Luận văn Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang

Tài liệu Luận văn Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang: LUẬN VĂN: Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang Mở Đầu 1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài Kiên Giang có nhiều tiềm năng cho ngành thủy sản phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Hàng năm ngành này đã đóng góp vào GDP của Tỉnh một tỷ lệ khá lớn: năm 1994 là 12,53%, năm 1995 10,82%, năm 1996 là 9,69% và năm 1997 là 9,95% [1, 42]. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, những năm qua kinh tế tư nhân phát triển khá mạnh, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành thủy sản ở Kiên Giang. Kinh tế tư nhân có nhiều kinh nghiệm khai thác, chế biến thủy sản, có khả năng thu hút vốn, công nghệ thông qua thân nhân ở nước ngoài. Mặt khác, kinh tế tư nhân rất linh hoạt, nhạy bén với cơ chế thị trường, phù hợp với nghề cá nhân dân hiện nay. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong ngành thủy sản ở Kiên Giang là những doanh nghiệp mạnh so với các tỉnh trong cả nước, nhưng năm 1997 chỉ đóng góp vào GDP của tỉnh có 2,93%, tro...

pdf71 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1028 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang Mở Đầu 1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài Kiên Giang có nhiều tiềm năng cho ngành thủy sản phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Hàng năm ngành này đã đóng góp vào GDP của Tỉnh một tỷ lệ khá lớn: năm 1994 là 12,53%, năm 1995 10,82%, năm 1996 là 9,69% và năm 1997 là 9,95% [1, 42]. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, những năm qua kinh tế tư nhân phát triển khá mạnh, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành thủy sản ở Kiên Giang. Kinh tế tư nhân có nhiều kinh nghiệm khai thác, chế biến thủy sản, có khả năng thu hút vốn, công nghệ thông qua thân nhân ở nước ngoài. Mặt khác, kinh tế tư nhân rất linh hoạt, nhạy bén với cơ chế thị trường, phù hợp với nghề cá nhân dân hiện nay. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong ngành thủy sản ở Kiên Giang là những doanh nghiệp mạnh so với các tỉnh trong cả nước, nhưng năm 1997 chỉ đóng góp vào GDP của tỉnh có 2,93%, trong khi đó kinh tế tư nhân đóng góp 9,95% [1, 46]. Tuy vậy, do ảnh hưởng của tư duy cũ nên trong nhận thức một số cán bộ còn xem nhẹ vai trò kinh tế tư nhân, thậm chí còn những ý kiến trái ngược nhau. Trong cơ chế, chính sách còn những mặt bất cập, thiếu đồng bộ, vì thế kinh tế tư nhân chưa phát huy hết vai trò của nó. Đã đến lúc cần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế tư nhân để nhằm hoạch định chính sách phù hợp, phát huy năng lực của nó trong phát triển ngành thủy sản ở Kiên Giang. Chính vì vậy, “Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang" được chọn làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế. 2. Tình Hình NGHIÊN Cứu Đề Tài Nhìn một cách khái quát, phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta được nhiều nhà khoa học quan tâm, đã có nhiều bài viết đăng tải trên nhiều tạp chí, sách, báo. Các văn kiện của Đảng, Nhà nước nói đến rất nhiều trong đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng tất cả đều nghiên cứu ở góc độ phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung. Trong ngành thủy sản, đã có luận án TS của Nguyễn Thị Hồng Minh về đề tài: “Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. Trong luận án này có đề cập đến thành phần kinh tế tư nhân, nhưng chỉ đi sâu phân tích thành phần kinh tế này trong lĩnh vực chế biến thủy sản xuất khẩu, chứ chưa nghiên cứu nó trong các lĩnh vực khác của nghề cá. Ngoài ra, Bộ Thủy sản với sự trợ giúp của Đại sứ quán Vương quốc Đan Mạch tại Hà Nội, cũng đã tiến hành một cuộc khảo sát về các ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam mà trọng tâm là sự ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong ngành thủy sản; và một số bài viết của TS Tạ Quang Ngọc, TS Hồ Xuân Thông, TS Nguyễn Văn Kỷ... Nhưng những đề tài và bài viết này chỉ nghiên cứu năng lực kinh tế tư nhân nói chung đối với nghề cá Việt Nam. Việc nghiên cứu phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang vẫn còn là mảnh đất trống, chưa có đề tài nào nghiên cứu. 3. Mục Đích Nhiệm Vụ Và Giới Hạn Của Luận VĂN 3.1. Mục đích, nhiệm vụ Luận văn nhằm mục đích: Khẳng định rõ hơn vai trò kinh tế tư nhân, làm luận cứ khoa học cho việc đề xuất những phương hướng giải pháp phát huy năng lực của nó trong phát triển ngành thủy sản ở tỉnh Kiên Giang. Với mục đích đó đề tài có những nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vai trò kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang - Đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Tìm ra những vấn đề cần giải quyết để kinh tế tư nhân phát huy năng lực của nó. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang. 3.2. Giới hạn của luận văn Luận văn lấy đối tượng là kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang từ năm 1996 đến nay chứ không nghiên cứu ở những ngành khác. 4. Những Đóng Góp Mới Về Mặt KHOA Học Của Luận VĂN Luận văn vận dụng những lý luận chung vào việc giải quyết một vấn đề cụ thể, một lĩnh vực và địa bàn cụ thể là làm rõ vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong phát triển ngành thủy sản ở Kiên Giang. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp để phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong phát triển ngành thủy sản ở Kiên Giang. 5. CƠ Sở Lý Luận Và PHƯƠNG Pháp NGHIÊN Cứu Luận văn dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; đường lối, quan điểm cùng những tổng kết kinh nghiệm của Đảng về chính sách kinh tế nhiều thành phần; các công trình nghiên cứu khoa học khác có nội dung gần gũi với đề tài làm cơ sở lý luận. Về phương pháp nghiên cứu: Vận dụng những phương pháp chung của bộ môn kinh tế chính trị Mác - Lênin. Đó là phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgic với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn, đồng thời khảo sát thực tế, phân tích tổng hợp, so sánh, khái quát hóa. 6. ý Nghĩa Của Luận VĂN Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách, và quản lý của Nhà nước để phát huy vai trò và năng lực của kinh tế tư nhân trong phát triển ngành thủy sản ở Kiên Giang, cũng có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong công tác giảng dạy, học tập ở trường chính trị tỉnh. Chương 1 VAI Trò Và Đặc Điểm Của KINH Tế TƯ NHÂN TRONG Ngành THủY Sản ở KIÊN GIANG 1.1. VAI Trò Của KINH Tế TƯ NHÂN TRONG Phát Triển THủY Sản ở KIÊN GIANG 1.1.1. Ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Kiên Giang “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế. Trong hệ thống cơ cấu đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất” [16, 522]. Do đó, mỗi địa phương dựa vào thế mạnh, tiềm năng và định hướng phát triển để xây dựng cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý, đặc biệt là cơ cấu ngành nhằm tập trung đầu tư, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất ra đời và phát triển dựa trên cơ sở sử dụng khả năng tiềm tàng của giống loài sinh vật sống trong môi trường nước. Con người đã khai thác, nuôi dưỡng các sinh vật có giá trị kinh tế và khoa học sống ở các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam để chế biến chúng thành thực phẩm cung cấp cho nhân dân, bột cá, thức ăn cho gia súc, gia cầm, nguyên liệu cho nhiều ngành và hàng hóa cho xuất khẩu. Tiềm năng kinh tế biển và nguồn lợi thủy sinh vật phong phú, đa dạng của Kiên Giang đã góp phần tích cực cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Vùng biển Kiên Giang được xác định là ngư trường trọng điểm của cả nước và kinh tế thủy sản là thế mạnh của tỉnh sau sản xuất nông nghiệp. Nên cơ cấu kinh tế của tỉnh là: nông (lâm) ngư, công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, ngư nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Vai trò của nó không chỉ được khẳng định trong các chủ trương, đường lối của Đảng và sự đánh giá của các tầng lớp nhân dân mà còn được thể hiện ở sự đóng góp vào nền kinh tế của tỉnh nhà, trên các mặt: tỷ trọng trong GDP, tỷ lệ huy động vốn kinh doanh (hoặc vốn cố định) và tỷ lệ thu hút lao động (tạo việc làm) [33, 44]. Ngoài ra, có thể dùng thêm các chỉ số khác để đánh giá như tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, đóng góp cho ngân sách. Biểu số 1: Sự đóng góp của ngành theo lao động, GDP và nộp ngân sách Các ngành / năm 1996 1997 1998 1999 1. Tổng lao động đang làm việc một số ngành thế mạnh của tỉnh (ĐVT : ngàn người) + Nông, lâm nghiệp + Thủy sản + Công nghiệp 493.500 47.339 37.592 510.684 42.326 34.463 518.817 48.076 34.168 528.817 48.500 28.700 2. Cơ cấu tổng sản phẩm (GDP) (theo giá trị thực tế) đơn vị % Các ngành / năm 1996 1997 1998 1999 1. Tổng lao động đang làm việc một số ngành thế mạnh của tỉnh (ĐVT : ngàn người) + Nông, lâm nghiệp + Thủy sản + Công nghiệp 493.500 47.339 37.592 510.684 42.326 34.463 518.817 48.076 34.168 528.817 48.500 28.700 - Nông, lâm, thủy sản + Nông, lâm nghiệp + Thủy sản 51,57 44,08 9,69 47,88 41,88 9,95 50,70 37,93 9,55 51,00 39,95 11,05 - Công nghiệp và xây dựng + Công nghiệp + Xây dựng 24,45 21,40 3,05 26,59 22,39 4,20 24,69 21,20 3,49 24,70 20,50 4,20 - Các ngành dịch vụ 23,9 25,53 24,61 24,30 3. Nộp ngân sách: (đơn vị tính: đồng) + Nông, lâm nghiệp + Thủy sản + Công nghiệp xây dựng 13.500.00 0 47.619.00 0 5.578.000 35.9000.00 0 215.256.56 141.485.00 0 27.500.000 25.894.556. Các ngành / năm 1996 1997 1998 1999 1. Tổng lao động đang làm việc một số ngành thế mạnh của tỉnh (ĐVT : ngàn người) + Nông, lâm nghiệp + Thủy sản + Công nghiệp 493.500 47.339 37.592 510.684 42.326 34.463 518.817 48.076 34.168 528.817 48.500 28.700 16.319.00 0 0.335 289 (Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản, Báo cáo Cục thuế và Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang qua các năm 1996 - 1999). Biểu số 1 cho ta thấy rằng so với một số ngành kinh tế thế mạnh của tỉnh thì ngành thủy sản Kiên Giang có sự đóng góp đáng kể trong việc giải quyết việc làm, tạo sản phẩm cho xã hội và nguồn thu ngân sách Nhà nước. Về lao động: từ năm 1996 - 1999 bình quân ngành nông lâm nghiệp giải quyết được 512.954 người, công nghiệp là 33.730 người và ngành thủy sản là 46.560 người, so với công nghiệp nhiều hơn 12.830 người. Về cơ cấu giá trị tổng sản phẩm (GDP) trên toàn tỉnh theo giá hiện hành thì ngành nông, lâm nghiệp có xu hướng ngày càng giảm tỷ trọng GDP, năm 1996 là 41,08% đến năm 1999 còn 39,95%, trong khi đó ngành thủy sản có xu hướng ngược lại, nếu như tỷ trọng GDP của ngành năm 1996 là 9,69% thì năm 1999 là 11,05%. Qua đó cho ta thấy rằng ngành thủy sản đóng góp ngày càng tăng cho tổng sản phẩm của tỉnh. Ngành công nghiệp và xây dựng có tăng nhưng chậm và hay biến động, năm 1996 là 45%, năm 1997 là 26,59% (tăng 2,14%), năm 1998 còn 24,69% (giảm 1,90%) và năm 1999 nhích hơn năm 1998 là 0,01%. Đối với các ngành dịch vụ của tỉnh cũng không nằm ngoài sự biến động của công nghiệp và xây dựng. Cụ thể năm 1996 là 23,98%, năm 1997 tăng 1,55% và 2 năm 1998 - 1999 giảm liên tục. Mức đóng góp ngân sách Nhà nước nhìn chung các ngành nông, lâm, thủy sản, công nghiệp và xây dựng đều đóng góp phần lớn vào ngân sách địa phương. Nông, lâm nghiệp năm 1997 là 13.500.000 đồng, năm 1999 đã tăng là 141.485.000 đồng, công nghiệp và xây dựng năm 1997 là 16.319.926.038 đồng, năm 1998 là 256.560.335 đồng, năm 1999 là 25.894.556.289 đồng, ngành thủy sản năm 1997 là 47.619.000 đồng, năm 1998 là 35.900.000 đồng và năm 1999 là 27.500.000 đồng. Như vậy, trong 2 năm 1998 - 1999 mức đóng góp vào ngân sách của ngành giảm liên tục. Nguyên nhân trong 2 năm 1998-1999, Nhà nước có chủ trương miễn giảm thuế đối với ngành thủy sản như: thuế khai thác tài nguyên (từ 4% giảm xuống còn 2%), thuế khai thác xa bờ... Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước, chủ yếu là Công ty xuất nhập khẩu thủy sản là đơn vị chủ lực của ngành, Kiên Giang thực hiện luật thuế giá trị gia tăng thì đơn vị được khấu trừ đầu vào, đồng thời được miễn thuế đầu ra (thuế xuất khẩu 0%) và diện tích nuôi trồng thủy sản cũng giảm. Nhìn vào tổng số lao động, tỷ trọng GDP và nộp ngân sách Nhà nước của một số ngành thế mạnh của tỉnh để thấy rằng, so với một số ngành thế mạnh khác, ngành thủy sản có bước phát triển ổn định và đang từng bước phát huy tiềm năng của mình để xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Tuy ngành thủy sản so với các ngành kinh tế khác trong tỉnh đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhưng vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, để phát triển ngành thủy sản ở Kiên Giang phải phát huy nội lực vốn có của nó, phải huy động tất cả các loại hình kinh tế, trong đó cần coi trọng phát triển kinh tế tư nhân. 1.1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương thực hiện chương trình đánh bắt xa bờ, phát triển nuôi trồng và chế biến thủy sản (nhằm khai thác tiềm năng hải sản, cung cấp thực phẩm cho tiêu dùng, xuất khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động). Để thực hiện chương trình đó cần có sự tham gia của các cấp, các ngành, mọi người và mọi thành phần kinh tế trong ngành thủy sản. Do đặc điểm của ngành này là nghề cá nhân dân và kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng vì có những ưu điểm sau: Một là, kinh tế tư nhân có thể huy động nguồn vốn, lao động, tài năng của ngư dân vào phát triển ngành thủy sản. Thí dụ: chỉ tính riêng trong lĩnh vực khai thác thủy sản năm 1999 đầu tư của tư nhân là 31,909.635 tỷ đồng, trong khi đó đầu tư Nhà nước là 14 tỷ đồng. Còn giải quyết việc làm cũng trong lĩnh vực này thì kinh tế tư nhân là 47.843 lao động, kinh tế Nhà nước là 657 lao động. Như vậy, lượng vốn ban đầu chủ yếu là của tư nhân, và kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể cho giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hai là, kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, tăng thu nhập để cải thiện điều kiện sống cho ngư dân. Trong năm 1999 kinh tế tư nhân đã nộp ngân sách là 15,300 tỷ đồng chiếm 55,63% tổng nộp ngân sách Nhà nước cho toàn ngành. Ba là, kinh tế tư nhân phần lớn gồm các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, dây chuyền thiết bị giản đơn, dựa vào kinh nghiệm truyền thống, sẵn có mối quan hệ rộng về cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, có tính cha truyền con nối, có kinh nghiệm quản lý, đồng thời mục đích lợi nhuận đã kích thích mọi đơn vị phấn đấu tối ưu hóa phương án kinh doanh. Do đó, bộ máy tổ chức của nó tương đối gọn nhẹ, có ưu điểm nổi bật là rất năng động, linh hoạt, thay đổi nhanh mặt hàng và phương thức kinh doanh, đáp ứng khá nhanh nhạy các nhu cầu phong phú, đa dạng luôn thay đổi của thị trường về hàng thủy sản, góp phần tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế. Đây cũng là một trong những cơ sở tạo ra một nền kinh tế thị trường năng động và có hiệu quả. Bốn là, kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản thúc đẩy cạnh tranh chống lại xu thế độc quyền cản trở sự phát triển của ngành, tạo ra một sức ép lớn buộc các doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới. Kết quả là hàng hóa ngày càng phong phú và giá cả cũng linh hoạt hơn nên người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn những hàng hóa có chất lượng cao, giá cả phải chăng, phù hợp với thị hiếu. Các cơ sở kinh tế muốn tồn tại và phát triển phải cạnh tranh, buộc các chủ thể kinh tế quan tâm hơn đến hiệu quả. Đại hội VI (tháng 12-1986) đánh dấu bước quan trọng về việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và khẳng định sự tồn tại lâu dài của chúng, nhưng trong lĩnh vực sản xuất, còn trong lĩnh vực lưu thông vẫn chủ trương xóa bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân [11, 60 - 61]. Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị (1988) và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa VI) tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đại hội VI và đã bổ sung, cụ thể hóa một bước quan trọng với những nội dung như sau: - Khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần “có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện dân chủ hóa về kinh tế" [23, 13]. - Xóa bỏ những định kiến, những định hướng độc quyền hoặc phân biệt đối xử, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. - Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô trong các ngành nghề pháp luật không cấm. - Khuyến khích kinh tế tư nhân hợp tác với các thành phần kinh tế khác. - Sự lựa chọn ngành nghề và loại hình kinh doanh không phải theo ý chí áp đặt chủ quan mà theo hiệu quả kinh tế: “những ngành nghề, loại hình hoạt động nào mà hợp tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì tạo điều kiện cho loại hình kinh tế ấy phát triển”. Nghị quyết đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định tư tưởng đổi mới của đại hội VI, đồng thời nhấn mạnh: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa, không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế, dân sinh” [12, 68]. Nghị quyết đại hội VII cũng đề ra nhiệm vụ cho quản lý Nhà nước với nền kinh tế nhiều thành phần “Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường”. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, Hội nghị Trung ương Đảng lần 2 (khóa VII) năm 1992, chuyên đề về kinh tế ngoài quốc doanh đã đưa ra một số chủ trương, biện pháp lớn để phát huy tiềm năng của kinh tế tư nhân, cá thể với những nội dung chính như sau: - Bổ sung sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho kinh tế tư nhân được phát huy, không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định. - Xóa bỏ những cấm đoán và ràng buộc vô lý, những thủ tục phiền hà gây khó khăn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh của nhân dân. - Cải cách bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với tất cả các thành phần kinh tế. - Khuyến khích thành lập tất cả các tổ chức kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp tư nhân và cá thể, làm người đại diện cho các thành viên trong việc đối nội, đối ngoại và làm cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân ở nước ta và nhấn mạnh: “Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế Tư bản nhà nước” [13, 92]. Có thể nói, quá trình đổi mới cũng là quá trình nhận thức ngày càng đầy đủ và đúng đắn hơn về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Những quyết định, đường lối của Đảng là định hướng chính trị quan trọng được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992 và các luật như: Luật doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật công ty (1990) và các Luật khác. Chính phủ cũng đã ban hành các văn bản quan trọng như: Nghị định 27/HĐBT (1988) quy định về chính sách đối với kinh tế tư nhân, cá thể; Nghị định 66/HĐBT (1992) đối với các cơ sở kinh doanh dưới vốn pháp định. Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng, nhằm khẳng định địa vị pháp lý của kinh tế tư nhân ở nước ta, quyền tự do kinh doanh và bảo hộ sở hữu tư nhân hợp pháp. Quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta thấm nhuần tư tưởng của Lênin trong chính sách kinh tế mới (NEP). Tại đại hội X Đảng cộng sản Liên Xô, Lênin đề xuất phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, giải phóng tối đa lực lượng sản xuất thông qua phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Lênin còn khẳng định rằng nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ. Năm 1918, Lênin đã chỉ ra rằng, nền kinh tế Nga lúc đó có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, sản xuất hàng hóa nhỏ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, chủ nghĩa xã hội [21, 363]. ở nước ta, kinh tế tư nhân được xác định là khu vực kinh tế bao gồm các cơ sở kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (hoặc vốn), với các hình thức tổ chức: doanh nghiệp và công ty tư nhân, các cơ sở kinh tế cá thể và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT. Có thể nói, quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta ngày càng phù hợp với thực tế Việt Nam, theo đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước cũng thay đổi căn bản: Chủ đạo không có nghĩa là chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, mà là giữ vai trò mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác, làm lực lượng vật chất để Nhà nước quản lý nền kinh tế, làm đòn bẩy đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Với cách nhìn đó kinh tế tư nhân từng lúc, từng nơi, từng lĩnh vực có thể chiếm tỷ trọng lấn át kinh tế Nhà nước cũng không có nghĩa là kinh tế Nhà nước đã mất vai trò chủ đạo của mình. Nhờ quan điểm đúng đắn đó mà theo đánh giá của Đảng ta, “Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn giải phóng và phát triển sức sản xuất, đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng qua 10 năm đổi mới” [13, 24]. Trong ngành thủy sản Kiên Giang, việc phát triển kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực của nghề cá cũng là một điều hết sức cần thiết. Nghề cá Kiên Giang là nghề cá nhân dân, quy mô nhỏ chiếm ưu thế, thích hợp với nguồn lợi đa loài và phân tán. Vùng ven biển Kiên Giang dài 195 km, chạy dọc theo bờ biển từ Tây Bắc, giáp vương quốc Campuchia xuống phía Nam giáp ranh giới tỉnh Cà Mau với nhiều kênh, rạch chằng chịt, và hải đảo biển Kiên Giang nằm trong Vịnh Thái Lan chiếm khoảng 21,10% diện tích của Vịnh. Thủy sản là vật liệu mau ươn, chóng thối... đòi hỏi việc đánh bắt bảo quản chế biến phải nhanh nhạy, kịp thi, thích nghi linh hoạt với những thay đổi của thị trường nên tổ chức phải gọn nhẹ, vì vậy, sự tồn tại lâu dài của nghề cá tư nhân kết hợp nhiều loại quy mô lớn, vừa và nhỏ đa dạng là thích hợp. Để khẳng định vai trò kinh tế tư nhân cần xem xét hoạt động của các thành phần kinh tế trong các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần, thương mại thủy sản. Trong lĩnh vực khai thác thủy sản: - Trong lĩnh vực này, từ năm 1985 - 1998 chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước (công ty quốc doanh đánh cá Kiên Giang), nhưng hoạt động có xu hướng càng ngày càng thu hẹp. Lượng tàu thuyền giảm dần, năm 1993 có 109 chiếc với tổng cộng 38.447 CV bình quân 352,72 CV/tàu, 1.156 lao động, sản lượng khai thác trong năm đạt 14.700 tấn, bình quân đạt 0,38 tấn/CV đến năm 1998 chỉ còn 59 chiếc tàu với tổng cộng mất 20.650 CV, bình quân 350 CV/tàu. Sản lượng khai thác 34.116 tấn, sản lượng bình quân đạt 1,65 tấn/CV, lượng lao động còn lại 689 người, bình quân 12 người trên mỗi tàu. Đến năm 1999, lượng tàu thuyền còn 50 chiếc với tổng công suất 17.000 CV bình quân 340 CV/chiếc, sản lượng khai thác 37.200 tấn, tăng 9% so với cùng kỳ do tăng phương tiện đánh bắt xa bờ và mở rộng khai thác ở biển Đông. Như vậy, kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực khai thác hải sản đang có xu hướng thu hẹp về quy mô, mặc dầu công suất máy móc tàu thuyền có tăng, phạm vi địa bàn khai thác được mở rộng. Kinh tế Nhà nước đã góp phần bảo vệ an ninh trên vùng biển, nhưng chưa thật sự đóng vai trò chủ đạo cho nghề cá nhân dân về mặt khoa học - kỹ thuật, hướng dẫn ngư trường dịch vụ trên biển cũng như thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. - Kinh tế hợp tác: năm 1986 mới có 2 hợp tác xã chủ yếu làm dịch vụ hỗ trợ cho xã viên. Đến năm 1999, thành lập thêm được một hợp tác xã từ vốn vay của Nhà nước. Còn tổ hợp tác năm 1999 thành lập được 9 tổ trên cơ sở để vay vốn của Nhà nước sau cơn bão số 5, hiện nay vẫn chưa đi vào hoạt động. Như vậy, mặc dù có sự hiện diện của kinh tế hợp tác trong lĩnh vực này nhưng số lượng khiêm tốn, chậm phát triển, thậm chí xu hướng chung là không phát triển, người dân chưa muốn thành lập loại hình kinh tế này trong khai thác, họ cảm nhận hình thức tổ chức quản lý phức tạp hơn nhiều so với kinh tế tư bản tư nhân, tiểu chủ. - Kinh tế tư bản nhà nước: Từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài đến nay, tỉnh có liên doanh với Thái Lan thành lập công ty liên doanh khai thác thủy sản vào năm 1990, nhưng sau hơn 2 năm hoạt động không hiệu quả nên đã giải thể. Kiên Giang là 1 trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước, có nguồn lợi thủy sản rất phong phú và đa dạng, có nhiều loại thủy sản có giá trị kinh tế cao nhưng vẫn không đủ sức thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. - Kinh tế tư nhân: Với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và nhóm kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT, kinh tế hộ gia đình, số lượng tàu thuyền không ngừng tăng nhanh từ 1992-1996, bình quân 1 năm tăng 350 tàu với công suất bình quân 1 năm tăng 63.494 CV. Năm 1997 giảm còn 6.919 chiếc (do thiệt hại của cơn bão số 5). Đến năm 1998 số lượng tàu thuyền tăng thêm 52 chiếc, nâng tổng số tàu thuyền hiện có của kinh tế tư nhân lên 6.971 chiếc với tổng công suất 475.525 CV, bình quân 68,21 CV/tàu. Tỷ trọng tàu thuyền của khu vực khai thác này