Tài liệu Luận văn Phân tích tác động của các yếu tố môi trường ngành tác động lên doanh nghiệp: SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
1
Luận văn
Phân tích tác động của các yếu tố
môi trường ngành tác động lên
doanh nghiệp
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện biến động của môi trường kinh doanh hiện nay, hơn bao
giờ hết, chỉ có một điều mà các công ty có thể biết chắc chắn, đó là sự thay
đổi. Quá trình quản trị chiến lược như là một hướng đi, một hướng đi giúp
các tổ chức này vượt qua sóng gió trên thương trường, vươn tới một tương lai
bằng chính nỗ lực và khả năng của mình. Đây là kết quả của sự nghiên cứu
khoa học. Đây là kết quả của sự nghiên cứu khoa học trên cơ sở thực tiễn
kinh doanh của rất nhiều công ty. Quản trị chiến lược giúp cho một tổ chức
có thể chủ động hơn thay vì bị động trong việc vạch rõ tương lai của mình, nó
cho phép tổ chức có thể tiên phong và gây ảnh hưởng trong môi trường nó
hoạt động. Chính vì lẽ đó em chọn đề tài: “Phân tích tác động của các yếu
tố môi trường ngành tác động lên doanh nghiệp.” Đây là m...
27 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích tác động của các yếu tố môi trường ngành tác động lên doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
1
Luận văn
Phân tích tác động của các yếu tố
môi trường ngành tác động lên
doanh nghiệp
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện biến động của môi trường kinh doanh hiện nay, hơn bao
giờ hết, chỉ có một điều mà các công ty có thể biết chắc chắn, đó là sự thay
đổi. Quá trình quản trị chiến lược như là một hướng đi, một hướng đi giúp
các tổ chức này vượt qua sóng gió trên thương trường, vươn tới một tương lai
bằng chính nỗ lực và khả năng của mình. Đây là kết quả của sự nghiên cứu
khoa học. Đây là kết quả của sự nghiên cứu khoa học trên cơ sở thực tiễn
kinh doanh của rất nhiều công ty. Quản trị chiến lược giúp cho một tổ chức
có thể chủ động hơn thay vì bị động trong việc vạch rõ tương lai của mình, nó
cho phép tổ chức có thể tiên phong và gây ảnh hưởng trong môi trường nó
hoạt động. Chính vì lẽ đó em chọn đề tài: “Phân tích tác động của các yếu
tố môi trường ngành tác động lên doanh nghiệp.” Đây là một vấn đề hết
sức quan trọng mà doanh nghiệp cần phải nghiên cứu khi đưa ra các quyết
định chiến lược.
Kết cấu đề án gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về quản trị chiến lược
Chương II: Phân tích tác động của các yếu tố môi trường ngành lên
doanh nghiệp
Chương III: Thực trạng quản trị chiến lược hiện nay
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Lê Văn Tâm đã nhiệt tình hướng dẫn
em nghiên cứu và hoàn thành đề án này.
Tuy nhiên do điều kiện thời gian hạn hẹp đồng thời kinh nghiệm bản thân
còn ít nên đề tài khó tránh khỏi những thiết sót. Rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để đề án được hoàn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
SINH VIÊN
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
3
Chương I. Tổng quan về quản trị chiến lược
Định nghĩa quản trị chiến lược:
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản trị chiến lược. Tôi xin
giới thiệu định nghĩa về quản trị chiến lược được sử dụng rộng rãi trong các
khoá đào tạo chuyên sâu về quản trị kinh doanh tại Anh, Mỹ… và được nhiều
nhà kinh tế chấp nhận: “Quản trị chiến lược là nghệ thuật và khoa học của
việc xây dựng, thực hiện và đánh giá các quyết định tổng hợp giúp cho mỗi tổ
chức có thể đạt được mục tiêu của nó.”
Nội dung cơ bản của quản trị chiến lược:
Nội dung cơ bản của quá trình quản trị chiến lược được chia ra làm ba giai
đoạn chủ yếu là hoạch định chiến lược, thực thi chiến lược và đánh giá chiến
lược.
1.Hoạch định chiến lược
Hoạch định chiến lược là quá trình đề ra các công việc cần thực hiện của
công ty, tổ chức những nghiên cứu để chỉ rõ những nhân tố chính của môi
trường bên ngoài và bên trong doanh nghiệp, xây dựng mục tiêu dài hạn, lựa
chọn trong số những chiến lược thay thế. Đôi khi giai đoạn hoạch định chiến
lược của quản trị chiến lược còn được gọi là lập kế hoạch chiến lược. Sự khác
biệt giữa quản trị chiến lược và lập kế hoạch chiến lược là quản trị chiến lược
bao gồm thêm cả thực thi chiến lược và đánh giá chiến lược.
Các bước công việc trong giai đoạn hoạch định chiến lược:
1) Chức năng nhiệm vụ: Chỉ ra vai trò, bản chất và nội dung cơ bản của
doanh nghiệp.
2) Đánh giá môi trường bên ngoài: Chỉ ra bản chất của việc đánh giá môi
trường bên ngoài, nội dung và công cụ đánh giá.
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
4
3) Đánh giá môi trường nội bộ: Bản chất của đánh giá nội bộ, công tác
đánh giá các mặt hoạt động chính của công ty.
4) Phân tích và lựa chọn chiến lược: Sử dụng các mô hình, kết hợp đánh
giá định tính và định lượng, chọn ra một mô hình chiến lược hợp lý
cho công ty
2. Thực thi chiến lược
Thực thi chiến lược được gọi là giai đoạn hành động trong quản trị chiến
lược. Thực thi có nghĩa là động viên những người lao động và ban giám đốc,
để biến những chiến lược được hoạch định thành hành động cụ thể. Ba công
việc chính của thực thi chiến lược là thiết lập các mục tiêu thường niên, các
chính sách cho các bộ phận, và phân bổ nguồn lực. Giai đoạn này thường được
coi là giai đoạn khó khăn nhất trong quản trị chiến lược, bởi nó không chỉ đòi
hỏi sự nhạy cảm, sự quyết tâm và cả sự hy sinh.
Các bước công việc trong giai đoạn thực thi chiến lược:
1) Đề ra quyết định quản trị: Đề ra mục tiêu thường niên, chính sách,
phân bổ nguồn lực, điều chỉnh cấu trúc, tạo dựng văn hoá công ty…
2) Triển khai chiến lược trong công tác marketing, tài chính kế toán,
nghiên cứu phát triển…: các quy định, chính sách trong công tác
marketing, tài chính kế toán, nghiên cứu hệ thống thông tin.
