịch sử quan hệ
hữu nghị lâu đời, là điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác quốc tế và khai thác những
tiềm năng phát triển của nước bạn Lào.
Nghệ An nằm trên trục giao thông xuyên Việt kể cả đường sắt (dài 94km) và
đường bộ (quốc lộ 1 dài 85km). Đường 15 ở phía Tây cùng hướng với quốc lộ 1 (dài
149km). Từ Đông sang Tây có quốc lộ số 7 (dài 225km) và quốc lộ 48 (dài 122km).
Cùng với các đường quốc lộ còn có một hệ thống đường cấp tỉnh, cấp huyện, xã tạo nên
mạng lưới giao thông quan trọng trong giao lưu Bắc - Nam, vận tải quá cảnh và luân
chuyển hàng hóa nội tỉnh.
Nghệ An nằm ở phía Đông Bắc dãy Trường Sơn có độ dốc thoải dần từ Tây
Bắc xuống Đông Nam, có đồi núi nhiều, chiếm 83% diện tích của tỉnh, bị chia cắt mạnh
bởi những dòng sông có độ dốc lớn và những dãy núi xen kẽ. Địa hình chia cắt mạnh là
một trở ngại lớn cho việc phát triển mạng lưới giao thông, đặc biệt là các tuyến liên
huyện vùng trung du và miền núi. Các dòng sông hẹp và dốc chẳng những không thuận
lợi cho phát triển vận tải đường sông mà còn hạn chế khả năng điều hòa nguồn nước
trong các mùa phục vụ cho canh tác nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống sông ngòi
có độ dốc lớn với 117 thác lớn nhỏ là nguồn thủy năng rất lớn cho phát triển thủy điện
phục vụ phát triển kinh tế miền núi.
Vùng đồng bằng có diện tích nhỏ, có đồi núi xen kẽ hạn chế việc mở rộng diện
tích canh tác nông nghiệp.
Nghệ An nằm trong vùng có nhiều đặc thù, phân dị rõ rệt trên toàn lãnh thổ và
theo các mùa tạo điều kiện cho nhiều loại cây trồng phát triển. Song, khí hậu có phần
khắc nghiệt, đặc biệt là lũ lụt, bão và gió Tây - Nam.
Nghệ An có quỹ đất tự nhiên là 1.636.021 ha, chiếm 4,95% diện tích cả nước,
trong đó đã sử dụng là 844,021 ngàn ha chiếm 50,1% diện tích tự nhiên, đất chưa sử
dụng là 792 ngàn ha chiếm 48,3% đất tự nhiên. Trong 844,021 ngàn ha đất sử dụng, đất
nông nghiệp là 178,0 ngàn ha chiếm 11% đất tự nhiên, đất có rừng là 58,4 ngàn ha,
chiếm 35,7% đất tự nhiên. Trong quỹ đất chưa sử dụng có 676 ngàn ha đất trống đồi
trọc, trong đó có 114 ngàn ha có thể dùng cho công nghiệp, 562 ngàn ha cho lâm
nghiệp. Đây chính là quỹ đất còn lại để khai thác mở rộng sản xuất nông, lâm nghiệp.
Nhìn chung, đất đai của tỉnh Nghệ An đa dạng, thích hợp với các loại cây trồng
chủ yếu: cây công nghiệp, cây lương thực ngắn và dài ngày, cây ăn quả...
Bờ biển dài 82km có sáu cửa lạch có khả năng phát triển vận tải biển, trong đó
có Cửa Lò, Cửa Hội là hai cửa thuận lợi cho phát triển cảng biển để phát triển công
nghiệp, du lịch, thương mại và mở rộng giao lưu quốc tế. Hải phận Nghệ An: 4.230 hải
lý vuông. Vùng biển có nguồn hải sản lớn, tuy nhiên việc khai thác có nhiều khó khăn
bởi chế độ gió bão, hải triều đặc biệt là thiếu vũng, vịnh, đảo nhỏ để thuyền bè có thể trú
ẩn, do đó hạn chế khả năng đánh bắt của ngư dân. Muốn nâng sản lượng đánh bắt phải
ra khơi, kể cả ngư trường của tỉnh bạn.
