Luận văn Phân tích định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình

Tài liệu Luận văn Phân tích định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình: LUẬN VĂN: Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đối với NHTM hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng thường chiếm tới hơn một nữa tổng tài sản có và tạo ra hơn 2/3 tổng thu nhập của hầu hết các NHTM. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, trong chiến lược kinh doanh của mình, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả. Tuy nhiên, không phải quan hệ tín dụng nào cũng mang lại lợi ích và lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi bên trong lợi ích ấy chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể lường trước hoặc không lường trước được. Hậu quả của những rủi ro đó là sự gia tăng về chi phí, hạn chế quy mô tín dụng, gây ra thiệt hại về tài chính, hoặc có thể trầm trọng hơn đó là sự mất uy tín của cả ngân hàng và khách hàng, gây mất ổn định trong hoạt động ngân hàng cũng như hoạt...

pdf113 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đối với NHTM hoạt động trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng thường chiếm tới hơn một nữa tổng tài sản có và tạo ra hơn 2/3 tổng thu nhập của hầu hết các NHTM. Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, trong chiến lược kinh doanh của mình, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả. Tuy nhiên, không phải quan hệ tín dụng nào cũng mang lại lợi ích và lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi bên trong lợi ích ấy chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể lường trước hoặc không lường trước được. Hậu quả của những rủi ro đó là sự gia tăng về chi phí, hạn chế quy mô tín dụng, gây ra thiệt hại về tài chính, hoặc có thể trầm trọng hơn đó là sự mất uy tín của cả ngân hàng và khách hàng, gây mất ổn định trong hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động của nền kinh tế. Do đó, việc xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, hiệu quả luôn gắn liền với việc xây dựng hệ thống các biện pháp phòng ngừa, xử lý RRTD một cách hữu hiệu. Vì vậy, công tác quản lý RRTD luôn là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM. Việc giảm thiểu rủi ro và tổn thất trong hoạt động tín dụng luôn là yêu cầu đặt ra, đồng thời là mục tiêu hướng tới trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Trong những năm qua, cùng với việc đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và các nghiệp vụ trong toàn hệ thống thống ngân hàng Việt Nam, hoạt động tín dụng của các NHTM ở nước đã có những thay đổi lớn từ trong tư duy, nhận thức đến hành động của cả nhà quản lý cấp cao ngân hàng đến các nhân viên tín dụng. Việc cấp tín dụng trước đây của các NHTM chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo và xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay khi rủi ro xảy ra, thì nay đã dần chuyển sang cho vay chủ yếu dựa trên cơ sở đánh giá uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng và áp dụng các biện pháp giám sát phòng ngừa, xử lý rủi ro mà các NHTM trên thế giới đã và đang áp dụng. Vì vậy, dư nợ của các NHTM ngày càng mở rộng, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng lên. NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình không nằm ngoài xu hướng đổi mới chung đó, tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 25%, đối tượng cho vay của ngân hàng ngày càng mở rộng, nhiều ngành nghề chăn nuôi, trồng trọt mới xuất hiện trên địa bàn đã được ngân hàng tiếp cận để mở rộng cho vay. RRTD ngày càng giảm thấp, nợ quá hạn và nợ khó đòi được kiểm soát. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, hoạt động quản lý RRTD của chi nhánh Thăng Bình vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa tiếp cận được các phương pháp quản lý RRTD của ngân hàng hiện đại. Chính vì thế, chất lượng của các khoản mục cho vay chưa cao, nguy cơ rủi ro tiềm ẩn của các khoản mục tín dụng luôn đe doạ ngân hàng, nợ quá hạn còn phát sinh còn ở mức cao. Chính sự e ngại rủi ro làm cho việc mở rộng quy mô tín dụng thường gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình là cấp thiết và luôn có ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng chính là lý do cơ bản của việc lựa chọn đề tài: “Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bỡnh”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng nước ta được chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng 1 cấp sang hệ thống ngân hàng 2 cấp, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và kinh doanh tín dụng nói riêng được xác lập và phát triển. Vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về rủi ro TDNH và quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Trong số đó có một số công trình đáng chú ý sau: - “Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở thủ đô Hà Nội” (1997). Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Lê Anh Hào, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” (1999). Luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Văn Lâm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Thái Bình” (2002). Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Quang Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng Công thương Việt Nam” (2004), Luận văn thạc sĩ Kinh tế của tác giả Mai Văn Hoạt. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “Nâng cao chất lượng tín dụng tại sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” (2005). Luận văn thạc sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Loan, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Các công trình này đã làm rõ một số lý luận chung về rủi ro TDNH, về phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Nhưng cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về RRTD và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về rủi ro TDNH và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Thăng Bình. Từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra gồm: - Làm rõ những vấn đề lý luận về RRTD và hạn chế RRTD của NHTM. - Đánh giá thực trạng về RRTD và công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua. Qua đó, chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong công tác phòng ngừa, hạn chế RRTD và những nguyên nhân chủ yếu. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM và công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Về phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tại NHNo&PTNT ở địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam từ năm 2001 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài trên, luận văn sử dụng các phương pháp như: Phép biện chứng của Mác xít Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp Phương pháp mô hình hoá, so sánh, đối chiếu Một số phương pháp khác. 6. Những đóng góp của đề tài - Hệ thống hoá được các vấn đề lý luận cơ bản về RRTD và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. - Đánh giá thực trạng về RRTD và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua, đồng thời phân tích những kết quả đạt, những tồn tại, hạn chế trong việc hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và những nguyên nhân chủ yếu. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kiến nghị, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 một số vấn đề về rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1. Một số vấn đề về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.1. Quan niệm về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Quan niệm về rủi ro và rủi ro trong kinh doanh Trong cuộc sống hàng ngày, rủi ro có thể xuất hiện trên mọi lĩnh vực, mọi lúc, mọi nơi và không ngoại trừ một ai. Khi xã hội loài người càng phát triển, hoạt động của con người ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp thì rủi ro cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Trong kinh doanh, mối nguy cơ rủi ro là rất lớn vì các nhà kinh doanh không những gánh chịu các rủi ro chung như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh,... mà còn gánh chịu cả về sự biến động của giá cả, nợ nần, thua lỗ. Vì vậy, vấn đề rủi ro rất được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu. Có rất nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất thế nào là rủi ro. Các trường phái và các tác giả đã đưa ra định nghĩa khác nhau về rủi ro. Nhìn chung có 2 quan niệm về rủi ro như sau: * Theo quan niệm truyền thống, có một số định nghĩa về rủi ro như sau: - Theo Từ điển tiếng Việt do trung tâm từ điển học Hà Nội xuất bản 1995 thì “Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến”. - Theo giáo sư Nguyễn Lân: “Rủi ro (đồng nghĩa với rủi) là sự không may mắn” [25, tr.25]. - Theo tiến sĩ Hồ Diệu: “Rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút về lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến” [25, tr.25]. Như vậy, theo quan niệm truyền thống, rủi ro được định nghĩa là những điều không may mắn xảy ra cho con người, làm mất mát, thiệt hại về tài sản hay phát sinh một khoản nợ. Quan niệm này cho rằng rủi ro chỉ gắn liền với mất mát, thiệt hại hay khó khăn. * Theo quan niệm hiện đại, có một số định nghĩa điển hình về rủi ro như sau: - Theo Frank Knight thì “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”. - Theo Allan Willett “Rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi”. - Theo Irving Preffer “Rủi ro là tổng hợp những ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất”. Như vậy, theo quan niệm hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Quan niệm này cho rằng rủi ro có thể mang đến tổn thất, mất mát, nguy hiểm cho con người nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. Vì vậy, có thể nói, rủi ro vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. * Trong kinh doanh người ta thường đề cập đến 2 khái niệm rủi ro sau: - Rủi ro thuần túy là rủi ro chỉ mang lại những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm như hỏa hoạn, trộm cắp, tai nạn,..., làm phát sinh một khoản chi phí để bù đắp thiệt hại. Vì vậy, loại rủi ro này cần phải có biện pháp phòng tránh hoặc hạn chế. - Rủi ro suy tính (hay theo lý thuyết của A.M.Mowbray Blanchad Williams còn gọi là rủi ro mang tính đầu cơ) là rủi ro mà trong đó những cơ hội tạo ra thuận lợi gắn với những nguy cơ gây ra tổn thất, loại rủi ro này là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh và có tính hấp dẫn của nó. Để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, người ta thường phân loại rủi ro theo nguồn rủi ro (theo nguyên nhân), có những nguồn rủi ro như sau: + Rủi ro do môi trường thiên nhiên. Nhóm rủi ro này do các hiện tượng thiên nhiên như động đất, núi lửa, bão lũ,..., gây ra. Những rủi ro này thường dẫn đến những thiệt hại to lớn về người và tài sản. + Rủi ro do môi trường xã hội. Nhóm rủi ro này do sự thay đổi các chuẩn mực, hành vi con người, cấu trúc xã hội, các định chế,... gây ra. + Rủi ro do môi trường văn hóa. Là những rủi ro do thiếu hiểu biết về phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối sống, đạo đức của dân tộc, từ đó có cách hành xử không phù hợp. + Rủi ro do môi trường chính trị. Nhóm rủi ro này do sự bất ổn của môi trường chính trị. Môi trường chính trị ổn định sẽ giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp. + Rủi ro do môi trường luật pháp. Luật pháp đề ra các chuẩn mực mà mọi người phải thực hiện, tuy nhiên, xã hội luôn phát triển, nếu các chuẩn mực luật pháp không phù hợp với bước tiến của xã hội thì sẽ gây ra rủi ro. Ngược lại, nếu luật pháp thay đổi nhiều, không ổn định cũng gây ra khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. + Rủi ro do môi trường kinh tế. Mọi hiện tượng diễn ra trong môi trường kinh tế như tốc độ phát triển kinh tế, khủng hoảng, lạm phát, suy thoái kinh tế,..., đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp, gây ra những rủi ro, bất ổn. + Rủi ro do môi trường hoạt động của tổ chức. Trong quá trình hoạt động của mọi tổ chức, có thể phát sinh nhiều rủi ro. Rủi ro có thể phát sinh ở nhiều lĩnh vực như công nghệ, tổ chức bộ máy, văn hóa tổ chức, tuyển dụng, đãi ngộ, quan hệ khách hàng, đối thủ cạnh tranh, tâm lý của người lãnh đạo. + Rủi ro do nhận thức của con người. Một khi nhận diện và phân tích không đúng vấn đề thì tất yếu sẽ có kết luận và quyết định sai. Tóm lại: Trong kinh doanh, rủi ro được hiểu là sự bất trắc có thể đo lường được, nó có thể mang đến những tổn thất, thiệt hại, nguy hiểm, hoặc làm mất đi những cơ hội sinh lợi nhưng cũng có thể đem đến những lợi ích, những cơ hội thuận lợi. Vì vậy, việc nghiên cứu rủi ro để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực và tìm kiếm những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh là điều hết sức cần thiết trong điều kiện kinh doanh ngày nay. 1.1.1.2. Quan niệm về rủi ro tín dụng của NHTM Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn có tiềm ẩn nguy cơ gặp phải rủi ro cao. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, rủi ro ngân hàng thường ít được đề cập đến. Khi rủi ro xảy ra, Nhà nước thường sử dụng các biện pháp hành chính để ngăn chặn như phát hành tiền, không cho các doanh nghiệp, cá nhân rút tiền... Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng mất khả năng thanh toán ở các doanh nghiệp xảy ra thường xuyên, việc cho vay không thu được nợ, quản lý ngân hàng không chặt chẽ, các ngân hàng bị thua lỗ, khách hàng đến rút tiền ào ạt, mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản là hiện tượng tất yếu. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là biến cố không mong đợi xảy ra gây thiệt hại, mất mát về tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thì rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng bao gồm những loại sau: - Rủi ro do bị ứ đọng vốn. Nguồn vốn hoạt động của NHTM chủ yếu là từ vốn huy động của công chúng. Khi vốn huy động của NHTM không chuyển sang được các tài sản có sinh lợi, từ đó không có lãi để trang trải lãi vay cho người gởi, các chi phí nghiệp vụ, quản lý... gây ra thua lỗ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Rủi ro này thường gặp phải trong trường hợp nền kinh tế không ổn định, ngân hàng không có tín nhiệm đối với khách hàng, hay do cơ cấu lãi suất không phù hợp. - Rủi ro do thiếu vốn. Trường hợp ngân hàng không đủ ngân quỹ, các tài sản có lưu hoạt, cùng với việc gia tăng vốn từ các nguồn vốn khác khiến nó không đáp ứng được các nghĩa vụ chi trả và các ràng buộc về tài chính. Nguyên nhân của rủi ro này là do việc hoán chuyển kỳ hạn nguồn vốn và sử dụng vốn, do sự biến động mang tính chất thời vụ của người cần vay và người cần gởi, những biến động mang tính chất bất thường không dự đoán được. Từ đó, làm cho ngân hàng không nhận được tiền gởi, không thu được hay không mở rộng được các tài sản nợ để thực hiện các nghĩa vụ trên, từ đó gây mất lòng tin cho khách hàng, làm cho nhu cầu rút tiền ngày càng gia tăng. Để đối phó với trường hợp này, ngân hàng buộc phải thu hồi các khoản vay chưa đến hạn, bán lại các chứng khoán hay vay nóng các ngân hàng khác,... Tất cả những hoạt động này gây thiệt hại lớn cho ngân hàng, nếu trầm trọng, sẽ đưa ngân hàng đến bên bờ vực phá sản. - Rủi ro lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất của các khoản tiền vay được xem là giá cả của món vay, lãi suất được hình thành và chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan, như quy luật cung cầu, quy luật giá trị,... Vì vậy, lãi suất luôn biến động làm thay đổi tiền lãi, thu nhập của ngân hàng, có thể làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thua lỗ. - Rủi ro hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cả của 1 đồng tiền tính ra một đồng tiền khác. Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, sự biến động tỷ giá sẽ làm cho tài sản, thu nhập của ngân hàng bị đe dọa khi ngân hàng sở hữu chứng khoán bằng ngoại tệ hay cho vay bằng ngoại tệ. - Rủi ro thuần túy. Đây là những rủi ro không lường trước được, liên quan đến thiên tai, hỏa hoạn, động đất,... và liên quan đến đạo đức như lừa đảo, trộm cắp làm thiệt hại hay phá hủy tài sản của ngân hàng. - Rủi ro mất khả năng thanh toán. Đây là rủi ro riêng có của ngân hàng, nó liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp ngân hàng. Rủi ro này thường là hậu quả của một hay nhiều rủi ro trên mà ngân hàng không lường được. Khi vốn tự có của ngân hàng không bù đắp được các khoản mất mát, thiệt hại thì sẽ dẫn đến vỡ nợ. - Rủi ro tín dụng. Khoản mục tín dụng thường chiếm tỷ trọng chủ yếu, khoảng từ 1/2 đến 2/3 trong tổng tài sản có sinh lợi của ngân hàng và là khoản mục tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu (hơn 2/3) cho ngân hàng, nhưng cũng lại là khoản mục chứa đựng nguy cơ rủi ro cao và một khi xảy ra thì gây thiệt hại khá lớn cho các ngân hàng. Để hiểu rõ về RRTD, chúng ta phân tích định nghĩa tín dụng của Mác. Theo Mác: Tín dụng là sự chuyển nhượng lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau 1 thời gian nhất định thu lại được lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Mác cho rằng: Tiền chẳng qua chỉ rời tay người sở hữu trong 1 thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động. Cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh toán cũng không tự đem bán đi, nó chỉ đem cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát với 1 kỳ hạn nhất định. Do vậy, một nguyên tắc cơ bản trong quan hệ tín dụng là nguyên tắc hoàn trả: Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì ngân hàng gặp phải rủi ro [10, tr.462]. Như vậy, có thể hiểu RRTD là việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng mà các khoản thu nhập dự tính mang lại từ tài sản có sinh lợi của ngân hàng không được hoàn trả đầy đủ cả về số lượng và thời hạn làm cho các ngân hàng luôn ở trong tình trạng đe dọa thua lỗ, phá sản. Hay nói cách khác, RRTD là những tổn thất tài sản khi bên vay (khách hàng) không có khả năng thanh toán khoản vay theo đúng trong hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận với ngân hàng. Tóm lại, hoạt động của ngân hàng rất mạo hiểm và nguy cơ gặp phải rủi ro cao, do vậy, cần thiết phải nhìn nhận đúng rủi ro, đặc biệt là RRTD và có biện pháp phòng ngừa là công việc không thể thiếu trong hoạt động hàng ngày của các ngân hàng hiện nay. 1.1.2. Đặc điểm rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Đặc điểm về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại - Rủi ro tín dụng của NHTM là loại rủi ro mang tính gián tiếp. Với chức năng trung gian tài chính, NHTM đứng giữa người đi vay và người cho vay để kiếm lợi về mình. Hoạt động kinh doanh của NHTM có thể được mô tả như sau: Đối với người cho vay (người thừa vốn). NHTM tạo điều kiện để thu hút các khoản tiền nhỏ lẻ, nhàn rỗi ở các nơi trong nền kinh tế. Để thực hiện được, ngân hàng cần phải tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi, dể dàng trong việc rút và gởi tiền của các đối tượng này như đa dạng các hình thức huy động, đa dạng các thời hạn gởi, cung cấp các dịch vụ tiện ích, sử dụng các công cụ lãi suất hay các hình thức khuyến khích bằng vật chất khác. Trong mối quan hệ này, khách hàng với tư cách là người ủy nhiệm cho ngân hàng bảo quản tiền của mình, khách hàng không mất quyền sở hữu, ngân hàng phải đảm bảo nhu cầu rút tiền và các điều kiện khác cho khách hàng như đã thỏa thuận ban đầu. Đối với người đi vay (thiếu vốn). NHTM sau khi đã thu hút được các nguồn vốn sẽ đem cho những người có nhu cầu về tiền trong nền kinh tế sử dụng vào các mục đích như đầu tư vào SXKD hay tiêu dùng. Để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi, ngân hàng phải thu ở người đi vay một khoảng lãi với lãi suất lớn hơn lãi suất trả cho người gởi. Như vậy, với hoạt động kinh doanh của ngân hàng chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động bên ngoài để cho vay, quy mô của nguồn vốn huy động lớn hay bé sẽ quyết định quy mô kinh doanh và lợi nhuận mang lại cho ngân hàng. Nói cách khác ngân hàng sử dụng nguồn vốn của người khác cho người khác vay nhằm kiếm lời cho mình, mà việc hoàn trả vốn lại cho những người gởi tiền này hoàn toàn phụ thuộc vào những người đi vay. Nếu người đi vay gặp phải rủi ro không trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ không thể nào hoàn trả lại cho người gởi. Vậy, có thể khẳng định, RRTD của ngân hàng phụ thuộc khá lớn vào rủi ro của khách hàng mà ngân hàng cho vay. Hay nói cách khác “sức khỏe” của ngân hàng phụ thuộc khá lớn vào “sức khỏe” của khách hàng, “sức khỏe” của khách hàng tốt thì “sức khỏe” của ngân hàng mới tốt. - Rủi ro tín dụng của NHTM là loại rủi ro mang tính đa dạng, phức tạp. Trong hoạt động kinh doanh tín dụng, mục tiêu chủ yếu của ngân hàng là tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng, đồng thời phải đảm bảo sự an toàn vốn, đảm bảo hoàn trả cho người gởi tiền. Tuy nhiên nhu cầu tín dụng của khách hàng hoạt động trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, mỗi lĩnh vực, mỗi ngành nghề có những đặc thù riêng và nguy cơ rủi ro khác nhau, rất đa dạng và phức tạp nên RRTD của ngân hàng cũng rất đa dạng, phức tạp. Thông thường các khoản cho vay có khả năng sinh lời cao thì mức độ rủi ro cao. Hơn nữa, trước nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất, cải tiến trang thiết bị,..., phục vụ quá trình SXKD ngày càng gia tăng, các ngân hàng cũng luôn đứng trước áp lực phải mở rộng quy mô tín dụng nên RRTD cũng phát sinh nhiều hơn. Ngoài ra, tính đa dạng, phức tạp trong RRTD còn thể hiện ở chỗ, nó không hoàn toàn do chính khách hàng mà còn có thể do tác động của môi trường hoặc do chính ngân hàng gây ra. - Rủi ro tín dụng của NHTM là loại rủi ro mang tính khách quan. Trong hoạt động tín dụng của mình, do RRTD mang tính gián tiếp, sự thành công hay thất bại của một quan hệ tín dụng phụ thuộc vào sự thành bại của khách hàng vay vốn, phụ thuộc vào sự hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế, vào sự tác động thuận lợi hay bất lợi của môi trường tự nhiên, chính trị. Vì vậy, có thể nói, ngân hàng là nơi hứng chịu mọi rủi ro của khách hàng, mọi sự bất ổn của nền kinh tế. Ngược lại, do các ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nên sự sụp đỗ của ngân hàng nào đó sẽ ảnh hưởng đến các ngân hàng khác và ảnh hưởng đến nền kinh tế. Điều này có thể khẳng định rằng, RRTD không hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của NHTM. 1.1.2.2. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng - Thông tin không cân xứng, chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính là các nguyên nhân cơ bản gây nên các rủi ro cho ngân hàng nói chung và RRTD nói riêng. Thông tin không cân xứng (thông tin không đầy đủ, không chính xác) dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch. Rủi ro này do thông tin không cân xứng, không đầy đủ tạo ra và diễn ra trước khi thực hiện giao dịch tài chính. Nếu có đủ thông tin cần thiết về các đối tượng cần vay tiền, ngân hàng sẽ rất dễ dàng quyết định có cho vay hay không cho vay. Nhưng trên thị trường luôn tồn tại thông tin không cân xứng về người đi vay. Thông tin trên thị trường thường bị nhiễu loạn bởi người đi vay, người đi vay không có khả năng trả được nợ là người tích cực vay nhất, họ cố tạo ra bình phong đầy đủ nhất để vay được tiền vay của ngân hàng và kết quả họ là người đầu tiên được lựa chọn. Sự lựa chọn này gọi là sự lựa chọn đối nghịch, những người rất kém tín nhiệm (những người có thể rất dễ không hoàn trả được món vay) lại là những khách hàng có nhiều khả năng được lựa chọn nhất của ngân hàng. Nếu ngân hàng cho họ vay, ngân hàng sẽ đứng trước nguy cơ rủi ro không thu lại được nợ vay. Ngược lại, cũng do lựa chọn đối nghịch, ngân hàng sẽ bỏ mất cơ hội kiếm lợi nhuận. Như vậy muốn mở rộng tín dụng và hạn chế được rủi ro, ngân hàng cần phải vượt qua được thông tin không cân xứng để có sự lựa chọn đúng đắn. Vì vậy, vấn đề thông tin được xem là vấn đề quan trọng nhất để phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay của ngân hàng. Thông tin không cân xứng dẫn đến rủi ro đạo đức. Rủi ro này cũng do thông tin không cân xứng, không đầy đủ tạo ra và diễn ra sau khi thực hiện giao dịch tài chính. Trên thị trường có rất nhiều người vay tiền có ý muốn thực hiện những hoạt động không đạo đức (xét trên quan điểm người cho vay), một khi những người này vay được tiền, họ có thể đầu tư vào những dự án rủi ro cao hoặc sử dụng vốn không đúng với cam kết ban đầu hoặc có ý định chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Những người đi vay này, có thể ngay từ ban đầu đã có hành vi thiếu đạo đức, nhưng cũng có thể xuất hiện trong quá trình sử dụng vốn vay, tức là do trình độ quản lý, khả năng cạnh tranh cũng như năng lực kinh doanh yếu kém dẫn đến thất bại trong kinh doanh mà nảy sinh hành vi thiếu đạo đức. Ngân hàng lúc đó sẽ bị đặt vào tình cảnh nguy cơ gặp phải rủi ro. Nếu ngân hàng không thận trọng trong việc thẩm định cho vay và kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng thì nguy cơ rủi ro cho vay là rất lớn. Song cùng với nó, nếu ngân hàng quá thận trọng trong việc cho vay, không cho vay hoặc đột ngột cắt đứt hợp đồng tín dụng thì lại bị thiệt hại về lợi nhuận vì nguồn vốn huy động phải trả lãi và lớn hơn là mất uy tín với khách hàng. Vì vậy, giải quyết tốt vấn đề về đánh giá, chọn lọc khách hàng và kiểm soát trong quá trình cho vay sẽ giúp ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng, đồng thời sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu đến mức thấp nhất RRTD. Như vậy, để thoát khỏi nguy cơ bị vỡ nợ và thoát khỏi một cuộc hoảng loạn ngân hàng, để tăng thu và trụ vững trên thương trường, buộc lòng các ngân hàng phải vượt qua vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Vì vậy, vấn đề thông tin tín dụng, chọn lọc khách hàng và kiểm soát trong quá trình cho vay là những vấn đề có vai trò hết sức quan trọng trong việc ngăn ngừa và hạn chế RRTD của NHTM. - Sự tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường đối với ngân hàng và khách hàng là nguyên nhân gây ra RRTD của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, sự quản lý của Nhà nước chỉ mang tính định hướng. Mọi hoạt động kinh tế hoàn toàn chịu sự chi phối và điều khiển của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị và mục tiêu hướng tới lợi nhuận của các hoạt động kinh tế. Như vậy, mỗi sự biến động của môi trường xung quanh đều ảnh hưởng tốt hay xấu đến hoạt động kinh doanh nên rủi ro trong kinh doanh rất lớn. Với chức năng là một trung gian tài chính, ngân hàng vừa đóng vai trò là chủ nợ vừa đóng vai trò là con nợ. Nếu vì một lý do nào đó người vay gặp phải rủi ro, không trả được nợ thì rõ ràng ngân hàng gặp rủi ro. Vì vậy, RRTD của ngân hàng không chỉ do sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường đến chính ngân hàng mà còn tác động đến khách hàng vay vốn ngân hàng, cụ thể như: Thứ nhất: Sự tác động của các quy luật kinh tế đối với khách hàng vay vốn của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, với sự tồn tại khách quan của các quy luật kinh tế thì những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có những ưu thế so với các đối thủ khác về trình độ kỹ thuật và công nghệ, về năng lực quản lý, về sản phẩm,... thì mới có thể tồn tại và phát triển, khi đó, việc cho vay của ngân hàng sẽ thuận lợi, ngân hàng sẽ thu được nợ và có điều kiện để mở rộng hoạt động tín dụng. Ngược lại, những doanh nghiệp nào không có những lợi thế, hoạt động kém hiệu quả thì sẽ bị loại khỏi thương trường và thậm chí sẽ bị thua lỗ, phá sản. Khi hiệu quả kinh doanh thấp kém, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng, thậm chí không trả được nợ ngay cả khi còn hoạt động. Như vậy, bên cạnh những mặt tích cực, cạnh tranh cũng đã dẫn đến những kết quả xấu trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Do vậy, RRTD luôn gắn liền với hoạt động tín dụng. Thứ hai: Sự tác động của các quy luật kinh tế đối với ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng cũng như mọi doanh nghiệp khác, muốn tồn tại và phát triển thì tất yếu phải giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình kinh doanh, giữa người bán và người mua, giữa việc tìm kiếm lợi nhuận với rủi ro, giữa thế mạnh của mình so với các ngân hàng khác, giữa việc mở rộng phạm vi hoạt động với việc tăng chi phí. Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng giải quyết các mâu thuẫn này bằng cách mở rộng lĩnh vực cho vay, thâm nhập vào những lĩnh vực cho vay mới, nới lỏng các điều kiện tín dụng, dễ dàng chấp nhận các yêu cầu vay vốn của khách hàng,... Điều này dẫn đến, nhiều đề nghị vay vốn có khả năng trả nợ kém vẫn được ngân hàng chấp nhận nên nguy cơ RRTD của ngân hàng sẽ gia tăng. Do vậy, RRTD luôn gắn liền với việc mở rộng và gia tăng quy mô hoạt động tín dụng. - Sự bất ổn của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội là nguyên nhân gây ra RRTD Bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào cũng đều chịu sự chi phối của môi trường xung quanh. Mỗi sự biến động dù lớn hay nhỏ của môi trường cũng ảnh hưởng tốt hay xấu đến hoạt động kinh doanh. Môi trường kinh tế luôn ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người vay, vì vậy cũng ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của các NHTM. Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp thường kinh doanh thuận lợi, lợi nhuận tăng trưởng nhanh. Trái lại, trong giai đoạn khủng hoảng, sức mua giảm, luân chuyển vốn chậm dẫn đến khả năng hoàn trả của người vay giảm sút. Tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng và thời gian ảnh hưởng của nó đến các doanh nghiệp mà tạo ra khả năng thanh toán các khoản nợ ở mức khác nhau. Ngày nay, nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, khi biến động về kinh tế, chính trị của 1 quốc gia nào, một khu vực nào đó cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các yếu tố đầu vào, đầu ra và ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng trả nợ vay cho ngân hàng. - Sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước là nguyên nhân dẫn đến RRTD Nhà nước thường sử dụng các chính sách kinh tế tác động vào tổng sản phẩm quốc dân, công ăn việc làm, tiền lương, lãi suất, lạm phát, tỷ giá... Tùy thuộc vào từng thời kỳ mà Nhà nước sử dụng chính sách kinh tế khác nhau, sự thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước sẽ tác động đến các cá nhân, tổ chức kinh tế, làm thay đổi mọi dự kiến ban đầu của họ nên có thể ảnh hưởng khả năng trả nợ của họ cho ngân hàng. - Những sự kiện bất khả kháng cũng là nguyên nhân gây ra RRTD Những sự kiện này ngân hàng rất khó có thể dự báo, lường trước được như hiện tượng thiên nhiên bất thường (bão lụt, động đất, núi lửa), hỏa hoạn hay các hành vi lừa đảo, ăn cắp, cướp giật,... gây thiệt hại cho khách hàng vay vốn và hậu quả là ngân hàng phải gánh chịu hay nó gây thiệt hại trực tiếp về tài sản của chính bản thân ngân hàng. Đối với những rủi ro này, ngân hàng phòng ngừa bằng các biện pháp như mua bảo hiểm, tăng cường bảo vệ trực tiếp, giáo dục ý thức trách nhiệm cho nhân viên ngân hàng. Tóm lại, hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn chứa đựng tiềm ẩn rủi ro, nguyên nhân phát sinh có thể do tác động thiên tai, cơ chế chính sách, sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội hay do sự yếu kém của khách hàng về năng lực quản lý, khả năng tài chính, thậm chí những ý đồ xảo trá, lừa gạt của khách hàng... Tất cả những rủi ro này có thể đề phòng, ngăn ngừa ngay từ ban đầu, từ lúc đặt quan hệ với khách hàng thông qua việc sàn lọc, lựa chọn những khách hàng có “chất lượng”, loại bỏ những khách hàng “kém chất lượng”, từ đó triệt tiêu những mầm mống gây nên rủi ro hoặc có thể theo dõi, kiểm tra, kiểm soát để có biện pháp ứng xử kịp thời. 1.1.2.3. Hậu quả của rủi ro tín dụng - Hậu quả đối với ngân hàng. Trong kinh doanh ngân hàng, rủi ro thường có xu hướng tập trung vào khoản mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng. Khi một khoản tín dụng cấp ra mà ngân hàng không thu lại được đầy đủ và đúng hạn sẽ làm cho khoản mục chi phí của ngân hàng tăng lên (chi phí đòi nợ, chi phí bù đắp rủi ro, chi phí vốn,...) nên lợi nhuận ngân hàng giảm xuống, uy tín của ngân hàng đối với khách hàng bị giảm sút, thậm chí có thể dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh và làm giảm khả năng chi trả của ngân hàng. Lúc đó lòng tin của khách hàng vào ngân hàng giảm, ảnh hưởng lớn các yếu tố của quá trình kinh doanh như rò rỉ chất xám, mối liên kết trong kinh doanh với các ngân hàng khác bị thu hẹp, đảo lộn thành quả hoạt động nhiều năm của một ngân hàng. Nếu rủi ro ở mức độ trầm trọng ngân hàng sẽ mất khả năng chi trả hoàn toàn và có nguy cơ bị phá sản. Do đó, RRTD là vấn đề sống còn của các NHTM. - Hậu quả đối với khách hàng Khi một khoản tín dụng cấp ra mà ngân hàng không thu lại được đầy đủ và đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả của ngân hàng. Vì vậy, quyền lợi của những khách hàng gởi tiền bị ảnh hưởng, khách hàng đến rút tiền sẽ không được đáp ứng kịp thời, đầy đủ. Thậm chí có nguy cơ, khách hàng sẽ bị mất khoản tiền đã gởi. Đối với những khách hàng vay, RRTD của ngân hàng buộc ngân hàng phải áp dụng chính sách tín dụng thắt chặt, thu hẹp quy mô tín dụng của mình. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của khách hàng nên việc mở rộng kinh doanh, phát triển doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, rủi ro TDNH sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến mọi doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực cũng như mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. - Hậu quả đối với nền kinh tế-xã hội Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính xã hội cao, vì vậy, khi một ngân hàng suy yếu do hậu quả của RRTD, sẽ dễ dàng tạo ra phản ứng dây chuyền đối với các ngân hàng, các định chế tài chính khác, dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Tóm lại, nguy cơ và mức độ thiệt hại do RRTD của ngân hàng gây ra thật là to lớn. Không những vậy, RRTD của ngân hàng lại mang tính hệ thống. Do đó, việc phòng ngừa và hạn chế RRTD của ngân hàng, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng an toàn là vấn đề vô cùng trọng đại, không chỉ là công việc thường xuyên và quan trọng của mỗi một ngân hàng riêng lẽ mà còn là vấn đề của toàn hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 1.1.3. Các chỉ tiêu đo lường về RRTD của ngân hàng thương mại Các khoản cho vay không thanh toán đúng hạn hay không thể thu hồi được gọi là nợ quá hạn (khoản cho vay có vấn đề) và đây chính là biểu hiện của RRTD. Nợ quá hạn là khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay theo thoả thuận cộng với thời gian gia hạn thêm nếu khách hàng có yêu cầu. Có hai loại nợ quá hạn: - Nợ quá hạn có khả năng thu hồi. Là những khoản nợ mà người vay có khả năng vẫn tiếp tục trả nợ ngân hàng. Lý do của khoản nợ bị chậm trễ vì chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp mang tính thời vụ hoặc doanh nghiệp gặp rủi ro về thiên tai, hoả hoạn bất ngờ. - Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (nợ khó đòi, nợ xấu). Là khoản nợ mà người đi vay rất ít khả năng trả nợ ngân hàng, nhiều khả năng ngân hàng bị mất vốn. Lý do của khoản nợ này có thể là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản và không trả được nợ ngân hàng hoặc do người vay lừa đảo, cố tình chiếm dụng vốn ngân hàng. Để đo lường RRTD của ngân hàng, thường sử dụng 2 chỉ tiêu chủ yếu như sau: * Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Tỷ lệ quá hạn trên dư nợ phản ánh mối quan hệ so sánh giữa nợ quá hạn trên tổng số dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định và được tính theo công thức sau: Tỷ lệ nợ quá hạn thấp, biểu hiện RRTD của ngân hàng thấp vì nó phản ánh tỷ lệ các khoản vay không được trả đúng hạn hay không thu được trên các khoản cho vay của ngân hàng thấp, như vậy các kế hoạch của ngân hàng sẽ được thực hiện tốt. Ngược lại, RRTD của ngân hàng sẽ cao, nó sẽ ảnh hưởng đến chi phí, lợi nhuận và thanh khoản của ngân hàng. * Chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ Tỷ lệ nợ khó đòi phản ánh mối quan hệ so sánh giữa nợ khó đòi so với tổng số dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, tính theo công thức: Dư nợ quá hạn Tổng dư nợ tín dụng Tỉ lệ nợ quá hạn = Dư nợ khó đòi Tổng dư nợ tín dụng Tỉ lệ nợ khó đòi = Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn chưa phải là căn cứ tin cậy để đánh giá mức độ rủi ro mà NHTM phải đối mặt. Chẳng hạn có những hợp đồng vay vốn do những nguyên nhân nào đó không thực hiện việc trả nợ kịp thời (đúng theo hợp đồng), nhưng ngân hàng vẫn có thể thu hồi đầy đủ số nợ này. Do vậy, để đánh giá chính xác hơn về mức độ rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi. Nếu tỷ lệ nợ khó đòi cao cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng có nguy cơ mất vốn cao, danh mục cho vay của ngân hàng có chất lượng thấp, hoạt động kinh doanh của ngân hàng không hiệu quả và nguy có phá sản cao. Hai chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ khó đòi là thước đo chính xác đánh giá RRTD của ngân hàng. Khi hai chỉ tiêu này tăng, RRTD sẽ tăng, ngân hàng có thể đứng bên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, kết luận này chỉ đúng nếu như việc thu hồi nợ được tiến hành theo đúng nghĩa của nó. Đôi khi doanh số thu nợ không phản ánh số thực thu mà là con số giả tạo do ngân hàng tìm mọi cách để có nó, còn thực tế thì ngược lại. Ngân hàng có thể tự hợp thức hoá toàn bộ chứng từ sổ sách từ khâu thu nợ của hợp đồng cũ, lập hợp đồng mới cho vay lại, lập bảng kê thu chi tiền mặt, vào sổ nhật ký quỹ đầy đủ thì thật khó mà phát hiện ra những con số “giả thu, giả chi” đó. Thậm chí ngân hàng còn tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện “đảo nợ”. Ngoài ra, ngân hàng còn không chuyển nợ quá hạn đúng thời gian, gia hạn nợ nhiều lần không đúng quy định, tất cả những “giải pháp” không lành mạnh đó để nhằm mục đích cuối cùng là giữ nợ quá hạn luôn ở tỷ lệ thấp dưới mức quy định. Chính vì vậy, tỷ lệ nợ quá hạn thấp trong báo cáo của các ngân hàng chưa thực sự phản ánh thực trạng RRTD của ngân hàng. Ngoài 2 chỉ tiêu quan trọng này, các ngân hàng thường dùng 2 chỉ tiêu sau để nói lên sự chuẩn bị của ngân hàng cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm từ thu nhập hiện tại, đó là: * Chỉ tiêu tỷ lệ phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng trên tổng dư nợ. * Chỉ tiêu tỷ lệ trích quỹ dự phòng tổn thất tín dụng trên tổng dư nợ. 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng Trên thực tế cho thấy, cùng thời gian, cùng môi trường kinh doanh, nhưng có những ngân hàng thì ăn nên làm ra, RRTD thấp và có được sự phát triển khá ổn định, nhưng cũng có những ngân hàng gặp phải muôn vàng khó khăn, luôn đứng trước nguy cơ đe dọa phá sản bởi những RRTD xảy ra dồn dập, liên tiếp. Các yếu tố chi phối đến RRTD của NHTM bao gồm: - Chính sách tín dụng Một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho danh mục tín dụng của NHTM an toàn là việc hình thành một “chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín dụng cung cấp cho CBTD và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Nội dung của chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn cho vay, lãi suất, mức lệ phí, các hình thức cho vay được thực hiện, tài sản thế chấp, khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết phần tín dụng quá hạn hay các khoản vay có vấn đề,... Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng mà nhà quản lý có thể bổ sung thêm một số yếu tố phù hợp. Chính sách tín dụng của ngân hàng sẽ giúp cho CBTD biết được họ phải làm gì và làm như thế nào khi thực hiện một khoản cho vay, trách nhiệm của họ tới đâu. Ngoài ra, chính sách tín dụng sẽ giúp ngân hàng đạt được một danh mục tín dụng đa mục đích như tăng khả năng sinh lợi, kiểm soát tiềm ẩn rủi ro và đáp ứng được các đòi hỏi từ phía nhà quản lý. Với chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt thì ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng và đảm bảo chất lượng của các khoản tín dụng. Ngược lại, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý thì ngân hàng rất khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. - Chất lượng thẩm định và quy trình cho vay Quá trình cho vay được bắt đầu từ khâu thẩm định cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay đến khi thu hồi được nợ. Thẩm định cho vay là khâu quan trọng nhất quyết định đến việc tăng hay giảm RRTD đối với mỗi khoản vay, làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề để cho việc thu hồi cả vốn và lãi khi đến hạn thanh toán, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh. Tuy nhiên, thẩm tín dụng khó đạt đến mức có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản vay có được hoàn trả đúng hạn hay không, mặc dù mục đích của ngân hàng là chỉ thực hiện các khoản cho vay tốt nhưng phải thừa nhận là đã có sai lầm trong quá trình xét duyệt cho vay. Khi quyết định cho vay, ngân hàng phải tính đến sự an toàn của vốn vay, khả năng hoàn trả vốn vay, khả năng sinh lợi của vốn tín dụng. Muốn vậy, phải thực hiện tốt quy trình cho vay, điều này sẽ hạn chế được điều bất lợi xảy ra và đảm bảo được độ an toàn của đồng vốn. Trên thực tế, nhiều khi ngân hàng đã không chấp hành đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy trình nghiệp vụ cho vay, như: Thực hiện không đầy đủ các nguyên tắc, thể lệ cho vay, không có khả năng hoặc sự phân tích các báo cáo tài chính chưa chính xác, xác định kỳ hạn các khoản cho vay không thích hợp, thiếu sự giám sát sau khi cho vay sẽ dẫn đến RRTD. - Chất lượng của đội ngũ cán bộ Con người có vai trò quan trọng, là yếu tố quyết định sự thành bại trong quản lý vốn, tài sản của ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển và đa dạng, sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, tiên tiến nên chất lượng của đội ngũ cán bộ phải đảm bảo có đủ đạo đức lẫn nghiệp vụ chuyên môn, có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học tiên tiến. Chất lượng cán bộ chính là khả năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học, trình độ hiểu biết về các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trình độ cán bộ quản lý điều hành và CBTD hạn chế sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thẩm định tín dụng, không đánh giá được chính xác hiệu quả vốn vay, không có biện pháp xử lý kịp thời khi có các tình huống bất lợi xảy ra. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ phải có đạo đức tốt, trong sáng, có tư cách, trách nhiệm, nhiệt tình làm việc... sẽ tránh tình trạng câu kết với khách hàng để lừa đảo, gây thiệt hại cho ngân hàng. Tóm lại, với đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực cao, có đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp ngân hàng tạo được niềm tin nơi khách hàng và làm cho khách hàng ngày càng trở nên hiểu biết, gắn bó với ngân hàng hơn, từ đó, tránh được rủi ro trong quan hệ tín dụng. - Thông tin tín dụng TDNH chủ yếu dựa vào niềm tin, lòng tin có chính xác hay không phụ thuộc vào nội dung và chất lượng thông tin có được. Do vậy, thông tin tín dụng là yếu tố quan trọng và không thể thiếu trong quyết định cấp và quản lý tín dụng. Tuy trên thị trường luôn tồn tại vấn đề thông tin không cân xứng, nhưng với việc tích cực tìm kiếm thông tin về khách hàng, ngân hàng sẽ có một nguồn thông tin tham khảo quý giá để ra quyết định cấp tín dụng hoặc biện pháp cần thiết liên quan đến việc theo dõi, quản lý, thu hồi nợ. Yêu cầu thông tin thu thập được phải đảm bảo tính chính xác, kịp thời, đầy đủ. Do vậy, ngân hàng cần phải có thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Các thông tin về khách hàng vay vốn mà ngân hàng cần phải nắm được bao gồm: Các thông tin phi tài chính như tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực kinh doanh, quan hệ xã hội... Các thông tin tài chính của khách hàng như khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả hoạt động SXKD, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp.... Ngoài ra, các thông tin gián tiếp như tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc tìm kiếm thông tin một cách chính xác, kịp thời rất khó khăn. Trên thực tế tại Việt Nam đã có nhiều khoản tín dụng bị rủi ro do thiếu thông tin như: một khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp để vay vốn nhiều ngân hàng hoặc thành lập công ty con để lấy danh nghĩa lừa vay vốn của ngân hàng hay khách hàng sử dụng phương án SXKD giả để vay vốn mà ngân hàng không nhận biết được. - Công tác quản lý, tổ chức, kiểm soát nội bộ Thông qua công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát nội bộ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, quy chế và đúng pháp luật, nắm rõ được thông tin về những khoản vay, tránh tình trạng khách hàng vay vốn sử dụng sai mục đích. Việc kiểm soát nội bộ không được thực hiện hoặc thực hiện không thường xuyên, kịp thời thì những sai sót, lệch lạc trong hoạt động cho vay sẽ không được phát hiện và không có biện pháp khắc phục kịp thời, do vậy RRTD sẽ xảy ra. Ngoài ra, công tác quản lý, tổ chức được tiến hành chặt chẽ, khoa học; các bộ phận phòng ban chức năng được tổ chức chặt chẽ, xây dựng được mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ, phối hợp thông tin cho nhau trong hoạt động sẽ giúp cho hoạt động tín dụng của ngân hàng diễn ra một cách lành mạnh, hiệu quả. Ngược lại, sẽ tạo khe hở, điều kiện để cho CBTD và khách hàng câu kết với nhau, từ đó, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng không thể lường hết cho ngân hàng. Thực tế cho thấy, danh mục tín dụng của ngân hàng phá sản đều có vấn đề. Nợ quá hạn tăng cao làm giảm thu nhập, tăng chi phí tổn thất tín dụng và các chi phí khác đã đẩy ngân hàng rơi vào tình trạng thua lỗ. Vấn đề nợ quá hạn do nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, khâu tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát tín dụng của ngân hàng phá sản không hợp lý, không tôn trọng các nguyên tắc hoạt động tín dụng, việc phối hợp giữa các bộ phận chức năng của ngân hàng không tốt là các vấn đề thường bộc lộ rõ nhất. - Cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, với sự xuất hiện ngày càng nhiều các trung gian tài chính như các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương trợ, quỹ trợ cấp... càng làm cho thị trường tài chính, tiền tệ thêm sôi động. Nếu ngân hàng không thường xuyên đầu tư mở rộng cơ sở vật chất, cải tiến công nghệ thì ngân hàng sẽ khó có thể mở rộng quy mô hoạt động, địa bàn hoạt động của ngân hàng sẽ bị thu hẹp, khả năng thu hút các khoản tín dụng có chất lượng sẽ bị hạn chế. Vì vậy, RRTD sẽ có nguy cơ xuất hiện nhiều, việc thua lỗ và thất bại đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi. - Ngoài ra, môi trường hoạt động bên ngoài cũng ảnh hưởng không nhỏ đến RRTD của ngân hàng Đó là sự tác động của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội như bảo lụt, hạn hán, động đất, hoả hoạn, hoặc các hành động ăn cắp, lừa đảo, cướp giật, gây mất tài sản của khách hàng lẫn ngân hàng. Ngoài ra, sự tác động của môi trường kinh tế, luật pháp, các chính sách Nhà nước, đặc biệt là chính sách tiền tệ, tín dụng như tình hình kinh tế chung của đất nước, hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế của Nhà nước chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, sự lừa đảo, chiếm dụng vốn ngân hàng vẫn diễn ra cũng đã ảnh hưởng xấu tới môi trường hoạt động của khách hàng, khả năng tạo ra thu nhập, lợi nhuận và sự phát triển của khách hàng nên tác động đến khả năng thanh toán các khoản nợ. Vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng nói chung và RRTD nói riêng. 1.2. Một số vấn đề về hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Các khoản cho vay không thanh toán đúng hạn là hình thức biểu hiện của RRTD. Chúng được hình thành do hàng loạt các nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, để hạn chế tối đa các tổn thất, NHTM cần phải có chương trình quản lý rủi ro đồng bộ, từ việc quản lý rủi ro của từng khoản tín dụng riêng lẽ và cả danh mục tín dụng đến việc giám sát, xử lý các khoản cho vay này. Ngày nay, để hạn chế RRTD, các NHTM thực hiện các công việc sau: 1.2.1. Nhận dạng, phân tích, đo lường rủi ro tín dụng 1.2.1.1. Nhận dạng rủi ro tín dụng Nhận dạng RRTD là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các RRTD đã, đang và sẽ xảy ra đối với NHTM. Hoạt động này nhằm phát triển các thông tin về nguồn gốc rủi ro, các nguy cơ, hiểm họa và các loại tổn thất có thể xảy ra để có cơ sở đề xuất các giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp. Các phương pháp nhận dạng rủi ro như sau: - Phương pháp bảng liệt kê câu hỏi. Theo phương pháp này, người ta lập một bảng liệt kê trên cơ sở đặt ra các nghi vấn về nguồn gốc của rủi ro, cơ chế gây ra rủi ro. Từ đó loại bỏ những nghi vấn không có cơ sở hoặc không rõ ràng, giữ lại và phát hiện những nghi vấn mới, có cơ sở. Chẳng hạn như thiết lập bảng liệt kê RRTD theo nguồn rủi ro năng lực tài chính của khách hàng như sau (bảng 1.1): Bảng 1.1. RRTD theo nguồn rủi ro năng lực tài chính của khách hàng Nghi vấn về điều kiện rủi ro Cơ chế gây ra rủi ro 1. Khả năng tài trợ 2. Khả năng thanh toán 3. Khả năng sinh lợi ............................... Hệ số nợ cao thì sức chịu đựng của doanh nghiệp thấp, rủi ro cao Khả năng thanh toán thấp, nguy cơ rủi ro phá sản cao Tỷ suất sinh lợi thấp, khả năng không trả nợ cao .................................. - Phương pháp lưu đồ. Đây là phương pháp khá quan trọng để nhận dạng RRTD. Theo phương pháp này, người ta tiến hành xây dựng một dãy lưu đồ về các khâu trong quá trình cho vay. Qua đó, ngân hàng sẽ xác định được rủi ro xảy ra đối với từng khâu rõ ràng và chính xác hơn như sơ đồ 1.1. Sơ đồ 1.1: Lưu đồ các nguồn rủi ro trong quá trình xét duyệt cho vay - Phương pháp phân tích báo cáo tài chính. Đây là phương pháp thông dụng mà các NHTM thường dùng. Bằng cách phân tích bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và các báo cáo tài chính khác, NHTM có thể xác định được mọi nguy cơ rủi ro của khách hàng về tài sản. Ngoài ra, bằng cách so sánh số liệu kỳ báo cáo và số liệu dự tính kỳ kế hoạch ngân hàng có thể phát hiện ra những rủi ro có thể phát sinh trong tương lai. Việc phân tích báo cáo tài chính không chỉ giúp ngân hàng thấy được các rủi ro thuần túy mà giúp nhận ra được các rủi ro suy tính. - Phân tích hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng. Đây là phương pháp hữu hiệu để nhận dạng RRTD. Qua việc phân tích hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng, ngân hàng có thể biết được mục đích vay vốn của khách hàng có hợp pháp không, vốn cho vay được khách hàng đầu tư vào lĩnh vực nào, thuận lợi hay khó khăn, có nằm trong phạm vi tài trợ của chính sách cho vay. Qua đó, giúp ngân hàng nhận dạng được các rủi ro có thể xảy ra nếu chấp nhận lời đề nghị này. - Phương pháp thanh tra hiện trường. Để nhận dạng RRTD, một phương pháp cũng thường được áp dụng là thanh tra hiện trường. Nhờ quan sát, theo dõi trực tiếp hoạt động của các bộ phận trong tổ chức, trên cơ sở đó, phân tích đánh giá để nhận dạng rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải khi cấp tín dụng. 1.2.1.2. Phân tích rủi ro tín dụng Sau khi nhận dạng và liệt kê tất cả rủi ro có thể xảy ra khi cấp tín dụng, công việc tiếp theo là tiến hành phân tích rủi ro, xác định được nguyên nhân gây ra rủi ro. Theo lý thuyết “DOMINO” của H.W. Henrich, để tìm ra biện pháp phòng ngừa hữu hiệu thì cần phải phân tích rủi ro, tìm ra nguyên nhân rồi tác động đến nguyên nhân, thay đổi chúng, từ đó sẽ phòng ngừa được rủi ro như sơ đồ 1.2. Khách hàng Cán bộ tín dụng Cán bộ thẩm định Môi trường Năng lực tài Vị thế kinh Sơ đồ 1.2. Mô tả chuỗi DOMINO của Henrich Nguồn: [25, tr. 49] 1.2.1.3. Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng Đo lường RRTD là việc xác định tần số, xác suất RRTD xảy ra hoặc mức độ tổn thất. Ngân hàng có thể sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đo lường RRTD. Một số mô hình thường được ngân hàng sử dụng. - Mô hình đo lường RRTD bằng định tính. Theo mô hình này, ngân hàng dựa trên các thông tin thu thập về khách hàng để đo lường mức độ RRTD khi cấp tín dụng. Các ngân hàng thường sử dụng tiêu chuẩn CAMPARI hoặc tiêu chuẩn 5C. + Tiêu chuẩn CAMPARI: Character (tư cách của người vay), Ability (năng lực của người vay), Margin (lãi cho vay), Purpose (mục đích vay), Amount (số tiền vay), Repayment (sự hoàn trả), Insurance (sự bảo đảm). + Tiêu chuẩn 5C: Character(tư cách của người vay), Capital (Vốn), Capacity (Năng lực), Collateral (bảo đảm), Conditions (Điều kiện môi trường) Các tiêu chí này được đánh giá tốt thì món vay mới được xem là khả thi, RRTD thấp, và ngược lại. - Mô hình đo lường RRTD bằng định lượng. Một phương pháp khác cũng được các ngân hàng áp dụng là “ mô hình điểm số”. Phương pháp này dựa vào các chỉ tiêu tài chính quan trọng và tầm quan trọng của từng chỉ tiêu để xác định trọng số của chúng trong mô hình. Mô hình cho một điểm số cụ thể cho từng DN và người ta so sánh kết quả với điểm số chuẩn để đánh giá. Chẳng hạn mô hình cho điểm Zeta của Altman, Haldeman và Navagaman (mô hình điểm số Z). Phần lớn các hiện tượng xảy ra là kết quả của một trong những Môi trường Sai lầm của con Hành động bất Tai nạn Tổn thất Thay đổi một thành phần Phần lớn sự thanh tra được tập trung Y = 0,012 X1 + 0,014 X2 + 0,033 X3 + 0,006 X4 + 0,999 X5 Trong đó: X1: Tài sản lưu động ròng/ Tổng tài sản. X2: Lãi chưa phân phối / Tổng tài sản. X3: Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ Tổng tài sản. X4: Giá thị trường vốn chủ sở hữu /Giá trị sổ sách cuả tổng nợ. X5: Doanh thu/ tài sản. Nếu Y < 1,81: Tình hình tài chính không tốt. Nếu 1,81<=Y<=2,99: Chưa thể đánh giá. Nếu Y >2,99: Tình hình tài chính tốt. 1.2.2. Kiểm soát, phòng ngừa rủi ro tín dụng Kiểm soát RRTD là việc sử dụng các biện pháp, công cụ, chiến lược để giảm bớt xác suất gây ra RRTD hoặc ngăn ngừa, né tránh, giảm thiểu tổn thất. Các biện pháp cơ bản để kiểm soát RRTD như sau: 1.2.2.1. Biện pháp kiểm soát các nguồn rủi ro tín dụng - Đối với nguồn rủi ro môi trường: Thu thập, lưu trữ các thông tin về môi trường, về diễn biến kinh tế trong, ngoài nước, về chính trị, văn hóa, xã hội. - Đối với nguồn rủi ro từ phía khách hàng: Thu thập, lưu trữ các thông tin về vị thế kinh doanh, năng lực tài chính,... của khách hàng - Đối với nguồn rủi ro từ phía nhân viên: Có chính sách tuyển dụng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiêm của nhân viên, đặc biệt cần có chính sách thúc đẩy nhân viên tốt. 1.2.2.2. Biện pháp giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng Đây là những biện pháp nhằm giảm thiểu mức độ thiệt hại do RRTD đem lại. Những biện pháp này chia thành 2 nhóm: - Các biện pháp ngăn ngừa RRTD. Là những biện pháp giảm thiểu tổn thất trước khi rủi ro xảy ra, đó là việc áp dụng các hình thức, quy trình cho vay, theo dõi hợp lý để nếu như rủi ro xảy ra thì bản thân hình thức, quy trình cho vay, theo dõi này có thể hạn chế rủi ro, cụ thể như: + Trước khi cho vay, phải xem xét, phân tích kỹ lưỡng mới ra quyết định cho vay, như vậy mới không có quyết định sai lầm, nhưng rủi ro là điều không thể tránh khỏi. Điều này là do kết quả phân tích không thể hoàn toàn chính xác hay ý chí và khả năng trả nợ của người vay có thể thay đổi do nhiều nguyên nhân hoặc ngân hàng đã sai lầm ngay từ khi quyết định cho vay. + Tuy nhiên, việc kinh doanh khó có thể thất bại qua 1 đêm mà sự thất bại đó thường có 1 vài dấu hiệu báo động, có thể biểu hiện mờ nhạt hoặc biểu hiện rõ ràng. Vì vậy, sau khi giải ngân, ngân hàng phải giám sát chặt chẽ các khoản nợ, phát hiện ra những dấu hiệu của các khoản vay có vấn đề để ngăn ngừa và giảm thiểu. - Các biện pháp giảm thiểu tổn thất. Là những biện pháp được áp dụng sau khi rủi ro đã xảy ra nhằm thu hồi, cứu vớt những tài sản còn sử dụng được. Có thể thực hiện các biện pháp sau: + Biện pháp cố vấn: Ngân hàng đưa ra các giải pháp có tính chất tư vấn về nhiều chủ đề như: bán hàng, sản xuất nếu ngân hàng thấy rằng cho dù khoản tín dụng đang có vấn đề, nhưng về cơ bản khách hàng vẫn đang hoạt động tốt và có thể hoàn trả nợ cho ngân hàng. + Biện pháp tăng thêm vốn: Ngân hàng đề nghị khách hàng tăng thêm vốn bằng việc bán thêm cổ phiếu. + Biện pháp sát nhập: Ngân hàng có thể khuyến khích bên vay hợp nhất với các tổ chức khác. + Biện pháp giảm bớt kế hoạch SXKD nếu kế hoạch mở rộng đang được trù tính, ngân hàng có thể yêu cầu loại bỏ chúng cho đến khi khách hàng cải thiện được tình hình tài chính. + Biện pháp đẩy mạnh thu hồi các khoản thu chậm trả. + Biện pháp kiểm soát hàng tồn kho: Bằng cách giảm giá bán, tăng mức chiết khấu, tăng doanh số bán sẽ đặt khách hàng vào thế có thể trả nợ. + Biện pháp gia tăng vật bảo đảm hoặc bảo lãnh. + Biện pháp cơ cấu lại khoản nợ bằng cách kéo dài kỳ hạn từ đó rút bớt mức trả nợ hàng tháng. + Biện pháp gia tăng khối lượng khoản vay: Khi ngân hàng tin tưởng chắc rằng khách hàng có thể được đặt vào đường phục hồi thì ngân hàng có thể áp dụng biện pháp tăng thêm khối lượng khoản vay. 1.2.2.3 Các biện pháp phân tán rủi ro tín dụng Việc kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ không tránh khỏi những rủi ro, vấn đề là làm thế nào để giảm thiểu những rủi ro đó. Việc phân tán rủi ro theo nguyên tắc kinh điển "không bỏ tất cả trứng vào một rổ" là điều mà mọi ngân hàng đều quan tâm. Phân tán RRTD là biện pháp rất quan trọng nhằm giúp cho các ngân hàng tránh những tổn thất quá lớn, vượt quá sức chịu đựng của ngân hàng. Để phân tán RRTD, ngân hàng thường sử dụng các biện pháp như đa dạng hóa khách hàng, đa dạng hóa lĩnh vực ngành nghề, đa dạng hóa loại hình cho vay. - Đa dạng hoá khách hàng. Là việc mở rộng cho vay đối với mọi thành kinh tế, mọi đối tượng khách hàng như khách hàng là HSX, DNNN, DNTN, Công ty Cổ phần, ... tránh việc cho vay quá mức đối với một đối tượng khách hàng. - Đa dạng hoá lĩnh vực ngành nghề. Hoạt động kinh doanh ở mỗi lĩnh vực, ngành nghề khác nhau thì có nguy cơ rủi ro khác nhau. Để hạn chế rủi ro xảy ra ở diện cục bộ, mà ngân hàng đã dành phần lớn lượng vốn tín dụng đầu tư cho lĩnh vực ngành nghề đó, các NHTM nên mở rộng đầu tư cho vay vào mọi lĩnh vực ngành nghề như nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ... Cần ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của yếu tố thiên nhiên nhằm hạn chế rủi ro do yếu tố này gây ra. - Đa dạng hoá loại hình cho vay. Trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn của từng khoản vay của khách hàng và khả năng kiểm tra giám sát của ngân hàng, mà ngân hàng sử dụng laọi hình cho vay thích hợp như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp .... 