3. Đánh giá chiến lược
Giai đoạn cuối cùng trong quản trị chiến lược là đánh giá chiến lược. Vì
những nhân tố của môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp luôn biến
động nên mọi chiến lược đều có thể bị thay đổi trong tương lai.
Các bước công việc trong giai đoạn đánh giá chiến lược:
1) Xem xét lại chiến lược: Xem xét lại những nhân tố bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp được sử dụng làm cơ sở cho việc hoạch định chiến
lược hiện tại
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
5
2) Đánh giá lại chiến lược: Đánh giá mức độ thực hiện của tổ chức trong
thực tế
3) Thực hiện những sửa đổi cần thiết: Dựa vào kết quả hai bước trên, tiến
hành điều chỉnh, sửa đổi cần thiết…
Chương II. Phân tích tác động của các yếu tố môi trường ngành
lên doanh nghiệp.
Có một mô hình phân tích 5 lực lượng được M. Porter xây dựng đã giúp
các nhà chiến lược trong sự phân tích này. Mô hình này bao gồm 5 lực lượng:
Đối thủ cạnh tranh hiện tại, cạnh tranh tiềm ẩn, áp lực của các nhà cung ứng,
áp lực của người mua, sản phẩm dịch vụ thay thế.
Hiển nhiên là mỗi lược lượng trong số 5 lực lượng trên càng mạnh thì
càng hạn chế khả năng cho các doanh nghiệp tăng giá cả và kiếm được lợi
nhuận; ngược lại, khi một lực lượng nào đó, chẳng hạn các nhà cung cấp đầu
vào mà yếu thì cơ hội để doanh nghiệp có được lợi nhuận sẽ càng khả thi.
Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu các lực lượng đó.
1. Phân tích đối thủ cạnh tranh hiện tại
Lực lượng thứ nhất trong số 5 lực lượng của mô hình M. Porter là quy mô
cạnh tranh trong số các doanh nghiệp hiện tại của một ngành sản xuất. Nếu
các đối thủ cạnh tranh càng yếu, doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và
kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại
mạnh thí sự cạnh tranh về giá cả là đáng kể, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả
đều dẫn đến những tổn thương.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất thường bao
gồm các nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của
ngành và các hàng rào lối ra.
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
6
- Cơ cấu cạnh tranh của ngành dựa vào số liệu và khả năng phân phối sản
phẩm của doanh nghiệp trong ngành sản xuất. Cơ cấu cạnh tranh khác
nhau có các ứng dụng khác nhau cho cạnh tranh. Cơ cấu cạnh tranh thay
đổi từ ngành sản xuất phân tán tới ngành sản xuất tập trung. Thông
thường ngành riêng lẻ bao gồm 1 số lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
không có một doanh nghiệp noà trong số đó có vị trí thống trị ngành.
Trong khi đó một ngành tập trung có sự chi phối bởi một số ít các doanh
nghiệp lớn, thậm chí chỉ một doanh nghiệp duy nhất gọi là độc quyền.
Bản chất và mức độ cạnh tranh đối với các ngành tập trung rất khó phân
tích và dự đoán.
- Tình trạng cầu của một ngành là một yếu tố quyết định khác về tính mãnh
liệt trong cạnh tranh nội bộ ngành. Thông thường, cầu tăng tạo cho doanh
nghiệp một cơ hội lớn để mở rộng hoạt động. Ngược lại, cầu giảm dẫn
đến cạnh tranh khốc liệt để các doanh nghiệp giữ được phần thị trường đã
chiếm lĩnh. Đe doạ mất thị trường là điều khó tránh khỏi đối với các
doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh.
- Hàng rào lối ra là mối đe dọa cạnh tranh nghiêm trọng khi cầu của ngành
giảm mạnh. Hàng rào lối ra là kinh tế, là chiến lược và là quan hệ tình
cảm giữ doanh nghiệp trụ lại. Nếu hàng rào lối ra cao, các doanh nghiệp
có thể bị khoá chặt trong một ngành sản xuất không ưa thích. Hàng rào
lối ra thường bao gồm:
Đầu tư nhà xưởng và thiết bị của một số ngành, như ngành khai thác
khoáng sản, hoá chất không có sự lựa chọn thay đổi hoặc có thể bán lại
được. Nếu muốn bỏ ngành, buộc doanh nghiệp phải bỏ phí những giá trị
còn lại của những tài sản này.
Chi phí trực tiếp cho việc rời bỏ ngành là cao. Đó là các doanh
nghiệp không rời bỏ một ngành công nghiệp mà các chi phí trực tiếp khi
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
7
rời bỏ là khá cao, chẳng hạn như các chi phí định vị lại, các thủ tục hành
chính…
Quan hệ chiến lược giữa các đơn vị chiến lược kinh doanh. Đây
cũng là vật cản của sự rời bỏ một ngành đã kinh doanh. Một sản phẩm
hoặc một dịch vụ có thể có cùng kênh phân phối hoặc cùng các phương
tiện sản xuất với các sản phẩm dịch vụ khác.
Giá trị của các nhà lãnh đạo, quan hệ tình cảm, lịch sử với ngành
hoặc cộng đồng địa phương cũng có thể dẫn doanh nghiệp đến chỗ
không muốn rời bỏ ngành gốc của họ.
Chi phí xã hội khi thay đổi như khó khăn về sự sa thải nhân công,
rủi ro về sự xung đột xã hội, chi phí đạo tạo lại…
Vậy đối thủ cạnh tranh “ Họ là ai?”
Hãy xét ví dụ sau, bạn mở một trang Web để chào bán trò chơi Bingo trên
mạng. Đối thủ cạnh tranh của bạn sẽ là những trang Web Bingo khác, những
trang Web trò chơi khác, là các cửa hàng Bingo trải khắp đường phố, và có
thể là bất cứ dịch vụ nào đang cạnh tranh vì một số tiền tương tự
Làm thế nào để chiếm được phần to của chiếc bánh lợi nhuận? Có một
câu nói nổi tiếng của một nhà chỉ huy quân sự xưa và thường được áp dụng
trong kinh doanh: “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”.
Xác định vị trí của bạn
Cách hiệu qủa nhất để làm điều này là tiến hành phân tích ma trận SWOT
trong công việc kinh doanh của bạn. Hãy sử dụng một cái đầu có tầm bao
quát, “một cái bút và một tờ giấy” để lập ra một bảng biểu trong đó nêu bật
được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với công ty của bạn.
Đồng thời qua đó, bạn thấy rõ được vị trí của mình trong “bảng xếp hạng”.
