Tài liệu Luận văn Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang: LUẬN VĂN:
Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân
trong ngành thủy sản ở Kiên Giang
Mở Đầu
1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài
Kiên Giang có nhiều tiềm năng cho ngành thủy sản phát triển thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Hàng năm ngành này đã đóng góp vào GDP của Tỉnh một tỷ lệ khá lớn: năm
1994 là 12,53%, năm 1995 10,82%, năm 1996 là 9,69% và năm 1997 là 9,95% [1, 42].
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, những năm qua kinh tế tư
nhân phát triển khá mạnh, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành thủy sản ở
Kiên Giang. Kinh tế tư nhân có nhiều kinh nghiệm khai thác, chế biến thủy sản, có khả năng
thu hút vốn, công nghệ thông qua thân nhân ở nước ngoài. Mặt khác, kinh tế tư nhân rất linh
hoạt, nhạy bén với cơ chế thị trường, phù hợp với nghề cá nhân dân hiện nay. Doanh nghiệp
Nhà nước hoạt động trong ngành thủy sản ở Kiên Giang là những doanh nghiệp mạnh so với
các tỉnh trong cả nước, nhưng năm 1997 chỉ đóng góp vào GDP của tỉnh có 2,93%, tro...
71 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1028 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân
trong ngành thủy sản ở Kiên Giang
Mở Đầu
1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài
Kiên Giang có nhiều tiềm năng cho ngành thủy sản phát triển thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Hàng năm ngành này đã đóng góp vào GDP của Tỉnh một tỷ lệ khá lớn: năm
1994 là 12,53%, năm 1995 10,82%, năm 1996 là 9,69% và năm 1997 là 9,95% [1, 42].
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, những năm qua kinh tế tư
nhân phát triển khá mạnh, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành thủy sản ở
Kiên Giang. Kinh tế tư nhân có nhiều kinh nghiệm khai thác, chế biến thủy sản, có khả năng
thu hút vốn, công nghệ thông qua thân nhân ở nước ngoài. Mặt khác, kinh tế tư nhân rất linh
hoạt, nhạy bén với cơ chế thị trường, phù hợp với nghề cá nhân dân hiện nay. Doanh nghiệp
Nhà nước hoạt động trong ngành thủy sản ở Kiên Giang là những doanh nghiệp mạnh so với
các tỉnh trong cả nước, nhưng năm 1997 chỉ đóng góp vào GDP của tỉnh có 2,93%, trong khi
đó kinh tế tư nhân đóng góp 9,95% [1, 46]. Tuy vậy, do ảnh hưởng của tư duy cũ nên trong
nhận thức một số cán bộ còn xem nhẹ vai trò kinh tế tư nhân, thậm chí còn những ý kiến trái
ngược nhau. Trong cơ chế, chính sách còn những mặt bất cập, thiếu đồng bộ, vì thế kinh tế tư
nhân chưa phát huy hết vai trò của nó. Đã đến lúc cần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về
kinh tế tư nhân để nhằm hoạch định chính sách phù hợp, phát huy năng lực của nó trong phát
triển ngành thủy sản ở Kiên Giang.
Chính vì vậy, “Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở
Kiên Giang" được chọn làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế.
2. Tình Hình NGHIÊN Cứu Đề Tài
Nhìn một cách khái quát, phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta được nhiều nhà khoa học quan tâm, đã có nhiều bài viết đăng tải
trên nhiều tạp chí, sách, báo. Các văn kiện của Đảng, Nhà nước nói đến rất nhiều trong
đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng tất cả đều nghiên cứu ở góc độ phát
huy năng lực của kinh tế tư nhân trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung.
Trong ngành thủy sản, đã có luận án TS của Nguyễn Thị Hồng Minh về đề tài:
“Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp chế biến thủy sản xuất
khẩu”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. Trong luận án này có đề cập
đến thành phần kinh tế tư nhân, nhưng chỉ đi sâu phân tích thành phần kinh tế này trong
lĩnh vực chế biến thủy sản xuất khẩu, chứ chưa nghiên cứu nó trong các lĩnh vực khác
của nghề cá.
Ngoài ra, Bộ Thủy sản với sự trợ giúp của Đại sứ quán Vương quốc Đan Mạch tại
Hà Nội, cũng đã tiến hành một cuộc khảo sát về các ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên
sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam mà trọng tâm là sự ảnh hưởng của quá trình
đổi mới lên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong ngành thủy sản; và một số bài
viết của TS Tạ Quang Ngọc, TS Hồ Xuân Thông, TS Nguyễn Văn Kỷ... Nhưng những đề
tài và bài viết này chỉ nghiên cứu năng lực kinh tế tư nhân nói chung đối với nghề cá Việt
Nam.
Việc nghiên cứu phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang
vẫn còn là mảnh đất trống, chưa có đề tài nào nghiên cứu.
3. Mục Đích Nhiệm Vụ Và Giới Hạn Của Luận VĂN
3.1. Mục đích, nhiệm vụ
Luận văn nhằm mục đích: Khẳng định rõ hơn vai trò kinh tế tư nhân, làm luận cứ
khoa học cho việc đề xuất những phương hướng giải pháp phát huy năng lực của nó trong
phát triển ngành thủy sản ở tỉnh Kiên Giang.
Với mục đích đó đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vai trò kinh tế tư nhân trong ngành thủy
sản ở Kiên Giang
- Đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang trong quá
trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Tìm ra những vấn đề cần giải quyết để kinh tế tư nhân
phát huy năng lực của nó.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong
ngành thủy sản Kiên Giang.
3.2. Giới hạn của luận văn
Luận văn lấy đối tượng là kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang từ năm
1996 đến nay chứ không nghiên cứu ở những ngành khác.
4. Những Đóng Góp Mới Về Mặt KHOA Học Của Luận VĂN
Luận văn vận dụng những lý luận chung vào việc giải quyết một vấn đề cụ thể,
một lĩnh vực và địa bàn cụ thể là làm rõ vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong phát
triển ngành thủy sản ở Kiên Giang.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp để phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong
phát triển ngành thủy sản ở Kiên Giang.
5. CƠ Sở Lý Luận Và PHƯƠNG Pháp NGHIÊN Cứu
Luận văn dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; đường
lối, quan điểm cùng những tổng kết kinh nghiệm của Đảng về chính sách kinh tế nhiều
thành phần; các công trình nghiên cứu khoa học khác có nội dung gần gũi với đề tài làm
cơ sở lý luận.
Về phương pháp nghiên cứu: Vận dụng những phương pháp chung của bộ môn
kinh tế chính trị Mác - Lênin. Đó là phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgic
với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn, đồng thời khảo sát thực tế, phân tích tổng hợp,
so sánh, khái quát hóa.
6. ý Nghĩa Của Luận VĂN
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách,
và quản lý của Nhà nước để phát huy vai trò và năng lực của kinh tế tư nhân trong phát
triển ngành thủy sản ở Kiên Giang, cũng có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo
trong công tác giảng dạy, học tập ở trường chính trị tỉnh.
Chương 1
VAI Trò Và Đặc Điểm Của KINH Tế TƯ NHÂN
TRONG Ngành THủY Sản ở KIÊN GIANG
1.1. VAI Trò Của KINH Tế TƯ NHÂN TRONG Phát Triển THủY Sản ở
KIÊN GIANG
1.1.1. Ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Kiên Giang
“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế.
Trong hệ thống cơ cấu đó, cơ cấu ngành là quan trọng
nhất” [16, 522].
Do đó, mỗi địa phương dựa vào thế mạnh, tiềm năng và định hướng phát triển để
xây dựng cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý, đặc biệt là cơ cấu ngành nhằm tập trung
đầu tư, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất ra đời và phát triển dựa trên cơ sở
sử dụng khả năng tiềm tàng của giống loài sinh vật sống trong môi trường nước. Con
người đã khai thác, nuôi dưỡng các sinh vật có giá trị kinh tế và khoa học sống ở các
vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam để chế biến
chúng thành thực phẩm cung cấp cho nhân dân, bột cá, thức ăn cho gia súc, gia cầm,
nguyên liệu cho nhiều ngành và hàng hóa cho xuất khẩu.
Tiềm năng kinh tế biển và nguồn lợi thủy sinh vật phong phú, đa dạng của Kiên
Giang đã góp phần tích cực cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội trong giai
đoạn trước mắt và lâu dài. Vùng biển Kiên Giang được xác định là ngư trường trọng điểm
của cả nước và kinh tế thủy sản là thế mạnh của tỉnh sau sản xuất nông nghiệp. Nên cơ
cấu kinh tế của tỉnh là: nông (lâm) ngư, công nghiệp và dịch vụ.
Như vậy, ngư nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Vai
trò của nó không chỉ được khẳng định trong các chủ trương, đường lối của Đảng và sự
đánh giá của các tầng lớp nhân dân mà còn được thể hiện ở sự đóng góp vào nền kinh tế
của tỉnh nhà, trên các mặt: tỷ trọng trong GDP, tỷ lệ huy động vốn kinh doanh (hoặc vốn
cố định) và tỷ lệ thu hút lao động (tạo việc làm) [33, 44].
Ngoài ra, có thể dùng thêm các chỉ số khác để đánh giá như tỷ lệ đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế, đóng góp cho ngân sách.
Biểu số 1: Sự đóng góp của ngành theo lao động,
GDP và nộp ngân sách
Các ngành / năm 1996 1997 1998 1999
1. Tổng lao động đang làm
việc
một số ngành thế mạnh
của
tỉnh (ĐVT : ngàn người)
+ Nông, lâm nghiệp
+ Thủy sản
+ Công nghiệp
493.500
47.339
37.592
510.684
42.326
34.463
518.817
48.076
34.168
528.817
48.500
28.700
2. Cơ cấu tổng sản phẩm (GDP) (theo giá trị thực tế) đơn vị %
Các ngành / năm 1996 1997 1998 1999
1. Tổng lao động đang làm
việc
một số ngành thế mạnh
của
tỉnh (ĐVT : ngàn người)
+ Nông, lâm nghiệp
+ Thủy sản
+ Công nghiệp
493.500
47.339
37.592
510.684
42.326
34.463
518.817
48.076
34.168
528.817
48.500
28.700
- Nông, lâm, thủy sản
+ Nông, lâm nghiệp
+ Thủy sản
51,57
44,08
9,69
47,88
41,88
9,95
50,70
37,93
9,55
51,00
39,95
11,05
- Công nghiệp và xây
dựng
+ Công nghiệp
+ Xây dựng
24,45
21,40
3,05
26,59
22,39
4,20
24,69
21,20
3,49
24,70
20,50
4,20
- Các ngành dịch vụ
23,9 25,53 24,61 24,30
3. Nộp ngân sách:
(đơn vị tính: đồng)
+ Nông, lâm nghiệp
+ Thủy sản
+ Công nghiệp xây dựng
13.500.00
0
47.619.00
0
5.578.000
35.9000.00
0
215.256.56
141.485.00
0
27.500.000
25.894.556.
Các ngành / năm 1996 1997 1998 1999
1. Tổng lao động đang làm
việc
một số ngành thế mạnh
của
tỉnh (ĐVT : ngàn người)
+ Nông, lâm nghiệp
+ Thủy sản
+ Công nghiệp
493.500
47.339
37.592
510.684
42.326
34.463
518.817
48.076
34.168
528.817
48.500
28.700
16.319.00
0
0.335 289
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản, Báo cáo Cục thuế và Niên giám thống kê tỉnh
Kiên Giang qua các năm 1996 - 1999).
Biểu số 1 cho ta thấy rằng so với một số ngành kinh tế thế mạnh của tỉnh thì ngành
thủy sản Kiên Giang có sự đóng góp đáng kể trong việc giải quyết việc làm, tạo sản phẩm cho
xã hội và nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Về lao động: từ năm 1996 - 1999 bình quân ngành nông lâm nghiệp giải quyết
được 512.954 người, công nghiệp là 33.730 người và ngành thủy sản là 46.560 người, so
với công nghiệp nhiều hơn 12.830 người.
Về cơ cấu giá trị tổng sản phẩm (GDP) trên toàn tỉnh theo giá hiện hành thì
ngành nông, lâm nghiệp có xu hướng ngày càng giảm tỷ trọng GDP, năm 1996 là 41,08%
đến năm 1999 còn 39,95%, trong khi đó ngành thủy sản có xu hướng ngược lại, nếu như
tỷ trọng GDP của ngành năm 1996 là 9,69% thì năm 1999 là 11,05%. Qua đó cho ta thấy
rằng ngành thủy sản đóng góp ngày càng tăng cho tổng sản phẩm của tỉnh. Ngành công
nghiệp và xây dựng có tăng nhưng chậm và hay biến động, năm 1996 là 45%, năm 1997
là 26,59% (tăng 2,14%), năm 1998 còn 24,69% (giảm 1,90%) và năm 1999 nhích hơn
năm 1998 là 0,01%. Đối với các ngành dịch vụ của tỉnh cũng không nằm ngoài sự biến
động của công nghiệp và xây dựng. Cụ thể năm 1996 là 23,98%, năm 1997 tăng 1,55%
và 2 năm 1998 - 1999 giảm liên tục.
Mức đóng góp ngân sách Nhà nước nhìn chung các ngành nông, lâm, thủy sản,
công nghiệp và xây dựng đều đóng góp phần lớn vào ngân sách địa phương. Nông, lâm
nghiệp năm 1997 là 13.500.000 đồng, năm 1999 đã tăng là 141.485.000 đồng, công
nghiệp và xây dựng năm 1997 là 16.319.926.038 đồng, năm 1998 là 256.560.335 đồng,
năm 1999 là 25.894.556.289 đồng, ngành thủy sản năm 1997 là 47.619.000 đồng, năm
1998 là 35.900.000 đồng và năm 1999 là 27.500.000 đồng. Như vậy, trong 2 năm 1998 -
1999 mức đóng góp vào ngân sách của ngành giảm liên tục. Nguyên nhân trong 2 năm
1998-1999, Nhà nước có chủ trương miễn giảm thuế đối với ngành thủy sản như: thuế
khai thác tài nguyên (từ 4% giảm xuống còn 2%), thuế khai thác xa bờ...
Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước, chủ yếu là Công ty xuất nhập khẩu thủy
sản là đơn vị chủ lực của ngành, Kiên Giang thực hiện luật thuế giá trị gia tăng thì đơn vị
được khấu trừ đầu vào, đồng thời được miễn thuế đầu ra (thuế xuất khẩu 0%) và diện tích
nuôi trồng thủy sản cũng giảm.
Nhìn vào tổng số lao động, tỷ trọng GDP và nộp ngân sách Nhà nước của một số
ngành thế mạnh của tỉnh để thấy rằng, so với một số ngành thế mạnh khác, ngành thủy sản
có bước phát triển ổn định và đang từng bước phát huy tiềm năng của mình để xứng đáng là
ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội của
tỉnh.
Tuy ngành thủy sản so với các ngành kinh tế khác trong tỉnh đã có những đóng
góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhưng vẫn chưa phát huy hết tiềm
năng, thế mạnh.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, để phát triển ngành thủy sản ở Kiên Giang phải
phát huy nội lực vốn có của nó, phải huy động tất cả các loại hình kinh tế, trong đó cần
coi trọng phát triển kinh tế tư nhân.
1.1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên
Giang
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương thực hiện chương trình đánh bắt
xa bờ, phát triển nuôi trồng và chế biến thủy sản (nhằm khai thác tiềm năng hải sản, cung
cấp thực phẩm cho tiêu dùng, xuất khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động).
Để thực hiện chương trình đó cần có sự tham gia của các cấp, các ngành, mọi
người và mọi thành phần kinh tế trong ngành thủy sản. Do đặc điểm của ngành này là
nghề cá nhân dân và kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng vì có những ưu điểm sau:
Một là, kinh tế tư nhân có thể huy động nguồn vốn, lao động, tài năng của ngư
dân vào phát triển ngành thủy sản.
Thí dụ: chỉ tính riêng trong lĩnh vực khai thác thủy sản năm 1999 đầu tư của tư
nhân là 31,909.635 tỷ đồng, trong khi đó đầu tư Nhà nước là 14 tỷ đồng. Còn giải quyết
việc làm cũng trong lĩnh vực này thì kinh tế tư nhân là 47.843 lao động, kinh tế Nhà nước
là 657 lao động.
Như vậy, lượng vốn ban đầu chủ yếu là của tư nhân, và kinh tế tư nhân đã góp phần
đáng kể cho giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Hai là, kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản tăng thêm nguồn thu cho ngân sách,
tăng thu nhập để cải thiện điều kiện sống cho ngư dân. Trong năm 1999 kinh tế tư nhân
đã nộp ngân sách là 15,300 tỷ đồng chiếm 55,63% tổng nộp ngân sách Nhà nước cho
toàn ngành.
Ba là, kinh tế tư nhân phần lớn gồm các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, dây chuyền
thiết bị giản đơn, dựa vào kinh nghiệm truyền thống, sẵn có mối quan hệ rộng về cung
ứng nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, có tính cha truyền con nối, có kinh nghiệm quản lý,
đồng thời mục đích lợi nhuận đã kích thích mọi đơn vị phấn đấu tối ưu hóa phương án
kinh doanh. Do đó, bộ máy tổ chức của nó tương đối gọn nhẹ, có ưu điểm nổi bật là rất
năng động, linh hoạt, thay đổi nhanh mặt hàng và phương thức kinh doanh, đáp ứng khá
nhanh nhạy các nhu cầu phong phú, đa dạng luôn thay đổi của thị trường về hàng thủy
sản, góp phần tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế. Đây cũng là một trong những
cơ sở tạo ra một nền kinh tế thị trường năng động và có hiệu quả.
Bốn là, kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản thúc đẩy cạnh tranh chống lại xu thế
độc quyền cản trở sự phát triển của ngành, tạo ra một sức ép lớn buộc các doanh nghiệp
Nhà nước phải đổi mới. Kết quả là hàng hóa ngày càng phong phú và giá cả cũng linh
hoạt hơn nên người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn những hàng hóa có chất lượng cao, giá
cả phải chăng, phù hợp với thị hiếu. Các cơ sở kinh tế muốn tồn tại và phát triển phải
cạnh tranh, buộc các chủ thể kinh tế quan tâm hơn đến hiệu quả.
Đại hội VI (tháng 12-1986) đánh dấu bước quan trọng về việc phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần và khẳng định sự tồn tại lâu dài của chúng, nhưng trong lĩnh vực sản
xuất, còn trong lĩnh vực lưu thông vẫn chủ trương xóa bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân
[11, 60 - 61].
Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị (1988) và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 6 (khóa VI) tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đại hội VI và đã bổ
sung, cụ thể hóa một bước quan trọng với những nội dung như sau:
- Khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần “có ý nghĩa chiến lược lâu dài,
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện dân chủ hóa về kinh tế"
[23, 13].
- Xóa bỏ những định kiến, những định hướng độc quyền hoặc phân biệt đối xử,
bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế.
- Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô trong các ngành
nghề pháp luật không cấm.
- Khuyến khích kinh tế tư nhân hợp tác với các thành phần kinh tế khác.
- Sự lựa chọn ngành nghề và loại hình kinh doanh không phải theo ý chí áp đặt
chủ quan mà theo hiệu quả kinh tế: “những ngành nghề, loại hình hoạt động nào mà hợp
tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì tạo điều
kiện cho loại hình kinh tế ấy phát triển”.
Nghị quyết đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định tư tưởng đổi mới của đại hội
VI, đồng thời nhấn mạnh: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa,
không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế, dân
sinh” [12, 68]. Nghị quyết đại hội VII cũng đề ra nhiệm vụ cho quản lý Nhà nước với nền
kinh tế nhiều thành phần “Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các
thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh theo
cơ chế thị trường”.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, Hội nghị Trung ương Đảng lần
2 (khóa VII) năm 1992, chuyên đề về kinh tế ngoài quốc doanh đã đưa ra một số chủ
trương, biện pháp lớn để phát huy tiềm năng của kinh tế tư nhân, cá thể với những nội
dung chính như sau:
- Bổ sung sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho kinh tế tư nhân được phát huy,
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà luật pháp không
cấm, được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo
những điều kiện do luật định.
- Xóa bỏ những cấm đoán và ràng buộc vô lý, những thủ tục phiền hà gây khó
khăn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh của nhân dân.
- Cải cách bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương để thực hiện
tốt nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với tất cả các thành phần kinh tế.
- Khuyến khích thành lập tất cả các tổ chức kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp tư
nhân và cá thể, làm người đại diện cho các thành viên trong việc đối nội, đối ngoại và làm cầu
nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần. Đại hội khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân ở nước ta và nhấn
mạnh: “Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm
đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết kinh tế Nhà nước với
các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. áp dụng phổ biến các hình thức kinh
tế Tư bản nhà nước” [13, 92].
Có thể nói, quá trình đổi mới cũng là quá trình nhận thức ngày càng đầy đủ và
đúng đắn hơn về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Những
quyết định, đường lối của Đảng là định hướng chính trị quan trọng được thể chế hóa
trong Hiến pháp 1992 và các luật như: Luật doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật công ty
(1990) và các Luật khác. Chính phủ cũng đã ban hành các văn bản quan trọng như: Nghị
định 27/HĐBT (1988) quy định về chính sách đối với kinh tế tư nhân, cá thể; Nghị định
66/HĐBT (1992) đối với các cơ sở kinh doanh dưới vốn pháp định. Đó là những cơ sở
pháp lý quan trọng, nhằm khẳng định địa vị pháp lý của kinh tế tư nhân ở nước ta, quyền
tự do kinh doanh và bảo hộ sở hữu tư nhân hợp pháp.
Quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta thấm
nhuần tư tưởng của Lênin trong chính sách kinh tế mới (NEP). Tại đại hội X Đảng cộng
sản Liên Xô, Lênin đề xuất phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, giải phóng tối đa lực
lượng sản xuất thông qua phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Lênin còn khẳng định
rằng nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ. Năm 1918, Lênin đã
chỉ ra rằng, nền kinh tế Nga lúc đó có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nông dân kiểu gia
trưởng, sản xuất hàng hóa nhỏ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, chủ nghĩa xã hội [21,
363].
ở nước ta, kinh tế tư nhân được xác định là khu vực kinh tế bao gồm các cơ sở
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (hoặc vốn), với các hình thức tổ chức:
doanh nghiệp và công ty tư nhân, các cơ sở kinh tế cá thể và nhóm kinh doanh theo Nghị
định 66/HĐBT.
Có thể nói, quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta ngày càng phù
hợp với thực tế Việt Nam, theo đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nước cũng thay đổi căn bản: Chủ đạo không có nghĩa là chiếm tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế, mà là giữ vai trò mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác, làm lực
lượng vật chất để Nhà nước quản lý nền kinh tế, làm đòn bẩy đẩy mạnh tăng trưởng kinh
tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Với cách nhìn đó kinh tế tư nhân từng lúc, từng nơi,
từng lĩnh vực có thể chiếm tỷ trọng lấn át kinh tế Nhà nước cũng không có nghĩa là kinh
tế Nhà nước đã mất vai trò chủ đạo của mình. Nhờ quan điểm đúng đắn đó mà theo đánh
giá của Đảng ta, “Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn giải phóng và
phát triển sức sản xuất, đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng qua 10 năm
đổi mới” [13, 24].
Trong ngành thủy sản Kiên Giang, việc phát triển kinh tế tư nhân trong các lĩnh
vực của nghề cá cũng là một điều hết sức cần thiết.
Nghề cá Kiên Giang là nghề cá nhân dân, quy mô nhỏ chiếm ưu thế, thích hợp
với nguồn lợi đa loài và phân tán. Vùng ven biển Kiên Giang dài 195 km, chạy dọc theo
bờ biển từ Tây Bắc, giáp vương quốc Campuchia xuống phía Nam giáp ranh giới tỉnh Cà
Mau với nhiều kênh, rạch chằng chịt, và hải đảo biển Kiên Giang nằm trong Vịnh Thái
Lan chiếm khoảng 21,10% diện tích của Vịnh. Thủy sản là vật liệu mau ươn, chóng
thối... đòi hỏi việc đánh bắt bảo quản chế biến phải nhanh nhạy, kịp thi, thích nghi linh
hoạt với những thay đổi của thị trường nên tổ chức phải gọn nhẹ, vì vậy, sự tồn tại lâu dài
của nghề cá tư nhân kết hợp nhiều loại quy mô lớn, vừa và nhỏ đa dạng là thích hợp.
Để khẳng định vai trò kinh tế tư nhân cần xem xét hoạt động của các thành phần
kinh tế trong các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần, thương mại
thủy sản.
Trong lĩnh vực khai thác thủy sản:
- Trong lĩnh vực này, từ năm 1985 - 1998 chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước
(công ty quốc doanh đánh cá Kiên Giang), nhưng hoạt động có xu hướng càng ngày càng
thu hẹp. Lượng tàu thuyền giảm dần, năm 1993 có 109 chiếc với tổng cộng 38.447 CV
bình quân 352,72 CV/tàu, 1.156 lao động, sản lượng khai thác trong năm đạt 14.700 tấn,
bình quân đạt 0,38 tấn/CV đến năm 1998 chỉ còn 59 chiếc tàu với tổng cộng mất 20.650
CV, bình quân 350 CV/tàu. Sản lượng khai thác 34.116 tấn, sản lượng bình quân đạt 1,65
tấn/CV, lượng lao động còn lại 689 người, bình quân 12 người trên mỗi tàu. Đến năm
1999, lượng tàu thuyền còn 50 chiếc với tổng công suất 17.000 CV bình quân 340
CV/chiếc, sản lượng khai thác 37.200 tấn, tăng 9% so với cùng kỳ do tăng phương tiện
đánh bắt xa bờ và mở rộng khai thác ở biển Đông. Như vậy, kinh tế Nhà nước trong lĩnh
vực khai thác hải sản đang có xu hướng thu hẹp về quy mô, mặc dầu công suất máy móc
tàu thuyền có tăng, phạm vi địa bàn khai thác được mở rộng. Kinh tế Nhà nước đã góp
phần bảo vệ an ninh trên vùng biển, nhưng chưa thật sự đóng vai trò chủ đạo cho nghề cá
nhân dân về mặt khoa học - kỹ thuật, hướng dẫn ngư trường dịch vụ trên biển cũng như
thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
- Kinh tế hợp tác: năm 1986 mới có 2 hợp tác xã chủ yếu làm dịch vụ hỗ trợ cho
xã viên. Đến năm 1999, thành lập thêm được một hợp tác xã từ vốn vay của Nhà nước.
Còn tổ hợp tác năm 1999 thành lập được 9 tổ trên cơ sở để vay vốn của Nhà nước sau
cơn bão số 5, hiện nay vẫn chưa đi vào hoạt động. Như vậy, mặc dù có sự hiện diện của
kinh tế hợp tác trong lĩnh vực này nhưng số lượng khiêm tốn, chậm phát triển, thậm chí
xu hướng chung là không phát triển, người dân chưa muốn thành lập loại hình kinh tế này
trong khai thác, họ cảm nhận hình thức tổ chức quản lý phức tạp hơn nhiều so với kinh tế
tư bản tư nhân, tiểu chủ.
- Kinh tế tư bản nhà nước: Từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài đến nay,
tỉnh có liên doanh với Thái Lan thành lập công ty liên doanh khai thác thủy sản vào năm
1990, nhưng sau hơn 2 năm hoạt động không hiệu quả nên đã giải thể. Kiên Giang là 1
trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước, có nguồn lợi thủy sản rất phong phú và đa
dạng, có nhiều loại thủy sản có giá trị kinh tế cao nhưng vẫn không đủ sức thu hút đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực này.
- Kinh tế tư nhân: Với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và nhóm kinh
doanh theo nghị định 66/HĐBT, kinh tế hộ gia đình, số lượng tàu thuyền không ngừng
tăng nhanh từ 1992-1996, bình quân 1 năm tăng 350 tàu với công suất bình quân 1 năm
tăng 63.494 CV. Năm 1997 giảm còn 6.919 chiếc (do thiệt hại của cơn bão số 5). Đến
năm 1998 số lượng tàu thuyền tăng thêm 52 chiếc, nâng tổng số tàu thuyền hiện có của
kinh tế tư nhân lên 6.971 chiếc với tổng công suất 475.525 CV, bình quân 68,21 CV/tàu.
Tỷ trọng tàu thuyền của khu vực khai thác này chiếm 99,16% trên tổng năng lực tàu
thuyền hiện có của toàn tỉnh. Số lượng tàu thuyền tăng mạnh qua các năm, tổng sản
lượng khai thác cũng tăng, từ năm 1994-1996 tăng 17.933 tấn, từ 1996 - 1998 tăng
11.571 tấn và năm 1999 tăng 12.296 tấn. Như vậy, kinh tế tư nhân không chỉ tăng thêm
về số lượng tàu thuyền mà cả công suất và sản lượng khai thác. Qua các giai đoạn phát
triển kinh tế tư nhân thật sự đã đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra nguyên liệu cho
ngành thủy sản. Họ tiên phong trong việc áp dụng khoa học công nghệ mới kết hợp với
kinh nghiệm thực tiễn, tìm tòi ngư trường khác,
ngày càng phát triển mạnh khai thác xa bờ, linh hoạt trong việc chuyển đổi cơ cấu nghề
phù hợp với ngư trường khai thác theo mùa vụ, tăng tích
tụ vốn...
Trong lĩnh vực nuôi trồng:
- Trong lĩnh vực này có một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập 1987, tồn tại
đến năm 1990 thì giải thể do không có hiệu quả, mặc dù có sự hợp tác của Canada. Vậy
từ năm 1991 cho đến 1998 kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể và tư bản nhà nước vắng bóng
trong lĩnh vực này. Đến năm 1999, có thử nghiệm 1 hợp tác xã ở Phú Quốc nhưng sản lượng
không đáng kể.
