Tài liệu Luận văn Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ: LUẬN VĂN:
Phát huy nhân tố con người trong lực lượng
vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu, yếu
tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn thế nữa, con
người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch sử. Là sản phẩm của
lịch sử, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Chính vì vậy, Đảng ta
luôn xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Ngay từ Đại hội lần thứ III năm 1960, Đảng ta đã khẳng định: "Con người là vốn
quý nhất" [9, tr. 77], Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đưa ra luận điểm về "Con người mới
- con người làm chủ tập thể" [17, tr. 64]. Kế tiếp các kỳ Đại hội VI, VII, VIII trong công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bề...
104 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát huy nhân tố con người trong lực lượng
vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu, yếu
tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn thế nữa, con
người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch sử. Là sản phẩm của
lịch sử, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Chính vì vậy, Đảng ta
luôn xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Ngay từ Đại hội lần thứ III năm 1960, Đảng ta đã khẳng định: "Con người là vốn
quý nhất" [9, tr. 77], Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đưa ra luận điểm về "Con người mới
- con người làm chủ tập thể" [17, tr. 64]. Kế tiếp các kỳ Đại hội VI, VII, VIII trong công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [14, tr. 85]. Và Đại hội IX, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: "Con người và nguồn lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [16, tr. 201]. Điều đó cho thấy, tư
tưởng, quan điểm của Đảng ta về con người, về vai trò của nhân tố con người (NTCN) là
nhất quán. Song, trong thực tiễn không phải thời kỳ nào chúng ta cũng thực hiện đầy đủ
tư tưởng trên. Trước đổi mới, chúng ta xem xét đánh giá con người, NTCN có phần
chung chung, trừu tượng. Từ Đại hội VI năm 1986 đến nay, con người mới được xem xét
một cách cụ thể hơn. Các chủ trương, chính sách để phát huy NTCN ngày càng rõ ràng,
thiết thực hơn. Cho nên, trong sự nghiệp đổi mới đất nước việc phát huy NTCN Việt
Nam đã có bước chuyển biến đáng kể về mọi mặt, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đất
nước phát triển.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) có sự phát triển mới. Quân đội nhân
dân Việt Nam (QĐNDVN) nói chung và lực lượng vũ trang (LLVT) địa phương thành phố
Cần Thơ nói riêng, không chỉ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) và chiến đấu chống vũ trang
xâm lược của kẻ thù mà còn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy để bảo vệ Đảng,
bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân trong cuộc đấu tranh chống "Diễn biến hòa bình"
(DBHB), bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Cho nên, vấn đề phát huy NTCN nhằm
nâng cao vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong sự nghiệp xây
dựng và BVTQ lại đặt ra hết sức cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn như hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), những
năm qua đã bổ sung cho quân đội - LLVT Quân khu 9 và LLVT thành phố Cần Thơ
nhiều cán bộ, chiến sĩ có chất lượng cao và tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thúc đẩy
cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, phấn khởi phát huy tinh thần tự giác, tích cực, chủ
động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Bên cạnh đó, đã có những tác động tiêu
cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm cho một số cán bộ, chiến sĩ LLVT nói chung
và cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng nhận thức chưa đầy
đủ về nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhiệm vụ BVTQ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu
quả trong thực hiện nhiệm vụ và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Nhiệm vụ BVTQ của nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh cuộc đấu tranh
chính trị thế giới hết sức phức tạp. Các thế lực phản động, thù địch tìm mọi cách chống
phá cách mạng nước ta, chống phá công cuộc xây dựng CNXH của nhân dân ta bằng
chiến lược "DBHB" và bạo loạn lật đổ, kết hợp răn đe quân sự với các loại hình chiến
tranh xâm lược có tính chất, quy mô khác nhau, mà mũi nhọn chống phá của chúng là
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, quân đội ta được coi là một trong những đối tượng chủ yếu
nhằm "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang". Đúng như nhận định của nguyên Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu: "Sự thách thức đối với quân đội nhân dân lớn nhất là sự thách thức
trên mặt trận chính trị, tư tưởng" [53, tr. 61]. Tình hình đó, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ quân
đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, cảnh giác mọi
âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, SSCĐ và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Quân
đội ta không chỉ là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu, là lực lượng chính trị đặc biệt trung
thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân, mà còn là lực lượng nòng cốt
trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và chiến tranh nhân dân (CTND), sẵn
sàng chống vũ trang xâm lược của kẻ thù, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ
chế độ và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ mới, đòi hỏi quân
đội nói chung và LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng, không ngừng nâng cao
sức mạnh chiến đấu mới. Đó là, thiện chiến trong chiến đấu, thiện chiến trong đấu tranh
chính trị, tư tưởng.
Cần Thơ là thành phố có vị trí đặc biệt quan trọng, không những là trung tâm về
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... mà còn là địa bàn chiến lược quân sự quan
trọng của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Cần Thơ là đầu mối giao thông thuận
tiện về đường thủy và đường bộ nối với các tỉnh miền Tây sông Hậu và thành phố Hồ Chí
Minh. Đảng bộ, dân và quân thành phố Cần Thơ đã và đang dồn hết sức xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội, xứng đáng là thành phố trực thuộc Trung ương. Trong nhiệm vụ
BVTQ, thành phố Cần Thơ là nơi trực tiếp xây dựng tiềm lực, thế trận QPTD, là nơi trực
tiếp ngăn ngừa và đánh bại chiến lược "DBHB", bạo loạn lật đổ ở khu vực này. Khi có
chiến tranh, thành phố Cần Thơ là khu vực phòng thủ quan trọng vừa là tiền tuyến chiến
đấu, vừa là hậu phương chi viện sức người, sức của để BVTQ.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
nhiều vấn đề đặt ra đối với LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, nhưng suy cho cùng
yếu tố quyết định là con người. Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo con người, phát huy nguồn
lực con người không những có ý nghĩa quyết định đối với nhiệm vụ trước mắt, mà còn có
ý nghĩa chiến lược lâu dài trong nhiệm vụ quốc phòng nói chung, quân sự địa phương
(QSĐP) nói riêng.
Từ những vấn đề nêu trên, việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành
phố Cần Thơ, cần phải có một số giải pháp đồng bộ, phù hợp đối với LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ. Cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra một cách cấp thiết, đòi hỏi
phải được nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống để lý giải đúng, kịp thời vấn đề góp phần xây
dựng LLVT thành phố Cần Thơ chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới. Từ tính cấp thiết trên, tác giả chọn vấn
đề: " Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần
Thơ hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong các tác phẩm kinh điển mác-xít, đặc biệt là những tác phẩm của Hồ Chí
Minh, vấn đề con người, về xây dựng LLVT được đề cập đến một cách toàn diện, có hệ
thống mang ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng và
BVTQ trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Thời gian qua, vấn đề con người, NTCN nói chung và NTCN trong lĩnh vực
quân sự nói riêng đã và đang có sự quan tâm, thu hút nghiên cứu của các nhà khoa học
trên thế giới như: "Nhân tố tinh thần và chính trị trong chiến tranh hiện đại" (của Học
viện Quân chính Lênin, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960); "Học thuyết Mác-Lênin về chiến
tranh và quân đội" (của D.A.Vôn-cô-gô-nốp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1987);
"Hệ thống con người và kỹ thuật quân sự" (của giáo sư, tiến sĩ triết học A.B.Pypco, Nxb
Quân đội nhân dân, 1976). Và đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước ở Việt
Nam, vấn đề con người, NTCN được Đảng, Nhà nước ta chú ý quan tâm. Những kết quả
thu được bằng nhiều công trình của tập thể và cá nhân có liên quan đến các khía cạnh
khác nhau đã được công bố như:
"Con người - những ý kiến mới về một đề tài cũ" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987);
"Bàn về chiến lược con người" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989); "Con người Việt Nam trong
công cuộc đổi mới" (Đề tài KX.07); "Mối quan hệ biện chứng giữa con người và vũ khí
trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam" (của tác giả Phạm Thanh
Sơn, Luận án PTS triết học, 1994); "Nâng cao chất lượng của nhân tố con người trong
sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân hiện nay" (của tác giả Hoàng Quang Đạt,
Luận án PTS triết học, 1995); "Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" (của tác giả Nguyễn Văn Tài, Luận án
tiến sĩ triết học, 1998); "Phát huy nhân tố con người bộ đội pháo binh Việt Nam trong
việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay" (của tác giả Nguyễn Đức Khang, Luận
án tiến sĩ triết học, 2002); "Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc xây dựng sức
mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" (tác giả Phạm Khắc Ninh,
Luận văn thạc sĩ triết học, 1997).
Và một số công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí, báo chí như:
"Các Mác với vấn đề con người và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa" (tác giả Lê
Thi, tạp chí triết học, số 4, tháng 12/1983); "Mấy vấn đề về "trồng người" trong tư tưởng
Hồ Chí Minh" (tác giả Lê Sỹ Thắng, tạp chí triết học, số 2, tháng 6/1995); "Về con người
Việt Nam trước và sau 10 năm đổi mới" (tác giả Lê Hữu Tầng, tạp chí triết học, số 4,
tháng 8/1997); "Nhân tố con người và những giá trị văn hóa" (tác giả Trường Lưu, tạp
chí triết học, số 1, tháng 3/1993); "Nâng cao năng lực trí tuệ-một công việc cấp bách xây
dựng Quân đội nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới" (tác giả Đặng Vũ Hiệp, tạp chí
Quốc phòng toàn dân, tháng 4/1995)...
Những công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã đề cập đến nhiều khía cạnh,
nhiều cấp độ khác nhau về con người, NTCN nói chung và con người, NTCN trong quân
đội nói riêng. Chưa có công trình nào nghiên cứu về con người, NTCN trong LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ. Tác giả luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu của các
công trình trên để đi sâu vào đề tài "Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ
trang địa phương thành phố Cần Thơ" dưới góc độ một luận văn triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở vạch ra thực trạng việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ, luận văn chỉ ra những vấn đề phát sinh và đưa ra những giải pháp để
phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ trong tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Làm sáng rõ đặc điểm và vai trò của NTCN, phát huy NTCN trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ, nhiệm vụ quốc phòng, QSĐP hiện nay.
- Đánh giá thực trạng việc phát huy NTCN, đồng thời đặt ra những vấn đề của
việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ.
- Đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy NTCN trong LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ đối với việc thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu quá trình hoạt động thực tiễn của LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ: Xây dựng, huấn luyện và SSCĐ. Dựa vào kết quả điều tra, khảo sát
thực tế về thực trạng NTCN, cũng như việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ ở một số cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự thành phố.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm, chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng và Nhà nước ta; các
Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy quân sự Trung ương, Tổng Cục chính trị, Đảng ủy quân
sự Quân khu 9, Thành ủy Cần Thơ và Đảng ủy quân sự thành phố Cần Thơ.
- Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp khác:
lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học, so sánh, đối chiếu...
6. Những đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Làm sáng tỏ đặc điểm, vai trò NTCN trong LLVT, đặc biệt ở thành phố Cần Thơ,
cũng như những bài học kinh nghiệm để phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành
phố Cần Thơ.
- Phân tích thực trạng NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, đề ra
một số vấn đề nảy sinh trong việc phát huy NTCN của LLVT địa phương thành phố Cần
Thơ.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành
phố Cần Thơ đối với nhiệm vụ BVTQ; nhiệm vụ quốc phòng, công tác QSĐP trong tình
hình mới.
Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy ở Trường quân
sự Quân khu 9, Trường QSĐP thành phố Cần Thơ cũng như trong hoạt động thực tiễn
của các cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương. Mặt khác, luận văn góp phần làm phong phú
đường lối quân sự của Đảng ta trên vấn đề NTCN trong xây dựng LLVT địa phương là
nâng cao NTCN và tích cực phát huy NTCN của LLVT nói chung, LLVT địa phương
thành phố nói riêng. Từ đó, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng
bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
yêu cầu cấp bách Của Việc Phát HUY
NHÂN Tố CON Người TRONG Lực Lượng Vũ TRANG
Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ Hiện NAY
1.1. Khái Niệm: CON Người, NHÂN Tố CON Người, NHÂN Tố CON Người
TRONG Lực Lượng Vũ TRANG
1.1.1. Khái niệm con người
Vấn đề con người là một vấn đề tưởng là cũ nhưng rất mới, vì lẽ, con người còn
chứa đựng rất nhiều tiềm năng và giá trị nhưng chưa được phát hiện và khai thác triệt để.
Con người còn tồn tại thì vấn đề con người vẫn được đặt ra và các nhà tư tưởng, các
trường phái triết học quan tâm nghiên cứu. Suy cho cùng, chính từ con người, vấn đề cơ
bản của triết học mới được xác định, cũng như những vấn đề về thế giới quan và phương
pháp luận mới được đặt ra. Không phải C. Mác là người đầu tiên phát hiện vấn đề con
người là vấn đề trung tâm của thế giới để đặt ra vấn đề giải phóng xã hội loài người; mà
trước đó, các trường phái triết học cũng đề cập vấn đề này trên nhiều bình diện khác
nhau. Nhưng chỉ có C. Mác mới xem xét vấn đề con người một cách cụ thể, sâu sắc và
toàn diện trên quan điểm duy vật biện chứng bằng sự kế thừa rất biện chứng những giá trị
khoa học đã có trong lịch sử triết học về con người. Các nhà triết học trước C. Mác do
hạn chế về thế giới quan, hoặc do hạn chế về điều kiện lịch sử nên vấn đề con người giải
thích theo hướng duy tâm thần bí, siêu hình.
Sai lầm của các nhà triết học duy tâm khi coi bản chất con người là sản phẩm của
các đấng siêu nhiên tối cao, là hiện thân của "tinh thần tuyệt đối", là kết quả của sự "tha
hóa" của tinh thần tuyệt đối mà có, hoặc là sản phẩm của ý thức chủ quan của chính bản
thân con người. Còn quan điểm của các nhà triết học duy vật trước C. Mác cho rằng, con
người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Họ còn cho
rằng, con người bẩm sinh là một sinh vật có tính xã hội. Họ chỉ thấy sự tồn tại hiện thực
của con người trong mối quan hệ với tự nhiên mà không hề xét đến mối quan hệ chi phối
cuộc sống của họ. Cách khác, họ thừa nhận tác động của môi trường đối với sự cải biến
con người, mà họ giải thích không đúng với bản chất con người và vai trò của con người
trong thực tiễn cách mạng, cũng như vai trò của thực tiễn đối với việc hình thành và phát
triển con người.
Chỉ có C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu, nhận thức về con người mới có sự
thay đổi căn bản về chất so với các nhà triết học khác.
Xuất phát từ con người hiện thực, C. Mác vận dụng phép biện chứng duy vật vào
việc phân tích các mối quan hệ xã hội và chỉ ra rằng, con người tồn tại với tư cách là
người khi nó gắn với thế giới xung quanh, với cộng đồng và với người khác. Hoạt động
thực tiễn của con người tạo thành hệ thống các mối quan hệ xã hội. C. Mác viết trong
Luận cương về Feuerbach: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội" [38, tr. 11]. Điều đó có nghĩa là, những quan hệ xã hội đó được thể hiện
trong toàn bộ hoạt động cụ thể của con người. Chỉ có những con người sống, hoạt động
trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định
chứ không có những con người trừu tượng. Con người chỉ có thể bộc lộ và thực hiện
được bản chất của mình trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể mà thôi. Chúng ta
không thể dừng lại ở mối quan hệ chật hẹp giữa cơ thể con người và môi trường, mà muốn
hiểu được nó - Con người hiện thực, đời sống hiện thực của con người thì phải xem xét
toàn diện các mối quan hệ. Đó chính là mối quan hệ của con người với tự nhiên và xã
hội.
Tự nhiên, xã hội và con người là một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể sáng tạo ra tự nhiên và
xã hội ở trình độ cao hơn. Cho nên, không có xã hội và tổng hòa các mối quan hệ xã hội
thì sẽ không có con người đúng theo nghĩa của nó. Bản chất của con người hiện thực
được quy định bởi các quan hệ xã hội. Tự nhiên sinh ra con người, là cái có trước con
người, nên con người phụ thuộc vào tự nhiên và các quy luật của tự nhiên. Con người trở
thành chính mình là vì không lệ thuộc thụ động vào tự nhiên như những sinh vật khác.
Chính nhờ lao động, thông qua lao động con người thích nghi với tự nhiên, hoàn cảnh,
môi trường và cải tạo tự nhiên, làm ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của chính mình mà tự
nhiên không có. Quá trình cải tạo tự nhiên là quá trình con người tự hoàn thiện chính
mình, tự khẳng định mình trước tự nhiên.
Con người có trước xã hội. Xã hội loài người hiểu theo đúng nghĩa của nó khi
tính cộng động và những mối quan hệ xã hội con người được hình thành và thiết lập vững
chắc. Chỉ có trong đời sống thực tiễn, con người mới được hình thành và ngày càng hoàn
thiện. C. Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu sâu sắc những thành tựu của khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và chỉ ra rằng: Con người không do ai sáng tạo ra mà là sản phẩm cao
nhất trong quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Đây là bước ngoặt cách mạng
trong nhận thức về bản chất con người do hai ông đem lại.
C. Mác chỉ rõ rằng, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều gắn với một phương thức
sản xuất vật chất nhất định, khi phương thức sản xuất vật chất biến đổi thì lực lượng sản
xuất cũng biến đổi theo. Nhân tố quyết định sự biến đổi đó chính là hai yếu tố: người lao
động và tư liệu sản xuất. Con người cùng với công cụ lao động do con người tạo ra đã
quyết định sự phát triển của xã hội. Ngược lại, sự phát triển của xã hội đến lượt nó lại
quyết định sự hoàn thiện và phát triển chính bản thân con người. Đây là luận điểm có ý
nghĩa quan trọng mà C. Mác đã vạch ra, là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu con
người, NTCN trong xã hội hiện nay. C. Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy
tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể
bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động
của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ
thấy có sẵn cũng như những điều kiện do họ hoạt động của chính họ tạo ra
[38, tr. 28-29].
Chính việc đưa quan điểm thực tiễn vào việc nghiên cứu con người,
C. Mác và Ph.Ăngghen đã chuyển từ những suy luận tư biện về con người sang những
giải pháp có cơ sở vững chắc trong đời sống xã hội. Hai ông đã tiếp thu tư tưởng hợp lý
của Hêghen một cách sáng tạo khi cho rằng, con người là sản phẩm của chính họ, cái gọi
là tính người chính là sản phẩm của hoạt động lao động của con người. Hai ông đã khẳng
định rằng, hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Mặt khác, hai ông phê phán
Feuerbach và các nhà triết học duy vật trước kia, rằng họ chỉ thấy giới tự nhiên như là
khách thể mà không nhìn thấy trong giới tự nhiên có hoạt động thực tiễn của con người.
Trong hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra thiên nhiên thứ hai chính từ thiên nhiên
thứ nhất. Con người đã khách thể hóa bản chất của mình vào tự nhiên thuần túy để tạo
nên thiên nhiên thứ hai cho mình. Đây là phát hiện mới của hai ông: con người có khả
năng cải tạo thế giới và cải tạo bản thân mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Xuất phát điểm từ thực tiễn, C. Mác đã xây dựng lý luận về vai trò tích cực của
con người-Con người là chủ thể của sự vận động lịch sử, của sự phát triển trong mỗi cá
nhân con người. Nói cách khác, hoạt động thực tiễn trở thành yếu tố quyết định đến sự
hình thành nhân cách, làm con người trở thành người thực sự, bản chất con người chính
là nhân cách. Nhân cách đó được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội. Quá trình lao
động sáng tạo chính là quá trình con người nhập thân vào các quan hệ xã hội, tạo ra
những giá trị xã hội. Mặt khác, chính những giá trị này tác động trở lại hình thành và phát
triển nhân cách con người, bản chất xã hội của con người.
Khác hẳn quan niệm con người ý thức của chủ nghĩa duy tâm, con người sinh vật
của chủ nghĩa nhân bản Feuerbach, quan niệm của C. Mác rất khoa học:
Nếu như tính cách con người là do hoàn cảnh tạo nên thì do đó phải làm
cho hoàn cảnh hợp với tính người. Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có
tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình
trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng của bản tính anh ta, không phải căn
cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội
[37, tr. 200].
Con người tồn tại, phát triển và tham gia vào các hoạt động đời sống hiện thực cần
phải thỏa mãn những tiền đề về nhu cầu tự nhiên như một cá thể sinh vật, xã hội. Và chính
hoạt động sáng tạo trong đời sống hiện thực đã đem lại sự hoàn thiện NTCN. Theo C. Mác,
giải phóng con người chính là hoàn thiện NTCN, hình thành nên những cá nhân tự do, làm
phong phú và lành mạnh các quan hệ xã hội của con người. Xét về bản chất, phát triển con
người là quá trình giải phóng NTCN để hoàn thiện năng lực người. Con người mang bản
chất người nhiều hơn. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, con người được hình thành và hoàn
thiện từng bước, khắc phục sự tha hóa của con người, để con người hoạt động với tư cách
là chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo vì sự phát triển xã hội.
Tóm lại, triết học Mác đã góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người khỏi
áp bức bất công, xây dựng cuộc sống con người văn minh, hạnh phúc. C. mác đã nhận
thức và giải quyết đúng đắn vấn đề con người; đồng thời đặt ra những điều kiện cần thiết
để con người phát triển toàn diện, hài hòa và đạt tới tự do khi đã nhận thức được cái tất
yếu. Chính lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và bản chất con người đã đem lại
phương pháp tiếp cận mới trong việc giáo dục, xây dựng con người, phát huy NTCN.
1.1.2. Khái niệm nhân tố con người
NTCN là một khái niệm rộng được các nhà khoa học Việt Nam và các quốc gia
trên thế giới tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều lĩnh vực khác nhau, góc độ khác nhau. Họ
tìm kiếm con đường, giải pháp để phát huy tính tích cực xã hội của con người trong đời
sống thực tiễn. Quan niệm về NTCN của một số tác giả như sau:
Thứ nhất, NTCN là toàn bộ những dấu hiệu đặc thù nói lên vai trò của con người,
trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Đó là tất cả những gì liên quan đến con người như
một chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội [29, tr. 28].
Thứ hai, NTCN với tư cách là một phạm trù triết học xã hội nói lên vai trò, vị trí
và những ảnh hưởng của con người trong hoạt động thực tiễn nhằm cải biến hiện thực, tự
biểu hiện, tự khẳng định những sức mạnh tiềm tàng của bản thân con người trong quá
trình phát triển và hoàn thiện bản chất xã hội của nó (nhóm tác giả PGS.TS Hoàng Chí
Bảo, TS. Nguyễn Văn Nhớn...).
Như vậy, ở quan niệm thứ nhất, nêu lên được con người là chủ thể trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội và vai trò của nó trong các quan hệ xã hội. ở quan
niệm thứ hai, cho thấy những sức mạnh tiềm tàng của NTCN thông qua hoạt động thực
tiễn và vai trò của NTCN có ảnh hưởng đến việc cải biến thế giới hiện thực. Còn theo
GS.TS Phạm Minh Hạc, trong sự phát triển kinh tế, xã hội, NTCN giữ vị trí trung tâm,
quyết định. NTCN chẳng những là nhân lực, mà trở thành nguồn lực sinh ra các nguồn
lực khác và được gọi là nguồn nhân lực hay nguồn lực con người [22, tr. 11]. ở đây, tác
giả đề cập đến vai trò NTCN, nhấn mạnh đến vai trò quyết định của NTCN trong chuỗi
hệ thống nhân tố tác động đến sự phát triển xã hội.
Nhìn chung, khi xây dựng khái niệm NTCN, các tác giả đều nhấn mạnh đến mặt
hoạt động thực tiễn của con người. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan niệm cho rằng:
"Nhân tố con người chính là tổng hòa các đặc trưng xã hội quy định vai trò chủ thể tích
cực, tự giác, sáng tạo của con người trong một quá trình lịch sử, xã hội". Do vậy, khi
nghiên cứu NTCN, tùy theo mục đích, phạm vi nghiên cứu và các quan hệ xác định để sử
dụng, nhưng không được sử dụng chúng với tư cách như là công cụ nhận thức khoa học.
1.1.3. Khái niệm nhân tố con người trong lực lượng vũ trang
NTCN trong LLVT là sự vận dụng khoa học đối với khái niệm chung về NTCN
nhằm mục đích nghiên cứu một chủ thể xác định là LLVT nói chung và LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ nói riêng nhằm khai thác chiều sâu về những đặc trưng riêng
có của con người trong LLVT gắn với quá trình thực hiện nhiệm vụ BVTQ hiện nay.
LLVT địa phương thành phố Cần Thơ mà đề tài nghiên cứu trong luận văn này là
những con người cụ thể (cán bộ, chiến sĩ) đang làm nhiệm vụ trong các cơ quan, đơn vị,
nhà trường và địa phương. Họ là chủ thể của quá trình thực hiện công tác quân sự, quốc
phòng ở thành phố Cần Thơ, giữ vai trò chủ yếu trong xây dựng củng cố quốc phòng, an
ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Là một bộ phận của QĐNDVN, LLVT địa phương thành phố Cần Thơ được thành
lập ngày 30 tháng 7 năm 1945. Trải qua 59 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, LLVT
địa phương thành phố không ngừng lớn mạnh, xây dựng, huấn luyện, SSCĐ cao; từng bước
xây dựng LLVT địa phương là đội quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, bao gồm: lực lượng thường trực, lực lượng DBĐV và lực lượng DQTV được liên kết
với nhau theo nguyên tắc tổ chức của quân đội, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong
giai đoạn cách mạng hiện nay. Từ đó cho thấy, hoạt động của LLVT địa phương thành phố
thể hiện những đặc điểm nổi bật mà đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng này.
NTCN trong LLVT là sự tiếp cận khái niệm chung về NTCN, đó là hệ thống các
yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người
LLVT, là một chỉnh thể thống nhất giữa hoạt động với tổng hòa những đặc trưng tiêu
biểu về phẩm chất và năng lực của cán bộ, chiến sĩ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
BVTQ.
Từ khái niệm chung về NTCN trong LLVT cho thấy những đặc điểm NTCN
trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ được thể hiện trong hoạt động và phẩm
chất, năng lực thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của mình.
Thứ nhất, hoạt động của LLVT địa phương thành phố Cần Thơ gắn liền với chức
năng tiến hành đấu tranh vũ trang để bảo vệ những giá trị vật chất và tinh thần của dân
tộc, BVTQ và bảo vệ nhân dân. Hoạt động đó, bao gồm những hoạt động lý luận; hoạt
động huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu; hoạt động lao động sản xuất và hoạt động làm
công tác vận động quần chúng... Nói cách khác, những hoạt động trên thực hiện ba chức
năng cơ bản của quân đội: Chiến đấu, công tác và sản xuất. Là loại lao động đặc thù,
LLVT thành phố thực hiện chức năng chiến đấu trong thời chiến và chuẩn bị SSCĐ trong
thời bình. "Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện tốt ngay trong
thời bình, đánh bại mọi thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trong hòa bình, ngăn
ngừa mọi âm mưu gây chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng nếu chiến tranh xảy ra" [53, tr.
61].
Đặc điểm hoạt động của LLVT địa phương thành phố gắn liền với việc sử dụng
các loại vũ khí truyền thống và hiện đại đã hình thành cho cán bộ, chiến sĩ phẩm chất,
năng lực toàn diện để kết hợp và phát huy khả năng trong huấn luyện, chiến đấu; đồng
thời quyện chặt lòng yêu nước, yêu CNXH, dám đánh, biết đánh và biết thắng kẻ thù, sẵn
sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Mặt khác, tinh thần ý chí và tính tự
giác năng động sáng tạo ngày càng cao của cán bộ, chiến sĩ đã khắc phục khó khăn gian
khổ, đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ, vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong việc kết hợp vũ khí
truyền thống và vũ khí hiện đại, cách đánh truyền thống và cách đánh hiện đại trong
những tình huống cụ thể để đánh thắng kẻ thù có vũ khí hiện đại và tương lai có thể chiến
đấu, đánh thắng vũ khí công nghệ cao. "Chiến tranh hiện đại cũng như kỹ thuật hiện đại
thì đòi hỏi phải có nhân lực có chất lượng cao" [26, tr. 191].
Thứ hai, phẩm chất và năng lực của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố
Cần Thơ được hình thành trong quá trình đào tạo, huấn luyện; đặc biệt, là rèn luyện thử
thách trong thực tiễn. Cán bộ, chiến sĩ phải trải qua quá trình giáo dục, học tập, rèn luyện
trong quân đội nói chung và trong các cơ quan, đơn vị nói riêng mới có đủ những kiến
thức nhất định về chính trị, quân sự và giác ngộ sâu sắc mục đích ý nghĩa của nhiệm vụ
quân sự, quốc phòng BVTQ hiện nay. Từ đó, cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành
phố hình thành những tình cảm, thái độ, hành động tích cực phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức, phong cách, chính trị, tư tưởng của LLVT, quân đội; từng bước nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật theo yêu cầu nhiệm vụ và chức trách được giao.
Phẩm chất và năng lực của con người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài
về mặt lịch sử - xã hội.
Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài và làm thay đổi tự nhiên,
con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của nó. Con người phát triển
những tiềm lực đang "ngái ngủ" ở trong bản tính đó và bắt sự hoạt động của
những tiềm lực ấy phải phục tùng quyền lực của mình [39, tr. 17].
Đặc điểm hoạt động của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố trong
nhiệm vụ BVTQ đặt ra yêu cầu rất cao là phải phát huy những tiềm lực đang "ngái ngủ"
trong con người, đó là năng lực suy nghĩ và hành động tự giác, độc lập sáng tạo trong học
tập, công tác và chiến đấu.
Con người trong LLVT địa phương thành phố được tổ chức theo một hệ thống
nhất định. Hệ thống đó là sức mạnh chiến đấu bao gồm cả số lượng và chất lượng, là
nhân tố đầu tiên trong quan hệ với các nhân tố khác (vũ khí, kỹ thuật, trang thiết bị, cơ sở
vật chất...); mà thành tố cốt lõi tạo nên nhân lực có chất lượng cao là phẩm chất, năng lực
cán bộ, chiến sĩ; là sự kết tinh phẩm chất và năng lực của con người Việt Nam, của người
chiến sĩ QĐND: "Trung với Đảng, hiếu với dân, SSCĐ hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng" [50, tr. 349]. Đồng thời, mang những đặc điểm riêng gắn
liền với truyền thống của LLVT địa phương thành phố được Ban chấp hành Tỉnh Đảng
bộ Cần Thơ khen tặng: "Trung thành với Đảng, đoàn kết quân dân, tự lực tự cường, anh
dũng quyết thắng".
Phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của cán
bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố Cần Thơ. Trước hết phẩm chất chính trị đó là
lòng yêu nước, yêu CNXH, trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, với chế độ
XHCN, gắn bó máu thịt với nhân dân; có lòng tin sắt đá vào nền tảng tư tưởng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những phẩm chất đó được cán bộ, chiến sĩ thể hiện
ở bản lĩnh chính trị vững vàng kiên định tư tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và XHCN.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của hoạt động quân sự, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
BVTQ nên phẩm chất chính trị rất quan trọng nếu thiếu nó, người quân nhân sẽ không
hoàn thành được nhiệm vụ, không nắm chắc tay súng giữ vững mục tiêu chiến đấu.
Chính vì vậy, phẩm chất chính trị là cội nguồn sức mạnh của LLVT địa phương thành
phố. Nó quyết định đến chất lượng hoạt động, hiệu quả công tác; quyết định đến khả
năng thực hiện nhiệm vụ BVTQ của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố.
Cùng với phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức cũng là một yếu tố cốt lõi
trong NTCN của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố. Chính vì vậy, đòi hỏi
cán bộ, chiến sĩ phải có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng "Cần, kiệm, liêm
chính, chí công vô tư" [49, tr. 480]. Có lối sống lành mạnh, tiến bộ, văn minh, yêu
mến thiết tha gắn bó với quân đội, SSCĐ BVTQ. "Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [46, tr
209]. Phải hết lòng thương yêu đồng đội, đoàn kết giúp đỡ nhau mọi mặt, khắc phục
khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần xây
dựng đơn vị VMTD.
Tóm lại, phẩm chất và năng lực của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố
được trải nghiệm trong thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, được các thế hệ
cán bộ, chiến sĩ đi trước xây dựng nên hình ảnh "Người chiến sĩ lực lượng vũ trang thành
phố Cần Thơ" với những đặc điểm chung có giá trị nhân cách hết sức tiêu biểu của "Bộ
đội Cụ Hồ".
1.2. YÊU Cầu Cấp Bách Phát HUY NHÂN Tố CON Người TRONG Lực
Lượng Vũ TRANG Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ Hiện NAY
1.2.1. Vai trò nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành
phố Cần Thơ
Con người là chủ thể của quá trình phát triển xã hội với những tiềm năng to lớn
về hoạt động cải tạo xã hội. Cho nên, phát huy NTCN phải đặt trong mối quan hệ giữa
khai thác, bồi dưỡng và phát triển. Mục tiêu vì con người không chỉ là tạo điều kiện tối
đa cho sự phát triển tự do của mỗi cá nhân mà còn phải bảo đảm cho sự phát triển của
mỗi cá nhân không nằm ngoài sự phát triển tự do của mỗi người. Nên mọi dự án, chiến
lược phát triển xã hội bao giờ cũng tập trung cho sự chuẩn bị về NTCN, đặt con người
vào vị trí trung tâm của mọi quá trình biến đổi xã hội, coi đó là nguồn lực nội sinh quyết
định sự phát triển. "Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục
đích cao nhất của mọi hoạt động" [11, tr. 36]. Song, vấn đề đặt ra là phải biết sử dụng
đúng đắn vai trò của NTCN-nghĩa là, đem những yếu tố, những đặc trưng của NTCN vào
một "quỹ đạo" chung, để biến đổi tích cực, đúng phương hướng, có hiệu quả tác động
như thế thì những phẩm chất xã hội của chủ thể mới bộc lộ ra, tạo sự cải biến tích cực có
hiệu quả vào quá trình phát triển xã hội, tạo động lực để phát triển xã hội và phát triển
con người.
Đối với sự nghiệp xây dựng, BVTQ Việt Nam XHCN, Đảng ta đặc biệt chú ý
đến phát huy NTCN và vì con người. Thực tế cho thấy, sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng ta lãnh đạo và khởi xướng đã chứng tỏ vai trò to lớn của NTCN. Vì vậy, nhận thức
đúng vai trò, động lực của NTCN, đặt con người vào vị trí trung tâm của tiến trình đổi
mới để phát huy cao độ nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
BVTQ trong giai đoạn cách mạng hiện nay trở nên cấp bách. "Chăm sóc, bồi dưỡng phát
huy nhân tố con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng" [13, tr.
45]. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng quân đội nói chung, LLVT địa phương thành phố Cần
Thơ nói riêng đặt lên hàng đầu là việc chuẩn bị tốt về NTCN. Phát huy NTCN trong
LLVT địa phương thành phố là quá trình không ngừng hoàn thiện tính tích cực, tự giác,
sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ vào thực tiễn BVTQ. Đây là quá trình hiện thực, mà cán bộ,
chiến sĩ LLVT địa phương thành phố vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong thực hiện
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Nói cách khác, đó là kết quả của quá trình kết hợp biện
chứng giữa con người và trang bị vũ khí, giữa số lượng và chất lượng, giữa tư tưởng và tổ
chức, giữa chính trị và kỹ thuật, giữa khách quan và chủ quan. Trong đó, NTCN là trung
tâm, hạt nhân giữ vai trò quyết định. Từ đó cho thấy, phát huy NTCN trong LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong BVTQ.
Phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là một quá trình tìm
kiếm, phát hiện con đường và biện pháp, nguyên nhân chủ quan và điều kiện khách quan
để khai thác, bồi dưỡng và phát triển tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ
trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ một cách có hiệu quả nhất. Phát
huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong
thực hiện nhiệm vụ BVTQ, đồng thời cũng là nội dung rất quan trọng của việc phát huy
NTCN của quân đội ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
LLVT địa phương thành phố Cần Thơ được xây dựng theo những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình
diễn biến phức tạp hiện nay. Thực tiễn xây dựng và chiến đấu đã khẳng định LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ là đội quân cách mạng, là lực lượng trung thành và công cụ
bạo lực đáng tin cậy để bảo vệ Đảng, Nhà nước; đồng thời là lực lượng nòng cốt xây
dựng nền QPTD và CTND. Cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu, trải qua quá trình giáo dục, rèn luyện, huấn luyện và chiến
đấu trong thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp của
người quân nhân cách mạng "Bộ đội Cụ Hồ", một hình ảnh tiêu biểu của con người mới
XHCN trong sự nghiệp BVTQ hiện nay.
Vai trò NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là biểu hiện của
người quân nhân vừa mang cái chung của người chiến sĩ quân đội, đồng thời mang cái
riêng của LLVT địa phương, được thể hiện thông qua sức mạnh chiến đấu của cán bộ,
chiến sĩ. Sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương thành phố bao gồm hai yếu tố: tinh
thần và vật chất. Đó là, giác ngộ chính trị, tinh thần chiến đấu sâu sắc, ý thức chấp hành
tổ chức kỷ luật nghiêm minh, trình độ tổ chức lực lượng chiến đấu, trình độ hiệp đồng,
phối hợp tác chiến, biên chế con người và trang bị vũ khí kỹ thuật, trình độ kỹ chiến
thuật, bản lĩnh lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu của đội ngũ cán bộ,...
Phẩm chất chính trị, tinh thần của người chiến sĩ là yếu tố hàng đầu, quyết định
đến thắng lợi trong chiến đấu. Đặc điểm hoạt động quân sự là kề bên cái sống, cái chết,
rất nguy hiểm đến tính mạng con người. Do vậy khi tham gia vào quá trình chiến đấu,
người chiến sĩ phải vượt qua mọi trở ngại thử thách, gian khổ, vượt qua tính chất ác liệt
của chiến tranh, tâm lý căng thẳng, thể lực luôn vận động không ngừng trên diện rộng
chiến trường. Chính vì vậy, nếu có sự giác ngộ về đường lối chính trị của Đảng, về mục
đích ý nghĩa của cuộc chiến đấu; có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí kiên định; có tri
thức khoa học về nghệ thuật quân sự thì người chiến sĩ sẽ chiến đấu dũng cảm, mưu trí và
sáng tạo trong chiến đấu. Phẩm chất chính trị,tinh thần của người chiến sĩ cách mạng
trong chiến đấu còn thể hiện ở sự thống nhất giữa ý chí quyết đánh với tri thức khoa học
biết đánh. Đây là yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định để giành thắng lợi trong chiến đấu,
"biết thắng" của LLVT địa phương thành phố. Truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc
là thứ vũ khí sắc bén, có sức mạnh phi thường trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân
tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Ta phải có quần chúng giác ngộ chính trị, tự
nguyện cầm súng thì mới thắng" [44, tr. 349]. Trong lĩnh vực quân sự, ảnh hưởng của
cuộc cách mạng khoa học-công nghệ dẫn đến sự biến đổi của vũ khí, trang bị và kỹ thuật
quân sự thì chiến tranh tương lai có thể xảy ra sẽ được tiến hành bằng vũ khí có tầm bắn
xa, độ chính xác cao, có sức hủy diệt rất lớn thì vai trò của nhân tố chính trị, tinh thần
không giảm mà ngày càng tăng. Chính vì vậy, chiến tranh hiện đại đòi hỏi con người phải
có chất lượng cao cũng như vũ khí, trang bị và kỹ thuật hiện đại.