Điều này sẽ giúp bạn xác định được những điều bạn cần cải thiện, và những
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
8
đặc điểm nào của công ty mà bạn cần tận dụng để dành được nhiều khách
hàng hơn.
Phân tích đối thủ cạnh tranh
Trước tiên bạn phải phân loại được đối thủ cạnh tranh: đối thủ chính, đối
thủ phụ, đối thủ gián tiếp và đối thủ tiềm năng. Bằng cách thu thập thông tin,
bạn sẽ xác định được đối thủ cạnh tranh thuộc loại nào, từ đó xây dựng các
chiến lược đối phó phù hợp. Tuy nhiên, thông tin nên được thu thập như thế
nào? Nguồn thông tin trong thế giới hiện nay thật vô cùng: báo, tạp chí,
Internet, khách hàng, hội chợ thương mại,… Trong đó, “khách hàng là một
kênh thông tin vô cùng quan trọng. Họ là người biết được giá cả của công ty
A thấp hơn so với công ty B, dịch vụ chăm sóc khách hàng của công ty B tốt
hơn công ty C. Doanh nghiệp cần biết cách khai thác nguồn thông tin này
một cách hiệu quả.”
Điều quan trọng, thông tin thu thập phải có trọng điểm, phù hợp và có thể
sử dụng được. Thu thập thông tin không thể sử dụng chỉ gây tốn kém công
sức, thời gian và tiền bạc. Thông tin sau khi thu thập xong phải được chọn lọc
để đảm bảo rằng chúng chính xác, cập nhật và điển hình.
Bây giờ bạn đã có đủ nguyên liệu để làm món ăn. Hãy sử dụng những
nguyên liệu thông tin đó để xây dựng hình thù món ăn và xác định mình sẽ ăn
nó như thế nào. Đó chính là lúc bạn nắm bắt được ma trận SWOT của đối thủ
cạnh tranh. Để thành công hãy tìm cách lợi dụng điểm yếu của đối thủ và tận
dụng điểm mạnh của mình.
2. Phân tích cạnh tranh tiềm ẩn
Lực lượng thứ hai cần phải phân tích và phán đoán đối với doanh nghiệp
là các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
9
nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất nhưng có khả
năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe doạ
cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản
các đối thủ tiềm ẩn muốn gia nhập ngành bởi vì càng nhiều doanh nghiệp có
trong một ngành sản xuất thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn, thị trường và lợi
nhuận sẽ bị chia sẻ, vị trí của doanh nghiệp sẽ thay đổi.
Mức độ thuận lợi và khó khăn cho việc gia nhập ngành của các đối thủ
cạnh tranh tiềm ẩn phụ thuộc phần lớn vào hàng rào lối vào một ngành công
nghiệp. Nội dung của nó thường bao gồm:
- Những ưu thế tuyệt đối về chi phí. Những ưu thế về chi phí thuộc về các
sáng chế, làm chủ một công nghệ riêng đặc thù hoặc có một nguồn nhân
lực chuyên tinh, làm chủ được nguồn nguyên vật liệu cũng như kinh
nghiệm cho phép có được các chi phí thấp hơn. Về phương diện chi phí
nhân lực có tay nghề và kinh nghiệm với số lượng sản phẩm tăng lên thể
hiện qua ưu thế của đường cong học.
- Khác biệt hoá sản phẩm. Khách hàng đã quen với hình ảnh, nhãn hiệu của
các doanh nghiệp hiện tại. Chi phí cho một chiến lược khác biệt hoá là rất
cao và rất mạo hiểm.
- Kinh tế quy mô hay còn gọi là kinh tế bậc thang. Các chi phí về sản xuất,
phân phối, bán, quảng cáo, dịch vụ, nghiên cứu sẽ giảm với sự gia tăng số
lượng bán. Hay nói cách khác số lượng sản xuất và bán tăng lên thì chi
phí cho một đơn vị sản phẩm càng giảm đi.
- Kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập của các doanh nghiệp hiện tại
cũng là một vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị
trường.
- Phản ứng lại của các doanh nghiệp hiện tại trong lĩnh vực kinh doanh.
Nếu các doanh nghiệp muốn vào mới phản ứng lại một cách tích cực và
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
10
khôn khéo, một lối vào trong lĩnh vực có thể được. Nhưng nếu chúng
phản ứng lại bằng một cuộc chiến tranh thì giá phải trả là quá đắt để nhập
ngành.
3. Phân tích nhà cung ứng
Lực lượng thứ ba trong các lực lượng cạnh tranh là khả năng mặc cả của
nhà cung ứng. Những nhà cung ứng có thể được coi là một áp lực đe doạ khi
họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng của các sản phẩm,
dịch vụ mà họ cung cấp. Qua đó làm giảm khả năng kiếm lợi nhuận của
doanh nghiệp. Trên một phương diện nào đó, sự đe doạ đó tạo ra sự phụ
thuộc ít nhiều đối với các doanh nghiệp. Áp lực tương đối của nhà cung cấp
thường thể hiện trong các tình huống sau:
- Ngành cung ứng mà doanh nghiệp cần chỉ có một số, thậm chí một doanh
nghiệp độc quyền cung ứng.
- Tình huống không có sản phẩm thay thế, doanh nghiệp không có người
cung ứng nào khác.
- Doanh nghiệp mua yếu tố sản phẩm không phải là khách hàng quan trọng
và ưu tiên của nhà cung ứng.
- Loại đầu vào, chẳng hạn vật tư của nhà cung ứng là quan trọng nhiều đối
với doanh nghiệp.
- Các nhà cung cấp vật tư cũng có chiến lược liên kết dọc, tức là khép kín
sản xuất…
4. Phân tích khách hàng
Đây là lực lượng tạo ra khả năng mặc cả của người mua. Người mua có
thể được xem như là một sự đe doạ cạnh tranh khi họ buộc doanh nghiệp
giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt. Ngược lại, khi người
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
11
mua yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp một cơ hội để tăng giá kiếm được lợi
nhuận nhiều hơn. Người mua gồm: Người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân
phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công nghiệp.
Áp lực của khách hàng thường được thể hiện trong các trường hợp sau:
- Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong ngành cung cấp. Trong
khi đó người mua là một số ít và có quy mô lớn. Hoàn cảnh này cho phép
người mua chi phối các công ty cung cấp.
- Khách hàng mua một khối lượng lớn trong hoàn cảnh này người mua có
thể sử dụng ưu thế mua của họ như một ưu thể để mặc cả cho sự giảm giá
không hợp lý.