chiếm 99,16% trên tổng năng lực tàu thuyền hiện có của toàn tỉnh. Số lượng tàu thuyền tăng mạnh qua các năm, tổng sản lượng khai thác cũng tăng, từ năm 1994-1996 tăng 17.933 tấn, từ 1996 - 1998 tăng 11.571 tấn và năm 1999 tăng 12.296 tấn. Như vậy, kinh tế tư nhân không chỉ tăng thêm về số lượng tàu thuyền mà cả công suất và sản lượng khai thác. Qua các giai đoạn phát triển kinh tế tư nhân thật sự đã đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra nguyên liệu cho ngành thủy sản. Họ tiên phong trong việc áp dụng khoa học công nghệ mới kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn, tìm tòi ngư trường khác, ngày càng phát triển mạnh khai thác xa bờ, linh hoạt trong việc chuyển đổi cơ cấu nghề phù hợp với ngư trường khai thác theo mùa vụ, tăng tích tụ vốn... Trong lĩnh vực nuôi trồng: - Trong lĩnh vực này có một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập 1987, tồn tại đến năm 1990 thì giải thể do không có hiệu quả, mặc dù có sự hợp tác của Canada. Vậy từ năm 1991 cho đến 1998 kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể và tư bản nhà nước vắng bóng trong lĩnh vực này. Đến năm 1999, có thử nghiệm 1 hợp tác xã ở Phú Quốc nhưng sản lượng không đáng kể. - Việc nuôi trồng thủy sản chủ yếu là do các hộ gia đình, cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT. Số hộ nuôi có xu hướng tăng đều qua các năm, từ 1992 - 1999 có 5.280 hộ, diện tích cũng không ngừng được mở rộng: 1992 là 15.883 ha, 1995 là 21.189 ha, 1998 là 27.663 ha và 1999 là 29.319 ha. Như vậy, trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, nguồn quan trọng cung ứng nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu cũng như tiêu dùng trong nước, ưu thế tuyệt đối thuộc về kinh tế hộ và tiểu chủ dựa trên cơ sở vận dụng lợi thế của điều kiện tự nhiên vùng ven biển sông ngòi, mương vườn để phát triển. Trong lĩnh vực chế biến: - Kinh tế Nhà nước: Xét về số lượng doanh nghiệp thì thu hẹp bởi năm 1985 có 6 đơn vị chế biến thủy sản các loại hình, năm 1995 còn 5 đơn vị và đến năm 1996 do tổ chức lại các đơn vị quốc doanh thuộc lĩnh vực chế biến nên đã sát nhập thành một công ty, nhưng xét về quy mô sản xuất kinh doanh thì phát triển mạnh, qua 3 năm 1996 -1998 với tổng công suất của các nhà máy chế biến hàng thủy sản đông lạnh xuất khẩu hiện nay theo thiết kế là 21.900 tấn/năm. Sản lượng chế biến thủy sản xuất khẩu: năm 1995: 16.200 tấn, năm 1996: 17.692 tấn, năm 1997: 17.937 tấn và năm 1998: 12.615 tấn và năm 1999 là 19.310 tấn. - Kinh tế hợp tác: từ năm 1985 đến 1988 không có tham gia vào lĩnh vực này. Nhưng đến năm 1999 chỉ có một tổ hợp tác. - Còn kinh tế tư bản nhà nước trong lĩnh vực chế biến không đáng kể, chỉ có 2 công ty chủ yếu chế biến tôm khô, cá khô các loại. - Kinh tế tư nhân: phát triển mạnh mẽ, nhanh về số lượng và đa dạng trong lĩnh vực chế biến nhất là những mặt hàng truyền thống như nước mắm, cá khô, cá muối, tôm khô... và sơ chế những mặt hàng thủy sản tươi ướp đá cung cấp cho các nhà máy. Như vậy, kinh tế Nhà nước chỉ đảm nhận khâu đông lạnh xuất khẩu với quy mô, kỹ thuật ngày càng tăng, còn kinh tế tư nhân hỗ trợ nhau cùng phát triển mạnh trong việc chế biến những mặt hàng hải sản thủ công truyền thống. Trong lĩnh vực dịch vụ hậu cần nghề cá: - Kinh tế Nhà nước: Hoạt động sản xuất nước đá là chủ yếu, đến năm 1998 sát nhập 9 nhà máy nước đá vào Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Kiên Giang. Ngoài ra, còn có một phân xưởng đóng, sửa chữa tàu thuyền của Quốc doanh đánh cá chủ yếu phục vụ cho kinh tế Nhà nước trong khai thác và chế biến thủy sản. - Còn kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước thì hoàn toàn không tham gia vào đây. - Kinh tế tư nhân: Phát triển đều đặn qua các năm, nhất là trong việc đóng, sửa chữa tàu thuyền, cung cấp nước đá cho các tàu thuyền khai thác hải sản của tỉnh, cũng như các tỉnh bạn di chuyển ngư trường đến Kiên Giang. Do nhu cầu đánh bắt xa bờ. Kinh tế tư nhân có xu hướng ngày càng phát triển trong lĩnh vực này. Trong thương mại thủy sản: - Kinh tế Nhà nước: Năm 1985, có 1 đơn vị nhưng đến năm 1995 sát nhập vào Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Kiên Giang, chủ yếu làm nhiệm vụ thu mua hàng phục vụ cho chế biến xuất khẩu là chính, còn thương mại nội địa hầu như bị bỏ ngỏ. - Kinh tế hợp tác: có một đơn vị nhưng trụ được hơn một năm thì giải thể. Kinh tế tư bản nhà nước: thì không tham gia. - Kinh tế tư nhân: hầu như làm chủ thị trường tiêu thụ lượng hải sản khai thác được, nhất là hàng thủy sản tiêu thụ nội địa. Họ có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp các tỉnh thành, chợ búa chằng chịt và cũng rất linh hoạt trong việc tính toán giá cả đầu vào và đầu ra cũng như cách thức mua bán...Vì vậy, thương nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh từ năm 1990 - 1998 và có xu hướng ngày càng phát triển. Có thể nói, trong dịch vụ hậu cần cũng như thương mại thủy sản, kinh tế tư nhân hoạt động rộng khắp, rất linh hoạt thích hợp với đặc điểm của nghề cá, mang tính thời vụ, di chuyển theo ngư trường. Sự tồn tại của kinh tế tư nhân còn bắt nguồn từ tính chất nguyên liệu thủy sản là mau chóng ươn thối, nếu chậm trễ trong lưu thông sẽ dẫn đến sự xuống cấp, giảm giá trị sản phẩm. Kinh tế tư nhân tuy mới được khôi phục và phát triển song đã có những đóng góp lớn trong sự phát triển của ngành thủy sản Kiên Giang trên các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ, hậu cần và thương mại, chứng tỏ sự khôi phục và phát triển ấy là một tất yếu khách quan và cần thiết. Tóm lại: Trong ngành thủy sản Kiên Giang có sự tham gia của các thành phần kinh tế nhưng lực lượng chủ yếu là kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của nghề cá và đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng nguyên liệu cho ngành thủy sản. Trong quá trình hoạt động và phát triển của mình, kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào thành tích chung của tỉnh. Do đó, phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực nghề cá Kiên Giang là một đòi hỏi cấp bách và cần có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế nhằm phát triển ngành này xứng đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và là một trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước. 1.2.Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của KINH Tế TƯ NHÂN TRONG Ngành Thủy sản ở KIÊN GIANG 1.2.1. Kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang: bao gồm nhiều loại hình phong phú và đa dạng trong mọi lĩnh vực nghề cá, (như công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT, kinh tế hộ gia đình, chủ nậu, vựa). Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân là loại hình kinh tế bao gồm tất cả các doanh nghiệp mà vốn để sản xuất, kinh doanh thuộc sở hữu của một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân, trong đó, sở hữu của từng cá nhân được định rõ giá trị. Hoạt động của các doanh nghiệp này chịu sự kiểm soát của chủ sở hữu tư nhân hay nhiều chủ sở hữu tư nhân. Cá nhân là những đơn vị kinh tế mà hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong loại hình kinh tế cá thể và trong khu vực sản xuất nguyên liệu. Kinh tế hộ gia đình là bộ phận cấu thành quan trọng của lực lượng sản xuất thủy sản, đó là một loại hình kinh tế cá nhân mà hoạt động kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Tuy là kinh tế cá thể thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhưng kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh tế, là một hình thức tự chủ kinh tế, sử dụng nhiều mối quan hệ sở hữu vừa sử dụng lao động chính, tận dụng lao động phụ, vừa thuê mướn thêm lao động như các loại hình kinh tế tư nhân khác. Nhóm kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT là những cơ sở kinh doanh dưới vốn pháp định (theo Luật công ty). Các chủ nậu, vựa thực chất là những tổ chức manh nha của tầng lớp tư bản thương nghiệp trong nghề cá đã góp phần tích cực vào việc chuyển đổi phương thức sản xuất kinh doanh của nghề cá, tuy nhiên, nếu sự quản lý của Nhà nước không chặt chẽ thì nó dễ dẫn đến độc quyền chi phối các lĩnh vực của nghề cá thông qua hình thức ứng vốn. 1.2.2. Hoạt động của kinh tế tư nhân trong nghề cá ở Kiên giang cũng như cả nước, đã trải qua nhiều biến động thăng trầm, nên đến nay vẫn còn non trẻ. Phần lớn các doanh nghiệp ra đời sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân, và Luật công ty (1990). Do đó, chủ doanh nghiệp thường thiếu kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh và rất bỡ ngỡ trước thị trường, nhất là thị trường nước ngoài, khả năng tiếp thị kém. Ngành thủy sản từ sau 1975 đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn 1975 - 1980 việc cải tạo quan hệ sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Nam đã loại bỏ kinh tế tư nhân, xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện quốc doanh hóa, áp dụng cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, do đó đã kìm hãm sự phát triển sản xuất trong ngành thủy sản. Đến giai đoạn 1981 - 1985, sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa IV (1979), Kiên Giang khôi phục lại nghề cá nhân dân, mở rộng xuất nhập khẩu để đáp ứng vật tư, thiết bị, phụ tùng cho nghề cá, từng bước thực hiện tự cân đối, tự trang trải trong nội bộ. Ngành thủy sản là một trong những ngành kinh tế đầu tiên được Nhà nước cho phép áp dụng thử nghiệm mô hình “tự cân đối, tự trang trải”. Tuy vậy, hoạt động của kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực thủy sản chỉ ở mức độ cầm chừng. Từ 1986, sau Đại hội VI của Đảng, kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản mới phát triển. 1.2.3. Kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, phân tán, hình thức hộ gia đình chiếm tỷ trọng lớn về số lượng và thu hút nhiều lao động trình độ công nghệ thấp, do đó kinh doanh tại chỗ là chủ yếu Trình độ xã hội hóa chưa cao, thể hiện rõ nét nhất là loại hình một chủ chiếm ưu thế, trong đó, hộ kinh tế cá thể chiếm ưu thế tuyệt đối cả về số lượng cơ sở và giá trị sản lượng. Hình thức công ty, đặc biệt là công ty cổ phần (là hình thức được đánh giá có trình độ xã hội hóa về sở hữu cao nhất) thì hầu như chưa có. Sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp và các cơ sở kinh tế tư nhân với nhau và với các khu vực kinh tế khác còn hạn chế. 1.2.4. Kinh tế tư nhân phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khai thác và dịch vụ hậu cần nghề cá 1.2.5. Quan hệ giữa người lao động với các chủ trong các cơ sở kinh tế tư nhân còn nhiều điều bất bình đẳng, người lao động còn bị thua thiệt rất lớn, nhất là trong quan hệ ăn chia Những điều nói trên sẽ được làm rõ ở phần thực trạng. Kết luận chương 1 Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Kiên Giang đã đóng góp phần đáng kể trong giải quyết việc làm, tăng sản phẩm cho xã hội và nguồn thu ngân sách Nhà nước, nhưng chưa phát huy hết tiềm năng và thế mạnh của mình. Để phát huy nội lực của ngành này cần huy động tất cả các thành phần kinh tế, nhất là coi trọng phát triển kinh tế tư nhân. Do đặc điểm của ngành thủy sản, kinh tế tư nhân dễ dàng huy động vốn, lao động, kỹ năng của ngư dân để phát triển khai thác, chế biến thủy sản, làm dịch vụ hậu cần... Kinh tế tư nhân phần lớn gồm các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, dây chuyền thiết bị giản đơn, dựa vào kinh nghiệm truyền thống, có mối quan hệ rộng về cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức của kinh tế tư nhân gọn, nhẹ, năng động, linh hoạt, dễ thay đổi nhanh mặt hàng và phương thức kinh doanh, đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị trường. Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng phát triển kinh tế tư nhân nói chung, kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản nói riêng. Trong thực tế kinh tế tư nhân có mặt trong tất cả các lĩnh vực của nghề cá ở Kiên Giang và đóng vai trò chủ yếu trong việc cung ứng nguyên liệu cho các đơn vị chế biến thủy sản. Đặc điểm nổi bật của kinh tế tư nhân ở Kiên Giang là bao gồm nhiều loại hình tổ chức phong phú, đa dạng; hoạt động của kinh tế tư nhân trong nghề cá ở Kiên giang cũng như cả nước đã trải qua nhiều bước thăng trầm nên đến nay vẫn còn non trẻ, nhiều mặt yếu kém; kinh tế tư nhân phần lớn có quy mô nhỏ, phân tán, trình độ công nghệ thấp, do đó kinh doanh tại chỗ là chủ yếu; kinh tế tư nhân chủ yếu tập trung vào khai thác và dịch vụ hậu cần; quan hệ giữa chủ các cơ sở kinh tế tư nhân với người làm thuê còn nhiều điểm bất bình đẳng, người lao động làm thuê còn chịu nhiều thua thiệt. Chương 2 Thực Trạng Và Những Vấn Đề Đặt RA Của KINH Tế TƯ NHÂN TRONG Ngành Thủy sản ở Kiên giang 2.1. Thực trạng của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang Như trên đã trình bày, kinh tế tư nhân bao gồm nhiều loại hình hoạt động rất phong phú, đa dạng trong mọi lĩnh vực nghề cá. Loại hình kinh tế này có xu hướng phát triển mạnh về số lượng lẫn quy mô được biểu hiện trên các mặt sau: 2.1.1. Xét về từng loại hình kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang Về số lượng doanh nghiệp tư nhân: Biểu số 2: Số lượng doanh nghiệp tư nhân ngành thủy sản từ 1985-1999 Năm/lĩnh vực 198 5 199 0 199 5 199 6 199 7 199 8 199 9 So sánh  % Ghi chú 98/9 7 99/9 8 1. Khai thác TS 2.Nuôi trồng TS 3. Chế biến TS 4. Dịch vụ hậu cần 5. Thương mại TS 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 425 0 50 110 40 511 0 64 117 58 648 0 85 120 57 726 0 89 140 72 827 0 146 79 12,2 04,7 16,6 7 13,9 1 0 64 9,72 Chỉ tính thời điểm thực hiện Luật doanh nghiệp tư nhân (1991- nay) Cộng 0 0 625 750 909 102 7 105 2 12,9 8 2,43 (Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm). Biểu số 2 cho thấy, từ 1985 - 1990 không có số liệu doanh nghiệp tư nhân do chưa ban hành luật, nên người dân chưa đăng ký kinh doanh, nhưng trong thực tế loại hình này vẫn tồn tại và hoạt động. Doanh nghiệp tư nhân phát triển trong lĩnh vực chế biến thủy sản chủ yếu là sơ chế hải sản, xẻ phơi khô, chế biến nước mắm và có hai cơ sở chế biến bột cá. Trong lĩnh vực dịch vụ hậu cần, thì chủ yếu đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, gia công sản xuất vật tư thiết bị đóng tàu. Doanh nghiệp tư nhân trong ngành thủy sản phát triển nhanh về số lượng, vào thời điểm 1995 chỉ có 625 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản, đến năm 1996 tăng lên 750 doanh nghiệp (tăng 20%), năm 1997 là 909 doanh nghiệp (tăng 21,20%), năm 1998 là 1027 doanh nghiệp (tăng 21,98%) và đến tháng 9/1999, chưa tính lĩnh vực dịch vụ thủy sản đã có 1.052, so với năm 1998 tăng 2,43%. Công ty trách nhiệm hữu hạn (trách nhiệm hữu hạn): Biểu số 3: Số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn ngành thủy sản từ 1985 - 9/1999 Năm / Lĩnh vực 198 5 199 0 199 5 199 6 199 7 199 8 199 9 So sánh  % Ghi chú 98/9 7 99/9 8 1. Khai thác TS 2. Nuôi trồng TS 3. Chế biến TS 4. Dịch vụ hậu cần 5. Thương mại TS 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 5 0 1 2 0 6 0 1 3 0 5 0 1 3 0 4 0 1 4 0 4 0 1 100 0 -20 0 100 Từ khi có Luật công ty (21/02/9 0) Cộng : 0 0 7 9 9 8 9 - 11,1 1 (Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm). * Khai thác thủy sản gồm có : 1. Công ty Hải Hưng thành lập 1995. 2. Công ty Hải Minh thành lập 1992 đến 1996 giải thể. 3. Công ty Như ý thành lập 1997. 4. Công ty Thắng Lợi thành lập 1999 * Chế biến thủy sản có : 1. Công ty Bình Minh thành lập 1996. 2. Công ty Vĩnh Lợi thành lập 1993. 3. Công ty Đông Phú thành lập 1993. 4. Công ty Thanh Hà thành lập 1993. 5. Công ty Hồng Hải thành lập 1994. 6. Công ty Thạnh Phát thành lập 1996 (giải thể năm 1998). * Thương mại thủy sản: Công ty Hồng Vân : thành lập 1993. Như vậy, sự phát triển của loại hình kinh tế này còn rất khiêm tốn, từ năm 1995 đến năm 1999 chỉ có 9 công ty trách nhiệm hữu hạn đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực khai thác, chế biến, thương mại nhưng trong thực tế một đơn vị hoạt động trên nhiều lĩnh vực của nghề cá và có cơ sở hoạt động gần như khép kín. Cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT: Biểu số 4: Số lượng cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT Năm / Lĩnh vực 198 5 199 0 199 5 199 6 199 7 199 8 So sánh  % Ghi chú 98/97 1. Khai thác TS 2. Nuôi trồng TS 3. Chế biến TS 4. Dịch vụ hậu cần 5. Thương mại TS 0 0 0 0 0 0 0 10 110 250 0 1 15 110 331 4 4 20 114 191 5 78 25 120 462 5 9 29 124 489 12,2 04,7 16,67 Số liệu tính từ ngày có Nghị định 66/HĐBT (2-3-92) 0 370 457 533 619 656 05,8 (Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm). Từ bản thống kê trên ta thấy cá nhân và nhóm kinh doanh theo NĐ 66/HĐBT có mặt hầu hết trên các lĩnh vực thuộc ngành thủy sản Kiên Giang, số lượng cũng tăng đều đặn qua các năm, năm 1990 chỉ có 370 cơ sở thì đến năm 1997 là 619, năm 1998 là 656 cơ sở. Hộ gia đình: Biểu số 5: Số lượng kinh tế hộ Năm / Lĩnh vực 198 5 199 0 199 5 199 6 199 7 199 8 So sánh  % Ghi chú 98/97 99/9 8 1. Khai thác TS 2. Nuôi trồng TS 3. Chế biến TS 4.Dịch vụ hậu cần 5. Thương mại TS 0 140 7 0 - - 0 265 3 0 - - 0 411 0 0 - - 0 471 0 0 - - 0 521 7 0 - - 0 525 0 0 - - 0,63 140 7 265 3 411 0 471 0 521 7 525 0 0,63 (Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm). Như vậy hộ gia đình chủ yếu phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và phát triển một cách tự phát nhanh chóng dựa trên cơ sở lợi thế về điều kiện tự nhiên của Kiên Giang. Nếu năm 1985 số hộ nuôi trồng thủy sản là 1.407 thì năm 1995 tăng lên là 4.110 hộ, năm 1998 là 5250, đến năm 1995 sau 10 năm phát triển số hộ nuôi trồng thủy sản tăng 192,11%, chỉ tính riêng từ năm 1995 - 1998, sau 3 năm thì tăng 27,73%. Nuôi trồng thủy sản là một ngành đang có xu hướng phát triển mạnh ở Kiên Giang. Những con số thống kê trên, cho ta thấy kinh tế tư nhân có số lượng rất lớn và có mặt trên tất cả các lĩnh vực trong ngành thủy sản ở Kiên Giang và ngày càng có xu hướng không ngừng gia tăng về số lượng. 2.1.2. Năng lực của kinh tế tư nhân trên các lĩnh vực của ngành thủy sản ở Kiên Giang Lĩnh vực khai thác: Biểu số 6: Kết quả năng lực của kinh tế tư nhân trong khai thác từ 1992-1999 Chỉ tiêu Năm Năng lực tàu thuyền Sản lượng khai thác Sản lượng bình quân Lao động Chiếc Công suất (CV) Bình quân CV/chiếc 1992 5622 129479 23,03 97300 0,75 33732 1993 6428 151309 23,54 123000 0,81 38568 1994 6650 222927 33,52 139500 0,63 39900 1995 6775 306278 45,20 150200 0,49 40656 1996 7019 383454 54,63 157433 0,41 42114 1997 6384 370865 58,09 167535 0,45 41514 1998 6971 475525 68,21 169004 0,35 41826 1999 6993 552445 79,00 181300 0,53 43560 (Nguồn: Báo cáo Sở thủy sản Kiên Giang qua các năm). Số lượng tàu thuyền không ngừng tăng nhanh từ 1992 - 1996, bình quân mỗi năm tăng 350 tàu với công suất bình quân một năm tăng 63.494 CV. Năm 1997 số lượng tàu giảm xuống do thiệt hại trong bão số 05. Đến năm 1999, số lượng tàu thuyền tăng 252 chiếc với tổng công suất 475.525 CV, bình quân 68,21 CV/tàu. Tỷ trọng tàu thuyền của kinh tế tư nhân chiếm 99,16% tổng số năng lực tàu thuyền hiện có của toàn tỉnh. Tuy số lượng tàu thuyền tăng nhanh qua các năm nhưng tổng sản lượng khai thác bình quân trên 1 CV thì có chiều hướng ngược lại, vào năm 1992 sản lượng bình quân trên một CV là 0,75 tấn, thì năm 1994 là 0,63 tấn, năm 1996 còn 0,41 tấn, năm 1998 0,31 tấn và năm 1999 là: 0,33 tấn, chỉ có năm 1997 sản lượng bình quân tăng lên đôi chút do đầu tư tàu lớn, đánh bắt xa bờ. Điều đó nói lên rằng, nguồn lợi thủy sản đang trên đà cạn kiệt và mức thu nhập của người lao động trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản đang bị giảm sút. Kinh tế tư nhân đầu tư trong khai thác thủy sản nhiều nhất là từ năm 1995 đến nay. Nếu tính mức đầu tư cho tàu đánh cá (bao gồm đóng mới, lắp đặt hoàn chỉnh máy) là 4.500.000 đ/CV của giai đoạn năm 1996-2000 thì thời điểm 1996 so với 1995 tăng 77.176 CV, tăng 347,29 tỷ đồng và từ năm 1996 đến năm 1999 tăng 709103 CV, tăng 3.190,9635 tỷ đồng. Đầu tư trong lĩnh vực này của kinh tế tư nhân ngày càng gia tăng vì ngoài nguồn vốn tự có còn nguồn vốn cho vay ưu đãi theo chủ trương, khuyến khích đóng tàu đánh bắt cá xa bờ (chỉ tiêu Nhà nước phân bổ cho Kiên Giang vay năm 1998 là 53 tỷ đồng và năm 1999 là 14 tỷ đồng). Do đó, chỉ trong năm 1999, tàu thuyền đóng mới là 289 chiếc với 81.787 CV, bình quân 283 CV/chiếc, tăng 10,79 CV/chiếc so với năm 1998, nghĩa là tăng không chỉ về số lượng mà cả về công suất và qua đó cũng chứng minh một điều là chủ trương đánh bắt xa bờ được ngư dân hưởng ứng và năm 1999 là năm có mức tăng tàu thuyền cao nhất từ khi giải phóng đến nay. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản: Biểu số 7: Năng lực nuôi trồng thủy sản của kinh tế tư nhân từ năm 1992 - 1999 Chỉ tiêu Năm Năng lực nuôi trồng Sản lượng nuôi trồng Sản lượng bình quân Lao động Số lượng hộ Diện tích nuôi (ha) Bình quân hộ/ha 1992 3238 15833 4,91 7784 0,49 4047 1993 3498 17262 4,93 8947 0,54 4540 1994 3798 21387 5,63 11260 0,53 4747 1995 4110 21198 5,16 7969 0,38 5130 1996 4710 19306 4,10 7466 0,38 5920 1997 5217 25139 4,82 8324 0,33 6734 1998 5250 27663 5,27 8947 0,32 6784 1999 5280 29319 5,55 6387 0,21 6820 (Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm). Nuôi trồng thủy sản là một nghề rất phổ biến trong các hộ gia đình ở Kiên Giang, chiếm 99,83%, nó được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên. Từ năm 1992 - 1998 kinh tế hộ gia đình tăng mạnh trong lĩnh vực này và đến cuối 1998 tổng số là 5.250 hộ. Trong đó số hộ nuôi trồng có đất trên 5 ha là 19 hộ (chiếm 0,36%), trên một ha là 1.515 hộ (chiếm 28,86%) và nhỏ hơn 1 ha là 3.716 hộ, chiếm 70,87%. Số hộ nuôi trồng thủy sản có xu hướng tăng đều qua các năm, diện tích nuôi trồng không ngừng được mở rộng, năm 1992 với diện tích là 15.883 ha, năm 1995 là 21.189 ha, năm 1998 là 27.663 ha và năm 1999 là 29.319 ha. ở nuôi trồng thủy sản cũng gặp tình cảnh số lượng hộ tăng nhưng sản lượng thu hoạch thì có xu hướng giảm rõ rệt, từ 0,53 tấn/ha năm 1994 đến năm 1996 còn 0,39 tấn/ha, năm 1998 chỉ đạt 0,32 tấn/ha và năm 1999 chỉ còn 0,21 tấn/ha. Nguyên nhân của việc giảm mạnh do diện tích nuôi sò giảm vì nước ngọt từ các kênh xả lũ biển gây ảnh hưởng đến môi trường sinh sản của sò giống. Vừa qua chỉ mới tập trung chủ yếu vào nuôi tôm nước lợ, nuôi sò huyết, cá ao, mương vườn, nuôi cá ruộng lúa... nên quy mô nuôi còn nhỏ, chưa tập trung. Chủ lực trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản là hộ gia đình, hiệu quả kinh tế quá thấp, thậm chí bị mất mùa nên việc tích tụ vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất không lớn, mức đầu tư năm 1995 là 12,5 tỷ trên tổng diện tích là 21.189 ha, bình quân mức đầu tư là 3.041.362 đồng trên một ha. Đến năm 1998 tổng mức đầu tư là 14 tỷ đồng trên tổng diện tích 27.662 ha, bình quân mức đầu tư là 506.091 đồng trên 1 ha và bình quân một hộ đầu tư là 2.666.000 đồng. Như vậy tính từ 1995-1998, mức đầu tư bình quân theo hộ thì tăng nhưng theo diện tích thì giảm. Lĩnh vực chế biến thủy sản: Kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu là chế biến nước mắm, mực khô, sơ chế mực, cá khô, tôm khô, ngân chỉ... đặc biệt có nước mắm chiếm 67%. Với phương pháp chế biến thủ công và dựa vào kinh nghiệm gia truyền là chính. Qua các năm công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển chậm, thậm chí có xu hướng giảm, còn doanh nghiệp tư nhân cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT thì phát triển đều đặn, mức đầu tư phát triển vừa, ổn định, năm 1995 mức đầu tư đạt 12,5 tỷ đồng đến năm 1997 mức đầu tư tăng thêm 7,1 tỷ đồng. Trong đó có một doanh nghiệp tư nhân đầu tư 6,3 tỷ đổi mới dây chuyền chế biến cá bột, và năm 1999 có 2 doanh nghiệp tư nhân ở Phú Quốc đã xuất khẩu sang Pháp 260.000 lít nước mắm đạt 650.000 USD Trong lĩnh vực này, kinh tế tư nhân đã thu hút hàng ngàn lao động. Dịch vụ hậu cần: Kinh tế tư nhân phát triển chủ yếu trong dịch vụ đóng tàu, sửa chữa tàu thuyền, cung cấp nước đá cho lực lượng tàu thuyền khai thác hải sản. Xu hướng này ngày càng phát triển do nhu cầu đánh bắt xa bờ. - Mức đầu tư của kinh tế tư nhân trong khu vực cơ khí và sửa chữa tàu thuyền đạt qua các năm như sau: Năm 1995 là 12 tỷ đồng, năm 1997 là 14,4 tỷ đồng tăng gấp 1,2 lần so với năm 1995, đến năm 1998 là 34 tỷ đồng. - Còn trong chế biến nước đá với 67 nhà máy sản lượng sản xuất 17.448.000 cây, mức đầu tư 1998 là 54,205 tỷ đồng. Trong lĩnh vực dịch vụ hậu cần, so với kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước đầu tư rất mạnh, nhất là vào xây dựng cảng cá. Có hơn 68 cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu phục vụ cho khai thác thủy sản, trong đó có một cơ sở của công ty quốc doanh đánh cá Kiên Giang, còn lại kinh tế tư nhân có khả năng đóng mới 200-300 tàu/năm và phục vụ sửa chữa hàng ngàn tàu thuyền các loại, đủ sức đóng và sửa chữa tàu thuyền có công suất từ 600 CV trở xuống. Vận chuyển hàng thủy sản trên bộ ưu thế thuộc về kinh tế tư nhân, đáp ứng được yêu cần vận chuyển hàng hải sản ngày càng cao. Kinh tế tư nhân cũng nắm phần lớn cơ khí sản xuất, vật tư trang