Luận văn Phân tích sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Tài liệu Luận văn Phân tích sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: LUẬN VĂN: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam LờI Nói đầu Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản nền kinh tế nước ta là nến kinh tế tự nhiên được quản lý bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nền kinh tế tự cấp tự túc đã bộc lộ rõ những hạn chế trong thời đại mới. Chính vì vậy nó làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng đi xuống và trở nên khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được vấn đề này ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Từ sau Đại hội VI đến nay nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) được 15 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều đạt khá, năm 1990: 5,1%; 1991: 5,96%; 1998: 5,8%; 1999: 4,8%; 2000: ...

pdf26 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam LờI Nói đầu Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản nền kinh tế nước ta là nến kinh tế tự nhiên được quản lý bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nền kinh tế tự cấp tự túc đã bộc lộ rõ những hạn chế trong thời đại mới. Chính vì vậy nó làm cho nền kinh tế nước ta ngày càng đi xuống và trở nên khủng hoảng trầm trọng. Nhận thức được vấn đề này ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Từ sau Đại hội VI đến nay nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) được 15 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều đạt khá, năm 1990: 5,1%; 1991: 5,96%; 1998: 5,8%; 1999: 4,8%; 2000: 6,8% và có những năm tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt rất cao như những năm 1994: 8,84%; 1995: 9,54%; 1996: 9,34%. Các thành tựu của nền kinh tế không chỉ được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn được đánh giá qua sự phát triển toàn diện của xã hội, Việt Nam luôn được coi là một đất nước của hòa bình và ổn định về chính trị, xã hội , thủ đô Hà Nội được bầu chọn là thành phố hòa bình của khu vực, nhiều hội nghị quốc tế đã và đang được tổ chức ở Việt Nam… tất cả những điều đó đã nói lên sự tin tưởng của bạn bè thế giới đối với đất nước ta. Nhưng bên cạnh sự phát triển, nền kinh tế cũng đã xuất hiện những vấn đề nóng bỏng như lạm phát, thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh v.v… chính là những thất bại của KTTT mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải đối mặt. Nhưng với Việt Nam thì việc giải quyết vấn đề này càng khó khăn và phức tạp hơn nhiều so với các nước khác, bởi, nước ta chủ trương phát triển nền KTTT nhưng là nền KTTT " định hướng XHCN”, Nhưng, nền kinh tế của chúng ta mới là " định hướng XHCN”, có thể hiểu như là một sự lai tạp giữa CNTB và CNXH, và đất nước ta vẫn đang trong thời kì quá độ lên CNXH, do đó việc giải quyết các mâu thuẫn thị trường rất khó khăn. Để giải quyết những vấn đề này đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược nhưng đồng thời cũng là những vấn đề mang tính cấp thiết bức xúc trong giai đoạn hiện nay. PHầN I: lý luận chung về kinh tế thị trường I. Kinh tế thị trường. Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác nhau về chất. Đó là: thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung – tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá giản đơn, ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Kinh tế hàng hoá ra đời là một sự phát triển tất yếu của nền sản xuất - xã hội. Nó đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Kinh tế hàng hoá là sản phẩm tất yếu khách quan của một quá trình lịch sử phát triển lâu dài trên lĩnh vực tổ chức kinh tế của xã hội loài người. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao; là sản xuất để trao đổi gắn liền với phân công lao động xã hội mở rộng và trình độ chuyên môn hoá phát triển gắn liền với hệ thống các loại thị trường; với hệ thống luật pháp bảo đảm cho nền kinh tế phát triển năng động và kỷ cương. 1. Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ của nước ta Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại và phát triển kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết. Bởi vì : - Phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn cả chiều sâu. Từ đó sinh ra các mối liên hệ kinh tế, những sự hoạt động lao động xã hội với nhau thông qua hình thức mua - bán, trao đổi hàng hoá. - Tồn tại khách quan nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trên cơ sở một số hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất – với tư cách là những chủ thể kinh tế khác nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội, nên họ phải phụ thuộc lẫn nhau. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện thông qua sự trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường. - Kinh tế thị trường còn là sự cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi mà nền kinh tế các nước ngày càng có tính quốc tế hoá cao; các nước ưu tiên dành cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. 2. Tác dụng của nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất – kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học– kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mô sản xuất- kinh doanh. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ – xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn thể xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. 3. Những tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta - Nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, có trình độ tay nghề và năng lực lao động khá cao. Đây thực sự là một yếu tố thuận lợi và là một nguồn lực chủ yếu có tính chất quyết định để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Nhưng hiện nay lực lượng lao động đó chưa được sử dụng một cách đầy đủ và hợp lý. - Cơ sở vật chất – kỹ thuật và trình độ công nghệ mặc dù chưa lớn, chưa đồng bộ, chưa hiện đại, nhưng với những gì mà chúng ta đã có, nếu biết tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn, thì chắc chắn đây là một khả năng hết sức to lớn để phát triển kinh tế thị trường. Sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới là điều kiện tốt để ta có thể tiếp thu và ứng dụng, nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Các tiềm năng về khí hậu, tài nguyên, vị trí địa lý... khá thuận lợi, dồi dào phong phú. - Nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư để phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế hàng hoá nói riêng đang tăng lên với tốc độ khá nhanh và quy mô lớn. - Thị trường trong nước giàu tiềm năng, thị trường ngoài nước ngày càng được mở rộng cùng với xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá và tự do thương mại thế giới. Như vậy, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá ở nước ta trong thời kỳ quá độ chẳng những là một tất yếu cần thiết mà nước ta còn có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện. Thực tiễn những năm qua đã chứng minh điều này. II. Những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay 1. Đặc điểm phát triển kinh tế thị trường ở nước ta a. Phát triển nền kinh tế hàng hoá trên cơ sở của một nền kinh tế kém phát triển - Nhìn chung, nước ta còn nghèo và kém phát triển. Nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, sản xuất tự cấp, tự túc, kinh tế hàng hoá còn ở trình độ thấp. Cơ sở vật chất – kỹ thuật và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế lạc hậu, thiếu đồng bộ... - Năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế kém: khối lượng hàng hoá chưa lớn, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực, tỷ suất hàng hoá chưa cao, xuất khẩu thô chiếm tỉ lệ lớn. Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu từ nông nghiệp, hàng hoá công nghiệp và dịch vụ thấp, mất cân đối cán cân xuất – nhập khẩu, chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã chưa hấp dẫn, giá thành sản phẩm cao. - Trình độ tổ chức và quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô bị hạn chế và non yếu trên nhiều mặt. .. b. Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu nhiều thành phần kinh tế Đường lối của Đảng ta đã khẳng định: “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa”1. Nền kinh tế hàng hoá có nhiều thành phần tham gia, mỗi thành phần có quyền bình đẳng trước pháp luật. Chúng có vị trí, vai trò, bản chất khác nhau trong nền kinh tế quá độ, nhưng chúng đều là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đặc điểm này, đặt ra cho nhà nước – với tư cách là người quản lí vĩ mô - cần tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những hiện tượng tiêu cực của xã hội. c. Nền kinh tế hàng hoá ở nước ta phát triển trong xu thế kinh tế “mở” Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế của các nước trên thế giới đang phát triển trong xu thế “mở”. Với điểm xuất phát thấp như nước ta thì tranh thủ nguồn lực bên ngoài là vấn đề quan trọng. Vì vậy, phải có chính sách rộng mở và khôn khéo, cách làm có hiệu quả để mở rộng hợp tác với bên ngoài, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế trong nước và cũng là phù hợp với xu thế chung của thời đại. Thông qua quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta có thể giải quyết được về nguồn vốn, về khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại; về thị trường tiêu thụ hàng hoá; về kinh nghiệm tổ chức quản lý. .. 1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb .Chính trị quốc gia, Hà nội,2001, tr.86) Nhưng cũng cần thấy được tính chất hai mặt của chính sách kinh tế mở (mặt tích cực và mặt tiêu cực). Cho nên, khi hoạch định chiến lược và chính sách phát triển kinh tế đối ngoại, chúng ta cần quán triệt điều đó. d. Nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp với đặc trưng vốn có của nó đã gây ra những tác động tiêu cực và để lại những hậu quả nặng nề đối với các vấn đề kinh tế – xã hội. Vì vậy, chúng ta chủ trương xoá bỏ cơ chế lỗi thời đó, đồng thời phải từng bước xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hiện nay, về cơ bản cơ chế cũ đã được xoá bỏ, nhưng chưa thật triệt để; cơ chế mới đã được hình thành và đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế, nhưng chưa thật hoàn thiện và vững chắc. Điều đó nói lên tính chất khó khăn, phức tạp của giai đoạn quá độ từ cơ chế cũ sang cơ chế mới. 2. Đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN) có những đặc trưng sau: - Mục đích phát triển nền KTTT định hướng XHCN là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH nâng cao năng suất lao động xã hội, từng bước xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. - Nền KTTT định hướng XHCN tồn tại nhiều hình thức sở hữu do đó nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế Tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế. - Nền KTTT định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua quỹ phúc lợi - Nền KTTT định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN. PHầN II: thực trạng nền kinh tế thị trường ở Nước ta hiện nay. I. Những thành tựu chủ yếu: Tốc độ tăng của một số ngành và một số lĩnh vực kinh tế 2001-2004 Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số báo cáo Quốc hội tháng 10/2004 Số ước cuối năm (12/2 004) - Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) (%) 6,9 7,1 7,3 7,6 7,7 - Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (%) 14,6 14,8 16,0 15,6 16,0 - Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp (%) 4,7 6,5 4,9 4,9 5,4 - Tốc độ tăng giá trị các ngành dịch vụ (%) 6,10 6,54 7,2 8,0 8,2 Nguồn: Tổng cục thống kê Kết quả thực hiện 15 chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 như sau: (1) Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 7,7% (kế hoạch là 7,5 - 8%), trong đó khu vực nông, lâm ngư nghiệp tăng 3,3%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, khu vực dịch vụ tăng 7,3%. (2) Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,9% so với năm 2003 (kế hoạch là 4,6%); (3) Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,6% (kế hoạch là 15%); (4) Giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 8% (kế hoạch là 8%); (5) Kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD, tăng gần 24% (kế hoạch là 12%); (6) Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 166,9 nghìn tỷ đồng, vượt 11,8% dự toán năm, bằng 23,5% GDP1 và tăng 17,4% so với thực hiện năm 2003; (7) Tổng chi Ngân sách nhà nước cả năm 2004 ước đạt 206,05 nghìn tỷ đồng, vượt 9,8% so với dự toán năm; (8) Bội chi ngân sách nhà nước là 5% GDP, bằng dự toán đề ra; (9) Vốn đầu tư toàn xã hội đạt 35,4% GDP (kế hoạch đề ra là 36%); (10) Giá hàng tiêu dùng tăng 9,5% (kế hoạch đề ra là dưới 5%); (11) Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,55 triệu người, đạt kế hoạch; (12) Số học sinh học nghề tuyển mới tăng 7%, đạt kế hoạch; (13) Tỷ lệ hộ đói nghèo còn 8,3%, so với kế hoạch là dưới 10%; (14) Tỷ lệ sinh giảm 0,037%, (kế hoạch là 0,04%); (15) Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 26%, đạt kế hoạch. Trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế - xã hội 3 năm 2001 - 2003 và kết quả thực hiện kế hoạch năm 2004 như trên, có thể đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ 4 năm 2001 - 2004 so với kế hoạch 5 năm như sau: 1- Kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền kinh tế trong 4 năm qua duy trì được tốc độ tăng trưởng khá và ổn định; nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2001 - 2004 khoảng 7,2% (năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,3%, năm 2004 tăng 7,7%); tuy thấp hơn 0,3% so với mức kế hoạch bình quân chung 5 năm 2001 - 2005; nhưng trong điều kiện khó khăn cả ở trong và ngoài nước thì mức tăng trưởng đạt được trong 4 năm qua là một cố gắng rất lớn; đây là mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu vực. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 - 2004) là 5,2% (kế hoạch là 4,8%). Tuy nhiên, giá trị tăng thêm (GDP nông nghiệp) dự kiến chỉ đạt khoảng 3,4%, thấp hơn mục tiêu đề ra (mục tiêu 5 năm là 4%/năm). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trong 4 năm (2001 - 2004) tăng 15,3%, (kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là 13,1%). Tuy nhiên, do chi phí sản xuất còn cao nên giá trị tăng thêm của công nghiệp bình quân 4 năm chỉ đạt 10%, thấp hơn kế hoạch (kế hoạch 5 năm là 10,4%). Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 4 năm khoảng 7,2%, thấp hơn so với mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 đề ra là 7,5%. Giá trị tăng thêm bình quân 4 năm đạt 6,6% (mục tiêu kế hoạch 5 năm là 6,8%). Tính chung 4 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 4 năm là khoảng 14,6% (năm 2001 tăng 4,1%, năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 20,8%; năm 2004 tăng 24%) (kế hoạch 5 năm là 104 - 110 tỷ USD, tăng 14 - 16%). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nền ngoại thương phát triển. Trong 4 năm 2001-2004, kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối cao mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Tỷ trọng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm từ 21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004. Trong khi đó, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng, dự kiến đạt 41,1% GDP so với 40% năm 2003. Đặc biệt, tỷ trọng của ngành dịch vụ sau 3 năm liên tục giảm thì năm 2004 đã có xu hướng phục hồi, dự kiến đạt 38,5% so với 38,2% năm 2003. Trong nội bộ ngành nông, lâm, ngư nghiệp cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể. Tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm từ 76,6% năm 2003 xuống còn 75,5% năm 2004. Trong khi đó tỷ trọng của ngành thủy sản vẫn có xu thế tăng lên, từ 18,4% năm 2003 lên 19,5% năm 2004. Cơ cấu ngành công nghiệp có nhiều tiến bộ, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến, chế tác vẫn duy trì xu hướng tăng lên, giá trị tăng thêm của ngành từ 61% năm 2003 tăng lên 61,5% vào năm 2004; trong khi đó, tỷ trọng của ngành công nghiệp khai thác giảm từ 27,7% năm 2003 xuống còn 26,5% năm 2004. Điều này chứng tỏ ngành công nghiệp đang đi vào hoạt động có chất lượng và hiệu quả hơn. Cơ cấu các ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.... Các hoạt động thương mại diễn ra sôi động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng của ngành thương nghiệp tăng từ 36% năm 2003 lên 36,5% năm 2004. Các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến được nâng dần qua các năm (Năm 2000, hàng qua chế biến chiếm 44,2% tổng giá trị xuất khẩu, năm 2001: 46,7%; năm 2002: 50,4%; năm 2003: 55%; năm 2004: 57%). 