- Ngành cung cấp phụ thuộc vào khách hàng với tỷ lệ phần trăm lớn trong
tổng số đơn đặt hàng
- Khách hàng có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, tức là họ có xu
hướng khép kín sản xuất, tự sản xuất, gia công các bộ phận chi tiết, bán
sản phẩm cho mình. Chẳng hạn các doanh nghiệp dệt khép kín sản xuất
để có sợi phục vụ cho dệt.
- Khách hàng có đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả… của
các nhà cung cấp thị áp lực mặc cả của họ càng lớn.
Vậy doanh nghiệp phải làm gì để thu hút khách hàng.Trước hết doanh
nghiệp cần phải cố gắng giữ chân khách hàng hiện tại.
Trên thực tế, chi phí để thu hút một khách hàng mới có thể gấp năm lần
chi phí để giữ được một khách hàng cũ. Nhưng nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ
vẫn thường cố gắng để có được các khách hàng tiềm năng mà bỏ phí các
chương trình dành cho các khách hàng hiện tại - những chương trình này có
hiệu quả chi phí hơn nhiều trong việc làm tăng doanh thu và khả năng thu lợi
nhuận.
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
12
Các chương trình xây dựng khách hàng trung thành (thường gọi là các
chương trình tặng thưởng) đang trở nên rất quan trọng trong các thị trường
nhạy cảm về giá cả hoặc có các sản phẩm và dịch vụ tương đương nhau. Các
chương trình này được điều hành trong hầu hết các công ty lớn, và hiện tại
đang có khoảng một nửa người dân Mỹ là thành viên của ít nhất một trong
các chương trình đó. Chỉ một mình chuỗi cửa hàng dược phẩm CVS Corp. đã
ký tới 32 triệu thẻ hội viên "ExtraCare". Và công ty chiếu phim lớn nhất thế
giới Regal Entertainment Group đã thưởng cho các khách hàng xem phim
thường xuyên thức ăn miễn phí và các chương trình giảm giá khác.
Chương trình khách hàng trung thành cũng rất quan trọng với các doanh
nghiệp nhỏ. Các nhà kinh doanh có chương trình thưởng khách hàng thành
công đã được hưởng doanh số gia tăng, chi phí tiếp thị giảm và tích luỹ vô số
thông tin có giá trị. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi công tác thu thập dữ liệu
là cốt lõi của các chương trình này. Một loạt thông tin được ghi lại khi khách
hàng ký tham gia chương trình. Sau đó, các dữ liệu được thu thập thông qua
các điều tra và trong khi giao dịch.
Bằng cách tìm hiểu các dữ liệu khách hàng hiện tại, bạn có thể phát hiện
ra những cơ hội kinh doanh, khu vực khách hàng tốt hơn và xác định chính
xác nhu cầu của các nhóm khách hàng khác nhau. Nếu bạn là người bán lẻ,
bạn có thể thậm chí sử dụng thông tin này để cung cấp cho cửa hàng của bạn
chính xác những hàng hoá có nhu cầu lớn. Và một khi biết được sở thích của
các khách hàng tốt nhất của mình, bạn có thể xây dựng các chiến dịch tiếp thị
nhằm tới các khách hàng tiềm năng có đặc điểm tương tự họ.
5 lời khuyên để xây dựng chương trình khách hàng trung thành
1. Chọn các phần thưởng đúng
Các phần thưởng bằng hiện vật thường ít tốn kém hơn và cho bạn dấu
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
13
cộng vào tất cả những gì gắn với công việc kinh doanh của bạn. Giả sử bạn
đang sở hữu một cửa hàng bán kem và bạn muốn trao phần thưởng cho các
khách hàng đã mua ít nhất năm chiếc kem ốc quế. Tặng chiếc kem thứ sáu
miễn phí sẽ là lựa chọn tốt hơn so với việc trao một món quà không liên
quan, chẳng hạn như một chiếc vé xem phim giảm giá hoặc thậm chí tiền
mặt, bởi vì phương án chiếc kem thứ sáu miễn phí không quá tốn kém và lại
dễ nhớ với các khách hàng. Phương án này cũng mang lại cho bạn giá trị
bằng tiền thực sự - đó là với bạn, chi phí cho một chiếc kem miễn phí chỉ có
25 xu, nhưng khách hàng lại coi đó là một món quà trị giá 2,25 USD.
2. Cám dỗ khách hàng
Để đạt hiệu quả cao hơn, nên nói với khách hàng họ có thể có được cái gì.
Điều này gây phấn khích và cám dỗ họ mua hàng để có được phần thưởng.
Bạn cũng có thể sử dụng chương trình phần thưởng này để khuyến khích
khách hàng thử các sản phẩm hoặc dịch vụ khác. Chẳng hạn như cửa hàng
kem của bạn có thể thưởng cho khách hàng một chiếc kem nước quả hai tầng
nếu họ mua một tá. Phần thưởng này sẽ khuyến khích khách hàng thử các sản
phẩm giá cao hơn.
3. Thưởng các khách hàng tốt nhất
Chào mời các phần thưởng giá trị tăng dần theo số tiền mà những người
mua hàng trả cho bạn là một phương pháp tuyệt vời để khuyến khích các
khách hàng tốt nhất của bạn. Lợi nhuận chủ yếu xuất phát từ việc biến các
khách hàng có giá trị thấp thành các khách hàng có giá trị cao, đồng thời
tránh được các cạm bẫy từ các kiểu chương trình phần thưởng khác có xu
hướng thu hút khách hàng mua các mặt hàng có lợi nhuận thấp.
4. Thưởng ngay khi kết nạp thành viên
Các chương trình chào mời phần thưởng ngay lập tức khuyến khích được
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
14
nhiều khách hàng đăng ký. Một phương pháp khác là cho khách hàng một
khoản thưởng nhỏ khi kết nạp. Và một số người bán lẻ thu hút khách hàng
ngay trước khi họ rời cửa hàng của mình bằng cách tặng quà cho khách ngay
khi kiểm tra hàng hay in hoá đơn bán hàng.
5. Đánh giá kết quả thu được
Hãy đặt ra mục tiêu cho chương trình của bạn và hãy liên tục giám sát kết
quả. Hãy tính toán sự tăng lên trong sử dụng sản phẩm và dịch vụ của bạn, số
lượng các giao dịch liên quan đến những người tham gia chương trình khách
hàng trung thành, và tăng trưởng trong cơ sở khách hàng đăng ký tham gia
chương trình, từ đó bạn có thể điều chỉnh và xây dựng chương trình một cách
hiệu quả.
Các chương trình chào mời phần thưởng ngay lập tức khuyến khích được
nhiều khách hàng đăng ký. Một phương pháp khác là cho khách hàng một
khoản thưởng nhỏ khi kết nạp. Và một số người bán lẻ thu hút khách hàng
ngay trước khi họ rời cửa hàng của mình bằng cách tặng quà cho khách ngay
khi kiểm tra hàng hay in hoá đơn bán hàng.
5. Sản phẩm thay thế
Lực lượng cuối cùng trong mô hình M.Porter là sự đe doạ của các sản
phẩm thay thế. Sản phẩm thay thế là sản phẩm khác có thể thoả mãn cùng
nhu cầu của người tiêu dùng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có các ưu thế
hơn sản phẩm bị thay thế ở các đặc trưng riêng biệt. Sự gia tăng về các đồ
uống có gas hiện nay đang là một đe doạ thật sự đối với các ngành phục vụ
đồ uống truyền thống như ngành chè, café. Đe doạ này đòi hỏi doanh nghiệp
phải có sự phân tích, theo dõi thường xuyên những tiến bộ kỹ thuật công
nghệ, trong đó liên quan trực tiếp là đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
15
Hơn nữa, sự thay đổi của nhu cầu thị trường cũng là nhân tố quan trọng tạo ra
sự đe doạ này.
Tại sao cần phải nghiên cứu sản phẩm mới?
Một thực tế khách quan hiện nay các doanh nghiệp đang phải đương đầu
với điều kiện kinh doanh ngày càng trở nên khắt khe hơn:
Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học và công nghệ làm nảy
sinh thêm những nhu cầu mới;
Sự đòi hỏi và lựa chọn ngày càng khắt khe của khách hàng với các loại
sản phẩm khác nhau;
Khả năng thay thế nhau của các sản phẩm;
Tình trạng cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt hơn...
Trong những điều kiện đó, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới
và tự hoàn thiện mình trên tất cả phương diện: các nguồn lực sản xuất , quản
lý sản xuất kinh doanh, sự ứng xử nhanh nhạy với những biến động của môi
trường kinh doanh ...
Nói chung một doanh nghiệp thường sản xuất kinh doanh một số sản
phẩm nhất định. Chủng loại và số lượng sản phẩm ấy tạo thành danh mục sản
phẩm của doanh nghiệp. Các sản phẩm trong danh mục có thể có quan hệ với
nhau theo những kiểu khác nhau: quan hệ trong sản xuất, quan hệ trong tiêu
dùng, các sản phẩm có thể thay thế nhau... chủng loại sản phẩm trong danh
mục nhiều hay ít tuỳ thuộc vào chính sách sản phẩm mà doanh nghiệp theo
đuổi ( chính sách chuyên môn hoá hay chính sách đa dạng hoá sản phẩm ).
Trong quá trình phát triển doanh nghiệp, danh mục sản phẩm thường không
cố định mà có sự thay đổi thích ứng với sự thay đổi của môi trường, nhu cầu
của thị trường và điều kiện kinh doanh. Điều này thể hiện sự năng động và
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
16
nhạy bén của doanh nghiệp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh và
nhu cầu khách hàng, tạo cho doanh nghiệp khả năng cạnh tranh cao trong
việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Sự biến đổi danh mục sản phẩm của
doanh nghiệp gắn liền với sự phát triển sản phẩm theo nhiều hướng khác
nhau:
Hoàn thiện các sản phẩm hiện có;
Phát triển sản phẩm mới tương đối;
Phát triển sản phẩm mới tuyệt đối và loại bỏ các sản phẩm không sinh
lời.
Phát triển danh mục sản phẩm theo chiều sâu và theo chiều rộng là hướng
phát triển khá phổ biến. Sự phát triển sản phẩm theo chiều sâu thể hiện ở việc
đa dạng hóa kiểu cách, mẫu mã, kích cỡ của một loại sản phẩm nhằm đáp
ứng thị hiếu đa dạng các nhóm khách hàng khác nhau. Sự phát triển sản phẩm
theo chiều rộng thể hiện ở việc có thêm một số loại sản phẩm nhằm đáp ứng
đồng bộ một loại nhu cầu của khách hàng .
Một công ty có thể đi theo ba con đường để phát triển sản phẩm mới :
Mua bằng sáng chế hoặc giấy phép sản xuất sản phẩm của doanh
nghiệp khác, từ viện nghiên cứu khoa học và công nghệ;
Tự tổ chức quá trình nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới bằng nguồn lực
của mình;
Liên kết, phối hợp với các doanh nghiệp khác, với viện nghiên cứu để
thực hiện quá trình này.
Hai phương pháp phát triển sản phẩm mới:
1) Hoàn thiện sản phẩm hiện có
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
17
Sự hoàn thiện sản phẩm này nhằm đáp ứng một cách tốt hơn đòi hỏi người
tiêu dùng, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Sự hoàn thiện sản phẩm hiện
có lại được thực hiện với những mức độ khác nhau:
Hoàn thiện sản phẩm hiện có về hình thức: Giá trị sử dụng của sản
phẩm không có gì thay đổi nhưng hình dáng bên ngoài của sản phẩm
thay đổi như thay đổi nhãn mác, tên gọi sản phẩm để tạo nên sự hấp
dẫn hơn với khách hàng, nhờ đó tăng và duy trì lượng bán.
Hoàn thiện sản phẩm về nội dung: Có sự thay đổi về nguyên liệu sử
dụng để sản xuất sản phẩm để nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc hạ
giá thành sản phẩm mà chất lượng sản phẩm không đổi. Ví dụ đó là sự
thay đổi công nghệ sản phẩm.
Hoàn thiện sản phẩm cả về hình thức lẫn nội dung: Có cả sự thay đổi
về hình dáng bên ngoài, bao bì và nhãn hiệu sản phẩm lẫn sự thay đổi
về cấu trúc, vật liệu chế tạo sản phẩm.
2) Phát triển sản phẩm mới hoàn toàn
Khó khăn: chi phí cao, rủi ro lớn, cần có kế hoạch dài hạn, công nghệ
khoa học tiên tiến và kết quả nghiên cứu thị trường đúng.
Lợi ích: Chúng cũng có thể đem tới một nguồn lợi lớn và quan trọng
đối với một số doanh nghiệp nếu họ phải tránh bị phá sản hoặc bị đối
thủ cạnh tranh mua lại.
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không đầu tư vào phát triển sản phẩm
mới, rất dễ bị "quét sách" khỏi thị trường bởi các đối thủ cạnh tranh nước
ngoài.