- Việc nuôi trồng thủy sản chủ yếu là do các hộ gia đình, cá nhân và nhóm kinh
doanh theo Nghị định 66/HĐBT. Số hộ nuôi có xu hướng tăng đều qua các năm, từ 1992 -
1999 có 5.280 hộ, diện tích cũng không ngừng được mở rộng: 1992 là 15.883 ha, 1995 là
21.189 ha, 1998 là 27.663 ha và 1999 là 29.319 ha. Như vậy, trong lĩnh vực nuôi trồng thủy
sản, nguồn quan trọng cung ứng nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu cũng như tiêu dùng trong
nước, ưu thế tuyệt đối thuộc về kinh tế hộ và tiểu chủ dựa trên cơ sở vận dụng lợi thế của điều
kiện tự nhiên vùng ven biển sông ngòi, mương vườn để phát triển.
Trong lĩnh vực chế biến:
- Kinh tế Nhà nước: Xét về số lượng doanh nghiệp thì thu hẹp bởi năm 1985 có 6
đơn vị chế biến thủy sản các loại hình, năm 1995 còn 5 đơn vị và đến năm 1996 do tổ
chức lại các đơn vị quốc doanh thuộc lĩnh vực chế biến nên đã sát nhập thành một công
ty, nhưng xét về quy mô sản xuất kinh doanh thì phát triển mạnh, qua 3 năm 1996 -1998
với tổng công suất của các nhà máy chế biến hàng thủy sản đông lạnh xuất khẩu hiện nay
theo thiết kế là 21.900 tấn/năm. Sản lượng chế biến thủy sản xuất khẩu: năm 1995:
16.200 tấn, năm 1996: 17.692 tấn, năm 1997: 17.937 tấn và năm 1998: 12.615 tấn và năm
1999 là 19.310 tấn.
- Kinh tế hợp tác: từ năm 1985 đến 1988 không có tham gia vào lĩnh vực này.
Nhưng đến năm 1999 chỉ có một tổ hợp tác.
- Còn kinh tế tư bản nhà nước trong lĩnh vực chế biến không đáng kể, chỉ có 2
công ty chủ yếu chế biến tôm khô, cá khô các loại.
- Kinh tế tư nhân: phát triển mạnh mẽ, nhanh về số lượng và đa dạng trong lĩnh
vực chế biến nhất là những mặt hàng truyền thống như nước mắm, cá khô, cá muối, tôm
khô... và sơ chế những mặt hàng thủy sản tươi ướp đá cung cấp cho các nhà máy.
Như vậy, kinh tế Nhà nước chỉ đảm nhận khâu đông lạnh xuất khẩu với quy mô,
kỹ thuật ngày càng tăng, còn kinh tế tư nhân hỗ trợ nhau cùng phát triển mạnh trong việc
chế biến những mặt hàng hải sản thủ công truyền thống.
Trong lĩnh vực dịch vụ hậu cần nghề cá:
- Kinh tế Nhà nước: Hoạt động sản xuất nước đá là chủ yếu, đến năm 1998 sát
nhập 9 nhà máy nước đá vào Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Kiên Giang. Ngoài ra, còn
có một phân xưởng đóng, sửa chữa tàu thuyền của Quốc doanh đánh cá chủ yếu phục vụ
cho kinh tế Nhà nước trong khai thác và chế biến thủy sản.
- Còn kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước thì hoàn toàn không tham gia vào
đây.
- Kinh tế tư nhân: Phát triển đều đặn qua các năm, nhất là trong việc đóng, sửa
chữa tàu thuyền, cung cấp nước đá cho các tàu thuyền khai thác hải sản của tỉnh, cũng
như các tỉnh bạn di chuyển ngư trường đến Kiên Giang. Do nhu cầu đánh bắt xa bờ. Kinh
tế tư nhân có xu hướng ngày càng phát triển trong lĩnh vực này.
Trong thương mại thủy sản:
- Kinh tế Nhà nước: Năm 1985, có 1 đơn vị nhưng đến năm 1995 sát nhập vào
Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Kiên Giang, chủ yếu làm nhiệm vụ thu mua hàng phục
vụ cho chế biến xuất khẩu là chính, còn thương mại nội địa hầu như bị bỏ ngỏ.
- Kinh tế hợp tác: có một đơn vị nhưng trụ được hơn một năm thì giải thể. Kinh
tế tư bản nhà nước: thì không tham gia.
- Kinh tế tư nhân: hầu như làm chủ thị trường tiêu thụ lượng hải sản khai thác
được, nhất là hàng thủy sản tiêu thụ nội địa. Họ có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp các tỉnh
thành, chợ búa chằng chịt và cũng rất linh hoạt trong việc tính toán giá cả đầu vào và đầu
ra cũng như cách thức mua bán...Vì vậy, thương nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh từ
năm 1990 - 1998 và có xu hướng ngày càng phát triển.
Có thể nói, trong dịch vụ hậu cần cũng như thương mại thủy sản, kinh tế tư nhân hoạt
động rộng khắp, rất linh hoạt thích hợp với đặc điểm của nghề cá, mang tính thời vụ, di
chuyển theo ngư trường. Sự tồn tại của kinh tế tư nhân còn bắt nguồn từ tính chất nguyên liệu
thủy sản là mau chóng ươn thối, nếu chậm trễ trong lưu thông sẽ dẫn đến sự xuống cấp, giảm
giá trị sản phẩm.
Kinh tế tư nhân tuy mới được khôi phục và phát triển song đã có những đóng góp lớn
trong sự phát triển của ngành thủy sản Kiên Giang trên các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng,
chế biến, dịch vụ, hậu cần và thương mại, chứng tỏ sự khôi phục và phát triển ấy là một tất
yếu khách quan và cần thiết.
Tóm lại: Trong ngành thủy sản Kiên Giang có sự tham gia của các thành phần
kinh tế nhưng lực lượng chủ yếu là kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân
có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của nghề cá và đóng vai trò quan trọng trong việc cung
ứng nguyên liệu cho ngành thủy sản. Trong quá trình hoạt động và phát triển của mình,
kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào thành tích chung của tỉnh. Do đó, phát huy năng
lực kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực nghề cá Kiên Giang là một đòi hỏi cấp bách và cần
có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế nhằm phát triển ngành này xứng đáng
là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và là một trong 4 ngư trường trọng điểm của cả
nước.
1.2.Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của KINH Tế TƯ NHÂN TRONG Ngành
Thủy sản ở KIÊN GIANG
1.2.1. Kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang: bao gồm nhiều loại
hình phong phú và đa dạng trong mọi lĩnh vực nghề cá, (như công ty trách nhiệm hữu
hạn, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT, kinh
tế hộ gia đình, chủ nậu, vựa).
Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân là loại hình
kinh tế bao gồm tất cả các doanh nghiệp mà vốn để sản xuất, kinh doanh thuộc sở hữu
của một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân, trong đó, sở hữu của từng cá nhân được định rõ
giá trị. Hoạt động của các doanh nghiệp này chịu sự kiểm soát của chủ sở hữu tư nhân
hay nhiều chủ sở hữu tư nhân.
Cá nhân là những đơn vị kinh tế mà hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn
và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất
chủ yếu trong loại hình kinh tế cá thể và trong khu vực sản xuất nguyên liệu.
Kinh tế hộ gia đình là bộ phận cấu thành quan trọng của lực lượng sản xuất thủy
sản, đó là một loại hình kinh tế cá nhân mà hoạt động kinh doanh dựa vào vốn và sức lao
động của từng hộ là chủ yếu. Tuy là kinh tế cá thể thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhưng
kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh tế, là một hình thức tự chủ kinh tế, sử dụng nhiều
mối quan hệ sở hữu vừa sử dụng lao động chính, tận dụng lao động phụ, vừa thuê mướn
thêm lao động như các loại hình kinh tế tư nhân khác.
Nhóm kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT là những cơ sở kinh doanh dưới
vốn pháp định (theo Luật công ty).
Các chủ nậu, vựa thực chất là những tổ chức manh nha của tầng lớp tư bản
thương nghiệp trong nghề cá đã góp phần tích cực vào việc chuyển đổi phương thức sản
xuất kinh doanh của nghề cá, tuy nhiên, nếu sự quản lý của Nhà nước không chặt chẽ thì
nó dễ dẫn đến độc quyền chi phối các lĩnh vực của nghề cá thông qua hình thức ứng vốn.
1.2.2. Hoạt động của kinh tế tư nhân trong nghề cá ở Kiên giang cũng như cả
nước, đã trải qua nhiều biến động thăng trầm, nên đến nay vẫn còn non trẻ. Phần lớn
các doanh nghiệp ra đời sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân, và Luật công ty (1990). Do
đó, chủ doanh nghiệp thường thiếu kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh và rất bỡ ngỡ
trước thị trường, nhất là thị trường nước ngoài, khả năng tiếp thị kém. Ngành thủy sản từ
sau 1975 đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn 1975 - 1980 việc cải tạo
quan hệ sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Nam đã loại bỏ
kinh tế tư nhân, xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện quốc doanh hóa, áp dụng
cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, do đó đã kìm hãm sự phát triển sản xuất
trong ngành thủy sản. Đến giai đoạn 1981 - 1985, sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ 6 khóa IV (1979), Kiên Giang khôi phục lại nghề cá nhân dân, mở rộng xuất nhập
khẩu để đáp ứng vật tư, thiết bị, phụ tùng cho nghề cá, từng bước thực hiện tự cân đối, tự
trang trải trong nội bộ.
Ngành thủy sản là một trong những ngành kinh tế đầu tiên được Nhà nước cho
phép áp dụng thử nghiệm mô hình “tự cân đối, tự trang trải”.
Tuy vậy, hoạt động của kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực thủy sản chỉ ở
mức độ cầm chừng. Từ 1986, sau Đại hội VI của Đảng, kinh tế tư nhân trong ngành thủy
sản mới phát triển.
1.2.3. Kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, phân tán, hình thức hộ gia đình chiếm
tỷ trọng lớn về số lượng và thu hút nhiều lao động trình độ công nghệ thấp, do đó
kinh doanh tại chỗ là chủ yếu
Trình độ xã hội hóa chưa cao, thể hiện rõ nét nhất là loại hình một chủ chiếm ưu
thế, trong đó, hộ kinh tế cá thể chiếm ưu thế tuyệt đối cả về số lượng cơ sở và giá trị sản
lượng. Hình thức công ty, đặc biệt là công ty cổ phần (là hình thức được đánh giá có trình
độ xã hội hóa về sở hữu cao nhất) thì hầu như chưa có. Sự liên kết, hợp tác giữa các
doanh nghiệp và các cơ sở kinh tế tư nhân với nhau và với các khu vực kinh tế khác còn hạn
chế.
1.2.4. Kinh tế tư nhân phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực
khai thác và dịch vụ hậu cần nghề cá
1.2.5. Quan hệ giữa người lao động với các chủ trong các cơ sở kinh tế tư
nhân còn nhiều điều bất bình đẳng, người lao động còn bị thua thiệt rất lớn, nhất là
trong quan hệ ăn chia
Những điều nói trên sẽ được làm rõ ở phần thực trạng.
Kết luận chương 1
Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Kiên Giang đã đóng góp phần
đáng kể trong giải quyết việc làm, tăng sản phẩm cho xã hội và nguồn thu ngân sách Nhà
nước, nhưng chưa phát huy hết tiềm năng và thế mạnh của mình.
Để phát huy nội lực của ngành này cần huy động tất cả các thành phần kinh tế,
nhất là coi trọng phát triển kinh tế tư nhân. Do đặc điểm của ngành thủy sản, kinh tế tư
nhân dễ dàng huy động vốn, lao động, kỹ năng của ngư dân để phát triển khai thác, chế
biến thủy sản, làm dịch vụ hậu cần... Kinh tế tư nhân phần lớn gồm các cơ sở sản xuất
vừa và nhỏ, dây chuyền thiết bị giản đơn, dựa vào kinh nghiệm truyền thống, có mối quan
hệ rộng về cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức của kinh tế tư nhân gọn,
nhẹ, năng động, linh hoạt, dễ thay đổi nhanh mặt hàng và phương thức kinh doanh, đáp
ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị trường.
Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng phát triển kinh tế tư nhân nói chung, kinh tế tư
nhân trong ngành thủy sản nói riêng. Trong thực tế kinh tế tư nhân có mặt trong tất cả các
lĩnh vực của nghề cá ở Kiên Giang và đóng vai trò chủ yếu trong việc cung ứng nguyên
liệu cho các đơn vị chế biến thủy sản.
Đặc điểm nổi bật của kinh tế tư nhân ở Kiên Giang là bao gồm nhiều loại hình tổ
chức phong phú, đa dạng; hoạt động của kinh tế tư nhân trong nghề cá ở Kiên giang cũng
như cả nước đã trải qua nhiều bước thăng trầm nên đến nay vẫn còn non trẻ, nhiều mặt
yếu kém; kinh tế tư nhân phần lớn có quy mô nhỏ, phân tán, trình độ công nghệ thấp, do
đó kinh doanh tại chỗ là chủ yếu; kinh tế tư nhân chủ yếu tập trung vào khai thác và dịch
vụ hậu cần; quan hệ giữa chủ các cơ sở kinh tế tư nhân với người làm thuê còn nhiều
điểm bất bình đẳng, người lao động làm thuê còn chịu nhiều
thua thiệt.
Chương 2
Thực Trạng Và Những Vấn Đề Đặt RA
Của KINH Tế TƯ NHÂN TRONG Ngành Thủy sản
ở Kiên giang
2.1. Thực trạng của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang
Như trên đã trình bày, kinh tế tư nhân bao gồm nhiều loại hình hoạt động rất
phong phú, đa dạng trong mọi lĩnh vực nghề cá. Loại hình kinh tế này có xu hướng phát
triển mạnh về số lượng lẫn quy mô được biểu hiện trên các mặt sau:
2.1.1. Xét về từng loại hình kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang
Về số lượng doanh nghiệp tư nhân:
Biểu số 2: Số lượng doanh nghiệp tư nhân ngành thủy sản
từ 1985-1999
Năm/lĩnh
vực
198
5
199
0
199
5
199
6
199
7
199
8
199
9
So sánh
% Ghi
chú 98/9
7
99/9
8
1. Khai thác
TS
2.Nuôi trồng
TS
3. Chế biến
TS
4. Dịch vụ
hậu cần
5. Thương
mại TS
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
425
0
50
110
40
511
0
64
117
58
648
0
85
120
57
726
0
89
140
72
827
0
146
79
12,2
04,7
16,6
7
13,9
1
0
64
9,72
Chỉ
tính
thời
điểm
thực
hiện
Luật
doanh
nghiệp
tư nhân
(1991-
nay)
Cộng 0 0 625 750 909
102
7
105
2
12,9
8
2,43
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm).
Biểu số 2 cho thấy, từ 1985 - 1990 không có số liệu doanh nghiệp tư nhân do
chưa ban hành luật, nên người dân chưa đăng ký kinh doanh, nhưng trong thực tế loại
hình này vẫn tồn tại và hoạt động.
Doanh nghiệp tư nhân phát triển trong lĩnh vực chế biến thủy sản chủ yếu là sơ
chế hải sản, xẻ phơi khô, chế biến nước mắm và có hai cơ sở chế biến bột cá.
Trong lĩnh vực dịch vụ hậu cần, thì chủ yếu đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, gia
công sản xuất vật tư thiết bị đóng tàu.
Doanh nghiệp tư nhân trong ngành thủy sản phát triển nhanh về số lượng, vào
thời điểm 1995 chỉ có 625 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến dịch
vụ hậu cần và thương mại thủy sản, đến năm 1996 tăng lên 750 doanh nghiệp (tăng 20%),
năm 1997 là 909 doanh nghiệp (tăng 21,20%), năm 1998 là 1027 doanh nghiệp (tăng
21,98%) và đến tháng 9/1999, chưa tính lĩnh vực dịch vụ thủy sản đã có 1.052, so với
năm 1998 tăng 2,43%.
Công ty trách nhiệm hữu hạn (trách nhiệm hữu hạn):
Biểu số 3: Số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn ngành thủy sản
từ 1985 - 9/1999
Năm / Lĩnh
vực
198
5
199
0
199
5
199
6
199
7
199
8
199
9
So sánh
%
Ghi chú
98/9
7
99/9
8
1. Khai thác
TS
2. Nuôi trồng
TS
3. Chế biến
TS
4. Dịch vụ
hậu cần
5. Thương
mại TS
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1
0
5
0
1
2
0
6
0
1
3
0
5
0
1
3
0
4
0
1
4
0
4
0
1
100
0
-20
0
100
Từ khi
có Luật
công ty
(21/02/9
0)
Cộng : 0 0 7 9 9 8 9 -
11,1
1
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm).
* Khai thác thủy sản gồm có :
1. Công ty Hải Hưng thành lập 1995.
2. Công ty Hải Minh thành lập 1992 đến 1996 giải thể.
3. Công ty Như ý thành lập 1997.
4. Công ty Thắng Lợi thành lập 1999
* Chế biến thủy sản có :
1. Công ty Bình Minh thành lập 1996.
2. Công ty Vĩnh Lợi thành lập 1993.
3. Công ty Đông Phú thành lập 1993.
4. Công ty Thanh Hà thành lập 1993.
5. Công ty Hồng Hải thành lập 1994.
6. Công ty Thạnh Phát thành lập 1996 (giải thể năm 1998).
* Thương mại thủy sản: Công ty Hồng Vân : thành lập 1993.
Như vậy, sự phát triển của loại hình kinh tế này còn rất khiêm tốn, từ năm 1995
đến năm 1999 chỉ có 9 công ty trách nhiệm hữu hạn đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực
khai thác, chế biến, thương mại nhưng trong thực tế một đơn vị hoạt động trên nhiều lĩnh
vực của nghề cá và có cơ sở hoạt động gần như khép kín.
Cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT:
Biểu số 4: Số lượng cá nhân và nhóm kinh doanh
theo Nghị định 66/HĐBT
Năm / Lĩnh
vực
198
5
199
0
199
5
199
6
199
7
199
8
So sánh
% Ghi chú
98/97
1. Khai thác
TS
2. Nuôi trồng
TS
3. Chế biến
TS
4. Dịch vụ hậu
cần
5. Thương
mại TS
0
0
0
0
0
0
0
10
110
250
0
1
15
110
331
4
4
20
114
191
5
78
25
120
462
5
9
29
124
489
12,2
04,7
16,67
Số liệu tính
từ ngày có
Nghị định
66/HĐBT
(2-3-92)
0 370 457 533 619 656 05,8
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm).
Từ bản thống kê trên ta thấy cá nhân và nhóm kinh doanh theo NĐ 66/HĐBT có
mặt hầu hết trên các lĩnh vực thuộc ngành thủy sản Kiên Giang, số lượng cũng tăng đều
đặn qua các năm, năm 1990 chỉ có 370 cơ sở thì đến năm 1997 là 619, năm 1998 là 656
cơ sở.
Hộ gia đình:
Biểu số 5: Số lượng kinh tế hộ
Năm / Lĩnh
vực
198
5
199
0
199
5
199
6
199
7
199
8
So sánh %
Ghi
chú 98/97 99/9
8
1. Khai thác
TS
2. Nuôi trồng
TS
3. Chế biến TS
4.Dịch vụ hậu
cần
5. Thương mại
TS
0
140
7
0
-
-
0
265
3
0
-
-
0
411
0
0
-
-
0
471
0
0
-
-
0
521
7
0
-
-
0
525
0
0
-
-
0,63
140
7
265
3
411
0
471
0
521
7
525
0
0,63
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm).
Như vậy hộ gia đình chủ yếu phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và phát
triển một cách tự phát nhanh chóng dựa trên cơ sở lợi thế về điều kiện tự nhiên của Kiên
Giang. Nếu năm 1985 số hộ nuôi trồng thủy sản là 1.407 thì năm 1995 tăng lên là 4.110
hộ, năm 1998 là 5250, đến năm 1995 sau 10 năm phát triển số hộ nuôi trồng thủy sản
tăng 192,11%, chỉ tính riêng từ năm 1995 - 1998, sau 3 năm thì tăng 27,73%. Nuôi trồng
thủy sản là một ngành đang có xu hướng phát triển mạnh ở Kiên Giang.
Những con số thống kê trên, cho ta thấy kinh tế tư nhân có số lượng rất lớn và có
mặt trên tất cả các lĩnh vực trong ngành thủy sản ở Kiên Giang và ngày càng có xu hướng
không ngừng gia tăng về số lượng.
2.1.2. Năng lực của kinh tế tư nhân trên các lĩnh vực của ngành thủy sản ở
Kiên Giang
Lĩnh vực khai thác:
Biểu số 6: Kết quả năng lực của kinh tế tư nhân
trong khai thác từ 1992-1999
Chỉ tiêu
Năm
Năng lực tàu thuyền
Sản lượng
khai thác
Sản lượng
bình quân
Lao động
Chiếc
Công suất
(CV)
Bình
quân
CV/chiếc
1992 5622 129479 23,03 97300 0,75 33732
1993 6428 151309 23,54 123000 0,81 38568
1994 6650 222927 33,52 139500 0,63 39900
1995 6775 306278 45,20 150200 0,49 40656
1996 7019 383454 54,63 157433 0,41 42114
1997 6384 370865 58,09 167535 0,45 41514
1998 6971 475525 68,21 169004 0,35 41826
1999 6993 552445 79,00 181300 0,53 43560
(Nguồn: Báo cáo Sở thủy sản Kiên Giang qua các năm).
Số lượng tàu thuyền không ngừng tăng nhanh từ 1992 - 1996, bình quân mỗi năm
tăng 350 tàu với công suất bình quân một năm tăng 63.494 CV. Năm 1997 số lượng tàu
giảm xuống do thiệt hại trong bão số 05. Đến năm 1999, số lượng tàu thuyền tăng 252
chiếc với tổng công suất 475.525 CV, bình quân 68,21 CV/tàu. Tỷ trọng tàu thuyền của
kinh tế tư nhân chiếm 99,16% tổng số năng lực tàu thuyền hiện có của toàn tỉnh.
Tuy số lượng tàu thuyền tăng nhanh qua các năm nhưng tổng sản lượng khai thác
bình quân trên 1 CV thì có chiều hướng ngược lại, vào năm 1992 sản lượng bình quân
trên một CV là 0,75 tấn, thì năm 1994 là 0,63 tấn, năm 1996 còn 0,41 tấn, năm 1998 0,31
tấn và năm 1999 là: 0,33 tấn, chỉ có năm 1997 sản lượng bình quân tăng lên đôi chút do
đầu tư tàu lớn, đánh bắt xa bờ.
Điều đó nói lên rằng, nguồn lợi thủy sản đang trên đà cạn kiệt và mức thu nhập của
người lao động trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản đang bị giảm sút.
Kinh tế tư nhân đầu tư trong khai thác thủy sản nhiều nhất là từ năm 1995 đến
nay. Nếu tính mức đầu tư cho tàu đánh cá (bao gồm đóng mới, lắp đặt hoàn chỉnh máy) là
4.500.000 đ/CV của giai đoạn năm 1996-2000 thì thời điểm 1996 so với 1995 tăng
77.176 CV, tăng 347,29 tỷ đồng và từ năm 1996 đến năm 1999 tăng 709103 CV, tăng
3.190,9635 tỷ đồng.
Đầu tư trong lĩnh vực này của kinh tế tư nhân ngày càng gia tăng vì ngoài nguồn
vốn tự có còn nguồn vốn cho vay ưu đãi theo chủ trương, khuyến khích đóng tàu đánh bắt
cá xa bờ (chỉ tiêu Nhà nước phân bổ cho Kiên Giang vay năm 1998 là 53 tỷ đồng và năm
1999 là 14 tỷ đồng).
Do đó, chỉ trong năm 1999, tàu thuyền đóng mới là 289 chiếc với 81.787 CV, bình
quân 283 CV/chiếc, tăng 10,79 CV/chiếc so với năm 1998, nghĩa là tăng không chỉ về số
lượng mà cả về công suất và qua đó cũng chứng minh một điều là chủ trương đánh bắt xa bờ
được ngư dân hưởng ứng và năm 1999 là năm có mức tăng tàu thuyền cao nhất từ khi giải
phóng đến nay.
Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản:
Biểu số 7: Năng lực nuôi trồng thủy sản của kinh tế tư nhân
từ năm 1992 - 1999
Chỉ tiêu
Năm
Năng lực nuôi trồng Sản
lượng
nuôi
trồng
Sản
lượng
bình
quân
Lao
động Số
lượng
hộ
Diện
tích nuôi
(ha)
Bình
quân
hộ/ha
1992 3238 15833 4,91 7784 0,49 4047
1993 3498 17262 4,93 8947 0,54 4540
1994 3798 21387 5,63 11260 0,53 4747
1995 4110 21198 5,16 7969 0,38 5130
1996 4710 19306 4,10 7466 0,38 5920
1997 5217 25139 4,82 8324 0,33 6734
1998 5250 27663 5,27 8947 0,32 6784
1999 5280 29319 5,55 6387 0,21 6820
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm).
Nuôi trồng thủy sản là một nghề rất phổ biến trong các hộ gia đình ở Kiên Giang,
chiếm 99,83%, nó được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên.
Từ năm 1992 - 1998 kinh tế hộ gia đình tăng mạnh trong lĩnh vực này và đến
cuối 1998 tổng số là 5.250 hộ. Trong đó số hộ nuôi trồng có đất trên 5 ha là 19 hộ (chiếm
0,36%), trên một ha là 1.515 hộ (chiếm 28,86%) và nhỏ hơn 1 ha là 3.716 hộ, chiếm
70,87%.
Số hộ nuôi trồng thủy sản có xu hướng tăng đều qua các năm, diện tích nuôi
trồng không ngừng được mở rộng, năm 1992 với diện tích là 15.883 ha, năm 1995 là
21.189 ha, năm 1998 là 27.663 ha và năm 1999
là 29.319 ha.
ở nuôi trồng thủy sản cũng gặp tình cảnh số lượng hộ tăng nhưng sản lượng thu
hoạch thì có xu hướng giảm rõ rệt, từ 0,53 tấn/ha năm 1994 đến năm 1996 còn 0,39
tấn/ha, năm 1998 chỉ đạt 0,32 tấn/ha và năm 1999 chỉ còn 0,21 tấn/ha. Nguyên nhân của
việc giảm mạnh do diện tích nuôi sò giảm vì nước ngọt từ các kênh xả lũ biển gây ảnh
hưởng đến môi trường sinh sản của sò giống.
Vừa qua chỉ mới tập trung chủ yếu vào nuôi tôm nước lợ, nuôi sò huyết, cá ao,
mương vườn, nuôi cá ruộng lúa... nên quy mô nuôi còn nhỏ, chưa tập trung.
Chủ lực trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản là hộ gia đình, hiệu quả kinh tế quá
thấp, thậm chí bị mất mùa nên việc tích tụ vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất không lớn,
mức đầu tư năm 1995 là 12,5 tỷ trên tổng diện tích là 21.189 ha, bình quân mức đầu tư là
3.041.362 đồng trên một ha. Đến năm 1998 tổng mức đầu tư là 14 tỷ đồng trên tổng diện
tích 27.662 ha, bình quân mức đầu tư là 506.091 đồng trên 1 ha và bình quân một hộ đầu
tư là 2.666.000 đồng.
Như vậy tính từ 1995-1998, mức đầu tư bình quân theo hộ thì tăng nhưng theo
diện tích thì giảm.
Lĩnh vực chế biến thủy sản:
Kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu là chế biến nước mắm,
mực khô, sơ chế mực, cá khô, tôm khô, ngân chỉ... đặc biệt có nước mắm chiếm 67%.
Với phương pháp chế biến thủ công và dựa vào kinh nghiệm gia truyền là chính.
Qua các năm công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển chậm, thậm chí có xu hướng
giảm, còn doanh nghiệp tư nhân cá nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT
thì phát triển đều đặn, mức đầu tư phát triển vừa, ổn định, năm 1995 mức đầu tư đạt 12,5
tỷ đồng đến năm 1997 mức đầu tư tăng thêm 7,1 tỷ đồng. Trong đó có một doanh nghiệp
tư nhân đầu tư 6,3 tỷ đổi mới dây chuyền chế biến cá bột, và năm 1999 có 2 doanh
nghiệp tư nhân ở Phú Quốc đã xuất khẩu sang Pháp 260.000 lít nước mắm đạt 650.000
USD
Trong lĩnh vực này, kinh tế tư nhân đã thu hút hàng ngàn lao động.
Dịch vụ hậu cần:
Kinh tế tư nhân phát triển chủ yếu trong dịch vụ đóng tàu, sửa chữa tàu thuyền,
cung cấp nước đá cho lực lượng tàu thuyền khai thác hải sản. Xu hướng này ngày càng
phát triển do nhu cầu đánh bắt xa bờ.
- Mức đầu tư của kinh tế tư nhân trong khu vực cơ khí và sửa chữa tàu thuyền đạt
qua các năm như sau: Năm 1995 là 12 tỷ đồng, năm 1997 là 14,4 tỷ đồng tăng gấp 1,2 lần so
với năm 1995, đến năm 1998 là 34 tỷ đồng.
- Còn trong chế biến nước đá với 67 nhà máy sản lượng sản xuất 17.448.000 cây,
mức đầu tư 1998 là 54,205 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực dịch vụ hậu cần, so với kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước đầu tư
rất mạnh, nhất là vào xây dựng cảng cá.
Có hơn 68 cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu phục vụ cho khai thác thủy sản, trong
đó có một cơ sở của công ty quốc doanh đánh cá Kiên Giang, còn lại kinh tế tư nhân có
khả năng đóng mới 200-300 tàu/năm và phục vụ sửa chữa hàng ngàn tàu thuyền các loại,
đủ sức đóng và sửa chữa tàu thuyền có công suất từ 600 CV trở xuống. Vận chuyển hàng
thủy sản trên bộ ưu thế thuộc về kinh tế tư nhân, đáp ứng được yêu cần vận chuyển hàng
hải sản ngày càng cao. Kinh tế tư nhân cũng nắm phần lớn cơ khí sản xuất, vật tư trang
thiết bị cho nghề cá.
Thương mại thủy sản:
Trong lĩnh vực này kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ nhanh, từ năm 1990 -
1999 hầu như chiếm lĩnh thị trường nội địa, tiêu thụ khối lượng lớn hải sản khai thác được.
Điều này được chứng minh qua bản thống kê sau.