2- Vốn đầu tư phát triển và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể. Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực; đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các chương trình phát triển kinh tế-xã hội khác vào cuộc sống. Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển như vậy nên trong những năm vừa qua chúng ta đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Như vậy, tổng số vốn đầu tư phát triển đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001 - 2004 (tính theo giá 2000) khoảng 731 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5 năm đề ra. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 21,9%; vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chiếm 14,7%; vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,3%. Trong 4 năm 2001 - 2004 cam kết ODA dự kiến đạt khoảng 10,5 tỷ USD; giải ngân ODA ước đạt khoảng 6,2 tỷ USD. Nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển đa dạng hơn, phát huy nội lực tốt hơn, nguồn vốn trong nước đạt khá, nhất là nguồn vốn đầu tư của dân. Vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân đạt 67 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện ước đạt trên 2,8 tỷ USD (tương đương 43,4 nghìn tỷ đồng), tăng 6% so với năm 2003, trong đó riêng vốn đầu tư của nước ngoài đạt 2,6 tỷ USD (tương đương 40,3 nghìn tỷ đồng), tăng 10,4%.( Năm 2004, vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đạt trên 3,35 tỷ USD, tăng trên 9% so với năm 2003). Ngoài ra, huy động vốn từ nguồn phát hành trái phiếu, công trái và các nguồn khác, thực hiện khoảng 5 - 7 nghìn tỷ đồng. 3- Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện và xóa đói giảm nghèo đạt kết quả quan trọng. Thu ngân sách nhà nước 4 năm qua đạt khá, tỷ lệ huy động vào ngân sách trung bình là 22,7% GDP. Tình hình giá cả có biến động và diễn biến phức tạp. Chỉ số giá tiêu dùng tăng bình quân 4 năm khoảng 4,5%/năm (kế hoạch là dưới 5%). Tạo việc làm mới trong 4 năm cho 5,9 triệu lao động (kế hoạch 5 năm là 7,5 triệu lao động); tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2004 giảm xuống còn 8,3% (kế hoạch đến năm 2005 là 10%). Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đến cuối năm 2004 là 26% (kế hoạch đến năm 2005 là 22 - 25%). Tỷ lệ hộ được dùng nước sạch ở nông thôn đến cuối năm 2004 là 58% (kế hoạch đến cuối 2005 là 62%). Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá, giá cả ổn định và việc điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 210 nghìn đồng đầu năm 2001 và 290 nghìn đồng đầu năm 2003 cùng với việc triển khai nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo nên đời sống các tầng lớp dân cư ở cả thành thị và nông thôn nhìn chung tiếp tục được cải thiện. II. Những hạn chế và yếu kém: Bên cạnh những thành tựu nêu trên, tình hình kinh tế - xã hội nước ta thời gian vừa qua vẫn còn nổi lên nhiều khó khăn, thách thức đó là: 1-Tăng trưởng kinh tế (GDP) mới đạt ở mức thấp của mục tiêu đề ra, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa có chuyển biến rõ nét; cơ cấu kinh tế chưa có bước chuyển dịch mạnh theo hướng hiện đại hoá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt được mức thấp của kế hoạch đề ra, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ, tốc độ tăng trưởng thấp xa so với mục tiêu của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (trên 8%). Trong khi đó trong cùng thời kỳ này, một số nước trong khu vực đã vươn lên có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều hoặc tốc độ tăng trưởng cao hơn năm trước.(Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB), trong cùng thời kỳ, Trung Quốc tăng 8,8%; Malaixia tăng 6,8%, cao hơn 1,6% so với năm 2003; Singapore tăng 8,1%.) Năng suất lao động thấp. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu là yếu tố vốn và lao động, yếu tố về tiến bộ khoa học công nghệ và quản lý tuy đã có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh và thiên tai, tuy giá trị sản xuất đạt cao, nhưng giá trị gia tăng tăng trưởng thấp so với kế hoạch.