Các bước để đến thành công:
Phân đoạn khách hàng để tìm ra những cơ hội sản phẩm mới. Phần
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
18
khách hàng này sẽ là những người có ý định mua hàng.
Tìm kiếm ý tường về sản phẩm mới bằng các cuộc điều tra phản ứng
của khách hàng. "Cách dễ dàng nhất để điều tra thị hiếu của khách
hàng là đề nghị họ xếp hạng năm đến mười sản phẩm họ yêu thích nhất
và giải thích lí do lựa chọn những sản phẩm đó.
Cần tận dụng triệt để khả năng của các liên doanh, liên kết marketing
chuyên nghiệp.
Bán hàng cho các kênh phân phối trước. "Giới thiệu một sản phẩm mới
cần có đà. Nếu như thị trường coi sản phẩm mới đó là "tốt", nó sẽ bán
chạy."
Chương III. Thực trạng quản trị chiến lược ngày nay.
Với sự tăng nhẹ của thị trường chứng khoán và lợi nhuận, các nhà quản
trị tập đoàn lại có thể "dám" ngước mắt nhìn về tương lai. “Cầm cự” thành
công qua những thời khắc khó khăn bằng cách cắt giảm chi phí và từ bỏ sự
xa hoa, thừa mứa, giờ đây họ lại say sưa nói về chiến lược tăng trưởng.
Các nhà sản xuất ôtô Nhật Bản rầm rộ tiến hành khai trương nhà máy mới
ở Bắc Mỹ. Một số Hãng Hàng không như EasyJet và Airtran mua thêm lượng
lớn máy bay. Hơn thế nữa, các vụ mua lại và sáp nhập đang tái xuất hiện, một
dấu hiệu chắc chắn của chủ nghĩa cơ hội. Trong ngành công nghiệp phần
mềm, Oracle ra sức mua lại Peopleson, ngay trong tuần này, Arvinmeritor đã
mua nhà sản xuất phụ tùng xe hơi Dana, Hãng Alcan thì "về với" Pechiney,
một động thái có khả năng làm bùng nổ xu thế hợp nhất trong ngành công
nghiệp nhôm.
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
19
Tuy nhiên, trong khi vội vã tìm kiếm cơ hội tăng trưởng các Công ty lại
phải đối phó với tình trạng tiến thoái lưỡng nan: liệu tương lai, dù ít hay
nhiều có là sự tiếp theo của quá khứ? Và các nhà quản trị thông thái chỉ việc
dựa dẫm vào những thế mạnh vốn có hay sẽ bạo gan "bứt phá" mà "tóm" lấy
tương lai?
Bối rối lựa chọn phương pháp quản trị
Sau thảm bại dotcom và những lời "bàn ra tán vào" về các mô hình kinh
tế, cuộc cách mạng mới rõ ràng chẳng còn mấy hấp dẫn. Niềm tin về một sự
chuyển mình mạnh mẽ đã bị sụp đổ bởi vụ nổ bong bóng chứng khoán và sự
ra đi của những tập đoàn lớn như Enron và Webvan. Thay vào đó là ác cảm
với "mốt" quản trị nhất thời. Hầu hết các nhà quản trị ngày nay đều không
còn dám "thả mồi bắt bóng".
Kết quả của chương trình nghiên cứu kéo dài 5 năm do trường Đại học
Harvard Business phối hợp cùng trường Tuck School of Business thực hiện
đã phản ánh rõ tinh thần đó. Chương trình này "soi" 160 Công ty dưới kinh
hiển vi trong giai đoạn 10 năm (1986 - 1996) và chấm điểm dựa trên cách họ
sử dụng 200 phương pháp quản trị khác nhau. Rõ ràng, "điểm lo" không hề
phụ thuộc vào việc Công ty đó có sử dụng công cụ quản trị thời thượng hay
không. Vấn đề không phải là bạn dùng phần mềm ERP (lập kế hoạch chiến
lược) hay hệ thống CRM (quản trí quan hệ khách hàng), mà là dù bạn chọn
công nghệ nào, thì liệu bạn có khả năng đạt kết quả hoàn mỹ hay không.
Ngày nay có quá nhiều ông chủ cho rằng tương lai sẽ chẳng khác gì quá
khứ những gì tốt cho ngày hôm qua thì cũng sẽ tốt cho hôm nay và ngày mai.
Rõ ràng đây là một thái độ có thể huỷ diệt mọi giá trị. Chẳng hạn như câu
chuyện về chi nhánh Manhattan của Ngân hàng tiết kiệm Sông Đông, được
thành lập năm 1848. Các báo cáo của Ngân hàng đều phản ánh rõ tính an
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
20
toàn, bảo đảm và tiết kiệm. Song sau khi đi vào thị trường bất động sản hồi
những 1970, ngay lập tức hãng bị tấn công bởi cuộc khủng hoảng Ngân hàng
những năm 1980. Cuối cùng thì chi nhánh này lại nằm trong tay một Ngân
hàng khác và bị đóng cửa năm 1997. Còn bây giờ trụ sở tại đó đã là một
Công ty dược phẩm.
Quá khứ đã “làm gì” cho tương lai
Theo Richard Foster và Sarah Kaplan đồng tác giả cuốn "Huỷ diệt sáng
tạo", thì tốt hơn là các nhà quản trị không nên mơ về một thời kỳ vàng son
chỉ còn trong huyền thoại, cái thời mà tất cả mọi Công ty cứ thế trưởng thành
và mạnh mẽ, đến nỗi cả quả phụ và trẻ mồ côi cũng có thể yên tâm trao gửi
chút tài sản nhỏ mọn. Lý tưởng "hồng hào" về những ngày tháng oai hùng
quá khứ chỉ còn là ảo mộng, bởi trong cuộc đấu tranh sinh tồn này, ngay cả
những tập đoàn tốt nhất cũng không thể đảm bảo sẽ hoạt động mạnh mẽ, tăng
trưởng mãi mãi. Chẳng hạn trong danh sách 100 Công ty hàng đầu nước Mỹ
năm 1917, đã có đến 61 tập đoàn trở thành "sao băng" vào năm 1987, số còn
lại cũng chỉ có 18 Công ty tiếp tục "trụ” trong lớp 100, như Kodak, Dupont,
General Electric, Ford, General Motors và Procter & Gamble. Những tập
đoàn đáng kính này đã chống chọi qua mọi thời kỳ suy thoái, chiến tranh thế
giới, khủng hoảng giá dầu mỏ và cả những biến động công nghệ khôn lường.
Nhưng sống sót không có nghĩa là vẫn ngày ngày thu lợi nhuận. Trong số 18,
chỉ có GE và Kodak nổi bật trên thị trường chứng khoán. Số còn lại đều chịu
mức doanh thu thấp hơn 20% so với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm của toàn thị
trường là 7,5% từ 70 năm qua.
Tuy nhiên, cuốn sách "Built to Last" của 2 tác giả Jim Collins và Jeny
Porras được xuất bản năm 1994 lại đưa ra một cái nhìn hoàn toàn trái ngược.
"Built to Last" thí nghiệm trên 18 công ty liên tục cho kết quả kinh doanh tốt
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
21
trong một thời gian dài và kết luận rằng có khả năng tồn tại lâu bền" và
"thành quả kinh doanh" có sự liên kết chặt chẽ. Cuối cùng theo Collins,
những Công ty thành công không cần phải có một người lãnh đạo thuyết
phục. kiệt xuất, cũng không cần đến chiến lược thông minh hay sự tiếp quản
táo bạo. Mà trên hết, họ cần đến những ông chủ quyết đoán, đặt niềm tin vào
các tiêu chuẩn và kỷ luật cao. Chẳng hạn như trường hợp của Darwin Smith,
CEO của Kimberly- Clark, bản chất khiêm tốn không hề ngăn cản ông đưa ra
những quyết định kịch tính. Nhận ra ngành kinh doanh cốt lõi sản xuất giấy
than cũng chỉ đưa lại một viễn cảnh tầm thường, CEO này quyết định bán nhà
máy giấy và biến toàn Công ty thành nhà sản xuất các sản phẩm giấy tiêu
dùng.
Câu chuyện này có vẻ giống chi tiết một nhân vật đã đốt toàn bộ thuyền
của mình. bởi vậy những người đi cùng không còn sự lựa chọn nào khác
ngoài việc phải sống sót và thành công trong thế giới mới. Với Collins, chẳng
có gì mâu thuẫn trong việc tưởng nhớ quá khứ, nhưng cùng lúc đó cần phải
hành động vì tương lai. Ông tin rằng những người lãnh đạo như Smith sẽ
không khởi nghiệp Công ty bằng cách đặt ra một tầm nhìn mới và một chiến
lược mới. Thay vào đó, họ sẽ giữ lại những người cần thiết và sa thải những
kẻ bất tài, người ở lại sẽ ngồi vào vị trí thích hợp - rồi lúc đó CEO mới tính
đến chuyện sẽ đi đâu tiếp.
Những biến động không thể tránh khỏi
Lựa chọn hành khách trước khi khởi hành không phải là điều mà Peter
Schwartz ưa thích. Con người lão thành nhất trong việc hoạch định tương lai
cho rằng tương lai không đến nỗi "khó hiểu” như chúng ta nghĩ. Các Công ty
có thể vẽ ra đường đi, rồi mới quyết định sẽ giữ ai lại. Trong cuốn sách mới
"Inevitable Surprises", Schwartz liệt kê một số trường hợp đột biến của tương
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
22
lai nhưng không làm mọi người ngạc nhiên, chẳng hạn như sự kéo dài tuổi
thọ, sự thay đổi trong tiêu chuẩn định cư, sự thống trị của kinh tế và quân sự
Mỹ và cả sự tồn tại của một loạt những quốc gia hỗn loạn có thể gây khủng
bố, bệnh tật và chia rẽ.
Những Công ty nào muốn đối phó với biến động không tránh khỏi này
cần có sự lựa chọn, như xây dựng hệ thống hiểu biết vững vàng, thay đổi ý
niệm thời gian, cố gắng để không bị "ra rìa", thậm chí là áp dụng những cơ
cấu gây huỷ diệt sáng tạo. Bởi có phương pháp nào, điều lệ nào, tổ chức nào
thực sự không bị huỷ diệt trong mấy năm qua? Nếu câu trả lời là không, có lẽ
đã đến lúc cần hành động trước khi phải “cấp cứu”.
Ý kiến cho rằng các Công ty buộc phải "gắn bó" khăng khít với quá khứ
cũng khiến Fritz Kroeger chán ngắt. Là phó chủ tịch hãng tư vấn A.T.
Kearney, Kroeger cho rằng động cơ chính quyết định sự sống còn và thành
công của tập đoàn là tốc độ chạy đua cùng đối thủ trong cuộc chơi. Về cơ
bản. đây là lý thuyết huỷ diệt sáng tạo thông qua việc sáp nhập và mua lại.
Chiến lược trong cuộc chơi này cần được quyết định bởi tổng quan thời
đại, bao gồm 4 bước. Đầu tiên là khi chưa có sự tập trung thị trường hoặc chỉ
có rất ít. Những Công ty vừa thay đổi, những hãng vừa thành lập và những tổ
chức phát sinh đều có mặt trong giai đoạn này. Và sự tập trung thị trường -
được đo bằng thị phần kết hợp của 3 công ty lớn nhất - chỉ chưa bằng 20%.
Các ngành công nghiệp được nhắc đến trong giai đoạn này là đường sắt,
truyền hình, phúc lợi công cộng và bảo hiểm.
Giai đoạn thứ hai kéo dài 7 năm còn gọi là “giai đoạn đo lường", bởi lúc
này quy mô chính là ưu thế. Các công ty hàng đầu sẽ sáp nhập và độ tập
trung thị trường tăng lên khoảng 30 - 40%. Các ngành công nghiệp trong giai
đoạn này là hoá học, dược phẩm, giấy, thức ăn sẵn, khách sạn và bia.
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
23
Trong giai đoạn thứ 3, các Công ty sẽ mở rộng ngành kinh doanh cốt lõi
của mình, loại bỏ các hoạt động thứ yếu hoặc đánh đổi với Công ty khác để
tập trung vào ngành chính. Lúc này, các Công ty lãnh đạo đã chiếm được gần
70% thị phần. Sản xuất xăm lốp, đồ chơi và thép là những ngành công nghiệp
có mặt trong bước 3.
Trong giai đoạn cuối, sẽ có một số Công ty được hưởng đến 90% thị phần
toàn cầu. Những người khổng lồ trong giai đoạn 4 như ngành thuốc lá và xe
hơi - có xu hướng thành lập liên minh để tăng cường phát triển. Nhờ vậy mà
hãng Genelal Motors có được 25% thị phần xe hơi, song tất cả đều thông qua
chiến lược liên minh mới các “nhà” xe hơi khác như Fiat, Fuji, Daewoo và
Suzuki.