Biểu số 8: Tình hình thu mua tiêu thụ hải sản
qua các năm 1990 - 1999
Năm
Tổng Sản
lượng khai
thác (tấn)
Kinh tế Nhà
nước thu mua
chế biến XK
Kinh tế tư
nhân thu mua
đưa vào lưu
thông
Tỷ lệ % sản lượng thu
mua
Kinh tế
Nhà nước
Kinh tế
tư nhân
199
0
93000 24000 69000 25,80 74,20
199
1
102500 40000 62500 39,02 60,98
199
2
112000 47196 64804 42,14 57,86
199
3
140000 50500 89500 36,07 63,93
199
4
155000 48600 106400 31,35 68,65
199
5
170200 80050 90150 47,03 52,97
199
6
190756 121000 69765 63,42 36,58
199
7
196535 117923 78612 60,00 40,00
199
8
210100 104577 105523 49,77 50,23
199
9
218500 103650 114850 47,40 52,60
(Nguồn: Báo cáo Sở Thủy sản Kiên Giang qua các năm).
Những năm đầu của thập kỷ 90 kinh tế tư nhân chiếm ưu thế trong lĩnh vực thu
mua nguồn hàng, từ những năm 1995 trở về sau tỷ trọng của kinh tế Nhà nước không
ngừng gia tăng, từ 47,03% năm 1995 lên 63,42% của năm 1996, sau đó thì có dấu hiệu
giảm xuống, năm 1997 còn 60%, năm 1998 còn 49,77% và 1999 là 47,4%.
Tỷ lệ thu mua và tiêu thụ như vậy, nhưng thực tế kinh tế Nhà nước chỉ cung cấp
tôm đông, cá đông, mực đông, hải sản khác có giá trị kinh tế để xuất khẩu và phần lớn là
sản lượng cá xô để đưa vào chế biến bột cá làm thức ăn gia súc, còn lượng thủy sản dùng
làm thực phẩm tươi, khô vẫn do tư nhân nắm phần chủ động điều phối thị trường trong
tỉnh.
2.1.3. Sự đóng góp của kinh tế tư nhân đối với tỉnh
Số liệu thực hiện những chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế tư nhân hoạt động sản xuất,
kinh doanh trong ngành thủy sản cho thấy:
Về sản lượng: năm 1998 kinh tế tư nhân khai thác được 169.004 tấn chiếm
79,30% tổng sản lượng khai thác thủy sản của tỉnh và năm 1999 đạt 181.300 tấn chiếm
82,97%, đáp ứng phần lớn nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Vị chế biến: Trong tổng sản lượng chế biến của toàn ngành thủy sản năm 1998 là
38.514 tấn, bao gồm các mặt hàng: cá đông, tôm đông, mực đông, cá fillet, ghẹ đông, bột
cá, cá hộp, hải sản đông lạnh khác và cá khô, tôm khô các loại, nước mắm, trong đó kinh
tế tư nhân đạt 18.232 tấn, chiếm 47,35% và năm 1999 chiếm 52,6%. Tuy tỷ lệ chế biến
của kinh tế tư nhân cao hơn kinh tế Nhà nước, nhưng xét giá trị sản lượng chế biến, kinh
tế Nhà nước đạt cao hơn nhiều vì chủ yếu doanh nghiệp Nhà nước chế biến các mặt hàng
dùng cho xuất khẩu như tôm đông, cá đông, mực đông, ghẹ đông, cá fillet, cá hộp,... còn
kinh tế tư nhân chủ yếu là sản phẩm chế biến cho tiêu thụ nội địa như cá, mực, tôm dạng
khô và nước mắm, một số ít sản lượng nước mắm xuất khẩu.
Về nuôi trồng: năm 1998 tổng sản lượng là 8.947 tấn, và năm 1999 là 6387 tấn,
trong đó kinh tế tư nhân mà chủ yếu là kinh tế hộ gia đình chiếm ưu thế gần như tuyệt
đối.
Về doanh thu: các thành phần kinh tế trong năm 1998 đạt 1.540,167 tỷ đồng
trong đó kinh tế tư nhân thực hiện 1.132,00 tỷ đồng chiếm 73,50%.
Về vốn: các thành phần kinh tế trong năm 1998 đầu tư 2.280,145tỷ đồng: Trong
đó kinh tế tư nhân đầu tư 2.191,520 tỷ đồng, chiếm 96,115%, chủ yếu là đầu tư vào lĩnh
vực khai thác; năm 1999 chỉ trong lĩnh vực khai thác tư nhân đã đầu tư là 31.909,635 tỷ
đồng. Chứng tỏ sức huy động vốn của dân vào lĩnh vực kinh tế thủy sản rất cao.
Về lao động: số lượng lao động bình quân trong ngành thủy sản Kiên Giang năm
1998 là 48.076 người, trực tiếp vào hoạt động nghề cá, kinh tế tư nhân : 45.619 người,
chiếm 94,89%. Bên cạnh đó còn tạo ra hàng ngàn việc làm khác, như vá lưới, vận
chuyển...
Về lương bình quân: năm 1998 lương bình quân trong kinh tế Nhà nước là
806.000 đồng/tháng/người; lương bình quân trong kinh tế tập thể là 600.000 đồng; lương
bình quân trong kinh tế tư bản nhà nước là 900.000 đồng; lương bình quân trong kinh tế
tư nhân là 500.000 đồng.
Trên thực tế thành phần tư bản nhà nước tại Kiên Giang kinh doanh trong năm
1996-1997 lỗ và năm 1998 chỉ lời có 410 triệu đồng (theo số liệu báo cáo tình hình hoạt
động tài chính của doanh nghiệp), sở dĩ lương bình quân cao do doanh nghiệp được miễn
thuế lợi tức trong các năm đầu theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, công nhân làm
việc được trả lương theo công việc hợp đồng và giờ giấc khắt khe. Ngoài ra họ không
đảm bảo đúng một số chế độ cho người lao động. Từ cuối năm 1998 đến nay thì không
còn kinh tế tư bản nhà nước trong ngành này vì làm ăn thua lỗ, đã giải thể.
Người lao động trong kinh tế tư nhân có mức thu nhập thấp hơn so với các thành
phần kinh tế khác trong ngành(500.000đ/tháng), nhưng giờ công lao động thì tương đối
thoáng, chẳng hạn như trong lĩnh vực khai thác tuy doanh thu chiếm tỷ trọng cao, nhưng
thời gian lao động chỉ có 9 tháng là tối đa; trong nuôi trồng, chế biến, hệ số ngày giờ
trong lao động cũng chỉ chiếm trên dưới 70%.
Về nộp ngân sách: trong năm 1998 đạt 35,900 tỷ đồng trong đó kinh tế Nhà nước
nộp 15,500 tỷ đồng, kinh tế tư nhân nộp 20,400 tỷ, chiếm 56,82%. So tỷ lệ nộp ngân sách
trên doanh thu thì kinh tế Nhà nước: 15,500 tỷ/ 373,6 tỷ = 0,0414 (4,14%); kinh tế tư
nhân: 20,900 tỷ/1.132tỷ = 0,01846 (1,846%).
Mặc dù số liệu chưa thật chuẩn xác, nhưng cũng cho thấy mức thu ngân sách
chênh lệch nhau khá nhiều, vì thành phần kinh tế tư nhân chủ yếu áp dụng mức thuế khoán
nên còn thất thu. Năm 1999, kinh tế tư nhân nộp ngân sách là 15,3 tỷ đồng chiếm 55,63%
tổng nộp ngân sách của toàn ngành.
Về lợi nhuận: ngành thủy sản của tỉnh trong năm 1998 thu được khoảng 87,874 tỷ
đồng, trong đó kinh tế Nhà nước: 13,5 tỷ, chiếm 15,362%; kinh tế tư nhân: 73,580 ty,
chiếm 83,736%.
Xem xét tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu cho thấy kinh tế Nhà nước: 13,5/373,6 =
0,0361 (3,613%); kinh tế tư nhân: 73,580/1.132 = 0,065 (6,5%). Con số này một phần nói
lên hiệu quả kinh doanh, một phần chỉ rõ yếu tố thất thu thuế, nhờ đó kinh tế tư nhân có
tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao hơn hẳn kinh tế Nhà nước trong ngành.
Từ sự phân tích một số chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế tư nhân so với các loại hình
kinh tế khác hoạt động trong ngành thủy sản, từ năm 1998 đến 1999, tuy chưa đầy đủ
nhưng cũng cho ta một cách nhìn tổng quát về sự đóng góp quan trọng của kinh tế tư
nhân cho sự phát triển của ngành, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu thập cho người
lao động và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách của tỉnh, và càng khẳng định thêm sự
cần thiết tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở ngành này.
2.1.4. Về cơ chế hoạt động
Chủ doanh nghiệp tư nhân là người trực tiếp sở hữu vốn, nên có chủ đích thực và
các quan hệ liên quan tới tài sản như thế chấp, thuê mướn, kế thừa... rõ ràng, sòng phẳng.
Lợi ích cá nhân gắn với sở hữu tư nhân là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển,
và quyền hạn, trách nhiệm nghĩa vụ, quyền lợi gắn chặt với nhau, do đó, các cơ sở kinh tế
tư nhân có tính chủ động cao, năng động ứng xử trước những biến động thị trường, bộ
máy quản lý doanh nghiệp thường đơn giản, gọn, nhẹ. Quan hệ kinh tế tư nhân với quản
lý Nhà nước có phần đơn giản hơn. Nhà nước không cần đầu tư trực tiếp lớn cho khu vực
kinh tế này mà chỉ cần có chiến lược, chính sách đúng đắn để khuyến khích phát triển và
hỗ trợ khi cần.
Mục đích hoạt động của kinh tế tư nhân thường rõ ràng và đơn giản là thu lợi
nhuận tối đa, không bị các mục tiêu kinh tế - xã hội khác chi phối như đối với doanh
nghiệp Nhà nước; đây là phương thức tối ưu hóa cục bộ hiệu quả kinh tế. Các chủ doanh
nghiệp có thể chủ động, nhanh nhạy chớp thời cơ kinh doanh.
2.1.5. Hạn chế của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang
Thông qua sự xem xét kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng,
chế biến, dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản ở Kiên Giang ta thấy nổi lên những hạn
chế như sau:
Khai thác: Nguồn thủy sản vùng ven bờ đang có dấu hiệu ngày càng cạn kiệt, cụ
thể sản lượng khai thác bình quân /CV/năm có xu hướng giảm dần xuống qua các năm;
trong cơ cấu sản lượng khai thác được thì các loại thủy sản có giá trị kinh tế thấp tăng. Số
lượng tàu thuyền có công suất nhỏ còn quá lớn, hiện nay những tàu thuyền có công suất
dưới 29 CV chiếm đến 53,55% tổng số tàu thuyền của tỉnh, loại tàu này chủ yếu khai thác
ven bờ. Sản lượng hải sản khai thác tại Kiên Giang cho đến nay đã vượt quá khả năng
cho phép, với trữ lượng các loại hải sản được xác định (qua điều tra khảo sát) là 464.660
tấn, khả năng cho phép khai thác dưới 40% trữ lượng, bằng 208400 tấn/năm, trên thực tế
sản lượng khai thác qua các năm như sau:
Năm 1992 là 112.000 tấn đạt 53,74% sản lượng cho phép; chỉ tiêu tương ứng năm 1993
là 140.000 tấn và 68,17%; 1994 là 155.000 tấn và 74,38%; 1995 là 170.200 tấn và 81,67%; 1996
là 190.765 tấn và 91,54%; 1997 là 196.535 tấn và 94,31%; 1998 là 210.100 tấn và 100,81%; 1999
là 218.500 tấn và 104,85%.
Số liệu trên chưa gồm sản lượng hải sản mà tàu thuyền các tỉnh bạn đến ngư
trường Kiên Giang khai thác. Như vậy, chỉ với lượng khai thác hải sản của tàu thuyền
trong tỉnh thì năm 1999 đã vượt 4,85% sản lượng cho phép khai thác. Điều này đòi hỏi
phải tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản đối với các loại hình kinh tế tham gia vào đây
để tránh tình trạng làm cạn kiệt nguồn tài nguyên.
Loại hình doanh nghiệp tư nhân trong khai thác thực tế vẫn chưa đăng ký đầy đủ
số lượng hoạt động theo Luật doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là đối với loại tàu thuyền có
công suất từ 20 CV trở xuống.
Nuôi trồng thủy sản: Do kinh tế hộ gia đình và tiểu chủ dựa trên cơ sở lợi thế của
điều kiện tự nhiên vùng ven biển, sông ngòi, mương vườn để phát triển nghề nuôi trồng
nên việc tổ chức nuôi trồng còn phân tán, quy mô nhỏ, tích lũy thấp, thiếu vốn, việc áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật còn là điều mới mẻ, phần lớn da vào kinh nghiệm tích lũy được qua
thực tế là chính.
Việc tổ chức sản xuất theo kiểu chuyên canh, thâm canh còn quá ít so với khả
năng và nguồn lợi.
Đầu tư của Nhà nước vào lĩnh vực này còn quá mỏng, do đó không đủ lực để
khai thác thế mạnh và hiệu quả nuôi trồng không cao, từ đó hạn chế việc tích lũy vốn để
tái đầu tư.
Chế biến: Mặc dù kinh tế tư nhân phát triển mạnh về số lượng nhưng quy mô
nhỏ, vốn đầu tư thấp, họ chỉ đa dạng những mặt hàng truyền thống và sơ chế những mặt
hàng tươi ướp đá cung cấp cho đơn vị chế biến xuất khẩu của Nhà nước. Các cơ sở chế
biến hàng tươi sống của kinh tế tư nhân đã gây ô nhiễm môi trường trầm trọng do các chất
thải không được xử lý.
Dịch vụ hậu cần nghề cá: Tuy ngành đóng tàu và sửa chữa tàu đủ sức phục vụ
cho nghề khai thác thủy sản trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh nhưng kỹ thuật chủ yếu là thủ
công và bán thủ công, phần lớn dựa vào kinh nghiệm của những người cao tuổi, hàng
chục cơ sở đóng tàu nằm rải rác phân tán ở các huyện, thị trong tỉnh.
Như vậy dịch vụ đóng, sửa tàu chỉ mới phát triển theo chiều rộng chưa đi vào
chiều sâu.
Vận tải tuy đã đáp ứng cho nhu cầu lưu thông nhưng kỹ thuật bảo quản hàng thủy
sản vận chuyển còn hạn chế, nhất là vận tải thủy, chỉ mới dùng phương pháp ướp đá nên
làm giảm chất lượng sản phẩm.
Việc tổ chức kinh doanh các dịch vụ hậu cần còn mang tính phiến diện, chưa
đồng bộ, thiếu cân đối, nhiều khâu còn bỏ trống, như sản xuất ngư lưới cụ, bao bì thủy
sản, trong khi đó nước đá lại có xu hướng sản xuất thừa (cung lớn hơn cầu).
Thương mại: Kinh tế tư nhân trong khâu lưu thông hàng thủy sản một mặt làm sôi
động thị trường, mặt khác gây ra tình trạng tranh mua tranh bán, tạo ra sự cạnh tranh không
lành mạnh, làm mất trật tự trong lĩnh vực này.
Về mặt phân tích, chúng ta chia ra từng lĩnh vực, nhưng trong thực tế hiện nay
ngày càng có nhiều doanh nghiệp hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nghề cá, tạo nên sự
khép kín đan xen nhau, nhìn chung các doanh nghiệp tư nhân có xu hướng ngày càng đa dạng
hóa ngành nghề kinh doanh.
Về cơ chế chính sách: Phát triển tàu có công suất lớn để khai thác xa bờ là một
chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đang được triển khai rầm rộ, nhưng thực
hiện chưa có trọng tâm, trọng điểm, mà theo kiểu rải mành, chưa kết hợp với công nghiệp
hóa ngành khai thác của tỉnh.
Chính sách đầu tư vào nghề cá trên các lĩnh vực chưa được cân đối đồng bộ, đã
ảnh hưởng đến phát triển nguồn lực, nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên và nuôi
trồng.
Hiện nay, các ngành chức năng vẫn chưa có số liệu nghiên cứu thật chính xác về
trữ lượng cũng như khả năng khai thác cho phép trên ngư trường Kiên Giang. Hiện tại,
chúng ta dựa vào kết quả điều tra nghiên cứu của tổ chức FAO (thời kỳ 1968 - 1971) của
Viện nghiên cứu hải sản - Bộ thủy sản (1978 - 1981) và tài liệu thăm dò, khai thác của
Liên Xô trong các năm 1978 - 1986 cùng thực tế khai thác của ngư dân qua các năm để
dự tính nguồn lợi hải sản vùng biển Kiên Giang.
Chính sách đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng còn quá hạn hẹp so với tiềm năng sẵn
có.
Nhìn chung, kinh tế tư nhân hoạt động trên các lĩnh vực của nghề cá đã có những
đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, nhưng vì quá chú trọng tới lợi
ích cá nhân, lợi ích trước mắt, chạy theo lợi nhuận, nên cũng gây ra tình trạng không bình
thường trong quan hệ kinh tế, mất ổn định xã hội, ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, việc thực hiện các chế độ chính
sách đối với người lao động chưa được quan tâm thỏa đáng, chưa nghiêm chỉnh chấp
hành đăng ký kinh doanh.
2.2. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển lành mạnh kinh tế tư nhân
trong ngành thủy sản Kiên Giang
Để khắc phục những điểm hạn chế của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở
Kiên Giang đã nêu trên, cần phải giải quyết một số vấn đề cấp thiết để tiếp tục phát triển
loại hình này:
2.2.1. Việc quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong một số lĩnh
vực còn lỏng lẻo
Còn hàng trăm tàu có công suất nhỏ khai thác ven bờ, chưa đăng ký kinh doanh,
khi có chủ trương cấm khai thác thủy sản ven bờ thì nhiều ngư dân gặp khó khăn. Việc
đăng ký quản lý kiểm tra tàu từ 20 CV trở xuống thiếu chặt chẽ, một số huyện vẫn tiếp
tục cho đóng mới và đăng ký tàu nhỏ cào bờ, xiệp mé. Vì vậy, tình trạng khai thác thủy
sản ven bờ vượt quá sản lượng cho phép cứ tiếp diễn.
Nhà nước chưa có chính sách đầu tư hợp lý vào ngành thủy sản, đặc biệt là lĩnh
vực nuôi trồng và khai thác. Việc điều tra, quy hoạch còn yếu, thiếu cán bộ kỹ thuật,
thiếu các biện pháp khoa học đồng bộ về giống, thức ăn và phòng trị bệnh... nên sản
lượng thu được rất thấp.
Chính sách thuế khoán đối với kinh tế tư nhân không hợp lý, nhưng chậm được
sửa đổi, nên thất thu nhiều, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa kinh tế tư nhân với
kinh tế Nhà nước trên địa bàn tỉnh. Theo thuế khoán thì kinh doanh lỗ hay lãi đều phải
nộp như nhau. Mặt khác, khoán quá thấp thì thất thu, khoán quá cao thì nhiều đơn vị
không kham nổi, phải ngừng kinh doanh chờ thời cơ, thậm chí bỏ nghề. Qua khảo sát của
ngành thuế trong tháng 5/1999 đối với nghề cào đơn, cào đôi máy từ 250 CV, nếu tỷ lệ
điều tiết thuế là 6,25% trên doanh thu như hiện nay thì số thuế thu được là 40,07 triệu,
nhưng trên thực tế chỉ thu được 26,21 triệu đồng, tức chênh lệch so với thuế khoán là
13,36 triệu đồng. Tổng hợp kết quả khảo sát tất cả các nghề trong lĩnh vực khai thác thủy
sản tháng 5/1999 thì bị thất thu thuế trên 14% doanh số.
Trong lĩnh vực thương mại, sự bất hợp lý của thuế khoán lại thể hiện ở tình trạng
thuế chồng lên thuế. Chẳng hạn, một chủ kinh doanh mua, bán hải sản có dùng phương
tiện tàu, thuyền thì phải chịu đến 3 lần thuế trên một sản phẩm: khi tàu đi thu mua trên
biển hàng tháng phải đóng thuế khoán khoảng 3 triệu đồng/tàu; khi chuyển hàng ra khỏi
tỉnh thì phải đóng thuế buôn bán chuyến trên doanh số lô hàng chở đi, ngoài ra hàng
tháng đơn vị đó phải đóng thêm một khoản thuế cho điểm cố định của mình. Bởi thế, đơn
vị nào muốn tồn tại, có lợi nhuận, phải tìm cách trốn lậu thuế. Thí dụ: đơn cử hộ Lê Thị
Thuận (Năm Thuận) ở thị xã Rạch Giá, năm 1998, thuế thu từ tàu đi thu mua trên biển là
300.475.000 đồng, thuế khoán điểm cố định: 83.098.300 đồng, thuế lượng hàng chuyển
bán ngoài tỉnh là 370.201.200 đồng; tổng số thuế đã thu cho ngân sách là 753.765.000
đồng. Với tỷ lệ điều tiết là 4,25% của cả ba hình thức kinh doanh thì ngành thuế đã quản
lý được doanh thu 17,777.485 tỷ đồng, nhưng trên thực tế doanh số cao hơn.
Các số liệu trong báo cáo của Chi cục thuế cho thấy: hiện có 190 cơ sở hoạt
động, nhưng trên thực tế con số này lớn hơn nhiều vì nhiều doanh nghiệp không đăng ký,
nghĩa là thất thu cả về số hộ cả về doanh số.
Từ khi thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
(01/01/1999) hàng chục doanh nghiệp tư nhân xin giải thể, nhưng lại biến tướng hoạt
động theo Nghị định 66/HĐBT để lẩn tránh thuế.
Trong lĩnh vực chế biến hải sản, chủ yếu là sơ chế, tiêu thụ trong nước là chính,
thì điểm nổi bật là chưa xác định được đầy đủ nguồn nguyên liệu mua vào, tỷ lệ hao hụt
trong quá trình sơ chế và số lượng bán thành phẩm bán ra, do chưa thực hiện đầy đủ chế
độ kế toán, ghi chép sổ sách tại cơ sở, nên việc quy định nghĩa vụ mang tính chất ước
lượng bình quân. Do đó, các cơ sở chế biến thường tìm cách luồn lách, gian lận thuế. Theo
số liệu của Chi cục thuế thì mới chỉ quản lý được 80% doanh số mua vào, bán ra.
Nhà nước cũng thất thu trong lĩnh vực đóng tàu, sửa chữa tàu thuyền, theo báo
cáo liên ngành Thuế - Thủy sản, thì mới chỉ quản lý được khoảng 26%.
Việc tổ chức quản lý chất lượng hàng thủy sản của kinh tế tư nhân chưa chặt
chẽ, chưa ngăn chặn được việc tiêu thụ thủy sản kém phẩm chất. Thậm chí có một số cơ
sở vì chạy theo lợi nhuận đã không ngần ngại độn cả tạp chất vào nguyên liệu thủy sản.
Điều này đã vi phạm quy chế vệ sinh, an toàn thực phẩm, không những làm hại sức khỏe
người tiêu dùng mà còn làm mất uy tín hàng xuất khẩu của ta trên thị trường thế giới.
2.2.2. Quyền lợi của người lao động trong kinh tế tư nhân ở lĩnh vực thủy sản
chưa được đảm bảo
Các quyền lợi chính đáng của người lao động như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, chế độ bảo đảm an toàn lao động vừa qua ít được chủ quan tâm mặc dù Nhà nước đã
có quy định thành luật. Điều này dẫn đến một sự đau lòng là hàng trăm ngư dân bị thiệt
mạng trong cơn bão số 5-1997 do không đủ phao cứu sinh trên tàu đánh cá. Đó là trách
nhiệm trước hết thuộc về người sử dụng lao động nhưng cũng phải thấy rằng đó còn là
trách nhiệm của những ngành chức năng thiếu kiểm tra, kiểm soát an toàn lao động cho
nghề cá cũng như thực hiện các chính sách do Nhà nước ban hành để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người lao động. Mặt khác, người lao động trong lĩnh vực khai thác thủy sản
còn chịu sự bóc lột qua cách ăn chia.
Hiện nay ở Kiên Giang, tỷ lệ ăn chia phổ biến là 6/4 hoặc 5/5 sau khi trừ chi phí
kể cả chi phí lên đá, khấu hao hàng năm, còn lại chủ được 6 thợ được 4, trong đó phân
chia theo tỷ lệ điểm từng người trên tàu, mà tài công và thợ máy, lưới trưởng được điểm
cao nhất, nhưng phần lớn tài công và chủ tàu là một. Đồng thời chủ tàu còn là người cung
cấp trực tiếp hậu cần cho từng chuyến biển, nên họ kê bao nhiêu người lao động biết bấy
nhiêu. Sau mỗi chuyến biển về chủ tàu thông báo lại cho người lao động như thế nào thì
họ biết như thế đó. Vậy là người lao động bị thiệt thòi nhiều đường, chỉ còn biết trông
cậy vào tăng sản lượng khai thác, còn chủ tàu thì sản lượng cao hay thấp vẫn được lời.
Trong lĩnh vực thương mại, chế biến thủy sản người lao động cũng chỉ biết nhận
tiền công được trả theo sự thỏa thuận miệng giữa chủ và người lao động, không có hợp
đồng lao động, nên giờ giấc, công việc tùy theo quyết định của chủ.
Phần lớn người lao động trong nghề cá có trình độ học vấn thấp, lao động giản
đơn là chủ yếu, do đó ít am hiểu về chính sách, pháp luật nên khó tự bảo vệ được lợi ích
chính đáng của mình. Mặt khác do sức ép cung về lao động phổ thông hiện nay quá lớn
so với cầu, vấn đề tìm việc nuôi thân và gia đình cực kỳ khó khăn, nên dù người lao động
có biết mình bị thiệt thòi cũng vẫn phải chấp nhận. Trong khi đó các ngành chức năng,
các tổ chức công đoàn hầu như chưa với tới được và chưa có cách giải quyết hợp lý. Dần
dần sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày một xa và tình trạng thiệt thòi của
người lao động ngày một nhiều, tạo nên hậu quả xã hội ngày càng nghiêm trọng.
2.2.3. Công tác quản lý vệ sinh môi trường chưa đạt yêu cầu đặt ra
Đây cũng là vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm vì việc xử lý vệ sinh môi
trường không tốt ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng dân cư.
Hiện nay việc xử lý chất thải khí, lỏng, rắn, tiếng động, chưa được tốt, đã gây ra
tình trạng ô nhiễm môi trường rất lớn, nhất là các cơ sở chế biến thủy sản, nguyên liệu
mau ươn, chống thối, mặc dù vừa qua các ngành chức năng đã rất cố gắng trong quản lý
vệ sinh môi trường nhưng ô nhiễm không giảm mà thậm chí còn tăng lên.
2.2.4. Việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến chưa đầy đủ và
đều đặn
Do việc cung ứng nguyên liệu chưa đầy đủ và đều đặn nên chưa tận dụng được
công suất máy móc, thiết bị để hạ giá thành sản phẩm, không tạo được việc làm thường
xuyên cho công nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động khai thác và nuôi trồng còn
thiếu sót, khó khăn. Vẫn còn những kiểu khai thác mang tính chất hủy diệt nguồn thủy
sản, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, số tàu công suất nhỏ còn nhiều, khai thác vẫn tập
trung gần bờ là chủ yếu. Hoạt động nuôi trồng thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, mang
nặng tính tự phát, nên tốc độ phát triển chậm so với các tỉnh lân cận, chủ yếu là kinh tế
hộ.
2.2.5. Vấn đề đào tạo, nâng cao kiến thức cho người lao động trong ngành
thủy sản Kiên Giang còn nhiều hạn chế
Về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật:
Vừa qua Sở thủy sản và các ngành chức năng của Kiên Giang đã có nhiều cố
gắng trong việc tuyên truyền phổ biến mọi chủ trương, chính sách có liên quan đến ngành
nhằm nâng cao sự hiểu biết của ngư dân, về pháp luật tránh những sai phạm. Song nhìn
chung hiện nay các hành vi vi phạm của kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực của ngành
thủy sản còn khá gay gắt, phổ biến nhất là hành vi vi phạm về bảo vệ nông lâm thủy sản
như sử dụng kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định, vi phạm vùng cấm, vi phạm đăng ký,
đăng kiểm, sử dụng chất nổ trong khai thác thủy sản. Thí dụ năm 1998 kiểm tra 3.133
lượt phương tiện thì xử lý 879, hay 6 tháng đầu năm 1999 kiểm tra 505 lượt phương tiện
trong đó xử lý 437 chiếc. Năm 1998 tổ chức 10 cuộc kiểm tra có 82 cơ sở vi phạm thủ tục
đăng ký kinh doanh, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1999 phát hiện 271 trường hợp vi phạm.
Nhìn chung, ý thức chấp hành các quy định về bảo vệ nông, lâm thủy sản của
ngư dân còn nhiều hạn chế.
Về thông tin tư vấn:
Hiện nay một trong những vấn đề khó khăn của kinh tế tư nhân là tình trạng thiếu
thông tin tư vấn. Ngành thủy sản Kiên Giang là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
nhưng lại đang đi thông tin. Vừa qua trung tâm khuyến ngư của tỉnh đã xây dựng được
chuyên mục thủy sản trên sóng phát thanh truyền hình tỉnh, đã phản ánh kịp thời các hoạt
động của ngành thủy sản trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến và bảo vệ
nguồn lợi, khoa học - công nghệ, môi trường đối với bà con ngư dân. Nhưng chuyên mục
thủy sản được phát sóng truyền thanh, truyền hình và một vài bài đăng trên báo địa
phương với thời lượng ngắn, nội dung hạn hẹp, không đủ để chuyển tải kịp thời lượng
thông tin tư vấn, nhất là còn nặng về lý thuyết, đề tài chưa phong phú, nghiên cứu thực
tiễn quá ít, vì vậy sức thuyết phục chưa cao. Phần lớn hoạt động của các cơ sở kinh tế tư
nhân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm để phát triển, vì thế nhiều nguồn lực kinh tế thủy sản
của tỉnh chưa được khai thác đầy đủ có hiệu quả.
Về khoa học - công nghệ:
Nhìn chung, Trung tâm khuyến ngư đã có nhiều cố gắng trong công tác tập huấn
chuyển giao công nghệ đến ngư dân. Chỉ hơn hai năm, 1997- 1998 và 6 tháng đầu năm
1999, đã mở được 77 lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cá nước ngọt, nuôi tôm nước lợ, cho hơn
5.950 lượt người tham gia, chủ yếu ở các huyện An Biên, An Minh, Giồng Riềng, Phú
Quốc, Hòn Đất, Châu Thành, thị xã Rạch Giá, giúp bà con nắm bắt những phương pháp
kỹ thuật nuôi thủy sản, cách phòng tránh bệnh nuôi tôm, cá nhưng cũng ở góc độ là
chuyển giao về mặt lý thuyết.
Ngành cũng kết hợp với Công ty Sao Biển tổ chức hội thảo về máy thủy trong
lĩnh vực khai thác với hơn 90 người tham dự, phục vụ cho chương trình đánh cá xa bờ và
đã mở lớp tập huấn kỹ thuật khai thác cho 69 ngư dân.
Bên cạnh đó ngành cũng đã xây dựng nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản thí điểm
và các chương trình khuyến ngư, như mô hình nuôi tôm, nuôi nghêu, nhưng kết quả thu
hoạch không đáng kể, thậm chí có công trình không thu hồi được vốn đầu tư, các chương
trình ươm tôm giống, sản xuất cá giống (cá sặc rằng) phát triển khá tốt.
Tuy nhiên, hoạt động khuyến ngư còn yếu, chưa toàn diện, các bài giảng trong
tập huấn còn nghèo nàn và nặng về lý thuyết, thiếu các mô hình chuẩn, các chương trình
thiết thực, lĩnh vực nghiên cứu khuyến ngư còn nghèo, cả về nội dung lẫn hình thức. Đôi
lúc còn đi sau ngư dân trong thực tiễn về chế biến khai thác, nuôi trồng nên chưa đáp ứng
yêu cầu thực tiễn của bà con ngư dân.Vì vậy, công tác tập huấn, chuyển giao công nghệ
thuộc các chương trình khuyến ngư hiệu quả còn thấp, nuôi trồng phát triển chậm và chưa
thật sự vững chắc. Có thể nói, trong thời gian qua công tác khuyến ngư chưa thật sự đi
vào cuộc sống của bà con ngư dân.
Kết luận chương 2
Kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang gồm nhiều hình thức đa dạng
trong tất cả các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần, thương mại.
Kinh tế tư nhân đã đóng góp đáng kể vào thành tựu phát triển của ngành này cả về tăng
sản lượng, tạo việc làm, nộp ngân sách, cải thiện đời sống ngư dân... Tuy nhiên, kinh tế
tư nhân cũng có nhiều mặt hạn chế, như khai thác ven bờ vượt quá sản lượng cho phép;
nuôi trồng còn phân tán, manh mún, thủ công; chế biến quy mô còn nhỏ và gây ô nhiễm
môi trường; trong thương mại còn hiện tượng tranh mua, tranh bán, cạnh tranh không
lành mạnh; cơ chế, chính sách của Nhà nước với kinh tế tư nhân còn những điểm chưa
phù hợp; quản lý của Nhà nước trong một số lĩnh vực còn lỏng lẻo, nhất là thất thu thuế;
việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, việc cung cấp thông tin và chuyển giao công
nghệ cho ngư dân còn nhiều hạn chế, nói một cách khác, công tác khuyến ngư chưa thật
sự đi vào cuộc sống của ngư dân.
Chương 3
Những giải pháp chủ yếu
để phát huy năng lực kinh tế tư nhân
trong ngành thủy sản ở Kiên Giang
Chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ngày càng hoàn
thiện, ổn định, đã tạo hành lang pháp lý và tâm lý an tâm cho ngư dân thúc đẩy nghề cá
phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản sẽ tăng đầu tư, ngày càng tăng
về số lượng và mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Xu hướng này là tất yếu vì:
Thứ nhất: trong nền kinh tế thị trường không cần thiết duy trì tỷ trọng lớn của
kinh tế Nhà nước, kinh tế nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định nào đó, ở những lĩnh
vực cần thiết, thuộc huyết mạch của nền kinh tế để đủ sức giữ vai trò chủ đạo và định
hướng các loại hình kinh tế khác và đảm bảo an ninh quốc phòng. Thực tiễn ở nước ta và
các nước khác cho thấy nhiều cơ sở kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả vì không
có người chịu trách nhiệm đích thực và thiếu khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh
của thị trường. Hiện nay, Nhà nước ta cũng đang chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp
Nhà nước thông qua cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê hoặc giải thể những doanh nghiệp
thua lỗ kéo dài.
Thứ hai: phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo thêm nhiều việc làm, tận dụng nguồn
lao động dồi dào; giảm thất nghiệp, giảm đói nghèo và tạo nguồn thu cho ngân sách.
Phương hướng chung: phát triển kinh tế thủy sản ở Kiên Giang trong những năm tới
là: tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển toàn diện, đồng bộ, tận dụng tối đa điều kiện sinh
thái đặc thù về cả khai thác, nuôi trồng, chế biến, thương mại và dịch vụ hậu cần, gắn với
bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển. Đi đôi với đẩy mạnh khai thác, từng bước đưa
ngành nuôi trồng thủy sản trở thành ngành sản xuất chính.
Theo hướng đó, trong thời gian tới kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên
Giang sẽ phát huy năng lực trên tất cả các lĩnh vực nói trên không hạn chế về số lượng và
quy mô, được khuyến khích làm giàu chính đáng, động viên tinh thần tương thân tương
ái, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước hạn chế sự bóc lột dẫn đến bần cùng hóa
người lao động, tiến theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Muốn vậy, cần thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau đây:
3.1. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
trong ngành thủy sản Kiên Giang
Đăng ký kinh doanh
Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty đã được Nhà nước ban hành tháng
12/1990 và có hiệu lực từ tháng 4/1991, Nghị định 66/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng có
hiệu lực từ 2/3/1992, kèm theo đó có các Nghị định, các Thông tư của các Bộ, Ngành liên
quan hướng dẫn thực hiện việc quản lý về đăng ký kinh doanh đối với loại hình kinh tế tư
nhân. Đối với ngành thủy sản theo Nghị định số 26 của Chính phủ ban hành ngày
7/5/1998 thì vốn pháp định của loại hình doanh nghiệp tư nhân là 150 triệu đồng, công ty
trách nhiệm hữu hạn là 300 triệu đồng, công ty cổ phần là 300 triệu đồng Việt Nam.
Thông tư 05 của liên bộ (Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tư pháp ngày 10/7/1998) quy định
về trình tự và thủ tục đăng ký của doanh nghiệp, đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính,
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế kinh doanh. Tuy vậy trong ngành thủy sản Kiên
Giang hiện nay vẫn còn khoảng 30% cơ sở chưa đăng ký kinh doanh theo luật định, một
phần do sự thiếu hiểu biết của người kinh doanh, một phần do các bước tiến hành để
hoàn thành thủ tục được cấp giấy phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
còn lắm khâu nhiều cửa (nhất là khâu thẩm định vốn, chứng nhận vốn doanh nghiệp tư
nhân trong lĩnh vực khai thác thủy sản). Vì vậy, để khuyến khích tự nguyện đăng ký kinh
doanh và quản lý tốt thì nên thống nhất cấp giấy phép thành lập các loại hình doanh
nghiệp và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh làm một (chỉ cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh). Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra nhằm thực hiện tốt hơn việc quản
lý đăng ký kinh doanh đối với mọi đơn vị kinh tế tư nhân.
Thống kê, kế toán
Công tác thống kê, kế toán của các đơn vị kinh tế tư nhân hoạt động trong ngành
thủy sản là một bài toán có quá nhiều ẩn số mà cho đến nay mặc dù có sự phối hợp của
các ngành chức năng cùng tham gia quản lý nhưng vẫn chưa tìm ra cách giải quyết tốt
nhất. Do đó phải tiến hành từng bước cho họ làm quen dần với chế độ thống kê, kế toán
mà Nhà nước quy định; phải hướng dẫn họ, tập hợp các chi phí hàng tháng hợp lý, hợp
pháp (có hóa đơn, chứng từ) kết hợp với sổ nhật ký sản lượng, sổ theo dõi bán hàng và khi đã
đủ điều kiện thì bắt buộc họ phải áp dụng chế độ thống kê, kế toán.
Cơ quan quản lý nên chọn một vài doanh nghiệp hay lĩnh vực nào đó trong nghề
cá và quy định thời gian làm thí điểm, rồi tiến đến việc thống nhất quản lý theo chế độ
thống kê, kế toán theo pháp lệnh, làm cơ sở để tính thuế.
Quản lý thuế
Với kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản đến thời điểm hiện nay chủ yếu là áp
dụng hình thức thu thuế khoán, và thất thu còn nhiều.
Để chống thất thu thuế, xây dựng một môi trường phát triển nền kinh tế thị
trường lành mạnh có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phát
huy đồng bộ hai chức năng của ngành thuế thì phải thực hiện chế độ kế toán, hạch toán
theo pháp lệnh thống kê, kế toán quy định hiện hành.
- Trong lĩnh vực khai thác, trong trường hợp chưa thể áp dụng chế độ thống kê,
kế toán như trong khâu khai thác thủy sản thì ngoài việc ban hành định mức sản lượng
chuẩn ổn định 3 năm phải điều chỉnh giá tính thuế kịp thời cho sát hợp với giá cả thị
trường từng thời điểm.
Có thể xem xét áp dụng sổ “Nhật ký sản lượng” trên từng tàu nhằm theo dõi sản
lượng khai thác, cơ cấu sản lượng để từ đó có cơ sở xây dựng sản lượng chuẩn cho từng
nghề, từng loại công suất máy tốt hơn, cũng như giúp cho việc nắm được doanh thu, sản
lượng thật của lĩnh vực khai thác.
- Trong khâu dịch vụ nghề cá, hướng dẫn cho các chủ tàu tập hợp các chi phí hợp
lý, hợp lệ (hóa đơn, chứng từ) gửi về cơ quan thuế hàng tháng để làm cơ sở kiểm tra chéo
các đối tượng kinh doanh trong từng lĩnh vực dịch vụ (trước mắt là mặt hàng xăng, dầu,
nước đá). Trên cơ sở đó giúp các đối tượng nộp thuế làm quen với chế độ thống kê, kế
toán theo quy định, tạo sự công bằng hợp lý trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế với
Nhà nước.
Mặt khác, cần đối chiếu số lượng tàu giữa ngành thuế quản lý và đăng kiểm để
tìm ra những tàu thuyền trên từng huyện, thị chưa đăng ký, kê khai nộp thuế theo luật
định.
Thường xuyên kết hợp với ngành thủy sản, kiểm ngư để kiểm tra việc chấp hành nộp
thuế thông qua công tác đăng kiểm hàng tháng, quý, năm.
- Trong khâu thu mua chế biến: (mua nguyên liệu bán thành phẩm) cần thống kê
số lượng hộ mua và sơ chế mặt hàng hải sản, từ đó tiến hành phân loại để có cách thu
thuế cho phù hợp. Nhất thiết phải bắt buộc các cơ sở thực hiện chế độ thống kê, kế toán
như: thống kê nguyên liệu mua vào (số lượng doanh số mua vào...), ghi chép chi phí trong
quá trình chế biến (điện nước, tỷ lệ hao hụt...), doanh thu bán ra cho từng kỳ... từ đó có
căn cứ huy động nguồn thu từng tháng, quý, năm của các đơn vị, cá nhân tốt hơn, tiến đến
thực hiện chế độ kế toán, hạch toán hoàn chỉnh, ổn định. Xem xét xây dựng định mức tiêu
hao nguyên liệu trong quá trình chế biến của từng mặt hàng áp dụng phạm vi cả tỉnh (nếu
là cơ sở thực hiện thuế khoán).
- Trong khâu dịch vụ sửa chữa đóng tàu thuyền: Tổ chức điều tra phân loại số
lượng đối tượng, hành nghề đóng mới, sửa chữa tàu thuyền trên phạm vi cả tỉnh nhằm bắt
buộc thực hiện chế độ kế toán thống kê theo quy định. Điều tra khảo sát, lập định mức
chung để tổ chức quản lý nguồn thu đối với trường hợp đóng mới tàu thuyền truyền thống
mà tỉnh đang áp dụng (áp dụng cho những cơ sở không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ chế độ kế toán). Cán bộ nghiệp vụ ngành kiểm tra, giám sát, hướng dẫn hai bên
(chủ ụ tàu và chủ phương tiện) lập hợp đồng dân sự cụ thể đóng mới hay gia công sửa
chữa... trên cơ sở đó, ngành thuế nắm danh sách theo từng tháng, quí làm cơ sở cho việc
xem xét doanh số hoạt động của các cơ sở đóng tàu để có mức thu sát hợp thực tế hơn,
đồng thời cũng giúp ngành thuế kiểm soát số phương tiện mới đi vào hoạt động. Các cơ
sở vừa đóng mới vừa sửa chữa tàu thuyền, nhưng hiện nay đều quản lý thuế khoán không
tách biệt rõ hai khâu. Có nhiều trường hợp chủ ụ tàu bao thầu hết nguyên vật liệu đầu vào
nhưng chỉ đóng thuế theo dạng gia công. Vì vậy, đối với những trường hợp chủ cơ sở gia
công lấy tiền công thì chủ đầu tư (chủ tàu) phải có các giấy tờ chứng minh nguồn gốc gỗ
của mình mua. Trường hợp chủ ụ tàu bao trọn gói thì hóa đơn cũng phải thể hiện rõ toàn
bộ giá thành theo hóa đơn đã lập trước đó.
- Trong lĩnh vực thương mại: Cần thống kê nắm lại các đối tượng kinh doanh
thủy sản (dạng buôn chuyến cố định và cả vừa cố định vừa buôn chuyến) để quản lý thu,
tránh thất thu về số hộ. Cán bộ thuế phối hợp với ngành thủy sản kiểm tra chặt chẽ các
điểm lên xuống hàng tại các bến cảng, bến tàu, mua bán trên biển và xử lý nghiêm minh
các đối tượng lên hàng thủy sản không đúng bến, không đúng cảng cá quy định. Cần tăng
cường kiểm tra các hoạt động mua bán thủy sản trên một số địa bàn và khu vực trọng
điểm của tỉnh, bắt buộc thực hiện chế độ thống kê, kế toán đối với một số doanh nghiệp
có quy mô hoạt động kinh doanh lớn. Kết hợp chặt chẽ với quản lý thị trường tăng cường
kiểm tra kiểm soát một số điểm tập kết hàng chuẩn bị vận chuyển đi nơi khác, ngăn chặn
kịp thời hiện tượng lậu trốn thuế, tích cực tăng cường các biện pháp quản lý thuế tại gốc.
Qua các phương tiện thông tin đại chúng mở rộng chuyên mục thuế, nêu gương
những cơ sở cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh lành mạnh, có trách nhiệm, ý thức
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, có nhiều hình thức khen thưởng cho
các cơ sở làm tốt và phạt nặng đối với những cơ sở trốn lậu thuế, luồn lách trong quá
trình sản xuất, kinh doanh. Ngành thuế cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ
sở mới phát sinh đăng ký, kê khai kịp thời, kết hợp chặt chẽ với lực lượng biên phòng,
quản lý thị trường, các cơ quan hải sản ở địa phương.
Khoa học công nghệ và môi trường
Trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường, các chương trình về khoa học công nghệ và
môi trường đối với khu vực kinh tế tư nhân, để quản lý về mặt Nhà nước chặt chẽ hơn,
ngành thủy sản cần phải:
- Quy định loại công nghệ theo chiến lược phát triển kinh tế của ngành thủy sản
trong từng thời kỳ. Mục tiêu đề ra cho năm 2000 là chủ động sản xuất giống các loại tôm,
cá có giá trị kinh tế cao, phục vụ cho nghề nuôi tôm nước lợ, nuôi cá lồng bè và các loại
hình nuôi thủy sản khác, trước mắt cần sớm đưa vào sản xuất theo các quy trình công
nghệ của các trường, viện và từ các đề tài nghiên cứu thực nghiệm tại chỗ [37, 86].
- Quy định cụ thể về thẩm định dự án khi chuyển giao công nghệ từ nước ngoài
về.
Để quản lý về môi trường, tỉnh quy hoạch cụ thể khu vực được và không được
phép xây dựng các cơ sở sản xuất. Việc xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh có ảnh
hưởng đến môi trường phải được cơ quan quản lý môi trường xem xét, chấp nhận, chấm dứt
tình trạng làm xong mới xin giấy phép.
3.2. Coi trọng đầu tư phát triển nghề cá
Để phát triển thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải tranh
thủ huy động tối đa mọi nguồn vốn để đầu tư vào các lĩnh vực của nghề cá. Những năm
trước đây, do thiếu vốn nên các công trình xây dựng không đồng bộ, chậm đổi mới, mua
sắm phần lớn là tàu công suất nhỏ, không có khả năng khai thác xa bờ. Kết cấu hạ tầng
mang tính chất chắp vá, chưa tương xứng với yêu cầu sản xuất ngày càng tăng, nên chưa
tận dụng được các nguồn lực của tỉnh trong ngành thủy sản. Đã khắc phục tình trạng trên
cần chú trọng các lĩnh vực như sau:
Trước hết phải đầu tư phát triển mạnh phương tiện có công suất lớn, tổ chức
đánh bắt xa bờ, xa đảo, từng bước mở rộng ngư trường về biển Đông và Trường Sa để
nâng cao hiệu quả khai thác, đảm bảo giá trị kinh tế, gắn khai thác với bảo vệ nguồn lợi,
góp phần bảo vệ an ninh vùng biển.
Đầu tư cho chế biến thủy sản là một trong 3 chương trình kinh tế lớn của
ngành hiện nay. Cần khuyến khích ngư dân đầu tư mới để ứng dụng quy trình công
nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo yêu cầu ngày càng cao và tăng
nhanh giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Đầu tư cho nuôi trồng thủy sản: Những năm qua, ngành nuôi trồng thủy sản
Kiên Giang đã đạt những kết quả đáng kể nhưng so với tiềm năng tự nhiên còn rất nhiều
hạn chế và chưa trở thành ngành sản xuất chính. Nguyên nhân chủ yếu là bà con ngư dân
thiếu vốn và chưa nắm vững kỹ thuật nuôi, chưa chủ động được con giống và thức ăn,
còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên chưa phòng ngừa được dịch bệnh, nên năng
suất còn thấp. Dự kiến trong kế hoạch 2001 - 2010, số vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản
là 260 tỷ đồng, bình quân mỗi năm là 20 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho sản xuất giống và
thức ăn là 15,6 tỷ đồng, ngân sách chiếm 5,82%, vốn vay chiếm 66,61%, vốn tự có chiếm
27,57% [35, 85].
Thực hiện kế hoạch trên từng bước chuyển nuôi trồng thủy sản trở thành ngành
sản xuất chính, đi vào sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu cho chế biến và
nhu cầu của thị trường ngày càng cao.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để đáp ứng yêu cầu khai thác, chế biến, nuôi
trồng thủy sản, bao gồm các cảng cá, bến cá, các cơ sở dịch vụ hậu cần cho nghề cá.
Trước mắt cần tập trung xây dựng một số công trình chính trọng điểm như các cảng cá:
Tắc Cậu, An Thới, Nam Du, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, tàu kiểm ngư, dự kiến tổng số
vốn đầu tư là 315,066 tỷ đồng. Ngoài những công trình trên, Nhà nước cho ngư dân vay
vốn để đóng tàu lớn đánh bắt xa bờ, có chính sách ưu đãi và chỉ cho phép đóng mới tàu
cá có công suất được lắp đặt từ 45CV trở lên, nâng cấp các phương tiện cũ để đặt máy có
công suất cao, đồng thời chuyển dần những ngư dân không có khả năng đánh bắt xa bờ
sang nuôi trồng hải sản và Nhà nước hỗ trợ vốn bằng tín dụng ưu đãi. Xây dựng hoàn
chỉnh đề án tổ chức đội tàu khai thác của tỉnh với quy mô 188 chiếc có công suất 60 CV -
550 CV, dự kiến tổng đầu tư cho nghề cá nhân dân trong 10 năm (2001 - 2010) là 981 tỷ
đồng. Tỉnh đề nghị Trung ương đầu tư xây dựng khu trú bão cho tàu khai thác xa bờ giúp
bà con ngư dân thêm an tâm bám biển.
3.3. Quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý, bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân
Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong cộng đồng dân cư là
một tất yếu khách quan, nhưng vẫn phải quan tâm giải quyết những sự bất hợp lý trong tỷ
lệ ăn chia giữa người lao động với chủ, đặc biệt là ở lĩnh vực khai thác thủy sản. Để hạn
chế sự bất bình đẳng và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động trong khu vực
kinh tế tư nhân, Nhà nước cần phải có sự quản lý ngày càng chặt chẽ hơn. Phải nghiên
cứu đề xuất chính sách phân phối hợp lý trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản, thiết lập một
cách ăn chia mới. Đây là một việc làm rất khó khăn và phức tạp, bởi lẽ cách ăn chia cũ đã
tồn tại hàng chục năm và điều quan trọng là nhu cầu việc làm của lao động phổ thông còn
quá lớn. Giải quyết việc này là cả một quá trình xem xét, tính toán kỹ lưỡng trên nhiều
khía cạnh khác nhau để đạt mục đích, vừa giải quyết việc làm, vừa đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho người lao động và người sử dụng lao động. Để hạn chế đến mức thấp nhất
sự bất công trong phân phối, Nhà nước nên quy định mức lương tối thiểu cho người lao
động hàng tháng mà người sử dụng lao động phải trả. Đồng thời quy định người sử dụng
lao động cũng phải thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc và đảm bảo
an toàn cho người lao động, nhất là người lao động trên biển. An toàn lao động phải bao
gm an toàn về tính mạng, phương tiện và các cơ sở vật chất khác. Vùng biển Tây Nam Bộ
được xác định là một ngư trường trọng điểm của cả nước. Hàng năm có hàng chục ngàn
tàu thuyền của Kiên Giang và các địa phương khác đến hoạt động. Trong khi đó, thời tiết,
khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, vùng khơi thường xảy ra áp thấp nhiệt đới, gió bão
thất thường đe dọa đến tính mạng, tài sản của người sản xuất trên biển. Do đó cần phải có
các biện pháp đảm bảo an toàn cho người lao động, việc bảo đảm an toàn, giảm thiểu
những thiệt hại do bão gây ra phụ thuộc nhiều khâu: khả năng dự báo, mạng lưới thông
tin liên lạc, hướng dẫn phòng tránh, xây dựng những cơ sở hậu cần, bến bãi né tránh bão,
phương tiện cứu nạn, tổ chức quản lý chặt chẽ các hoạt động trên biển... Vì vậy để hạn
chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do gió bão gây ra buộc các chủ phương tiện phải
trang bị đầy đủ phao và phương tiện cứu sinh cho người lao động trên tàu. Mặt khác, Nhà
nước cũng phải gấp rút thực hiện dự án xây dựng khu trú bão an toàn cho tàu đánh bắt xa
bờ để giúp bà con ngư dân an tâm bám biển, tăng cường khả năng dự báo bão chính xác
và tăng cường kiểm tra các tàu thuyền trước khi ra khơi. Đó là những yêu cầu cấp bách và
hết sức cần thiết để đảm bảo an toàn trên biển và hạn chế thiệt hại do gió bão gây ra.
Chính quyền địa phương phải hướng dẫn, kiểm tra việc thực thi các văn bản pháp
luật về bảo hộ lao động, vệ sinh an toàn lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người
lao động, ký kết hợp đồng lao động... Như vậy, sẽ làm lành mạnh hóa quan hệ phân phối
cũng như chính sách xã hội đối với người lao động trong nghề cá ở Kiên Giang.
3.4. Tổ chức lại sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân trong ngành thủy
sản ở Kiên Giang
Nuôi trồng và khai thác thủy sản là hai ngành quan trọng cung cấp nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến thủy sản và hàng hóa cho thị trường. Trong tương lai nuôi trồng
thủy sản sẽ đóng vai trò chủ yếu. Do đó, trên cơ sở điều kiện tự nhiên của từng vùng,
từng khu vực cần bố trí tổ chức sản xuất của ngành nuôi trồng và khai thác một cách hài
hòa nhằm phục hồi khả năng sinh trưởng của nguồn lợi thủy sản, đảm bảo hiệu quả kinh
tế- xã hội nói chung.
Hiện nay chưa thiết lập được trật tự trong việc đánh bắt thủy sản, và còn tình
trạng mất cân đối giữa nuôi trồng và khai thác. Do đó, việc tổ chức lại sản xuất là vấn đề
cấp thiết đặt ra cho ngành thủy sản Kiên Giang.
Để giải quyết tốt vấn đề trên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nông lâm -
thủy lợi, kinh tế ven biển, hải đảo và một chính sách đầu tư thích đáng. Nhà nước có thể
giao diện tích mặt nước ven biển cho các đơn vị kinh tế tư nhân sử dụng, đầu tư vào nuôi
trồng có thời hạn như chính sách giao đất, giao rừng.
Khai thác thủy sản: Đây là ngành sản xuất vật chất cơ bản của nghề cá,
có vị trí quan trọng trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu cho chế biến, nó có nhiệm vụ
cắt đứt mối quan hệ giữa các tài nguyên thủy sản khỏi môi trường tự nhiên để tạo ra hàng
hóa cho tiêu dùng, chế biến xuất khẩu. Đồng thời, khai thác thủy sản cũng gắn liền với
đời sống và việc làm của hàng triệu ngư dân vùng ven biển và hải đảo. Do đó, phát triển
khu vực khai thác thủy sản phải gắn với vấn đề giải quyết việc làm và bảo đảm an ninh
quốc phòng.
Trong những năm qua, khai thác thủy sản đã vượt quá trữ lượng cho
phép, nhưng đặc thù của nguyên liệu thủy sản là khả năng phục hồi tự nhiên của các loại
động, thực vật thủy sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan của con người trong việc
khai thác và bảo vệ chúng. Từ đó, việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản là một
trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu thủy
sản; cho phép tạo ra khả năng khai thác vô tận để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã
hội. Ngoài ra, việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản còn có tác dụng tích cực góp
phần vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản cần chấm dứt
việc tự do mở rộng năng lực đánh bắt mà không theo quy hoạch các dự án đã được xem
xét kỹ. Thực hiện nghiêm quy hoạch của tỉnh [35, 92], không cho phép phát triển thêm,
đồng thời từng bước giảm dần số lượng phương tiện có công suất dưới 45 CV. Thời kỳ
2000 - 2005 không cho đăng ký nghề cào máy dưới 90 CV, cấm hẳn nghề cào máy dưới
20 CV hoạt động, giữ nguyên hiện trạng nghề cào máy từ 20 CV - 90 CV, chỉ cho đăng
ký mới nghề cào và vây công suất máy từ 90 CV trở lên, nghề câu công suất máy từ 60
CV trở lên. Thời kỳ 2005 - 2010, hạn chế phát triển thêm nghề cào, các nghề khai thác có
tính chọn lọc, chỉ cho đăng ký mới máy từ 90CV trở lên. Giảm dần số lượng tàu khai thác
vùng ven biển và thực hiện triệt để chỉ thị cấm cào bờ, xiệp mé, dù đây là nghề truyền
thống của ngư dân địa phương vì nó ảnh hưởng đến nguồn lợi tôm vùng biển, hạn chế các
nghề đáy sông, đăng mé, các nghề kết hợp ánh sáng, họ lưới rê, nghề câu.
Thực hiện quy định kích thước mắt lưới để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, từng bước
giảm dần tỷ lệ tôm, cá, mực con trong các mẻ lưới. Theo quy hoạch tổng thể phát triển
ngành thủy sản giai đoạn 2001- 2010 của tỉnh, quy định kích thước mắt lưới các nghề như
sau:
Bảng số 9: Quy định kích thước mắt lưới tại các mốc thời kỳ
Đơn vị tính: mm
Danh mục 1995-
2000
2001-
2005
2006-
2010
Cào tôm, cá (mắt lưới ở đụt cào)
+ Tàu có công suất máy < 100 cv
+ Tàu có công suất máy (100 cv
20
30
28
34
34
40
Lưới vây (trừ vây cá cơm) và các nghề kết hợp AS 18 18 18
Lưới vây cá cơm (mắt lưới phần từng lưới) 10 10 10
Các loại đăng 20 20 20
Đáy biển hàng cạn, đáy cửa sông, te, xiệp (mắt lưới
phần đụt)
18 18 18
Lưới rê cá trích 28 28 28
Lưới rê thu 90 90 90
Lưới rê tôm (lớp giữa) 44 44 44
(Nguồn: Quy hoạch tổng thể ngành thủy sản Kiên Giang đến năm 2010).
Nghiêm cấm khai thác các bãi sinh sản, các loài hải sản chưa đến tuổi khai thác và
quy định khai thác theo mùa. Đây cũng là những biện pháp áp dụng để bảo vệ nguồn lợi
ở thời kỳ quan trọng của chu kỳ sống của thủy sản như thời gian chúng đẻ trứng, cá chưa
trưởng thành. ở ngư trường Kiên Giang thường vào tháng 4 đến tháng 7 hàng năm là tôm,
cá đẻ rộ nhất và thường đẻ ở vùng từ 10 mét nước vào bờ, các bãi san hô, thảm thực vật,
đá ngầm. Trong khoảng thời gian này nên cấm khai thác vùng chúng sinh sản. Để đảm
bảo đời sống ổn định cho nhân dân vùng ven biển và huyện đảo, ngành có quy định mốc
thời gian các vùng cấm như sau:
- Vùng cấm quanh năm (đối với tất cả các nghề): từ bờ ra đến độ sâu 1 mét nước
và quanh các đảo từ bờ đảo ra 1 hải lý.
- Vùng cấm các nghề sát hại nhiều tôm, cá, mực con như xiệp, cào.. từ 1 mét
nước đến 5 mét nước.
- Vùng biển cần chú trọng bảo vệ là khu vực ven bờ có độ sâu nhỏ hơn 30 mét
nước. Vì đây là các bãi đẻ của cá, bãi giao vĩ của tôm và là nơi sinh sống của các loài hải
sản.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang 2.pdf