Vai trò NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là biểu hiện sức
mạnh tổng hợp của trí tuệ, thể chất và các điều kiện đảm bảo hậu cần, kỹ thuật; tạo nên
sức mạnh vật chất - sức mạnh của cán bộ, chiến sĩ đối với nhiệm vụ xây dựng và nâng
cao sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương.
Trong hoạt động quân sự, thực tiễn chiến đấu của người chiến sĩ trên chiến
trường, là sự kết hợp giữa hai yếu tố tinh thần và vật chất. Sức mạnh vật chất là sự tổng
hợp về trí tuệ và thể chất của người chiến sĩ. Thân thể cường tráng, bền bỉ, dẻo dai chính
là một yếu tố quyết định đến chiến thắng: "Thân thể khỏe mạnh thì nhất định
thắng,...Thân thể yếu đuối thì không thể thắng được" [45, tr. 454]. Sức khỏe của người
chiến sĩ tốt kết hợp với vũ khí, trang bị và kỹ thuật thì sẽ trở thành sức mạnh vật chất để
giành chiến thắng. Cho nên, sức mạnh vật chất của NTCN phải là quá trình thống nhất
biện chứng giữa con người và vũ khí; sức mạnh chiến đấu của con người, NTCN nhân
lên khi được trang bị và sử dụng thành thạo vũ khí, kỹ thuật có trong tay và năng lực hoạt
động thực tiễn, năng lực tổ chức chiến đấu. Đó chính là điểm hội tụ sức mạnh vật chất
của NTCN quyết định thành bại trong chiến đấu.
Trong các giai đoạn cách mạng, LLVT địa phương thành phố đã tham gia đầy đủ các
mặt hoạt động, nâng cao trình độ SSCĐ và sức mạnh chiến đấu của toàn quân, góp phần
quan trọng trong thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của quân đội, tô đậm vẻ đẹp bản
chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ". Là đội quân chiến đấu, công tác và sản xuất, LLVT địa
phương thành phố đã thể hiện sức mạnh chiến đấu, hoạt động quân sự trong chiến tranh giải
phóng và chiến tranh BVTQ, thực sự là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong đội
hình chiến đấu và hoạt động của LLVT ba thứ quân của quân đội ta. Tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh: "Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc" [16, tr. 39-40]. Do vậy, để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, LLVT địa phương thành phố phải thực hiện tốt ba
nội dung của cuộc vận động: "Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện và xây dựng chính quy hóa lực lượng vũ trang" [18], để đáp ứng với
yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ hiện nay.
Vai trò NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đối với nhiệm vụ xây
dựng nền khoa học - nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước, chống các kẻ thù xâm lược thường lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần.
Điểm xuất phát của nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật toàn dân đánh giặc. Mặt
khác, nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển còn là sự vận dụng sáng tạo khoa học nghệ
thuật quân sự Mác-Lênin và tư tưởng nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh đặt con người là
vị trí trung tâm, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi "Người trước, súng sau", dựa vào
lòng yêu nước của nhân dân, tìm sức mạnh trong khối đoàn kết toàn dân, động viên sức
mạnh vật chất, tinh thần và trí tuệ của toàn dân, tổ chức cho toàn dân đánh giặc lấy LLVT
nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt, phải đánh lâu dài, đề cao mưu trí, chỉ chấp nhận giao
chiến trong thế có lợi, cách đánh có lợi, phát huy được cái mạnh của ta, hạn chế được cái
mạnh của địch để tạo lực, tạo thế, lấy ít địch nhiều, nhỏ thắng lớn, chuyển yếu thành mạnh,
phát huy cao nhất khả năng của thế trong việc kết hợp với lực tạo sức mạnh lớn giành thế
chủ động chiến trường; kết hợp kế thừa truyền thống quân sự dân tộc với tinh hoa của
quân sự thế giới.
Ngày nay nghệ thuật quân sự Việt Nam tiếp tục hoàn thiện những
phương pháp đấu tranh vũ trang truyền thống của mình, trên cơ sở đó đề ra
những vấn đề chuẩn bị đất nước, chuẩn bị lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới (trong đó có sử dụng lực
lượng vũ trang chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ) [65, tr. 546].
Thực hiện đường lối quân sự của Đảng, xuất phát từ yêu cầu thực tế, dựa vào
niềm tin và sức mạnh to lớn của nhân dân, LLVT địa phương thành phố đã phát huy cao
độ tinh thần tự lực, tự cường, sáng tạo độc đáo những cách đánh truyền thống và hiện đại,
không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, góp phần xây dựng nền nghệ thuật quân sự
Việt Nam và của LLVT địa phương, đó là: Chủ động, bất ngờ tiến công tiêu diệt địch;
phục kích chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; tạo thế, chuyển thế từ phòng ngự
sang tập trung lực lượng tập kích, phản công, tiến công tiêu diệt địch; tổ chức lực lượng
phù hợp với hai phương thức tác chiến là đánh tập trung và đánh phân tán vận động tiến
công nhanh, táo tạo, bất ngờ, công đồn đả viện, bứt rứt đồn bót; kết hợp đấu tranh quân
sự, chính trị và binh vận giành thắng lợi... Những đóng góp của LLVT địa phương thành
phố tạo nên sức mạnh tổng hợp của CTND, toàn dân đánh giặc: hạn chế chỗ mạnh, khoét
sâu chỗ yếu của địch, làm cho địch phân tán lực lượng trên chiến trường rơi vào tình thế
bị động, lúng túng, bị thế bao vây liên hoàn của LLVT địa phương.
Trong chiến tranh giải phóng, nghệ thuật sử dụng lực lượng cũng là nét phát
triển sáng tạo, độc đáo của LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, khẳng định hai cách
đánh đó là: đánh độc lập và đánh hiệp đồng, nhưng lấy cách đánh độc lập là chủ yếu
nhất. Tác chiến độc lập là nét đặc thù của LLVT địa phương thành phố để bảo vệ và
phát triển lực lượng, giành thế chủ động chiến trường. Đó cũng là quy luật tồn tại của
LLVT địa phương thành phố. Trên chiến trường Cần Thơ, địch luôn càn quét tìm lực
lượng ta để tiêu diệt, LLVT địa phương thành phố luôn phải đương đầu chiến đấu lại
với binh hỏa lực rất mạnh của chúng để chiến thắng và tồn tại. Chính vì vậy, cách đánh
độc lập của LLVT địa phương thành phố đã khẳng định về sở trường của LLVT địa
phương: "Nghệ thuật dao phay", "nghệ thuật nạng giàn thun", "nghệ thuật nuôi ong vò
vẽ"... để đánh giặc rộng rãi, muôn màu, muôn vẻ đặc biệt lợi hại góp phần giữ thế, tạo
lực tiến công liên tục trên chiến trường, tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ lực lượng ta.
Nghệ thuật sử dụng lực lượng của LLVT địa phương thành phố đã phát huy tinh thần
tích cực, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, khẳng định tinh thần và ý chí, trí tuệ và tài năng
để khai thác, sử dụng và phát huy NTCN, nhân tố kỹ thuật để giành thắng lợi. Không
chỉ đánh "du kích" giỏi, LLVT địa phương thành phố còn thực hiện tốt trong những trận
đánh hiệp đồng với LLVT địa phương bạn và bộ đội chủ lực Quân khu, biết tập trung
lực lượng cần thiết đảm nhiệm những hướng chủ yếu, hiệp đồng chính xác, nhịp nhàng
tạo nên thế chủ động và giành thắng lợi trên chiến trường, góp phần to lớn vào thắng lợi
vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
1.2.2. Yêu cầu cấp bách phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ
trang địa phương thành phố Cần Thơ hiện nay
Trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh BVTQ và làm nhiệm vụ quốc tế
Campuchia, LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu đầy
hy sinh, gian khổ để giành thắng lợi. Thắng lợi đó, suy cho cùng, là thắng lợi của con
người mới Việt Nam XHCN. "Quyết định thắng lợi của chiến tranh có nhiều nhân tố,
nhưng nhân tố cơ bản nhất là con người" [10]. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nhiều nhà chiến lược quân sự Việt Nam khẳng định: "Nói thắng lợi của kháng
chiến là thắng lợi của con người, cũng có nghĩa đó là thắng lợi của sự nghiệp bồi dưỡng
và phát huy nhân tố con người" [62, tr. 272].
Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng đất nước và BVTQ là quy luật tồn tại và phát triển
của dân tộc ta. Vì vậy, trong bất cứ tình huống nào, việc phát huy NTCN đối với quân đội
nói chung và LLVT địa phương nói riêng đã trở thành yêu cầu cấp bách đặt ra. Phát huy
NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là sự thể hiện hành động đường lối
quân sự của Đảng ta về vai trò NTCN trong chiến tranh, là quá trình không ngừng nâng
cao tính tích cực, sáng tạo của mỗi cán bộ, chiến sĩ trên cơ sở giải quyết mối quan hệ biện
chứng giữa con người với con người, giữa con người với vũ khí, giữa quân sự với chính
trị, hậu cần, kỹ thuật; giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và DQTV; giữa lực
lượng thường trực với lực lượng DBĐV, giữa tổng quân số với khả năng vũ khí, trang
bị,... nhằm chuẩn bị cuộc "chiến tranh tự vệ" để BVTQ: "Nhà nước xã hội chủ nghĩa đánh
thắng các cuộc chiến tranh xâm lược nhất thiết phải chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược
bằng vũ trang để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" [61, tr. 29].
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Người cha thân
yêu của các LLVT đã trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin
vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh
BVTQ.
Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ của chúng ta chịu
sự tác động của tình hình thế giới đầy biến động phức tạp. Đối với nước ta, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược "DBHB", bạo loạn lật đổ
kết hợp răn đe bằng sức mạnh quân sự... nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN... Tình hình thế giới và khu vực nói trên
đã tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và BVTQ, vừa tạo ra nhiều thuận lợi mới
rất quan trọng, đồng thời cũng gây ra những khó khăn, thách thức nghiêm trọng đối với
nước ta. Do đó, vấn đề BVTQ XHCN, đặc biệt là, phát huy NTCN Việt Nam nói chung
và NTCN trong LLVT nói riêng là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết, là khâu quan trọng
nhất trong nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để chuẩn bị tốt cho chiến tranh BVTQ hiện
nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra thời
cơ mới và những thuận lợi cơ bản cho thời kỳ phát triển mới của đất nước, thời kỳ đẩy
mạnh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội; xã hội có một số chuyển biến tích cực, thực hiện
có hiệu quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị, ổn định chính trị tiếp tục giữ
vững, quan hệ đối ngoại và hợp tác phát triển, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và BVTQ. Hiện nay đất nước cơ bản đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội thì khủng hoảng mới xuất hiện, chúng ta vẫn còn một số mặt chưa được củng cố vững
chắc. Đặc biệt đối với quốc phòng, an ninh Đảng ta chỉ rõ:
- Quốc phòng, an ninh chưa được tăng cường đúng mức, sức mạnh và
khả năng sẵn sàng chiến đấu chưa cao.
- Công tác nghiên cứu và dự báo tình hình, tham mưu chiến lược chưa
đáp ứng yêu cầu, có lúc, có nơi còn để bất ngờ, bị động.
- Chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang còn
nhiều hạn chế, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, khoa học, công nghệ chưa ngang
tầm đòi hỏi của tình hình.
- Chất lượng lực lượng dự bị động viên chưa cao, chưa được tổ chức,
quản lý tốt [4, tr. 35-36].
Bên cạnh đó, nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ rõ tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ tháng 1 năm 1994 đến nay vẫn là thách thức lớn. Bốn nguy cơ vẫn tồn tại, đan
xen trong mối liên hệ tác động lẫn nhau và rất nguy hiểm gây tác hại, ảnh hưởng lớn tới
sự sống còn của chế độ. Chủ nghĩa đế quốc đang tìm mọi cách chống phá ta trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, tư tưởng, văn hóa, lối sống. Do vậy, đòi hỏi
chúng ta phải thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đánh thắng mọi âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. BVTQ XHCN là
vấn đề có tính quy luật của cách mạng vô sản. Nó đặt ra yêu cầu thực tiễn, cấp bách phải
phát huy NTCN trong LLVT nói chung và LLVT địa phương thành phố Cần Thơ nói
riêng.
Tình hình mới hiện nay, chức năng, nhiệm vụ chiến đấu của quân đội ta có sự
phát triển mới về nội dung.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trở nên phức tạp hơn vì mục tiêu đa dạng
hơn; các đối tượng mà chúng ta phải chiến đấu nhiều hơn, không chỉ có các
thế lực xâm lược từ bên ngoài mà còn có các thế lực lạc hậu, phá hoại chế độ
ta từ bên trong; phương sách bảo vệ Tổ quốc cũng như tổ chức lực lượng bảo
vệ không thể hoàn toàn giống trước [64, tr. 4].