( Kế hoạch đặt ra là 4%, nhưng chỉ ước đạt 3,3%) Trong ngành công nghiệp, tuy tỷ trọng giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất đã tăng lên, song mức chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng vẫn còn lớn. (Hàng năm giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 15,5-16%, nhưng giá trị gia tăng của ngành tăng khoảng 10- 10,5%.) Ngành công nghiệp chế biến, chế tác là ngành có đóng góp vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp khoảng từ 55 - 65% lại phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu nên thiếu tính ổn định. Chi phí sản xuất trong ngành công nghiệp tuy đã giảm, song vẫn còn cao so với các nước trên thế giới. (Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp (giá năm 1994) tăng 16%, nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10,28%, dự kiến năm 2004 giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 15,6% nhưng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp đã tăng khoảng 10,7%. Tuy nhiên, chênh lệch giữa tốc độ tăng về giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm còn cao so với các nước trong khu vực.) . Sức cạnh tranh của một số sản phẩm tuy có được cải thiện song vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực. Lĩnh vực dịch vụ là lĩnh vực đóng góp lớn vào tăng trưởng nhưng năm 2004 tốc độ tăng trưởng vẫn thấp (dự kiến tăng 7,3%). Khu vực kinh tế nhà nước còn nhiều yếu kém, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhiều tiêu cực trong các Tổng công ty nhà nước được phát hiện. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước thấp, nhiều doanh nghiệp kinh doanh không có lãi, nợ xấu của các doanh nghiệp còn lớn; khả năng thanh toán nợ còn hạn chế, nguồn vốn tự có thấp. (Theo đánh giá, tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chỉ đạt khoảng 10,7%; khoảng 23% doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ với tổng số lỗ lũy kế đến hàng nghìn tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp đi vay gấp 5 lần số vốn nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp, có doanh nghiệp kinh doanh tới 99% bằng vốn vay, dẫn tới rủi ro cao; khả năng thanh toán nợ thấp.) quá trình sắp xếp, cổ phần hóa chậm. Khu vực kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được các tiềm năng; vốn huy động cho sản xuất kinh doanh còn thấp; trình độ công nghệ nói chung còn lạc hậu; công tác quản lý doanh nghiệp hợp tác xã còn yếu. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa có bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang yếu tố tự phát. Ngành dịch vụ chưa khai thác hết tiềm năng nên tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Trong công nghiệp, tỷ trọng các sản phẩm chất lượng cao còn thấp. Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ trọng các sản phẩm, các cây trồng, vật nuôi có năng suất cao còn hạn chế. Môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh còn vướng mắc chưa thật sự bình đẳng (đặc biệt là về đất đai), thiếu minh bạch làm hạn chế khả năng cạnh tranh và vươn lên của các doanh nghiệp. 2- Triển khai thực hiện vốn đầu tư phát triển còn chậm; tỷ lệ giải ngân đạt thấp. Thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 của các Bộ, Tổng công ty, các tỉnh, thành phố còn thấp. Các phương án bố trí kế hoạch của một số địa phương thiếu tập trung, vẫn còn tình trạng nhiều công trình, dự án kéo dài quá thời gian quy định, một số dự án chưa đầy đủ thủ tục đầu tư. Tiến độ giải ngân nhiều dự án đầu tư còn chậm, nhất là trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục và các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA. Mức giải ngân vốn ODA chưa đạt kế hoạch; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng chưa cao, chưa có những khởi sắc. 3. Nguồn nhân lực tương đối lớn nhưng chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Nước ta được xếp vào hàng các quốc gia có trình độ học vấn cao nhưng do xuất phát điểm là nước nông nghiệp lạc hậu, tiếp theo đó là những năm dài nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, quan liêu bao cấp nên đã để lại hậu quả nặng nề về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cũng như đội ngũ những người lao động. Nước ta hiện nay có trên 50 triệu người từ 15 tuổi trở lên, nhưng tỉ lệ qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kĩ thuật rất thấp. Theo kết quả điều tra dân số 1-4-1999 thì tới thời điểm điều tra chỉ có 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên có bằng cấp về một trình độ chuyên môn kĩ thuật nào đó, tức là đã qua trường lớp đào tạo, trong đó 2,3% là công nhân kĩ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp; 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp; 0,7% cao đẳng; 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Tỷ lệ qua đào tạo đã thấp, cơ cấu đào tạo lại bất hợp lý. Quan hệ tỷ lệ đào tạo giữa 3 loại trình độ chuyên môn kỹ thuật; (1) đại học và trên đại học; (2) Trung học chuyên nghiệp; (3) Công nhân kỹ thuật theo thông lệ quốc tế là: 1 - 4 - 10 hoặc 1 - 3 - 5, nhưng ở nước ta các tỷ lệ này tới thời điểm tổng điều tra dân số năm 1- 4-1989 là 1 - 1,16 - 0,96 và đến thời điểm tổng điều tra dân số 1-4-1999 còn bất hợp lý hơn với quan hệ tỷ lệ: 1- 1,13 - 0,92. Cơ cấu đào tạo bất hợp lý nên tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong nền kinh tế có xu hướng ngày càng trầm trọng. Sinh viên ra trường không có việc làm, nhưng các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lại không tìm được công nhân kỹ thuật và thợ lành nghề. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức mà bản thân người lao động không biết nghề hoặc biết nghề không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm việc làm vì ngày nay người ta quan tâm chủ yếu đến chất lượng lao động chứ không tập trung vào khai thác số lượng lao động như trước đây. 4. Việc cải cách hành chính chưa đạt được kết quả như mong muốn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Cải cách hành chính tiến bộ rất chậm so với mong muốn của nhân dân, doanh nghiệp và chính quyền cơ sở và là khâu yếu nhất hiện nay. Tư tưởng cải cách đổi mới ở một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu. Tác động của cải cách hành chính lên đời sống nhân dân chưa rõ ràng, chủ yếu mới chỉ thể hiện trên văn bản giấy tờ. Chưa xác định được những khâu đột phá trong cải cách hành chính. Việc ban hành một số cơ chế, chính sách chưa kịp thời và đồng bộ, các thủ tục hành chính chậm được cải tiến, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước chưa được thực hiện thường xuyên, mối quan hệ giữa một số cơ quan nhà nước với người dân còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều hạn chế, kém đạo đức, còn nhũng nhiễu dân đang là cản trở cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. PHầN III: Các giải pháp chủ yếu để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng ta chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện chủ trương đó, trong điều kiện cụ thể của giai đoạn hiện nay, cần có những giải pháp chủ yếu sau đây: 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Mục tiêu và động lực trực tiếp của kinh tế hàng hoá về mặt kinh tế là phải thu được lợi nhuận tối đa. Vì vậy, trước hết cần xác định được cơ cấu kinh tế phù hợp nhất cho từng đơn vị, từng ngành và giữa các vùng, các ngành cũng như trên phạm vi cả nước. Cơ cấu kinh tế mới, hợp lí nghĩa là cơ cấu kinh tế đó phải theo hướng tiến lên hiện đại, tạo những điều kiện thuận lợi cho phát triển lực lượng sản xuất, khoa học – kỹ thuật công nghệ; khai thác và phát huy được những lợi thế so sánh của đất nước về tài nguyên, nhân lực, vị trí địa lý kinh tế. .. tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế, sản xuất ra nhiều hàng hoá có giá trị xuất khẩu cao, thay thế nhập khẩu một cách có hiệu quả, đưa nền kinh tế đất nước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngoài ra, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần chú ý đến tính ổn định, trên cơ sở đó để xác định đúng đắn và có hiệu quả kinh tế các phương án đầu tư. Muốn vậy, Nhà nước cần có quy hoạch tổng thể, mang tính chất định hướng; phải xác định được khá chính xác nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai... 2. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh, có hiệu quả cao Cần khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài và nhất quán, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất. - Đối với kinh tế nhà nước, điều quan trọng và cấp bách là tiếp tục sắp xếp và đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, hướng tới một cơ cấu sản xuất và đầu tư năng động của nền kinh tế, cho phép tận dụng và phát huy được lợi thế so sánh về tài nguyên, nguồn lực con người . Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (trong đó có doanh nghiệp nhà nước) trong nền kinh tế quốc dân với tư cách là một công cụ có sức mạnh để nhà nước điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển đúng hướng. - Đối với kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, có chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ phát triển với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo những nguyên tắc của nó. - Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Vì vậy, cần tạo điều kiện và giúp đỡ, giải quyết các khó khăn về vốn, khoa học, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm; hướng dẫn và khuyến khích họ từng bước đi vào các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. - Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì thế, cần khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh mà luật pháp không cấm, yên tâm làm ăn lâu dài và được bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp. - Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò to lớn trong việc động viên vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lí. .. Vì vậy, cần phát triển phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. - Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Với tinh thần đó, Nhà nước cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy được tiềm năng của mình, đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả. 3. Đẩy mạnh và tổ chức tốt phân công lao động xã hội. Thực trạng của sự phân công lao động xã hội ở nước ta hiện nay còn ở trình độ thấp, có nhiều vấn đề bất hợp lý như: tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ quá cao; phân bố lao động chưa hợp lý giữa các vùng, giữa các ngành kinh tế, giữa lao động sản xuất và dịch vụ... Vì vậy, để tiến hành phân công lao động xã hội một cách hợp lý thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi và tổ chức một cách có quy hoạch trong phạm vi từng ngành, từng vùng và cả nước. Mặt khác, ở từng ngành, từng địa phương, cơ sở và người lao động cần tạo mọi điều kiện tìm việc làm, tiến hành việc phân công lao động tại chỗ là chủ yếu. Trước mắt, cần tập trung đẩy mạnh sự phân công lao động trong nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V (khoá IX), nhằm khai thác hợp lý các tiềm năng to lớn trong nông nghiệp (về lao động, vốn, thị trường) tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ cho nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Đẩy mạnh quá trình tham gia vào phân công lao động quốc tế bằng nhiều hình thức thích hợp. 4. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào sản xuất Khoa học và công nghệ tiên tiến là một yếu tố quan trọng đối với phát triển kinh tế hàng hoá. Bởi vì, chính nó làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn với chất lượng cao, giá thành hạ. Do đó, nó thoả mãn nhu cầu đa dạng và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện được giải pháp này, cần phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, tiếp thu thành tựu khoa học thế giới, lựa chọn và làm chủ công nghệ chuyển giao và Việt Nam, từng bước đưa công nghệ nước ta đạt trình độ trung bình của khu vực; bước đầu phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao như: điện tử và tin học; công nghệ sinh học, vật liệu mới và tự động hoá; từng bước chuyển biến rõ nét về bảo vệ môi trường sinh thái. 5. Tiếp tục xây dựng phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng Đối với phát triển công nghiệp, cần quan tâm phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn trong các lĩnh vực: chế biến lương thực và thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử và tin học, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu... Nâng cấp và cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có và hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao). Kết cấu hạ tầng (đường sá, kho tàng, bến bãi, sân bay... cũng như các phương tiện thông tin liên lạc) có vai trò trọng yếu, được xem như là mạch máu của nền kinh tế. Tình trạng kết cấu hạ tầng và thông tin liên lạc của ta hiện nay rất yếu kém và lạc hậu. Đây là một nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, vì vậy, cần ưu tiên phát triển nó nhằm bảo đảm lưu thông trong mọi thời tiết của các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm. Đặc điểm của các công trình kết cấu hạ tầng là đầu tư xây dựng vô cùng tốn kém, thu hồi vốn lâu. Vì vậy, cần lựa chọn hình thức, quy mô, xác định trọng tâm trọng điểm để nhanh chóng đưa công trình vào sử dụng, phục vụ đắc lực và có hiệu quả nền kinh tế hàng hoá. 6. Tiếp tục tạo lập đồng bộ hệ thống thị trường Hệ thống thị trường đồng bộ là một nhân tố quan trọng đối với nền kinh tế hàng hoá. Đó là điều kiện để giải quyết “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất hàng hoá. Nói đến hệ thống thị trường đồng bộ là nói đến một tổng thể các loại hình thị trường có quan hệ hữu cơ với nhau, có tác động mạnh mẽ và thường xuyên đến sản xuất hàng hoá. (bao gồm : Thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản.) Trong thời gian tới cần làm tốt mấy vấn đề sau: Một là, phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ. Mở rộng thị trường, thực hiện giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước. Phát triển thị trường công nghệ, các loại dịch vụ (Thông tin, tư vấn, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. ..). Tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh. Thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, lĩnh vực nhất định vì lợi ích của đất nước, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát để hạn chế mặt tiêu cực của độc quyền. Hai là, chỉnh đốn hoạt động của các tổ chức thương nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đổi mới hệ thống thương nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo; khắc phục tình trạng buông lỏng thị trường nông thôn, miền núi. Ba là, tổ chức quản lí và hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động. Bốn là, quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Năm là, xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khoán. 7. Hoàn thiện các chính sách tài chính – tiền tệ, tín dụng ngân hàng Tài chính – tiền tệ là một nhân tố, một phương tiện hữu hiệu nhất đảm bảo cho nền kinh tế hàng hoá phát triển. Nền tài chính-tiền tệ ổn định thì mới ổn định được các vấn đề kinh tế khác của nền kinh tế, đến sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo cơ sở đề đồng tiền Việt Nam có thể chuyển đổi được; ổn định giá cả thị trường; thực hiện sự cân đối xuất - nhập khẩu; cân đối tiền – hàng; kiềm chế lạm phát. .. Để đạt được điều đó, cần thực hiện đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả theo hướng sau đây: - Chính sách tài chính phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển; góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát. .. Để tạo vốn đầu tư phát triển, giải pháp cơ bản và lâu dài là phải làm ăn có hiệu quả, phát triển kinh tế, đổi mới chính sách thuế... - Chuyển mạnh chính sách tiền tệ và hoạt động của ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giá cả và đổi mới công tác quản lý giá cả. 8. Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại Trong thời đại ngày nay, xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế đã trở thành phổ biến và cần thiết đối với mọi quốc gia. Nó tạo điều kiện cho nền kinh tế mỗi nước phát triển nhanh và thuận lợi. Nền kinh tế nước ta tất yếu cũng chịu sự tác động của xu thế đó. Vì vậy cần thiết mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá đa dạng, phong phú, có hiệu quả cao. Cụ thể, cần lưu ý mấy vấn đề sau: Một là: Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại với tinh thần xây dựng và phát triển nền kinh tế hướng mạnh sang xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, mở rộng thị trường tiêu thụ. Nhanh chóng sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu một cách có hiệu quả và có sức cạnh tranh với hàng cùng loại của nước ngoài. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu trên thị trường...giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Hai là : Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với các đối tác.Chủ động tham gia vào cộng đồng thương mại thế giới. 9. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước Để tạo điều kiện cho mọi hoạt động kinh tế hướng đến mục tiêu: hiệu quả, công bằng, ổn định, tăng trưởng và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi nhà nước phải thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật, kế hoạch và các loại công cụ khác. Nhà nước cần tạo môi trường, điều kiện cho các đơn vị, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng để phát triển kinh tế hàng hóa; mặt khác, Nhà nước thực hiện tốt vai trò điều tiết sản xuất, lưu thông hàng hoá, tiền tệ, thống nhất quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất nhập khẩu, tăng cường vai trò kiểm tra kiểm soát để xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. 10. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và người lao động Nhân tố con người có vai trò to lớn và quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và phát triển nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đâù đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá; từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, chúng ta cần nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và người lao động có đủ năng lực và bản lĩnh đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển kinh tế mới. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ hiện nay của nước ta, xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc biệt là trong kinh tế thị trường thì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh bên cạnh những mặt tích cực là năng động, thích ứng nhanh với cơ chế mới thì vẫn còn rất nhiều mặt yếu kém, ít kinh nghiệm, năng lực hạn chế, quan hệ với nước ngoài còn nhiều sơ hở, mất cảnh giác. Đội ngũ những người lao động ở nước ta cho đến nay, phần đông chưa được đào tạo và huấn luyện nghề nghiệp. Vì vậy, tuỳ theo yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ của từng loại cán bộ và đội ngũ người lao động trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mà định ra các chương trình và giải pháp cụ thể để thực hiện công tác trên đây một cách có hiệu qủa cao. Kết luận Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN là mô hình tổng quát con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Thực tế phát triển kinh tế xã hội của nước ta từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế kinh tế thị trường cho thấy nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều đạt khá. Các thành tựu của nền kinh tế không chỉ được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn được đánh giá qua sự phát triển toàn diện của xã hội. Tất cả những kết quả đó đã chứng minh tính đúng đắn của việc phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng tồn tại những vấn đề nóng bỏng như lạm phát, thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh v.v… Đó là những thất bại của kinh tế thị trường mà nền kinh tế nước ta phải đối mặt. Việc giải quyết những vấn đề này đối với nước ta là rất khó khăn và phức tạp bởi nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường nhưng là nền kinh tế thị trường " định hướng XHCN”. Do đó đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược nhưng đồng thời cũng là những vấn đề mang tính cấp thiết bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Chỉ có như vậy nền kinh tế nước ta mới phát triển một cách bền vững, hiệu quả và đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội, 1987. 2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991. 3. Văn kiện Đại hội VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. 4. Văn kiện Đại hội IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. 5. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin, tập II, NXB Giáo dục, 1998. 6. Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999. 7. Trần Đình Bút, Trần Nam Hưng "Nhà nước và cơ chế thị trường”, NXB Trẻ 1998. 8. C.Mac và Ph.Anghen: Toàn tập, T23, NXB CTQG, Hà Nội, 1993. 9. Chu Văn Cấp " Về mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”, Lý luận chính trị, số 5, 2001. 10. Trần Thái Dương " Tiếp tục hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta”, Lý luận chính trị , số 2, 2001. 11. P. Samuelson "Kinh tế học”, tập I, Viện quan hệ quốc tế, 1989. 12. Lương Xuân Quỳ "Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam”, NXB Thống kê, 1994. 13. Tạp chí Tài chính tháng 10/2001. 14. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ ngày 27- 28 tháng 12 năm 2004. ***

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan