Luận văn Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Luận văn Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN: Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Lời nói đầu Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngặt sánh suốt của Đảng, của Nhà nước ta. Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu cho công cuộc xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vậy kinh tế thị trường đó là cái gì? hoàn cảnh ra đời, cái gì dẫn tới phải phát triển kinh tế thị trường - đặc điểm của nền kinh tế thị trường là như thế nào - các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ra sao? Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cần được giải quyết, tìm hi...

pdf28 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Lời nói đầu Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngặt sánh suốt của Đảng, của Nhà nước ta. Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu cho công cuộc xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vậy kinh tế thị trường đó là cái gì? hoàn cảnh ra đời, cái gì dẫn tới phải phát triển kinh tế thị trường - đặc điểm của nền kinh tế thị trường là như thế nào - các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ra sao? Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cần được giải quyết, tìm hiểu rõ về nó, ta có thể nắm bắt được kiên thức cơ bản nhất về nền kinh tế thị trường ở nước ta. Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai đoạn cụ thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó. Vì thế đề tài “Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” là vô cùng thiết thực và cần thiết, qua đó cọng với niềm thích thú, sự học hỏi của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài này là hoàn toàn phù hợp và thỏa mãn với mình. Nội dung I: Tại sao nước ta phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Sự trì trệ, lạc hậu kém phát triển của kinh tế kế hoạch hoá tập trung a.Ưu điểm: Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông thôn cũng như thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta , có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tê nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai,tài sản, tiền vốn để phát triển ổn định về kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến lúc đó. b.Nhược điểm: Sau ngày giải phóng, miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan ,tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ chương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của các cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đât nước,trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó . Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm , sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó khăn , sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt năng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay ,viện trợ của nước ngoài. Đến cuối nhưng năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao,làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số đại phương nạn đói đang rình dập . Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là: Ta đã thực hiên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng. Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vữa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực phát triển. Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lưa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động. 2. Kinh tế thị trường có những ưu và nhược điểm gì ? Bất cứ một nề kinh tế nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm . Nền KTTT cũng vậy nó bao gồm những ưu và nhược điểm sau . Những mặt tích cực của nền KTTT thể hiện bằng sự phát triển kinh tế vượt bậc . Từ sự phát triển vượt bậc đó khoa học công nghệ cũng có những bước phát triển lớn, khoa học công nghệ phát triển từ đó các công cụ sản xuất ngày một phát triển hơn ,con người được sản xuất trong những điều kiện tốt hơn . Năng xuất lao đông được nâng cao hơn rất nhiều so với trước . Một nền kinh tế phát triển đã làm cho mức sống chung của các nước trên toàn thế giới được nâng cao hơn trước ... Trên đây là một số mặt tích cực của nền KTTT mà chúng ta cần phải phát huy để nền kinh tế ngày càng phát triển hơn . Những mặt tiêu cực của nền KTTT là : Do quá trình hoạt động sản xuất cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên , nhưng do năng xuất lao động cao cộng với việc nhu cầu của người dân ngày càng lớn đã dẫn đến khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức cho phép từ đó tài nguyên thiên nhiên đã dần bị cạn kiệt . Các hoạt động sản xuất chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất mà không chú ý tới vấn đề môi trường .các hoạt động sản xuất đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường trầm trọng . Một mặt tiêu cực nữa đó là vấn đề đạo đức ,lối sống trong dân . Ngày nay do mức sống của con người được nâng cao , con người dễ tiếp xúc đối với những loại văn hoá độc hại làm ảnh hưởng tới tình trạng đạo đức trong dân ... Từ những mặt tích cực và tiêu cực trên ta phải tìm ra những phương pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực để nền kinh tế được phát triển toàn diện hơn , từ đó cuộc sống của người dân được nâng cao hơn mà không bị ảnh hưởng của những mặt tiêu cực. 3. có thể thực hiện được kinh tế thị trường ở nước ta không? Một điều cần khẳng định rằng, kinh tế thị trường là hoàn toàn có thể thực hiện được trong Chủ nghĩa xã hội, câu hỏi được trả lời bổi các lý do sau : a)Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, mà kinh tế hàng hoá đã từng tồn tại trước chủ nghĩa tư bản. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá, và các trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá : kinh tế hàng hoá giản đơn (kinh tế thị trường sơ khai), kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Còn bản chất cố hữu của chủ nghĩa tư bản là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng hoá họ. Kinh tế hàng hoá không phải là cái do chủ nghĩa tư bản tạo ra, mà là thành tựu văn minh do con người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Theo C. Mác, sản xuất và trao đổi hàng hoá là “một nét chung cho những hình thái kinh tế – xã hội hết sức khác nhau” tức là kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội chứ không phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, không thể cho rằng xây dựng kinh tế thị trường là đồng nghĩa với phát triển chủ nghĩa tư bản. b) Kinh tế thị trường là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội. Nếu quan niệm kinh tế thị trường như là cơ sở kinh tế thì tất nhiên sẽ đi đến kết luận: đã xây dựng kinh tế thị trường, thì chế độ tương ứng với nó phải là chế độ tư bản. Dĩ nhiên kinh tế thị trường và chế độ xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng đó không phải là mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng. Cơ sở kinh tế cua một chế độ xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cần hiểu rằng thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của phương thức, phương pháp, qui tắc cụ thể của việc tổ chức vận hành kinh tế trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Thể chế kinh tế là một khái niệm thấp hơn một cấp so với chế độ kinh tế. Mọi chế độ kinh tế có thể có những thể chế kinh tế khác nhau. Do đó, dưới chủ nghĩa xã hội không phải chỉ có thể áp dụng duy nhất thể chế kinh tế kế hoạch, mà cũng có thể áp dụng thể chế kinh tế thị trường. c) Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế vận hành mà theo một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, chế dộ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, mà thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào đó, tác động giản tiếp đến thể chế kinh tế. Vấn đề căn bản để hình thành kinh tế thị trường là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hoá. Vì vậy, trong điều kiện chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể thực hiện thể chế kinh tế thị trường. Nếu sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân) được phân giải thành các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp, thì khi đó sẽ tạo nên những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng, do đó sẽ hình thành được kinh tế thị trường. Sự phân giải các quyền sở hữu toàn dân được thực hiện thông qua việc phát huy tiềm năngcủa các thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 4.Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa người lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man). Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba,là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ ... để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền hinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của V.I.Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là một chế độ kinh tế-xã hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo qui luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất- kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng qui mô của sản xuất-kinh donh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học-công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất-kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của văn minh nhân loại, của khoa học-kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; Giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi điện tử-tin học ... Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số.Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là sự phát triển kinh tế thị trường, cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự cần thiết tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đưa nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại. Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng ,tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng .Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Xét về tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường . Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình thành và phát triển đạt những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh đang được mở rộng với thị trường quốc tế.Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động ,thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới ,sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với thị trường thế giới.Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong và giá cả hàng hoá quốc tế. Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữi các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông ,vũ khí nhiều ,quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp , tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu , vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Tuy vậy,nền kinh tế thị trường hướng tới của nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình” , vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đói với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan trọng. Sự phát triển kinh tế –xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xãhội , nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm những thay đổi về chất(những biến đổi về mặt xã hội). “Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn ”. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đói lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ-xã hội của sự phát triển. Nó là cach thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn tể xã hội ,là sự thiết lập một trật tự xã hôi với mục tiêu công bằng văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cổ điển.Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh , hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ tịch HCM nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn xã hội ,của toàn dân tộc,là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, sự phát triển hiện đại. Nghiã là, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Điều đó không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế nhằm đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh,mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại, là thiết lập một kiểu tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nộng dung công bằng và văn minh. Nhà nước XHCN, “của dân, do dân và vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hướng đó. 5.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Với vai trò tích cực của nhà nước vào điều tiết nền kinh tế nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển cao và ổn định. Từ đó ta có thể thấy vai trò của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế là rất quan trọng. Như ta đã biết vai trò quản lí của nhà nước là rất quan trọng Vai trò đó thể hiện rất rõ qua các chức năng sau : Thứ nhất, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Thực tế chức năng này đã vượt ra ngoài chức năng kinh tế đơn thuần. Nhà nước đã tạo ra hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế phát triển trong cơ chế hoạt động của thị trường.Đồng thời với hành lang pháp lý như vậy thì các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế sẽ hoạt động trong sự quản lý, bảo trợ của nhà nước. Hai là, Điều tiết nền kinh tế để đảm bảo cho nền KTTT phát triển ổn định. Trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường thì nền KTTT không tránh khỏi những khủng hoảng, thất bại. Mỗi nền kinh tế đều có chu kỳ hoạt động, phát triển tức là có sự tăng, giảm GDP.Với vai trò ổn định kinh tế của mình nhà nước làm dịu đi những giao động nên xuống của các chu kỳ kinh doanh. Việc điều tiết này thông qua các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ. Do đó với vai trò quản lý của mình nhà nước đã làm giảm đi tình trạng thất nghiệp và lạm phát. Tuy nhiên nhà nước cũng không thể điều tiết một cách hoàn hảo cho nên trong nền kinh tế vẫn có những thất bại của thị trường nhưng nó đã ở mức độ thấp hơn. Ba là, Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Trong quá trình vận động của KTTT thì nền kinh tế phải chịu những tác động mà các nhà kinh tế gọi là các tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi nhuận của mình nên đã khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm môi trường sống của con người và xã hội. Dựa trên sự quản lý của chính phủ buộc những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền cho những thiệt hại đó. Chính sự can thiệp của chính phủ đã ngăn chặn những tác động bên ngoài nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Một nguyên nhân khác cũng làm giảm hiệu quả trong hoạt động của thị trường. Đó là việc xuất hiện các công ty độc quyền. Do xuất hiện các công ty độc quyền trên thị trường, các công ty độc quyền họ ép giá trên thị trường gây ra tình trạng các công ty khác không cạnh tranh được. Do đó làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường do đó dẫn tới tình trạnh kinh tế không phát triển được. Bốn là, nhà nước phải can thiệp vào phân phối nhằm phân phối công bằng trong xã hội, bảo vệ những thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế. Việc phân phối công bằng sẽ làm cho cuộc sống của người nghèo trong xã hội được nâng cao. Một vai trò khác của nhà nước thể hiện ở chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Với sự quản lý của nhà nước thì các nước có một nền kinh tế tăng trưởng ổn định nhờ các chính sách của nhà nước. Nhà nước đã định hướng cho nền kinh tế, các thành phần kinh tế hướng đi. Nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực kinh tế nhằm dẫn dắt nền kinh tế của cả nước phát triển theo. Với một môi trường vĩ mô ổn định, các thành phần kinh tế phát triển thì tình trạng thất nghiệp và lạm phát cũng giảm. Nhà nước ta phải xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt để đảm bảo cho yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước phải có sự quản lý chặt chẽ đối với các thành phần kinh tế nhưng không được can thiệp quá sâu vào đó. Với các chức năng như vậy, nước ta đã có một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ từ sau đại hội Đảng 6. Từ nước có một nền kinh tế lạc hậu, ngày nay nước ta đã có môt nền kinh tế tương đối phát triển và là một nước có môi trường đầu tư ổn định. ii. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì? 1- Đặc điểm kinh tế thị trường ở nước ta Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội – xã hội chủ nghĩa ). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hạu và kém phất tiển nhưng khi nước ta chuyển sang kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và là yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên, sự phát triển kinh tế –xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cùng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Nhân có giàu thì nước mới mạnh, bảo đmr độc lập, tự chủ và toàn vện lãnh thổ của quốc gia. Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có thamgia bởi bàn tay “hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất,không tách rời, biệt lập. Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới.Nhà nước ta là nhà nước “của dân,do dân và vì dân”,nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là môt nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường hiện có trên thế giới. Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiền thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia, quản lý của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh – hợp tác... )sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Qui luật giá trị qui định mục đích trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), qui định sự phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượg kinh tế của mình (kinh tế nhà nước), nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung – tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất. Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nề kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nề sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa hội nhấp với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính là: thương mại; đầu tư; và chuyển giao khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Thứ sáu, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, lừ tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng với những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hịên sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai doạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và “chia đều sự nghèo đói” cho mọi người. Mức độ bảo đảm công bằng cho xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu qúa nhấn mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn co hẹp, thì chác chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thứ bảy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được thực hiệ n theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao dộng và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), chủ nghĩa tư bản coi trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân phối thành quả lao động, chủ nghĩa tư bản nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đén yếu tố tích luỹ - đầu tư hơn là yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong phân phối thu nhập và thành qủa lao động của xã hội, chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương của ngời lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến vai trò tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh doang giờ đây đã trở thành điều bình thườn. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số ngời có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết thu nhập của nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tóm lại, quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỉ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” 2. So sánh với đặc điểm của kinh tế thị trường các nước TBCN - Sự giống nhau: + Cũng có sự hoạt động, phương thức như nhau. + Cũng có sự bảo hộ của Nhà nước - Sự khác nhau: + Kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu làm nền tảng, thì kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên ché độ công hữu + Trong mô hình kinh tế thị trường TBCN, các thành phần kinh tế tồn tại biệt lập, cạnh tranh, liên kết loại trừ nhau thì ngược lại trong kinh tế thị trường định hội chủ nghĩa chúng không tồn tại đối lập, không loại trừ nhau mà hợp tác đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế hợp tác. + Mục rtiêu của chủ nghĩa tư bản là lợi cho các nhà tư sản, thì chủ nghĩa xã hội có mục tiêu cho toàn xã hội. + chính quyền của CNTB là chính quyền của giai cấp tư sản, còn chính quyền của CNXH là chính quyền của nhân dân. + Sự phân cực trong xã hội của CNTB lớn hơn, rõ ràng hơn, chủ nghĩa xã hội quan tâm tới công bằng xã hội. Iii:Các giải pháp để xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn qua 15 năm đổi mới. Tuy vậy cũng cần phải có những phương hướng để phát triển nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn hội nhập mở cửa với các nước trên thế giới. Những phương hướng cụ thể đó là: a)Định hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn. Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. ứng dụng nhanh chóng khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị truờng tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông nghiệp – công nghiệp – dich vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Tích cực khai hoang và mở rộng diện tích canh tác ở những nơi còn đất hoang hoá chưa được sử dụng, phân bố lại lao động dân cư; giảm nhẹ tác động của thiên tai đối với sản xuất. Tập trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh cao như càphê, cao su, chè, điều, ... ngoài ra đặc biệt chú trọng phát triển các loại rau quả và các sản phẩm đặc trưng khác. Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề đánh bắt ở ven bờ hợp lí. Đầu tư phát triển mạnh ngành nuoi trồng thuỷ hải sản, xây dựng vùng nuôi trồng tập trung, gắn với việc phát triển công nghiệp chế biến chất lượng cao. Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghệ sơ chế và chế biến về nông thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ, cung ứng vật tư kỹ thuật, trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn. . . . tăng nhanh việc làm cho khu vực phi nông nghiệp. Tiếp tục chương trình xoá đói giảm nghèo, chú trọng phát triển các đô thị nhỏ, các điểm bưu điện văn hoá ở xã, làng và các trung tâm văn hoá cụm xã. a) Định hướng phát triển công nghiệp Phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngàng sản xuất công nghiệp. Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú trong công nghệ chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường và hiệu quả một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất. Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin viễn thông điện tử. Phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết. Kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu; có những biện pháp bảo hộ hợp lí, bảo đảm công nghiệp phát triển với khả năng cạnh tranh cao, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp với nhiều qui mô, nhiều trình độ; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp định hướng chung và lợi thế của từng vùng. b) Định hướng phát triển các ngành dịch vụ. Đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tôtd nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Phát triển thương mại, cả nội thương và ngoại thương, bảo đảm hàng hoá lưu thông thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Chú trọng công tác tiếp thị và mở rộng thị trường nông thôn, thị trường miền núi, tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước. Phát triển và đa dạng hoá các loại hình và các điểm du lịch sinh thái, du lịch văn hoá. . . hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. c) Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại.  Tăng nhanh tổng kinh ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản, thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới.  Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành mà nước ta có lợi thế. d) Định hướng phát triến giáo dục và đào tạo. Tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo. triển khai thực hiện có hiệu quả luật giáo dục đào tạo. Định hình qui mô giáo dục đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, nhất là cơ cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển nền kinh tế xã hội. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp. e) Định hướng phát triển văn hoá. Phát huy bản sắc dân tộc, bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa các vùng trong cả nước và giao lưu văn hoá với nước ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt động văn hoá thông tin về vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc. Phát triển phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình, bản làng văn hoá. f) Bảo vệ và cải thiện môi trường. Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường theo hướng phát triển bền vững. Đảm bảo sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tiết kiệm và tái chế, tái sử dụng nguồn tài nguyên không tái tạo được. Tăng cường kiểm tra và giám sát môi trường trong từng dự án đầu tư và từng quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, các vùng lãnh thổ. áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất ít chất thải, ít gây ô nhiễm môi trường. Kết luận Thực tế sau 15 năm đổi mới đã chứng minh phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn. Qua 15 năm đổi mới, thực hiện đường lối do Đảng ta đề xướng. Đất nước ta – dân tộc ta đã thu được những thành tựu to lớn cả về kinh tế và xã hội. Kinh tế thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm qua và bước đầu thờ kì phátt riển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân một năm của thời kỳ 1996 đến năm 2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986 – 1990. Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990; 12,7% năm 1995; 0,1% năm 1999; 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ trên 2 con số. Bình quân thời kỳ 1991 – 1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996 – 2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng,..., tăng nhanh hơn trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kỳ đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu thô năm 1986 đã tăng lên 15 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỉ USD. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỷ XX đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng, nghề thuỷ sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải qyết vững chắc an toàn lương thực quốc gia, biến Việt Nam từ nước thiếu lương thực trước năm 1989 thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Tính trung 12 năm qua, nước ta đã xuất khẩu 30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/năm nhưng thị trường và giá cả lương thực trong nước vẫn ổ định, kể cả những năm gặp thiên tai lớn như năm 1999, 2000. Tốc độ tăng sản lượng lương thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%) nên lương thực bình quân đầu người từ 280 kg năm 1987 tăng lên 450 kg năm 2000. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vừa tăng nhanh về số lượng vừa tăng nhanh về chất lượng nên ngày càng có uy tín trên thị trường quốc tế. Năm 2000, sản lượng cà phê xuất khẩu đã đạt 660 nghìn tấn, gấp 2,7 lần năm 1995 và đứng vị trí thứ 2 trên thế giới sau Brazin. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995. Hàng thuỷ sản Việt Nam hiện nay đã được công nhận trong danh sách nhóm 1 của các nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU sau khi đã vượt qua cuộc kiểm tra chất lượng của các cơ quan thực phẩm Mỹ. Tổng giá trị xuất khẩu nông xản đã chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hành hoá đã hình thành gắn với thị trường quốc tế. Hoạt dộng thương mại và dịch vụ có nhều khởi sắc. Cơ chế cung cấp theo tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ, thay vào đó là lưu thông tự do, thống nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ, giá cả ổn định, chất lượng ngày càng cao, phương thức mua bản thuận tiện. Hoạt động xuất khẩu sôi động, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 570 triệu USD thời kỳ 1981 – 1985 lên 1370 triệu USD thời kỳ 1986 – 1990, 3401 triệu USD thời kỳ 1991 – 1995 và 5646 triệu USD/năm thời kỳ 1996 – 2000, riêng năm 2000 đạt 14 tỷ USD. Nhập siêu giảm từ 3,8 tỷ USD năm 1996 xuống còn 800 triệu USD năm 2000. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ buốn bán với hơn 150 nước và vùng lãnh thổ. Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt đầu từ năm 1988 với 37 dự án và 371 triệu USD, đến nay cả nước có hơn 3000 dự án với hơn 700 doanh nghiệp của 62 nước và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký trên 36 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 17 tỷ USD. Khu vực này đã nộp ngân sách hơn 1,52 tỷ USD, tạo ra hơn 21,6 tỷ USD hàng hoá xuất nhập khẩu và giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu người lao động gián tiếp. Sự hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc - Trung – Nam và 68 khu công nghiệp, khu chế xuất đã là những mô hình mới, điểm sáng trong bức tranh kinh tế nước ta thời kỳ đổi mới và mở cửa. Bộ mặt đất nước thay đổi theo chiều hướng ngày càng văn minh và hiện đại. Hàng loạt các công trình thế kỷ đã mọc lên: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Thác Mơ, Yaly, đường dây 500 KV Bắc – Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ, cầu Bến Thuỷ, cầu Sông Gianh, Quán Hàu, cầu Mỹ Thuận – một kỳ quan của khu vực Đông Nam á, nâng cấp quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 18, cùng nhiều sân bay, bến cảng đã và đang được nâng cấp và hiện đại hoá. Cùng với các cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phục vụ sản xuất là hàng loạt các công trình phúc lợi phục vụ đời sống nhân dân như bệnh viện, trạm y tế, trường học, nhà ở cho người nghèo, nhà tình nghĩa... Đến năm 2000, điện lưới quốc gia phủ 98% số huyện, 70% số xã và 98% số hộ thành thị, 60% số hộ nông thôn. Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nân gcấp đang vươn tới mọi miền đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 15 năm đổi mới và năm 1999 đạt 295 nghìn đồng/người/tháng, tăng 30% so với năm 1996. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10%, số hộ nghèo giảm xuống, từ trên 51% trong thập niên 80 xuống còn 13,3% năm 1999 và 11% năm 2000. văn hoá, y tế và giáo dục được nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng. Đến nay, cả nước đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và hoàn thành phổ cập tiểu học. Năm 2001-2002 có 25 triệu học sinh các cấp, cứ 3 người dân có 1 người đi học, 100% số xã có trạm y tế, 40% số xã có bác sĩ... Thành tựu 15 năm đổi mới đã khẳng định sự sáng suốt của Đảng và tính ưu việt của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy một lần nữa ta khẳng định lại phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với tình hình cụ thể và thực tế của thời đại ngày nay. Nhận xét: Tuy kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm, song nó cũng tồn tại rất nhiều khuyết điểm: - Về môi trường: nó làm tăng lượng khí CO2 trong không khí, thải vào môi trường sống một lượng chất thải khổng lồ, môi trường bị ô nhiễm, sức khoẻ y tế cộng đồng bị ảnh hưởng đòi hỏi phải có chi phí tốn kém cho việc khắc phục nó. - Văn hoá: sự hội nhập văn hoá các nước trên thế giới, truyền thống văn hoá nhân gian bị lu mờ, lãng quên, xuất hiện lối sống không phù hợp với nhân phẩm đạo đức của con người. - Xã hội: có sự phân cấp giàu nghèo, tình trạng xã hội càng trở nên bất ổn, tệ nạn xã hội mang tính toàn cầu. Những thách thức: Đối Việt Nam kinh tế Việt Nam đang còn có sự bỡ ngỡ trước nền kinh tế thế giới, đang còn dứng trước những gian truân vất vả trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì thế cho nên có nhiều những thách thức to lớn đòi hỏi phải được vượt qua, đó là: lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, sự phát triển của thế giới, của khu vực. Qua đó ta thấy được nhiệm vụ của bản thân mình những nhà kinh tế , những nhà quản lý cần phải làm gì , cần phải làm như thế nào, ngay từ bây giờ để xây dựng đất nước ta đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần phải học tập, mở mang kiến thức để có một hành trang vững chắc bước vào tương lai, để lãnh nhiệm vụ của các thế hệ đi trước giao lại, đó là những nhiệm vụ vinh quang và cao cả “Xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Mục lục I: Tại sao nước ta phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. ii. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì? Iii:Các giải pháp để xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Kết luận 02 15 20 26 Tài liệu tham khảo Lênin- Kinh tế chính trị trong thời kỳ chiến tranh vô sản Giáo trình kinh tế chính trị tập II - ĐHKTQD Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX Tạp chí cộng sản số 39/1998; 24/2000… Tạp chí kinh tế phát triển số 16/1997; 42/1999… Thời báo kinh tế … … … … … … … … … … …

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan