Tài liệu Luận văn Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên đại học Thái Nguyên hiện nay: LUẬN VĂN:
phát huy giá trị đạo đức truyền thống
của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức
mới cho sinh viên đại học thái nguyên
hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng xó hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đũi hỏi phải cú sự hy
sinh gian khổ, phải cú sức khoẻ và sự sỏng tạo. Thanh niờn là độ tuổi sung sức về thể
chất và phát triển về trí tuệ, thanh niên luôn năng động, sáng tạo và muốn khẳng định
mỡnh. Song do cũn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm nờn thanh niờn cần được sự giúp đỡ,
chăm lo bồi dưỡng của thế hệ đi trước và toàn xó hội. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đó thường xuyên quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn luyện thanh niên để họ trở thành những
người có đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được tương lai của Tổ quốc, của nhân dân. Trong Di
chúc của mỡnh, Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc làm rất...
117 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên đại học Thái Nguyên hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
phát huy giá trị đạo đức truyền thống
của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức
mới cho sinh viên đại học thái nguyên
hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là lực lượng xó hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đũi hỏi phải cú sự hy
sinh gian khổ, phải cú sức khoẻ và sự sỏng tạo. Thanh niờn là độ tuổi sung sức về thể
chất và phát triển về trí tuệ, thanh niên luôn năng động, sáng tạo và muốn khẳng định
mỡnh. Song do cũn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm nờn thanh niờn cần được sự giúp đỡ,
chăm lo bồi dưỡng của thế hệ đi trước và toàn xó hội. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đó thường xuyên quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn luyện thanh niên để họ trở thành những
người có đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được tương lai của Tổ quốc, của nhân dân. Trong Di
chúc của mỡnh, Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết".
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo hơn hai mươi năm qua đó
giành được nhiều thành tựu to lớn. Toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu để đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp nhằm mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh". Để đạt được mục tiêu này thỡ sự tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ kỹ thuật là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, sự tiến bộ kỹ thuật, sự
tăng trưởng kinh tế không thể tách rời sự tiến bộ về văn hoá - xó hội, sự phát triển con
người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đó nờu rừ:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc
biệt quan tâm giữ gỡn và nõng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát
huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức cội nguồn và lũng tự hào
dõn tộc; khắc phục tõm lý sựng bỏi đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các
giá trị nhân văn. Tiếp thu tinh hoa văn hoá các dân tộc trên thế giới, làm giàu
đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam [13, tr.11].
Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta khẳng định tại Đại hội lần thứ IX, lần X của
Đảng, rằng văn hoá là nền tảng tinh thần của xó hội, xõy dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó
hội. Điều đó đũi hỏi mỗi người Việt Nam, trong đó có đội ngũ sinh viên phải hiểu biết
sâu sắc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mỡnh, của cỏc thế hệ thanh niờn,
để tiếp tục phát huy những giá trị này trong cuộc sống hôm nay.
Chúng ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định
hướng xó hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa,
hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học cụng nghệ và tiếp xỳc với
văn hoá, lối sống hiện đại của thế giới. Những nhân tố này tác động mạnh mẽ đến mọi
lĩnh vực của đời sống xó hội, trong đó có đạo đức. Các giá trị nói chung, các giá trị đạo
đức nói riêng, đang vận động liên tục và ngày càng phức tạp. Nền kinh tế thị trường đó tỏ
rừ những ưu thế của nó trong đời sống hiện thực, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ
khoa học, công nghệ, đồng thời tạo ra điều kiện để con người bộc lộ khả năng của mỡnh,
con người trở nên năng động hơn, sáng tạo hơn, nhạy bén hơn, tự chủ hơn. Bên cạnh đó,
kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh các phản giá trị, tạo ra một bộ phận dân cư sống
thực dụng, cá nhân hẹp hũi, bất chấp đạo lý, sống gấp, lừa đảo…
Thế hệ thanh niên, trong đó có đội ngũ sinh viên, cũng đang hàng ngày hàng giờ bị
tác động bởi những nhân tố trên. Đáng lưu ý, sinh viờn là lực lượng đặc biệt quan trọng
và trong tương lai gần họ sẽ là lực lượng lao động có trỡnh độ, là bộ phận sẽ tham gia
vào đội ngũ trí thức góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hoá - xó hội của
đất nước. Bên cạnh đó, sinh viên đang phải đối mặt với nhiều áp lực sau khi ra trường về
việc làm, về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, tin học… mà sự phát triển của xó hội hiện
đại đũi hỏi. Trong khi đó, hàng ngày sinh viên đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế, điều
kiện học tập, nhà ở… Một bộ phận sinh viờn thiếu kiờn trỡ, nản chớ, mất niềm tin, mất
phương hướng… đó mắc vào cỏc tệ nạn xó hội, thậm chớ là phạm tội.
Đại học Thái Nguyên là một trường Đại học vùng, có số lượng sinh viên đông (năm
2008 là 69.174 người). Sinh viên của Trường cũng đang đứng trước những thách thức mà
sinh viên cả nước đang phải đối mặt.
Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nhận thức đúng đắn vai trũ của việc xõy
dựng đạo đức mới và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Thái Nguyên
nói riêng.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Phát huy giá trị truyền thống, trong đó có giá trị đạo đức và vấn đề xây dựng đạo
đức mới nói chung, xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ nói riêng đó được nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Đáng chú ý là cỏc
chuyờn khảo của cỏc nhà triết học, văn hoá học Xô Viết như:“Tính kế thừa trong sự phát
triển văn hoá” (Matxcơva, 1969) của E.A.Bale, “Nguyờn lý đạo đức cộng sản” (Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1961) của A.Si-Skin, “Đạo đức học” Tập I và II (Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1985) của G.Bandzeladze…
Ở nước ta, nhiều nhà khoa học đó đi sâu nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống
trong xây dựng đời sống văn hoá (trong đó có đời sống đạo đức) và con người Việt Nam
thời đại mới như: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của G.S. Trần
Văn Giàu (Nxb Khoa học xó hội, 1980), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh
tế và đạo đức trong đổi mới tư duy” của GS.TS Nguyễn Ngọc Long (Tạp chớ Nghiờn
cứu lý luận, 2/1987), “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS.Trần Đỡnh Hựu (Nxb Văn
hoá, Hà Nội 1995), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường trong việc định hướng
các giá trị đạo đức hiện nay” của TS Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, 6/1996), “Sự
tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của
PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia (Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận 2/1997), “Giỏ trị truyền thống,
nhõn lừi và sức sống bờn trong của sự phỏt triển đất nước, dân tộc” của PGS. Nguyễn
Văn Huyên (Tạp chí Triết học 4/1998),“Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta
hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999), “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh”
của PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (tạp chí triết học, 9/2005), “Từ đạo đức truyền thống
đến đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh” của PGS. TS. Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Nghiờn
cứu lý luận, 7/2006).
Vấn đề giữ gỡn và nõng cao giỏ trị đạo đức truyền thống cũng thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu như: Vũ Thị Huệ với luận văn thạc sỹ Triết học “Quan hệ giữa phát triển kinh tế thị
trường với việc giữ gỡn và nâng cao những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam”, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, Cao Thu Hằng với luận văn thạc sỹ Triết học
“Giá trị đạo đức truyền thống và sự phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002… Có những tác giả cũng đó đi sâu nghiên cứu việc
xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay như: Luận văn thạc sỹ triết học của Phan Văn Ba, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1998 “Vấn đề giáo dục truyền thống dân tộc
cho thế hệ trẻ hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Luận văn tiến sỹ triết học của Trần Sỹ Phán,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1999 “Giáo dục đạo đức và sự hỡnh
thành phỏt triển nhõn cỏch sinh viờn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Triết
học của Nguyễn Đỡnh Quế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000 “Quan
hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay (Qua thực
tế ở Tỉnh Kiên Giang)”, Hoàng Chớ Bảo, Tạp chớ Nghiờn cứu lý luận 1/1995 với bài: “Văn hoá
và sự phát triển nhân cách thanh niên”; “Mụ hỡnh nhõn cỏch thanh niờn năm 2000” của Phạm
Hoàng Gia, Hà Nội, 1990.
Vấn đề kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và xây dựng đạo đức mới ở nước ta
hiện nay đó được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, nhưng vấn đề phát huy giá trị
đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên ở
một Trường Đại học cụ thể như Đại học Thái Nguyên chưa có sự nghiên cứu mang tính
chuyên đề chuyên sâu. Vỡ vậy, tụi chọn đề tài: “Phát huy giá trị đạo đức truyền thống
của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên
hiện nay” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua thực tế ở một số Trường, Khoa thành viên trực thuộc Đại học Thái Nguyên,
phân tích thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rừ giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên Việt Nam
Thứ hai, phõn tớch vai trũ của giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong
việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay.
Thứ ba, làm rừ việc phỏt huy giỏ trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong xây
dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay là yêu cầu khách quan.
Thứ tư, phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại họcThái Nguyên hiện nay.
Thứ năm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền
thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học Thái
Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Những giá trị đạo đức truyền thống tích cực của thanh niên cần được đội ngũ sinh
viên kế thừa và phát huy .
- Luận văn chủ yếu tập trung phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức của
sinh viên hiện nay, nảy sinh từ khi Đảng chủ chương tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước đến nay (1986- 2009). Qua khảo sát thực tế ở một số sinh viên chính quy của các
Trường, Khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các công trỡnh
nghiờn cứu trong và ngoài nước liên quan tới nội dung được đề cập trong luận văn.
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử như sự thống nhất giữa lụgớc và lịch sử, giữa lý luận và thực
tiễn…Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp,
phương pháp điều tra xó hội học…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Phân tích tầm quan trọng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh
niên, những yêu cầu và thực trạng về việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên
Đại học Thái Nguyên, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả của việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ sinh viên nói chung và sinh viên Đại học
Thái Nguyên nói riêng.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần làm sảng tỏ sự cần thiết phải phát huy giá trị đạo đức truyền thống của
thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay trong đó có
sinh viên Đại học Thái Nguyên.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, các đoàn thể trực tiếp
làm công tác thanh niên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
2 chương, 6 tiết.
Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT
NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ Lí LUẬN
Khái niệm giá trị xuất hiện từ rất sớm. Thời kỳ cổ đại, khái niệm giá trị gắn chặt
với Triết học. Từ nửa sau thế kỷ XIX, khái niệm giá trị trở thành khái niệm trung tâm của
giá trị học. Hiện nay, khái niệm giá trị được sử dụng trong nhiều bộ môn khoa học xó hội
và nhõn văn khác nhau, như triết học, xó hội học, tõm lý học, đạo đức học, kinh tế học…
Trong kinh tế học, khái niệm giá trị gắn với hàng hoá hay vật phẩm, là sự kết tinh
của lao động xó hội trong hàng hoỏ hay vật phẩm đó. Hàng hoá có giá trị và giá trị sử
dụng. Theo cách tiếp cận triết học, khái niệm giá trị được xác định trong mối quan hệ
giữa khách thể và chủ thể, là bản thân sự vật với những thuộc tính bản chất khách quan
của nó và sự nhận thức (đánh giá) của chủ thể con người với khách thể đó. Giá trị là “giá
trị của đối tượng”, mang tính khách quan, nhưng lại là kết quả của sự đánh giá của chủ
thể về những phẩm chất, thuộc tính, bản chất vốn có của sự vật.
Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô (cũ) giá trị được định nghĩa là:
“Khái niệm triết học và xó hội học dựng để chỉ, thứ nhất tầm quan trọng có tính khẳng
định hoặc phủ định một khách thể nào đó, khác với đặc tính tồn tại và chất lượng của
khách thể này…; thứ hai, khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh – đánh giá của các hiện tượng
ý thức của xó hội” [16, tr.7].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết định nghĩa:
Giá trị là một sự khẳng định hay phủ định ý nghĩa của các đối tuợng
thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xó
hội núi chung. Giỏ trị được xác định không phải bởi bản tính các thuộc tính tự
nhiên mà bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi
hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thỳ và nhu cầu, cỏc mối quan
hệ xó hội, cỏc chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa núi trờn được biểu
hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và
mục đích [56, tr.51-52].
Trong việc định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, Ban thanh
niên trường học cho rằng: “Giá trị là những cái thuộc về sự vật, hiện tượng và những
thuộc tính của chúng, mà có ý nghĩa đối với xó hội, một nhúm người và cá nhân, với tư
cách là phương tiện thoả món những nhu cầu và lợi ớch, đồng thời biểu thị niềm tin của
con người về những mục đích và phương thức ứng xử lý tưởng” [2, tr.11].
Giá trị là phạm trù gắn với sự nhận thức đánh giá của chủ thể, do đó, trên thực tế,
từ góc độ các cá nhân do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, sự đánh giá một
sự vật hiện tượng nào đó về giá trị có thể có tỡnh trạng khụng thống nhất. Ở đây cần
khẳng định, tuy giá trị biểu thị tác dụng và ý nghĩa của một khách thể đối với cuộc sống
con người, nhưng giá trị không phải là sản phẩm được tạo ra từ hoạt động đánh giá của
con người. Bản thân hoạt động đánh giá không tạo ra giá trị mà chỉ góp phần phát hiện
giá trị trên cơ sở con người nhận thức về mức độ phù hợp, khả năng thoả món nhiều hay
ớt của khỏch thể đối với hệ thống những yêu cầu, đũi hỏi về vật chất cũng như tinh thần
của đời sống xó hội. Do vậy, khụng thể phủ nhận, cú những giỏ trị cú ý nghĩa trờn phạm
vi rộng, mang tớnh thực tiễn - lịch sử, mang tớnh xó hội. Nghĩa là cú những giỏ trị cú tỏc
dụng, cú ý nghĩa với cả cộng đồng xó hội, được xó hội thừa nhận, nú cũng giữ ý nghĩa
chuẩn mực xó hội. Mang ý nghĩa như chuẩn mực xó hội, giỏ trị cú tỏc dụng tớch cực, nú
định hướng phương thức ứng xử chung, phổ biến cho mọi cá nhân trong cộng đồng, điều
tiết, thẩm định đánh giá hành vi của các cá nhân, của xó hội (về nhu cầu, sở thớch, niềm
tin, lẽ sống, lý tưởng…). Như thế, giá trị là những gỡ hữu ớch gắn với chõn, thiện, mỹ.
Hệ thống giỏ trị xó hội vận động, biến đổi theo trỡnh độ nhận thức, nhu cầu phát
triển của cá nhân và cộng đồng. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xó hội cú
những quan niệm giỏ trị khỏc nhau. Những giỏ trị khi đó trở thành tài sản văn hoá tinh
thần chung của nhân loại và cộng đồng, thỡ cú ý nghĩa trường tồn. Lịch sử phát triển của
loài người là quá trỡnh khụng ngừng tỡm kiếm, nhận thức các chân giá trị, tích luỹ, chọn
lọc thành giá trị truyền thống, giá trị phổ quát, từ đó nó kế thừa và tỡm ra cỏc giỏ trị mới
phự hợp hơn với sự phát triển của con người và xó hội.
Từ đó, có thể nhấn mạnh các nội dung chủ yếu của phạm trù giá trị trên các khía
cạnh:
- Giỏ trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần, có khả năng thoả
món nhu cầu tớch cực của con người, là tất cả những gỡ đem lại sự phát triển, sự tiến bộ,
sự tốt đẹp cho con người và xó hội. Nội dung này của giỏ trị bao hàm trong nó sự phân
biệt với cái “phản giá trị”, “vô giá trị” đi ngược lại xu thế phát triển của lịch sử, ngăn cản
sự tiến bộ của xó hội.
- Giá trị có tính lịch sử, tính khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi
của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà do yêu
cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó con người sống và hoạt động. Ở mọi thời đại, mọi
giai đoạn lịch sử, con người không ngừng tỡm kiếm, nhận thức cỏc chõn giỏ trị, tớch luỹ,
chọn lọc tỡm ra cỏc giỏ trị mới phù hợp hơn cho sự phát triển của con người và xó hội.
Do đó, bên cạnh hệ giá trị truyền thống luôn song hành các hệ giá trị mới.
- Giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tỡnh cảm, hành vi của chủ thể (cỏ nhõn, giai
cấp, tộc người, cộng đồng quốc gia dân tộc…) trong quan hệ với các sự vật hiện tượng mang
giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của chủ thể.
- Giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn của con người, được xác định bởi
sự đánh giá đúng đắn của con người xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Thực tiễn “vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khỏch thể, vừa là tiờu chuẩn của
chõn lý về giỏ trị của khỏch thể” [8, tr.129]. V.I.Lênin viết: "… Toàn bộ thực tiễn của con
người - thực tiễn này vừa với tính cách là tiờu chuẩn của chõn lý vừa với tớnh cỏch là kẻ
xỏc định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con
người, cần phải được bao hàm trong "định nghĩa" đầy đủ của sự vật" [28, tr.364].
- Giá trị đóng vai trũ rất quan trọng trong đời sống của con người. Nó là cái con
người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của mỡnh. Là cỏi
con người mong muốn được theo đuổi.
Tóm lại: “Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đó bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp
có khả năng thôi thúc con người hành động và sự nỗ lực vươn tới” [7, tr.16-19].
Hỡnh thức biểu hiện của giỏ trị là đa dạng, phụ thuộc vào tính đa dạng của các hoạt
động và các mối quan hệ của con người. Trong nghiên cứu, ở cấp độ chung nhất, giá trị
được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị đạo đức là một yếu tố cấu thành của hệ thống các giá trị tinh thần trong đời
sống xó hội, được xác định là những chuẩn mực, những khuụn mẫu lý tưởng, những quy
tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người trên cơ sở tự nguyện tự
giác. Giá trị đạo đức “được đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xó hội, được
lương tâm đồng tỡnh, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức, vỡ thế, cú ý nghĩa thiết yếu
đối với đời sống xó hội" [25, tr.51].
Giá trị đạo đức xét theo chiều thời gian (lịch đại) có thể phân thành giá trị đạo đức
truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Mỗi dân tộc đều có các giá trị đạo đức truyền
thống được hỡnh thành trong suốt quỏ trỡnh hỡnh thành và phỏt triển của dõn tộc. Mỗi
dõn tộc khỏc nhau cú truyền thống khỏc nhau, cựng một dõn tộc, qua từng giai đoạn lịch
sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải khỏc nhau.
Đặc trưng của truyền thống là, thứ nhất, có tính ổn định và bền vững tương đối, lặp
đi lặp lại qua các thế hệ, trở thành những đức tính, thói quen, những phong tục tập quán
trong xó hội, trong cộng đồng. Truyền thống có sức sống dai dẳng, tồn tại lâu dài. Cái
nhất thời không phải là truyền thống; thứ hai là, truyền thống mang tính cộng đồng, được
cộng đồng thừa nhận ở nhiều cấp độ và hỡnh thức khỏc nhau; thứ ba là, truyền thống
mang tính lưu truyền từ đời này sang đời khác, góp phần quy định những chuẩn mực giá
trị, chuẩn mực ứng xử... trong cộng đồng, trong xó hội [46, tr.384]. Giá trị truyền thống
là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lừi văn hóa dân tộc, bởi nó được kết tinh
trong suốt quá trỡnh lịch sử dõn tộc [23, tr.8-11].
Truyền thống là sản phẩm của lịch sử, nên không thể ngay lập tức thay đổi, xoá bỏ.
Nhận thức này sẽ quy định thái độ của hiện tại đối với truyền thống. Sùng bái truyền
thống hoặc coi thường truyền thống đều dẫn đến những hậu quả tai hại. Sùng bái một
cách mù quáng đối với truyền thống, khụng phõn biệt những giỏ tớch cực với những gỡ
là lạc hậu, tiờu cực trong truyền thống, khụng tớnh đến những biến đổi khách quan trong
hiện đại mà đề cao thái quá truyền thống sẽ dẫn đến trỡ trệ, bảo thủ, cản trở tiến bộ.
Ngược lại, nếu coi thường truyền thống trong giải quyết các vấn đề của hiện tại và tương
lai, đoạn tuyệt với truyền thống sẽ dẫn đến sự phá huỷ tính kế thừa, tính liên tục trong sự
phát triển của xó hội. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dõn tộc nào dung hoà được các giá trị
truyền thống với các giá trị hiện đại, tỡm được phương thức biểu hiện mới của giá trị
truyền thống trong thời hiện đại thỡ sẽ phỏt triển. Nghĩa là cỏc giỏ trị truyền thống phải
được biến đổi phù hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trỡnh đó, các giá trị truyền thống
được gạn lọc, được kết hợp với các giá trị mới để tao nên hệ giá trị mới mang tinh thần
thời đại, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống nhưng lại có đặc điểm dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc ta, giá trị truyền thống đó cú những lần đối mặt với thách thức
của những hệ giá trị khác. Trong thời kỳ Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc đó thực hiện
chớnh sỏch ỏp đặt hệ giá trị nhằm đồng hoá văn hoá, nô dịch nhân dân ta. Khi thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, hệ giá trị truyền thống lại bị thách thức bởi hệ giá
trị của nền văn minh kỹ thuật phương Tây. Do yêu cầu đấu tranh giành lại và bảo vệ độc
lập dân tộc, các giá trị truyền thống đó cú sự biến đổi sâu sắc. Tuy vậy, vẫn có những giá
trị tiếp tục được thừa nhận và phát huy, kết hợp với những giá trị mới phù hợp với yêu
cầu phỏt triển xó hội. Từ khi lónh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xó hội, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hoá dân tộc, đại chúng,
hiện đại, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Khi bàn đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, giáo sư Nguyễn Hồng
Phong cho rằng: "tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền
thống bao gồm: tính thập thể - cộng đồng, trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn;
tinh thần yêu nước bất khuất và lũng yờu chuộng hũa bỡnh, nhõn đạo, lạc quan” [45,
tr.453-454].
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vỡ nghĩa [19,
tr.94].
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, trong những truyền thống quý bỏu của dõn tộc nổi bật
lờn nhất là truyền thống đạo đức và khẳng định truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc
ta gồm: lũng yờu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù, sáng tạo; tinh thần nhân
đạo, lũng yờu thương quý trong con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong
hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [24, tr.74-86].
Kết quả nghiên cứu của Chương trỡnh khoa học cụng nghệ cấp Nhà nước “Con
người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xó hội” (KX - 07), cũng
đó bước đầu khẳng định: cốt lừi của cỏc giỏ trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân
cách con người Việt Nam, bao gồm: tinh thần yêu nước, vỡ nghĩa, lũng thương người [9,
tr.32-34].
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng đó được đề cập đến trong một số
văn kiện của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết 9 của Bộ Chính trị “Về một số định hướng
lớn trong công tác tư tưởng” khẳng định: "Những giá trị văn hóa tinh thần bền vững của
dân tộc Việt Nam là lũng yờu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương
người như thể thương thân", đức tính cần cù vượt khó, sáng tạo trong lao động … Đó là
nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xó hội phỏt triển tiến
bộ cụng bằng, nhõn ỏi [12, tr.19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc” khẳng định:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là yêu nước nồng nàn, ý chớ tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đỡnh - làng xó - tổ quốc;
lũng nhõn ỏi, khoan dung, trọng nghĩa tỡnh, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong
lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống [14, tr.56].
Từ những quan điểm của Đảng ta và kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học,
có thể rút ra một số nhận xét về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như sau:
Một là, trong hệ thống các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta, giá trị đạo
đức chiếm vị trí nổi bật. Khi đề cập đến các giá trị văn hóa, giá trị tinh thần truyền thống,
hầu hết các ý kiến đều nhấn mạnh giá trị đạo đức.
Hai là, trong các giá trị đạo đức truyền thống, chủ nghĩa yêu nước được khẳng định
là cốt lừi, là giỏ trị định hướng cho các giá trị khác.
Ba là, một số phẩm chất đạo đức như tinh thần đoàn kết, lũng nhõn ỏi, đức tính cần
cù, tinh thần lạc quan…cũng thường được đề cập và coi đó là những giá trị đạo đức
truyền thống quý bỏu của dõn tộc ta.
Có thể khẳng định, các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm
chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết và ý thức cộng động sâu sắc; lũng thương người
sâu sắc; đức tính cần kiệm; lũng dũng cảm, tinh thần bất khuất, tớnh khiờm tốn, giản dị,
trung thực, thủy chung, lạc quan...
Trong hệ thống các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là
"tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị" [19, tr.94], là động lực tỡnh cảm lớn
nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức
của dân tộc ta [24, tr.74].
Yêu nước là tỉnh cảm phổ biến của các dân tộc trên thế giới. Yêu nước biểu hiện ở
sự hy vọng đối với đất nước, lũng trung thành với Tổ quốc, khát vọng hành động tích
cực để phục vụ và đem lại những lợi ích cho tổ quốc và nhân dân. V.I.Lênin đó từng
khẳng định: "Chủ nghĩa yêu nước là một trong những tỡnh cảm sõu sắc nhất đó được
củng cố qua hàng trăm, hàng nghỡn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập" [27, tr.226].
Song sự hỡnh thành sớm hay muộn, nội dung cụ thể, hỡnh thức và mức độ biểu hiện của
nó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc.
Đối với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước thấm sâu trong nhân dân như
mạch nước ngầm trong lũng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người, từ mỗi làng xóm tạo
thành truyền thống của cả cộng đồng, tạo thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam khác biệt với tư tưởng yêu nước của dân tộc khác, nó được đúc kết bằng xương
máu, bằng trí tuệ trong trường kỳ lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước, hỡnh thành nờn
một hệ thống lý luận về dõn tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền, hỡnh thành nờn lý
luận khoa học và nghệ thuật chiến tranh với chiến lược, phương thức huy động sức mạnh
toàn dân tộc biến thành hành động thực tiễn để xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vỡ mục tiờu độc lập dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng, gắn kết cá
nhân - gia đỡnh - làng xó - Tổ quốc trong quỏ trỡnh dựng nước và giữ nước đầy gian khổ
chống thiên tai và chống ngoại xâm. Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện trong cuộc sống là ý
thức về cội nguồn, tự hào về văn hóa dân tộc và xây dựng giữ gỡn nền văn hoá dân tộc, ý
thức về chủ quyền quốc gia, ý chớ tự lực tự cường, ý thức tự tôn dân tộc, đặt lợi ích của
Tổ quốc của nhân dân lên trên hết, chăm lo xây dựng quê hương đất nước, sẵn sàng
chống đô hộ và xâm lược bảo vệ toàn vẹn lónh thổ quốc gia. Đối với mỗi người, lũng yờu
nước phát triển từ những tỡnh cảm bỡnh dị và gần gũi đối với những người ruột thịt, dần
dần phát triển thành tỡnh cảm gắn bú với làng xúm, quờ hương, cao hơn hết là tỡnh yờu
Tổ quốc, lũng tự hào dõn tộc. Yờu nước thể hiện trong niềm vui lao động, trong công
cuộc chinh phục thiên nhiên, đặc biệt là trong công cuộc giữ nước đó làm nổi bật lờn khớ
phỏch quật cường của cả dân tộc. Lịch sử nước ta cũn ghi lại tinh thần “cưỡi gió lớn, đạp
sóng giữ” của Bà Triệu. Ý chí “đền nợ nước, trả thù nhà” của Bà Trưng, thái độ “tự chủ,
tự cường” của Lý Thường Kiệt, dũng khí quyết chiến và quyết thắng và nghệ thuật chiến
tranh của Trần Hưng Đạo, ý chớ gan gúc quật cường của Lê Lợi và Nguyễn Trói, khớ
phỏch hựng dũng của Quang Trung... Trong sự nghiệp giữ nước của mỡnh, dõn tộc Việt
Nam đó tiến hành hàng chục, hàng trăm cuộc chiến tranh, khởi nghĩa lớn nhỏ khác nhau
và trong những cuộc chiến tranh, khởi nghĩa đó, các thế hệ cha ông đó khụng tiếc mỏu
xương dũng cảm hy sinh vỡ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chớ Minh đó từng khẳng định: "Dân
ta có một lũng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý bỏu của ta. Từ xưa đến
nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thỡ tinh thần ấy lại sụi nổi nú kết thành một làn súng vụ
cựng mạnh mẽ, to lớn, nú vượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn nó nhấn chỡm tất cả lũ
bỏn nước và lũ cướp nước" [33, tr.171].
Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng là nhân tố tinh thần hợp thành động lực
thúc đẩy quá trỡnh phỏt triển của lịch sử dõn tộc. Từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm và
chống thiên tai của dân tộc, bài học được cha ông ta rút ra là phải coi trọng sức mạnh cộng
đồng. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc mỗi khi đất nước có họa xâm lăng.
Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng, bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, đó tạo nờn sức
mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhờ có tinh thần
đoàn kết và ý thức cộng đồng mà cha ông ta đó sỏng tạo ra nền văn minh Sông Hồng - cơ sở
của tiến trỡnh phỏt triển của dõn tộc. Tinh thần này luụn được nhân dân phát huy trong quá
trỡnh sản xuất, chống thiờn tai, chinh phục thiên nhiên.
Trong những cuộc chiến tranh giữ nước, cả dân tộc ta đó kết lại thành một khối
vững chắc, người Lạc Việt và người Âu Việt đoàn kết dưới sự lónh đạo của An Dương
Vương. Nhân dân khắp Giao Chỉ, Cửu Chân nô nức hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của hai
Bà Trưng. Dựa vào tinh thần đoàn kết, sáng tạo, quyết chiến, quyết thắng, Ngô Quyền
cùng nhân dân đó dỡm xuống sụng Bạch Đằng cả đội quân xâm lược Nam Hán, Hội nghị
Diên Hồng mói mói nổi bật lờn ý chớ “Sỏt thỏt” muụn người như một của nhân dân đời
Trần. Cuộc chiến đấu gian khổ của Lê Lợi chỉ có thể thắng được nhờ vào sự thu hút hết
thảy sức lực và nhân tài cả nước quy tụ về dưới ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Quang
Trung đó huy động được lực lượng toàn dân từ Bắc đến Nam để có “thế chẻ tre” trong
cuộc đại phá quân Thanh. Sau khi xâm lược, thực dân Pháp đó chia nước ta thành ba kỳ,
đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt hai miền đất nước, nhưng người Việt Nam khắp Bắc,
Trung, Nam đều chung một mối căm hờn quân cướp nước, đoàn kết dưới sự lónh đạo của
Đảng làm lên thắng lợi của các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với lũng yờu
thương quý trọng con người, nhất là người lao động.
Lũng thương người của cha ông ta bắt nguồn từ trong sinh hoạt cộng đồng công xó nụng
thụn, được củng cố phát triển qua quá trỡnh cựng nhau khai phỏ giang sơn, gỡn giữ đất nước,
bắt nguồn từ hoàn cảnh khổ đau của nhân dân, từ lũng căm thù sâu sắc kẻ áp bức, bóc lột, kiên
cường gan góc vượt lên muôn vàn gian khổ. Nhà thơ Tố Hữu đó từng viết “khổ đau nhiều mới
yêu thương lắm”.
Tỡnh thương yêu con người của người Việt Nam thấm đượm trong mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đỡnh, giữa gia đỡnh và làng xúm và mở rộng ra cả cộng
đồng dân tộc. Người Việt Nam coi trọng tỡnh nghĩa hơn lễ nghĩa. Trong gia đỡnh,
thương yêu là một tỡnh cảm tự nhiờn, cha mẹ thương yêu con cái, con cái khi đó trưởng
thành phải có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi già yếu. Tỡnh cảm vợ chồng ở người
Việt Nam là sự gắn bó cả yêu thương và tỡnh nghĩa trong quan hệ sõu sắc và thuỷ chung.
Dõn tộc nào cũng thường nhắc tới tỡnh thương yêu sâu nặng của người mẹ. Ở Việt Nam,
người mẹ, người vợ, người chị là những người vỡ nặng lũng yờu thương mà gánh vác
một cách kiên cường nhất, âm thầm nhất mọi gian nan, cực khổ của cuộc sống gia đỡnh.
Trong làng xúm Việt Nam, tỡnh người cũng sâu đậm, luôn yêu thương, đùm bọc,
giúp nhau khi hoạn nạn, sẵn sàng "nhường cơm sẻ áo" cho nhau với tinh thần "lá lành
đùm lá rách". Làng xóm đối với người Việt Nam là quê hương gần gũi nhất, là mảnh đất
“chôn rau, cắt rốn” gắn bó con người trong vô số những quan hệ họ hàng, bà con thân
thuộc... Tỡnh cảm quờ hương làm vững chắc thêm sự hợp tác tự nguyện trong việc đấu
tranh với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Những làng xóm êm đềm của miền Bắc
nằm gọn trong luỹ tre xanh, những thôn ấp hiền hoà của miền Nam dưới bóng hàng dừa,
bờ đước, từ lâu đó trở thành những phỏo đài kiên cố gây khiếp sợ cho quân giặc. Bao
nhiêu thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau học được ở đây bài học đầu tiên về tỡnh
thương, về đạo lý làm người. Ở đây, đó từng cú biết bao nỗi khổ đau của một xó hội đầy
áp bức bất công, bao nhiêu oan trái, tủi nhục, đói khổ và ly tán. Nhưng ở đây đó nổi lờn
bao tấm gương của những con người dũng cảm, cương trực, dám bênh vực nhân dân,
đứng về phía nhân dân, nêu cao chính nghĩa và khí tiết. Trong dân gian có câu rằng: “bán
anh em xa, mua láng giềng gần”.
Lũng yờu nhà, yờu làng mạc, yờu quờ hương là nguồn gốc và là cơ sở vững chắc
của lũng yờu nước. Ở dân tộc ta, yêu nước bao giờ cũng gắn liền với thương dân. Truyền
thống ấy bao trùm cả đời sống tâm lý và lịch sử tư tưởng của dân tộc ta. Thương dân là
linh hồn của những tư tưởng chính trị sâu sắc, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn
Trói), hay muốn giữ nước thỡ phải “khoan thư sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ” (Trần
Quốc Tuấn).
Lũng thương người của dân tộc ta cũn bao hàm cả lũng vị tha, với những kẻ lầm
đường lạc lối, biết lập công chuộc tội, trở về với chính nghĩa, "mở đường hiếu sinh" với
kẻ thù một khi chúng bị thất bại.
Lũng thương người truyền thống của dân tộc ta là cơ sở của lũng yờu chuộng hũa
bỡnh và tỡnh hữu nghị giữa cỏc quốc gia, dõn tộc. Trong quan hệ với các nước láng
giềng, bao giờ chúng ta cũng trọng tỡnh hũa hiếu, cố gắng trỏnh xảy ra những xung đột
dẫn đến cảnh "máu chảy đầu rơi", tận dụng mọi cơ hội để giải quyết hũa bỡnh cỏc cuộc
xung đột giữa nước mỡnh với cỏc nước láng giềng, cho dù nguyên nhân là từ phía kẻ thù
bên ngoài.
Lũng thương người truyền thống của dân tộc ta thấm nhuần tinh thần lạc quan, tin
tưởng ở sức mạnh của con người và sự thắng lợi của chính nghĩa, của cái đẹp, cái thiện,
cái đúng. Đó chính là nguồn động lực tinh thần to lớn giúp nhân dân ta vượt qua mọi khó
khăn thử thách, từng bước vươn lên làm chủ cuộc sống, mở ra tiền đồ tươi sáng cho dân
tộc.
Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng là nhân tố tinh thần hợp thành động lực
thúc đẩy quá trỡnh phỏt triển của lịch sử dõn tộc. Nú bắt nguồn từ chủ nghĩa yờu nước và
là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước. Nhờ có tinh thần đoàn kết mà cha ông ta đó tạo nờn
sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Thấy rừ vai
trũ của tinh thần đoàn kết, ông cha ta luụn cú ý thức chống chớnh sỏch chia rẽ của cỏc thế
lực ngoại bang. Cỏc chớnh sỏch dựng người Việt đánh người Việt của các thế lực phong
kiến phía Bắc, chính sách chia rẽ đoàn kết dân tộc của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đều
lần lượt thất bại trước sức mạnh đoàn kết của nhân dân ta.
Từ thực tiễn lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta", "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
thành công, thành công đại thành công" [37, tr.350]. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng
viên “…phải giữ gỡn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gỡn con ngươi của mắt
mỡnh” [41, tr.510].
Đức tính cần kiệm là một giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, được hỡnh
thành trong lao động sản xuất, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Cần cù là biểu hiện thái
độ của con người trong hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần và các mặt hoạt
động khác của con người. Điều kiện tự nhiên của Việt Nam vừa rất hào phóng vừa rất
khắc nghiệt, lao động của con người chủ yếu dựa vào cơ bắp, do đó nếu không cần cù tiết
kiệm thỡ khú cú thể tồn tại, lại càng khụng núi đến sự phát triển. Trong khi đem xương
máu bảo vệ nền độc lập của dân tộc, nhân dân ta cũng đó đổ mồ hôi, dồn sức lực với sự
nỗ lực vô cùng to lớn để khai phá đất đai, tiến hành sản xuất “một nắng hai sương”, “đầu
tắt mặt tối”, “chân lấm tay bùn”. Mỗi thành quả có đều phải đổi bằng biết bao công sức:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Mặc dù lao động cực
nhọc, song nhân dân ta vẫn có niềm tin và niềm tự hào sâu sắc đối với giá trị cao quý của
lao động.
Có thể nói, truyền thống cần cù lao động của dân tộc ta tạo thành thúi quen, thành ý
chớ kiờn cường chịu đựng gian khổ, vươn lên để khắc phục mọi khó khăn vỡ lợi ớch sống
cũn của cả dõn tộc. Chớnh với truyền thống cần cự rất mực kiờn cường ấy, dân tộc ta đó
phỏt huy được sức mạnh trong những cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại. Đối với người Việt
Nam, cần cù gắn liền với tiết kiệm. Cần mà không kiệm thỡ cuộc sống trở nờn bấp bờnh, cũn
kiệm mà khụng cần thỡ là vụ nghĩa vỡ lấy gỡ mà kiệm. “Khi cú mà khụng ăn dè, đến khi ăn
dè chẳng có mà ăn”, trong cuộc sống khụng nờn “vung tay quỏ trỏn” mà phải biết tiết kiệm.
Tiết kiệm cũn cú nghĩa là khộo lộo sắp xếp cuộc sống, trỏnh những lóng phớ khụng cần
thiết. Đề cao đức tính cần kiệm, nhân dân cũng tỏ rừ thỏi độ phê phán thói lười biếng, cho
rằng lười biếng là nguồn gốc của tội lỗi: “nhàn cư vi bất thiện”.
Cần kiệm trong sản xuất và đời sống của cá nhân và gia đỡnh, người Việt Nam cũng
hào phóng trong quan hệ với họ hàng, làng xóm, phê phán thói bủn xỉn, keo kiệt.
Đức tính cần kiệm có từ nhân dân lao động, nhưng cũng được thể hiện ở một số tri
thức yêu nước. Nguyễn Trói quan niệm, với người làm quan thỡ cần kiệm là đức tính
không thể thiếu. Phải chăm lo những công việc ích nước, lợi dân, chống tiêu xài lóng phớ
như xây dựng nhiều cung điện, mở nhiều yến tiệc và các nghi lễ phiền phức khỏc làm tốn
kộm thỡ giờ, tiền bạc của nhõn dõn, của cải của đất nước...Ông khuyên các quan từ lớn
đến nhỏ mang trách nhiệm “coi quân” và “trị dân” thỡ phải chăm lo việc nước, tránh
tham nhũng, lười nhác, phải “lấy nhiệm vụ quốc gia làm nhiệm vụ của mỡnh, lấy điều lo
của dân làm điều lo của mỡnh” [45, tr.210].
Đức tính cần kiệm là một trong những giá trị đạo đức truyền thống có từ bao đời
của dân tộc ta. Nó vừa là điều kiện bảo đảm cho nhu cầu cuộc sống của con người, vừa
thể hiện ý thức trách nhiệm của người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của mỡnh.
Lũng dũng cảm, bất khuất, tinh thần tự tụn dõn tộc và tự tin ở sức mỡnh là những
phẩm chất khỏ nổi bật trong hệ giỏ trị văn hóa truyền thống. Nhờ có những phẩm chất đó,
mà dân tộc ta mới dám đương đầu và giành thắng lợi trước mọi thiên tai, định họa tưởng
chừng như không vượt qua nổi.
Người Việt Nam khiêm tốn nhưng không hạ thấp mỡnh, giản dị, ghột thúi xa hoa hỡnh
thức, trung thực, thủy chung, ghột kẻ "lỏ mặt lỏ trỏi", "tiền hậu bất nhất".
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, được hỡnh thành, bổ sung và phỏt
triển trong suốt chiều dài của lịch sử, đó chứng tỏ vai trũ to lớn và sức sống bền bỉ của nú
với sự phỏt triển của dõn tộc ta. Giỏo sư Vũ Khiêu đó từng khẳng định: Đạo đức truyền
thống "đó được gỡn giữ và nâng cao từ đời này qua đời khác trở thành một tỡnh cảm sõu
sắc, một lẽ sống của toàn thể nhõn dõn, một niềm tự hào cao quý ở mỗi người" [24,
tr.71].
Thanh niên là thành viên của dân tộc, sinh thành và tồn tại trong dõn tộc. Ở Việt
nam, thanh niờn là một nhúm nhõn khẩu xó hội cú độ tuổi cũn trẻ, từ 14, 15 đến trên dưới
30 tuổi (do đó thuật ngữ thế hệ trẻ được dùng tương đương với thuật ngữ thanh niên).
Thanh niên có những nét đặc trưng về nhu cầu, sở thích, phong cách sống, lối sống, quan
niệm về cuộc sống. Lứa tuổi này chịu ảnh hưởng và tác động lớn của các điều kiện kinh
tế, chế độ chính trị xó hội, sự giỏo dục và nuụi dưỡng của gia đỡnh, ảnh hưởng của môi
trường học tập và bạn bè. Đây là tầng lớp nhạy cảm với các biến động của xó hội.
Thanh niên sống và làm việc trong các môi trường xó hội khỏc nhau, theo đó có thể chia
thành các nhóm: thanh niên học sinh, sinh viên, thanh niên công nhân, thanh niên trí thức,
thanh niên nông thôn, thanh niên thành thị, thanh niên các lực lượng vũ trang... Mỗi nhúm xó
hội của thanh niờn đều có những đặc điểm riêng biệt mang tính đặc thù, có những sở thích,
nhu cầu, thị hiếu khác nhau.
Xét từ góc độ sinh học, thanh niên được coi là lứa tuổi trẻ, phát triển hoàn thiện nhất
về mặt thể chất, thể hiện ở các mặt: chiều cao, cân nặng, sự phát triển và trưởng thành
của các cơ quan chức năng như bộ nóo, hoạt động sinh lý thần kinh, hệ cơ, hệ xương ...
Theo các nhà khoa học thỡ sự phỏt triển của cỏc nơron thần kinh ở lứa luổi thanh niên là
ở mức cao nhất.
Thanh niờn là lứa tuổi khụng chỉ sung món về sức lực, mà phỏt triển cả về trớ tuệ,
được đặc trưng bởi sự trẻ trung, cởi mở, trong sáng, cao thượng, trọng lẽ phải, trong sự
công bằng, ham hiểu biết, khát khao khám phá, khát khao hiểu biết cái mới, cái mới, cái
dẹp, cái tiến bộ, tràn đầy ước mơ, hoài bóo, giàu nghị lực, năng động, sáng tạo, muốn tự
thể nghiệm mỡnh nờn khụng quản ngại khú khăn, không nản chí trước thất bại nhất thời.
Bởi vậy, thế hệ thanh niên luôn đóng vai trũ vụ cựng lớn lao trong sự nghiệp cách mạng
của đất nước.
Tuy nhiờn, vỡ là tuổi trẻ nờn tớnh trội của sự nhạy cảm, bồng bột và đam mê ở
thanh niên thường đi liền với những hạn chế về kinh nghiệm sống, dễ dao động trong sự
lựa chọn giá trị, chuẩn mực, nhu cầu nên dễ bị tập nhiễm những thói xấu, những tiêu cực,
nhiều khi chịu ảnh hưởng một cách không tự giác trước những cái xấu, cái ác, những cái
xa lạ với văn hoá và bản chất con người văn hoá mà họ đang hướng tới. Họ cũng dễ ngộ
nhận về đúng - sai, thật - giả của các định hướng giá trị... Do những hạn chế này, thanh
niên thường dễ bị kẻ xấu lợi dụng, kích động và lôi kéo. Đó là những hạn chế mà Đảng,
Nhà nước, xó hội và gia đỡnh hết sức quan tõm, chăm lo để khắc phục trong quá trỡnh
bồi dưỡng đào tạo họ thành những chủ nhân thực sự của đất nước.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc được thể hiện qua sự nhận thức, qua hành
động của các thành viên dân tộc, trong đó có thanh niên với tư cách là thành viên chiếm
tỷ lệ không nhỏ. Đồng thời, với đặc thù về lứa tuổi và vai trũ trong xó hội, hệ giá trị đạo
đức của thanh niên cũng có những nội dung mới. Do đó, bên cạnh giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc, có giá trị đạo đức của thanh niên. Những giá trị đạo đức có tính bền
vững tương đối, tồn tại lâu dài, được lặp đi lặp lại, được lưu truyền qua nhiều thế hệ
thanh niên, trở thành những đức tính phổ biến, trở thành những chuẩn mực ứng xử của
thanh niên trong cộng đồng xó hội - những giỏ trị đạo đức này làm thành giá trị đạo đức
truyền thống của thanh niên.
Mối quan hệ giữa giá trị đạo đức truyền của dân tộc và giá trị đạo đức truyền thống
của thanh niên là biểu hiện mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận, do đó đương
nhiên, trong đạo đức truyền thống của thanh niên sẽ có những điểm tương đồng, “trùng
lặp”, “nhắc lại” những đặc trưng của giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đồng thời
có những “miền mới” khác biệt.
Trong lịch sử Việt Nam, các thế hệ thanh niên đó thể hiện rừ vai trũ quan trọng
trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh chống thiên tai, phát triển kinh tế -
xó hội. Chớnh sức trẻ của thanh niờn cỏc thời đại đó gúp phần mang lại sức mạnh giỳp
cho dõn tộc ta vượt qua mọi khó khăn thử thách trong lịch sử. Trong quá trỡnh đó, giá trị
đạo đức truyền thống vẻ vang của thanh niên được hỡnh thành, được nối tiếp qua các thời
đại lịch sử. Đó cũng là quá trỡnh khụng ngừng chắt lọc, lưu giữ những giá trị tinh túy phù
hợp của giai đoạn đó qua, bổ xung những giỏ trị mới do yờu cầu thực tiễn mới của xó hội
đặt ra. Trong thời đại ngày nay, giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên bao gồm các
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha với độc lập dân tộc, trung thành tuyệt
đối với Đảng, với nhân dân, với chế độ xó hội chủ nghĩa.
Yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha với độc lập dân tộc là giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta, là giá trị đạo đức truyền thống của các thế hệ thanh niên mọi thời
đại nước ta, trong đó có thế hệ thanh niên hiện nay. Tuy nhiên, giá trị đạo đức truyền
thống của thanh niên trong chế độ xó hội mới gắn với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hũa cũn mang phẩm chất chớnh trị mới là trung thành tuyệt đối với Đảng,
với nhân dân, với chế độ xó hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đó lựa chọn.
Giá trị đạo đức truyền thống yêu nước của thanh niên cũng mang đậm sắc thái, nội
dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, như biểu hiện trong cuộc sống là ý thức về cội
nguồn, tự hào về văn hóa dân tộc, về chủ quyền quốc gia, ý chí tự lực tự cường, ý thực tự
tôn dân tộc, đặt lợi ích của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết, chăm lo xây dựng quê
hương đất nước; yêu thương những người thân trong gia đỡnh, làng xúm, gắn bú với quờ
hương; yêu lao động; chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng quả cảm hy sinh.
Yêu nước ở thanh niên cũn thể hiện ở sự tận tâm, tận trí, tận lực, nhiệt huyết trong
hành động, không tiếc sức lực, không tiếc tuổi xanh vỡ quờ hương, đất nước và những
người thân yêu.
Ngay từ buổi bỡnh minh của lịch sử dõn tộc, thời đại các Vua Hùng dựng nước,
những truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Mai An Tiêm, Thánh Gióng... đó biểu dương
sức trẻ trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, chống ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đó từng núi:
Thiếu niên ta rất vẻ vang
Trẻ con phù Đổng tiếng vang muôn đời
Tuổi tuy chưa đến chín mười
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương [32, tr.24].
Hơn một ngàn năm dân tộc ta bị nhà Hán đô hộ, biết bao khổ cực đau thương, các
thế hệ thanh niên Việt Nam yêu nước đó đứng lên chống lại ách thống trị và âm mưu
đồng hoá của kẻ thù, nêu cao những tấm gương nghĩa liệt. Điển hỡnh là cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng. Sử sách không nói chính xác tuổi của hai Bà khi dựng cờ khởi nghĩa,
nhưng cuộc nổi dậy với lý tưởng: "Một, xin rửa sạch thù nhà; hai, xin đem lại nghiệp xưa
vua Hùng" (Thiên Nam ngữ lục) đó thu hỳt đông đảo nhân dân tham gia mà sử sách, hay
các thần phả ở nhiều địa phương cũn lưu giữ được, cho biết một đội ngũ rất đông đảo tên
tuổi các vị tướng của hai bà tuổi cũn rất trẻ đều ở độ tuổi đôi mươi như Thánh Thiên, Lê
Chân, Thiều Hoa...
Hai thế kỷ sau, vào năm 246, một cuộc khởi nghĩa cũng do một thiếu nữ tuổi vừa
trũn 20 là Triệu Thị Trinh (Thanh Hoỏ) đó chỉ huy và nờu cao ý chớ quật cường “quyết
cưỡi gió, đạp sóng, chém cá kỡnh ngoài biển Đông, quét sạch bờ cừi, cứu dõn khỏi lầm
than, chứ khụng thể cỳi đầu khom lưng làm tỡ thiếp người" [54, tr.13].
Ngô Quyền khi ở tuổi 30 đó phũ giúp Dương Đỡnh Nghệ đánh quân Nam Hán, rồi
tự mỡnh thống soỏi quõn binh, lập chiến cụng hiển hỏch trờn sụng Bạch Đằng vào năm
938, tiêu diệt đại binh Nam Hán giành nền tự chủ lâu dài cho dân tộc ta.
Ở độ tuổi 30, Lê Đại Hành đó mở ra Triều Lê sau khi đó giỳp Đinh Bộ Lĩnh dẹp
loạn Mười hai xứ quân, rồi tự mỡnh cầm quõn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của
nhà Tống bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Thời nhà Trần, với hào khí Đông A, yêu nước đó hun đúc thành tinh thần "sát thát"
được viết thành chữ khắc trên tay những người chiến binh trẻ tuổi cùng chung ý chớ của
cỏc bậc lóo thành tại Hội nghị Diờn Hồng "Quyết đánh". Sức mạnh ấy cũn được biểu
hiện bằng đường lối trị nước của các nhà lónh đạo quốc gia luôn coi trọng thế hệ trẻ. Khi
giặc Nguyên Mông lần đầu tiên tiến đánh Thăng Long, đó cú những vị tướng đầy tài
năng tuổi cũn rất trẻ, như Trần Quốc Tuấn mới 20 tuổi, nhưng đó được vua Trần tin cẩn
giao cho việc cầm quân đánh giặc. Câu truyện truyền kỳ về người thiếu niên Trần Quốc
Toản bóp nát quả cam bởi quyết tâm đánh giặc lập công, dựng lá cờ thêu sáu chữ vàng
"Phá cường địch, báo Hoàng Ân" tập hợp đội quân trai trẻ theo cha anh đánh giặc cứu
nước đó trở thành một biểu tượng về truyền thống "Tuổi nhỏ chí lớn" của thế hệ trẻ.
Người anh hùng nông dân Nam bộ Nguyễn Trung Trực mới 24 tuổi đó mộ nghĩa
binh nổi dậy đánh phá các đồn binh của giặc Pháp, hiên ngang bước lên đoạn đầu đài với
lời cảnh báo quân cưới nước: "Bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh
Tây". Khi đó ông mới 31 tuổi. Nhà vua Hàm Nghi, ra chiếu Cần Vương (năm 1885) khi
mới ở tuổi thiếu niên. Phan Bội Châu, 17 tuổi đó hưởng ứng Chiếu Cần Vương và ông
cũng là người khởi xướng và trở thành linh hồn của nhiều phong trào yêu nước đầu thế
kỷ XX. Phan Bội Châu từng viết "nếu ai nói rằng thanh niên lay trời, trời phải rung, thanh
niên xoay đất, đất phải chuyển cũng không phải là quá đáng vậy". Khi phát động phong
trào Đông Du, Phan Bội Châu đó từng đặt hy vọng chỉ sau vài năm "thỡ những thiếu niờn
nước ta sẽ bay nhảy hô vang, khua cá sấu mà chống lại rồng trời, non sông gấm vóc của
ta sẽ rực rỡ tốt tươi, uy sấm sét sẽ đuổi hết lũ quỷ ma …” [6, tr.79].
Bước ngoặt lớn của lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với tên tuổi nhà hoạt động cách
mạng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. "Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những
từ ngữ tiếng Pháp: Tự do, Bỡnh đẳng, Bác ái – đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng
được coi là người Pháp – thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tỡm xem những gỡ
ẩn dấu đằng sau những chữ ấy” [59, tr.18]. Và Nguyễn Ái Quốc đó trở thành một chiến sĩ
cộng sản (năm 1920), bắt tay vào cuộc vận động cách mạng, tập hợp những thanh niên tiên
tiến nhất, làm nũng cốt cho sự ra đời của tổ chức cộng sản - nhân tố quyết định cho thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, là tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam.
Dưới sự lónh đạo của Đảng ta, nhiều thế hệ thanh niên đó giỏc ngộ lý tưởng cộng
sản, tham gia đấu tranh anh dũng, trung thành bảo vệ Đảng, sẵn sàng hy sinh cho sự
nghiệp cách mạng cứu nước giải phóng dân tộc. Tinh thần này thể hiện trong suốt quỏ
trỡnh cỏch mạng Việt nam dưới sự lónh đạo của Đảng.
Trong cao trào cách mạng 30-31, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, đó xuất hiện
nhiều gương thanh niên đấu tranh oanh liệt. Lý Tự Trọng với câu nói nổi tiếng đó phản ánh
hào khí cách mạng của thanh niên: "Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng,
chứ không thể có con đường nào khác".
Đoàn thanh niên cứu quốc và tuổi trẻ cả nước đó xung kớch cựng toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta vùng lên tiến hành thành công cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ
nguyên độc lập, tự do cho dân tộc, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Khi Nhà nước Cách mạng vừa được thành lập, thanh niên là lực lượng hăng hái đi
đầu trong phong trào chống "Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm". khi thực dân Pháp trở
lại xâm lược nước ta một lần nữa, cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ đầy
gian khổ, hy sinh. Ngay từ ngày đầu kháng chiến, tuổi trẻ Sài Gũn - Chợ lớn đó thành lập
cỏc đội thanh niên xung phong cảm tử, thanh niên tự vệ kiên quyết đánh trả kẻ thù. Tại
Hà Nội suốt 60 ngày đêm, nhiều chiến sĩ đó ụm bom ba càng chặn xe tăng giặc ngay trên
đường phố "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Các tấm gương trẻ tuổi, kiên cường, dũng
cảm đó xuất hiện trên cả nước trong suốt cuộc kháng chiến. Tiêu biểu như: Trần Văn Ơn,
Vừ Thị Sỏu, La Văn Cầu, Cù Chính Lan, Nguyễn Thị Chiên, Bế Văn Đàn, Phan Đỡnh
Giút, Tụ Vĩnh Diện …
Trong kháng chiến chống Mỹ, chủ nghĩa yêu nước được phát huy cao độ với tinh
thần cả nước ra trận, “Tất cả cho tuyền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Những phong trào thanh niên "Ba sẵn sàng", "Năm xung phong" đó cú sức lay động rất lớn
và thu hút đông đảo thanh niên tham gia. Việt nam đó trở thành huyền thoại “ra ngừ gặp anh
hựng”, “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, dũng cảm hy sinh “để lại
dáng đứng Việt Nam”.
Nếu như trong chiến tranh, lũng yờu nước của thanh niên được thể hiện thành nỗi
đau mất nước và cụ thể hoá bằng hành động xung phong ra chiến trường, không ngại hy
sinh gian khổ để giành lại độc lập cho đất nước, thỡ hụm nay, đất nước đó hoà bỡnh
thống nhất, đi vào xây dựng chủ nghĩa xó hội, lũng yờu nước của thanh niên chính là sự
dũng cảm đối đầu với những thách thức, tận dụng những cơ hội lớn để tiến công vào mặt
trận khoa học công nghệ, vượt qua mọi khó khăn, nâng cao trỡnh độ chuyên môn nghiệp
vụ, đem tri thức phục vụ cho cụng cuộc xõy dựng chủ nghĩa xó hội.
Ngày nay, lũng yờu nước đó chuyển từ động lực tinh thần chống giặc ngoại xâm sang
động lực tinh thần xây dựng đất nước, khắc phục nghèo nàn lạc hậu, coi sự thua kém các nước
trên thế giới như nỗi nhục của người dân nô lệ xưa.
Với lũng yờu nước, tự hào với truyền thống của cha ông, ý chớ tự lực tự cường, ý
thực tự tụn dõn tộc, cùng với những ước mơ, khát khao cháy bỏng, đó tạo động lực, thúc
giục bao thanh niên ngày đêm phấn đấu không ngừng giành lấy vinh quang cho Tổ quốc.
những thanh niên ưu tú như Nguyễn Bích Thuỷ đó giành huy chương vàng trong cuộc thi
opêra Châu Á, Kim Anh đó giành huy chương vàng Karatedo trong Asiad 2002, những
chàng trai trong đội Robocon - Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đại diện cho
Việt Nam và đó giành thắng lợi trước những đối thủ nặng ký như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Xingapo ... trong cuộc thi Sáng tạo Robot Châu Á 2006.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến công vào mặt
trận kinh tế, làm giàu cho đất nước được xem như nhiệm vụ chính trị của thanh niên,
đồng thời đó cũng là một biểu hiện của lũng yờu nước. Chính vỡ vậy mà trên khắp mọi
miền của Tổ quốc đó xuất hiện hàng loạt những gương thanh niên vượt khó vươn lên để
trở thành những ông chủ, bà chủ làm giàu cho bản thân, cho gia đỡnh, cho quờ hương,
cho đất nước, nhiều nhà doanh nghiệp trẻ nổi lên và làm ăn rất phát đạt được Trung ương
Đoàn bỡnh chọn và trao giải thưởng Sao Đỏ - giải các nhà Doanh nghiệp trẻ xuất sắc và
nhiều giải thưởng khác. Ở nông thôn, cũng đó xuất hiện ngày càng nhiều những ụng chủ
trẻ, làm giàu từ chớnh đồng ruộng và điều kiện tự nhiên của quê hương mỡnh chẳng hạn
như: Thanh niên Nguyễn Chiến Sang, từ một người nhặt ve trai trở thành triệu phú,
Nguyễn Văn Sỹ làm giàu cho quê hương nhờ chiếc máy phát điện tự chế ...Trong tương
lai, chắc chắn thanh niên Việt Nam có thể làm được nhiều hơn thế nữa. Truyền thống yêu
nước của Thanh niên Việt Nam sẽ tiếp tục được phát huy để trở thành một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy thanh niên Việt Nam, trong đó có đội ngũ sinh viên đạt được những
thành tích kỳ diệu, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
đem lại vinh quang cho tổ quốc.
Thứ hai, truyền thống xung kích cách mạng
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ: "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên", các
thế hệ thanh niên luôn thể hiện vai trũ xung kớch trờn mọi lĩnh vực, luụn xung phong
tỡnh nguyện, không ngại hy sinh gian khổ, sẵn sàng đảm nhận những nhiệm vụ nặng nề;
sẵn sàng đến những nơi mà Tổ quốc cần, dù đó là chiến trường, biên cương, hải đảo, dù
đó là công việc mới mẻ khó khăn; dám suy nghĩ và hành động sáng tạo để hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động mà Đảng và nhân dân giao phó.
Thanh niên là đội quân xung kích trên các mặt trận. Đó chính là thế mạnh bản chất
của thanh niên mà không một lực lượng xó hội nào cú thể thay thế và đảm đương nổi.
Điều này đó làm nờn truyền thống xung kích cách mạng của thanh niên. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó từng khẳng định: “khắp thành thị, nông thôn, miền xuôi, miền núi, thanh niên ta
đó thành một đội quân to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn đấu, hy sinh vỡ Tổ quốc
thõn yờu, vỡ tiến bộ xó hội” [40, tr.504].
Hàng triệu thanh niên đó hăng hái tham gia phong trào “Kháng chiến và kiến quốc”,
“Tũng quõn giết giặc cứu nước” trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Sau kháng chiến,
thanh niên đó đi đầu trong phong trào học tập bổ túc văn hoỏ, xõy dựng cỏc cụng trỡnh
thuỷ lợi, khai hoang phục hoỏ đất đai tiến hành sản xuất khôi phục kinh tế. Trong những
ngày đồng khởi chống Mỹ, các đội "Trung kiên", "Xung phong" do thanh niên đảm nhận
đó được thành lập ở khắp nơi, tiến hành vây đồn, lấy bốt, trừ gian, phá ấp chiến lược. Khi
đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc (năm 1964), tuổi trẻ Thủ đô đó phỏt
động phong trào "Ba sẵn sàng". Phong trào này đó phỏt triển sõu rộng trong cả nước. Ở
miền Bắc, hàng triệu đoàn viên thanh niên đó hăng hái đăng ký tham gia phong trào "Ba
sẵn sàng", nêu cao quyết tâm chi viện cho chiến trường miền Nam với tinh thần "chưa
thắng giặc Mỹ, chưa trở về quê hương". Đoàn thanh niên miền Nam đó phỏt động phong
trào "Năm xung phong" (năm 1965), sau một thời gian ngắn, đó cú hàng vạn đoàn viên
thanh niên tham gia. Từ những phong trào này đó xuất hiện nhiều tập thể, cỏ nhõn với
những chiến cụng xuất sắc như: Bảy dũng sĩ Điện Ngọc - Quảng Nam đó anh dũng đánh
trả một tiểu đoàn địch; Tạ Thị Kiều - tay không đoạt bốt giặc; Lê Thị Hồng Gấm - Chiến
đấu đến hơi thở cuối cùng, không chịu đầu hàng giặc; … Trần Thị Lý, 4 lần bị địch bắt,
mang trong mỡnh gần 40 vết thương ngày đêm rỉ máu nhưng không hề nhụt chí trước
quân thù. Dũng sĩ diệt Mỹ - Anh hùng Lê Mó Lương với lẽ sống: "Cuộc đời đẹp nhất là ở
trên trận tuyến chống quân thù"; Nguyễn Văn Trỗi trước cái chết không nao núng tinh
thần, vẫn vạch trần tội ác của giặc với câu nói nổi tiếng: "Cũn giặc Mỹ khụng cú hạnh
phỳc" đó gõy xỳc động cho tuổi trẻ và nhân dân tiến bộ khắp năm châu; Anh hùng liệt sĩ
Nguyễn Viết Xuân đó nờu cao hào khớ anh hựng của dõn tộc, khẩu lệnh với đồng đội:
"Nhằm thẳng quân thù mà bắn". Tinh thần này đó trở thành hiệu lệnh tiờn phong thỳc
giục quõn và dõn ta xụng lờn tiờu diệt quõn thự.
Với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cả nước thống nhất và đi vào xõy
dựng chủ nghĩa xó hội, thanh niờn lại xung kớch trờn mặt trận kinh tế, tiến quân vào khoa
học kỹ thuật. Thanh niên đó tớch cực hưởng ứng cuộc vận động “Ba xung kích làm chủ tập
thể”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”. Phong trào "Tuổi trẻ Việt Nam sống
chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại" được Ban bí thư Trung ương
đoàn phát động đó tạo nờn sự chuyển biến trong cả nhận thức và hành động của đông đảo
đoàn viên, thanh niên. Đợt sinh hoạt chính trị "Tiếp lửa truyền thống mói mói tuổi hai mươi",
diễn đàn "Tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích" đó cú sức lụi cuốn và lan toả mạnh mẽ, tạo hiệu
ứng xó hội sõu rộng gúp phần quan trọng nõng cao nhận thức, bồi đắp lý tưởng cách mạng
và niềm tin cho thế hệ trẻ hôm nay.
Thứ ba, truyền thống đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái và nhân đạo cao cả.
Đoàn kết gắn bó trong lớp người cùng lứa tuổi, trong các tổ chức Đoàn và Hội; đoàn
kết, gắn bó với nhân dân; yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, trong công việc, khi
hoạn nạn, khó khăn; đặc biệt là vào những thời điểm gặp thử thách nghiêm trọng như đối
mặt với thiên tai, địch hoạ.
Truyền thống đoàn kết của thanh niên là một bộ phận của truyền thống đoàn kết dân
tộc, nó bắt nguồn từ lũng yờu nước và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước của dân tộc. Tinh
thần tương thân tương ái, nhân đạo của thanh niên có nguồn gốc từ lối sinh hoạt gần gũi,
thân thiết của họ trong cộng đồng làng xó và nú được bổ sung, phát triển cùng với quá trỡnh
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Phát huy tinh thần tương thân, tương ái và nhân đạo, thế
hệ thanh niên hôm nay đó xõy dựng một loạt cỏc phong trào, với phương châm, tuổi trẻ hành
động vỡ cộng đồng xó hội chăm lo bồi dưỡng thanh niên như: phong trào thanh niờn tỡnh
nguyện, phong trào ủng hộ cỏc cuộc vận động tỡnh nghĩa vỡ biờn giới, hải đảo, ủng hộ nạn
nhân chất độc da cam, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, khám chữa bệnh cho các gia
đỡnh chớnh sỏch, tham gia phũng chống khắc phục hậu quả thiờn tai, lũ lụt ...
Thứ tư, truyền thống hiếu học, ham hiểu biết, khụng cam chịu tụt hậu, cú ý chớ vượt
khó, cần cù.
Thanh niên luôn phấn đấu để nâng cao trỡnh độ văn hoá, chính trị, khoa học kỹ thuật,
chuyên môn; có hoài bóo lớn, say mờ, sỏng tạo, dỏm nghĩ, dỏm làm để công hiến cho sự
nghiệp phát triển quê hương đất nước. Học ở nhà trường, học trong cuộc sống, học để làm
người có ích cho xó hội, cho gia đỡnh luụn được các thế hệ thanh niên phấn đấu thực hiện và
thực hiện ngày càng tốt hơn.
Trong lịch sử của nền giáo dục nước ta luôn tồn tại song song hai dũng giỏo dục, đó
là dũng giỏo dục chớnh thống thụng qua hệ thống tổ chức nhà trường, chế độ học tập, thi
cử, các nề nếp và thể thức chung …; và dũng giỏo dục dõn gian hỡnh thành và phỏt triển
từ trong hoạt động sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân. Đó là các hỡnh thức sinh
hoạt văn hoá, tín ngưỡng cộng đồng, các lễ hội và trũ chơi dân gian, là giáo dục gia đỡnh,
dũng họ, giỏo dục phong tục, tập quỏn. Truyền thống hiếu học của dõn tộc ta được minh
chứng qua sự tường tồn liờn tục của cả hai dũng giỏo dục này. Truyền thống hiếu học của
dõn tộc ta cũn thể hiện ở thỏi độ "tôn sư trọng đạo", tôn trọng người thầy giáo và nghề
dạy học.
Là một bộ phận trong truyền thống hiếu học của dân tộc, truyền thống hiếu học của
thanh niên cũng được thể hiện rừ nột trong lịch sử. Nhiều tấm gương đó thành danh trong
sự nghiệp học hành, thi cử, đem trí tuệ phụng sự nước nhà ở lứa tuổi thanh niên. Nguyễn
Hiền - đỗ trạng nguyên năm 13 tuổi, sau làm đến chức thượng thư Bộ Công; Lê Văn Hưu
- 16 tuổi đỗ bảng nhón sau làm đến chức thượng thư Bộ binh và được vào Viện Quốc sử;
Nguyễn Trung Ngạn - 15 tuổi đỗ Hoàng giáp, được vua Trần cử giữ trọng chức ở Đài
ngự sử, sau được phong tới Tước công. Ở thời nhà Lê, có Lương Thế Vinh, đỗ trạng
nguyên năm 21 tuổi, được vua rất tin dùng, được cử giữ chức ở Viện Hàn Lâm chuyên
soạn thảo giấy tờ và chọn làm sái phu (dọn xườn văn) của Hội tao đàn; Lê Hy - đỗ tiến sĩ
năm 19 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư Bộ binh, sau được thăng chức tham tụng
đứng đầu triều chính; Phan Huy Ích tuổi nhỏ học rất giỏi, đỗ đầu các kỳ thi Hương, thi
Hội lần lượt giữ các chức vụ cao như: Án sát xứ Sơn Nam (Thanh Hoá), sau hợp tác Tây
Sơn, được phong chức Thượng Thư Bộ Lễ; Phan Văn Nghị, tuổi trẻ học giỏi, Đỗ Nhị
giáp tiễn sĩ, được bổ chức Đốc học Nam Định, kiêm chức Hải Phũng sứ.
Theo thống kê sơ bộ, từ thời Nguyễn Trói (đời Hồ) đến thời Nguyễn Khuyến (đời
Nguyễn), những người đỗ đạt ở độ tuổi dưới 30, có công danh và tên tuổi được lưu trong
sử sách là 100 người [48, tr.27-28].
Trong giai đoạn hiện nay, lực lượng trí thức nói chung và lực lượng thanh niên nói
riêng là vốn quý của đất nước, là lực lượng lao động trí tụê hùng hậu của Đảng, Nhà
nước và dân tộc ta. Không có tri thức, không có những người tài giỏi thỡ khụng thể tiến
hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và xây dựng chủ nghĩa xó hội thành cụng
được. Thanh niên trí thức là những người bổ sung quan trọng vào nguồn nhân lực trí tuệ
cao với tư cách là một lực lượng giàu tiềm năng của đất nước. Họ là hạt nhân tích cực,
luôn đi đầu trong việc tiếp thu cái mới, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới
vào hoạt động sản xuất, họ luôn luôn năng động, dám nghĩ, dám làm. Trong công cuộc
đổi mới hiện nay đó tạo mụi trường tốt để thanh niên phát huy được khả năng và sức
sỏng tạo của mỡnh.
1.2. VAI TRề CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH
NIÊN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC
THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội. Dưới sự lónh
đạo của Đảng, chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, bên cạnh đó là sự mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ và văn minh. Trong điều kiện như vậy, con
người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Do đó, con người cần phải có
những phẩm chất cần thiết cho xó hội hụm nay, những phẩm chất mà Chủ tịch Hồ Chớ
Minh vẫn thường gọi là "đạo đức mới” hay “đạo đức cách mạng”.
“Đạo đức mới” hay “đạo đức cách mạng” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến là nền
đạo đức tiếp thu, kế thừa từ truyền thống dân tộc như: "Lũng yờu nước thương dân",
"Tinh thần tương thân tương ái" …
C.Mác, Ph.Ăngghen, là những người đầu tiên đưa ra khái niệm "đạo đức vô sản".
Trong tác phẩm "Chống Duy-rinh" (1876), sau khi xem xét đạo đức phong kiến, đạo đức
tôn giáo, đạo đức khai sáng, đạo đức tư sản, Ph.Ăngghen đi đến khẳng định: "Thứ đạo
đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức
là đạo đức vô sản - là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một
sự tồn tại lâu dài" [29, tr.136]. Đạo đức vô sản là đạo đức mang bản chất giai cấp vô sản,
là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cách mạng đương thời.
Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin cũng rất chú ý đến việc xây dựng kiểu đạo đức
mà Lênin gọi là "Đạo đức cộng sản". "Đạo đức cộng sản" về bản chất là sự phát triển mới
của đạo đức vô sản trong điều kiện giai cấp vô sản đó tiến hành cỏch mạng lật đổ giai cấp
thống trị, giành được chính quyền nhà nước. Đạo đức cộng sản là đạo đức cần có và cần
được xây dựng trong quá trỡnh giai cấp cụng nhõn và nhõn dõn lao động bắt tay vào sự
nghiệp xây dựng xó hội mới, xó hội trong đó chính mỡnh làm chủ.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, cụ thể hoá cho
phù hợp với điều kiện thực tế, Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức mới: "Mang bản chất của
giai cấp công nhân, kết hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những tinh
hoa đạo đức của nhân loại" [3, tr.179].
Khi nói về đạo đức, Hồ Chí Minh đó sử dụng những khỏi niệm, những phạm trự đạo
đức quen thuộc, đưa vào đấy những nội dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm,
những phạm trù mới.
Để xây dựng đạo đức mới, Hồ Chí Minh chủ trương phải có sự kế thừa và đổi mới từ
các nội dung của đạo đức cũ (đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức tôn giáo), kết hợp
với một số nội dung mới, Người cho rằng: "Đạo đức cũ như Người đầu ngược xuống đất,
chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng
lên trời" [35, tr.320]. Đạo đức mới ấy được Hồ Chí Minh gọi là "Đạo đức các mạng".
Trên tạp chí Học tập số 12, trong bài “Đạo đức cách mạng” Người viết: "Đạo đức cách
mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân" [38, tr.285]. Cũn trong bài núi
chuyện tại Đại hội lần thứ III Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam (nay là Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh), ngày 24/3/1961, một lần nữa quan điểm này lại được Hồ
Chí Minh nhắc lại: "Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc
gỡ, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lũng một dạ phục vụ lợi ớch chung của giai
cấp, của nhõn dõn, đều nằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xó hội" [39, tr.306].
Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc” ký tờn XYZ (1947) , Hồ Chớ Minh đó viết
về những yờu cầu, phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ như sau: "Mỡnh đó chớ cụng
vụ tư thỡ khuyết điểm ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng nhiều thêm.
Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có 5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm" [34, tr.251].
Bài viết: "Nhân dịp Hội nghị quốc tế bảo vệ quyền lợi thanh niên" ký tờn CB đăng
trên báo Nhân dân, số 105, từ ngày 06 đến ngày 10 tháng 4 năm 1953, Người bổ sung nội
dung về sự gắn bó chặt chẽ giữa ý thức dõn tộc với tinh thần quốc tế trong yờu cầu về
phẩm chất đạo đức là “cần phải gắn chặt lũng yờu nước chân chính với tinh thần quốc tế
chân chính” [36, tr.66].
Có thể nói, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, đạo đức cộng
sản hay đạo đức mới tiêu biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao
động, nó có sứ mệnh góp phần thủ tiêu hoàn toàn sự áp bức, bóc lột. So với các nền đạo
đức trước đây, đạo đức mới là bước phát triển về chất. Nó chứa đựng và kế thừa tất cả
những nội dung tốt đẹp nhất của các nền đạo đức trong các thời đại trước. Vỡ thế, đạo
đức mới bao hàm nhiều yếu tố đạo đức chung của cả nhân loại. Cơ sở kinh tế - xó hội của
đạo đức mới được hỡnh thành trờn cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, do đó đạo
đức mới hoàn toàn đối lập với đạo đức của giai cấp bóc lột và là vũ khí tinh thần sắc bén
của giai cấp công nhân. Sự khác biệt giữa đạo đức mới với các kiểu đạo đức trước đây
trước hết thể hiện ở tính cách mạng và khoa học của nó. Tính cách mạng và khoa học ấy
không chỉ biểu hiện ở sự phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, mà cũn biểu hiện ở sự kế thừa cú phờ phỏn và chọn lọc những giỏ
trị đạo đức truyền thống của tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại. Bản chất của đạo đức
mới thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giỏc giữa những cỏ nhõn vỡ những lý tưởng
cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tỡnh đồng chí, tinh thần trách nhiệm, thái
độ tôn trọng, tinh thần hợp tác, tương trợ và tận tỡnh chăm sóc lẫn nhau, nhằm đảm bảo
cho cỏc cỏ nhõn phỏt triển cao nhất, phục vụ lợi ớch của xó hội.
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của của đạo đức
mới. Ở đây con người không chỉ nghĩ và hành động vỡ mỡnh mà cũn vỡ người khác. Tập
thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, vừa là hỡnh thức để cho các cá nhân phát
triển. Nguyên tắc đạo đức của chủ nghĩa tập thể là mỡnh vỡ mọi người và mọi người vỡ
mỡnh. Quan hệ giữa người với người trong tập thể là quan hệ tỡnh đồng chí giữa các cá nhân
có mục tiêu chung là sự phát triển cá nhân làm tiền đề, sự phát triển tự do, toàn diện của con
người. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa dựa vào sự hài hoà về lợi ích giữa cá nhân và xó hội và
nguyờn tắc của chủ nghĩa tập thể là biểu hiện của sự hài hoà này.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc
đạo đức cơ bản trong chủ nghĩa xó hội là phải cú sự thống nhất giữa cỏc lợi ớch của cỏ
nhõn với lợi ớch của cộng đồng. Lợi ích cộng đồng là lợi ích chung của toàn xó hội, đảm
bảo cho cơ chế vận hành vỡ một mục tiờu lý tưởng nhất quán về một xó hội nhõn đạo
hiện thực mà chủ nghĩa xó hội theo đuổi. Lợi ích chân chính của mỗi cá nhân đảm bảo
cho đời sống đạo đức được vận hành đa dạng và phong phú. Không có lợi ích chân chính
của mỗi cá nhân, quan hệ đạo đức trong chủ nghĩa xó hội sẽ thiếu sức sống. Song, lợi ớch
cỏ nhõn khụng phải là mục tiờu văn hoá của sự phát triển xó hội xó hội chủ nghĩa. Chớnh
sự kết hợp hài hoà giữa lợi ớch cỏ nhõn với lợi ớch xó hội mới là mục tiờu văn hoá của
sự phát triển xó hội xó hội chủ nghĩa.
Trong chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ xó hội phổ biến, thể
hiện trong mọi quan hệ xó hội và trong mọi hỡnh thức của đời sống xó hội. Bằng những
hỡnh thức thớch hợp, chủ nghĩa tập thể quy định tính chất hoạt động của người lao động.
Ở đây, con người không chỉ nghĩ vỡ mỡnh mà cũn vỡ người khác, tức là phục vụ con
người, phục vụ tập thể và phục vụ toàn xó hội với một tinh thần trỏch nhiệm, chăm sóc
lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp với sự tiến bộ xó hội, vỡ thế nó là cơ sở của
chủ nghĩa nhân đạo cao nhất.
Chủ nghĩa tập thể đũi hỏi phải kiờn quyết chống lại chủ nghĩa cỏ nhõn và chủ nghĩa
phường hội vỡ chủ nghĩa phường hội chẳng qua chỉ là sự biến tướng của chủ nghĩa cá
nhân. Động cơ hành động của người cá nhân chủ nghĩa khụng phải vỡ lợi ớch của tập thể
xó hội mà là vỡ khỏt vọng cỏ nhõn được đàng hoàng trong cuộc sống vật chất và tinh
thần. Về bản chất của chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó nờu rừ rằng: “Cỏi gỡ
trỏi với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân” [38, tr.448]. Chủ nghĩa cá nhân đẻ
ra nhiều cái xấu, thiên hỡnh vạn trạng như: lười biếng, ngại khó khăn, gian khổ; tranh
việc dễ về mỡnh, đùn việc khó cho người; nịnh hót cấp trên, doạ nạt cấp dưới, đũi hỏi đói
ngộ, cụng thần địa vị; suy bỡ, ganh tỵ, đố kỵ, thành kiến hẹp hũi; làm ăn phi pháp, tham
ô, lóng phớ... Muốn thành người cách mạng thỡ phải chống chủ nghĩa cỏ nhõn. Biện
phỏp chống chủ nghĩa cỏ nhõn khụng chỉ dừng lại ở việc giỏo dục cỏ nhõn mà điều quan
trọng là phải xây dựng những tập thể thực sự tốt đẹp. Bởi vỡ, chỉ cú tập thể tốt đẹp mới
tạo điều kiện cho con người kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xó hội. Ở đâu
có tập thể tốt thỡ ở đó chủ nghĩa cá nhân ít có điều kiện nảy nở. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta luôn luôn nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta phải nâng cao tinh thần tập thể, chống
chủ nghĩa cá nhân. Chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng không “giày xéo lên lợi ích cá
nhân”. Điều này tưởng chừng như đơn giản, nhưng để nhận thức đầy đủ và thực hiện
đúng lại không đơn giản chút nào. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh tới lợi ích cá nhân, con
người sẽ dễ xa vào chủ nghĩa cá nhân và ngược lại, chống chủ nghĩa cá nhân không thận
trọng sẽ “giày xéo” lên lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân. Cả hai khuynh hướng trên đều
dẫn tới kết quả là cản trở sự nghiệp giải phóng cá nhân, khó thực hiện mục tiêu đem lại tự do,
hạnh phúc cho mỗi cá nhân con người trong chế độ xó hội mới - chế độ xó hội chủ nghĩa.
Hai là, lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới
Lao động là hoạt động sáng tạo của con người để cải biến tự nhiên, xó hội và chớnh
mỡnh phự hợp với nhu cầu, lợi ớch của con người, vỡ sự phỏt triển và tiến bộ xó hội.
Lao động là một hiện tượng xó hội, là một hoạt động có ích cho xó hội. Người nào
lao động, người ấy chẳng những tồn tại không gây trở ngại cho người khác, mà cũn giỳp
đỡ người khác tồn tại, giúp đỡ người khác được hạnh phúc. Đây là lý tưởng đạo đức cao
nhất của con người. Trong cuộc sống, người ta có nhiều chuẩn mực để đo phẩm giá của con
người như: lương tâm trong sáng, động cơ hành vi hợp đạo đức, có nhu cầu tinh thần và xó
hội phỏt triển cao, lành mạnh, thực hiện tốt cỏc chuẩn mực đạo đức, có thái độ đúng đối với
lao động. Trong đó thái độ đối với lao động là thước đo quan trọng, bởi vỡ căn cứ vào đó mà
ta đánh giá con người lao động nghiêm túc, trung thực, có trách nhiệm hay dối trá, qua quýt,
tiết kiệm hay hoang phớ. Người lao động chỉ được kính trọng khi có thái độ lao đông đúng
đắn, biểu hiện cụ thể là:
- Lao động cần cù, khoa học sáng tạo; lao động với năng suất, chất lượng hiệu quả
cao
- Chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lóng phớ
- Coi trong lao động trí óc và lao động chân tay
- Yờu quý lao động của mỡnh và lao động của người khác
Xó hội xó hội chủ nghĩa đũi hỏi người lao động phải lao động một cách nhiệt tỡnh,
sỏng tạo với năng suất chất lượng cao. Đạo đức của con người trước hết được thẩm định
bằng thái độ lao động, hiệu quả lao động, sự đóng góp đối với xó hội, lời núi đi đôi với việc
làm, động cơ và hiệu quả. Đạo đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hỡnh thức, tắc
trỏch, kộm hiệu quả và vụ lợi.
Ba là, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
Chủ nghĩa yêu nước là tỡnh yờu đối với đất nước, lũng trung thành đối với tổ quốc
và khát vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Thực chất của chủ nghĩa
yêu nước như Lênin nhấn mạnh: “là một trong những tỡnh cảm sõu sắc nhất, đó được
củng cố qua hàng trăm, hàng nghỡn năm tồn tại của các Tổ quốc biệt lập” [27, tr.226].
Chủ nghĩa yêu nước có quá trỡnh phỏt triển lõu dài, nú cú tớnh lịch sử và trong xó hội cú
giai cấp nú cũng mang tớnh giai cấp. Yờu nước trên lập trường của giai cấp công nhân có
những nội dung mới thể hiện ở những nội dung sau:
- Yêu nước là yêu xó hội chủ nghĩa, yờu nhõn dõn lao động
Tổ quốc xó hội chủ nghĩa là tổ quốc của nhõn dân. Nhà nước xó hội chủ nghĩa là
thành quả đấu tranh cách mạng của toàn dân, là nhà nước của dân, do dân và vỡ dõn. Đây
là nhà nước đại diện cho sự công bằng và văn minh nhất. Lý tưởng xó hội chủ nghĩa và lý
tưởng của dân tộc là thống nhất. Yêu nước xó hội chủ nghĩa là lũng tự hào dõn tộc, lũng
tự hào về sức sỏng tạo trong lao động, sản xuất, lũng tự hào về những gương anh hùng
bất khuất bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhõn dõn; là tinh thần xả thõn vỡ sự nghiệp cỏch mạng
xó hội chủ nghĩa, vỡ độc lập tự do của Tổ quốc.
Chủ nghĩa yêu nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân
lao động, gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột,
không ngừng phát triển kinh tế xó hội, văn hóa, làm cho người lao động thực sự làm chủ
đất nước.
- Yêu nước trên lập trường chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân biểu hiện bản chất tốt đẹp của giai cấp
công nhân nhằm đoàn kết, giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới khỏi
mọi xiềng xích áp bức bóc lột của kẻ thống trị. Thực tế lịch sử cho thấy, vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế có quan hệ hữu cơ không thể tách
rời. Muốn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc phải làm tốt nhiệm vụ quốc tế. Đồng
thời làm tốt nhiệm vụ quốc tế cũng là để góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của dân
tộc. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc
của việc xây dựng đạo đức mới. Song cần chống quan điểm của chủ nghĩa dân tộc hẹp
hũi và các quan điểm đạo đức khác trái với đạo đức mới. Nếu người nào chỉ biết đến
những lợi ích của dân tộc hẹp hũi và xem xột chỳng tỏch rời khỏi những lợi ớch xó hội -
chớnh trị của những dõn tộc khỏc thỡ người đó không thể là một người yêu nước.
Bốn là, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa lý tưởng
nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Đây là chủ nghĩa nhân đạo có tính chất hiện thực và
trực tiếp nhằm giải phóng con người chứ không phải chỉ là những cảm nhận xót thương
về thân phận con người. Trên ý tưởng đó, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là nội dung cơ
bản của đạo đức mới, vỡ “cỏi gốc của đạo đức, của lý luận là lũng nhõn ỏi”.
Xét về bản chất, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là lý tưởng nhân đạo triệt để, là giải
pháp thực tế biến mong ước nhân đạo thành hiện thực phổ biến, tạo lập điều kiện xoá bỏ
tận gốc mọi hỡnh thức ỏp bức, búc lột và nụ dịch người lao động. Chủ nghĩa cộng sản là
chủ nghĩa nhân đạo triệt để nhất, là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. C.Mác đó khái quát đó
khỏi quỏt rằng:
Chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư
hữu - sự tự tha hoá ấy của con người - và do đó với tính cách là sự chiếm hữu một
cách thực sự bản chất con người bởi con người và vỡ con người ... Chủ nghĩa
cộng sản như vậy, với tính cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân
đạo, với tính cách là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, = chủ nghĩa tự nhiên [30,
tr.167].
Chủ nghĩa nhân đạo mác-xít đề cập đến tỡnh yờu thương của con người trong lao
động, chứ không nói đến sự cảm thông và tỡnh yờu đối với con người nói chung, không
kể người đó tốt hay xấu. Đồng thời, chủ nghĩa nhân đạo mác-xớt cũn tỏ rừ thỏi độ phẫn
nộ với những thế lực đối địch với người lao động. Chủ nghĩa nhân đạo mácxít với sự
công minh khuyến khích, tạo điều kiện cho cái tốt phát triển và phê phán, trừng trị, loại
bỏ cái xấu.
Thấy rừ sức mạnh to lớn của đạo đức mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn
đề bồi dưỡng giáo dục đạo đức mới đặc biệt là cho thế hệ trẻ, cho thanh niên, trong đó có
sinh viên. Người dạy: “họ cần phải học tập, tu dưỡng và trau rồi đạo đức cách mạng.” Tại
Đại hội Sinh viên Việt Nam lần thứ hai, Người nói:
Thanh niên phải có “đức”, có “tài”, có “tài” mà không có “đức” ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thỡ chẳng những khụng
làm được gỡ ớch lợi cho xó hội mà cũn hại cho xó hội nữa. Nếu cú “đức” mà
không có “tài” ví như ông Bụt không làm hại gỡ nhưng cũng không lợi gỡ cho
loài người [38, tr.172].
Ngày 21/10/1964 khi đến thăm cán bộ giáo viên và sinh viên trường Đại học sư
phạm Hà Nội, Người nói: "Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức cách mạng, đó là cái gốc, rất là quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng thỡ
cú tài cũng vụ dụng" [40, tr.329].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đó chỉ rừ
những yờu cầu về phẩm chất, con người mới Việt Nam hiện nay, đó là:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vỡ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xó hội, cú ý chớ vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vỡ hoà bỡnh, độc
lập dân chủ và tiến bộ xó hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vỡ lợi ớch chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ
và cải thiện mụi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vỡ lợi ớch của bản thõn, gia đỡnh, tập thể và xó hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trỡnh độ chuyên môn,
trỡnh độ thẩm mỹ và thể lực [14, tr.58-59].
Như vậy, trong bối cảnh mới của đất nước, một hệ thống các giá trị đạo đức mới,
hay là các chuẩn mực đạo đức mới đang dần dần hỡnh thành. Đạo đức mới không chỉ
mang tính hiện đại mà cũn dựa trờn nền tảng đạo đức truyền thống, bao gồm các giá trị
đạo đức truyền thống, là sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại.
Do đó, việc phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của thanh niờn cú vai trũ
đặc biệt quan trọng trong xây dựng đạo đức mới cho thanh niên nói chung, trong đó có
đội ngũ sinh viên:
- Giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên là cơ sở góp phần củng cố niềm tin,
hỡnh thành lý tưởng đạo đức mới trong thanh niên.
- Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong xây dựng đạo đức mới
cho sinh viên là tuân thủ quy luật kế thừa trong sự phát triển của đạo đức, bảo đảm sự kết
dính giá trị truyền thống với hiện đại.
- Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên sẽ góp phần xây dựng niềm tự
hào của thanh niên trong giai đoạn hiện nay, góp phần giúp thanh niên nâng cao ý thức
cách mạng, phát huy tính tự giác, phát huy khả năng sức mạnh của mỡnh, xử lý một cỏch
đúng đắn những vấn đề, những mối quan hệ xó hội hiện nay.
Sinh viên Việt nam là một bộ phận của thanh niên Việt nam. Từ điển tiếng Việt
(2006), xếp “sinh viên” vào danh từ và định nghĩa là “những người học ở bậc đại học”
[57, tr.860]. Bậc đại học theo quy định của Luật Giáo dục, bao gồm đại học và cao đẳng.
Theo tài liệu của Trung ương hội sinh viên Việt Nam (1998): “Sinh viên Việt Nam
là công dân Việt Nam đang theo học tại các trường đại học và cao đẳng trong và ngoài
nước” [49, tr.7].
Theo Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào tạo của Bộ giáo dục
và Đào tạo (1993) thỡ “người đang học đại học và cao đẳng gọi là sinh viên” [5, tr.6].
Nhỡn chung, cỏc định nghĩa trên hoặc là đưa ra ba tiêu chí: tuổi, trỡnh độ và lĩnh
vực hoạt động; hoặc là đưa ra một tiêu chí: lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên có một thực tế
là cùng với sự đa dạng hoá của các loại hỡnh đào tạo ở bậc đại học và sự tăng lên không
ngừng nhu cầu được đào tạo của con người, đang xuất hiện những sinh viên ít tuổi, nhiều
tuổi - điều tương đối phổ biến ở các nước phát triển và hiện nay cũng đó xuất hiện ở nước
ta. Với bậc học này, trên thế giới và Việt Nam hiện có nhiều hệ đào tạo: hệ tập chung dài
hạn, hệ từ xa, hệ vừa học vừa làm (tại chức), hệ bằng hai ... với nhiều loại hỡnh trường:
công lập, bán công, dân lập, tư thục, cộng đồng,... phù hợp với các nhu cầu đa dạng khác
nhau của người học.
Từ các nội dung trên có thể đưa ra khái niêm sinh viên như sau: Sinh viên hiểu theo
nghĩa chung nhất, là tất cả những ai đó tốt nghiệp trung học phổ thụng hoặc thương
đương, đang theo học tại các trường đại học và cao đẳng, thuộc mọi loại hỡnh đào tạo.
Đạo đức của sinh viên, nếu xét theo mối quan hệ chung - riêng, ta có đạo đức cộng
đồng sinh viên và đạo đức cá nhân sinh viên. Đạo đức cộng đồng sinh viên phản ánh tồn
tại xó hội của cộng đồng sinh viên xác định và là phương thức điều chỉnh hành vi của các
cá nhân thuộc cộng đồng sinh viên ấy nhằm hỡnh thành và phỏt triển tồn tại xó hội. Đạo
đức cá nhân sinh viên là đạo đức của từng cá nhân sinh viên riêng lẻ, phản ánh và khẳng
định tồn tại của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng rẽ của tồn tại xó hội về lợi ớch và
hoạt động của các cá nhân. Cả hai thành tố kết cấu ở đây, đều gắn liền với môi trường
học đường (nhà trường, ký tỳc xỏ) - một nột riờng cú của đối tượng này. Nó là sự phản
ánh môi trường ấy một cách khá riêng biệt: học tập, trau dồi nghề nghiệp chuyên môn ở
một trỡnh độ xác định.
Nhận thức và niềm tin của sinh viên về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói
chung, về giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên nói riờng cú giỏ trị quan trọng
trong việc hỡnh thành niềm tin vào bản thõn, vào chế độ xó hội và vào sự nghiệp đổi mới
hiện nay, trong việc giáo dục lý tưởng cho sinh viên, góp phần thúc đẩy ý thức vượt khó,
chăm chỉ tự giác học tập vươn tới chinh phục kho tàng tri thức của nhân loại và đỉnh cao
khoa học…
Niềm tin với tư cách là một bộ phận đặc thù của ý thức nó có các thuộc tính cơ bản
là không nửa vời, ổn định (không bị biến đổi cơ bản khi vấp phải các sự kiện hoặc các
quan niệm trái ngược với nó). Chức năng cơ bản của nó là bù trừ (khi thiếu thông tin,
trong điều kiện rắc rối, nội tâm căng thẳng…sẽ được bù trừ bằng niềm tin vào tương lai
tốt đẹp hơn), phê chuẩn (thừa nhận giá trị, mục đích), kích thích năng lực ý chớ của chủ
thể hành động theo niềm tin, khi đó dù khó khăn đến mấy chủ thể cũng tỡm cỏch khắc
phục. niềm tin bao giờ cũng cú một đối tượng cụ thể là tin vào cái gỡ đó xác định. tuỳ
thuộc vào nội dung cụ thể của đối tượng, niềm tin có thể đúng, có thể sai, mặc dù chỉ với
thời gian điều đó mới được làm sáng tỏ. Niềm tin đúng là niềm tin được khẳng định trên
thực tế. Niềm tin tất yếu là phải có liên quan với tri thức, bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ
trực giác, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của nhân tố truyền thống, quyền uy, phụ thuộc
vào các định hướng thế giới quan, định hướng giai cấp, xó hội…
Nội dung đối tượng của niềm tin bao giờ cũng có giá trị với chủ thể, gắn liền với lợi
ích, nhu cầu, hy vọng, lý tưởng của chủ thể. nội dung này có thể có một giá trị tầm
thường, cũng có thể có giá trị cao với chủ thể và quy định mục đích sống cơ bản của nó.
Việc đánh mất niềm tin sẽ sinh ra các loại chủ nghĩa tương đối cực đoan về đạo đức, chủ
nghĩa hoài nghi bế tắc, tỡnh cảm sống vụ nghĩa…
Vai trũ của niềm tin là nhõn tố tạo ra tớnh tớch cực của chủ thể xó hội trong định
hướng hành động, xác định mục đích, ý chớ, tõm thế sỏng tạo hướng đích, nuôi dưỡng ý
chớ nghị lực hành động, khẳng định tính bất định, các mâu thuẫn, những trở ngại trên con
đường đi tới mục đích.
Niềm tin vào tương lai tốt đẹp của đất nước, vào công cuộc đổi mới, vào truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và truyền thống tốt đẹp của thanh niên, khắc phục những hoài
nghi, dao động là điều kiện hết sức quan trọng để giải quyết tốt các nhiệm vụ đổi mới.
Niềm tin vào công việc chúng ta đang làm sẽ hỡnh thành nên một lập trường sống tích
cực trong lĩnh vực tự điều tiết hành vi đạo đức, năng lực tin tưởng vào hành vi đạo đức
của bản thân, vào tiếng nói của lương tâm là cái tạo thành cơ chế tự điều tiết đạo đức cơ
bản nhất và là một trong những biểu hiện rừ nột nhất về tớnh tớch cực của ý thức cỏ
nhõn.
Sự xuất hiện niềm tin mới có nghĩa là cải biến cơ bản ý thức, nú làm biến đổi cấu
trúc giá trị của ý thức, hiện thực hoá các giá trị xác định, đem lại cho chúng tính ý hướng,
tức là hỡnh thành cỏc định hướng mới cho tớnh tớch cực của ý thức, và tớnh ổn định cho
hoạt động hướng đích.
Sinh viên hôm nay đang ngày càng gia tăng về số lượng đa dạng về cơ cấu và ngày
càng gia tăng một cách khá toàn diện vào đời sống kinh tế - xó hội. Điều đó làm cho tỡnh
hỡnh diễn biến của đạo đức sinh viên khá phức tạp. Trung ương hội sinh viên Việt Nam đó
tổng kết: "Vẫn cũn một bộ phận nhỏ sinh viờn nhận thức chớnh trị kộm, khụng chịu phấn
đấu rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng, mờ nhạt về lý tưởng, lối sống buông
thả chạy theo đồng tiền và những thị hiếu tầm thường, dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xó hội"
[49, tr.25].
Trong khảo sát "Tỡm hiểu đời sống tinh thần của sinh viên hôm nay", trước câu hỏi
"Theo quan sát của bạn, sinh viên hôm nay nhỡn chung là tốt nhưng bên cạnh đó cũn có
những biểu hiện không tốt nào trong những mặt sau?: 53,3% cho là có biểu hiện ăn chơi
đua đũi; 53,04% cho là cú biểu hiện văng tục; 46,5% cho là có biểu hiện gian lận trong
thi cử; 27,7 cho là có biểu hiện cờ bạc, 22,7% cho là có biểu hiện ma tuý; 13,9% cho là
cú biểu hiện quan hệ tỡnh dục trước hôn nhân, 10,2% cho là có biểu hiện lừa đảo trong
quan hệ xó hội" [49, tr.49]... Mặc dù chỉ là quan sát của người được phỏng vấn về biểu
hiện tiêu cực xung quanh nhưng qua đó cũng phần nào thấy được sự đánh giá của dư luận
về mức độ suy giảm về mặt nhân cách và đạo đức trong một bộ phận sinh viên hôm nay.
Yếu tố tiờu cực rừ nột nhất trong đạo đức của một số sinh viên là lối sống cá nhân
thực dụng, xa rời đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Sự suy giảm về đạo đức
lệch lạc về lối sống trong một bộ phận sinh viên ngày càng rừ, biểu hiện ở khuynh hướng
vật chất hoá trong các hành vi ứng xử, coi nhẹ giá trị đạo đức truyền thống, tiếp thu
không có chọn lọc lối sống được mệnh danh là "hiện đại" có xu hướng hướng ngoại, sùng
bái đồng tiền, đua đũi, ăn diện, đũi hỏi hưởng thụ vượt quá mức thu nhập của cá nhân và
gia đỡnh cho phộp, khụng phự hợp với mặt bằng chung. Giỏo sư Vũ Khiêu đó cú nhận
xột như sau: "Thanh niên là hỡnh ảnh tương lai, là niềm hy vọng của hiện tại nhưng vỡ
sao khắp nơi trên thế giới nảy sinh ngày một nhiều những hiện tượng vô đạo đức, sống
hư hỏng, không niềm tin" [26, tr.9].
Những tệ nạn xó hội như: nghiện hút, uống rượu, mại dâm, đua xe, trộm cắp, rồi hiện
tượng vi phạm quy chế đào tạo vẫn tiếp tục tồn tại trong sinh viên. Đó cú những sinh viờn
phạm trọng tội giết người, cướp giật, lừa đảo và bị truy tố trước pháp luật. Bên cạnh đó là xu
hướng giải quyết các mâu thuẫn trong quan hệ xó hội bằng bạo lực, bất chấp phỏp luật và đạo
lý. Môi trường sinh viên hiện nay đó bị giảm sỳt phần nào tớnh trong sỏng, thuần nhất, trớ tuệ
so với trước kia.
Trong nhiều sinh viên xuất hiện thái độ đũi hỏi cụng bằng hơn là sự hy sinh đặc biệt
khi cho rằng việc làm và hưởng thụ đi đôi với nhau mà quên mất nghĩa vụ và trách nhiệm
công dân. Việc đề cao hiệu quả kinh tế trong mọi hoạt động, sử dụng đồng tiền làm thước đo
phổ biến, công khai đó ảnh hưởng mạnh đến mục đích lựa chọn ngành nghề, trường học,
động cơ học tập, thái độ và quan hệ giữa sinh viên với cán bộ giảng viên, tạo điều kiện cho
sự hỡnh thành và lan toả mạnh của xu hướng thực dụng, coi trọng lợi ích cá nhân hơn lợi ích
tập thể, xó hội, coi trọng giỏ trị vật chất hơn giá trị tinh thần, quan tâm đến lợi ích trước mắt
hơn lợi ích lâu dài, lấy hiệu quả đặt lên trên đạo đức, ít chú ý đến phát triển bền vững
"Những người trẻ trong đà say sưa đổi mới xó hội, dễ cú xu hướng xoá sạch quá khứ, xem
mọi cái cũ đều gắn liền với một xó hội lạc hậu" [43, tr.150].
Khi nghiờn cứu trờn 230 sinh viờn về quan niệm của họ về tỡnh dục trước hôn
nhân, Nguyễn Ánh Hồng (2003) kết luận: "Do ảnh hưởng của lối sống tự do cá nhân
phương tây, sinh viên ngày nay có cách nhỡn khỏc hơn về quan hệ tỡnh dục trước hôn nhân.
Sự biến đổi rừ nột trong quan niệm tỡnh yờu của sinh viờn là xu hướng dễ chấp nhận quan
hệ tỡnh dục trước hôn nhân" [22, tr.18]. Bên cạnh đó là sự tầm thường hóa thị hiếu ở nhiều
bạn trẻ trong đó có sinh viên, trong việc hưởng thụ văn hoá, đặc biệt là lĩnh vực ca nhạc là
một biểu hiện gián tiếp của sự xuống cấp về đạo đức, lĩnh vực có đối tượng khách hàng chủ
yếu là giới trẻ, đang tràn lan những bài hát rên rỉ, đa sầu đa cảm, uỷ mị yếu đuối. Những
khán giả trẻ vỡ thế mà lầm tưởng các giá trị ảo là thật và chỡm đắm vào cái tôi cá nhân, yêu
đương bi luỵ. Chính vỡ thế, một bộ phận sinh viên mơ hồ về lý tưởng cách mạng, thờ ơ với
chính trị, ý chí phấn đấu chưa cao.
Một số sinh viên do quá coi trọng lợi ích cá nhân, thờ ơ về chính trị, mờ nhạt về lý
tưởng nên ngại tham gia các hoạt động xó hội, đoàn thể, có thái độ bàng quang đối với
người xung quanh. Gần đây, các phong trào tỡnh nguyện được phát động khá rầm rộ trong
sinh viên, nhằm giáo dục tuyên truyền tinh thần vỡ cộng đồng, sự hy sinh và quan tâm đến
người khác. Sinh viên tham gia các phong trào này có phần thấp đi, nguyên nhân thường
được đánh giá dưới góc độ kinh tế do sự thực dụng là việc làm đó sẽ đưa lại lợi ích gỡ cho
chớnh mỡnh hơn là vỡ nguyờn nhõn tỡnh cảm quan tõm và sự chia sẻ với người khác.
Đạo đức mới không phải là sản phẩm tự phát mà được hỡnh thành một cỏch tự giỏc, là
kết quả của giáo dục và tự giáo dục. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, của thanh niên
có giá trị giáo dục, góp phần khơi dậy niềm tự hào về dân tộc, về các thế hệ cha anh từ đó tạo
dựng tỡnh cảm đạo đức tốt đẹp là cơ sở tâm lý để con người lựa chọn chuẩn mực đạo đức, xây
dựng niềm tin, lý tưởng đạo đức.
Sự phát triển phức tạp và những biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế - xó hội
hiện nay đó làm cho cỏc yếu tố tõm - sinh lý của sinh viờn cú những bước phát triển nhanh
hơn. Song thực tế cũng cho thấy, định hướng trong tương lai, lý tưởng sống là một trong
những vấn đề khó khăn đối với sinh viên hiện nay. Lý tưởng đạo đức là tư tưởng về tương lai
đạo đức tốt đẹp nhất, hoàn hảo nhất mà con người mong ước vươn tới, nó phản ánh những
hoài bóo, những xu hướng, những nội dung cơ bản của những giá trị và chuẩn mực đạo đức
trong đời sống xó hội. Lý tưởng đạo đức luôn thống nhất với lý tưởng xó hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội, dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn
chủ văn minh vừa là lý tưởng, vừa là mục tiêu phấn đấu được Đảng và nhân dân ta lựa
chọn. Đây cũng là lý tưởng đạo đức mà sinh viên cần hướng tới. Những giá trị đạo đức
truyền thống vẻ vang của thanh niên như yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha với độc lập
dân tộc, trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, với chế độ xó hội chủ nghĩa; xung
kớch cỏch mạng; đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái và nhân đạo cao cả; truyền
thống hiếu học, ham hiểu biết, không cam chịu tụt hậu, có ý chớ vượt khó, cần cù... là
những giá trị đạo đức vẫn đang được khẳng định trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng yêu
cầu lý tưởng đạo đức xó hội. Những giỏ trị này sẽ tiếp thờm sức mạnh, tạo dựng niềm tin,
niềm tự hào của sinh viờn vào lý tưởng mà Đảng và nhân dân ta đó lựa chọn, vào hiện
thực xó hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Khi lý tưởng đạo đức được hỡnh thành, được củng cố bằng niềm tin thỡ nhu cầu và
mục đích đạo đức sẽ chuyển hoá thành động cơ tự giác thúc dục con người hành động
thực hiện hành vi đạo đức. Từ việc hỡnh thành lý tưởng đạo đức phù hợp với yêu cầu của
sự phát triển đất nước, sinh viên sẽ xác định cho bản thân những yêu cầu phải phấn đấu rèn
luyện vươn lên. Chính trong quá trỡnh đó, sinh viên tự khẳng định mỡnh và gúp phần vào sự
phỏt triển xó hội. Theo đó, những giá trị đạo đức mới sẽ từng bước được hiện thực hoá trong
đời sống xó hội và mang hơi thở của cuộc sống, được điều chỉnh bởi nhu cầu của thực tiễn
xó hội. Chẳng hạn, ngày nay, yờu nước là yêu nền hoà bỡnh, độc lập của đất nước, yêu chủ
nghĩa xó hội, làm cho nước mạnh, dân giàu, là trung với Đảng, hiếu với dân. Tỡnh cảm đạo
đức này sẽ là nội lực quan trọng, tạo cho sinh viên ý chớ tự lực, tự cường, sự say mê trong
lao động học tập, tính tích cực sáng tạo trong lao động sản xuất, bảo vệ nền hoà bỡnh, độc
lập dân tộc.
Nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta đang thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xó hội của đất nước, thực sự tạo điều kiện cho cá nhân phát triển nhưng cũng
là môi trường nuôi dưỡng bệnh cá nhân chủ nghĩa, và do đó lý tưởng sống của sinh viển rất
dễ bị xói mũn khi chủ nghĩa cỏ nhõn phỏt triển. í thức cộng đồng là một giá trị đạo đức quan
trọng. Sự gắn bó cá nhân với cộng đồng, sự quan tâm của cộng đồng sẽ tạo nên sức mạnh vật
chất và tinh thần to lớn giúp sinh viên vượt qua những khó khăn, quyết tâm phấn đấu giành
thành quả cho bản thân và qua đó đóng góp cho cộng đồng xó hội.
Việc khẳng định các giá trị đạo đức mới cùng với việc phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống của thanh niên chính là điều kiện để sinh viên kết hợp được tinh hoa dân tộc
với các giá trị tiên tiến trên thế giới, để sinh viên không những không bị mất gốc mà cũn
có điều kiện vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại, có thể đuổi kịp trỡnh độ khoa
học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới viết tiếp những nội dung mới, những trang mới làm
phong phú thêm truyền thống vẻ vang của thanh niên.
1.3. PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA THANH NIÊN
TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN HIỆN NAY LÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN
1.3.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi đạo đức của sinh viên Đại học
Thái Nguyên hiện nay
* Nhân tố kinh tế
Với đường lối đổi mới mà Đảng ta khẳng định tại Đại hội VI (1986), nước ta
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xó hội chủ
nghĩa (theo Đại hội IX gọi là kinh tế thị trường định hướng xó hụi chủ nghĩa). Kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong thời kỳ quỏ độ
đi lên chủ nghĩa xó hội vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị
trường, các quy luật của thời kỳ quá độ, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước nhằm đạt
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ và văn minh [42, tr.160].
Chúng ta bắt tay xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa trong
xu thế toàn cầu hoỏ đang diễn ra mạnh mẽ. Khái niệm toàn cầu hoá (Globalization) ra đời
từ những năm 80 của thế kỷ XX, là bước phát triển mới của quá trỡnh quốc tế hoỏ, dựng
để chỉ "quá trỡnh tăng lên mạnh mẽ, sự tác động lẫn nhau của tất cả các khu vực, các
quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới" [31, tr.4], làm nổi bật hàng loạt những biến đổi
có quan hệ mang tính toàn cầu. Nó đũi hỏi mỗi quốc gia chỉ cú thể tồn tại và phỏt triển
được khi tự đặt mỡnh là bộ phận trong cộng đồng thế giới, trở thành một mắt xích trong
sợi dây
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát huy giá trị đạo đức truyền thống của thanh niên trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên đại học thái nguyên hiện nay.pdf