Ngoài việc khai thác tự nhiên, khả năng nuôi trồng thủy sản cũng có nhiều triển
vọng. Toàn tỉnh có khoảng 2000 ha có thể nuôi tôm, cua. Nước biển có độ mặn cao, cơ
sở cho nghề muối phát triển, là một tỉnh sản xuất muối lớn của miền Bắc.
Bên cạnh tài nguyên đất, rừng, biển... Nghệ An là tỉnh có tài nguyên khoáng sản
đa dạng về chủng loại, phân bố rộng khắp, nhưng đa số trữ lượng nhỏ, rất khó khăn
trong khai thác ở quy mô công nghiệp. Riêng tài nguyên về đá vôi để sản xuất vật liệu
xây dựng rất phong phú chất lượng tốt và trữ lượng lớn.
Là một bộ phận cấu thành chỉnh thể thống nhất hữu cơ trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam, nhân dân Nghệ An, có lòng yêu nước nồng nàn, ý thức tự tôn dân tộc, ý chí
quật cường, bất khuất, dũng cảm, phản ứng mau lẹ, linh hoạt trong chống thiên tai, địch
họa, đã được thử thách qua nhiều thời kỳ lịch sử và cách mạng. Gần đây nhất là hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Nghệ An đã cung cấp rất nhiều sức người,
sức của cho cuộc chiến đấu vì nền độc lập thống nhất nước nhà. Và dù phải trải qua
nhiều thử thách ác liệt, tổn thất nặng nề, nhân dân Nghệ An vẫn một lòng kiên trung với
Tổ quốc.
Nghệ An là một vùng đất cổ có nhiều di tích của nền văn hóa xa xưa, nơi hội tụ
của một cộng đồng đa dân tộc cùng chung lưng đấu cật xây dựng quê hương, nơi có
truyền thống văn hóa phong phú, đa dạng, nơi sinh ra nhiều nhân tài trong các lĩnh vực
quân sự, chính trị, văn học, kinh tế và là nơi sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Con
người Nghệ An vốn có truyền thống hiếu học, coi trọng đạo lý, tôn sư trọng đạo; lối
sống thanh bạch, giản dị; tương thân tương ái, coi trọng kỷ cương gia đình; cần cù, chịu
khó trong lao động, tiết kiệm trong chi tiêu.
Nghệ An, kinh tế - xã hội chậm phát triển, ở nông thôn và miền núi còn lạc hậu,
đói nghèo chiếm tỷ lệ cao, nhiều tập quán lạc hậu nặng nề ảnh hưởng đến quá trình
CNH, HĐH. Thói làm ăn manh mún, dựa vào kinh nghiệm là chính, trông chờ vào may
rủi của kinh tế tiểu nông; tâm lý ỷ vào tập thể, vào Nhà nước của thời bao cấp còn nặng
nề.
Về nguồn nhân lực trong nông nghiệp, Nghệ An có 2.566.574 người (chiếm
89,6% dân số toàn tỉnh) [29]. Ước tính vào cuối năm 2000 cả tỉnh có tổng số dân là
2.975.000, người lao động trong độ tuổi là 1.334.520 người (chiếm 45% dân số). Cơ cấu
dân số Nghệ An rất trẻ, độ tuổi dưới 14 chiếm 41%, chỉ có 8% từ tuổi 60 trở lên, nên
trong tương lai sẽ là nguồn lao động cung cấp lớn [26].
Từ những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa và con người Nghệ An
chúng ta thấy có những thuận lợi và khó khăn trong việc phát huy nhân tố con người
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
2.1.2. Chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và sự tác
động của nó đến việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn
Quá trình đổi mới nông nghiệp, nông thôn ở nước ta bắt đầu từ năm 1981, có
thể chia thành 2 thời kỳ:
Thời kỳ 1981-1990: Tháng Giêng năm 1981 Ban bí thư Trung ương Đảng
(khóa V) ra chỉ thị 100 về cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao
động trong nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên vào cơ chế quản lý tập trung bao cấp,
mở ra một thời kỳ mới cho phát triển sản xuất nông nghiệp. chỉ thị 100 được triển khai,
đã bước đầu khơi dậy tính tích cực của người nông dân, tạo nên bước chuyển biến đáng
kể trong nông nghiệp, từ 13,5 triệu tấn lương thực bình quân mỗi năm thời kỳ 1976-
1980, đến thời kỳ 1981-1985 đạt bình quân 17 triệu tấn lương thực trên một năm.
