Tài liệu Luận văn Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN:
Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát
triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Lời nói đầu
Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà
nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng
đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với
sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngặt sánh
suốt của Đảng, của Nhà nước ta.
Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu
cho công cuộc xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Vậy kinh tế thị trường đó là cái gì? hoàn cảnh ra đời, cái gì dẫn tới phải
phát triển kinh tế thị trường - đặc điểm của nền kinh tế thị trường là như thế nào -
các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ra sao?
Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cần được giải quyết, tìm hi...
28 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát
triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Lời nói đầu
Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà
nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng
đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với
sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngặt sánh
suốt của Đảng, của Nhà nước ta.
Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu
cho công cuộc xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Vậy kinh tế thị trường đó là cái gì? hoàn cảnh ra đời, cái gì dẫn tới phải
phát triển kinh tế thị trường - đặc điểm của nền kinh tế thị trường là như thế nào -
các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ra sao?
Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cần được giải quyết, tìm hiểu rõ về nó, ta
có thể nắm bắt được kiên thức cơ bản nhất về nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai đoạn cụ
thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó.
Vì thế đề tài “Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển
nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” là vô cùng thiết thực và cần thiết, qua đó
cọng với niềm thích thú, sự học hỏi của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài
này là hoàn toàn phù hợp và thỏa mãn với mình.
Nội dung
I: Tại sao nước ta phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
1. Sự trì trệ, lạc hậu kém phát triển của kinh tế kế hoạch hoá tập trung
a.Ưu điểm:
Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch
hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức
rộng rãi ở nông thôn cũng như thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta , có
thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa cũ mô hình kế hoạch hoá
tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tê nông nghiệp
lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một
lực lượng vật chất quan trọng về đất đai,tài sản, tiền vốn để phát triển ổn định về
kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ ở miền Bắc đã có những chuyển biến về
kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã tỏ ra phù hợp với nền
kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh
tế thời chiến lúc đó.
b.Nhược điểm:
Sau ngày giải phóng, miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế đã thay đổi.
Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc,
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan ,tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục
chủ chương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm
vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản
lý cũ vào điều kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do
chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của các cơ chế quản lý kinh tế
mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đât
nước,trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn
tài nguyên đó . Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm , sản
xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra
nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó khăn ,
sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt năng nề, thu nhập từ nền kinh
tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu
dựa vào vay ,viện trợ của nước ngoài. Đến cuối nhưng năm 80, giá cả leo thang,
khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao,làm cho đời sống nhân dân bị giảm
sút thậm chí một số đại phương nạn đói đang rình dập . Nguyên nhân sâu xa về sự
suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã dập khuôn một mô hình kinh tế chưa
thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
Ta đã thực hiên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, trên một quy mô
lớn trong điều kiện chưa cho phép Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ
và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi
dân số ngày một gia tăng.
Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép:
Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vữa
phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực phát triển.
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lưa chọn của
người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu
người lao động.
2. Kinh tế thị trường có những ưu và nhược điểm gì ?
Bất cứ một nề kinh tế nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm . Nền
KTTT cũng vậy nó bao gồm những ưu và nhược điểm sau .
Những mặt tích cực của nền KTTT thể hiện bằng sự phát triển kinh tế vượt
bậc . Từ sự phát triển vượt bậc đó khoa học công nghệ cũng có những bước phát
triển lớn, khoa học công nghệ phát triển từ đó các công cụ sản xuất ngày một phát
triển hơn ,con người được sản xuất trong những điều kiện tốt hơn . Năng xuất lao
đông được nâng cao hơn rất nhiều so với trước . Một nền kinh tế phát triển đã làm
cho mức sống chung của các nước trên toàn thế giới được nâng cao hơn trước ...
Trên đây là một số mặt tích cực của nền KTTT mà chúng ta cần phải phát huy để
nền kinh tế ngày càng phát triển hơn .
Những mặt tiêu cực của nền KTTT là : Do quá trình hoạt động sản xuất cần
phải khai thác tài nguyên thiên nhiên , nhưng do năng xuất lao động cao cộng với
việc nhu cầu của người dân ngày càng lớn đã dẫn đến khai thác tài nguyên thiên
nhiên quá mức cho phép từ đó tài nguyên thiên nhiên đã dần bị cạn kiệt .
Các hoạt động sản xuất chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất mà không chú ý tới
vấn đề môi trường .các hoạt động sản xuất đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi
trường trầm trọng .
Một mặt tiêu cực nữa đó là vấn đề đạo đức ,lối sống trong dân . Ngày nay
do mức sống của con người được nâng cao , con người dễ tiếp xúc đối với những
loại văn hoá độc hại làm ảnh hưởng tới tình trạng đạo đức trong dân ...
Từ những mặt tích cực và tiêu cực trên ta phải tìm ra những phương pháp
để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực để nền kinh tế
được phát triển toàn diện hơn , từ đó cuộc sống của người dân được nâng cao hơn
mà không bị ảnh hưởng của những mặt tiêu cực.
3. có thể thực hiện được kinh tế thị trường ở nước ta không?
Một điều cần khẳng định rằng, kinh tế thị trường là hoàn toàn có thể thực
hiện được trong Chủ nghĩa xã hội, câu hỏi được trả lời bổi các lý do sau :
a)Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, mà kinh
tế hàng hoá đã từng tồn tại trước chủ nghĩa tư bản. Những điều kiện ra đời và tồn
tại của kinh tế hàng hoá, và các trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá : kinh tế
hàng hoá giản đơn (kinh tế thị trường sơ khai), kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị
trường hiện đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Còn bản chất cố hữu
của chủ nghĩa tư bản là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng hoá họ. Kinh tế
hàng hoá không phải là cái do chủ nghĩa tư bản tạo ra, mà là thành tựu văn minh
do con người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Theo C.
Mác, sản xuất và trao đổi hàng hoá là “một nét chung cho những hình thái kinh tế
– xã hội hết sức khác nhau” tức là kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều hình thái
kinh tế xã hội chứ không phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy,
không thể cho rằng xây dựng kinh tế thị trường là đồng nghĩa với phát triển chủ
nghĩa tư bản.
b) Kinh tế thị trường là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở
kinh tế của một chế độ xã hội.
Nếu quan niệm kinh tế thị trường như là cơ sở kinh tế thì tất nhiên sẽ đi đến
kết luận: đã xây dựng kinh tế thị trường, thì chế độ tương ứng với nó phải là chế
độ tư bản. Dĩ nhiên kinh tế thị trường và chế độ xã hội có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Nhưng đó không phải là mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc
thượng tầng. Cơ sở kinh tế cua một chế độ xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất
thống trị, trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội
là hệ thống quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất.
Cần hiểu rằng thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của phương thức, phương
pháp, qui tắc cụ thể của việc tổ chức vận hành kinh tế trong một chế độ kinh tế -
xã hội nhất định. Thể chế kinh tế là một khái niệm thấp hơn một cấp so với chế độ
kinh tế. Mọi chế độ kinh tế có thể có những thể chế kinh tế khác nhau. Do đó, dưới
chủ nghĩa xã hội không phải chỉ có thể áp dụng duy nhất thể chế kinh tế kế hoạch,
mà cũng có thể áp dụng thể chế kinh tế thị trường.
c) Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà.
Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế vận hành mà theo một số nhà
nghiên cứu Trung Quốc, chế dộ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế,
mà thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu
nào đó, tác động giản tiếp đến thể chế kinh tế. Vấn đề căn bản để hình thành kinh
tế thị trường là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh
doanh có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hoá. Vì vậy,
trong điều kiện chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể thực hiện thể chế
kinh tế thị trường. Nếu sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân) được phân giải thành
các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp, thì khi đó
sẽ tạo nên những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng, do đó sẽ hình thành được
kinh tế thị trường. Sự phân giải các quyền sở hữu toàn dân được thực hiện thông
qua việc phát huy tiềm năngcủa các thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
4.Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản
xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế
thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự
cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh
tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là
phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật
của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự
nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người.
Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên
kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là
giữa người lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã
hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị
trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không
còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày
nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát
triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế
độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công
lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là
đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh
của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng
dần được đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến,
không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và
nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa
tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát
triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã
trải qua ba giai đoạn phát triển.
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang
kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man).
Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng
quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do,
nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Giai đoạn thứ ba,là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn
này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước
ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng
các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu
dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ ...
để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường
trong một nền hinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những
nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá
nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của
V.I.Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là
một chế độ kinh tế-xã hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh
tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ
chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát
triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự
cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo qui luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất-
kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nâng cao
năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng qui mô của sản xuất-kinh donh.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân
công lao động xã hội, phát triển khoa học-công nghệ mới và ứng dụng chúng vào
thực tiễn sản xuất-kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát
triển của văn minh nhân loại, của khoa học-kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.
Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với
nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; Giai đoạn kinh tế thị trường hiện
đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi điện tử-tin học ...
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất
nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung, tự cấp còn
chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh
nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số.Việt Nam vẫn là một nước nghèo
nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối
với toàn đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn
bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là sự phát triển kinh tế
thị trường, cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự cần thiết tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đưa
nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của đảng đã chủ
trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ chế
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc
đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra
việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay
đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế
lãnh đạo của đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng
đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế
của thời đại.
Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có
đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất.
Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù
chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của
nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng ,tích
luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo
chiều rộng .Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những
còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó còn sinh ra nhiều hiện
tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Xét về tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường .
Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị
trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình thành và phát
triển đạt những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh
đang được mở rộng với thị trường quốc tế.Nhưng thị trường ở nước ta phát triển
chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao
động ,thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức
độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà
nhập với nền kinh tế thị trường thế giới ,sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư
trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn
với thị trường thế giới.Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong và giá cả hàng
hoá quốc tế.
Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một
nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữi các quốc
gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông ,vũ khí nhiều ,quân đội mạnh
mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia tạo được
nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời
sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp , tiềm lực kinh tế đã trở thành
thước đo chủ yếu , vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo
vệ uy tín duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.
Tuy vậy,nền kinh tế thị trường hướng tới của nước ta sẽ không phải là nền
kinh tế thị trường thuần tuý. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là
không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình” , vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc
phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đói
với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan
trọng.
Sự phát triển kinh tế –xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xãhội , nhân
văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng
trưởng kinh tế) còn bao hàm những thay đổi về chất(những biến đổi về mặt xã
hội). “Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và
cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản
của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu
phát triển rộng hơn ”. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một
thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của
lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng
sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đói lập
với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người
được đánh dấu bằng tiến bộ-xã hội của sự phát triển. Nó là cach thức giải quyết
các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn
tể xã hội ,là sự thiết lập một trật tự xã hôi với mục tiêu công bằng văn minh. Sự
phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người
trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển
cổ điển.Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh , hạnh phúc cho đại đa số nhân
dân lao động cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ
nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và
quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng
đầu là chủ tịch HCM nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và
giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại
và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân
dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn xã hội ,của toàn
dân tộc,là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, sự phát triển hiện đại.
Nghiã là, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Điều đó không
chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế nhằm đạt được mục tiêu dân giàu nước
mạnh,mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại, là thiết lập một kiểu
tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nộng dung công bằng và văn minh. Nhà nước
XHCN, “của dân, do dân và vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hướng đó.
5.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Với vai trò tích cực của nhà nước vào điều tiết nền kinh tế nền kinh tế nước
ta đã có bước phát triển cao và ổn định. Từ đó ta có thể thấy vai trò của nhà nước
trong việc điều tiết nền kinh tế là rất quan trọng.
Như ta đã biết vai trò quản lí của nhà nước là rất quan trọng Vai trò đó thể
hiện rất rõ qua các chức năng sau :
Thứ nhất, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp
luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Thực tế chức năng
này đã vượt ra ngoài chức năng kinh tế đơn thuần. Nhà nước đã tạo ra hành lang
pháp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế phát triển
trong cơ chế hoạt động của thị trường.Đồng thời với hành lang pháp lý như vậy thì
các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế sẽ hoạt động trong sự quản lý, bảo trợ
của nhà nước.
Hai là, Điều tiết nền kinh tế để đảm bảo cho nền KTTT phát triển ổn định.
Trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường thì nền KTTT không tránh
khỏi những khủng hoảng, thất bại. Mỗi nền kinh tế đều có chu kỳ hoạt động, phát
triển tức là có sự tăng, giảm GDP.Với vai trò ổn định kinh tế của mình nhà nước
làm dịu đi những giao động nên xuống của các chu kỳ kinh doanh. Việc điều tiết
này thông qua các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ. Do đó với vai trò quản lý
của mình nhà nước đã làm giảm đi tình trạng thất nghiệp và lạm phát. Tuy nhiên
nhà nước cũng không thể điều tiết một cách hoàn hảo cho nên trong nền kinh tế
vẫn có những thất bại của thị trường nhưng nó đã ở mức độ thấp hơn.
Ba là, Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Trong quá trình vận
động của KTTT thì nền kinh tế phải chịu những tác động mà các nhà kinh tế gọi là
các tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi nhuận của mình nên đã khai thác
quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm môi trường sống của con
người và xã hội. Dựa trên sự quản lý của chính phủ buộc những doanh nghiệp gây
ô nhiễm môi trường phải trả tiền cho những thiệt hại đó. Chính sự can thiệp của
chính phủ đã ngăn chặn những tác động bên ngoài nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý. Một nguyên nhân khác cũng làm giảm hiệu quả trong hoạt động của thị trường.
Đó là việc xuất hiện các công ty độc quyền. Do xuất hiện các công ty độc quyền
trên thị trường, các công ty độc quyền họ ép giá trên thị trường gây ra tình trạng
các công ty khác không cạnh tranh được. Do đó làm hạn chế khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trên thị trường do đó dẫn tới tình trạnh kinh tế không phát
triển được.
Bốn là, nhà nước phải can thiệp vào phân phối nhằm phân phối công bằng
trong xã hội, bảo vệ những thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế.
Việc phân phối công bằng sẽ làm cho cuộc sống của người nghèo trong xã hội
được nâng cao.
Một vai trò khác của nhà nước thể hiện ở chức năng quản lý vĩ mô nền
kinh tế. Với sự quản lý của nhà nước thì các nước có một nền kinh tế tăng trưởng
ổn định nhờ các chính sách của nhà nước. Nhà nước đã định hướng cho nền kinh
tế, các thành phần kinh tế hướng đi. Nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực
kinh tế nhằm dẫn dắt nền kinh tế của cả nước phát triển theo. Với một môi trường
vĩ mô ổn định, các thành phần kinh tế phát triển thì tình trạng thất nghiệp và lạm
phát cũng giảm.
Nhà nước ta phải xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt để đảm bảo
cho yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước phải có sự quản lý chặt chẽ đối với các
thành phần kinh tế nhưng không được can thiệp quá sâu vào đó.
Với các chức năng như vậy, nước ta đã có một nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ từ sau đại hội Đảng 6. Từ nước có một nền kinh tế lạc hậu, ngày nay nước ta
đã có môt nền kinh tế tương đối phát triển và là một nước có môi trường đầu tư ổn
định.
ii. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là gì?
1- Đặc điểm kinh tế thị trường ở nước ta
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ
xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội –
xã hội chủ nghĩa ). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hạu
và kém phất tiển nhưng khi nước ta chuyển sang kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những
khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không
nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn kinh tế
thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội
dung và là yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm
trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên, sự phát
triển kinh tế –xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết,
khách quan và cùng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội
dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu
một cách hợp pháp. Nhân có giàu thì nước mới mạnh, bảo đmr độc lập, tự chủ và
toàn vện lãnh thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần
với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu
quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của kinh tế – xã hội của đất
nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa
thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ
xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có thamgia bởi bàn tay
“hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời,
chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản
lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông
qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế
nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò ở một số lĩnh vực then chốt, có ý
nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư
nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống
nhất,không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của
dân, do dân và vì dân.Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế
thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với
nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới.Nhà nước ta là nhà nước
“của dân,do dân và vì dân”,nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân
lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh,
khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản
chất nhà nước là môt nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về
bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị
trường hiện có trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiền thông qua cơ chế
thị trường với sự tham gia, quản lý của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh
doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật kinh tế
hàng hoá, kinh tế thị trường (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh
– hợp tác... )sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Qui luật giá trị qui định mục đích
trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), qui định sự
phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh khác nhau, đồng
thời đặt các chủ thể kinh tế trong cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công
cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượg kinh tế của mình
(kinh tế nhà nước), nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung – tổng cầu thực
hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế
là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ
nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới,
trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung
quan trọng của nề kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị
trường đi liền với xã hội hoá nề sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở
phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện
kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại
là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống
kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở
thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện
nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi
cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh
nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện.
Để phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể
đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa
hội nhấp với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên 3 nội
dung chính là: thương mại; đầu tư; và chuyển giao khoa học – công nghệ. Tuy
nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải
trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công
bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ
biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là
những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, lừ tạo cho mọi
tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng
với những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là
giảm khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các
vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ
trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hịên sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai doạn của sự phát triển kinh tế ở nước
ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về
chất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và “chia đều sự nghèo đói” cho
mọi người. Mức độ bảo đảm công bằng cho xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát
triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu qúa nhấn mạnh tới
công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn co
hẹp, thì chác chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước.
Thứ bảy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), thông qua
phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, được thực hiệ n theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần
theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong chủ
nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong mối quan hệ giữa lao dộng và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động
quá khứ (lao động đã được vật hoá), chủ nghĩa tư bản coi trọng nhân tố tư bản,
nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân
phối thành quả lao động, chủ nghĩa tư bản nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn)
hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đén yếu tố tích luỹ - đầu tư
hơn là yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại chủ nghĩa xã
hội đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong phân phối thu
nhập và thành qủa lao động của xã hội, chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh đến nhân tố
lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương của ngời lao động. Tuy nhiên, trong
khi nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng
của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố
vốn, đến vai trò tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nước và tư nhân) và đến mối
quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và
tài sản kinh doang giờ đây đã trở thành điều bình thườn. Chỉ có trên cơ sở đó mới
gia tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời
giảm số ngời có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch
giàu – nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập
và chính sách điều tiết thu nhập của nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tóm lại, quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên
hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỉ cương, xoá
bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc”
2. So sánh với đặc điểm của kinh tế thị trường các nước TBCN
- Sự giống nhau:
+ Cũng có sự hoạt động, phương thức như nhau.
+ Cũng có sự bảo hộ của Nhà nước
- Sự khác nhau:
+ Kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu làm nền tảng, thì kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa dựa trên ché độ công hữu
+ Trong mô hình kinh tế thị trường TBCN, các thành phần kinh tế tồn tại
biệt lập, cạnh tranh, liên kết loại trừ nhau thì ngược lại trong kinh tế thị trường
định hội chủ nghĩa chúng không tồn tại đối lập, không loại trừ nhau mà hợp tác đi
lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế hợp tác.
+ Mục rtiêu của chủ nghĩa tư bản là lợi cho các nhà tư sản, thì chủ nghĩa xã
hội có mục tiêu cho toàn xã hội.
+ chính quyền của CNTB là chính quyền của giai cấp tư sản, còn chính
quyền của CNXH là chính quyền của nhân dân.
+ Sự phân cực trong xã hội của CNTB lớn hơn, rõ ràng hơn, chủ nghĩa xã
hội quan tâm tới công bằng xã hội.
Iii:Các giải pháp để xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn qua 15 năm đổi mới. Tuy
vậy cũng cần phải có những phương hướng để phát triển nền kinh tế của nước ta
trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn hội nhập mở cửa với các nước trên thế giới.
Những phương hướng cụ thể đó là:
a)Định hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi
thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. ứng dụng
nhanh chóng khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ
sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị truờng
tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông nghiệp – công nghiệp – dich vụ ngay trên địa
bàn nông thôn.
Tích cực khai hoang và mở rộng diện tích canh tác ở những nơi còn đất
hoang hoá chưa được sử dụng, phân bố lại lao động dân cư; giảm nhẹ tác động của
thiên tai đối với sản xuất. Tập trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả
năng cạnh tranh cao như càphê, cao su, chè, điều, ... ngoài ra đặc biệt chú trọng
phát triển các loại rau quả và các sản phẩm đặc trưng khác.
Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề đánh bắt ở ven bờ hợp
lí. Đầu tư phát triển mạnh ngành nuoi trồng thuỷ hải sản, xây dựng vùng nuôi
trồng tập trung, gắn với việc phát triển công nghiệp chế biến chất lượng cao.
Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghệ sơ chế và chế biến về
nông thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ, cung ứng vật tư kỹ
thuật, trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn. . . . tăng nhanh việc làm cho khu
vực phi nông nghiệp. Tiếp tục chương trình xoá đói giảm nghèo, chú trọng phát
triển các đô thị nhỏ, các điểm bưu điện văn hoá ở xã, làng và các trung tâm văn
hoá cụm xã.
a) Định hướng phát triển công nghiệp
Phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư sản xuất, đổi mới
thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngàng sản xuất
công nghiệp.
Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú trong công nghệ
chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành công nghiệp phục vụ
phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường và hiệu
quả một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất. Phát triển mạnh công
nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin viễn thông điện tử. Phát triển
một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết. Kết hợp hài hoà giữa phát triển
công nghiệp đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu; có những biện pháp bảo hộ
hợp lí, bảo đảm công nghiệp phát triển với khả năng cạnh tranh cao, thúc đẩy công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia
đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp với nhiều qui mô, nhiều trình độ; chú trọng
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp định hướng chung và lợi thế của từng vùng.
b) Định hướng phát triển các ngành dịch vụ.
Đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng các sản phẩm
dịch vụ, đáp ứng tôtd nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Phát triển
thương mại, cả nội thương và ngoại thương, bảo đảm hàng hoá lưu thông thông
suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Chú trọng công
tác tiếp thị và mở rộng thị trường nông thôn, thị trường miền núi, tạo liên kết chặt
chẽ giữa các vùng trong nước. Phát triển và đa dạng hoá các loại hình và các điểm
du lịch sinh thái, du lịch văn hoá. . . hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
c) Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại.
Tăng nhanh tổng kinh ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật
tư, thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường
ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản, thực phẩm và hàng công nghiệp có
khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới.
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Khuyến khích đầu
tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp
chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội và các ngành mà nước ta có lợi thế.
d) Định hướng phát triến giáo dục và đào tạo.
Tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và tạo
sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo. triển khai
thực hiện có hiệu quả luật giáo dục đào tạo. Định hình qui mô giáo dục đào tạo,
điều chỉnh cơ cấu đào tạo, nhất là cơ cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu theo lãnh
thổ phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển nền kinh tế
xã hội. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp.
e) Định hướng phát triển văn hoá.
Phát huy bản sắc dân tộc, bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể và
phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa các
vùng trong cả nước và giao lưu văn hoá với nước ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt
động văn hoá thông tin về vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc. Phát
triển phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình, bản
làng văn hoá.
f) Bảo vệ và cải thiện môi trường.
Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế xã hội với bảo vệ và cải thiện môi
trường theo hướng phát triển bền vững. Đảm bảo sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên
phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tiết kiệm và tái
chế, tái sử dụng nguồn tài nguyên không tái tạo được. Tăng cường kiểm tra và
giám sát môi trường trong từng dự án đầu tư và từng quy hoạch, kế hoạch phát
triển của các ngành, các vùng lãnh thổ. áp dụng các công nghệ và quy trình sản
xuất ít chất thải, ít gây ô nhiễm môi trường.
Kết luận
Thực tế sau 15 năm đổi mới đã chứng minh phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn.
Qua 15 năm đổi mới, thực hiện đường lối do Đảng ta đề xướng. Đất nước ta
– dân tộc ta đã thu được những thành tựu to lớn cả về kinh tế và xã hội. Kinh tế
thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm qua và bước đầu thờ kì phátt
riển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân một năm của
thời kỳ 1996 đến năm 2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986 – 1990. Lạm phát
giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990; 12,7% năm 1995; 0,1%
năm 1999; 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ
trên 2 con số. Bình quân thời kỳ 1991 – 1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996 – 2000
trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện,
than, vải, thép, xi măng,..., tăng nhanh hơn trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp
khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kỳ đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu
thô năm 1986 đã tăng lên 15 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỉ USD.
Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỷ XX
đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công
nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng,
nghề thuỷ sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải qyết vững chắc an toàn lương thực
quốc gia, biến Việt Nam từ nước thiếu lương thực trước năm 1989 thành nước
xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Tính trung 12 năm qua, nước ta đã xuất khẩu
30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/năm nhưng thị trường và giá cả lương
thực trong nước vẫn ổ định, kể cả những năm gặp thiên tai lớn như năm 1999,
2000. Tốc độ tăng sản lượng lương thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ tăng
dân số (1,8%) nên lương thực bình quân đầu người từ 280 kg năm 1987 tăng lên
450 kg năm 2000. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vừa tăng nhanh
về số lượng vừa tăng nhanh về chất lượng nên ngày càng có uy tín trên thị trường
quốc tế. Năm 2000, sản lượng cà phê xuất khẩu đã đạt 660 nghìn tấn, gấp 2,7 lần
năm 1995 và đứng vị trí thứ 2 trên thế giới sau Brazin. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản
đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995. Hàng thuỷ sản Việt Nam hiện nay đã được
công nhận trong danh sách nhóm 1 của các nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường
EU sau khi đã vượt qua cuộc kiểm tra chất lượng của các cơ quan thực phẩm Mỹ.
Tổng giá trị xuất khẩu nông xản đã chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu cả
nước. Một nền nông nghiệp hành hoá đã hình thành gắn với thị trường quốc tế.
Hoạt dộng thương mại và dịch vụ có nhều khởi sắc. Cơ chế cung cấp theo
tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ, thay vào đó là lưu thông tự do,
thống nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ, giá cả ổn định, chất
lượng ngày càng cao, phương thức mua bản thuận tiện. Hoạt động xuất khẩu sôi
động, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 570 triệu USD thời kỳ 1981 – 1985 lên 1370
triệu USD thời kỳ 1986 – 1990, 3401 triệu USD thời kỳ 1991 – 1995 và 5646 triệu
USD/năm thời kỳ 1996 – 2000, riêng năm 2000 đạt 14 tỷ USD. Nhập siêu giảm từ
3,8 tỷ USD năm 1996 xuống còn 800 triệu USD năm 2000. Đến nay Việt Nam đã
có quan hệ buốn bán với hơn 150 nước và vùng lãnh thổ.
Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt đầu từ năm 1988 với 37 dự án và 371 triệu
USD, đến nay cả nước có hơn 3000 dự án với hơn 700 doanh nghiệp của 62 nước
và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký trên 36 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 17
tỷ USD. Khu vực này đã nộp ngân sách hơn 1,52 tỷ USD, tạo ra hơn 21,6 tỷ USD
hàng hoá xuất nhập khẩu và giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và
hơn 1 triệu người lao động gián tiếp.
Sự hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc - Trung – Nam và 68
khu công nghiệp, khu chế xuất đã là những mô hình mới, điểm sáng trong bức
tranh kinh tế nước ta thời kỳ đổi mới và mở cửa.
Bộ mặt đất nước thay đổi theo chiều hướng ngày càng văn minh và hiện
đại. Hàng loạt các công trình thế kỷ đã mọc lên: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Thác
Mơ, Yaly, đường dây 500 KV Bắc – Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ, cầu Bến
Thuỷ, cầu Sông Gianh, Quán Hàu, cầu Mỹ Thuận – một kỳ quan của khu vực
Đông Nam á, nâng cấp quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 18, cùng nhiều sân bay, bến
cảng đã và đang được nâng cấp và hiện đại hoá. Cùng với các cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội phục vụ sản xuất là hàng loạt các công trình phúc lợi
phục vụ đời sống nhân dân như bệnh viện, trạm y tế, trường học, nhà ở cho người
nghèo, nhà tình nghĩa... Đến năm 2000, điện lưới quốc gia phủ 98% số huyện,
70% số xã và 98% số hộ thành thị, 60% số hộ nông thôn. Hệ thống đường giao
thông, bưu điện được xây dựng mới và nân gcấp đang vươn tới mọi miền đất
nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng được
cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10%
trong 15 năm đổi mới và năm 1999 đạt 295 nghìn đồng/người/tháng, tăng 30% so
với năm 1996. Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10%, số hộ nghèo giảm
xuống, từ trên 51% trong thập niên 80 xuống còn 13,3% năm 1999 và 11% năm
2000. văn hoá, y tế và giáo dục được nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng. Đến
nay, cả nước đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và hoàn thành phổ cập tiểu
học. Năm 2001-2002 có 25 triệu học sinh các cấp, cứ 3 người dân có 1 người đi
học, 100% số xã có trạm y tế, 40% số xã có bác sĩ...
Thành tựu 15 năm đổi mới đã khẳng định sự sáng suốt của Đảng và tính ưu
việt của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy một lần nữa
ta khẳng định lại phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với tình hình cụ thể và thực tế của thời đại ngày
nay.
Nhận xét: Tuy kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm, song nó cũng tồn tại rất
nhiều khuyết điểm:
- Về môi trường: nó làm tăng lượng khí CO2 trong không khí, thải vào môi
trường sống một lượng chất thải khổng lồ, môi trường bị ô nhiễm, sức khoẻ y tế
cộng đồng bị ảnh hưởng đòi hỏi phải có chi phí tốn kém cho việc khắc phục nó.
- Văn hoá: sự hội nhập văn hoá các nước trên thế giới, truyền thống văn hoá
nhân gian bị lu mờ, lãng quên, xuất hiện lối sống không phù hợp với nhân phẩm
đạo đức của con người.
- Xã hội: có sự phân cấp giàu nghèo, tình trạng xã hội càng trở nên bất ổn,
tệ nạn xã hội mang tính toàn cầu.
Những thách thức:
Đối Việt Nam kinh tế Việt Nam đang còn có sự bỡ ngỡ trước nền kinh tế
thế giới, đang còn dứng trước những gian truân vất vả trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vì thế cho nên có nhiều những thách thức to lớn đòi hỏi phải
được vượt qua, đó là: lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, sự phát triển của
thế giới, của khu vực.
Qua đó ta thấy được nhiệm vụ của bản thân mình những nhà kinh tế ,
những nhà quản lý cần phải làm gì , cần phải làm như thế nào, ngay từ bây giờ để
xây dựng đất nước ta đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần phải học
tập, mở mang kiến thức để có một hành trang vững chắc bước vào tương lai, để
lãnh nhiệm vụ của các thế hệ đi trước giao lại, đó là những nhiệm vụ vinh quang
và cao cả “Xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Mục lục
I: Tại sao nước ta phải chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
ii. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là gì?
Iii:Các giải pháp để xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Kết luận
02
15
20
26
Tài liệu tham khảo
Lênin- Kinh tế chính trị trong thời kỳ chiến tranh vô sản
Giáo trình kinh tế chính trị tập II - ĐHKTQD
Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX
Tạp chí cộng sản số 39/1998; 24/2000…
Tạp chí kinh tế phát triển số 16/1997; 42/1999…
Thời báo kinh tế
… … … … … … … … … … …
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và các giải pháp để phát triển nó ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.pdf