Trong tương lai, chiến tranh BVTQ Việt Nam XHCN xảy ra vì còn chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động, thù địch. Do vậy, cuộc chiến tranh BVTQ của chúng ta là
CTND hiện đại, diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt. Xuất phát từ nhu cầu
chuẩn bị cho chiến tranh BVTQ, yêu cầu cấp bách phát huy NTCN trong LLVT địa
phương đặt ra là phải "tự bảo vệ" mình trước sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các
lực lượng thù địch.
CTND BVTQ mà LLVT địa phương thành phố chuẩn bị tiến hành dưới tác động
của cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại, đối tượng tác chiến sử dụng các loại vũ khí
hiện đại nhất bằng sức mạnh tổng hợp của vũ trang và phi vũ trang, trên một không gian
rộng lớn. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc diễn ra gay go, quyết liệt mà
LLVT làm nòng cốt trong cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc và CNXH. Đất nước ta
trong quá trình CNH, HĐH là cơ sở để xây dựng nền kinh tế, khoa học, công nghệ, quốc
phòng, quân sự vững mạnh hiện đại; là điều kiện thuận lợi để LLVT địa phương thành
phố xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD và CTND; xây dựng LLVT thành phố vững
mạnh, từng bước chính quy, hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến
đấu của mình để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược được trang bị vũ khí hiện đại nhất.
Do vậy, phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố làm nòng cốt xây
dựng nền QPTD, thế trận CTND, kết hợp xây dựng đất nước với BVTQ là để chuẩn bị
mọi mặt cho đất nước sẵn sàng tiến hành chiến tranh BVTQ thắng lợi. Cùng với chiến
tranh quân sự, chiến lược "DBHB", bạo loạn lật đổ, kẻ thù sẽ tận dụng sức mạnh tổng
hợp tiến công ta về kinh tế, về chính trị, về ngoại giao, về văn hóa, lối sống và đạo đức...
nhằm làm cho ta suy yếu toàn diện, sau đó chúng sử dụng những đòn vũ trang quyết định
để giành thắng lợi trong chiến tranh. Trong chiến tranh, quân sự là mặt trận đấu tranh chủ
yếu, các mặt đấu tranh khác phục vụ cho mặt chủ yếu đó. Còn "DBHB", mặt trận quân sự
vẫn là cần thiết nhưng đóng vai trò răn đe, trong khi đó các mặt trận đấu tranh tư tưởng,
chính trị, kinh tế, văn hóa nổi lên hàng đầu. Trong đó, mũi nhọn chống phá là chính trị, tư
tưởng và quân đội được xác định là một trong những đối tượng chủ yếu của chúng. Trên
cơ sở nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, LLVT địa phương thành phố Cần Thơ
cần phải có tư duy mới, nhận thức mới về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng để nâng cao
chất lượng tổng hợp của mình; trước hết phải nâng cao về chính trị nhằm phát huy ưu thế
tuyệt đối nhân tố chính trị, tinh thần, biến thành sức mạnh vật chất của LLVT địa phương
thành phố trong sự nghiệp BVTQ.
Yêu cầu phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố là để tập trung nâng
cao trình độ và khả năng tác chiến của cán bộ, chiến sĩ, chấn chỉnh tổ chức biên chế trong
LLVT địa phương theo yêu cầu thời bình, sẵn sàng phát triển khi có chiến tranh xảy ra
đúng nội dung, kế hoạch, tiến độ đã đề ra theo hướng gọn, mạnh, đồng bộ, hợp lý. Mặt
khác, không ngừng nâng cao trình độ hiệp đồng tác chiến trên từng địa bàn và khu vực
theo phương án và sự chỉ huy tập trung, thống nhất, tạo thành sức mạnh tổng hợp, chủ
động đánh thắng địch trong mọi tình huống.
Mặt khác, yêu cầu phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố cũng xuất
phát từ đặc điểm, tính chất yêu cầu của nhiệm vụ BVTQ hiện nay về nghệ thuật chỉ đạo
CTND hiện đại của Đảng ta. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến đó là, sự vận dụng sáng tạo
quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng,
học thuyết quân sự Việt Nam. Do vậy, đối với cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành
phố là phải phát triển truyền thống của CTND, QPTD và nghệ thuật quân sự độc đáo
trong đánh giặc giữ nước của dân tộc lên một trình độ mới. Song, sự kế thừa đó phải
được gắn kết chặt chẽ với tính hiện đại trong nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến đấu dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đưa lại. Do vậy, nghệ thuật chiến
dịch, nghệ thuật chiến đấu của LLVT địa phương thành phố phải có một tư duy khoa học
và cách mạng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ hiện nay.
Tóm lại, NTCN trong LLVT địa phương là một nguồn nhân lực chất lượng cao,
tiêu biểu cho kiểu nhân cách con người mới Việt Nam XHCN, có vai trò quan trọng
không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Tìm hiểu đặc điểm, vai trò NTCN
trong LLVT địa phương thành phố chính là đặt chủ thể sáng tạo cán bộ, chiến sĩ vào
"quỹ đạo"thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ hiện nay. Từ cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của LLVT địa phương thành phố Cần
Thơ, cho thấy, phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố không những là yêu
cầu cấp bách đặt ra mà còn là yêu cầu khách quan, tất yếu trong nhiệm vụ BVTQ hiện
nay.
Chương 2
Việc Phát HUY NHÂN Tố CON Người TRONG
Lực Lượng Vũ TRANG Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ -
Thực Trạng Và Vấn Đề
2.1. Thực Trạng Phát HUY NHÂN Tố CON Người TRONG Lực Lượng Vũ
TRANG Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ.
Người Cần Thơ có tinh thần yêu nước, thương người, BVTQ, cần cù lao động, hết
lòng vì nghĩa, khẳng khái, bộc trực, sớm chịu ảnh hưởng văn hóa, văn minh phương Tây,
tư bản, đế quốc. Có thể khẳng định rằng, người Cần Thơ mang tính chất nông dân, nông
dân miệt vườn tiếp cận thành thị với nét đặc trưng nổi bật là: "Phóng khoáng, hào hiệp,
mến khách, trọng nghĩa khinh tài, tình cảm mộc mạc, chân thành, trực tính, táo bạo" [5, tr.
30]. LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đa phần xuất thân từ tầng lớp nông dân, nên
việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương cũng phải gắn liền với những nét đặc thù đó.
Tuy nhiên, khi đánh giá thực trạng NTCN trong LLVT địa phương thành phố
Cần Thơ phải xuất phát từ hiệu quả hoạt động thực tiễn và phẩm chất, năng lực của cán
bộ, chiến sĩ LLVT địa phương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
BVTQ. Đây là vấn đề hết sức phức tạp. Vì rằng, cơ sở đánh giá, phân tích này phải dựa
trên tiêu chí hoạt động thực tiễn trong sự thống nhất với hệ thống phẩm chất và năng lực
của cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa
khách quan và chủ quan, giữa NTCN với các nhân tố vật chất kỹ thuật. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá mặt tích cực và tiêu cực tác động đến tính tích cực xã hội của LLVT địa
phương thành phố để tìm ra những giải pháp nhằm phát huy trí tuệ, tính tích cực xã hội
đối với yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ, đặc biệt là chỉ ra những mâu thuẫn nổi lên, những trở
lực kìm hãm tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ. Từ đó, đề ra phương
hướng, giải pháp phù hợp nhằm phát huy cao độ NTCN trong LLVT địa phương thành
phố đối với việc thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ hiện nay.
2.1.1. Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan tác động đến quá
trình phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố
Cần Thơ hiện nay
Sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN của chúng ta diễn ra trong bối
cảnh quốc tế có nhiều biến động sâu sắc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản
động luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta. Đặc biệt, chúng thực hiện chiến
lược "DBHB" kết hợp với các hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ răn đe quân sự và sẵn
sàng can thiệp vũ trang khi có thời cơ. Trước hết, chiến lược "DBHB" do chủ nghĩa đế
quốc tiến hành được triển khai mạnh mẽ hơn, tinh vi hơn trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội. Chúng lợi dụng những tác động tiêu cực của nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần và những khuyết điểm trong quản lý, lãnh đạo của các cấp,
các ngành để gây áp lực từ mọi phía hòng xóa bỏ CNXH trên đất nước ta. Chúng kết hợp
trong - ngoài trên mọi lĩnh vực để thúc đẩy quá trình tự diễn biến ở bên trong. Mặt khác,
chúng lợi dụng những yếu kém, tiêu cực kéo dài trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta như:
quan liêu, cửa quyền, tham nhũng... Chiến lược DBHB sẽ khuyếch trương vấn đề nhân
quyền, trực tiếp kích động dân chúng gây mất ổn định chính trị, pha loãng ý thức XHCN
của đội ngũ cán bộ đương chức, làm phai nhạt tính chất cộng sản của đảng viên, từng
bước chuyển hóa Đảng ta thành Đảng xã hội dân chủ. Thông qua đó mà thúc đẩy quá
trình tự diễn biến trong hệ thống chính trị của chúng ta. Có thể nói, từ chính sách bao vây
cấm vận kinh tế, chúng chuyển sang chính sách "ngoại giao thân thiện", "khoét sâu nội
bộ", "chiếm lĩnh đầu tư"... nhằm mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô cuối những năm 80, đầu
những năm 90 dẫn đến trật tự thế giới cũ mất đi, trật tự thế giới mới hình thành, những mâu
thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại, phát triển và có thêm những biểu hiện mới. Ngày nay
tuy không còn hệ thống XHCN, song mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với các nước XHCN
vẫn là mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại và đấu tranh giải quyết "ai thắng ai" giữa chủ
nghĩa tư bản và CNXH vẫn là cuộc đấu tranh gay go quyết liệt. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu
là Mỹ ngày càng tăng thêm dục vọng xâm lược đối với các nước khác trên thế giới. Chúng
liên minh - liên kết với nhau thành những khối chính trị xâm lược thực hiện quyền áp đặt đối
với các nước khác. Chúng dùng các thủ đoạn bao vây, cấm vận, viện trợ kinh tế, quân sự,
kích động nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc, dân tộc để tạo dựng các mâu thuẫn giữa các nước
với nhau, tìm cách tạo cớ gây chiến tranh xâm phạm độc lập chủ quyền của các nước khác,
thực hiện xóa bỏ hoàn toàn CNXH và hướng các nước còn lại đi theo con đường chủ nghĩa
tư bản.
Hơn một thập niên đã qua, kể từ sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ, CNXH hiện thực và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế tuy đã có sự phục
hồi, phát triển nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi thời kỳ thoái trào. Thế giới sau "chiến tranh
lạnh" có bao biến đổi phức tạp và chứa đựng nhiều nhân tố khó lường. Đặc biệt, khu vực
Châu á - Thái Bình Dương và Đông Nam á tương đối ổn định, kinh tế phát triển năng
động. Tuy nhiên, vẫn tiềm tàng nhiều yếu tố gây mất ổn định. Chính sách các nước lớn
theo hướng tăng cường lực lượng quân sự tiến công đã và đang đe dọa đến an ninh khu
vực. Ưu thế về khoa học-công nghệ tiên tiến của các thế lực đế quốc đang nắm giữ vai trò
chỉ đạo các trung tâm kinh tế, phối hợp và chia sẻ lợi ích trên thế giới. Chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch tăng cường chiến lược "DBHB" chống phá các nước XHCN còn
lại; trong đó, Việt Nam được chúng coi là trọng điểm chống phá trên tất cả các lĩnh vực.
Thực tế đó đã đặt cho Đảng và nhân dân ta chuẩn bị đối phó cuộc chiến tranh hết sức
phức tạp, mang tầm vóc thời đại và dân tộc; tác động rất lớn đến nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng BVTQ hiện nay; tác động đến nhiệm vụ xây dựng quân đội nói chung và LLVT
địa phương thành phố Cần Thơ nói riêng.
Trong nước, từ sau năm 1975, những vấn đề chính trị-xã hội nổi bật có tác động
sâu sắc đến cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương thành phố, công cuộc xây dựng và BVTQ
diễn ra trong điều kiện không bình thường; cùng với quân và dân cả nước, LLVT địa
phương thành phố phải tiến hành cuộc chiến đấu BVTQ ở biên giới Tây Nam, làm nghĩa
vụ quốc tế giúp Campuchia. Đến 1989, LLVT địa phương thành phố mới rút hết quân
tình nguyện về nước và chuyển sang xây dựng trong thời bình. Đặc biệt, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu thời kỳ đổi mới, phát triển của đất nước. Đại hội
đã phân tích đúng đắn những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế-xã hội, đề
ra các định hướng lớn để từng bước thoát khỏi tình trạng đó. Tại đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định "Thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã
đạt được những tiến bộ rõ rệt...", "Đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước"
[12, tr. 17-21]. Đại hội đã khẳng định phát triển hàng hóa nhiều thành phần là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn XHCN.
Nền kinh tế phát triển đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội đất nước, tác động sâu
sắc đến nhiệm vụ xây dựng quân đội ta, tác động đến nhiệm vụ xây dựng LLVT địa
phương thành phố: "Đối với lĩnh vực quân sự, những thành quả của nền kinh tế mới đã tạo ra
điều kiện kinh tế cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội" [55]. Kinh tế thị trường phát triển đã phát
huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậy tính tích cực, sáng tạo để khai thác
những tiềm năng to lớn trong nhân dân, để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm và
sản phẩm cho xã hội, là điều kiện cần thiết để tăng cường các khả năng ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế-xã hội. Mặt khác, sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, nền công nghiệp quốc gia phát triển tạo điều kiện cho nền công nghiệp
quốc phòng phát triển trong sản xuất vũ khí, trang bị, cải tiến kỹ thuật để cung ứng nhu
cầu phục vụ SSCĐ và chiến đấu, nhu cầu sinh hoạt của quân đội, LLVT địa phương
thành phố.
Kinh tế thị trường phát triển đem lại những thành quả to lớn về kinh tế, mức sống
của các tầng lớp nhân dân và của toàn xã hội tăng lên; đồng thời tạo điều kiện cho quân
đội thực hiện chính sách cải thiện đời sống bộ đội về vật chất và tinh thần, củng cố thêm
niềm tin của cán bộ, chiến sĩ đối với Đảng và với chế độ XHCN, làm tăng thêm tinh thần
nhiệt tình cách mạng, tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập, công tác, huấn
luyện, diễn tập và xây dựng cơ quan, đơn vị VMTD; phát huy cao NTCN trong LLVT
địa phương thành phố. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì những mặt tiêu cực
của nền kinh tế thị trường đưa lại không thể tránh khỏi. Cơ chế thị trường đã làm nảy
sinh quan điểm và lối sống thực dụng chủ nghĩa, ảnh hưởng đến một bộ phận cán bộ sĩ
quan, chiến sĩ kém yên tâm phục vụ quân đội. Tình hình đó dẫn đến hiện tượng ngại học
tập chính trị của cán bộ, chiến sĩ và chỉ huy, lãnh đạo cũng dễ coi nhẹ tuyên truyền, giáo
dục chính trị, tư tưởng. Đây là công tác vốn được coi là ưu thế tuyệt đối của quân đội ta.
Khi "mở cửa", mặt tiêu cực của cơ chế thị trường còn là mảnh đất tốt cho các trào lưu văn
hóa đồi trụy của Phương Tây du nhập vào xã hội ta, đó là chủ nghĩa cá nhân cực đoan,
thói thực dụng, sự sùng bái đồng tiền, sự bắt chước lối sống lố bịch... những tệ nạn đó
cũng ảnh hưởng đến một bộ phận nhỏ cán bộ, chiến sĩ, cản trở đến việc phát huy NTCN
trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ.
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, chống "diễn biến hòa bình và bạo loạn lật
đổ trở thành nhiệm vụ cấp bách hàng đầu", "phải được kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ
vùng biển đảo, biên giới, vùng trời của Tổ quốc và nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ứng phó với
các tình huống khác" [32, tr. 17-18]. Do vậy, BVTQ, xây dựng CNXH không chỉ tập
trung đối phó kẻ thù vũ trang xâm lược từ bên ngoài, mà còn phải tập trung xây dựng và
giữ vững ổn định ở bên trong. Nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của
LLVT địa phương thành phố theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại là đòi hỏi khách quan trước yêu cầu nhiệm vụ mới của quân đội, đảm bảo cho LLVT địa
phương thành phố hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Tập trung nâng cao trình độ chính trị của cán bộ, chiến sĩ, phát huy
bản chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", bảo đảm cho lực lượng vũ trang, mà
nòng cốt là quân đội nhân dân luôn kiên định, vững vàng về chính trị, trình độ
sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu được nâng lên, phòng chống có
hiệu quả hơn nữa mọi âm mưu, thủ đoạn "Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch, đồng thời chủ động đối phó thắng lợi với mọi tình
huống phức tạp có thể xảy ra [35, tr. 2].
Trước diễn biến phức tạp của tình hình, trước nhiệm vụ nặng nề của LLVT, sự
lãnh đạo của Đảng đối với LLVT địa phương thành phố vẫn được tăng cường cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức nhằm xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững
vàng, đảm bảo là lực lượng chiến đấu, lực lượng trung thành tin cậy của Đảng, của nhân
dân, hoàn thành các nhiệm vụ được giao, làm thất bại mưu toan của các thế lực thù địch
hòng "vô hiệu hóa" LLVT của Đảng. Chất lượng công tác giáo dục, huấn luyện bộ đội,
công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu mới được tiến hành tích cực; chất lượng
đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội được cải thiện, nâng cao. Tuy nhiên, yêu cầu,
nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới đặt ra cho LLVT địa phương thành phố tồn tại
nhiều vấn đề cần phải khắc phục. Chất lượng NTCN của LLVT địa phương thành phố có
tiến bộ, nhưng còn nhiều mặt chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Phẩm chất, năng lực
của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ chưa đáp ứng với yêu cầu chức trách nhiệm vụ được
giao.
Yêu cầu mới của nhiệm vụ BVTQ cũng như những biến đổi, phát triển của
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và sự nghiệp xây dựng quân đội ta những năm qua là điều
kiện trực tiếp tác động đến tình hình hiện thực NTCN và đặt ra những vấn đề cho việc
phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ hiện nay.
2.1.2. Những ưu điểm và hạn chế trong quá trình phát huy nhân tố con
người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ hiện nay
NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ (cụ thể là cán bộ, chiến sĩ),
bao gồm: lực lượng thường trực, lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV có cùng chung
một mục tiêu chính trị nhưng có vị trí, vai trò, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động khác nhau.
Cho nên, yêu cầu về phẩm chất, năng lực và hoạt động thực tiễn quân sự cũng có sự khác
nhau.
Đội ngũ cán bộ sĩ quan chỉ huy LLVT địa phương thành phố là nguồn NTCN có
chất lượng cao, họ là những cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần và kỹ thuật chịu trách
nhiệm tổ chức chỉ huy, giáo dục, huấn luyện về mọi mặt cho các lớp chiến sĩ LLVT địa
phương đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác quân sự, quốc phòng. So với tổng quân
số, NTCN trong đội ngũ cán bộ LLVT địa phương hiện nay thiếu 41,99% (do chia tách
tỉnh) ở các cơ quan, đơn vị, nhưng vẫn đảm bảo biên chế phù hợp với yêu cầu tổ chức
của quân đội trong thời bình. Những năm qua, đội ngũ cán bộ sĩ quan LLVT địa phương
thành phố có sự phát triển, trưởng thành, chất lượng NTCN được nâng lên một bước mới,
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu xây dựng quân đội và LLVT địa phương trong giai
đoạn cách mạng mới.
Trong đời sống hoạt động thực tiễn, đội ngũ cán bộ sĩ quan LLVT địa phương
thành phố có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và trung thành tuyệt đối với Đảng,
với Tổ quốc, với nhân dân, với nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; có tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tích cực xây dựng đơn vị VMTD và thực
hiện chính quy, tự lực tự cường khắc phục mọi khó khăn để vươn lên hoàn thành nhiệm
vụ của quân đội, của Đảng. Trong đội ngũ cán bộ sĩ quan LLVT địa phương thành phố
hiện nay còn 12,68% đã trải qua thực tiễn chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đây là vốn
quý của LLVT địa phương đã được tôi luyện trong thử thách chiến tranh qua các giai
đoạn cách mạng.
Nhìn chung, NTCN trong đội ngũ cán bộ sĩ quan luôn giữ vững phẩm chất
người quân nhân cách mạng, có đạo đức tốt, lối sống trong sạch, giản dị, lành mạnh,
giữ nghiêm kỷ cương pháp luật Nhà nước và điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội. Đội
ngũ này thực sự là bộ phận cán bộ sĩ quan quan trọng thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh
đạo quân đội tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt xây dựng LLVT địa phương thành phố
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản
lý bộ đội và kiến thức, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật được nâng lên,
đáp ứng với yêu cầu thực tiễn xây dựng đơn vị, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng.
Tuy nhiên, chất lượng NTCN của một bộ phận cán bộ LLVT địa phương còn
những mặt hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ
quan, đơn vị và thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới hiện nay.
Một bộ phận NTCN trong cán bộ sĩ quan có biểu hiện giảm sút ý chí, thiếu nhiệt tình
công tác, làm việc cầm chừng "nước sông công lính", sa sút về phẩm chất đạo đức, lối sống,
phát triển tư tưởng cá nhân chủ nghĩa. Từ đó, "Tình trạng đơn vị quản lý còn lỏng lẻo, sai
phạm kỷ luật quân đội vẫn còn, tai nạn giao thông chưa được chấm dứt" [19, tr. 17]. Một
bộ phận NTCN trong cán bộ sĩ quan trình độ tri thức thiếu hệ thống, cơ bản; trình độ tư
duy lý luận chưa phát triển, nhạy bén trong vận dụng cụ thể hóa vào đường lối chính sách
của Đảng, Nhà nước; đường lối quân sự, đường lối xây dựng LLVT địa phương vào lĩnh
vực công tác của mình. Năng lực tổ chức chỉ huy, điều hành quản lý bộ đội còn nhiều
lúng túng, bất cập thiếu nhạy bén trong xử lý các tình huống phức tạp. Hiện nay, cơ cấu
NTCN trong đội ngũ cán bộ sĩ quan chưa đảm bảo được sự kế thừa một cách liên tục
vững chắc, cán bộ trung cấp, cao cấp chiếm tỷ lệ rất cao, còn cán bộ sơ cấp chiếm tỷ lệ
rất thấp, chưa có sự tương hợp thật sự trong chất lượng NTCN trong LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ...
Những mặt hạn chế, bất cập về trình độ nghiệp vụ của NTCN trong đội ngũ cán
bộ LLVT địa phương thành phố đã ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng thực hiện nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng ở một số cơ quan, đơn vị thành phố Cần Thơ. Nó cũng là một
trong những nguyên nhân làm cho cách nhìn nhận và đánh giá về người cán bộ LLVT địa
phương thành phố có phần giảm sút so với thang bậc trong xã hội ngày nay. Qua điều tra
xã hội học cho thấy, 73% cán bộ sĩ quan đồng ý một phần về trình độ năng lực của đội
ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay (Phụ lục 1).
Chính vì vậy, phát triển chất lượng NTCN trong đội ngũ cán bộ sĩ quan LLVT
địa phương không những đòi hỏi phải nâng cao tỷ lệ cán bộ được đào tạo cơ bản và bồi
dưỡng thường xuyên, mà điều quan trọng nhất là đòi hỏi ở tính tích cực, tự giác, tự học tự
rèn của mỗi cán bộ sĩ quan để tích lũy những kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội, kiến
thức khoa học quân sự nhằm không ngừng hoàn thiện trình độ kiến thức, năng lực hoạt
động thực tiễn của mình. Chất lượng NTCN của cán bộ chính trị ở cơ sở còn hạn chế,
hiện tượng ngại học tập, tự thỏa mãn với mình hiện nay còn phổ biến ở các cơ quan, đơn
vị. Những hạn chế trong đội ngũ cán bộ sĩ quan không chỉ dừng lại ở trình độ, năng lực
mà còn ở chỗ, một số cán bộ chỉ huy, lãnh đạo chưa có được phong cách làm việc dân
chủ, chưa phát huy trí tuệ tập thể, nên chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt đơn vị chưa
cao, sức chiến đấu và tính tiền phong gương mẫu trước quần chúng của đội ngũ cán bộ,
đảng viên chưa mạnh; nhiều cán bộ, đảng viên mang nặng tư tưởng thụ động, trông chờ
vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên nên việc thực hiện nhiệm vụ thiếu nhạy bén, kém
hiệu quả. Mặt khác, một số cơ quan, đơn vị thiếu dân chủ trong phê bình, tự phê bình, sợ
trù dập nên thiếu dũng khí đấu tranh công khai, còn phát biểu tùy tiện có dụng ý xấu, đặt
điều làm cho nội bộ trong đơn vị quan hệ thiếu trong sáng, đắn đo, cân nhắc trong giao
tiếp. Vấn đề mà cán bộ sĩ quan LLVT địa phương thành phố Cần Thơ quan tâm nhất là
chống tham nhũng, tiêu cực xã hội, 100% nhất trí kiên quyết chống triệt để (Phụ lục 2),
nhưng hiện tượng này ngày càng tăng. Đây là mối quan ngại cản trở quá trình xây dựng
LLVT địa phương, mặc dù trong các cơ quan, đơn vị chưa từng xảy ra tình trạng này.
Mặt khác, yếu tố cản trở tính tích cực xã hội của NTCN trong đội ngũ cán bộ sĩ
quan là vấn đề thiếu công bằng trong xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ,
chiến sĩ chưa được quan tâm đúng mức để tương xứng với loại lao động đặc thù của quân
đội. Qua điều tra xã hội học cho thấy, có 20% cán bộ sĩ quan LLVT địa phương thành
phố ý kiến cho rằng, vấn đề công bằng và hưởng thụ chưa được quan tâm giải quyết đúng
đắn (Phụ lục 3). Thực tế trên cho thấy, việc nâng cao tính tích cực của đội ngũ cán bộ sĩ
quan yêu cầu là phải phát huy và sử dụng động lực dân chủ còn bất cập trong chỉ huy,
quản lý, trong xây dựng môi trường dân chủ của các cơ quan, đơn vị LLVT địa phương
thành phố.
Những hạn chế về chất lượng NTCN trong đội ngũ cán bộ sĩ quan LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính trước hết
là, mặc dù có sự quan tâm đầu tư trí tuệ và công sức của các cấp ủy Đảng, các cấp chỉ
huy về công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ nhưng vẫn chưa cao, chưa đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, xây dựng phát triển NTCN trong đội ngũ cán
bộ sĩ quan LLVT địa phương trong điều kiện thời bình. Công tác đào tạo chậm đổi mới,
vận dụng, chưa tương ứng với hệ thống giáo dục đào tạo quốc gia; quy trình đào tạo chưa
gắn chặt với quy hoạch sử dụng cán bộ; chất lượng hiệu quả đào tạo đội ngũ cán bộ chưa
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trình độ, kiến thức cơ bản về
khoa học xã hội, tự nhiên, hiểu biết về khoa học quân sự, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh còn nhiều hạn chế. Từ đó, hạn chế đến việc phát huy tính tích cực
sáng tạo, năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ sĩ quan.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên cho Trường quân sự thành phố
chưa được chú ý, quan tâm đúng mức. Trình độ đội ngũ giáo viên huấn luyện quân sự,
chính trị và các chuyên ngành khác cho LLVT địa phương chưa đạt chất lượng, hiệu quả
cao. Đội ngũ giáo viên vừa thiếu lại vừa yếu. Cơ sở vật chất kỹ thuật, các phương tiện
trang bị, mô hình học cụ còn nghèo nàn, chậm đổi mới sáng kiến cải tiến kỹ thuật... đã
ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả dạy học và tiếp thu của học viên.
Chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ sĩ quan quân
đội, LLVT địa phương thành phố Cần Thơ chậm đổi mới, chưa tương xứng với loại nghề
nghiệp đặc thù của quân đội. Đời sống của cán bộ sĩ quan còn hạn chế, vẫn chỉ có thể đạt
ở mức trung bình so với xã hội. Mặc dù, đội ngũ cán bộ sĩ quan LLVT địa phương thành
phố an tâm công tác, nhưng khó khăn kinh tế gia đình cũng tác động không ít đến nhiệm
vụ, ảnh hưởng đến việc phát huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố.
Chính sách sử dụng NTCN còn có chỗ chưa hợp lý, thiếu toàn diện, cán bộ
chuyên ngành chưa đặt đúng với chức năng, nhiệm vụ; chưa gắn cán bộ với trách nhiệm,
chất lượng và hiệu quả công tác. Còn coi trọng cán bộ kinh nghiệm mà xem nhẹ cán bộ
trẻ đã qua đào tạo cơ bản, hạn chế đến tính tích cực, sáng tạo của họ. Mặt khác, một số cơ
quan, đơn vị cán bộ sĩ quan còn rỗi việc, "làm chơi chờ lương" chưa thật sự tâm huyết
với trách nhiệm, với cương vị, với nhiệm vụ xây dựng LLVT địa phương thành phố. Từ
đó, thái độ bàng quan, tinh thần trách nhiệm không cao, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, học
tập, công tác nên khi gặp khó khăn tinh thần sẽ hoang mang dao động, thiếu bản lĩnh
chính trị, giảm sút lòng tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy sai không đấu tranh, thấy đúng
không cương quyết bảo vệ. Vũ khí đấu tranh sắc bén "phê bình và tự phê bình" vốn là
động lực phát triển bị mai một, dẫn đến hữu khuynh, thủ tiêu ý chí đấu tranh...
Hạ sĩ quan (HSQ), chiến sĩ (CS) LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là một
lực lượng rất đông, được tổ chức biên chế phù hợp với tính chất, nhiệm vụ công tác quân
sự, quốc phòng của quân đội. HSQ, CS là những người trực tiếp biến các Nghị quyết, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mệnh lệnh của người chỉ huy thành hiện thực.
Ngày nay, thế hệ HSQ, CS LLVT địa phương thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi hơn
so với các lớp thế hệ đi trước. Được sinh ra và lớn lên khi đất nước đã có độc lập, tự do,
thống nhất; HSQ, CS đã được hưởng một nền giáo dục XHCN, có trình độ học vấn nhất
định, được tuyển chọn và huấn luyện rất cơ bản, đồng thời được đảm bảo những điều
kiện cần thiết cho sự phát triển năng lực sáng tạo trong hoạt động quân sự. Do được giáo
dục, rèn luyện nâng cao nhận thức, nên 100% HSQ, CS đều tin tưởng tuyệt đối vào sự
nghiệp cách mạng, vào sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng LLVT địa phương thành
phố (Phụ lục 1).
Nhìn chung chất lượng NTCN trong HSQ, CS LLVT địa phương thành phố thể
hiện được phẩm chất chính trị của người chiến sĩ QĐND, kế thừa và phát huy bản chất,
truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ"; yêu nước, yêu CNXH; tin tưởng và trung thành vào sự
lãnh đạo của Đảng, sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN. Qua điều
tra xã hội học cho thấy: 100% HSQ, CS quan tâm đến xây dựng Đảng bộ TSVM, xây
dựng đơn vị VMTD và thực hiện chính quy, chấp hành đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước và kỷ luật quân đội (Phụ lục 2). Có 66% HSQ, CS quan tâm lo lắng về
những nguy cơ và thách thức mà Đảng ta đã chỉ ra (Phụ lục 1). Đặc biệt có 100% ý kiến
quan tâm đến bảo vệ độc lập tự do và CNXH (Phụ lục 2)... Tuy nhiên, có một bộ phận
HSQ, CS còn thể hiện thái độ thờ ơ, non nớt về nhận thức nên chưa quan tâm đến vấn đề
thời sự chính trị, xã hội của đất nước, nhiệm vụ của quân đội...
NTCN trong lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV là nguồn lực dồi dào, cán bộ,
chiến sĩ DQTV và DBĐV là một lực lượng to lớn và hùng hậu của LLVT địa phương
thành phố, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong nền QPTD và thế trận CTND của thành
phố; là lực lượng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu của quân đội khi có chiến
tranh xảy ra.
Trong chiến tranh giải phóng, lực lượng dân quân du kích Cần Thơ đã kiên trì
bám dân, bám đất, táo bạo đánh địch tại chỗ để bảo vệ nhân dân, giữ đất, giữ làng, phát
triển phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân.
Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ rằng không có chiến tranh du kích thì không
thể có tác chiến tập trung. Chiến tranh du kích là cái bảo bối số một của bất cứ
cuộc chiến tranh giải phóng nào. ở miền Nam, ta đánh với chiến tranh thực dân
mới của Mỹ, chiến tranh du kích lại càng có một địa vị chiến lược hết sức quan
trọng và căn bản [59, tr. 651].
Từ đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay, lực lượng DQTV
thành phố là nguồn NTCN có chất lượng cao, được xây dựng theo hướng vững mạnh,
rộng khắp, trong đó xây dựng chất lượng chính trị là chính, tổ chức biên chế phù hợp bảo
đảm hiệu quả hoạt động thiết thực ở cơ sở. "DQTV thành phố Cần thơ xây dựng đạt
1,67% so với dân số, chất lượng Đảngviên 1.256 đ/c, đoàn viên 6.174 đ/c; xây dựng được
59/67 chi bộ và 66/67 chi đoàn quân sự" [6, tr. 3]. Cơ quan quân sự xã, phường, thị trấn
được kiện toàn, năng lực làm tham mưu tổ chức hiệp đồng và chỉ huy lực lượng thuộc
quyền từng bước có nâng lên.
Cán bộ, chiến sĩ lực lượng DBĐV thành phố Cần Thơ là nguồn NTCN hùng hậu,
luôn giữ vị trí chiến lược quan trọng trong xây dựng và BVTQ. Trong tình hình hiện nay,
việc xây dựng và huy động lực lượng DBĐV có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất
lượng, sức mạnh chiến đấu của quân đội, đến sự phát triển NTCN trong LLVT địa
phương thành phố.
Cán bộ, chiến sĩ lực lượng DBĐV thành phố Cần Thơ là những người có quá
trình gắn bó ít nhiều trong quân đội. Nhìn chung, họ là những người đã thực hiện tốt
nhiệm vụ của quân đội giao khi còn tại ngũ, là những người có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có lòng yêu nước, yêu CNXH; tham gia phục vụ quân đội, LLVT địa phương thành
phố. Trong số họ, có những người đã từng trải qua chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở
chiến trường Tây Nam, chiến trường Campuchia, dù trở lại đời thường nhưng họ vẫn giữ
vững và phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", đăng ký quân dự bị, sẵn sàng
gia nhập quân đội trở lại khi có lệnh gọi.
Tuy nhiên, việc xây dựng, quản lý lực lượng DBĐV ở một số đơn vị, địa phương
chưa chặt chẽ, tỷ lệ lãnh đạo còn thấp; việc giáo dục ý thức xây dựng nền QPTD có mặt
còn hạn chế; đời sống hậu phương của cán bộ, chiến sĩ còn khó khăn; tác động mặt trái
cơ chế thị trường và sự tiêu cực xã hội, có ảnh hưởng đến phát triển chất lượng NTCN
trong LLVT địa phương thành phố.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng giá trị xã hội có những biến đổi, mặc
dù xã hội đang hình thành một thang giá trị mới có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực.
Khi vào cơ chế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, trước sự cám dỗ
của tiền tài, vật chất, trước những đòn tiến công hiểm độc của các thế lực thù
địch, nhiều cán bộ đã lơi lỏng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu né tránh tự phê
bình và phê bình nên bị chủ nghĩa cá nhân lấn áp. Mặt khác công tác cán bộ
của nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng bộ buông lỏng, yếu kém và có những sai
phạm cả về quan điểm và phương pháp [15, tr. 26].
Chính vì vậy, việc định hướng giá trị nhân cách quân nhân cho cán bộ, chiến sĩ
LLVT địa phương thành phố là việc làm hết sức cần thiết, đòi hỏi mọi cán bộ, chiến sĩ
phải biết hy sinh, cống hiến, chịu đựng gian khổ, không đòi hỏi đãi ngộ vật chất, hưởng
thụ, không tính toán kinh tế, thiệt hơn trong quá trình công tác, phục vụ quân đội; không
vì lợi ích riêng tư mà ảnh hưởng đến tình cảm đồng chí, đồng đội... Đối với LLVT địa
phương thành phố, những biến đổi thang giá trị mới của xã hội tuy chưa mang tính phổ
biến ảnh hưởng đến nhân cách quân nhân nhưng nó là hiện thực cần được quan tâm chú ý
trong đặc điểm nhân cách hiện nay. Đó chính là cơ sở lý luận và thực tiễn để đánh giá
thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong quá trình xây dựng, bồi dưỡng và phát
huy NTCN trong LLVT địa phương thành phố Cần Thơ.
2.2. Những Vấn Đề Đặt RA Của Việc Phát HUY NHÂN Tố CON Người
TRONG Lực Lượng Vũ TRANG Địa PHƯƠNG Thành Phố Cần THƠ
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII (khóa IX) đã xác định:
BVTQ XHCN là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH
đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước
theo định hướng XHCN.
Hội nghị còn chỉ ra rằng, sức mạnh BVTQ là sức mạnh của chế độ chính trị, sự
trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định.
Như vậy, tư duy về BVTQ trong tình hình mới đã có bước phát triển mới toàn diện, sâu
rộng và đầy đủ hơn, thể hiện rõ bản chất nền QPTD của Nhà nước.
Nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc hiện nay trực tiếp đặt ra những
yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với lực lượng vũ trang địa phương thành phố không chỉ là lực
lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc mà còn là lực lượng nòng cốt trong
xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở cơ sở.
Không chỉ thiện chiến về quân sự, mà đồng thời phải tinh nhuệ về
chính trị, không chỉ đủ sức vô hiệu hóa những âm mưu thủ đoạn của các thế
lực thù địch mà còn có sức đề kháng tốt trước sự xâm nhập lây lan của những
hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội [54, tr. 37].
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Cần Thơ đã đạt được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng, tạo tiền đề đi lên CNH, HĐH. Về kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở
những thành tựu đã có, cơ cấu kinh tế có sự phát triển theo hướng công nghiệp, thương
mại, dịch vụ và nông nghiệp. Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội đã
củng cố niềm tin góp phần đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ
LLVT địa phương thành phố, thúc đẩy mỗi NTCN trong LLVT địa phương thành phố
Cần Thơ, tích cực thực hiện tốt nhiệm vụ SSCĐ, huấn luyện; phát huy nhân tố tích cực,
sáng tạo trong xây dựng LLVT địa phương thành phố VMTD, chính quy.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ LLVT địa phương hiện nay có vai trò
quan trọng, mang ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Nâng cao chất lượng NTCN trong LLVT địa phương thành phố trước hết là phẩm chất chính
trị và năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ sĩ quan. Do vậy, phải tập trung nâng cao chất
lượng NTCN trong đội ngũ cán bộ, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt
đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; có trình độ kiến thức về chính trị, quân sự, văn
hóa, khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ; có năng lực tổ chức chỉ huy, quản lý
đơn vị; có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức trách nhiệm cao, chấp hành nghiêm kỷ luật; lối
sống lành mạnh, giản dị; có độ tuổi và sức khỏe phù hợp với cương vị, chức trách được
giao; đặc biệt trong xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan LLVT địa phương thành phố phải
đảm bảo sự chuyển tiếp vững chắc các thế hệ cán bộ. Do đó, phát huy NTCN trong
LLVT địa phương thành phố Cần Thơ đáp ứng với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng BVTQ
hiện nay là phải: Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo phù hợp với đặc điểm LLVT địa
phương nhằm nâng cao phẩm chất quân nhân, chuyên môn kỹ thuật cho cán bộ, chiến sĩ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy "Kỷ luật là sức mạnh của quân đội". Kỷ luật là
thuộc tính cơ bản của quân đội. Kỷ luật quân đội được xây dựng trên cơ sở của sự giác
ngộ cao về chính trị; về mục tiêu, lý tưởng; về niềm tin và trách nhiệm, nghĩa vụ và
quyền lợi, sự hy sinh và lòng trung thành của cán bộ, chiến sĩ đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Đó là thứ kỷ luật sắt hết sức tự giác và nghiêm minh, được xây dựng
trên cơ sở tôn trọng nhân cách và sự hình đẳng của mọi người. Quân đội càng chính
quy, hiện đại càng phải có kỷ luật nghiêm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Các chú phải hết sức chú ý vấn đề dân chủ và kỷ
luật. Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật" [43, tr. 79]. Đảng ta đã khẳng định:
Dân chủ không thể có được nếu thiếu tập trung, thiếu kỷ cương, kỷ luật, thiếu trách
nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với pháp chế. Dân chủ thật sự, một mặt đối lập với
độc đoán, chuyên quyền; mặt khác, đối lập với chủ nghĩa tự do vô chính phủ.
Những năm qua, nhiều hành vi vi phạm kỷ luật của quân nhân là nổi bức xúc của
lãnh đạo, chỉ huy các cấp (có khi gần 2%). Nguyên nhân chủ yếu là do quân nhân thiếu tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chấp hành kỷ luật không nghiêm, bị tác động của
mặt trái cơ chế thị trường dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm nghiêm trọng: tham của
công, đánh nhau gây mất đoàn kết nội bộ và trong nhân dân, thậm chí dùng vũ khí trang
bị sát hại đồng đội rồi tự sát thương... Nhưng đến nay, hiện tượng vi phạm kỷ luật cơ bản
đã được chấm dứt. Nhiều cơ quan, đơn vị đã giảm tỷ lệ vi phạm kỷ luật phải xử lý xuống
dưới 1%. Tỷ lệ vi phạm kỷ luật của quân nhân có xu hướng giảm đáng kể.
Tuy nhiên, những chuyển biến tiến bộ đó chưa đạt yêu cầu như mong muốn, vẫn
còn tình trạng vi phạm kỷ luật xảy ra gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến sức chiến
đấu, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của một số cơ quan, đơn vị; ảnh hưởng đến uy tín
của quân đội và làm tổn hại đến bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", dẫn đến chất
lượng chấp hành kỷ luật quân đội trong LLVT địa phương thành phố chưa đạt kết quả
cao. Đảng ủy quân sự thành phố Cần Thơ có Nghị quyết lãnh đạo nhằm xây dựng nề nếp
chính quy và rèn luyện tổ chức kỷ luật của LLVT địa phương thành phố, gắn chặt xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện, với phương châm "Rèn đức, rèn sức, luyện tài", phấn đấu xây dựng trên 90% đơn vị
đạt VMTD, không có đơn vị yếu kém, không có quân nhân đào bỏ ngũ, vi phạm kỷ luật
thông thường dưới 0,5%, không có vụ việc vi phạm nghiêm trọng.
Vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở trong LLVT địa phương thành phố đã được các
cấp ủy, người chỉ huy các cấp quan tâm nâng cao ý thức trách nhiệm và khả năng làm
chủ của cán bộ, chiến sĩ. Quan tâm trước hết là việc nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của các tổ chức ở các cơ quan, đơn vị. Những năm
qua, Bộ chỉ huy quân sự thành phố Cần Thơ đã chỉ đạo các cấp xây dựng và đưa vào thực
hiện thống nhất, có nền nếp các quy chế hoạt động của các tổ chức nhằm cụ thể hóa việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thông qua việc phân định rõ ràng chức năng,
quyền hạn, trách nhiệm giữa cá nhân với tổ chức, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các tổ
chức với nhau. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách được chấp hành nghiêm
túc đối với mọi tổ chức đơn vị; đặc biệt là trong các cấp ủy, Chi bộ. Những định hướng
về lãnh đạo xây dựng đơn vị, nhận xét, đề bạt, kỷ luật cán bộ... đều có ý kiến của cấp ủy,
tập thể Ban chỉ huy đơn vị. Hiện nay trong LLVT địa phương thành phố có 22 tổ chức
HĐQN được thành lập ở các cơ quan, đơn vị. Bám sát vào nhiệm vụ cụ thể của các cơ
quan, đơn vị trong từng giai đoạn, từng tháng, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quy định,
HĐQN đã tập hợp nhiều ý kiến đóng góp và kiến nghị của cán bộ, chiến sĩ trên nhiều vấn
đề, về xây dựng đơn vị, giáo dục, huấn luyện, SSCĐ, bảo đảm đời sống vật chất tinh thần
và những khó khăn vướng mắc, có tác dụng tích cực trong việc xây dựng quan hệ đoàn
kết, dân chủ, kỷ luật trong LLVT địa phương thành phố.
Thực hiện tăng cường dân chủ ở cơ sở trong LLVT địa phương thành phố đã góp
phần quan trọng tạo ra những chuyển biến tích cực, tương đối toàn diện nhất là về đoàn
kết, kỷ luật và sự thống nhất về ý chí và hành động của cán bộ, chiến sĩ trước nhiệm vụ
chính trị được giao. Năm 1996 đến năm 2000 đã xử lý 65 trường hợp đảng viên vi phạm
kỷ luật. Năm 2003 xử lý 12 trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật. 6 tháng đầu năm 2004
xử lý 01 trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật (tỷ lệ 0,48%) không còn tình trạng quân
nhân đào bỏ ngũ... Tuy nhiên, việc phát huy dân chủ ở các cơ quan, đơn vị LLVT địa
phương thành phố còn là vấn đề quan tâm, cần giải quyết để phát huy tính tích cực, chủ
động của cán bộ, chiến sĩ.
Để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương
thành phố Cần Thơ thì việc phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, xây dựng nền nếp
chính quy lại càng có ý nghĩa quan trọng. Qua điều tra xã hội học cho thấy, có 98% cán
bộ, chiến sĩ quan tâm đến việc kết hợp kỷ luật với dân chủ trong các cơ quan, đơn vị.
Chính vì vậy, kết hợp kỷ luật với dân chủ trong quân đội phải đảm bảo sự phù hợp LLVT
địa phương thành phố Cần Thơ nhằm phát huy NTCN, khơi dậy tính tích cực, sáng tạo
của bộ đội.
Đối với LLVT địa phương thành phố Cần Thơ, chỉnh đốn sự lãnh đạo của Đảng
và thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một quá trình thực hiện sáng
tạo nguyên tắc lãnh đạo, nguyên tắc tổ chức của Đảng.
LLVT địa phương thành phố Cần Thơ là một bộ phận của QĐND Việt Nam, một
lực lượng tin cậy, trung thành, một công cụ chính trị sắc bén để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ và bảo vệ Nhà nước XHCN. Chính vì vậy, LLVT địa phương thành phố cũng là đối
tượng mà các thế lực phản động, thù địch dùng "DBHB" để phá hoại sức chiến đấu, trước
hết là hủy hoại làm xói mòn bản chất cách mạng của quân đội.
Những luận điệu ngọt ngào nào là "Quân đội là của dân tộc chống ngoại xâm"
chứ không phải là nhiệm vụ bảo vệ chế độ, "Quân đội chỉ mang bản chất nhân dân chứ
không mang bản chất giai cấp công nhân"... cho nên phải thực hiện "phi chính trị hóa",
trung lập hóa quân đội [53, tr. 14]. Thực chất những luận điệu trên chỉ nhằm hạ thấp vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Chúng thực hiện tách Đảng ra khỏi quân đội, đối
lập quân đội với nhân dân để dễ bề vô hiệu hóa quân đội, làm mờ nhạt đi đến làm biến
chất chính trị, quân đội mất sức chiến đấu trong cuộc đấu tranh mới đang hàng ngày hàng
giờ diễn ra tinh vi và quyết liệt đối với cách mạng Việt Nam.
Do đó, chỉnh đốn, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với LLVT địa phương
thành phố, trước hết xây dựng cán bộ, chiến sĩ vững vàng về chính trị, kiên định lập
trường giai cấp công nhân, kiên trì mục tiêu, lý tưởng con đường cách mạng mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn, phát huy cao độ bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ",
LLVT địa phương thành phố xứng đáng là quân đội của dân, do dân và vì dân. Chỉnh
đốn, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với LLVT địa phương là vấn đề rộng lớn, bao
gồm nhiều nội dung từ việc Đảng định ra đường lối, nghị quyết lãnh đạo định hướng
đúng đắn cho sự hoạt động phù hợp của LLVT địa phương, đến việc tổ chức quán triệt
học tập thực hiện nghiêm nghị quyết của các cấp ủy Đảng, người chỉ huy và đội ngũ cán
bộ đảng viên.
Trong những năm qua, các Đảng bộ, Chi bộ trong LLVT địa phương thành phố
thực hiện nghiêm túc cuộc vận động đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng BVTQ. Các tổ chức Đảng của các cơ quan, đơn vị luôn giữ vững nguyên tắc
tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể đi đôi với cá nhân phụ trách, bảo đảm bất cứ ở đâu lúc
nào, tổ chức Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị, đảng viên tổ chức hướng dẫn cán bộ,
chiến sĩ đem hết nhiệt tình, trách nhiệm, kiến thức và năng lực để hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với LLVT địa phương còn một số
mặt hạn chế, đó là: một số cơ sở Đảng chưa lãnh đạo thực hiện tốt việc triển khai thực
hiện nghị quyết, duy trì chế độ sinh hoạt định kỳ ở Chi bộ chưa nghiêm; vai trò trách
nhiệm của một số cấp ủy viên chưa được phát huy, trình độ năng lực còn hạn chế nên
lãnh đạo điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ đạt chất lượng thấp. Vai trò của đảng
viên trong chấp hành và tổ chức thực hiện nghị quyết, ý thức tổ chức kỷ luật và các chế
độ, cá biệt có đồng chí thực hiện chưa nghiêm. Công tác phát triển đảng viên mới trong
lực lượng DQTV và các chỉ tiêu đảng viên là cán bộ dân quân, ấp đội nhiều nơi chưa đạt
yêu cầu; ý thức rèn luyện phấn đấu của một số đảng viên, cán bộ chưa cao... [20, tr. 11]
đã ảnh hưởng kết quả việc thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của LLVT địa
phương thành phố Cần Thơ.
Ngày nay, nhiệm vụ BVTQ đang đặt ra những vấn đề hết sức mới đối với LLVT
địa phương thành phố Cần Thơ, đòi hỏi NTCN phải có một chất lượng mới, một sức
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức xây dựng LLVT địa phương thành phố là đội
quân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để đáp ứng hoàn thành mọi
nhiệm vụ của Đảng, quân đội giao. Cho nên, chỉnh đốn sự lãnh đạo của Đảng đối với
LLVT địa phương theo hướng chủ lực hóa nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong
xây dựng, chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ càng có tầm quan trọng đặc biệt trong giai
đoạn cách mạng hiện nay.
Trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ, việc đổi mới chế độ, chính sách đối với
quân đội nói chung và LLVT địa phương là một vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng, yêu
cầu là phải có hệ thống chế độ, chính sách phù hợp để tăng cường sức mạnh cho quân đội
cũng như tăng cường sức mạnh vũ trang tại chỗ cho LLVT địa phương.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, động lực phát triển kinh tế-xã hội là phải
kết hợp hài hòa giữa lợi ích riêng với lợi ích chung, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể, xã hội. Nhà nước có chế độ, chính sách đúng đắn trong lĩnh vực hoạt động quân sự
BVTQ thì mới điều hòa được các lợi ích cơ bản khác nhau, tạo dựng niềm tin, công bằng
trong xã hội, điều chỉnh nhận thức và hành động để mọi người đều hướng vào lợi ích
chung của toàn dân tộc vì sự nghiệp củng cố, xây dựng nền QPTD, xây dựng LLVT nhân
dân, BVTQ. Mặt khác, hệ thốn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát huy nhân tố con người trong lực lượng vũ trang địa phương thành phố Cần Thơ.pdf