Đại hội VI của Đảng (12-1986) vạch ra quyết sách và đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, đánh giá sai lầm trong tập thể hóa nông nghiệp những năm trước đó và
xác định phương hướng đổi mới quản lý nông nghiệp, thực sự coi công nghiệp là mặt
trận hàng đầu, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Tháng 4 năm 1988 Bộ Chính trị (khóa VI) ra nghị quyết 10
(khoán 10) về "đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp", thực hiện giao đất ổn định cho hộ
xã viên, giải phóng sức lao động ở nông thôn, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lao
động và lợi ích. Tháng 3 năm 1989, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần 6 (khóa
VI) quyết định bỏ nghĩa vụ thu mua lương thực, thực phẩm, thực hiện cơ chế một giá,
lưu thông lương thực tự do và xác định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn.
Chính sách đổi mới của Đảng được nông dân đồng tình hưởng ứng, đáp ứng được đòi
hỏi bức xúc của nông dân, thực sự "cởi trói" cho nông nghiệp. Sản xuất nông lâm, thủy
sản thời kỳ 1986-1990 đã từng bước vượt qua trì trệ, chuyển sang phát triển ổn định.
Trong nông thôn, QHSX bước đầu được điều chỉnh theo hướng đổi mới quan hệ
sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang cơ chế hạch
toán tự chủ. Sau Đại hội VI của Đảng (12-1986) và đặc biệt là sau Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong nông nghiệp được điều chỉnh một
bước rất quan trọng. Từ chỗ tập thể hóa triệt để máy móc, trâu bò, nông cụ chuyển sang
thừa nhận quyền sở hữu (trừ ruộng đất) của hộ xã viên. Trong sản xuất nông nghiệp,
bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Tính tích cực của người
nông dân được nâng lên rõ rệt, nhiều hộ nông dân mua sắm thêm máy móc, trâu bò,
nông cụ, hoặc nhận hóa giá tư liệu sản xuất từ các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp để
phát triển sản xuất theo quy mô kinh tế hộ.
Thời kỳ 1991-2000: Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông
qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược phát
triển kinh tế xã hội đến năm 2000. Trong đó xác định: "Phát triển nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, xây dựng nông thôn mời là nhiệm vụ hàng đầu để
ổn định tình hình kinh tế, xã hội" [8, tr. 12]. Vấn đề các thành phần kinh tế trong quá
trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn nói riêng cũng như đối với nền kinh tế
nói chung, được Đảng ta khẳng định:
Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể còn có phạm vi kinh tế, từng
bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và
cùng có lợi. Tư bản tư nhân kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc tế
dân sinh do pháp luật quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều
hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh [8, tr. 11-12].
Thời kỳ này nông nghiệp, nông thôn Việt Nam phát triển trong những điều kiện
thuận lợi hơn, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng được hoàn thiện
và cụ thể hóa nhằm xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN, tiếp tục giải phóng sức sản xuất, khai thác và huy động cao nhất
mọi nguồn lực, mọi tiềm năng để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 5 khóa VII (tháng 6-1993) ra Nghị quyết về "tiếp
tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn" chỉ rõ chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn, xác định phương hướng cụ thể đổi mới kinh tế hợp tác xã, phát huy vai trò tự
chủ của hộ xã viên, thực hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ
nông dân, nhằm giải phóng mạnh mẽ tiềm năng đất đai và lao động nông nghiệp, gắn
với công nghiệp chế biến và dịch vụ ở nông thôn; đẩy mạnh thực hiện công tác khuyến
nông; đổi mới chính sách thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, chính sách đầu tư tín
dụng, chính sách thuế sử dụng đất và thủy lợi phí, chính sách khoa học và công nghệ,
chính sách xã hội nông thôn, chính sách đối với miền núi và vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Luật đất đai sửa đổi (tháng 7-1993) thừa nhận 5 quyền năng của chủ sử dụng
đất, luật thuế sử dụng đất nông nghiệp (tháng 2-1993) được Quốc Hội thông qua tạo
hành lang pháp lý cho hộ nông dân đầu tư, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa và
từng bước đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi và ngành nghề nông thôn. Bởi vậy, sản xuất
nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, sản lượng lương thực năm 1993 đạt 23,5 triệu
tấn, mức cao nhất từ trước tới nay. "Thắng lợi trên mặt trận nông nghiệp, góp phần quyết
định đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị"
[10, tr. 54].
Đại hội VIII (tháng 6-1996) đề ra nội dung cơ bản của CNH, HĐH đất nước,
coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nội dung cơ bản trong những năm còn lại của
thập kỷ 90 đã tạo ra "cú hích" mới thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn phát triển với tốc
độ cao hơn và ổn định hơn. Các Hội nghị Trung ương khóa VIII: Hội nghị Trung ương
4, Hội nghị Trung ương 6 (lần 1) đã phát triển và cụ thể hóa những nội dung chủ yếu
của CNH nông nghiệp, nông thôn. Tháng 2-1998, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII
ra chỉ thị: "Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở" nhằm phát huy quyền
làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của
nhân dân phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường đoàn kết, nâng cao dân trí, khắc phục
tình trạng quan liêu, tham nhũng, thực hiện công bằng xã hội ở nông thôn.
Tóm lại, đường lối đổi mới toàn diện đất nước trong đó đổi mới chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn thời gian qua đã xác lập thực sự
quyền tự chủ (quyền làm chủ) của người lao động nông thôn trong sản xuất, kinh doanh.
Bởi vậy, đã khơi dậy và phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của người nông dân
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nông thôn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đường lối đổi mới của Đảng ta luôn luôn khẳng định rõ việc phát huy nội lực
của con người Việt Nam là động lực quyết định sự phát triển nhanh và bền vững. Từ năm
1986 đến nay, trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn
khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển, nâng cao chất lượng nhân tố con người Việt
Nam không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã
hội nhanh chóng và bền vững. Cùng với đổi mới kinh tế, động viên sức sáng tạo, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây
dựng và phát triển văn hóa, về đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo, về khoa học và
công nghệ tiếp tục được hoàn thiện và cụ thể hóa nhằm đảm bảo nâng cao dân trí, bồi
dưỡng nhân tài, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam. Đó là nhân tố quyết
định thắng lợi của quá trình CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt là nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (tháng 1-1993)
về "tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo", Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
(tháng 7-1998) về "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc". Nhằm phát triển trí tuệ, đạo đức, lối sống, tâm hồn con người Việt Nam
không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực quan trọng đối với sự phát triển bền vững của
đất nước ta trong giai đoạn mới. Bởi vậy, giai đoạn này trình độ dân trí và chất lượng
nguồn nhân lực ở nông thôn cũng được nâng cao. Tính tích cực, năng động, sáng tạo của
người lao động nông thôn được khơi dậy và phát huy, tạo nên động lực tinh thần nội
sinh thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo định hướng XHCN.
2.1.3. Những thành tựu đạt được đối với việc phát huy nhân tố con người
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An
Do nhận thức và quán triệt đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng, các nghị
quyết của Trung ương được vận dụng và cụ thể hóa vào điều kiện và hoàn cảnh của tỉnh
bằng các nghị quyết của Đảng bộ tỉnh... nên đã từng bước huy động các nguồn lực phát
triển kinh tế - xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng
hợp quy luật, hợp lòng dân, đúc kết được kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng đã trở
thành một động lực chính trị - tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy tính tích cực năng động sáng
tạo của mỗi con người, gia đình, các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất,
kinh doanh xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Đường lối đổi mới, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu đã giải phóng một
bước sức sản xuất ở nông thôn Nghệ An, tiềm năng sáng tạo của nông dân được phát
huy. Cơ sở vật chất, kỹ thuật được tăng cường thúc đẩy sản xuất phát triển, đời sống và
bộ mặt nông thôn có nhiều biến đổi tích cực. Cơ chế tập trung, bao cấp dần dần nhường
chỗ cho cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Chính
sách kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN đã khơi dậy nhiều nguồn lực, làm cho
sản xuất kinh doanh ở nông thôn năng động hơn, những biến đổi to lớn về diện mạo của
Nghệ An.
Có cơ chế chính sách cụ thể để phần nào giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa
cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, đã kích thích, động viên mọi cá nhân, mọi
thành phần kinh tế phát huy ưu thế của mình góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội.
Nhờ có sự nỗ lực của toàn dân, nhất là nông dân, bản thân nhân dân ta nói
chung và nhân dân Nghệ An nói riêng đã phát huy được tinh thần yêu nước, tinh thần
đoàn kết nhất trí với ý chí tiến công vào nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng quê hương, đất
nước ngày càng phồn vinh.
Để phát huy vai trò nhân tố con người tích cực tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh có hiệu quả hơn, những năm qua Nghệ An bằng nhiều nguồn vốn khác nhau
đã nâng cấp mở rộng kết cấu hạ tầng. Đến nay, có 449/466 xã đường ô tô về đến trung
tâm. Điện đã được đưa về 397/466 xã. Thông tin liên lạc phát triển nhanh (94,4% số xã
có điện thoại). Hơn 1.200km kênh mương đã được kiên cố hóa. Trường học, trạm xá,
các trung tâm văn hóa được tăng cường.
Giáo dục và đào tạo ở Nghệ An có những chuyển biến tích cực trên một số mặt.
Quy mô cấp học, ngành học phát triển ở tất cả các vùng, nhất là trung học cơ sở và
trung học phổ thông; mạng lưới trường lớp phân bổ khắp các địa bàn, đáp ứng tốt nhất
nhu cầu học tập cho mọi đối tượng học sinh. Cuối năm 1998, tỉnh Nghệ An được công
nhận phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ theo tiêu chuẩn quốc gia, vượt 2 năm so
với mục tiêu Đại hội XIV của Đảng bộ tỉnh.
Chuyên nghiệp và dạy nghề có chuyển biến khá. Trong 5 năm (1996-2000),
cùng với sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu của các vùng, ngành kinh tế, để đáp ứng
nhu cầu của thị trường lao động, hoạt động đào tạo nghề ở Nghệ An đã và đang có sự
chuyển biến từng bước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống cơ sở
đào tạo nghề trên địa bàn được đa dạng hóa. Ngoài ra trong những năm gần đây một số
cơ sở dạy nghề bán chuyên nghiệp, gắn với các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo số
liệu điều tra của Sở Lao động - thương binh và xã hội Nghệ An, tất cả các cơ sở dạy
nghề trên địa bàn tỉnh có quy mô đào tạo từ 9.000-11.000 học sinh/năm, trong đó có từ
10-12% đào tạo chính qui dài hạn trong các trường dạy nghề của Trung ương và của
tỉnh. Cơ cấu ngành nghề đào tạo đã từng bước có sự chuyển đổi phù hợp hơn với nhu
cầu sử dụng. Có trên 80% lao động sau đào tạo tự tạo được việc làm và tìm được việc
làm. Một số cơ sở dạy nghề đã gắn được việc đào tạo với giới thiệu việc làm có hiệu
quả, bước đầu có sự quan tâm kết hợp đào tạo nghề với thị trường việc làm cả trong và
người nước.
Hoạt động khoa học và công nghệ đã hướng trọng tâm vào việc áp dụng các
tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học và kỹ thuật thâm canh, đưa các giống
cây, giống con mới vào sản xuất nông nghiệp, làm cho năng suất, chất lượng và giá trị
sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng. Người nông dân tích cực, phấn khởi hơn trong
sản xuất. Một số đề tài khoa học - xã hội nhân văn được nghiên cứu nhằm phát huy bản
sắc văn hóa và con người xứ Nghệ trong thời kỳ mới bước đầu đã đưa vào ứng dụng
trong thực tiễn. Do đó, đã góp phần thúc đẩy tính tích cực, năng động của con người
Nghệ An phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới. Tỷ lệ hộ đói nghèo đã
giảm từ 36% năm 1995 xuống còn 15% năm 2000.
Các hoạt động văn hóa, xã hội đã góp phần cải thiện và nâng cao đời sống tinh
thần nhân dân trong tỉnh. Đặc biệt là sau Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII, cuộc vận
động xây dựng đời sống văn hóa được thực hiện rộng khắp, đời sống tinh thần và mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân trong tỉnh, từ miền xuôi đến miền núi được nâng lên rõ
rệt. Chương trình đưa văn hóa về cơ sở thực hiện có hiệu quả. Đến năm 2000, có 450
làng, thôn, bản, khối phố, đơn vị, cơ quan, trường học và 60% gia đình được công nhận
đạt tiêu chuẩn văn hóa; 50% số hộ được xem truyền hình và 80% được nghe đài phát
thanh. Do vậy, trình độ dân trí ở nông thôn được nâng cao một bước, góp phần quan
trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, phát huy phong trào thi đua phát triển sản
xuất, kinh doanh theo định hướng XHCN.
Những chính sách xã hội, bảo hiểm, đền ơn đáp nghĩa đã nuôi dưỡng lại nền văn
hóa cổ truyền tâm đức, nhân nghĩa, lòng biết ơn và tình đoàn kết cộng đồng và nó lại trở
thành động lực tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện sự nghiệp đổi mới,
xây dựng đất nước giàu đẹp, phồn vinh.
Tóm lại, đường lối đổi mới đúng đắn do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, lấy
con người làm vị trí trung tâm, tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân đã thực sự
đi vào cuộc sống của người dân nông thôn Nghệ An. Đường lối đó đã đem lại những cơ
hội và khả năng thực tế cho người dân lao động phát huy tiềm năng sáng tạo của mình
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Nghệ An đạt được những thành tựu nhất định trong phát triển kinh tế - xã hội.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhịp độ bình quân thời kỳ 1991-1995 là 8,7%. Các năm
1997-1999 xảy ra khủng khoảng tài chính tiền tệ trong khu vực cùng với hạn hán kéo
dài trên một số vùng đã ảnh hưởng nhất định đến quá trình phát triển. Nhưng Nghệ An
đã nỗ lực vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách duy trì được nhịp độ tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm (thời kỳ 1996-2000) 7,5% (cả nước 6,7%).
Nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn được khai thác và sử dụng bước đầu có
hiệu quả, tài nguyên, đất đai, ao hồ, đầm đã được đưa vào sử dụng nhiều hơn. Nông
nghiệp và nông thôn phát triển khá, nhất là sản xuất lương thực đã góp phần ổn định và
cải thiện đời sống nhân dân, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng
năm 4,9% (cả nước 4,5-5%).
Tổng diện tích gieo trồng cây lương thực năm 2000 đạt 260.000 ha. Nhờ thâm
canh, đưa giống mới vào sản xuất và thời tiết nhìn chung thuận lợi, nên năng suất, sản
lượng các loại cây trồng đều tăng. Sản lượng lương thực tăng bình quân hàng năm trên
30.000 tấn, bình quân đầu người từ 250kg năm 1995 lên 290kg năm 2000.
Bước đầu hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung gắn với công nghiệp
chế biến (mía 18.000 ha; chè 3.891 ha...). Chăn nuôi tiếp tục phát triển, năm 2000 đàn
trâu đạt 26,5 vạn con, đàn bò hơn 26,8 vạn con, đàn lợn đạt 81,6 vạn con. Thực hiện
chương trình sinh hóa đàn bò đạt 30-35%, lợn giống mới 40-45% tổng đàn. Ngư nghiệp
có chuyển biến về đánh bắt, nuôi trồng và chế biến phục vụ xuất khẩu. Sản lượng thủy
sản nuôi trồng tăng từ 5.700 tấn năm 1995 lên 8000 tấn năm 2000. Phương tiện đánh bắt
xa bờ được tăng thêm, nâng sản lượng khai thác từ 21.000 tấn năm 1995 lên 29.000 tấn
năm 2000. Rừng được trồng mới, khoanh nuôi và bảo vệ tốt hơn. Trong năm năm
(1996-2000) trồng mới tập trung được 45.000 ha; khoanh nuôi và bảo vệ 563.000 ha.
Nhờ đó, nâng độ che phủ từ 36% năm 1995 lên 43% năm 2000 (cả nước 33%).