thiết bị cho nghề cá. Thương mại thủy sản: Trong lĩnh vực này kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ nhanh, từ năm 1990 - 1999 hầu như chiếm lĩnh thị trường nội địa, tiêu thụ khối lượng lớn hải sản khai thác được. Điều này được chứng minh qua bản thống kê sau. Biểu số 8: Tình hình thu mua tiêu thụ hải sản qua các năm 1990 - 1999 Năm Tổng Sản lượng khai thác (tấn) Kinh tế Nhà nước thu mua chế biến XK Kinh tế tư nhân thu mua đưa vào lưu thông Tỷ lệ % sản lượng thu mua Kinh tế Nhà nước Kinh tế tư nhân 199 0 93000 24000 69000 25,80 74,20 199 1 102500 40000 62500 39,02 60,98 199 2 112000 47196 64804 42,14 57,86 199 3 140000 50500 89500 36,07 63,93 199 4 155000 48600 106400 31,35 68,65 199 5 170200 80050 90150 47,03 52,97 199 6 190756 121000 69765 63,42 36,58 199 7 196535 117923 78612 60,00 40,00 199 8 210100 104577 105523 49,77 50,23 199 9 218500 103650 114850 47,40 52,60 (Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm). Những năm đầu của thập kỷ 90 kinh tế tư nhân chiếm ưu thế trong lĩnh vực thu mua nguồn hàng, từ những năm 1995 trở về sau tỷ trọng của kinh tế Nhà nước không ngừng gia tăng, từ 47,03% năm 1995 lên 63,42% của năm 1996, sau đó thì có dấu hiệu giảm xuống, năm 1997 còn 60%, năm 1998 còn 49,77% và 1999 là 47,4%. Tỷ lệ thu mua và tiêu thụ như vậy, nhưng thực tế kinh tế Nhà nước chỉ cung cấp tôm đông, cá đông, mực đông, hải sản khác có giá trị kinh tế để xuất khẩu và phần lớn là sản lượng cá xô để đưa vào chế biến bột cá làm thức ăn gia súc, còn lượng thủy sản dùng làm thực phẩm tươi, khô vẫn do tư nhân nắm phần chủ động điều phối thị trường trong tỉnh. 2.1.3. Sự đóng góp của kinh tế tư nhân đối với tỉnh Số liệu thực hiện những chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế tư nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh trong ngành thủy sản cho thấy: Về sản lượng: năm 1998 kinh tế tư nhân khai thác được 169.004 tấn chiếm 79,30% tổng sản lượng khai thác thủy sản của tỉnh và năm 1999 đạt 181.300 tấn chiếm 82,97%, đáp ứng phần lớn nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Vị chế biến: Trong tổng sản lượng chế biến của toàn ngành thủy sản năm 1998 là 38.514 tấn, bao gồm các mặt hàng: cá đông, tôm đông, mực đông, cá fillet, ghẹ đông, bột cá, cá hộp, hải sản đông lạnh khác và cá khô, tôm khô các loại, nước mắm, trong đó kinh tế tư nhân đạt 18.232 tấn, chiếm 47,35% và năm 1999 chiếm 52,6%. Tuy tỷ lệ chế biến của kinh tế tư nhân cao hơn kinh tế Nhà nước, nhưng xét giá trị sản lượng chế biến, kinh tế Nhà nước đạt cao hơn nhiều vì chủ yếu doanh nghiệp Nhà nước chế biến các mặt hàng dùng cho xuất khẩu như tôm đông, cá đông, mực đông, ghẹ đông, cá fillet, cá hộp,... còn kinh tế tư nhân chủ yếu là sản phẩm chế biến cho tiêu thụ nội địa như cá, mực, tôm dạng khô và nước mắm, một số ít sản lượng nước mắm xuất khẩu. Về nuôi trồng: năm 1998 tổng sản lượng là 8.947 tấn, và năm 1999 là 6387 tấn, trong đó kinh tế tư nhân mà chủ yếu là kinh tế hộ gia đình chiếm ưu thế gần như tuyệt đối. Về doanh thu: các thành phần kinh tế trong năm 1998 đạt 1.540,167 tỷ đồng trong đó kinh tế tư nhân thực hiện 1.132,00 tỷ đồng chiếm 73,50%. Về vốn: các thành phần kinh tế trong năm 1998 đầu tư 2.280,145tỷ đồng: Trong đó kinh tế tư nhân đầu tư 2.191,520 tỷ đồng, chiếm 96,115%, chủ yếu là đầu tư vào lĩnh vực khai thác; năm 1999 chỉ trong lĩnh vực khai thác tư nhân đã đầu tư là 31.909,635 tỷ đồng. Chứng tỏ sức huy động vốn của dân vào lĩnh vực kinh tế thủy sản rất cao. Về lao động: số lượng lao động bình quân trong ngành thủy sản Kiên Giang năm 1998 là 48.076 người, trực tiếp vào hoạt động nghề cá, kinh tế tư nhân : 45.619 người, chiếm 94,89%. Bên cạnh đó còn tạo ra hàng ngàn việc làm khác, như vá lưới, vận chuyển... Về lương bình quân: năm 1998 lương bình quân trong kinh tế Nhà nước là 806.000 đồng/tháng/người; lương bình quân trong kinh tế tập thể là 600.000 đồng; lương bình quân trong kinh tế tư bản nhà nước là 900.000 đồng; lương bình quân trong kinh tế tư nhân là 500.000 đồng. Trên thực tế thành phần tư bản nhà nước tại Kiên Giang kinh doanh trong năm 1996-1997 lỗ và năm 1998 chỉ lời có 410 triệu đồng (theo số liệu báo cáo tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp), sở dĩ lương bình quân cao do doanh nghiệp được miễn thuế lợi tức trong các năm đầu theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, công nhân làm việc được trả lương theo công việc hợp đồng và giờ giấc khắt khe. Ngoài ra họ không đảm bảo đúng một số chế độ cho người lao động. Từ cuối năm 1998 đến nay thì không còn kinh tế tư bản nhà nước trong ngành này vì làm ăn thua lỗ, đã giải thể. Người lao động trong kinh tế tư nhân có mức thu nhập thấp hơn so với các thành phần kinh tế khác trong ngành(500.000đ/tháng), nhưng giờ công lao động thì tương đối thoáng, chẳng hạn như trong lĩnh vực khai thác tuy doanh thu chiếm tỷ trọng cao, nhưng thời gian lao động chỉ có 9 tháng là tối đa; trong nuôi trồng, chế biến, hệ số ngày giờ trong lao động cũng chỉ chiếm trên dưới 70%. Về nộp ngân sách: trong năm 1998 đạt 35,900 tỷ đồng trong đó kinh tế Nhà nước nộp 15,500 tỷ đồng, kinh tế tư nhân nộp 20,400 tỷ, chiếm 56,82%. So tỷ lệ nộp ngân sách trên doanh thu thì kinh tế Nhà nước: 15,500 tỷ/ 373,6 tỷ = 0,0414 (4,14%); kinh tế tư nhân: 20,900 tỷ/1.132tỷ = 0,01846 (1,846%). Mặc dù số liệu chưa thật chuẩn xác, nhưng cũng cho thấy mức thu ngân sách chênh lệch nhau khá nhiều, vì thành phần kinh tế tư nhân chủ yếu áp dụng mức thuế khoán nên còn thất thu. Năm 1999, kinh tế tư nhân nộp ngân sách là 15,3 tỷ đồng chiếm 55,63% tổng nộp ngân sách của toàn ngành. Về lợi nhuận: ngành thủy sản của tỉnh trong năm 1998 thu được khoảng 87,874 tỷ đồng, trong đó kinh tế Nhà nước: 13,5 tỷ, chiếm 15,362%; kinh tế tư nhân: 73,580 ty, chiếm 83,736%. Xem xét tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu cho thấy kinh tế Nhà nước: 13,5/373,6 = 0,0361 (3,613%); kinh tế tư nhân: 73,580/1.132 = 0,065 (6,5%). Con số này một phần nói lên hiệu quả kinh doanh, một phần chỉ rõ yếu tố thất thu thuế, nhờ đó kinh tế tư nhân có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao hơn hẳn kinh tế Nhà nước trong ngành. Từ sự phân tích một số chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế tư nhân so với các loại hình kinh tế khác hoạt động trong ngành thủy sản, từ năm 1998 đến 1999, tuy chưa đầy đủ nhưng cũng cho ta một cách nhìn tổng quát về sự đóng góp quan trọng của kinh tế tư nhân cho sự phát triển của ngành, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu thập cho người lao động và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách của tỉnh, và càng khẳng định thêm sự cần thiết tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở ngành này. 2.1.4. Về cơ chế hoạt động Chủ doanh nghiệp tư nhân là người trực tiếp sở hữu vốn, nên có chủ đích thực và các quan hệ liên quan tới tài sản như thế chấp, thuê mướn, kế thừa... rõ ràng, sòng phẳng. Lợi ích cá nhân gắn với sở hữu tư nhân là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, và quyền hạn, trách nhiệm nghĩa vụ, quyền lợi gắn chặt với nhau, do đó, các cơ sở kinh tế tư nhân có tính chủ động cao, năng động ứng xử trước những biến động thị trường, bộ máy quản lý doanh nghiệp thường đơn giản, gọn, nhẹ. Quan hệ kinh tế tư nhân với quản lý Nhà nước có phần đơn giản hơn. Nhà nước không cần đầu tư trực tiếp lớn cho khu vực kinh tế này mà chỉ cần có chiến lược, chính sách đúng đắn để khuyến khích phát triển và hỗ trợ khi cần. Mục đích hoạt động của kinh tế tư nhân thường rõ ràng và đơn giản là thu lợi nhuận tối đa, không bị các mục tiêu kinh tế - xã hội khác chi phối như đối với doanh nghiệp Nhà nước; đây là phương thức tối ưu hóa cục bộ hiệu quả kinh tế. Các chủ doanh nghiệp có thể chủ động, nhanh nhạy chớp thời cơ kinh doanh. 2.1.5. Hạn chế của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang Thông qua sự xem xét kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản ở Kiên Giang ta thấy nổi lên những hạn chế như sau: Khai thác: Nguồn thủy sản vùng ven bờ đang có dấu hiệu ngày càng cạn kiệt, cụ thể sản lượng khai thác bình quân /CV/năm có xu hướng giảm dần xuống qua các năm; trong cơ cấu sản lượng khai thác được thì các loại thủy sản có giá trị kinh tế thấp tăng. Số lượng tàu thuyền có công suất nhỏ còn quá lớn, hiện nay những tàu thuyền có công suất dưới 29 CV chiếm đến 53,55% tổng số tàu thuyền của tỉnh, loại tàu này chủ yếu khai thác ven bờ. Sản lượng hải sản khai thác tại Kiên Giang cho đến nay đã vượt quá khả năng cho phép, với trữ lượng các loại hải sản được xác định (qua điều tra khảo sát) là 464.660 tấn, khả năng cho phép khai thác dưới 40% trữ lượng, bằng 208400 tấn/năm, trên thực tế sản lượng khai thác qua các năm như sau: Năm 1992 là 112.000 tấn đạt 53,74% sản lượng cho phép; chỉ tiêu tương ứng năm 1993 là 140.000 tấn và 68,17%; 1994 là 155.000 tấn và 74,38%; 1995 là 170.200 tấn và 81,67%; 1996 là 190.765 tấn và 91,54%; 1997 là 196.535 tấn và 94,31%; 1998 là 210.100 tấn và 100,81%; 1999 là 218.500 tấn và 104,85%. Số liệu trên chưa gồm sản lượng hải sản mà tàu thuyền các tỉnh bạn đến ngư trường Kiên Giang khai thác. Như vậy, chỉ với lượng khai thác hải sản của tàu thuyền trong tỉnh thì năm 1999 đã vượt 4,85% sản lượng cho phép khai thác. Điều này đòi hỏi phải tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản đối với các loại hình kinh tế tham gia vào đây để tránh tình trạng làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Loại hình doanh nghiệp tư nhân trong khai thác thực tế vẫn chưa đăng ký đầy đủ số lượng hoạt động theo Luật doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là đối với loại tàu thuyền có công suất từ 20 CV trở xuống. Nuôi trồng thủy sản: Do kinh tế hộ gia đình và tiểu chủ dựa trên cơ sở lợi thế của điều kiện tự nhiên vùng ven biển, sông ngòi, mương vườn để phát triển nghề nuôi trồng nên việc tổ chức nuôi trồng còn phân tán, quy mô nhỏ, tích lũy thấp, thiếu vốn, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn là điều mới mẻ, phần lớn da vào kinh nghiệm tích lũy được qua thực tế là chính. Việc tổ chức sản xuất theo kiểu chuyên canh, thâm canh còn quá ít so với khả năng và nguồn lợi. Đầu tư của Nhà nước vào lĩnh vực này còn quá mỏng, do đó không đủ lực để khai thác thế mạnh và hiệu quả nuôi trồng không cao, từ đó hạn chế việc tích lũy vốn để tái đầu tư. Chế biến: Mặc dù kinh tế tư nhân phát triển mạnh về số lượng nhưng quy mô nhỏ, vốn đầu tư thấp, họ chỉ đa dạng những mặt hàng truyền thống và sơ chế những mặt hàng tươi ướp đá cung cấp cho đơn vị chế biến xuất khẩu của Nhà nước. Các cơ sở chế biến hàng tươi sống của kinh tế tư nhân đã gây ô nhiễm môi trường trầm trọng do các chất thải không được xử lý. Dịch vụ hậu cần nghề cá: Tuy ngành đóng tàu và sửa chữa tàu đủ sức phục vụ cho nghề khai thác thủy sản trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh nhưng kỹ thuật chủ yếu là thủ công và bán thủ công, phần lớn dựa vào kinh nghiệm của những người cao tuổi, hàng chục cơ sở đóng tàu nằm rải rác phân tán ở các huyện, thị trong tỉnh. Như vậy dịch vụ đóng, sửa tàu chỉ mới phát triển theo chiều rộng chưa đi vào chiều sâu. Vận tải tuy đã đáp ứng cho nhu cầu lưu thông nhưng kỹ thuật bảo quản hàng thủy sản vận chuyển còn hạn chế, nhất là vận tải thủy, chỉ mới dùng phương pháp ướp đá nên làm giảm chất lượng sản phẩm. Việc tổ chức kinh doanh các dịch vụ hậu cần còn mang tính phiến diện, chưa đồng bộ, thiếu cân đối, nhiều khâu còn bỏ trống, như sản xuất ngư lưới cụ, bao bì thủy sản, trong khi đó nước đá lại có xu hướng sản xuất thừa (cung lớn hơn cầu). Thương mại: Kinh tế tư nhân trong khâu lưu thông hàng thủy sản một mặt làm sôi động thị trường, mặt khác gây ra tình trạng tranh mua tranh bán, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, làm mất trật tự trong lĩnh vực này. Về mặt phân tích, chúng ta chia ra từng lĩnh vực, nhưng trong thực tế hiện nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nghề cá, tạo nên sự khép kín đan xen nhau, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân có xu hướng ngày càng đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh. Về cơ chế chính sách: Phát triển tàu có công suất lớn để khai thác xa bờ là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đang được triển khai rầm rộ, nhưng thực hiện chưa có trọng tâm, trọng điểm, mà theo kiểu rải mành, chưa kết hợp với công nghiệp hóa ngành khai thác của tỉnh. Chính sách đầu tư vào nghề cá trên các lĩnh vực chưa được cân đối đồng bộ, đã ảnh hưởng đến phát triển nguồn lực, nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên và nuôi trồng. Hiện nay, các ngành chức năng vẫn chưa có số liệu nghiên cứu thật chính xác về trữ lượng cũng như khả năng khai thác cho phép trên ngư trường Kiên Giang. Hiện tại, chúng ta dựa vào kết quả điều tra nghiên cứu của tổ chức FAO (thời kỳ 1968 - 1971) của Viện nghiên cứu hải sản - Bộ thủy sản (1978 - 1981) và tài liệu thăm dò, khai thác của Liên Xô trong các năm 1978 - 1986 cùng thực tế khai thác của ngư dân qua các năm để dự tính nguồn lợi hải sản vùng biển Kiên Giang. Chính sách đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng còn quá hạn hẹp so với tiềm năng sẵn có. Nhìn chung, kinh tế tư nhân hoạt động trên các lĩnh vực của nghề cá đã có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, nhưng vì quá chú trọng tới lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt, chạy theo lợi nhuận, nên cũng gây ra tình trạng không bình thường trong quan hệ kinh tế, mất ổn định xã hội, ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động chưa được quan tâm thỏa đáng, chưa nghiêm chỉnh chấp hành đăng ký kinh doanh. 