Luận văn Phân tích thực tiễn và một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001- 2020

Tài liệu Luận văn Phân tích thực tiễn và một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001- 2020: Luận văn Phân tích thực tiễn và một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001- 2020 LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển kinh tế , nhiều nước trên thế giới đã có được những thành công to lớn nhờ có các chính sách phát triển kinh tế  xã hội đúng đắn mà một trong những yếu tố cơ bản là có được chính sách phát triển công nghiệp phù hợp. Tiêu biểu cho sự thành công này phải kể đến các nước NIC. Mặc dù với xuất phát điểm không cao nhưng nhờ có chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn, các nước này đã nhanh chóng trở thành những con rồng châu á và đang cạnh tranh với những nước có nền kinh tế phát triển khác. Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình Đại hội đại biểu toanf quốc lần thứ IX có nêu: “ Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế  xã hội 10 năm 2001 2010 là : Đẩy mạnh CNH HĐH đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển , tập trung sức xây dựng có chọ...

pdf66 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích thực tiễn và một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001- 2020, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Phân tích thực tiễn và một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001- 2020 LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển kinh tế , nhiều nước trên thế giới đã có được những thành công to lớn nhờ có các chính sách phát triển kinh tế  xã hội đúng đắn mà một trong những yếu tố cơ bản là có được chính sách phát triển công nghiệp phù hợp. Tiêu biểu cho sự thành công này phải kể đến các nước NIC. Mặc dù với xuất phát điểm không cao nhưng nhờ có chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn, các nước này đã nhanh chóng trở thành những con rồng châu á và đang cạnh tranh với những nước có nền kinh tế phát triển khác. Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình Đại hội đại biểu toanf quốc lần thứ IX có nêu: “ Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế  xã hội 10 năm 2001 2010 là : Đẩy mạnh CNH HĐH đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển , tập trung sức xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật; công nghệ chế biến tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp , dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phàng, tạo nền tảng đến 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp “. Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam cần thiết phải xây dựng vf thực hiện được một chính sách phát triển kinh tế nói chung và một chính sách phát triển công nghiệp hữu hiệu nói riêng. Song đối với Việt Nam quan niệm về chính sách công nghiệp còn chưa áo sự nhất uán. vì vậyn việc nghiên cứu chính sách công nghiệp Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc thực hiện dường lối đẩy mạnh CNHHĐH đất nước, đưa Việt Nam cơ bản trở thành một cước công nghiệp vào năm 2020. Đó cũng là lý do khiến em chọn đề tài: “Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 2020”, với mong muốn gopó một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước . Với sự giúp đỡ tận tình của Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Tiến Dũng và Cán bộ hướng dẫn: Lê Thuỷ Chung , Em xin mạnh rạn đưa ra cơ cấu đề tài như sau : Chương I. Cơ sở lý lluận của chính sách phát triển công nghiệp . Chương II . Thực trạng chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam . Chương III. Một số giải pháp cho chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 20012020. Do có hạn chế vìi thời gian và trình độ, đề tài chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, Em rất mong có được sự phê bình, sửa chữa của thày cô để chuyên đề thực tập được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP I.BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP Hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ II, có thể coi là thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất của chủ nghĩa tư bản . Tất cả các nước công nghiệp chính trong giai đoạn này đều trải qua mọt giai đoạn tăng trưởng nhanh với lạm phát và thất nghiệp thấp. Đây cũng là lý do đưa học thuyết của J. Keynes- Nhà kinh tế học người Mỹ (1883-1946) trở thành một tư tưởng kinh tế phổ biến rộng rãi ở các trung tâm quyền lực của thế giới tư bản . Thế nhưng, với các cú sốc dầu lửa thập kỷ 70s đã mở đầu cho sự sụp đổ của một giai đoạn tăng trưởng đầy ấn tượng trước đây.Đã có rất nhiều những thay đổi mang tính chất cơ cấu trong nền kinh tế thế giới. Sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp truyền thống sang các ngành công nghiệp và dịch vụ tạo ra một thị trường lao động vói giá nhân công tăng và sự lớn mạnh của các tổ chức nghiệp đoàn. Bên cạnh các nước công nghiệp phát triển phương Tây, Nhật Bản xuất hiện với tư ccách là một trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Các nước mới công nghiệp hoá ở Đông á và Đông nam á ciếm vị trí hàng đầu trên một số thị trường thế giới như : dệt may, điện tử dân dụng, đóng tàu và sắt thép. Những thay đổi này đã làm phong phú hơn cho bức tranh công nghiệp thế giới. Tăng trưởng nhanh chóng trong giai đoạn 1970 đã che dấu một thực tế là các nền kinh tế tư bản có nhiều điểm khác nhau về hệ thống chính sách kinh tế . Trước những thay đổi ở tren, đi kèm với sự chấm dứt của thời kỳ tăng trưởng nhanh với lạm phát và thất nghiệp thấp, các nước công nghiệp phát triển đã buộc phải điều chỉnh tư tưởng kinh tế chủ đạo, xuất hiện rất nhiều các cố gắng tìm kiếm những phương thức can thiệp của Chính phủ . Một trong những cố gắng đó được thể hiện qua thuật ngữ “Chính sách công nghiệp ”. Mặc dù chính sách công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với một số nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Pháp và các nước NIC Châu á như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo thời kỳ sau Chiến tranh thế giới II, song cho đến cuối những năm 1970 khái niệm ít được nhắc đến trên phương diện lý thuyết. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp chủ yếu tập trung vào xem xét chính sách công nghiệp trên khía cạnh các vấn đề chính sách thực thế mà không nghiên cứu nhiều về nền tảng lý thuyết của chính sách công nghiệp . Thưc tế này dẫn đến tình trạng ngay cả những người ủng hộ rất mạnh mẽ chính sách công nghiệp cũng không thể mô tả thực tế chính sách công nghiệp vận hành như thế nào. II. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP 1.Khái niệm về chính sách phát triển công nghiệp 1.1. Các quan điểm . Chính sách công nghiệp là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Chỉ xét riêng ở Nhật Bản đã có những quan điểm bất đồng về chính sách công nghiệp. a. Quan điểm của Trezise(1983). Ông là một trong những người phản đối công nghiệp công nghiệp và cho rằng trợ cấp của Chính phủ và các khoản vay ưu đãi cho khu vực doanh nghiệp Nhật Bản là nhỏ hơn tương đối so vơí một quyết định thành công của Nhật Bản. b. Quan điểm của Reich(1982). Là một trong những học giả ủng hộ rất mạnh mẽ quan điểm về chính sách công nghiệp ở Mỹ .Theo quan điểm của ông, chính sách công nghiệp bao gồm những nội dung sau: + Các chính sách đối với những khu vực công nghiệp được ưu tiên . + Chính sách phát triển nguồn nhân lực + Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng + Chính sách phát triển vùng c. Quan điểm của Pinder(1982) Nội dung của chính sách công nghiệp gồm: + Các chính sách trợ giúp phát triển công nghiệp + Các ưu đãi về tài chính cho đầu tư + Chương trình đầu tư công cộng + Dự trữ của khu vực công cộng + Trợ cấp tài chính cho R & D + Chống độc quyền + Lập luận ngàn công nghiệp non trẻ + Các biện pháp khuyến khích ưu đãi các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ + Chính sách phát triển vùng + Các biện pháp bảo hộ mậu dịch 1.2. Khái niệm chính sách phát triển công nghiệp Trên phương diện lý thuyết, chính sách công nghiệp được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Một chính sách công nghiệp có thể có phạm vi tổng quát hay mục tiêu cụ thể, nhấn mạnh vào sử dụng các công cụ theo chiều dọc hay chiều ngang, và có thể có tác dụng tiêu cực hoặc tích cực đối với tăng trưởng kinh tế . Một chính sách công nghiệp có phạm vi rộng nhằm vào khuyến khích tất cả các ngành công nghiệp , trong khi đó một chính sách công nghiệp có phạm vi hẹp thì chỉ tập trung vào một hay một số khu vực công nghiệp được lựa chọn theo những tiêu thức nhất định . Như vậy, chính sách phát triển công nghiệp được hiểu là sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của Chính phủ hướng vào những ngành nhất định để đạt được những ngành nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể (Mục tiêu này có thể là tăng trưởng, xây dựng năng lực cạnh tranh, tạo công ăn việc làm). Chính sách công nghiệp thường được thể hiện dưới dạng tổ chức ngành, chọn ngành ưu tiên, chính sách tài chính và tín dụng (thuế, tợ cấp, đầu tư trực tiếp của Nhà nước, tín dụng ưu đãi) đối với ngành, chính sách phát triển nguồn nhân lưc của ngành, chính sách tăng tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm của ngành, chính sách đầu tư nước ngoài vào các ngành, chính sách kinh tế đối với các ngành , chính sách đối với các khu vực chế xuất và khu công nghiệp tập trung. 2. Nội dung và mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp . 2.1 Nội dung Một là, chính sách phát triển công nghiệp bao gồm toàn bộ những hoạt động hoạch định của một nước ngằm phát triển công nghiệp, liên quan tới những hoạt động hoạch dịnh này là những vấn đề điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư , hiện đại hoá và cải tổ cơ cấu công nghiệp, chính sách thị trường và xuất nhập khẩu , chính sách khuyến khích R & D , chính sách đối với sản xuất quy mô nhỏ và các chính sách có liên quan đến phát triển nguồn lực và năng lượng. Hai là, trong chính sách công nghiệp cần định rõ các ngành công nghiệp cụ thể sẽ được khuyến khích và dành cho nhừng lĩnh vực này những ưu tiên khác nhau trong một thời gian nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước vào việc đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế . Ba là, xây dựng đồng bộ hệ thống các phương tiện khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp đã dược lựa chọn . Liên quan đến các phương tiện này là khuyến khích về tài chính, xây dựng hệ thống kiểm soát thích hợp hỗ trợ hoạt động R & D, đặc biệt quan tâm tới các mục tiêu và kế hoạch dài hạn ,... 2.2. Mục tiêu. Vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp. Phần lớn ở các nước khi xây dựng chính sách phát triển công nghiệp thường đưa ra nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, có thể nêu lên 2 mục tiêu chính là : phát triển công nghiệp cân đối và công bằng. - Phát triển công nghiệp cân đối đòi hỏi phải đảm bảo được sự cân đối giữa ngành công nghiệp, giữa các địa phương và vùng lãnh thổ. Hầu hết các nước trong quá trình phát triển công nghiệp đều không tập trung đầu tư quá mức vào một ngành công nghiệp nào và tìm cách để duy trì được các thị trường có khả năng cạnh tranh lớn. Ngoài ra, mục tiêu phát triển cân đối còn được thể hiện ở chỗ : Bên cạnh các trung tâm công nghiệp của các thành phố lớn, nhiều nước ddax khuyến khích phát triển các vùng nông thôn và coi việc định vị lại công nghiệp như là phương tiện quan trọng cho mục tiêu này. Để thiết lầp được một cơ cấu công nghiệp cân đối, các cước chú ý vào hai vấn đề là thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp quy mô nhỏ và lựa chọn, phát triển một số ngành công nghiệp mũi mhọn. - Mục tiêu công bằng là một trong hai mục tiêu chính của chính sách công nghiệp. Nó bao gồm các mặt như công bằng xã hội và công bằng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc thực hiện mục tiêu này có ý ngiã đảm bảo cho sự phát triển bền vững của công nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Ngoài hai mục tiêu trên còn có những mục tiêu khác như: đảm bảo “chất lượng cuộc sống” thông qua việc thiết lập các quy tắc xã hội để kiểm soát ô nhiễm và chất thải, ban hạnh luật về lương thực, thực phẩm, hoặc cũng có nước đặt mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp là nhằm tăng thu nhập về ngoại hối nhằm cải thiện cán cân thanh toán. Trong những năm gần đây, gới xu thế gia tăng về hội mhaapj kinh tế, các nước còn coi mục tiêu tăng cường hợp tác kinh tế với thế giới và khu vực là mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp… 3. Trọng tâm của chính sách phát triển công nghiệp. Chính sách công nghiệp đặt trọng tâm vào phát triển khu vực chế tạo của nền kinh tế. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp cho rằng hiện tượng phi công nghiệp hoá ở Anh và Mỹ trong khoảng 3 thập kỷ qua xuất phát từ việc coi nhẹ vai trò của khu vực chế tạo, lam giảm đóng góp của khu vực này vào GDP và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Theo Cohen và Zysman (1987): với tầm quan trọng của khu vực chế tạo thì đây là một sự sai lầm về định hướng chính sách. Thêm vào đó, các biện pháp điều chỉnh kinh tế vĩ mô có thể lầ chưa đủ để có thể thúc đẩy sự phát triển của khu vực chế tạo vì đối với tăng trưởng năng suất của khu vực này, sự phân bổ vốn còn có ý nghĩa quan trọng hơn là tổng giá trị vốn đầu tư. Chính vì vậy, Chính phủ cần can thiệp trực tiếp để thúc đẩy phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, đó cũng là trong tâm gây nhiều tranh cãi. Những người phản đối quan điển chính sách công nghiệp cho rằng tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ hậu công nghiệp ở các nước tư bản phát triển đặt trọng tâm vào khu vực dịch vụ, dịch vụ trở thành trung tâm của các hoạt động kinh tế. Vì vậy, các biện pháp can thiệp của Chính phủ theo hướng ưu tiên khu vực công nghiệp mà không tập trung cho phát triển khu vực dịch vụ không nhưngx là không cần thiết mà còn có ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Chính sách công nghiệp sẽ cản trở cơ chế chọn lọc tự nhiên của thị trường và ngăn cản việc tái phân bổ các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế cho khu vực dịch vụ, vì vậy ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng lâu dài của nên kinh tế (quan điểm của Burtơn-1983). Song sự thay đổi về cơ cấu theo hướng phát triển dịch vụ không phải chỉ đơn thuần là vì con người mong muốn tiêu dùng nhiều dịch vụ khi đới sống được cải thiện. Lý do chủ yếu nhất của sự dịch chuyển về cơ cấu này là do chi phí lạm phát tương đối của khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm trong năng suất của khu vực này, chứ không phải là do sự dịch chuyển thật sự của nhu cẩu thị trường về phía khu vực dịch vụ khi thu nhập gia tăng. Bên cạnh đó, xu hướng phi công nghiệp hoá quan sát được ở một số nước công nghiệp phát triển là một kết quả tất yếu trong dài hạn của sự chênh lệch năng suất lao động giữa hai khu vực này chứ không nhất thiết là do khu vực công nghiệp suy giảm sức cạnh tranh. Ngay cả các nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp như Nhật Bản, Đức cũng chịu những ảnh hưởng nhất định của phi công nghiệp hoá. Nói cách khác, phi công nghiệp hoá và sự suy giảm của khu vực công nghiệp là hai khái niệm khác nhau, mặc dù sự giảm sút của khu vực công nghiệp có thể ảnh hưởng đến mức độ phi công nghiệp hoá. Vì vậy, không thể kết luận rằng khu vực công nghiệp của một nền kinh tế nào đó đang xuống dốc nếu chỉ căn cứ vào những biểu hiện của phi công nghiệp hoá mà nó đang phải trải qua theo định nghĩa ở trên. 4. Tính tất yếu của chính sách công nghiệp. Chính sách bao hàm ý nghĩa có sự can thiệp của Chính phủ dưới bất cứ hình thức nào. Cần phải có chính sách là vì thị trường có những khiếm khuyết nhất định: 4.1.Do những thất bại của thị trường và vai trò can thiệp của Chính phủ . Lý thuyết phổ biến nhất lý giải cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế là lý thuyết về sự thất bại của thị trường. Tư tưởng trong tâm của trường phái này tập trung vào thất bại của cơ chế thị trường trong việc cân bằng giữa chi phí và lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đồng thời cho rằng Chính phủ có thể can thiệp để khắc phục khuyết tật của thị trường. Hàng hoá công cộng là một thất bại hay được nhắc đến nhất của cơ chế thị trường. Vì tính không ngoại trừ của hàng hoá công cộng, các cá nhân luôn có đông lực thực hiện hành vi của những người ăn theo, ảnh hưởng của vấn đề những người ăn theo là các hàng hoá công cộng sẽ được cung cấp ít hơn mức xã hội mong muốn. Vì vậy Chính phủ cần can thiệp thông qua trực tiếp cung cấp hàng hoá công cộng. Tiếp nữa, sự tồn tại của tính kinh tế nhờ quy mô có thể là một yếu tố dẫn đến những cơ cấu thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong một cơ cấu thị trường như vậy, mức giá cung cấp sẽ cao hơn mức giá cạnh tranh hoàn hảo dẫn đến tổn thất thặng dư tiêu dùng. Phần tổn thất này được chuyển một phần vào thặng dư sản xuất dưới dạng lợi nhuận độc quyền, phần còn lại là lợi ích mất không của xã hội. Mặc dù lý thuyết “Điều tốt thứ nhì”và quan điểm cho rằng can thiệp của Chính phủ có thể là nguyên nhân của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, sự tồn tại của cơ cấu thị trường này vẫn là một lý do quan trọng biện minh cho vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường. 4.2. Xuất phát từ lý thuyết về sự thất bại của Chính phủ. Trong thực tế, cũng như khả năng thị trường tự do có những khuyết tật, sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế cũng có thể không thành công vì bản thân Chính phủ cũng có những thát baị của nó. Có hai yếu tố chính cản trở Chính phủ có thể đạt được mục tiêu can thiệp vào nền kinh tế. Thứ nhất, chi phí cần thiết để Chính phủ có thể thu thập đủ và xử lý tốt các thông tin về thất bại thị trường trong nhiều trường hợp có thể còn lớn hơn cả lợi ích mà các biện pháp khắc phục khuyết tật thị trường mang lại. Thứ hai, vì có sự xuất hiện của việc thu thập , xử lý thông tin, sự can thiệp của Chính phủ có thể lại dẫn đến những chi phí nhất định đối với xã hội, và chi phí này cũng có thể lớn hơn lợi ích mà nó mang lại. 4.3. Lý thuyết thể chế mới về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Như đã phân tích trong phần trên, can thiệp của Chính phủ để khắc phục những khuyết tật củâ thị trường sẽ dẫn đến những chi phí nhất định mà những chi phí này có thể lớn hơn cả lợi ích thu được từ sự can thiệp của Chính phủ. Tuy nhiên, điều đó không đủ để có thể kết luận rằng Chính phủ không thể can thiệp có hiệu quả vào nền kinh tế. Lý thuyết thể chế mới cho rằng chi phí về thông tin có thể giảm thong qua những thay đổi thichs hợp trong hệ thống tổ chức của bộ náy hành chính và trong quan niệm về giá trị của các cá nhân là thành viên của bộ váy chính quyền và xã hội. Những chi phí thu thập và xử lý thông tin sẽ có thể được loại bỏ thông qua việc cho phép cạnh tranh giữa các Đảng phái và sử dụng các công cụ can thiệp thích hợp. Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng thị trường không phải là một cơ chế điều phối duy nhất đối với sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Thị trường,Chính phủ, các hãng, và các thể chế kinh tế khác đều có vai trò trong một cơ chế phối hợp để dưa ra các quyết định chính sách. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Chính phủ có thể giải quyết vấn đề phối hợp giữa các tác nhân ở trên với chi phí thấp hơn mức chi phí phối hợp của thị trường, thông qua việc xác lập một hệ thống quyền sở hữu phù hợp, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc xã hội theo các nhóm, tầng lớp lớn, điều phối và định hướng đầu tư, xây dựng tự hào và bản sắc dân tộc. 4.4. Quan điểm kinh tế chính trị. Lý thuyết thất bại thị trường biện minh cho sự can thiệp của Chính phủ dựa trên giả định cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải can thiệp vào thị trường, phục vụ lợi ích của xã hội. Quan điểm kinh tế chính trị, ở một thái cực là các nhà kinh tế Marxist, ở thái cực khác là trường phái Chicago xuất phát từ những quan điểm khác. Chính phủ có thể có một mức độ độc lập nhất định đối với đai chúng, nhất là khi không có giai cấp nào có đủ khả năng ảnh hưởng mạnh đến các quyết định chính sách. Trong tình huống này Chính phủ có thể hành động theo mục tiêu tối đa hoá nguồn thu vào ngân sách. Theo Findlay (1990), Chính phủ có thể được coi như là một lực lượng độc lập đưa ra các quyết định không nhất thiết phải xuất phát từ lợi ích của xã hội. Quan điểm về nhóm lợi ích coi Chính phủ như là chiếc hộp đen mà các nhóm lợi ích trong xã hội có thể đối kháng, hay liên minh với nhau để đưa ra các quyết định về chính sách. Khi một khu vực công nghiệp nào đó có tầm quan trọng đối với nền kinh tế, sức ép của nhóm lợi ích này có thể dẫn đến các quyết định về chính sách thuận lợi đối với nhóm lợi ích đó mà có thể gây phương hại đến những nhóm lợi ích khác trong xã hội. Một số nhà kinh tế Marxist cho rằng sự tồn tại của một Nhà nước phu thuộc chặt chẽ vào phương thức tái sản xuất của xã hội, và vì vậy, Chính phủ phải hành động vì lợi ích của giai cấp đóng vai trò chủ đạo về kinh tế trong cấu trúc xã hội. Nói tóm lại, khác với lý thuyết về thất bại của thị trường, quan điểm kinh tế chính trị cho rằngcp có thể có sự can thiệp vào nền kinh tế nhưng có thể đươc biện minh bởi những nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, mức độ độc lậpcủa từng hệ thống chính quyền. Từ những lý do nói trên dẫn đến nền kinh tế nói chung và lĩnh vực công nghiệp nói riêng cần phải có một chính sách để phát triển đó là Chính sách phát triển công nghiệp. 5. Phân loại chính sách công nghiệp . Bản thân nền công nghiệp, đối tượng của chính sách, là thực thể luôn luôn động. Hơn nữa, chính sách công nghiệp là cái luôn biến đổi từng giờ, từng phút với sự biến động của thời đại của xã hội và có rất nhiều loại đối tượng. Không có lý luận chung cho chính sách công nghiệp. Do vậy, phải phân loại chính sách công nghiệp theo mục đích, chủng loại, và tính chất. 5.1. Phân loại theo vai trò của Nhà nước trong sự phân công giữa Nhà nước và các doanh nghiệp. Theo cách phân loại này, chức năng của chính sách công nghiệp hướng vào 3 mục đích chính: - Hỗ trợ phát triển ngành: chính sách tạo khả năng đối kháng với doanh nghiệp tư nhân (chỉ đạo hay quy chế cho pjhép công nghiệp hợp tác, bổ sung hoặc hỗ trợ đối với doanh nghiệp tư nhân). Các chính sách này khác nhau ở chỗ là dựa vào pháp luật (quyề lực hay chỉ đạo hướng dẫn, …). - Khống chế các giao dịch bất chính: Bao gồm chính sách có mục đích duy trì trật tự (chỉ đạo, ngăn cấm, cho phép) hay các chính sách có tính phán quyết hình thức (đăng ký, thông báo,…). - Dự thảo luật: gồm chính sách tạo lập môi trường mới hay chính sách xuất phát từ thái độ thụ động tạo ra trật tự để đối phó với môi trường mới. 5.2. Phân loại theo đối tượng mục đích của chính sách. - Các vấn đề cơ cấu công nghiệp : gồm chính sách có đối tượng là toàn bộ cơ cấu công nghiệp với chính sách có đối tượng là từng ngành (hay từng doanh nghiệp ). Chính sách điều chỉnh ngược với các ngành suy thoái hay chính sách chấn hưng cho các ngành mới (tỷ trọng công nghệ cao trong cơ cấu công nghiệp ). - Vấn đề thị trường . + Phân biệt chính sách bổ sung khắc phục các thất vại của thị trường với chính sách bổ ưung hoàn thiện hạn chế của thị trường. + Phân biệt chính sách điều chỉnh trật tự thị trường bị lệch lạc (tổ chức ngành sản xuất ) với chính sách điều chỉnh yếu tố bên ngoài bị lệch lạc(môi trường tự nhiên, quyền lợi người tiêu dùng). + Phân biệt chính sách ngay trong bản thân trật tự sẵn có với chính sách để tiến hành trật tự mới. - Vấn đề phát triển công nghiệp có tính chiến lược . Cần phân biệt rõ chính sách phát triển ngành có tính chiến lược (ngành xuất khẩu, điện tử …) với chính sách phát triển các ngành sản xuất cơ sở hạ tầng (sản xuất nguyên vật liệu chủ yếu, linh kiện, phụ kiện, …). 5.3. Phân biệt theo thủ pháp chính sách ( theo cách thức để thực hiện mục tiêu ) - Vấn đề hoàn thiện cơ sở hạ tầng. + Phân biệt chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần cứng và chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần mềm (môi trưowngf công nghiệp ). + Phân biệt chính sách phát triển cơ sở hạ tầng (như tài chính, tiền tệ, thuế…) với chính sách phát triển kỹ thuật cho phần cơ sở hạ tầng (như nghiên cứu , quy cách hoá, chế độ quyền sở hữu công nghiệp ) và cả chính sách cơ cấu công nghiệp cơ sở hạ tầng ( như cơ cấu sản xuất phụ tùng của các doanh nghiệp trong ngành cơ khí). - Về kế hoạch triển vọng. + Phân biệt kế hoạch mang tính chất giáo dục, nhận thức, hay mục tiêu chính sách, hay kế hoạch điều chỉnh định hướng. + Phân biệt kế hoạch được xây dựng bằng ý trí của Chính phủ hoặc được xây dựng trên cơ sở của sự thoả thuận với người có lieen quan. - Về phương pháp luận. + Phân biệt chính sách bất biến, chính sách tạm thời hay chính sách khẩn cấp. + Phân biệt chính sách có tính uy quyền (chỉ huy, cơ chế,…) với các chính sách hỗ trợ (tài trợ, cho vay vốn , chế độ thuế…) hoặc chính sách có tính hoàn thiện môi trường (như cung cấp thông tin, đưa ra quy cách, phát triển kỹ thuật,…) hay chính sách mang tính hướng đạo. Tốm lại, có thể tổng kết chính sách phát triển công nghiệp như sau: Chính sách nhằm ảnh hưởng tới cơ cấu của một nước. Tức là một chính sách can thiệp vào hoạt động giao dịch với nước ngoài như : ngoại thương, đầu tư trực tiếp, chính sách hỗ trợ phát triển và bảo hộ (trợ cấp thuế) chính sách điều tiết và sử dụng nguồn lực. Các chính sách sửa chữa các thất bại của thị trường do tính không hoàn thiện của hoạt động kỹ thuật và thông tin. Tức là một chính sách khắc phục các dạng thất bại của thị trường bằng cách cung cấp thông tin chính xác, sử dụng các công cụ chính qua trợ cấp, thuế và chỉ đạo việc phân phối nguồn lực theo hướng mông muốn. Chính sách can thiệp về mặt hành chính vào tổ chức sản xuất theo từng ngành nhằm nâng cao phúc lợi kinh tế. Cụ thẻ là chính sách nhằm trực tiếp can thiệp vào cơ cấu cạnh tranh và phân bổ nguồn lực trong các nhành sản xuất thông qua hình thức liên minh giảm giá, liên minh đầu tư thiết bị,… Chính sách được hoạch định theo yêu cầu chính trị là củ yếu chứ không phải mang tính kinh tế. Tức là chính sách bao gồm quy chế tự chủ xuất khẩu hay hiệp định đa phương nhằm xử lý mâu thuẫn ngoại thương. 6. Khái quát về chính sách công nghiệp của Việt Nam. Như đã phân téch trong các phần ở trên, chính sách công nghiệp là một khái niệm rộng, phức tạp và vòn tương đối mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu trên thế giới, nhất là trên phương diện lý thuyết. Trong bối cảnh như vậy : a. Có nên tồn tại hay không một chính sách công nghiệp của Việt Nam. b. Nếu là có tồn tại thì chính sách công nghiệp Việt Nam có thể được mô tả như thế nào? c. Ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam (nhất là trong những năm đổi mới) như thế nào. Trong phần này, em sẽ đi sâu tìm hiểu câu hỏi (b) trên phưong diện lý thuyết, các vấn đề còn lại là nội dung nghiên cứu của Chương II và III- Phần thực trạng và các giải pháp. Thuật ngữ “chính sách công nghiệp” cho đến nay vẫn rất ít xuất hiện trên các pgương tiên thông tin đại chúng của Việt Nam, cũng như trong các công trình nghiên cứu của các tác giả nước. Trong khi đó, một thuật ngữ khác hay được sử dụng có liên quan đến nội dung chính sách công nghiệp là thuật ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”. Xét về bản chất, thuật ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá “ ở Việt Nam bao hàm hệ thống các mục tiêu, các định hướng và hệ thống các chính sách nhằm chuyển Việt Nam từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp. Trong hệ thống các mục tiêu và định hướng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, vấn đề phát triển các ngành, các khu vực, các loại hình quy mô và các thành phần kinh tế chiếm vị trí quan trọng, ở đây, những vấn đề chung được đề cập thường là: - Cơ cấu ngành kinh tế : công nghiệp – nông nghiệp- dịch vụ , ở đây, các cơ cấu được chú ý trong thiết kế chính sách là : cơ cấu công nghiệp khai thác- công nghiệp chế biến- công nghiệp điện nước; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi, cơ cấu các loại hình dịch vụ . - Cơ cấu gữa đo thị và nông thôn - Cơ cấu giữa quy mô doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. -Cơ cấu giữa doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở các mục tiêu và định hướng phát triển công nghiệp như vậy, phải thiết lập hệ thống các chính sách được sử dụng để hỗ trợ cho phát triển công nghiệp, trong đó phải kể đến một số chính sách chính như : chính sách vốn, chính sách nguồn nhân lực, chính sách phát triển khoa học và chính sách thuế quan. Như vậy, chính sách công nghiệp của Việt Nam có thể được hiể là tập hợp của các định hướng, chính sách, công cụ điều chỉnh đối với một số ngành công nghiệp để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp vào năm 2020. Nhiệm vụ của chính sách công nghiệp có thể thay đổi qua mỗi thưòi kỳ nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động cuả các khu vực công nghiệp theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nhiệm vụ này được thể hiện trên hai mặt sau : Một là, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rông thị trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước. Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng cho yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia. Thêm vào đó, cũng cần phải nhấn mạnh rằng cách hiểu ở các phần trên về chính sách công nghiệp là quan điểm áp dụng cho các nền kinh tế thị trường. Rất nhiều mô tả về chính sách công nghiệp đươc khái quát từ thực tế vận hành chính sách công nghiệp ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, là những nước có hệ thống chính trị khác với Việt Nam và hiện đang ở trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Nhận định về chính sách công nghiệp Việt Nam cần phải được xẽmét trong bối cảnh Việt Nam là một nền kinh tế đang chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường , Chính phủ đang phải đối mặt với vấn đề cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước, là một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều phương thức, bán doanh nghiệp, cổ phần hoá, cho thuê, khoán kinh doanh, sáp nhập, giải thể,… Vì vậy,mô tả chính sách công nghiệp của Việt Nam bên cạnh những đặc diểm chung của một chính sách công nghiệp theo lý thuyết cần phải đề cập đến những công cụ chính sách sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, sự tham gia của Việt Nam vào AFTA, APEC, và quá trình đàm phán về khả năng gia nhập WTO với tư cách thành viên chính thức là những minh chứng mạnh mẽ đối với xu hướng tự do hoá thương mại ở Việt Nam. Xét về môi trường chính sách tự do hoá thương mại vừa khuyến khích xuất khẩu nhưng cũng không tạo ra các rào cản đối với nhập khẩu. Bối cảnh đó không cho phép Việt Nam có thể sử dụng các rào cản bảo hộ thuế quan và phi thuế quan để trọ giúp cho phát triển công nghiệp trong dài hạn. III. CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ BÀI HỌC KINH NGHIÊM CHO VIỆT NAM. (NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN). Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông á cho thấy chính sách công nghiệp là một công cụ hữu hiệu để các nước Đông á xây dựng kinh tế sau sự tàn phá của chiến tranh và phát triển trở thành các nền kinh tế công nghiệp hoá mới như : Hàn Quốc, Đài Loan, hay nền kinh tế công nghiệp phát triển như Nhật Bản. Chính sách công nghiệp của các nước này có hai đặc điểm chính : 1. Tập trung vào xây dựng cơ sở kinh tế trong nước. Với xuất phát điểm là các nền kinh tế bị tàn phá và kiệt quệ sau chiến tranh, vấn đề đặt ra đầu tiên trong chiến lược công nghiệp hoá ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là tái thiết nền kinh tế. Đài Loan, bắt tay vào công cuộc xây dựng lại nền kinh tế sau 1949 với việc quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế từ tay người Nhật thành các doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực như: tinh chế đường, diện lực, lọc dầu. Các công ty thuộc lĩnh vực xi măng, giấy và những công ty nhỏ hơn được tư nhân hoá, nhờ đó giúp chuyển vốn của các địa chủ từ sản xuất nông nghiệp vào khu vực công nghiệp. Đồng thời Chính phủ ủng hộ sự phát triển của các khu vực thay thế nhập khẩu bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, chú ý phát triển các công ty tư nhân thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn viện trợ của Mỹ. Nhật Bản, nền kinh tế sau chiến tranh đang trong tình trạng đổ nát và tụt hậu khá xa về công nghệ so với các quốc gia công nghiệp hoá. những năm đầu sau chiến tranh, chiến lược của Mỹ đối với Nhật Bản là kiềm chế tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng nhanh của Liên Xô cũ và sự mở rộng nhanh chóng của thế giới cộng sản buộc Mỹ thay đôỉ chiến lược đối ngoại đối với Nhật Bản. Kế hoạch Marshall do Mỹ đưa ra nhằm mục tiêu hỗ trợ quá trình tái thiết Nhật Bản và Châu Âu sau chiến tranh. Các nỗ lực phát triển kinh tế của Chính phủ Nhật Bản trong thời kỳ đầu là tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp như điên, than, sắt théo, và đong tàu. Cũng trong giai đoạn này, mộtkhuôn khổ cơ bản của chính sách ccn đã được xác lập với các lĩnh vực ưu tiên khuyến khích về thuế, tài chính và đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn quản lý chặt chẽ, phân bổ các chỉ tiêu nhập khẩu máy móc và nguyên vật liệu, kiểm soát về giá cả áp dụng cho các khu vực ưu tiên. Sự kết thúc tạm thời của căng thẳng Nam – Bắc có ảnh hưởng đến nền kinh tế Hàn Quốc trên ba phương diên : cải cách ruộng đất, chủ nghĩa dân tộc, và viện trợ của Hoa Kỳ. Chế độ địa chủ bắt đẩu bãi bỏ từ 1953. Nông dân được chia đất và trở thành những người sở hữu đất đai. Tầng lớp địa chủ bị bắt buộc phải chuyển sang các khu vực thương mại và công nghiệp. thêm vào đó, sự tồn tại của cơ chế quản lý sở hữu ruộng đất chặt chẽ cho phép chính quyền có thể thực thi những chính sách nhất định để áp đặt các định hương phát triển đối với khu vực nông nghiệp. Bằng việc không chú ý đầu tư phát triển nông thôn trong khi tạo ra các điều kiện thuận lợi cho khu vực công nghiệp, chính quyền Hàn Quốc trong khoảng thời gian từ 1949-1962 đã có khởng 5 triệu người dân từ khu vực nông thôn di dân đến các vùng thành thị làm việc trong khu vực công nghiệp. Nằm trong tổng thể chiến lược củng cố sức mạnh của quốc gia để đối phó với các thế lực cộng sanr, phát triển công nghiệp được coi là một nội dung ưu tiên hàng đầu. Trong thời gian 1953-1958, các tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn (gọi là Cheabols) được thành lập với sự hậu thuẫn của chính quyền TW . Trong những năm 50s, công nghiệp Hàn Quốc chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trên cả hai lĩnh vực công nghiệp nặng(hoá chât, luyện kim…) và công nghiệp nhẹ (như dệt may, chế biến lương thực thực phẩm). Để đảm bảo sự tập trung ủng hộ về thể chế, chính quyền cũng sử dụng những biện pháp bạo lực và các chính sách quản lý xã hội chặt chẽ để ngăn ngừa và dẹp bỏ mội sự chống đối từ các phe phái đối lập. Sự phát triển của các Cheabols trong khu vực công nghiệp nặng và hoá chất là sự thể hiện rõ nét của một chiến lược phát triển công nghiệp hướng nội, nhằm vào mục tiêu độc lập kinh tế. Để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, Chính phủ Hàn Quốc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái kép, đưa ra mức tỷ giá cố định quy định riêng cho xuất khẩu và nhập khẩu. Đồng thời giảm thuế cho máy móc , thiết bị nhập khẩu. Bảng 1 - Tóm tắt các chính sách khuyến khích công nghiệp ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan Hợp lý hoá công nghiệp (nửa đầu thập kỷ 50) Ưu tiên đầu tư nhập khẩu thiết bị, đầu tư vào máy Sau nội chiến Triều Tiên (Những năm 50) Phát triển và khuyến khích các ngành công nghiệp Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (nửa đầu thập kỷ 50) Điều chỉnh các ngành móc/ các khoản cho vay của ngân hàng phát triển Nhật Bản / Miễn giảm thuế. thay thế nhập khẩu/ hệ thống trợ cấp bằng hạn ngạch/ tỷ giá hối đoái kép/ miễn giảm thuế cho máy móc, nguyên liệu nhập khẩu công nghiệp công cộng chủ chốt (đường, xi măng, phân hoá học…)/ khuyến khích công nghiệp dệt bằng hạn chế số lượng Khuyến khích phát triển công nghiệp (nửa sau thập kỷ 50) Bảo hộ bằng thuế quan với các sản phẩm sợi tổng hợp, dệt may, hoá dầu, máy móc, điện tử dân dụng/ chính sách tài chính và thuế khoá có chọn lọc/ khuyến khích áp dụng công nghệ mới Thời kỳ quá độ sang CNH hướng về xuất khẩu (nửa sau 1950s) Hình thành những ngành công nghiệp chủ đạo/ phát triển công nghiệp dệt và chế biến nông sản. Tăng trưởng cao (những năm 60) Phát triển một nên kinh tế mở/ hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân/ điều chỉnh cơ cấu đầu tư/ phối hợp các lĩnh vực sản xuất/ thực hiện chương trình phát triển kinh tế ngành(các giải pháp cho công nghiệp máy móc và khu vực điện tử) Chuyển sang công nghiệp hướng xuất khẩu (những năm 60) Ưu tiên tăng trưởng kinh tế/ thu hút vốn đầu tư nước ngoài/ khuyến khích công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu/ miễn thuế/ khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo thông qua can thiệp của Chính phủ và đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng. Công nghiệp hoá hướng xuất khẩu (những năm 60) Tăng cường sử dụng vốn nước ngoài (các khoản vay và đầu tư trực tiếp)/ tập trung vào khu vực kinh tế tư nhân/ lập các KCX/ miễn giảm thuế/ khuyến khích các công ty thương mại . Tăng trưởng ổn định CNH các ngành công CNH hướng xuất khẩu (từ những năm 70) Lập các kế hoạch tầm xa/ sử dụng cơ chế thị trường / phát triển các ngành sử dụng nhiều yếu tố tri thức, công nghệ cao nghiệp nặng, hoá chất hướng xuất khẩu (những năm 70) Kế hoạch chiến lược phát triển công nghiệp nặng, hoá chất/ tài trợ có kiểm soát cho các hoạt động kinh doanh/ cho vay lãi suất đối với các ngành công nghiệp nặng, hoá chất và sản xuất hàng xuất khẩu/ khuyến khích mở rộng trang thiết bị trong các xí nghiệp tư nhân. (những năm 70) Lập kế hoạch phát triển chính thức cho các công ty Nhà nước về sắt thép, hoá dầu, và đóng tàu/ hình thành quỹ vốn đầu tư xã hội. Tự do hoá phối hợp các ngành công nghiệp nặng, hoá chất. (những năm 80) Tự do hoá kinh tế/ tư nhân hoá một số khu vực công cộng/ tự do hoá quản lý cốn đầu tư nước ngoài/ tự do hoá tài chính/ tiếp tục khuyến khích phát triển doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao. (những năm 80) Xác định các ngành công nghiệp chiến lược/ miễn thuế đối với các ngành điện tử và máy móc/ lãi suất cho vay thấp/ khuyến khích công nghiệp ô tô. 2. Công nghiệp hoá hướng nội, thay thế nhập khẩu được chuyển hướng thành công nghiệp hoá hướng ngoại, khuyến khích xuất khẩu vào thời điểm thích hợp Đây là điểm phân biệt quyết định sự thành công của các nước NIE so với các nền kinh tế Latin America. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã xuất hiện đầu tiên ở các nước Mỹ Latin. Nhưng do duy trì quá lâu chính sách này nên đã biểu hiện những nhược điểm rõ rệt. Kinh nghiệm của Brazil thực hiện công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu cho thấy việc duy trì ưu tiên theo hướng thay thế nhập khẩu trong một khoảng thời gian dài có thể là một nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự thất bại của chiêns lược công nghiệp hoá hướng nội. - Khác với Brazil, ấn Độ, NIEs và Nhật Bản đều đã thực hiện các bươc chuyển hướng ngoạn mục từ ưu tiên tái thiết kinh tế trong nước thông qua thay thế nhập khẩu bằng việc chuyển ưu tiên phát triển sang các khu vực khuyến khích xuất khẩu vào nửa cuối thập kỷ 50(đối với Nhật Bản và Đài Loan ) và những năm đầu của thập kỷ 60 (đối với Hàn Quốc). Bảng 2- Khuyến khích công nghiệp xuất khẩu và các chính sách kuyến khích xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan . Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan Hợp lý hoá công nghiệp (nửa đầu thập kỷ 50) Tài trợ ưu đãi, trợ cấp ưu tiên cho xuất khẩu/ cho vay với lãi suất thấp của Ngân hàng phát triển Nhật Bản/ thành lập Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản (1950)/ khuyến khích về thuế, khấu trừ thu nhập cho xuất khẩu/ phát triển bảo hiểm xuất khẩu/ thành lập JETRO. Sau nội chiến Triều Tiên (những năm 1950) Khuyến khích xuất khẩu cũng là 1 phần của CNH thay thế nhập khẩu ở Hàn Quốc/ thành lập quỹ khuyến khích xuất khẩu/ trợ cấp tín dụng cho xuất khẩu, trợ cấp khác cho xuất khẩu. CNH thay thế nhập khẩu (nửa đầu thập kỷ 50) Thành lập các ngành công nghiệp công cộng chủ đạo/ lán sóng viện trợ của Mỹ/ hạn ngạch nhập khẩu để bảo hộ/ chế độ tỷ giá kép/ áp dụng hệ thống hai giá để khuyến khích xuất khẩu. Khuyến khích phát triển công nghiệp (cửa sau những năm 50) Xuất khẩu tàu biển/ cho vay lãi suất thấp của NHPT Nhật Bản/ khấu trừ đặc biệt cho các khoản thu nhập liên quan đến giao dịch ở nước ngoài. Chuyển sang CNH hướng xuất khẩu. (nửa sau những năm 50) Bắt đẩu xuất khẩu gạo, đường và nông sản chế biến của khu vực công cộng/ cải cách hệ thống tỷ giá theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Tăng trưởng cao (những năm 60) Tự do hoá kinh tế, tăng sức cạnh tranh/ xuất khẩu thiết bị máy móc/ tiếp tục cho vay lãi suất thấp của NHPT Nhật Bản/ khấu trừ đặc biệt đối với xuất khẩu/ phát triển thị trường nước ngoài/ mở rộng quy mô và hiệu quả hoạt động JETRO Chuyển sang CNH hướng xuất khẩu (những năm 60) Khuyến khích các xí nghiệp tư nhân trong các ngành CNXK/ các khoản trợ cấp trực tiếp/ cho vay lãi suất thấp/ miễn giảm thuế, khấu hao theo gia tốc/ khuyến khích phát triển xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nhẹ/ thành lập KOTRA. CNH hướng xuất khẩu hoàn toàn (những năm 60) Các khoản cho vay đặc biệt/ cho vay xuất khẩu/ phát triển KCX/ khuyến khích các công ty thương mại/ miễn giảm thuế/ ban hành luật đầu tư/ tăng cường sử dụng vốn nước ngoài. Tăng trưởng nhanh của Công nghiệp xuất khẩu (những năm 70) Mở rộng các khoản cho vay lãi suất thấp/ phát triển các EPZ/ phá giá nội tệ/ thành lập ngân hàng XNK/ áp dụng thuế VAT. Sự tiến bộ của các ngành công nghiệp xuất khẩu (những năm 70) Củng cố các xí nghiệp Nhà nước/ phát triển BHXK/ hệ thống cho vay trung và dài hạn của NH XNK/ hiệp hội phát triển ngoại thương. Đối phó với xung đột thương mại (những năm 80) Hạn chế xuất khẩu tự nguyện/ các công ty phát triển đầu tư kinh doanh tại Mỹ(xuất khẩu tại chỗ)/ khuyến khích thị trường tự do. Nhật Bản Bắt đầu từ nửa cuối của thập kỷ 50, Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt những cải tiến về công nghệ và đề ra một chính sách công nghiệp đa dạng nhằm mở rộng cơ sở công nghiệp trong nước, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp mới, cơ cấu lại các khu vực đang giảm sút. Mục tiêu của chính sách công nghiệp trong thời kỳ này gồm hai phần: thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Các ngành như sợi tổng hợp, hoá dầu, máy móc, phụ tùng, điện tử được xác định là các khu vực ưu tiên và được hưởng các ưu đãi của Chính phủ về miễn giảm thuế kinh doanh về thuế xuất khẩu, cho vay lãi suất thấp, cho phép nhập khẩu công nghệ nước ngoài, và miễn phải chịu luật chống độc quyền. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng chủ ý thay đổi về thể chế để khuyến khích xuất khẩu . Mục tiêu chính sách công nghiệp những năm 60 được bổ sung thêm nội dung bảo vệ các ngành công nghiệp trước những tác động của tự do hoá. Nếu như việc bảo vệ các ngành công nghiệp này vẫn sử dụng những công cụ chính sách như thời kỳ trước đây thì sẽ không có sự chuyển hướng của chính sách công nghiệp. Thay vào đó, các công cụ chính sách theo chiều ngang được thực hiện để tăng cường sức cạnh tranh cho công nghiệp Nhật Bản. Mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp Nhật Bản được thông qua việc Chính phủ khuyến khích việc phối hợp giữa các ngành công nghiệp, tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước. Tuy nhiên, chính sách công nghiệp vẫn sử dụng các công cụ theo chiều dọc đối với một vài ngành công nghiệp cụ thể như ô tô và hoá dầu, được coi là những ngành có tính chiến lược, song những công cụ theo chiều dọc này trong thực tế đã không có hiệu lực như mong muốn. Thay vào đó, cơ chế thị trường và sự phối hợp giữa Chính phủ với các ngành công nghiệp theo phương châm “Chính phủ không phải là cha, Chính phủ chỉ là người anh trai đối với các ngành công nghiệp ”.Kết quả là, trong thời kỳ này, công nghiệp Nhật Bản đạt được mức tăng trưởng cao chưa từng có, với hệ thống kinh tế tự do được hình thành và củng cố vững chắc. Hàn Quốc Sự chuyển hướng từ công nghiệp hoá hướng nội sang khuyến khích các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ở Hàn Quốc có nhiều điểm khác biệt so với Nhật Bản. Nếu như Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu có dấu hiệu chuyển hướng từ nửa cuối 1950s và cho đến 1960s thì hầu như các công cụ của chính sách công nghiệp được sử dụng đều là các công cụ chính sách theo vhiều ngang, thì Chính phủ Hàn Quốc vẫn sử dụng nhiều các công cụ chính sách theo chiều dọc ngay cả khi nền kinh tế đã bắt đầu chuyển hưoứng theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Năm 1961, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện quốc hữu hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng. Bằng các mệnh lệnh hành chính, Chính phủ phân phối các nguồn tín dụng khan hiếm cho các ngành công nghiệp được ưu tiên. Vào đầu thập niên 70, khi chi phí nhân công ngày càng cao, Chính phủ sử dụng hệ thống tín dụng để khuyến khích các doanh nghiệp chuyển hướng đầu tư mạnh vào các ngành công nghiệp nặng hướng ra xuất khẩu như hoá chất, đóng tàu, luyện thép. Tỷ trọng của xuất khẩu hàng hoá công nghiệp nặng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng lên từ 14% năm 1974 lên 60% năm1984. Đồng thời Chính phủ cũng tiếp tục sử dụng hỗ trợ tín dụng để hậu thuẫn cho các Cheabol phát triển mở rộng. Ztrong thời gian từ 1972 đến 1979 số lượng các doanh nghiệp trong nước thuộc sở hữu các cheabol tăng từ 7,5% đến 25,4%, tốc độ tăng trưởng của các cheabol trong thời kỳ này đạt 44,7% trong khi đó tốc độ tăng GDP là 10,2% . Để khuyến khích xuất khẩu chính phủ cho phép phá giá đồng tiền ở mức độ đáng kể. Năm 1961 đồng won phá giá 50%. Các biện pháp phá giá mạnh mẽ hơn vào năm 1963 và trong thời kỳ 1971 – 1972 đã có tác dụng rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Hàn Quốc trên thị trường quốc tế. Theo đánh giá của WB, đây là một trong những biểu hiện của sự thành công của chính phủ Hàn Quốc trong việc nới lỏng dânf các hàng rào bảo hộ để làm cho nền công nghiệp trong nước có sức cạnh tranh cao hơn . Đồng thời chính phủ cũng rất chú ý đến phối hợp trao đổi thông tin giữa khu vực tư nhân và các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô, đực biệt là cơ chế phối hợp thông qua uỷ ban kế hoạch kinh tế Hàn Quốc. Bên cạnh đó trung tâm thương mại Hàn Quốc ( Kotra ) được thành lập cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các ngành xuất khẩu phát triển. Thời kỳ này chính phủ Hàn Quốc mới dần dần sử dụng ít đi các công cụ chính sách theo chiều dọc để chuyển sang sử dụng các chính sách theo chiều ngang. Vào đầu những năm 1980 chính phủ chủ yếu thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với khu vực công nghiệp thông qua việc kiểm soát các tổ chức tài chính tài trợ cho phát triển các ngành công nghiệp sanr xuất hàng xuất khẩu. Đài Loan : Bắt tay vào khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hướng ra xuất khẩu vào cuối những năm 1950, sớm hơn vài năm so với Hàn Quốc. Việc nới lỏng đối với xuất nhập khẩu được thực hiện từ sau 1958. Chính sách tỷ giá hối đoái kép được thay bằng một hệ thống tỷ giá thống nhất. Đầu tư nước ngoài bắt đầu được chú ý vào đầu những năm 1960. Chính phủ cho phép các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được sử dụng các khoản tín dụng ưu đãi và các miễn giảm về thuế. Điểm nổi bật trong khuyến khích công nghiệp xuất khẩu của Đài Loan là việc thành lập các khu chế xuất ( EPZ ). Đài Loan là nước thành công nhất trong việc sử dụng mô hình EPZ vào khuyến khích phát triển xuất khẩu. Kết quả của những cố gắng đã tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn với cơ sở hạ tầng hiện đại, các ưu đãi về thuế, thủ tục hành chính đơn giản là các lĩnh vực hành chính như dệt, chế biến thực phẩm, công nghiệp nhẹ, linh kiện điện tử, đồ gia dụng đã phát triển nhanh chóng trong khuôn khổ các EPZ. Vào đầu những năm 1970 Đài Loan tiếp tục đẩy mạnh các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu và thông qua 10 dự án xây dựng lớn ( 1973 ). Chính phủ tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Các ngành công nghiệp như sắt thép, hoá dầu, đòng tầu được tiếp tục củng cố thông qua các khoản đầu tư khổng lồ của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Việc ưu đãi phát triển cho khu vực này là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn của nền kinh tế cuôí những năm 1970 dưới ảnh hưởng của cú sốc dầu lửa lần thứ 2 vào năm 1979 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I.CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM THỜI KỲ (1954-1989). 1. Khái quát chính sách phát triển công nghiệp thời kỳ (1954-1989) 1.1. Giai đoạn (1954-1957) Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời từ tháng 9 năm 1945, nhưng chỉ sau đó một thời gian ngắn, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hiệp định Giơ-ne-vơ mới chỉ mang lại hoà bình trên nửa phía Bắc. Có thể nói, từ đây cho đến 1975, chính sách công nghiệp hoàn toàn khác nhau. Miền Bắc thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung theo mô hình và với sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu. Trong khi đó, ở Miền Nam, với sự có mặt của Hoa Kỳ, một nền kinh tế phục vụ chiến tranh theo cơ chế thị trường được kiến tạo mạnh, đặc biệt bắt đầu từ 1960. Do đó, Việt Nam tồn tại song song hai mô hình kinh tế khác nhau và tất nhiên là với hai chính sách công nghiệp khác nhau. Nét đặc trưng của chính sách công nghiệp giai đoạn 1954-1957 ở Miền Bắc là giai đoạn cải tạo công thương nghiệp. Các cơ sở công nghiệp thưong mại của thực dân Pháp để lại và của các nhà tư sản Việt Nam đèu được quốc hữu hoá. ở giai đoạn này, thay đổi quan hệ sở hữu là chính sách được tập trung thực hiện để đảm bảo Nhà nước có được trong tay tiềm lực kinh tế cho sự quản lý tập trung. Kết quả là nền kinh tế nói chung. Công nghiệp nói tiêng có 3 hình thức tổ chức : - Các nhà máy xí nghiệp và công ty thương mại dịch vụ thuộc sở hữu Nhà nước (gọi chung là các doanh nghiệp Nhà nước ) - Các hợp tác xã dựa trên sở hữu tập thể. - Một số cơ sở công tư hợp doanh, hình thức này chỉ còn lại rất ít cho đến đầu những năm 1960. Chính sách bao trùn của thời kỳ này trong công nghiệp là đặt nền móng cho một nền công nghiệp dưới sự kiểm soát tập trung của Nhà nước. Cũng trong thời kỳ này, những nhà quản lý học tập cách điều hành xí nghiệp theo phương thức “vừa làm , vừa học” và chờ đợi gào sự chỉ đạo trực thiếp của cấp trên. Đây là giai đoạn mà công nghiệp hầu như chưa có sự đầu tư mới nào. 1.2. Giai đoạn 1958-1960. Cùng với kế hoạch khôi phục kinh tế 3 năm, công nghiệp Việt Nam lần đầu tiên được phác thảo bởi một chính sách phát triển khá rõ nét. Đặc trưng của giai đoạn này nhằm: - Khôi phục lại và nâng cao công suất của các cơ sở công nghiệp có từ trước theo phương thức quản lý dựa trên chée độ công hữu . - Tiếp nhận sự giúp đỡ của các nước theo hệ thống Xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nền công nghiệp tự lập, tự cường. Đây là thời kỳ khởi công cho ciệc xây dựng một nền công nghiệp của nước Việt Nam mới. - Sự quản lý tập trung được đặt trực tiếp vào Bộ Công nghiệp . 1.3. Giai đọan (1960-1965). Đây là giai đoạn có những bước tiến nhảy vọt của công nghiệp Việt Nam . Với sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, hàng loạt cơ sở công nghiệp ra đời, trong đó phải kể đến các ngành công nghiệp cơ bản như: luyện kim, điện lực, đặc biệt là cơ sở thuỷ điện đầu thiên xuất hiện , khai thác, cơ khí chế tạo và đóng tàu, dệt may, da giầy, phân bón và hoá chất, vật liệu xây dựng . Bên cạnh đó hàng loạt cơ sở sx hàng tiêu dùng thiết yếu được xây dựng để đáp ứng cho nhu cầu trong nước . Có thể nói, đây là giai đoạn thực hiện chính sách công nghiệp thay thế nhập khẩu theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng cho sự tự lực phát triển . Những đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là : - Công nghiệp phát triển nhanh chóng với sự ưu tiên cho công nghiệp nặng.Bộ công nghiệp nặng ta đời đặc trách các ngành khai thác, điện lực, luyện kim cơ khí sản xuất tư liệu sản xuất . - Nền công nghiệp phát triển dàn trải trên mọi ngành theo sự trợ giúp của các nước. Trình độ công nghệ dựa trên một mặt bằng thấp, lại không đồng đều và thiếu đồng bộ . - Công suất và năng lực sản xuất nói chung không đáp ứng đủ nhu cầu, nền kinh tế vẫn ở trạng thái khan hiếm trầm trọng và phải trông chờ vào sự viện gíup của nước ngoài. - Sự quản lý tập trung của Nhà nước dựa vào nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo địa phương, vùng lãnh thổ. Như vậy, các cơ sở công nghiệp có hai loại: cơ sở của Trung ương và của địa phương, vừa chịu sự quản lý theo ngành kỹ thuật vừa theo địa phương . - Thời kỳ này không tồn tại các tổ chức dạng hiệp hội mà hầu hết các ngành có xu hướng tổ chức sản xuất khép kín trong các xí nghiệp liên hợp (liên hiệp theo chiều dọc) hay liên hiệp các xí nghiệp (liên hiệp theo chiều ngang). 4.1. Giai đoạn (1965-1975). Giai đoạn này nền công nghiệp chịu sự phá hoại khóc liệt của cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ thực hiện . Toàn bộ các cơ sở công nghiệp non trể đều bị đánh phá dữ dội. Một số cơ sở được dời chuyển, sơ tán, một số cơ sở thiếp tục sản xuất trong điều kiện bị ném bom, số còn lại phải tạm ngừng sản xuất , lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng. Nền kinh tế nói chung phụ thuộc rất lớn vào sự viện trợ, giúp đỡ của cước ngoài, hệ thống phân phối hiện vật dược áp dụng để đảm bảo mức sống tối thiểu trong điều kiện khan kiếm. 1.5. Giai đoạn (1976-1989) Sau khi thống nhất đất nước, công nghiệp phía Bắc hầu như bị tàn phá hoàn toàn, trong khi đó, công nghiệp phía Nam cũng chủ yếu định hướng phục vụ chiến tranh nên cơ cấu rất thiên lệch . Hầu như không có các sơ sở công nghiệp nặng được xây dựng ở phía Nam cho đến 1975, ngoại trừ các cơ sở đã có từ thời Pháp thuộc . Tuy nhiên, ở ciền Nam đã xuất hiện các cơ sở chế biến khá hiện đại, đặc biệt là cách quản lý theo cơ chế thị trường . Các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biếc được tổ chức theo các loại hình của kinh tế thị trường , các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tư bản trong nước đã khá phát triển . Lúc này có nhiều quan điểm thậm chí trái ngược nhau trong việc tìm kiếm con đường đi lên cho nền kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng của nước Việt Nam thống nhất. - Quan điểm thứ nhất cho rằng nên tiếp tục duy trì công nghiệp phía Nam như vốn có để tranh thủ những mặt mạnh của cơ chế thị trường , của các quan hệ truyền thống và kinh nghiệm quản lý . - Quan điểm thứ hai cho rằng cần ngay lập tức cải tạo quan hệ kinh tế và công nghiệp phía Nam theo mô hình kế hoạch hoá tập trung hiện có của các nước xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này đã thắng thế hoàn toàn và công cuộc cải tạo, hoà nhập hai nền công nghiệp được thực thi. - Như vậy nét đặc trưng của thời kỳ này là sự cải tạo và nhất thể hoá nền công nghiệp trên cơ sở công hữu và tập trung vào hệ thống quản lý Nhà nước . Có ba điều cần rút ra ở đây là : + Các cơ sở công nghiệp nhỏ lẻ vận hành theo cơ chế thị trường vẫn có sức sống mãnh liệt mặc dù bị phân biệt đối xử. + Sự hợp tác toàn diện với Hội đồng tương trợ kinh tế (1978) theo nguyên tắc mới, nguyên tắc của sự phân công cùng có lợi đã không cho phép nền công nghiệp có được những giúp đỡ đầu tư cần thiết như đầu những năm 1960 . Mặt khác, lúc này bản thân các nước xã hội chủ nghĩa cũng bộc lộ những điểm yếu khó khắc phục của sự trì trệ và khan hiếm. Nền công nghiệp Việt Nam ở giai đoạn này gặp nhiều khó khăn: máy móc thiết bị và công nghệ lạc hậu, nguyên liệu mà trước đây được trợ giúp từ các nước xã hội chủ nghĩa không còn, nên năng suất suy giảm tuyệt đối. Các vấn đề xã hội cốn đã nặng lề với một đất nước trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc, nay lại càng nặng lề hơn khi cền kinh tế sau chiến tranh không những không được cải thiện mà lại trầm trọng hơn. Năm 1986 Việt Nam khởi xướng sự đổi mới bắt đẩu từ cơ chế quản lý kinh tế , theo đó những đấu hiệu của sự tự do kinh tế xuất hiện, quyền chủ động của các doanh nghiệp được đề cao, các thành phần kinh tế khác được thừa nhận, mối quan hệ kinh tế đa phương được thiết lập … Tất cả những cấn đề đó đã cho phép phục sinh và phát triển trở lại nền công nghiệp Việt Nam . 2.Nhận xét chung về chính sách phát triển công nghiệp thời kỳ (1954- 1989) Từ các biến động khách quan của lịch sử, công nghiệp Việt Nam đã qua những bước thăng trầm khiến cho sự đánh giá rất khó khăn. Tuy nhiên, có thể khái quát một số nhận xét về chính sách phát triển công nghiệp thời kỳ này như sau : - Chính sách xây dựng một cền công nghiệp tự lập, tự cường dựa trên chủ trương ưu tiên công nghiệp nặng là điểm xuyên suốt thời kỳ này. Đáng tiếc là các nhân tố cần thiết để có thể tự lực , tự cường lại thiếu thốn hoặc chưa xuất hiện nên trên thực tế là chúng ta có một nền công nghiệp dàn trải, què quặt và thiếu mũi nhọn. - Tư tưởng tự lập và sự đóng cửa nền kinh tế đã khiến cho các dòng chảy công nghệ và kỹ thuật bị chặn laị, kết quả là công nghệ của chúng ta lạc hậu nhiều thế hệ. -Cơ chế quản lý hành chính đã dồn nén nền công nghiệp vốn yếu ớt thành các cơ sở xơ cứng, thiếu năng động, xa lạ với các nguyên tắc của thị trường . Cách thức tổ chức hệ thống công nghiệp và thương mại gần như biệt lập nhau đã càng làm cho công nghiệp thuần tuý chỉ là cơ sở sản xuất đến mức không phải tự bán sản phẩm do chính họ sản xuất ra, càng không biết đến khách hàng của họ. Ba năm cuối thời kỳ này (1989-1970) là thời kỳ nỗ lực mang tính chất bản lề để có được những thành công bước đầu ở thời kỳ sau. II. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP VÀ CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (1990-2000) 1. Thực trạng công nghiệp giai đoạn (1990-2000) 1.1. Tình hình phát triển chung. a. Tăng trưởng công nghiệp Trong những năm qua công nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế do phát huy được lợi thế so sánh trong việc khai thác tài nguyên và phát huy lợi thế về sử dụng nguồn lao động. Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành Đơn vị: Tỷ đồng 1995 1996 1997 1998 1999 Stt Tổng số 228.892 272.037 313.624 361.016 399.942 1 Nông, lâm, ngư nghiệp 62.219 75.514 80.826 93.072 101.723 2 Công nghiệp, XD 65.820 80.877 100.595 117.299 137.959 3 Dịch vụ 100.853 115.646 132.203 150.645 160.260 Bảng 4- Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Stt Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 1 Nông, lâm, ngư nghiệp 27,2 27,8 25,8 25,8 25,4 22,7 2 Công nghiệp, XD 28,8 29,7 32,1 32,5 34,5 35,5 3 Dịch vụ 41,1 42,5 42,2 41,7 40,1 41,8 Tỷ lệ công nghiệp chiếm trong tổng sản phẩm trong nước từ 21,86% năm 1995 đến năm 1998 đã tăng lên 26,71% và 29,05% năm 1999 (Nếu kể cả xây dựng tỷ lệ này tương ứng là 28,8%; 32,5% và 34,5%). Trong khi đó tỷ trọng nông nghiệp giảm tương ứng là từ 27,2% năm 1995 xuống còn 25,8% năm 1998 và 25,4% năm 1999. Tốc độ tăng trưởng trong những năm vừa qua đạt bình quân trên 12,7% năm. Công nghiệp là lĩnh vực chịu tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, năm 1999 vẫn giữ được nhịp đọ tăng trưởng 10,5% , có thấp hơn mấy năm trước (năm 1996 là 14,2%; năm 1997 là 13,8%; năm 1998 là 12,5%).Song năm 2000 đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao hơn 15,7% . Dự báo đến năm 2001 là 14%. Công nghiệp đã góp phần quan trọng trong giá trị xuất khẩu , chiến khoảng 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một số sản phẩm xuất khẩu có giá trị kim ngạch lớc là : dầu thô, hàng dệt may, hàng da giầy, hàng nông sản chế biếc. Gần đây kim ngạch xuất khẩu sản phẩm linh kiện diện tử cũng đã đạt trên 500 triệu USD. Bảng 5- Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu Sản lượng Tốc độ tăng TT Tên sản phẩm Đơn vị 1995 KH 2000 DK 2005 1995- 2000 2000- 2005 1 Điện phát ra Tỷ kwh 14.7 26 44.3 12.1 11.2 2 Dầu thô khai thác Tr.tấn 7.62 17 22 17.4 5.3 3 Khí Tỷ.m3 0.25 1.5 8.5 43.1 41.5 4 Than sạch Tr.tấn 8.3 10 15.3 3.8 8.9 5 Thép cán Tr.tấn 0.38 1.4 2.3 29.8 10.4 6 Phân lân các loại 1000.tấn 800 1150 1350 7.5 3.3 7 Phân đạm 1000.tấn 111 45 1100 16.5 89.5 8 Vải lụa các loại Tr.m 228 400 750 11.9 13.4 9 Giấy các loại 1000.tấn 203 300 500 8.1 10.8 10 Xi măng Tr.tấn 58 11.5 20 14.7 11.7 11 Đường các loại 1000.tấn 517 1000 1300 14.1 5.4 12 Bia Tr.lít 375 700 900 13.3 5.2 13 Sữa Tr.hộp 170 180 230 1.1 5.0 14 Động cơ(dầu,xăng) 1000.cái 5.2 8 60 9.0 49.6 15 Động cơ điện 1000.cái 28.7 48 65 10.8 6.3 b. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào phát triển công nghiệp , phát triển các khu công nghiệp Nguồn vốn FDI hiện chiếm khoảng 32% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội . Trong đó đầu tư cho công nghiệp chiếm 61% (bao gồm cả dầu khí), các ngành dịch vụ khoảng 17%…Hoạt động FDI đã tạo ra nhiều năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới và công nghệ mới, hiện đại trong nhiều lĩnh vực công nghiệp như : khai thác dầu khí, sản xuất sắt thép, xi măng, lắp ráp và sản xuất ô tô, xe máy , hàng điện tử… Năm 1995, khu vực có vốn FDI đã tạo ra 25% giá trị sản xuất ngành công nghiệp , năm 1998 giá trị này đã tăng lên 32% và năm 1999 là 34,7%. Với tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1995-1999 tới trên 22,3% năm , đóng góp của khu vực có vốn FDI trong giá trị sản xuất ngành công nghiệp sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Khu vực này hiện chiếm 100% về khai thác dầu thô; 70% về sản xuất, sửa chữa xe có động cơ ; 49% điện tử dân dụng; trên 50% về thép ; 14% sản lường hoá chất của cả nước…. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp ngày càng tăng vào hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp ( dầu thô, sản phẩm linh kiện điện tử, hàng may mặc…), góp phần vào cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán của Việt Nam . Ngoài ra, còn góp phần tạo việc làm, đào tạo đội ngũ lao động và nâng cao thu nhập cho người lao động . c. Phát triển các khu công nghiệp Cho đến tháng 11 năm 1999, đã có 67 bkhu công nghiệp (KCN), khu chế suất(KCX), và khu công nghệ cao (KCNC) thành lập tại 26 tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương với tổng diện tích giai đoạn đầu 10492 ha đã đầu tư xây dựng hạ tầng trên 400 Tr. USD và 840 Tỷ đồng, chưa kể KCN Dung Quất có diện tích 14000 ha. Bảng 6- Số liệu về KCN, KCX Đầu tư nước ngoài Đầu tư trong nước Diện tích (ha) Diện tích đất có thể cho thuê (ha) Số dự án Tổng vốn đầu tư (tr.USD) Vốn TH (tr.USD) Số dự án Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng) Vốn TH (tr.USD) Diện tích đã cho thuê (*) Lao động Việt Nam 10492 7245,79 546 6337.401 2637 244 12977,09 3586,8 2044,6 131199 (*) Bao gồm cả giai đoạn II (đã phê duyệt) Ghi chú : không kể KCN Dung Quất ( diện tích 14000 ha , hiện đang có một dự án có vốn đầu tư 6 Tr. USD , một dự án Liên doanh 20 Tr. USD và dự án Nhà máy lọc dầu số I : 1,3 tỷ USD). Cùng với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngài, hoạt động của các KCN trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp , tăng GDP, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, tạo bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến phục bụ xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước. Đồng thời KCN cũng góp phần tạo công ăn, việc làm, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, thực hiện công nghiệp hoá, thu hẹp chênh lệch giữa các vùng đất nước. Công nghệ của các doanh nghiệp KCN ở mức độ khá, có một số doanh nghiệp có công nghệ tương đối cao (Fujitsu, RoseRobotech, Matbuchi Motor,…) cộng với quản lý tốt, các doanh nghiệp này có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế. Do vậu năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp chiếm 50% so với toàn bộ khu vực FDI và sẽ còn tăng trong những năm tới. 1.2.Tình hình và xu hướng phát triển các nhóm ngành công nghiệp . Xem xét qua bảng số liệu: Bảng 7- Giá trị sản xuất công nghiệp (theo ngành) Đơn vị: Tỷ đồng STT Ngành 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 103374,7 118096,6 134419,7 151223.4 166965,2 1 Công nghiệp khai thác 13919,7 15967,6 18313,7 21117,8 24074,9 2 Công nghiệp chế biến 83260,6 94787,8 107662,4 120665,5 132550,4 3 Điện, gas, nước 6194,5 7341,4 8443,7 9440 10340 Bảng 6- Giá trị sản xuất công nghiệp (Tốc độ tăng trưởng – GT TSL ) Đơn vị: % STT Ngành 95-96 96-97 97-98 98-99 95-99 Tổng số 14,2 13,8 12,5 10,4 12,7 1 Công nghiệp khai thác 14,7 14,7 15,3 14,0 14,7 2 Công nghiệp chế biến 13,8 13,6 12,1 9,8 12,3 3 Điện, gas, nước 18,5 15,0 11,8 9,5 13,7 Bảng 7- Giá trị sản xuất công nghiệp (cơ cấu theo ngành công nghiệp ) Giá so sánh – 1994 Đơn vị : % STT Ngành 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 1 Công nghiệp khai thác 13,5 13,5 13,6 14,0 14,4 13,41 2 Công nghiệp chế biến 80,5 80,5 80,1 79,8 79,4 80,55 3 Điện, gas, nước 6,0 6,2 6,3 6,2 6,2 6,04 a. Ngành công nghiệp khai thác . Trong những năm vừa qua ngành công nghiệp khai thác phát triển mạnh, trong đó chủ yếu là ngành khai thác dẩu khí , có vai trò quan trọng đóng góp cho sự khởi động của quá trinh công nghiệp hoá đất nước . Đến nay ngành công nghiệp khai thác đã chiếm khoảng 14,4% trong giá trị sản xuất công nghiệp,riêng ngành dầu khí chiếm 12%. Sản lượng dầu thônăm 1999 đạt trên 15 triệu tấn, xuất khẩu thu được 1,9 tỷ USD, đóng góp khởng 16,5% cho giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm tới nguồn tài nguyên này đang gia tăng, đặc biệt là khí, tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến đi theo, tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước và xuất khẩu . Đặc biệt chương trình phát triển đồng bộ từ khai thác, vận chuyển đến chế biến khí đang mở ra triển vộng phát triển của nhiều vùng, đặc biệt là một số địa điểm củ vùng Đồng bằng Sông Cửu Long như : Cà Mau, Sóc Trăng,… Bảng 8- Một số sản phẩm công nghiệp khai thác. STT Sản phẩm Đơn vị 1990 1995 1999 1 Dầu thô Tr. Tấn 2,70 7,60 15,0 2 Khí thiên nhiên Tỷ. M3 - 0,25 1,10 3 Than Tr. Tấn 4,60 8,30 10,0 b. Công nghiệp chế biến và chế tác. Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến và chế tác đã chiếm khoảng 80% trong giá trị sản xuất công nghiệp; đã từng bước đổi mới công gnhệ trong một số ngành nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, hướng mạnh về xuất khẩu Bảng 9- Một số sản phẩm công nghiệp chế tác. STT Sản phẩm Đơn vị 1990 1995 1999 1 Thép cán Ngìn .Tấn 101 470 1223 2 Động cơ diezel Cái 4470 4217 15553 3 Xi măng Tr. Tấn 2,50 5,83 10,38 4 Phân bón hoá Ngìn .Tấn 354 931 1119 học 5 Vải Tr. m 318 263 317 6 Hàng dệt kim Tr. sp 29,0 28,0 29,6 7 Hàng may mặc Tr. sp 125 127 305 8 Giấy Ngìn .Tấn 79 204 338 -Các ngành công nghiệp chế biến sử dụng nguyên liệu từ các ngành nông, lâm, thuỷ hải sản chiếm tỷ lệ cao nhất trong ngành công nghiệp chế biến và chế tác, khoảng 33-34% trong giá trị sản xuất công nghiệp. Đã tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu có giá trị kim ngạch lớn và có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới như : thuỷ hải sản, gạo, cà phê, cao su, hạt điều, chè, …. Tuy nhiên, công nghiệp mới chỉ làm ở khâu sơ chế ban đẩu, chủ yếu vẫn là xuất khẩu nguyên liệu. Nguyên liệu nông sản phẩm đưa qua chế biến còn thấp mới chỉ khảng trên 30%, còn lại vẫn là đưa ra thị trường sản phẩm tươi sống. Ngành công nghiệp này chưa phát triển mạnh. - Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nhân công , thu hút nhiều lao động như ngành công nghiệp dệt may, da giầu chiếm khoảng 13,3% (1999) trong giá trị sản xuất công nghiệp, đã đóng góp giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn . Hai ngành công nghiệp dệt may trong năm 1998 đã dạt goá trị kim ngạch xuất khẩu khoẩng 1,7 tỷ USD . Nếu tính cả ngành da giầy , giá trị kim ngạch xuất khẩu gần 3 tỷ USD , đứng thứ hai trong các hàng xuất khẩu, sau xuất khẩu nông sản. Trong những năm vừa qua ngành công nghiệp gia công xuất khẩu này đã phát triển, giải quyết nhiều công ăn việc lam cho xã hội và phân bố trên nhiều địa phương cả thành thị và một số vùng nông thôn . Tuy nhiên, hiện nay chủ yếu vẫn xuất khẩu dưới dạng gia công đặt hàng, giấ trị gia tăng thấp. Mối liên kết trong ngành còn yếu. Nguyên nhân chủ yếu là do công nghệ yếu kém dẫn đến chất lượng không đạt yêu cầu, trình độ tiếp cận thị trường yếu kém , vẫn dựa vào đối tác gia công. Môi trường đầu tư cũng như môi trường kinh doanh cũng còn nhiều bất cập , chưa tạo động lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực tư nhân phát triển. - Ngành công nghiệp cơ khí và công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin là những ngành có công nghệ cao, đồng thời cũng thu hút nhiều lao động , đặc biệt những lao động có kỹ năng . Trong những năm vừa qua đã phát triển công nghiệp lắp ráp như lắp ráp ô tô, xe máy và điện tử tiêu dùng. Đây cũng là những ngành công nghiệp thu hút nhân công với trình độ kỹ thuật cao hơn. Tuy nhiên mới đang trong giai đoạn đầu, chưa tạo được cơ sở sản xuất linh kiện, phụ tụng trong nước gắn với công nghiệp lắp ráp, hình thành mạng lưới các doanh nghiệp vừa và nhỏ gắn với ngững công ty lắp ráp quy mô lớn, do đó hiệu quả chưa cao, chưa thiết lập được sự phân công lao động nhầm phát triển bền vững , nâng cao được khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. -Các ngành công nghiệp có công nghệ cao đang hình thành theo hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp từ những ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động gới công nghệ cao . Đó là các ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, khởi đầu từ việc lắp ráp đã thu hút đầu tư một số cơ sở sản xuất linh kiện và thiết bị như sản xuất mạch in, bóng hình , tổng đài số … Công nghiệp phần mềm cũng bước đầ phát triển, trước hết là những phần mềm ứng dụng. Chương trình công nghệ thông tin đã triển khai trên toàn quốc, ttrước hết trong hệ thống quản lý, kế toán. Hiện nay đang triển khai xây dựng các khu công nghệ cao trên 2 miền Nam - Bắc , nhằm gắn kết nghiên cứu triển khai với sản xuất và đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng. c. Các ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện , nước. Nhóm này được xem là cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghiệp, do đó được chú trọng đầu tư phát triển . Tốc độ tăng trưởng trong những năm qua đã đạt bình quân khảng 13,7% năm. Về điện đã phát triển nguồn kết hợp thuỷ điện với nhiệt điện, đặc biệt sử dụng nguồn khí đốt, đến nay đã đạt sản lượng 23,8 tỷ kwh(năm 1999). Về lưới điện cũng được đầu tư đảm bảo cung cấp điện cho nhiều vùng kinh tế quan trọng và lưới điện nông thôn, một số vùng sâu vùng xa. Nguồn nước cũng được đầu tư tăng lượng nước cung cấp cho các đô thịi, cho các khu công nghiệp. Kết luận về tình hình phát triển chung. Phát triển công nghiệp trong những năm qua đã đạt nhiều thành tựu và đã đóng gốp lứon cho tăng trưởng của nền kinh tế, tuy nhiên nhìn chung vẫn đang ở điểm xuất phát thấp , sức cạnh tranh công nghiệp còn nhiều yếu kém, nhiều thách thức trong việc gia nhậptt khu vực và thế giới trong môi trường tự do hoá. 1.3. Thực trạng cơ cấu công nghiệp . a. Về cơ cấu ngành . Một số ngành công nghiệp đã được Chính phủ tập trung phát triển bằng các chính sách ưu đãi. Trong đó trước hết là dầu khí, điện lực, khai thác than, thép, vật liệu xây dựng, hoá chất. Những ngành này được sắp xếp trong các Tổng công ty mạnh (Tổng công ty 91), được ưu tiên vốn, bảo hộ trong nước, được ưu tiên huy động các nguồn vốn từ bên ngoài. Một số ngành khác được xác định chính sách ưu tiên cho xuất khẩu, trong đó phải kể đến công nghiệp da giầy , dệt may, chế biến nông lâm hải sản, thu lại các khởn ngoại tệ đáng kể. Nhiều ngànhcn mới xuất hiện như ô tô , xe máy, sản xuất hàng điện tử, linh kiện cho điện tử và công nghiệp khai thác đã thúc đẩy xuất hiện các ngành dịch vụ phát triển mạnh. Có thể nói sự xuất hiện hàng loạt ngành công nghiệp nhờ quá trình đầu tư và chuyển giao công gnhệ từ các nước phát triển đã tạo dựng cho Việt Nam một cơ cấu công nghiệp khác trước. Sự phát triển của các ngành công nghiệp được biểu hiện như sau : Bảng 10- Tỷ trọng các ngành công nghiệp trong tổng GDP công nghiệp. Đơn vị : % Ngành công nghiệp 1991 1995 2000 Chung cho toàn ngành 100 100 100 Trong đó: - Khai thác 15.1 13.5 13.41 - Chế biến 77.42 80.5 80.55 - Điện , nước 7.53 6.0 6.04 - Công nghiệp khai thác có xu hướng giảm tương đối trong cơ cấu công nghiệp là do công nghiệp chế biến tăng nhanh hơn cùng thời kỳ. Trong công nghiệp khai thác, đáng chú ý là ngành khai thác dầu mỏ. Triển mọng của ngành này sẽ tăng nhanh trong những năm tới, tạo cơ sở cho sự phát triển các ngành công nghiệp khai thác như điện hoá chất, phân bón. - Cơ cấu trên cho thấy công nghiệp chế biến đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống công nghiệp Việt Nam. Ngành này bao gồm: + Nhóm ngành sử dụng nguyên liệu từ nông, lâm, thuỷ hải sản chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 30% giá trị sản xuất công nghiệp năm1998). Tiếp đến là một số sản phẩm khác như gạo, cà phê, chè,… Tuy nhiên, sản phẩm của nhóm ngàng này phần lớn chỉ ở khâu sơ chế. Tỷ trọng nguyên liệu nông sản chế biến sâu cồn thấp, khoảng 30%. + Nhóm ngành sử dụng nhiều nhân công như dệt may, da giầy, chế biến thực phẩm,… chiếm trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp. Nổi bật là nhám dệt may và da giầy. Nhóm này phân bố khá rộng rãi, thu hút nhiều lao động và vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu phát triển theo hướng xuất khẩu và trở thành một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất . + Nhóm ngành lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử cũng là những ngành sử dụng nhiều nhân công có kỹ thuật cao. Tuy vậy, nhóm này chưa tạo rađược sự gắn kết giữa lắp ráp với chế tạo linh kiện, phụ tùng và có thể tham gia vào mạng lưới sản xuất trong khu vực. + Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước chiếm khoảng 6% giá trị sản lượng công nghiệp. Những năm gần đây Nhà nước đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước đảm bảo mở rộng phạm vi cung cấp điện nước tới các vùng của đất nước. b. Về cơ cấu theo vùng lãnh thổ. Bảng 11- Cơ cấu giá trị công nghiệp theo vùng Đơn vị : % 1995 1996 1997 1998 1999 Cả nước 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Đồng bằng Sông Hồng 17.0 16.9 17.5 17.7 17.5 Đông Bắc 6.7 6.6 6.7 7.0 6.9 Tây Bắc 0.3 0.3 03 0.3 0.3 Bắc Trung Bộ 3.6 3.4 3.3 3.2 3.1 Duyên hải Nam trung Bộ 4.8 4.7 4.8 4.8 4.7 Tây Nguyên 0.6 0.6 0.6 0.6 0.6 Đông Nam Bộ 50.0 51.0 50.8 50.9 51.8 Đồng bằng SCL 11.8 11.1 10.6 10.2 9.5 Không phân tỉnh 5.2 5.4 5.4 5.4 5.4 Nhìn chung cơ cấu vùng còn mất cân đối, nhất là 4 vùng: Tây Bắc, Duyên hải Nam trung Bộ,Tây Nguyên, và Đồng bằng SCL. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để khuyến khích đầu tư vào các vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên do cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn bất cập nên cơ cấu theo vùng vẫn chưa dược cải thiện nhiều. Một số vùng phát triển được các khu công nghiệp chủ yếu vẫn dựa vào các lợi thế về tài nguyên hoặc thu hút được đầu tư nhờ nguồn lao động phổ thông trẻ . Các số liệu về cơ cấu công nghiệp theo vùng cho thấy chỉ có 2 vùng tập trung phát triển mạnh chiếm tới trên 70% gía trị công nghiệp. Đặc biệt các tỉnh Đông nam Bộ đã chiếm tới trên 50% giá trị toàn ngành trong khi đó xu hướng tiêps tục tăng làm cho khoảng cách kinh tế- xã hội giữa các vùng càng xa thêm. c. Về cơ cấu theo thành phần kinh tế. Chính sách mở cửa và tự do kinh tế đã kéo theo sự thay đổi rõ nét cơ cấu các thành phần kinh tế. Để thích ứng với cơ chế mới, bước vào thời kỳ 1991-1996 khu vực doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại nhiều lần. Điều đáng chú ý là việc hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn dưới dạng các tổng công ty theo quyết định 90, 91/Chính phủ ngày 07 tháng 03 năm 1994. Theo đó , số doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước từ 2.782 doanh nghiệp năm 1991 xuống còn 2.010 năm 1996 , số lượng các hợp tác xsx tiểu thủ công nghiệp từ 32.034 năm 1998 xuống còn 5.723 cơ sở năm 1992 và 1.729 naưm 1995. Các biện pháp khuyến khích khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển đã và đang phát huy hiệu quả. Số doanh nghiệp tư nhân sản xuất công nghiệp tăng từ 770 năm 1990 lên 959 năm 1991 và 5.152 năm 1995 . Đến 1996 có gần 8.000 công ty TNHH , 200 công ty cổ phần với số vốn hoạt động trên 10.000 tỷ đồng . Đồng thời, từ khi có luật đầu tư nước ngoài, loại hình doanh nghiệp này cũng tăng nhanh ửo Việt Nam. Sự biến đổi cơ cấu thành phần kinh tế thể hiện rõ nét ở sự thay đổi tỷ trọng các thành phần trong cơ câú giá trị sản lượng ngành công nghiệp. Trong 10 năm 1990-2000 , tỷ trọng của công nghiệp Nhà nước trong giá trị sản lượng ngành công nghiệp liên tục giảm xuống. Sau khi có Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân , các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh , giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh năm 1989 giảm 4,33%, năm 1990 giảm 0,7% , nhưng đến 1991 tăng trở lại ở mức 7,48% và năm 1995 tăng 16,88%. Trong thời kỳ này kinh tế tập thể của thời bao cấp cũ giảm bình quân 28,79% năm, trong khi đó kinh tế tư nhân và cá thể tăng bình quân lần lượt là 47,8% và 12,13%. Mặc dù vậy , tỷ trọng sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh trong nước giảm mạnh từ 31,13% năm 1990 xuống còn 22% năm 1998 và 20,42% năm 2000 .Như vậy, công nghiệp ngoài quốc doanh có tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn so với bình quân toàn ngành nên tỷ trọng trong toàn ngành vẫn giảm. Điều đó cho thấy các chính sách hỗ trợ vẫn chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh công nghiệp. Trong khoảng 10 năm 1990-2000, tốc độ phát triển công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22,28%. Tỷ trọng công nghiệp từ nguồn FDI tăng từ gần 10% năm 1990 lên 31,82% năm 1998 và tốc độ tăng năm 2000 là 35,85%, làm cho tỷ trọng công nghiệp trong nước giảm từ hơn 90% năm 1990 xuống còn khoảng 64% năm 2000. Bảng 12 – Tỷ trọng công nghiệp theo thành phần kinh tế Đơn vị : % Thành phần kinh tế 1990 1995 1998 2000 Doanh nghiệp Nhà nước 58.8 50.29 46.18 43.72 Ngoài quốc doanh 31.13 24.62 22.00 20.42 Doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài. 9.99 25.09 31.82 35.85 1.4. Thực trạng chính sách chuyển dịch cơ cấu theo hướng xuất khẩu trong tiến trình phát triển công nghiệp Đẩy mạnh công nghiệp theo hướng xuất khẩu là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX. Để có sự đánh giá chuyển dịch tính tích cực về chính sách công nghiệp theo hướng xuất khẩu, có thể xem xét biểu số liệu sau : Bảng 13 – Tình hình xuất khẩu một số sản phẩm chủ yếu qua các năm. Đơn vị : Tr.USD Stt Sản phẩm 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 1 Dầu thô 806 844 867 1033 1346 1432 1250 1675 2000 2 Dệt may 221 335 554 847 1150 1349 1350 1500 1800 3 Giầy dép 16,8 68 115 280 530 965 960 1100 1500 4 Điện tử 0 0 0 20 100 450 480 650 750 5 Than 62 52 75 89 114 110 100 100 100 Các sản phẩm tham gia xuất khẩu trước năm 1992 chỉ có hàng dệt may, giầy dép và dầu thô với trị giá chừng 750 Tr.USD, nhưng từ sau đó, nhờ đầu tư đổi mới công nghệ, đến năm 1995, danh mục hàng xuất khẩu tăng rõ rệt. Đến 1998, giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp tăng 6 lần so 1992, đạt 4,5 tỷ USD.Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, tỷ lệ nội địa hoá hàng xuất khẩu còn thấp, giá trị xuất khẩu tăng nhanhở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu năm 1991 mưói dạt 52 Tr.USD thì 1995 đã đạt 440 Tr.USD và năm 1998 là hơn 2 tỷ USD, chiếm 21% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước năm đó. Để thực hiện hướng mạnh vào xuất khẩu, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương chính sách, đặc biệt là xây dựng các KCN, KCX . Năm 1991 KCX đầu tiên ở Việt Nam ra đới, năm 1994 ra đời KCN đầu tiên . Đến năm 1998 đã có quy hoạch của 67 KCN và KCX được phê duyệt. Trong số 58 KCN đã thành lập, trừ KCN Dung Quất và Hoà Lạc , có 38 khu ở miền Nam, 13 khu ở miền Bắc và 7 khu ở miền Trung, chỉ có 16 khu được đầu tư cơ sở hạ tầng mới, 35 khu đã có dự án FDI đầu tư, hiệu quả sử dụng đất là 21,7% diện tích đất được cho thuê. Tính đến năm 1998 có 450 dự án được cấp giấy phép nẳmtong các KCN, với tổng số vốn đăng ký là 6.023.000.000.USD và diện tích triển khai các dự án là 1.557 ha so vơí tổng diện tích 6.983 ha đã đầu tư cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất ở các KCN còn thấp, do thành lập quá nhiều và do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực làm giảm tốc độ đầu tư , nhưng các KCN đã có mức độ hấp dẫn các nhà đầu tư, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm, góp phần đáng kể cho nền kinh tế đất nước. Các KCN, KCX đã thu hút trên 100.00 lao động, đóng góp 11% giá trị xuất khẩu của cả nước. 2. Những tồn tại trong sự phát triển công nghiệp và chính sách công nghiệp giai đoạn (1990-2000). 2.1. Đánh giá tổng quát thực trạng hệ thống công nghiệp. a. Công nghệ lạc hậu, không sử dụng hết công suất thiết bị, năng suất thấp. Các doanh nghiệp công nghiệp nhìn chung có trình độ công nghệ lạc hậu từ hai đến ba thế hệ, tỷ lệ công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm từ 60-7-%, ở vào mức trung bình yếu so với các nước đang phát triển. Tốc độ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam khoảng 7- 8% năm. Khả năng chuyển giao công nghệ qua đầu tư nước ngoài chưa nhiều. Năng lực nội sinh về công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu. Nghiên cứu triển khai chưa gắn với sản xuất. Những ngành công nghiệp kỹ thuật cao chậm phát triển. Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Một số ngành không sử dụng hết công suất thiết bị do thiếu nguyên liệu hoặc do tiêu thụ khó khăn. Việc sắp xếp lại sản xuất tiến hành chậm, chưa xử lý dứt điểm tình trạng xí nghiệp làm ăn thua lỗ trong các doanh nghiệp Nhà nước.Những liên kết trong một cơ cấu công nghiệp có hiệu quả chưa được hình thành, còn thiếu các ngành công nghiệp cơ bản như công nghiệp chế tạo nguyên liệu, công nghiệp hỗ trợ. Công nghiệp cơ khí và điện tử còn nhỏ bé chưa làm được vai trò thúc đẩy trong nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp theo hướng xuất khẩu mới hình thành bước đầu , chưa đúng với ý ngiã của nó và thực chất mới chỉ làm mhiệm vụ thay thế nhập khẩu. Những ngành công nghiệp đóng góp cho tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu là công nghiệp khai thác tài nguyên . Tỷ trọng giá trị gia tăng của các sản phẩm chế biến còn thấp (trên dưới 20%).Mức tiêu hao năng lượng cho một đơn vị sản phẩm còn cao (từ 1,2-1,5 lần).Sản phẩm đơn điệu, chất lượng kém, không ổn định, chi phí cao nên khả năng cạnh tranh kém, nhiều sản phẩm có nguy cơ mất thị trường trong nước như xe đạp, quạt điện, động cơ diezel. Kết cục của tình trạng trên làm cho năng suất lao động trong công nghiệp vẫn là rất thấp kém. Nếu so với Philipin là nước có năng suất thấp nhất trong 6 nước ASEAN thì năng suất công nghiệp của họ vânx cao hơn Việt Nam từ 3-4 lần . Năng suất lao động công nghiệp – Năm 1996(USD/năm/người) Philipin 3.500-4.000 Singapo 24.000-25.000 Việt Nam 1.300 b. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp còn thấp, thị trường tiêu thụ còn khó khăn ngay cả ở trong nước . Hiện nay, đánh giá về khả ngăng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp có thể chia thành 3 nhóm chính : - Nhóm hàng có khả năng cạnh tranh. Gồm các sản phẩm da giầy, sản xuất vật liệu phi kim loại và chế tạo thiết bị phi tiêu chuẩn hoá. nhìn chung, đây là những hàng hoá sử dụng nhiều lao động, đầu tư nước ngoài và năng lực sản xuất trong nước đang tăng lên nhanh chóng . - Nhóm hàng có khả năng cạnh tranh trung bình. Nhóm này gồm các sản phẩm dệt may, cơ khí chế tạo, thiết bị điện, điện tử tin học, hoá chất, công nghiệp sản xuất giấy, sứ và thuỷ tinhm nước giải khát, bia và nước ngọt, sản xuất sữa, chế biến dầu thực vật, khai thác và chế biến khoáng sản. Nhìn chung, nếu đước bảo hộ, nhóm hàng này sẽ nâng được sức cạnh tranh trong tương lai. - Nhóm hàng có năng lực cạnh tranh thấp là sản xuất thép. Mhư vậy, những sản phẩm công nghiệp của Việt Nam có năng lực cạnh tranh còn ít. Phần lớn là những sản phẩm có khả năng nếu được bảo hộ. Vấn đề này đặt ra cho chính sách bảo hộ cho công nghiệp Việt Nam như thế nào trong điều kiện hội nhập. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, vừa qua Nhà nước tập trung thí điểm mô hình tổng công ty 90, 91. Giải pháp đó đã góp phần làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh cho một số ngành quan trọng, đặc biệt là các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia và thắng thầu ở một số công trình đấu thầu quốc tế. Tuy nhien, việc hình thành theo giải pháp ”cú huých từ bên ngoài” lại ồ ạt nên nhiều tổng công ty thực chất chỉ là sự cộng gộp giản đơn từ nhiều doanh nghiệp nhỏ lại mà chưa có được mô hình tổ chức quản lý phù hợp và hiệu quả. Các quan hệ tài chính và thị trường chưa được thiết chế khoa học dẫn đến ỷ lại, thụ động, thậm chí là không gắn bó với nhau trong kinh doanh . Do khả năng cạnh tranh hạn chế, thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp ngay ở trong nước cũng gặp khó khăn. Giai đoạn 1991 đến 1995 thị trường trong nước tăng mạnh do quá trình chuyển từ tiết kiệm sang tiêu dùng của dân cư. Sức mua đó giảm mạnh vào giai đoạn 1996-2000. Mặt khác, tháp phân bố nhu cầu ở Việt Nam là khá nhọn, bởi thế sức mua tổng thể thấp. Trong khi đó, các nhà sản xuất lại kém nhạy cảm với thị trường. Quá trình đổi mới công nghệ vốn rất hạn chế lại mới chỉ dừng lại ở nỗ lực thay đổi tính hữu dụng đặc trưng của sản phẩm nên các yếu tố phát triển và giá trị tăng thêm của sản phẩm là ít, thiếu sức cạnh tranh trên thị trường . Thời kỳ 1991-2000, một số ngành công nghiệp tiêu dùng không được chú trọng đầu tư , gỏ ngỏ cho các nhf cạnh tranh cước ngoài thâm nhập thị trường . Đa số các sản phẩm hiện diện trên thị trường đèu không thuộc nhóm dẫn đầu, nhóm có sức mua lớn với giá mua cao, mà chỉ ở nhóm có mức giá trung bình và thấp. ở mức này hàng hoá nhập từ Trung Quốc theo con dường phi mậu dịch trở thành đối thủ không cân sức. c. Nguồn nguyên liệu bị phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài , nguồn trong nước chưa được khai thác hiệu quả . Việc xuất hiên nhiều ngành kỹ thuật mới hòi hỏi ;hải có hệ thống nguồn nguyên liệu đầu vào thích hợp, tuy nhiên do thiếu vốn đầu tư nên các cơ sở nguyên liệu chưa đươc xây dựng. Do đó hầu hết nguyên liệu phải ngập ngoại với giá đầu vào cao nên trong nhiều trường hợp thực cháat chỉ là gia công cho các tổ chức kinh doanh nước ngoài với tiền công thấp mà thôi. ậ đây cơ cấu giữa công nghiệp chế biến với công nghiệp đầu vào còn chưa hợp lý. d. Sự phối hợp hệ thống quản lý công nghiệp còn thiếu đồng bộ Vấn đề lớn của hệ thống công nghiệp đang bộc lộ là cơ chế chủ quản doanh nghiệp chưa rõ ràng. Tiết chế gắn quản lý theo ngành và theo địa phương vùng lãnh thổ đang làm cho hệ thống quản lý bị chồng chéo, đồng thời việc hình thành các tổng công ty mạnh lại làm xuất hiện các đầu mối chủ quản mới. Một số doanh nghiệp trong các tổng công ty 91 không còn thuộc bộ quản lý ngành và trên thực tế không rõ ai là đại diện chủ sở hữu đích thực. Trong khi đó sự phối hợp giữa các bộ chưa chặt chẽ. 2.2. Đánh giá về chính sách công nghiệp a. Về chính sách cơ cấu công nghiệp . - Có thể nói, cơ cấu ngàng kinh tế kỹ thuật của công nghiệp Việt Nam đến nay là bất hợp lý. Sự không hợp lý ở đây thể hiện trên 2 mặt. Một mặt, là sự phát triển quá dàn trải trên mọi ngành kinh tế – kỹ thuật, mội ngành công nghiệp đều có ở Việt Nam nhưng lại không có một ngành nào trở thành thế mạnh để tạo được hình ảnh trên thương trưởng, ngay cả ở thị trường trong nước. Mặt khác, các ngành công nghiệp nặng lậi tập trung phát triển quá khả năng và không còn phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế đã gây nên sự lãng phí về nguồn lực. Có thể đánh giá chung đây là một cơ cấu công nghiệp dàn trải, thiếu mũi nhọn và kém hiệu quả. - Cơ cấu quy mô. Công nghiệp Việt Nam không có các cơ sở có quy mô lớn mà chủ yếu ở dạng quy mô vừa, do một thời gian dài Việt Nam chỉ phát triển công nghiệp quốc doanh . Kể từ khi đổi mới, vắt đầu xuất hiện các doanh nghiệp nhỏ của tư nhân và cơ cấu quy mô thay đổi khá rõ nét theo hướng tăng cacs doanh nghiệp nhỏ. Do đó , cần thiết phải có chính sách phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phát triển mạnh công nghiệp ở các vùng nông thôn, miền núi đểthúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn, tạo sự phát triển cân đối cơ cấu vùng. Đây là hướng lâu dài để giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề đô thị hoá và sự quá tải của các thành phố lớn. - Cơ cấu sở hữu công nghiệp Tong suốt thời gian dài phủ nhận sở hữu tư nhân dẫn đến các nguồn lực tư nhân không được huy dộng vào sản xuất công nghiệp. Kể từ khi có chính sách đổi mới, cơ cấu này đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ chưa kịp thời và đồng bộ nên khu vực tư nhân còn rất hạn chế. Khu vực này cần được đặc biệt khuyến khích phát triển mới có thể nhanh chóng tham gia giải quyết các vấn đề việc làm cũng như tạo nên sức sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế . - Cơ cấu tổ chức cơ sở công nghiệp . Nền kinh tế tập trung đã tạo ra một tâm lý “tự chủ” thái quá dẫn đến các doanh nghiệp có xu hướng được tổ chức theo kiểu “khép kín”. Kiểu cơ cấu này làm cho doanh nghiệp lớn mà không mạnh, chậm có cơ hội đầu tư đổi mới, tính chuyên môn hoá bị gi phạm và cuối cùng là chất lượng thấp. Sự đánh giá này là rất cần thiết để có thể hoàn chỉnh một chính sách phát triển công nghiệp trong tương lai, bởi vì tư duy kiểu “khứp kín” quá trình sản xuất công nghiệp trong một doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến. b. Về chính sách lựa chọn sản phẩm trong phát triển công nghiệp. Thực hiện chủ trương xây dựng một nền kinh tế tự lập tự cường, trong suốt một thời gian dài chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được coi như nền tảng của chính sách công nghiệp. Đặc biệt chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng lại được phát động trong hoàn cảnh nền kinh tế khan hiếm các nguồn lực. Chính sách này làm cho đầu tư tập trung vào các ngành mà quá trình sinh lợi chậm, hơn thế nữa, khan hiếm các nguồn lực thì công nghệ của nó ở mức độ thấp, thiếu đồng bộ và kết quả là nền kinh tế được trang bị các tư liệu sản xuất có trình độ kỹ thuật thấp kém. Điều đó tất yếu dẫn đến tình trạng là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tạo ra các sản phẩm chất lượng thấp, không thực hiện được ngay cả chính sách thay thế nhập khẩu. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh đầu tư để phát triển khu vực công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, dịch vụ công nghiệp để nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển thị trường. c. Về các chủ thể quyết định cho sự phát triển công nghiệp Việt Nam. Qua thăm dò ý kiến chuyên gia thì 85% cho rằng Chính phủ giữ vai trò quyết định sau đó là người gỏ gốn, các tổ chức và cá nhân nước ngoài và cuối cùng đến các hiệp hội ngành. Điều này phản ánh trong phát triển công nghiệp, thương mại của Việt Nam hiện nay, khu vực Nhà nước vẫn đóng vai trò chi phối. Đúng là Chính phủ là người đóng vai trò quyết định nhất trong việc hoạch định chính sách công nghiệp. Song trong sự phát triển của bản thân ngành công nghiệp thì loại hình doanh nghiệp nào đóng vai trò quan trọng nhất ? Thực tiễn hoạt động của công nghiệp Việt Nam trong những năm qua cho thấy, trong lĩnh vực công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư cước ngoài tại Việt Nam là các loại hình doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn thu hút lao động làm việc nhiều hơn, sử dụng vốn có hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước. Trong khi đó môi trường chính sách và luật pháp cho sự phát triển của khu vực ngoài quốc doanh mặc dù đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam phải tính toán đến vấn đề này. e. Về lựa chọn bạn hàng thương mại với các nước Trong suốt thời gian dài, quan hệ thương mại Việt Nam gắn liền với một khu vực duy nhất dẫn đến sự lệ thuộc vào khu vực này. Chính sách ưu tiên thương mại với một khu vực đã vô hình chung đi ngược lại mong muốn phát triển tự chủ, không những thế, sự yếu kém của khu vực truyền thống trước đây (Liên xô và các nước ĐôngÂu) đã làm cho sản phẩm hàng hoá chậm đổi mới theo yêu cầu của tiêu dùng, ít khả năng tham gia các khu vực thị trường khác. Chính vì vậy, đẩy mạnh thương mại đa phương như là một phương thức hữu hiệu để phát triển công nghiệp. f. Về các chính sách và công cụ hỗ trợ phát triển công nghiệp. Hệ thống công nghiệp không thể vận hành tốt nếu thiếu hệ thống đồng bộ các chính sách hỗ trợ. Đây thực sự đang là vấn đề rất cần được nghiên cứu tháo gỡ để thúc đẩy công nghiệp phát triển. Hiện nay, những chính sách này của Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, cải cách bước đầu để phù hợp với điều kiện đổi mới nền kinh tế, chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Một số chính sách đang được quan tâm đó là : - Chính sách vốn. - Chính sách công nghệ. - Chính sách đào tạo nguồn nhân lực. - Chính sách thuế quan. 3. Các giải pháp của Chính phủ đã thực hiện để phát triển công nghiệp . 3.1. Điều chỉnh thể chế- chính sách kinh tế vĩ mô. Giai đoạn vừa qua, trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội10 năm 1991-2000, Chính phủ đã thực hiện một loạt những biên pháp điều chỉnh thể chế kinh tế và các chính sách kinh tế vĩ mô. Những cải cachs đó đã tạo ra động lực lớn cho sự phát triển của toàn nền kinh tế cũng như cho sự phát triển của công nghiệp. Thể chế chính sách kinh tế được điều chỉnh theo những hướng cơ bản sau : - Khẳng định và hình thành thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quyết định tạo ra sự chuyển biến lớn trong toàn bộ các hoạt động kinh tế-xã hội . - Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Giải pháp chính sách này đã mở rộng điều kiện huy đông các nguồn lực phát triển, phát huy nội lực tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, trong đó dặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp có sơ hội phát triển. - Tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế. 3.2. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Chính phủ đã triển khai nghiên cứu điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ cjả khu vực công nghiệp và dịch vụ., trên giác độ tổng thể nền kinh tế quốc dân. Riêng đối với công nghiệp các chính sách được hướng vào sự phát triển các ngành công nghiệp có tiềm năng phát triển, có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao, giải quyết nhiều lao động, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng công nghiệp tạo đà cho sự phát triển của công nghiệp. Có thể nói cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu công nghiệp được điều chỉnh theo hướng hướng mạnh về xuất khẩu, đa phương hoá trong các hoạt động kinh tế nói chung và kinh doanh công nghiệp nói riêng. 3.3. Tăng cường cơ sở luật pháp, đảm bảo kiệu lực của pháp luật. - Xây dựng và hình thành về cơ bản khuôn khổ pháp lý, ban hành các luật, pháp lệnh (Luật doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài,…). - Tiến hành cải cách hành chính theo hướng hoàn thiện các thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cán bộ, công chức bộ máy quản lý Nhà nước đảm bảo thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung cũng như chính sách phát triển công nghiệp. 3.4. Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Một trong những vấn đề quan trọng Chính phủ đã và đang làm để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền công nghiệp Việt Nam là cơ cấu lại và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực này hiện nay đang nắm giữ phần lớn tài sản, lao động kỹ thuật của ngành công nghiệp quốc goa, giữ vai trò chủ đạo trong các thành phần kinh tế. Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp công nghiệp nói riêng nhằm tăng tính tự chủ của doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP CHO CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN (2001-2020) I. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG. 1. Xu hướng đẩy mạnh phát triển công nghiệp Việt Nam trong những năm tới. Việt Nam đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 về cơ bản là một nước công nghiệp. Công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh mới. Có 3 vấn đề đối với Việt Nam trong quá trình phát triển nền công nghiệp của mình. - Một là, quá trình đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật và thế giới bước vào thời kỳ kinh tế tri thức, trong đó có nhiều nước trên thế giới đã trở thành nước công nghiệp phát triển,nhiều cước đi vào giai đoạn hậu công nghiệp. Chính điều này vừa tạo ra cơ hội cho nước ta có thể tiếp thu được những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhất của thế giới để đi nhanh, phát triển rút ngắn, nhưng cũng tạo ra thách thức, nguy cơ cho sự tụt hậu, nếu ta không tận dụng dược những thành tựu khoa học hiện đại đó. - Hai là, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, hội nhậpkt thế giới và khu vực đã tạo nên một mặtbằng về cơ hội đẩu tư, thương mại và chuyển giao công nghệ giữa các nước, đồng thời cũng là một thách thức đối với các nước. Cơ hội mới cho Việt Nam là có thể tranh thủ được cốn, khoa học công ngệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý các nước đi trước. Song những thách thức đặt ra cũng rất lớn. Bởi lẽ, hội nhạp quốc tế là quá trình đòi hỏi Việt Nam phải loại bỏ dần các hàng rào thuế quan trong thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước từ mức thấp đến mức cao. Chẳng hạn theo cam kết đến 2006 để tham gia vào AFTA, Việt Nam phải chấp nhận các mức thuế quan từ 0% đến 5% cho hàng hoá của các nước nhập vào Việt Nam, đồng thời, hàng hoá của Việt Nam cũng được hưởng những quy định như vậy khi xuất khẩu vào các nước thành viền trong khối. Trong bối cảnh trình độ sx, kinh doanh của Việt Nam còn thấp, phải dựa vào sj bảo hộ của hàng rào thuế quan để tồn tại thì những quy định đó là sự thách thức rất lớn đối ới các doanh nghiệp Việt Nam. - Ba là, Việt Nam đẩy mạnh jpt công nghiệp trong điều kiện về cơ bản vẫn còn là một nước công nghiệp lạc hậu. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Việt Nam đã coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương để ccn hoá cần ưu tiên jpt công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đến Đại hội VIII, Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Với đường lối công nghiệp hoá đó, 40 năm qua Việt Nam đã có đươc một số thành tựu nhất định trong phát triển công nghiệp, tạo lâpj được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Chính vì vậy việc đẩy mạnh công nghiệp hoá của Việt Nam ở giai đoạn hiện nay hông phải là từ chỗ chưa có gì, từ số không để đi lên. Tuy nhiên, thức tế chỉ ta là, qua 40 năm, những bước tiến về sự phát triển công nghiệp cồn rất chậm, sự thành công của chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Xuất thân từ một nước nông nghiệp, sau 40 năm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến nay 76% dân số Việt Nam vẫn sống trong nông thôn, vẫn là người nông dân sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc. Trên pjhạm vi quốc tế, Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển. 2. Mô hình chính sách công nghiệp Việt Nam đến 2020. 2.1.Mục tiêu và định hướng chung của chính sách công nghiệp thương mại là đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào naưm 2020. Đây là mục tiêu do Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam làn thứ VIII đặt ra và sẽ được khẳng định tiếp tục trong Đại hội IX. Để trở thành một nước công nghiệp, vấn đề quan trọng hàng đầu của nền kinh tế là tập trung chuyển dịch được cơ cấu ngành kinh tế theo hướng taưng nhanh tỷ trọng công nghiệp kể cả về giá trị và về lao động. Theo cách phân loại hiện nay của thế giới, nước công nghiệp là nước có tỷ trọng sản xuất công nghiệp chiếm hơn 60%

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Phân tích thực tiễn và một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001- 2020.pdf
Tài liệu liên quan