Công nghiệp và xây dựng tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn giữ được mức
tăng bình quân hàng năm 12,4% (cả nước (12,2%). Đã hình thành một số mũi nhọn
công nghiệp rõ nét (xi măng, mía, đường) một số sản phẩm công nghiệp tăng nhanh (xi
măng tăng 3,6 lần, đường tăng 15 lần, bia và chè tăng 2 lần).
Các ngành dịch vụ và thương mại đã từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển sản
xuất và đời sống của nhân dân; mức tăng bình quân hàng năm đạt 8,6% (cả nước 7%).
Trong những năm qua, cùng với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh,
Nghệ An đã có nhiều cố gắng giải quyết việc làm cho người lao động. Hàng năm tạo
việc làm cho hơn 2 vạn lao động. Trong 5 năm (1996-2000) có 8 dự án đầu tư trực tiếp
của nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đã thực hiện 117 triệu USD, góp phần giải quyết
việc làm trực tiếp cho 1.000 lao động và gián tiếp cho 40.000 lao động.
2.1.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy nhân tố con người trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An
Sự tăng trưởng kinh tế của Nghệ An trong thời gian qua đã phản ánh những
thành tựu đạt được trong việc phát huy nhân tố con người. Tuy kinh tế phát triển nhưng
chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả còn thấp, Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo. Khả
năng phát huy nguồn nhân lực dồi dào của tỉnh vẫn còn yếu kém; chưa tạo được những
điều kiện thúc đẩy hoạt động của nhân tố con người tham gia vào quá trình sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả cao.
Cần thấy thực trạng rằng, trong nông thôn nạn thiếu việc làm, hoặc có việc làm
nhưng hiệu quả kém và thu nhập thấp là khá phổ biến. Nếu chỉ tập trung vào sản xuất
nông nghiệp độc canh thì lao động ở nông thôn dư thừa quá nhiều, chỉ có 18% lao động
nông nghiệp làm việc 210 ngày/năm (mỗi ngày làm việc bình quân 4-5 giờ), nếu căn cứ
vào quỹ đất và chỉ làm thuần nông, lao động nông thôn đã dư thừa ít nhất 30% (tương
đương 8-9 triệu người) [6, tr. 87].
Theo kết quả điều tra cơ bản lao động vùng Bắc Trung bộ của Bộ Lao động,
thương binh và xã hội năm 1998 tỷ lệ người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động trong
12 tháng ở nông thôn Bắc Trung bộ là 34,4%, trong đó Nghệ An là 29,97% [4, tr. 558-
561].
- Ngoài việc tổ chức sản xuất, thay đổi công nghệ cũng làm một số lao động bị
thất nghiệp cơ cấu; việc cơ giới hóa nông nghiệp sẽ làm giảm thời gian lao động ở nông
thôn. Quá trình này có xu hướng ngày càng gay gắt hơn do đòi hỏi của việc duy trì phát
triển kinh tế với tốc độ cao. Vì vậy, yêu cầu trước mắt phải đẩy mạnh mạng lưới đào tạo
nghề, giúp cho người lao động tìm được việc làm nâng cao đời sống. Mặt khác, từ kinh
nghiệm thực tiễn cho thấy Nghệ An cần có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến
chuyển dịch cơ cấu lao động thì mới có khả năng giải quyết một mức độ đáng kể tình
trạng thiếu việc làm hiện nay và những thập kỷ tiếp theo.
Trong 10 năm (1989-1999) dân số Nghệ An tăng bình quân hàng năm là 1,75%
(cả nước 1,7%). Đặc biệt trong mấy năm gần đây, tỷ lệ tăng dân số ở vùng ven biển,
vùng giáo dân, vùng dân tộc của Nghệ An vẫn cao; lực lượng lao động tăng tự nhiên
hàng năm 3,3 vạn người gây sức ép mạnh về giải quyết việc làm.
Sự gia tăng dân số cùng với các yếu tố khác như không kịp thời thay đổi mùa
vụ ở một số vùng, chưa đưa ngành nghề vào nông thôn, đã tạo nên thực trạng dư thừa
lao động gay gắt. Hàng chục vạn thanh niên nông thôn một năm có 6 tháng "nông
nhàn", không có việc. Nghệ An lại chưa có cơ sở sản xuất công nghiệp thu hút sức lao
động. Do vậy, lao động và việc làm đang thực sự là vấn đề bức bách cho từng gia đình.
- Người lao động là vốn quý nhất, có vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển xã hội, nhưng để nhiều người lao động thất nghiệp, thiếu việc làm, thì họ lại có thể
gây ra những áp lực tiêu cực cho xã hội (di dân tự do, tệ nạn xã hội...). Đó là vấn đề vừa
cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài cần từng bước giải quyết. Tuy nhiên,
giải quyết việc làm ở nông thôn Nghệ An còn rất nhiều khó khăn, số người cần giải
quyết việc làm còn rất lớn. Trong số những người được giải quyết việc làm phần đông
vẫn là lao động phổ thông, giản đơn, thu nhập thấp và chủ yếu lao động trong lĩnh vực
sản xuất nhỏ, thủ công hoặc dịch vụ bình thường và bấp bênh, một bộ phận trong số
những người này nguy cơ mất việc trở lại luôn luôn đặt ra.
Tạo việc làm ở nông thôn Nghệ An đã là khó khăn, làm rõ điều đó cần tìm hiểu
thực trạng lao động và chất lượng lao động ở Nghệ An hiện nay.
- Về cơ cấu chất lượng: Tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của
Nghệ An có đến năm 2000 là: 249.814 người, chiếm 18,7% lực lượng lao động. Trong
đó:
+ Lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học có 32.965 người,
chiếm 2,45%, tập trung ở ngành giáo dục và y tế.
+ Lao động là công nhân kỹ thuật có 42.837 người, chiếm 3,21%, trong đó số
người có trình độ tay nghề cao chỉ vài trăm người, lại tập trung ở các ngành dịch vụ là
chính.
+ Lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp là: 85.674 chiếm 6,42%.
+ Lao động được đào tạo ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề và các cơ sở
ngoài công nghiệp là 86.611 (chiếm 6,64%) [26].
Thực trạng trên đây phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động còn ở
mức quá thấp, mặt khác cơ cấu bên trong về ngành nghề và bậc học của lực lượng lao
động qua đào tạo còn có sự bất hợp lý đối với nhu cầu sử dụng: lao động là công nhân
kỹ thuật chiếm tỷ lệ quá nhỏ trong tổng số lao động được đào tạo, tập trung chủ yếu ở
một số ngành nghề thông dụng như: lái xe, cơ khí, xây dựng, mộc dân dụng, may mặc...
Một số ngành nghề cần thiết khác như chế biến nông, lâm, hải sản, kỹ thuật trồng trọt,
chăn nuôi còn chưa được quan tâm đào tạo. Đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật bậc cao đáp ứng yêu cầu công nghệ mới của sản xuất phát triển
còn quá thiếu.
Chất lượng lao động thấp với cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý đã có ảnh hưởng
khó khăn cho quá trình phân công lao động, giải quyết việc làm. Trong những năm qua,
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, lực lượng lao động được bố trí vào làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân trên địa bàn tỉnh có sự tăng đáng kể. Tuy nhiên, sự
chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các vùng và ngành kinh tế còn diễn ra với tốc độ
chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu và phát triển nền kinh tế
theo hướng CNH, HĐH. Một trong nhiều nguyên nhân của tình trạng đó có nguyên
nhân xuất phát từ nội lực của bản thân người lao động, đó là trình độ nghề nghiệp. Lao
động thiếu trình độ chuyên môn kỹ thuật hạn chế khả năng tạo việc làm, tìm đến việc
làm, di chuyển chỗ làm việc giữa các ngành, các khu vực kinh tế.
Để tăng sức sản xuất ở nông thôn, nâng cao năng suất lao động, thỏa mãn nhu
cầu ngày càng lớn của người lao động, thời gian qua chúng ta đã chú trọng đầu tư, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Khó khăn
chính là vốn. Thế nhưng, những nguồn vốn có được từ nguồn lực của nhà nước, từ
nguồn vốn trong dân và từ việc thu hút vốn bên ngoài dưới nhiều hình thức để đầu tư
cho phát triển lại bị tham nhũng, lãng phí, thất thoát rất lớn. Tham nhũn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.pdf