2.2. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển lành mạnh kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang Để khắc phục những điểm hạn chế của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang đã nêu trên, cần phải giải quyết một số vấn đề cấp thiết để tiếp tục phát triển loại hình này: 2.2.1. Việc quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong một số lĩnh vực còn lỏng lẻo Còn hàng trăm tàu có công suất nhỏ khai thác ven bờ, chưa đăng ký kinh doanh, khi có chủ trương cấm khai thác thủy sản ven bờ thì nhiều ngư dân gặp khó khăn. Việc đăng ký quản lý kiểm tra tàu từ 20 CV trở xuống thiếu chặt chẽ, một số huyện vẫn tiếp tục cho đóng mới và đăng ký tàu nhỏ cào bờ, xiệp mé. Vì vậy, tình trạng khai thác thủy sản ven bờ vượt quá sản lượng cho phép cứ tiếp diễn. Nhà nước chưa có chính sách đầu tư hợp lý vào ngành thủy sản, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng và khai thác. Việc điều tra, quy hoạch còn yếu, thiếu cán bộ kỹ thuật, thiếu các biện pháp khoa học đồng bộ về giống, thức ăn và phòng trị bệnh... nên sản lượng thu được rất thấp. Chính sách thuế khoán đối với kinh tế tư nhân không hợp lý, nhưng chậm được sửa đổi, nên thất thu nhiều, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa kinh tế tư nhân với kinh tế Nhà nước trên địa bàn tỉnh. Theo thuế khoán thì kinh doanh lỗ hay lãi đều phải nộp như nhau. Mặt khác, khoán quá thấp thì thất thu, khoán quá cao thì nhiều đơn vị không kham nổi, phải ngừng kinh doanh chờ thời cơ, thậm chí bỏ nghề. Qua khảo sát của ngành thuế trong tháng 5/1999 đối với nghề cào đơn, cào đôi máy từ 250 CV, nếu tỷ lệ điều tiết thuế là 6,25% trên doanh thu như hiện nay thì số thuế thu được là 40,07 triệu, nhưng trên thực tế chỉ thu được 26,21 triệu đồng, tức chênh lệch so với thuế khoán là 13,36 triệu đồng. Tổng hợp kết quả khảo sát tất cả các nghề trong lĩnh vực khai thác thủy sản tháng 5/1999 thì bị thất thu thuế trên 14% doanh số. Trong lĩnh vực thương mại, sự bất hợp lý của thuế khoán lại thể hiện ở tình trạng thuế chồng lên thuế. Chẳng hạn, một chủ kinh doanh mua, bán hải sản có dùng phương tiện tàu, thuyền thì phải chịu đến 3 lần thuế trên một sản phẩm: khi tàu đi thu mua trên biển hàng tháng phải đóng thuế khoán khoảng 3 triệu đồng/tàu; khi chuyển hàng ra khỏi tỉnh thì phải đóng thuế buôn bán chuyến trên doanh số lô hàng chở đi, ngoài ra hàng tháng đơn vị đó phải đóng thêm một khoản thuế cho điểm cố định của mình. Bởi thế, đơn vị nào muốn tồn tại, có lợi nhuận, phải tìm cách trốn lậu thuế. Thí dụ: đơn cử hộ Lê Thị Thuận (Năm Thuận) ở thị xã Rạch Giá, năm 1998, thuế thu từ tàu đi thu mua trên biển là 300.475.000 đồng, thuế khoán điểm cố định: 83.098.300 đồng, thuế lượng hàng chuyển bán ngoài tỉnh là 370.201.200 đồng; tổng số thuế đã thu cho ngân sách là 753.765.000 đồng. Với tỷ lệ điều tiết là 4,25% của cả ba hình thức kinh doanh thì ngành thuế đã quản lý được doanh thu 17,777.485 tỷ đồng, nhưng trên thực tế doanh số cao hơn. Các số liệu trong báo cáo của Chi cục thuế cho thấy: hiện có 190 cơ sở hoạt động, nhưng trên thực tế con số này lớn hơn nhiều vì nhiều doanh nghiệp không đăng ký, nghĩa là thất thu cả về số hộ cả về doanh số. Từ khi thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (01/01/1999) hàng chục doanh nghiệp tư nhân xin giải thể, nhưng lại biến tướng hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT để lẩn tránh thuế. Trong lĩnh vực chế biến hải sản, chủ yếu là sơ chế, tiêu thụ trong nước là chính, thì điểm nổi bật là chưa xác định được đầy đủ nguồn nguyên liệu mua vào, tỷ lệ hao hụt trong quá trình sơ chế và số lượng bán thành phẩm bán ra, do chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, ghi chép sổ sách tại cơ sở, nên việc quy định nghĩa vụ mang tính chất ước lượng bình quân. Do đó, các cơ sở chế biến thường tìm cách luồn lách, gian lận thuế. Theo số liệu của Chi cục thuế thì mới chỉ quản lý được 80% doanh số mua vào, bán ra. Nhà nước cũng thất thu trong lĩnh vực đóng tàu, sửa chữa tàu thuyền, theo báo cáo liên ngành Thuế - Thủy sản, thì mới chỉ quản lý được khoảng 26%. Việc tổ chức quản lý chất lượng hàng thủy sản của kinh tế tư nhân chưa chặt chẽ, chưa ngăn chặn được việc tiêu thụ thủy sản kém phẩm chất. Thậm chí có một số cơ sở vì chạy theo lợi nhuận đã không ngần ngại độn cả tạp chất vào nguyên liệu thủy sản. Điều này đã vi phạm quy chế vệ sinh, an toàn thực phẩm, không những làm hại sức khỏe người tiêu dùng mà còn làm mất uy tín hàng xuất khẩu của ta trên thị trường thế giới. 2.2.2. Quyền lợi của người lao động trong kinh tế tư nhân ở lĩnh vực thủy sản chưa được đảm bảo Các quyền lợi chính đáng của người lao động như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ bảo đảm an toàn lao động vừa qua ít được chủ quan tâm mặc dù Nhà nước đã có quy định thành luật. Điều này dẫn đến một sự đau lòng là hàng trăm ngư dân bị thiệt mạng trong cơn bão số 5-1997 do không đủ phao cứu sinh trên tàu đánh cá. Đó là trách nhiệm trước hết thuộc về người sử dụng lao động nhưng cũng phải thấy rằng đó còn là trách nhiệm của những ngành chức năng thiếu kiểm tra, kiểm soát an toàn lao động cho nghề cá cũng như thực hiện các chính sách do Nhà nước ban hành để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Mặt khác, người lao động trong lĩnh vực khai thác thủy sản còn chịu sự bóc lột qua cách ăn chia. Hiện nay ở Kiên Giang, tỷ lệ ăn chia phổ biến là 6/4 hoặc 5/5 sau khi trừ chi phí kể cả chi phí lên đá, khấu hao hàng năm, còn lại chủ được 6 thợ được 4, trong đó phân chia theo tỷ lệ điểm từng người trên tàu, mà tài công và thợ máy, lưới trưởng được điểm cao nhất, nhưng phần lớn tài công và chủ tàu là một. Đồng thời chủ tàu còn là người cung cấp trực tiếp hậu cần cho từng chuyến biển, nên họ kê bao nhiêu người lao động biết bấy nhiêu. Sau mỗi chuyến biển về chủ tàu thông báo lại cho người lao động như thế nào thì họ biết như thế đó. Vậy là người lao động bị thiệt thòi nhiều đường, chỉ còn biết trông cậy vào tăng sản lượng khai thác, còn chủ tàu thì sản lượng cao hay thấp vẫn được lời. Trong lĩnh vực thương mại, chế biến thủy sản người lao động cũng chỉ biết nhận tiền công được trả theo sự thỏa thuận miệng giữa chủ và người lao động, không có hợp đồng lao động, nên giờ giấc, công việc tùy theo quyết định của chủ. Phần lớn người lao động trong nghề cá có trình độ học vấn thấp, lao động giản đơn là chủ yếu, do đó ít am hiểu về chính sách, pháp luật nên khó tự bảo vệ được lợi ích chính đáng của mình. Mặt khác do sức ép cung về lao động phổ thông hiện nay quá lớn so với cầu, vấn đề tìm việc nuôi thân và gia đình cực kỳ khó khăn, nên dù người lao động có biết mình bị thiệt thòi cũng vẫn phải chấp nhận. Trong khi đó các ngành chức năng, các tổ chức công đoàn hầu như chưa với tới được và chưa có cách giải quyết hợp lý. Dần dần sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày một xa và tình trạng thiệt thòi của người lao động ngày một nhiều, tạo nên hậu quả xã hội ngày càng nghiêm trọng. 2.2.3. Công tác quản lý vệ sinh môi trường chưa đạt yêu cầu đặt ra Đây cũng là vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm vì việc xử lý vệ sinh môi trường không tốt ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng dân cư. Hiện nay việc xử lý chất thải khí, lỏng, rắn, tiếng động, chưa được tốt, đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường rất lớn, nhất là các cơ sở chế biến thủy sản, nguyên liệu mau ươn, chống thối, mặc dù vừa qua các ngành chức năng đã rất cố gắng trong quản lý vệ sinh môi trường nhưng ô nhiễm không giảm mà thậm chí còn tăng lên. 2.2.4. Việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến chưa đầy đủ và đều đặn Do việc cung ứng nguyên liệu chưa đầy đủ và đều đặn nên chưa tận dụng được công suất máy móc, thiết bị để hạ giá thành sản phẩm, không tạo được việc làm thường xuyên cho công nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động khai thác và nuôi trồng còn thiếu sót, khó khăn. Vẫn còn những kiểu khai thác mang tính chất hủy diệt nguồn thủy sản, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, số tàu công suất nhỏ còn nhiều, khai thác vẫn tập trung gần bờ là chủ yếu. Hoạt động nuôi trồng thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, mang nặng tính tự phát, nên tốc độ phát triển chậm so với các tỉnh lân cận, chủ yếu là kinh tế hộ. 2.2.5. Vấn đề đào tạo, nâng cao kiến thức cho người lao động trong ngành thủy sản Kiên Giang còn nhiều hạn chế Về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật: Vừa qua Sở thủy sản và các ngành chức năng của Kiên Giang đã có nhiều cố gắng trong việc tuyên truyền phổ biến mọi chủ trương, chính sách có liên quan đến ngành nhằm nâng cao sự hiểu biết của ngư dân, về pháp luật tránh những sai phạm. Song nhìn chung hiện nay các hành vi vi phạm của kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực của ngành thủy sản còn khá gay gắt, phổ biến nhất là hành vi vi phạm về bảo vệ nông lâm thủy sản như sử dụng kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định, vi phạm vùng cấm, vi phạm đăng ký, đăng kiểm, sử dụng chất nổ trong khai thác thủy sản. Thí dụ năm 1998 kiểm tra 3.133 lượt phương tiện thì xử lý 879, hay 6 tháng đầu năm 1999 kiểm tra 505 lượt phương tiện trong đó xử lý 437 chiếc. Năm 1998 tổ chức 10 cuộc kiểm tra có 82 cơ sở vi phạm thủ tục đăng ký kinh doanh, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1999 phát hiện 271 trường hợp vi phạm. Nhìn chung, ý thức chấp hành các quy định về bảo vệ nông, lâm thủy sản của ngư dân còn nhiều hạn chế. Về thông tin tư vấn: Hiện nay một trong những vấn đề khó khăn của kinh tế tư nhân là tình trạng thiếu thông tin tư vấn. Ngành thủy sản Kiên Giang là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhưng lại đang đi thông tin. Vừa qua trung tâm khuyến ngư của tỉnh đã xây dựng được chuyên mục thủy sản trên sóng phát thanh truyền hình tỉnh, đã phản ánh kịp thời các hoạt động của ngành thủy sản trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến và bảo vệ nguồn lợi, khoa học - công nghệ, môi trường đối với bà con ngư dân. Nhưng chuyên mục thủy sản được phát sóng truyền thanh, truyền hình và một vài bài đăng trên báo địa phương với thời lượng ngắn, nội dung hạn hẹp, không đủ để chuyển tải kịp thời lượng thông tin tư vấn, nhất là còn nặng về lý thuyết, đề tài chưa phong phú, nghiên cứu thực tiễn quá ít, vì vậy sức thuyết phục chưa cao. Phần lớn hoạt động của các cơ sở kinh tế tư nhân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm để phát triển, vì thế nhiều nguồn lực kinh tế thủy sản của tỉnh chưa được khai thác đầy đủ có hiệu quả. Về khoa học - công nghệ: Nhìn chung, Trung tâm khuyến ngư đã có nhiều cố gắng trong công tác tập huấn chuyển giao công nghệ đến ngư dân. Chỉ hơn hai năm, 1997- 1998 và 6 tháng đầu năm 1999, đã mở được 77 lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cá nước ngọt, nuôi tôm nước lợ, cho hơn 5.950 lượt người tham gia, chủ yếu ở các huyện An Biên, An Minh, Giồng Riềng, Phú Quốc, Hòn Đất, Châu Thành, thị xã Rạch Giá, giúp bà con nắm bắt những phương pháp kỹ thuật nuôi thủy sản, cách phòng tránh bệnh nuôi tôm, cá nhưng cũng ở góc độ là chuyển giao về mặt lý thuyết. Ngành cũng kết hợp với Công ty Sao Biển tổ chức hội thảo về máy thủy trong lĩnh vực khai thác với hơn 90 người tham dự, phục vụ cho chương trình đánh cá xa bờ và đã mở lớp tập huấn kỹ thuật khai thác cho 69 ngư dân. Bên cạnh đó ngành cũng đã xây dựng nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản thí điểm và các chương trình khuyến ngư, như mô hình nuôi tôm, nuôi nghêu, nhưng kết quả thu hoạch không đáng kể, thậm chí có công trình không thu hồi được vốn đầu tư, các chương trình ươm tôm giống, sản xuất cá giống (cá sặc rằng) phát triển khá tốt. Tuy nhiên, hoạt động khuyến ngư còn yếu, chưa toàn diện, các bài giảng trong tập huấn còn nghèo nàn và nặng về lý thuyết, thiếu các mô hình chuẩn, các chương trình thiết thực, lĩnh vực nghiên cứu khuyến ngư còn nghèo, cả về nội dung lẫn hình thức. Đôi lúc còn đi sau ngư dân trong thực tiễn về chế biến khai thác, nuôi trồng nên chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của bà con ngư dân.Vì vậy, công tác tập huấn, chuyển giao công nghệ thuộc các chương trình khuyến ngư hiệu quả còn thấp, nuôi trồng phát triển chậm và chưa thật sự vững chắc. Có thể nói, trong thời gian qua công tác khuyến ngư chưa thật sự đi vào cuộc sống của bà con ngư dân. Kết luận chương 2 Kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang gồm nhiều hình thức đa dạng trong tất cả các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần, thương mại. Kinh tế tư nhân đã đóng góp đáng kể vào thành tựu phát triển của ngành này cả về tăng sản lượng, tạo việc làm, nộp ngân sách, cải thiện đời sống ngư dân... Tuy nhiên, kinh tế tư nhân cũng có nhiều mặt hạn chế, như khai thác ven bờ vượt quá sản lượng cho phép; nuôi trồng còn phân tán, manh mún, thủ công; chế biến quy mô còn nhỏ và gây ô nhiễm môi trường; trong thương mại còn hiện tượng tranh mua, tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh; cơ chế, chính sách của Nhà nước với kinh tế tư nhân còn những điểm chưa phù hợp; quản lý của Nhà nước trong một số lĩnh vực còn lỏng lẻo, nhất là thất thu thuế; việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, việc cung cấp thông tin và chuyển giao công nghệ cho ngư dân còn nhiều hạn chế, nói một cách khác, công tác khuyến ngư chưa thật sự đi vào cuộc sống của ngư dân. Chương 3 Những giải pháp chủ yếu để phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang Chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ngày càng hoàn thiện, ổn định, đã tạo hành lang pháp lý và tâm lý an tâm cho ngư dân thúc đẩy nghề cá phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản sẽ tăng đầu tư, ngày càng tăng về số lượng và mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Xu hướng này là tất yếu vì: Thứ nhất: trong nền kinh tế thị trường không cần thiết duy trì tỷ trọng lớn của kinh tế Nhà nước, kinh tế nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định nào đó, ở những lĩnh vực cần thiết, thuộc huyết mạch của nền kinh tế để đủ sức giữ vai trò chủ đạo và định hướng các loại hình kinh tế khác và đảm bảo an ninh quốc phòng. Thực tiễn ở nước ta và các nước khác cho thấy nhiều cơ sở kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả vì không có người chịu trách nhiệm đích thực và thiếu khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh của thị trường. Hiện nay, Nhà nước ta cũng đang chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước thông qua cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê hoặc giải thể những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài. Thứ hai: phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo thêm nhiều việc làm, tận dụng nguồn lao động dồi dào; giảm thất nghiệp, giảm đói nghèo và tạo nguồn thu cho ngân sách. Phương hướng chung: phát triển kinh tế thủy sản ở Kiên Giang trong những năm tới là: tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển toàn diện, đồng bộ, tận dụng tối đa điều kiện sinh thái đặc thù về cả khai thác, nuôi trồng, chế biến, thương mại và dịch vụ hậu cần, gắn với bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển. Đi đôi với đẩy mạnh khai thác, từng bước đưa ngành nuôi trồng thủy sản trở thành ngành sản xuất chính. Theo hướng đó, trong thời gian tới kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang sẽ phát huy năng lực trên tất cả các lĩnh vực nói trên không hạn chế về số lượng và quy mô, được khuyến khích làm giàu chính đáng, động viên tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước hạn chế sự bóc lột dẫn đến bần cùng hóa người lao động, tiến theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, cần thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau đây: 3.1. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang Đăng ký kinh doanh Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty đã được Nhà nước ban hành tháng 12/1990 và có hiệu lực từ tháng 4/1991, Nghị định 66/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng có hiệu lực từ 2/3/1992, kèm theo đó có các Nghị định, các Thông tư của các Bộ, Ngành liên quan hướng dẫn thực hiện việc quản lý về đăng ký kinh doanh đối với loại hình kinh tế tư nhân. Đối với ngành thủy sản theo Nghị định số 26 của Chính phủ ban hành ngày 7/5/1998 thì vốn pháp định của loại hình doanh nghiệp tư nhân là 150 triệu đồng, công ty trách nhiệm hữu hạn là 300 triệu đồng, công ty cổ phần là 300 triệu đồng Việt Nam. Thông tư 05 của liên bộ (Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tư pháp ngày 10/7/1998) quy định về trình tự và thủ tục đăng ký của doanh nghiệp, đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế kinh doanh. Tuy vậy trong ngành thủy sản Kiên Giang hiện nay vẫn còn khoảng 30% cơ sở chưa đăng ký kinh doanh theo luật định, một phần do sự thiếu hiểu biết của người kinh doanh, một phần do các bước tiến hành để hoàn thành thủ tục được cấp giấy phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh còn lắm khâu nhiều cửa (nhất là khâu thẩm định vốn, chứng nhận vốn doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực khai thác thủy sản). Vì vậy, để khuyến khích tự nguyện đăng ký kinh doanh và quản lý tốt thì nên thống nhất cấp giấy phép thành lập các loại hình doanh nghiệp và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh làm một (chỉ cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh). Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra nhằm thực hiện tốt hơn việc quản lý đăng ký kinh doanh đối với mọi đơn vị kinh tế tư nhân. Thống kê, kế toán Công tác thống kê, kế toán của các đơn vị kinh tế tư nhân hoạt động trong ngành thủy sản là một bài toán có quá nhiều ẩn số mà cho đến nay mặc dù có sự phối hợp của các ngành chức năng cùng tham gia quản lý nhưng vẫn chưa tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Do đó phải tiến hành từng bước cho họ làm quen dần với chế độ thống kê, kế toán mà Nhà nước quy định; phải hướng dẫn họ, tập hợp các chi phí hàng tháng hợp lý, hợp pháp (có hóa đơn, chứng từ) kết hợp với sổ nhật ký sản lượng, sổ theo dõi bán hàng và khi đã đủ điều kiện thì bắt buộc họ phải áp dụng chế độ thống kê, kế toán. Cơ quan quản lý nên chọn một vài doanh nghiệp hay lĩnh vực nào đó trong nghề cá và quy định thời gian làm thí điểm, rồi tiến đến việc thống nhất quản lý theo chế độ thống kê, kế toán theo pháp lệnh, làm cơ sở để tính thuế. Quản lý thuế Với kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản đến thời điểm hiện nay chủ yếu là áp dụng hình thức thu thuế khoán, và thất thu còn nhiều. Để chống thất thu thuế, xây dựng một môi trường phát triển nền kinh tế thị trường lành mạnh có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy đồng bộ hai chức năng của ngành thuế thì phải thực hiện chế độ kế toán, hạch toán theo pháp lệnh thống kê, kế toán quy định hiện hành. - Trong lĩnh vực khai thác, trong trường hợp chưa thể áp dụng chế độ thống kê, kế toán như trong khâu khai thác thủy sản thì ngoài việc ban hành định mức sản lượng chuẩn ổn định 3 năm phải điều chỉnh giá tính thuế kịp thời cho sát hợp với giá cả thị trường từng thời điểm. Có thể xem xét áp dụng sổ “Nhật ký sản lượng” trên từng tàu nhằm theo dõi sản lượng khai thác, cơ cấu sản lượng để từ đó có cơ sở xây dựng sản lượng chuẩn cho từng nghề, từng loại công suất máy tốt hơn, cũng như giúp cho việc nắm được doanh thu, sản lượng thật của lĩnh vực khai thác. - Trong khâu dịch vụ nghề cá, hướng dẫn cho các chủ tàu tập hợp các chi phí hợp lý, hợp lệ (hóa đơn, chứng từ) gửi về cơ quan thuế hàng tháng để làm cơ sở kiểm tra chéo các đối tượng kinh doanh trong từng lĩnh vực dịch vụ (trước mắt là mặt hàng xăng, dầu, nước đá). Trên cơ sở đó giúp các đối tượng nộp thuế làm quen với chế độ thống kê, kế toán theo quy định, tạo sự công bằng hợp lý trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Mặt khác, cần đối chiếu số lượng tàu giữa ngành thuế quản lý và đăng kiểm để tìm ra những tàu thuyền trên từng huyện, thị chưa đăng ký, kê khai nộp thuế theo luật định. Thường xuyên kết hợp với ngành thủy sản, kiểm ngư để kiểm tra việc chấp hành nộp thuế thông qua công tác đăng kiểm hàng tháng, quý, năm. - Trong khâu thu mua chế biến: (mua nguyên liệu bán thành phẩm) cần thống kê số lượng hộ mua và sơ chế mặt hàng hải sản, từ đó tiến hành phân loại để có cách thu thuế cho phù hợp. Nhất thiết phải bắt buộc các cơ sở thực hiện chế độ thống kê, kế toán như: thống kê nguyên liệu mua vào (số lượng doanh số mua vào...), ghi chép chi phí trong quá trình chế biến (điện nước, tỷ lệ hao hụt...), doanh thu bán ra cho từng kỳ... từ đó có căn cứ huy động nguồn thu từng tháng, quý, năm của các đơn vị, cá nhân tốt hơn, tiến đến thực hiện chế độ kế toán, hạch toán hoàn chỉnh, ổn định. Xem xét xây dựng định mức tiêu hao nguyên liệu trong quá trình chế biến của từng mặt hàng áp dụng phạm vi cả tỉnh (nếu là cơ sở thực hiện thuế khoán). - Trong khâu dịch vụ sửa chữa đóng tàu thuyền: Tổ chức điều tra phân loại số lượng đối tượng, hành nghề đóng mới, sửa chữa tàu thuyền trên phạm vi cả tỉnh nhằm bắt buộc thực hiện chế độ kế toán thống kê theo quy định. Điều tra khảo sát, lập định mức chung để tổ chức quản lý nguồn thu đối với trường hợp đóng mới tàu thuyền truyền thống mà tỉnh đang áp dụng (áp dụng cho những cơ sở không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán). Cán bộ nghiệp vụ ngành kiểm tra, giám sát, hướng dẫn hai bên (chủ ụ tàu và chủ phương tiện) lập hợp đồng dân sự cụ thể đóng mới hay gia công sửa chữa... trên cơ sở đó, ngành thuế nắm danh sách theo từng tháng, quí làm cơ sở cho việc xem xét doanh số hoạt động của các cơ sở đóng tàu để có mức thu sát hợp thực tế hơn, đồng thời cũng giúp ngành thuế kiểm soát số phương tiện mới đi vào hoạt động. Các cơ sở vừa đóng mới vừa sửa chữa tàu thuyền, nhưng hiện nay đều quản lý thuế khoán không tách biệt rõ hai khâu. Có nhiều trường hợp chủ ụ tàu bao thầu hết nguyên vật liệu đầu vào nhưng chỉ đóng thuế theo dạng gia công. Vì vậy, đối với những trường hợp chủ cơ sở gia công lấy tiền công thì chủ đầu tư (chủ tàu) phải có các giấy tờ chứng minh nguồn gốc gỗ của mình mua. Trường hợp chủ ụ tàu bao trọn gói thì hóa đơn cũng phải thể hiện rõ toàn bộ giá thành theo hóa đơn đã lập trước đó. - Trong lĩnh vực thương mại: Cần thống kê nắm lại các đối tượng kinh doanh thủy sản (dạng buôn chuyến cố định và cả vừa cố định vừa buôn chuyến) để quản lý thu, tránh thất thu về số hộ. Cán bộ thuế phối hợp với ngành thủy sản kiểm tra chặt chẽ các điểm lên xuống hàng tại các bến cảng, bến tàu, mua bán trên biển và xử lý nghiêm minh các đối tượng lên hàng thủy sản không đúng bến, không đúng cảng cá quy định. Cần tăng cường kiểm tra các hoạt động mua bán thủy sản trên một số địa bàn và khu vực trọng điểm của tỉnh, bắt buộc thực hiện chế độ thống kê, kế toán đối với một số doanh nghiệp có quy mô hoạt động kinh doanh lớn. Kết hợp chặt chẽ với quản lý thị trường tăng cường kiểm tra kiểm soát một số điểm tập kết hàng chuẩn bị vận chuyển đi nơi khác, ngăn chặn kịp thời hiện tượng lậu trốn thuế, tích cực tăng cường các biện pháp quản lý thuế tại gốc. Qua các phương tiện thông tin đại chúng mở rộng chuyên mục thuế, nêu gương những cơ sở cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh lành mạnh, có trách nhiệm, ý thức trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, có nhiều hình thức khen thưởng cho các cơ sở làm tốt và phạt nặng đối với những cơ sở trốn lậu thuế, luồn lách trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Ngành thuế cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở mới phát sinh đăng ký, kê khai kịp thời, kết hợp chặt chẽ với lực lượng biên phòng, quản lý thị trường, các cơ quan hải sản ở địa phương. Khoa học công nghệ và môi trường Trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường, các