“Thực trạng” và “ảo giác”
Có lẽ thách thức lớn nhất hiện này với các nhà quản trị là phân biệt giữa
"thực trạng" và "ảo giác an toàn" vì những thành kiến bẩm sinh. Cũng bởi
những thành kiến này mà John Akers. khi đó là CEO của IBM, đã gây ra sự
hỗn độn chưa từng có. Tất cả nghị lực, sự sắc sảo tinh khôn và trí thông minh
của ông cùng với các cộng sự cao cấp cũng không thể giúp ông hiểu tại sao
Công ty lại bị cuốn đi trong cơn thác lũ của những vụ nổ bong bóng.
Mặt khác, lại có những người đã "hy sinh" vì "sự nghiệp" huỷ diệt sáng
tạo và cuối cùng cũng huỷ diệt luôn chính bản thân họ và đôi khi cả những
người xung quanh. Chẳng hạn như tập đoàn Enron đã bỏ qua mọi mô hình
kinh doanh ống và khí tự nhiên kiểu cũ để biến thành một nhà thương mại
năng lượng vị lai. Tất nhiên, cũng có thể nói rằng Enron nhẽ ra sẽ thành công
nếu hãng không vội vàng áp dụng những "lối đi tắt" chết người.
Cuối cùng, có lẽ không còn lời khuyên nào tốt hơn lời khuyên của nhà quý
tộc bất mãn trong vở "The Loepard" của Guiseppe de Lampedusa. Đấu tranh
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
24
để sinh tồn trong bối cảnh hỗn loạn của nước Italia thế kỷ XIX, ông mỉa mai
nói: mọi thứ phải thay đổi, cũng vì thế mà mọi thứ sẽ như cũ”.
Tỉ lệ 80/20
Nghiên cứu gần đây của Mckinsey cho thấy những lý thuyết của Pareto -
nhà kinh tế học Italia thế kỷ XIX, cho rằng 80% thu nhập quốc gia đều nằm
trong tay của 20% dân số - vẫn còn đúng cho đến ngày nay. Tỉ lệ 80/20 nổi
tiếng đó cũng được áp dụng với giá trị gia tăng do các Công ty hàng đầu làm
ra, tương tự như với lượng thu nhập của quốc gia.
Mckinsey thí nghiệm 1000 công ty từ 15 ngành kinh doanh khác nhau của
nước Mỹ trong giai đoạn từ 1969 - 1999, khoảng thời gian diễn ra nhiều thay
đổi, biến động trong môi trường kính tế hơn bao giờ hết. Người ta tiến hành đo
lường giá trị thị trường gia tăng (MVA) của các Công ty, sự thay đổi trong
những con số nợ nần và cả giá trị cổ phiếu. Kết quả 80% MVA hoặc hơn của
toàn bộ 15 ngành công nghiệp đều do 20% số Công ty hàng đầu nắm giữ. Hơn
thế nữa, tỉ lệ 80/20 liên tục đúng trong thời hạn 30 năm, chỉ xảy ra có một biến
động nhỏ - xuống 76% vào năm 1989.
Phần thưởng vì đã giữ đúng tỉ lệ này có thể rất lớn, song sự trừng phạt vì
hướng đi trái ngược lại có thể là cái chết. Một vài bước chân dạo trên khu tây
London ngày nay sẽ nhắc nhở ta nhớ đến con số tử vong của các tập đoàn.
Một bên bờ sông Thames là toà nhà trụ sở vắng teo, hiu quạnh của tập đoàn
thép British Steel một thời lừng lẫy, nhưng giờ đã "hoà tan" hoàn toàn sau vụ
sáp nhập với một tập đoàn Hà Lan. Qua bên kia sông, toà nhà Chính phủ
"chễm chệ" nằm ngay trên mảnh đất nơi từng là trụ sở oai hùng của đại gia
ICI, 30 năm trước là hình ảnh thu nhỏ của công xưởng nước Anh, nay chỉ còn
là một "cơ thể" nhỏ nhoi đang oằn mình tranh đấu. Gần bên công viên Hype,
dãy văn phòng của GEC, biểu tượng của những ngày tháng hoàng kim xưa,
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
25
giờ là những căn hộ sang trọng. Và bên đường Bond, những căn nhà trụ sở
làm nên "kinh đô”, Mareoni đứng thừa thãi với những bức thư lâu năm chất
đống bên trong những cánh cửa im ỉm khoá. Thời oanh liệt xưa chỉ còn là
những bông cỏ cuộn tròn lăn theo gió.
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
26
LỜI KẾT
Một ngành sản xuất hẹp hay ngành kinh tế kỹ thuật bao gồm nhiều doanh
nghiệp có thể đưa ra các sản phẩm và dịch vụ giống nhau hoặc tương tự có
thể thay thế được cho nhau. Những vật giống nhau này là những sản phẩm
hoặc dịch vụ cùng thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng cơ bản như nhau, chẳng
hạn, những tấm lợp nhà bằng kim loại và những tấm lợp nhà bằng nhựa được
sử dụng trong xây dựng là những vật thay thế được cho nhau. Mặc dù công
nghệ sản xuất khác nhau, nhưng hai doanh nghiệp sản xuất tấm lợp bằng kim
loại và doanh nghiệp sản xuất tấm lợp bằng nhựa là cùng một ngành sản xuất
cơ bản giống nhau. Bời vì họ phục vụ cho cùng một nhu cầu khách hàng –
nhu cầu của các công ty thi công xây dựng.
Nhiệm vụ của các nhà chiến lược là phải phân tích và phán đoán các thế
lực cạnh tranh trong môi trường ngành để xác định các cơ hội và đe dọa đối
với doanh nghiệp của họ.
Vì vậy, việc phân tích tác động của các yếu tố môi trường ngành tác động
lên doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng mà doanh nghiệp cần phải
nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Lê Văn Tâm đã nhiệt tình hướng dẫn
em nghiên cứu và hoàn thành đề án này.
Do điều kiện thời gian hạn hẹp đồng thời kinh nghiệm bản thân còn ít nên đề
tài khó tránh khỏi những thiết sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô giáo và các bạn sinh viên để đề án được hoàn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
SINH VIÊN
Cao Thị Lan Hương
SV: Cao Thị Lan Hương - K12QT2
27
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình quản trị chiến lược - Đại học kinh tế quốc dân
2. Website: www.chungta.com
3. Tạp chí ‘Doanh nhân’
4. Tạp chí ‘Diễn đàn doanh nghiệp’
5. Báo ‘Tầm nhìn’
6. Báo ‘Đầu tư’
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Phân tích tác động của các yếu tố môi trường ngành tác động lên doanh nghiệp.pdf