chương trình về khoa học công nghệ và môi trường đối với khu vực kinh tế tư nhân, để quản lý về mặt Nhà nước chặt chẽ hơn, ngành thủy sản cần phải: - Quy định loại công nghệ theo chiến lược phát triển kinh tế của ngành thủy sản trong từng thời kỳ. Mục tiêu đề ra cho năm 2000 là chủ động sản xuất giống các loại tôm, cá có giá trị kinh tế cao, phục vụ cho nghề nuôi tôm nước lợ, nuôi cá lồng bè và các loại hình nuôi thủy sản khác, trước mắt cần sớm đưa vào sản xuất theo các quy trình công nghệ của các trường, viện và từ các đề tài nghiên cứu thực nghiệm tại chỗ [37, 86]. - Quy định cụ thể về thẩm định dự án khi chuyển giao công nghệ từ nước ngoài về. Để quản lý về môi trường, tỉnh quy hoạch cụ thể khu vực được và không được phép xây dựng các cơ sở sản xuất. Việc xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh có ảnh hưởng đến môi trường phải được cơ quan quản lý môi trường xem xét, chấp nhận, chấm dứt tình trạng làm xong mới xin giấy phép. 3.2. Coi trọng đầu tư phát triển nghề cá Để phát triển thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải tranh thủ huy động tối đa mọi nguồn vốn để đầu tư vào các lĩnh vực của nghề cá. Những năm trước đây, do thiếu vốn nên các công trình xây dựng không đồng bộ, chậm đổi mới, mua sắm phần lớn là tàu công suất nhỏ, không có khả năng khai thác xa bờ. Kết cấu hạ tầng mang tính chất chắp vá, chưa tương xứng với yêu cầu sản xuất ngày càng tăng, nên chưa tận dụng được các nguồn lực của tỉnh trong ngành thủy sản. Đã khắc phục tình trạng trên cần chú trọng các lĩnh vực như sau: Trước hết phải đầu tư phát triển mạnh phương tiện có công suất lớn, tổ chức đánh bắt xa bờ, xa đảo, từng bước mở rộng ngư trường về biển Đông và Trường Sa để nâng cao hiệu quả khai thác, đảm bảo giá trị kinh tế, gắn khai thác với bảo vệ nguồn lợi, góp phần bảo vệ an ninh vùng biển. Đầu tư cho chế biến thủy sản là một trong 3 chương trình kinh tế lớn của ngành hiện nay. Cần khuyến khích ngư dân đầu tư mới để ứng dụng quy trình công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo yêu cầu ngày càng cao và tăng nhanh giá trị kim ngạch xuất khẩu. Đầu tư cho nuôi trồng thủy sản: Những năm qua, ngành nuôi trồng thủy sản Kiên Giang đã đạt những kết quả đáng kể nhưng so với tiềm năng tự nhiên còn rất nhiều hạn chế và chưa trở thành ngành sản xuất chính. Nguyên nhân chủ yếu là bà con ngư dân thiếu vốn và chưa nắm vững kỹ thuật nuôi, chưa chủ động được con giống và thức ăn, còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên chưa phòng ngừa được dịch bệnh, nên năng suất còn thấp. Dự kiến trong kế hoạch 2001 - 2010, số vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản là 260 tỷ đồng, bình quân mỗi năm là 20 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho sản xuất giống và thức ăn là 15,6 tỷ đồng, ngân sách chiếm 5,82%, vốn vay chiếm 66,61%, vốn tự có chiếm 27,57% [35, 85]. Thực hiện kế hoạch trên từng bước chuyển nuôi trồng thủy sản trở thành ngành sản xuất chính, đi vào sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu cho chế biến và nhu cầu của thị trường ngày càng cao. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để đáp ứng yêu cầu khai thác, chế biến, nuôi trồng thủy sản, bao gồm các cảng cá, bến cá, các cơ sở dịch vụ hậu cần cho nghề cá. Trước mắt cần tập trung xây dựng một số công trình chính trọng điểm như các cảng cá: Tắc Cậu, An Thới, Nam Du, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, tàu kiểm ngư, dự kiến tổng số vốn đầu tư là 315,066 tỷ đồng. Ngoài những công trình trên, Nhà nước cho ngư dân vay vốn để đóng tàu lớn đánh bắt xa bờ, có chính sách ưu đãi và chỉ cho phép đóng mới tàu cá có công suất được lắp đặt từ 45CV trở lên, nâng cấp các phương tiện cũ để đặt máy có công suất cao, đồng thời chuyển dần những ngư dân không có khả năng đánh bắt xa bờ sang nuôi trồng hải sản và Nhà nước hỗ trợ vốn bằng tín dụng ưu đãi. Xây dựng hoàn chỉnh đề án tổ chức đội tàu khai thác của tỉnh với quy mô 188 chiếc có công suất 60 CV - 550 CV, dự kiến tổng đầu tư cho nghề cá nhân dân trong 10 năm (2001 - 2010) là 981 tỷ đồng. Tỉnh đề nghị Trung ương đầu tư xây dựng khu trú bão cho tàu khai thác xa bờ giúp bà con ngư dân thêm an tâm bám biển. 3.3. Quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong cộng đồng dân cư là một tất yếu khách quan, nhưng vẫn phải quan tâm giải quyết những sự bất hợp lý trong tỷ lệ ăn chia giữa người lao động với chủ, đặc biệt là ở lĩnh vực khai thác thủy sản. Để hạn chế sự bất bình đẳng và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân, Nhà nước cần phải có sự quản lý ngày càng chặt chẽ hơn. Phải nghiên cứu đề xuất chính sách phân phối hợp lý trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản, thiết lập một cách ăn chia mới. Đây là một việc làm rất khó khăn và phức tạp, bởi lẽ cách ăn chia cũ đã tồn tại hàng chục năm và điều quan trọng là nhu cầu việc làm của lao động phổ thông còn quá lớn. Giải quyết việc này là cả một quá trình xem xét, tính toán kỹ lưỡng trên nhiều khía cạnh khác nhau để đạt mục đích, vừa giải quyết việc làm, vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động và người sử dụng lao động. Để hạn chế đến mức thấp nhất sự bất công trong phân phối, Nhà nước nên quy định mức lương tối thiểu cho người lao động hàng tháng mà người sử dụng lao động phải trả. Đồng thời quy định người sử dụng lao động cũng phải thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc và đảm bảo an toàn cho người lao động, nhất là người lao động trên biển. An toàn lao động phải bao gm an toàn về tính mạng, phương tiện và các cơ sở vật chất khác. Vùng biển Tây Nam Bộ được xác định là một ngư trường trọng điểm của cả nước. Hàng năm có hàng chục ngàn tàu thuyền của Kiên Giang và các địa phương khác đến hoạt động. Trong khi đó, thời tiết, khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, vùng khơi thường xảy ra áp thấp nhiệt đới, gió bão thất thường đe dọa đến tính mạng, tài sản của người sản xuất trên biển. Do đó cần phải có các biện pháp đảm bảo an toàn cho người lao động, việc bảo đảm an toàn, giảm thiểu những thiệt hại do bão gây ra phụ thuộc nhiều khâu: khả năng dự báo, mạng lưới thông tin liên lạc, hướng dẫn phòng tránh, xây dựng những cơ sở hậu cần, bến bãi né tránh bão, phương tiện cứu nạn, tổ chức quản lý chặt chẽ các hoạt động trên biển... Vì vậy để hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do gió bão gây ra buộc các chủ phương tiện phải trang bị đầy đủ phao và phương tiện cứu sinh cho người lao động trên tàu. Mặt khác, Nhà nước cũng phải gấp rút thực hiện dự án xây dựng khu trú bão an toàn cho tàu đánh bắt xa bờ để giúp bà con ngư dân an tâm bám biển, tăng cường khả năng dự báo bão chính xác và tăng cường kiểm tra các tàu thuyền trước khi ra khơi. Đó là những yêu cầu cấp bách và hết sức cần thiết để đảm bảo an toàn trên biển và hạn chế thiệt hại do gió bão gây ra. Chính quyền địa phương phải hướng dẫn, kiểm tra việc thực thi các văn bản pháp luật về bảo hộ lao động, vệ sinh an toàn lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động, ký kết hợp đồng lao động... Như vậy, sẽ làm lành mạnh hóa quan hệ phân phối cũng như chính sách xã hội đối với người lao động trong nghề cá ở Kiên Giang. 3.4. Tổ chức lại sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang Nuôi trồng và khai thác thủy sản là hai ngành quan trọng cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thủy sản và hàng hóa cho thị trường. Trong tương lai nuôi trồng thủy sản sẽ đóng vai trò chủ yếu. Do đó, trên cơ sở điều kiện tự nhiên của từng vùng, từng khu vực cần bố trí tổ chức sản xuất của ngành nuôi trồng và khai thác một cách hài hòa nhằm phục hồi khả năng sinh trưởng của nguồn lợi thủy sản, đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội nói chung. Hiện nay chưa thiết lập được trật tự trong việc đánh bắt thủy sản, và còn tình trạng mất cân đối giữa nuôi trồng và khai thác. Do đó, việc tổ chức lại sản xuất là vấn đề cấp thiết đặt ra cho ngành thủy sản Kiên Giang.  Để giải quyết tốt vấn đề trên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nông lâm - thủy lợi, kinh tế ven biển, hải đảo và một chính sách đầu tư thích đáng. Nhà nước có thể giao diện tích mặt nước ven biển cho các đơn vị kinh tế tư nhân sử dụng, đầu tư vào nuôi trồng có thời hạn như chính sách giao đất, giao rừng.  Khai thác thủy sản: Đây là ngành sản xuất vật chất cơ bản của nghề cá, có vị trí quan trọng trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu cho chế biến, nó có nhiệm vụ cắt đứt mối quan hệ giữa các tài nguyên thủy sản khỏi môi trường tự nhiên để tạo ra hàng hóa cho tiêu dùng, chế biến xuất khẩu. Đồng thời, khai thác thủy sản cũng gắn liền với đời sống và việc làm của hàng triệu ngư dân vùng ven biển và hải đảo. Do đó, phát triển khu vực khai thác thủy sản phải gắn với vấn đề giải quyết việc làm và bảo đảm an ninh quốc phòng.  Trong những năm qua, khai thác thủy sản đã vượt quá trữ lượng cho phép, nhưng đặc thù của nguyên liệu thủy sản là khả năng phục hồi tự nhiên của các loại động, thực vật thủy sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan của con người trong việc khai thác và bảo vệ chúng. Từ đó, việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản là một trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu thủy sản; cho phép tạo ra khả năng khai thác vô tận để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Ngoài ra, việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản còn có tác dụng tích cực góp phần vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản cần chấm dứt việc tự do mở rộng năng lực đánh bắt mà không theo quy hoạch các dự án đã được xem xét kỹ. Thực hiện nghiêm quy hoạch của tỉnh [35, 92], không cho phép phát triển thêm, đồng thời từng bước giảm dần số lượng phương tiện có công suất dưới 45 CV. Thời kỳ 2000 - 2005 không cho đăng ký nghề cào máy dưới 90 CV, cấm hẳn nghề cào máy dưới 20 CV hoạt động, giữ nguyên hiện trạng nghề cào máy từ 20 CV - 90 CV, chỉ cho đăng ký mới nghề cào và vây công suất máy từ 90 CV trở lên, nghề câu công suất máy từ 60 CV trở lên. Thời kỳ 2005 - 2010, hạn chế phát triển thêm nghề cào, các nghề khai thác có tính chọn lọc, chỉ cho đăng ký mới máy từ 90CV trở lên. Giảm dần số lượng tàu khai thác vùng ven biển và thực hiện triệt để chỉ thị cấm cào bờ, xiệp mé, dù đây là nghề truyền thống của ngư dân địa phương vì nó ảnh hưởng đến nguồn lợi tôm vùng biển, hạn chế các nghề đáy sông, đăng mé, các nghề kết hợp ánh sáng, họ lưới rê, nghề câu. Thực hiện quy định kích thước mắt lưới để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, từng bước giảm dần tỷ lệ tôm, cá, mực con trong các mẻ lưới. Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản giai đoạn 2001- 2010 của tỉnh, quy định kích thước mắt lưới các nghề như sau: Bảng số 9: Quy định kích thước mắt lưới tại các mốc thời kỳ Đơn vị tính: mm Danh mục 1995- 2000 2001- 2005 2006- 2010 Cào tôm, cá (mắt lưới ở đụt cào) + Tàu có công suất máy < 100 cv + Tàu có công suất máy (100 cv 20 30 28 34 34 40 Lưới vây (trừ vây cá cơm) và các nghề kết hợp AS 18 18 18 Lưới vây cá cơm (mắt lưới phần từng lưới) 10 10 10 Các loại đăng 20 20 20 Đáy biển hàng cạn, đáy cửa sông, te, xiệp (mắt lưới phần đụt) 18 18 18 Lưới rê cá trích 28 28 28 Lưới rê thu 90 90 90 Lưới rê tôm (lớp giữa) 44 44 44 (Nguồn: Quy hoạch tổng thể ngành thủy sản Kiên Giang đến năm 2010). Nghiêm cấm khai thác các bãi sinh sản, các loài hải sản chưa đến tuổi khai thác và quy định khai thác theo mùa. Đây cũng là những biện pháp áp dụng để bảo vệ nguồn lợi ở thời kỳ quan trọng của chu kỳ sống của thủy sản như thời gian chúng đẻ trứng, cá chưa trưởng thành. ở ngư trường Kiên Giang thường vào tháng 4 đến tháng 7 hàng năm là tôm, cá đẻ rộ nhất và thường đẻ ở vùng từ 10 mét nước vào bờ, các bãi san hô, thảm thực vật, đá ngầm. Trong khoảng thời gian này nên cấm khai thác vùng chúng sinh sản. Để đảm bảo đời sống ổn định cho nhân dân vùng ven biển và huyện đảo, ngành có quy định mốc thời gian các vùng cấm như sau: - Vùng cấm quanh năm (đối với tất cả các nghề): từ bờ ra đến độ sâu 1 mét nước và quanh các đảo từ bờ đảo ra 1 hải lý. - Vùng cấm các nghề sát hại nhiều tôm, cá, mực con như xiệp, cào.. từ 1 mét nước đến 5 mét nước. - Vùng biển cần chú trọng bảo vệ là khu vực ven bờ có độ sâu nhỏ hơn 30 mét nước. Vì đây là các bãi đẻ của cá, bãi giao vĩ của tôm và là nơi sinh sống của các loài hải sản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang 2.pdf
Tài liệu liên quan