1.2.3. Tài trợ rủi ro tín dụng RRTD dù có được kiểm soát chặt chẽ đến đâu cũng không thể ngăn chặn hoàn toàn. Tài trợ RRTD là việc chuẩn bị các nguồn tài chính để bù đắp cho những tổn thất khi RRTD xảy ra nhằm tránh cho ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng. Có 2 nhóm biện pháp tài trợ RRTD như sau: 1.2.3.1 Các biện pháp tự khắc phục rủi ro tín dụng Đây là phương pháp mà ngân hàng bị RRTD phải tự mình thanh toán tổn thất. Nguồn dùng để bù đắp, giảm thấp thiệt hại sau khi RRTD xảy ra có thể là thu nhập, vốn tự có của ngân hàng. Vì vậy, trước đó ngân hàng phải: - Trích lập quỹ dự phòng RRTD - Tham gia thực hiện bảo hiểm tiền gửi Tự khắc phục rủi ro có thể làm tăng động lực kinh doanh của ngân hàng, làm cho ngân hàng có ý thức kiểm soát rủi ro chặt chẽ hơn vì khi RRTD xảy ra, ngân hàng phải là người gánh chịu tổn thất. Tuy nhiên, nếu tổn thất quá lớn, ngân hàng sẽ khó có thể chống đỡ nổi và sẽ bị phá sản. 1.2.3.2. Các biện pháp chuyển giao rủi ro tín dụng Chuyển giao RRTD là việc sắp xếp để một vài đối tượng khác gánh chịu hoàn toàn hoặc một phần tổn thất xảy ra. Có thể chuyển tổn thất cho các đối tượng sau: - Chuyển giao cho nhà bảo hiểm - Chuyển giao cho khách hàng - Chuyển giao cho nhà bảo trợ khách hàng - Chuyển giao cho quỹ bảo hiểm góp chung của Nhà nước Chuyển giao RRTD có thể làm giảm tính bất ổn định của tổn thất và ngân hàng có thể bạo dạn hơn trong việc mở rộng quy mô cấp tín dụng. Tuy nhiên, chuyển giao RRTD có nhược điểm là ngân hàng phải tốn kém chi phí cao cho người nhận chuyển giao, sự phân chia trách nhiệm giữa bên nhận chuyển giao và bên chuyển giao khó khăn 1.3. Kinh nghiệm hạn chế rủi ro tín dụng ở một số Ngân hàng thương mại và bài học rút ra 1.3.1. Kinh nghiệm về hạn chế rủi ro tín dụng ở một số NHTM Người ta ví kinh doanh và rủi ro như hai quả cân trên một chiếc cân. Nếu kinh doanh giỏi mà phòng ngừa rủi ro tồi thì cuối cùng kinh doanh cũng chẳng có hiệu quả. Ngược lại, nếu quản lý rủi ro tốt nhưng kinh doanh tồi thì hiệu quả cũng tương tự. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, nhiều NHTM không những phải làm tốt công tác mở rộng tín dụng mà còn, phải làm tốt công tác phòng ngừa, hạn chế RRTD. Bài học rút ra từ một số NHTM như sau: 1.3.1.1 Kinh nghiệm về hạn chế rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Quảng Nam Để phòng ngừa, hạn chế RRTD, Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Quảng Nam đã áp dụng các biện pháp sau: Thứ nhất: Xác định chính sách tín dụng hợp lý: Ngân hàng đã xây dựng được chính sách tín dụng hợp lý, định hướng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực kinh tế ổn định, có mức rủi ro thấp. Bố trí vốn đầu tư phù hợp với chủ trương ưu tiên phát triển kinh tế của Tỉnh, hạn chế đầu tư cho những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Với chủ trương nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng chuyển hướng đầu tư, từ việc chú trọng đầu tư cho DNNN sang chú trọng đầu tư cho các DNNQD. Thứ hai: Tiến hành chấm điểm xếp loại khách hàng để làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp đảm bảo tiền vay phù hợp với từng loại khách hàng, đồng thời có chế độ ưu đãi lãi suất và thực hiện cấp tín dụng đối với khách hàng, giảm bớt những phiền hà về thủ tục cho vay . Thứ ba: Chú trọng đến công tác phân loại nợ theo thời gian, theo đối tượng khách hàng, theo tình hình tài sản đảm bảo, để phát hiện sớm những tiềm ẩn RRTD nhằm có biện pháp đôn đốc thu nợ, xử lý nợ kịp thời và trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Thư tư: Chú trọng đến công tác con người: Chăm lo xây dựng đội ngũ có đạo đức và kiến thức nghề nghiệp vững vàng. Phân công công việc phù hợp, gắn trách nhiệm cá nhân với quyền lợi vật chất và tinh thần. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua nhằm động viên cán bộ nhân viên hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Thứ năm: Coi trọng công tác tổ chức, kiểm tra, giám soát và tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ và xử lý triệt để các tồn tại sau kiểm tra. Thứ sáu: Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ: Nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng. 1.3.1.2. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng ở NHNo & PTNT Đà Nẵng Để hạn chế RRTD, NHNo & PTNT Thành phố Đà Nẵng đã thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau: Một là: Bám sát chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội của Thành phố và mục tiêu phát phát triển của ngành để xác định mục tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ của ngân hàng trong từng giai đoạn. Hai là: Nâng cao khả năng thẩm định của CBTD như khả năng thẩm định các dự án đầu tư trung dài hạn, thẩm định tình hình tài chính, thẩm định tài sản đảm bảo nhằm mở rộng tín dụng nhưng đảm bảo hạn chế rủi ro. Ba là: Chú trọng đến công tác kiểm tra đối chiếu trực tiếp với khách hàng theo tháng, quý, đồng thời, thành lập các tổ kiểm tra đối chiếu đột xuất giữa các địa bàn với nhau nhằm phát hiện sớm những sai sót. Thông qua kết quả kiểm tra đối chiếu công khai đối với khách hàng để có cơ sở nhận xét đánh giá chất lượng tín dụng, trình độ năng lực của cán bộ tác nghiệp và có biện pháp xử lý, giải quyết dứt điểm các khoản sai sót sau kiểm tra. Bốn là: Có cơ chế phối hợp với các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội liên hiệp thanh niên, Hội cựu chiến binh để giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng. Phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ cộng tác viên, giúp việc ở hầu hết các cơ sở địa phương, nâng cao năng lực của đội ngũ cộng tác viên trong công tác thẩm định, thu nợ xử lý nợ quá hạn được kịp thời. Năm là: Không ngừng cũng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thấp nợ quá hạn; phối kết hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan pháp luật để có biện pháp xử lý kiên quyết đối với các con nợ có khả năng tài chính nhưng chây lỳ, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng . Tích cực thu hồi dứt điểm các khoản nợ tồn đọng và nợ đã xử lý rủi ro. Sáu là: Chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nhân viên, không ngừng củng cố và xây dựng đội ngũ cán bộ nhân viên có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong sáng lành mạnh, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức pháp luật để đáp ứng yêu cầu công việc. Phân công công việc phù hợp đối với từng nhân viên. Bảy là: Thực hiện tốt chế độ giao khoán tài chính, gắn quyền lợi, trách nhiệm và hiệu quả công việc đến từng cán bộ, nhằm tạo động lực kích thích hoạt động kinh doanh. Thường xuyên phát động phong trào thi đua trong cán bộ nhân viên tạo nên khí thế thi đua sôi nổi trong tập thể CBCNV, nhằm phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. 1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình Trên cơ sở kinh nghiệm của các ngân hàng về hạn chế RRTD, một số bài học kinh nghiệm rút ra cho NHNo&PTNT Thăng Bình như sau: Một là: Bám sát chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội của địa phương và mục tiêu phát triển của ngành để xác định phương hướng đầu tư tín dụng hợp lý. Hai là: Tiến hành phân loại và chấm điểm khách hàng để làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp đảm bảo tiền vay và có chế độ ưu đãi đối với khách hàng. Ba là: Coi trọng công tác con người: Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng xây dựng đội ngũ nhân viên có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong sáng lành mạnh. Bên cạnh đó, không ngừng củng cố và nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật để đáp ứng yêu cầu công việc. Ngoài ra, phân công công việc phù hợp đối với từng nhân viên, gắn quyền lợi, trách nhiệm và hiệu quả công việc đến từng cán bộ, nhằm tạo động lực kích thích hoạt động kinh doanh. Thường xuyên phát động phong trào thi đua trong cán bộ nhân viên tạo nên khí thế thi đua sôi nổi nhằm phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Bốn là: Thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện sớm những sai sót để có biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, cần phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể để giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng. Năm là: Tiến hành phân loại nợ theo các tiêu thức nhằm phát hiện sớm những tiềm ẩn RRTD, có biện pháp đôn đốc thu nợ, xử lý nợ kịp thời và trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Sáu là: Phối kết hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan pháp luật để có biện pháp xử lý kiên quyết đối với các con nợ có khả năng tài chính nhưng chây lỳ, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Tích cực thu hồi dứt điểm các khoản nợ tồn đọng và nợ đã xử lý rủi ro. Bảy là: Chú trọng công tác thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin, nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng nhằm phục vụ tốt cho công tác này. Chương 2 thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thăng bình 2.1. Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình 2.1.1. Sơ lượt quá trình hình thành và phát triển chi nhánh Thăng Bình Thực hiện chủ trương đổi mới hoạt động ngân hàng từ bao cấp sang chuyên doanh theo nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, chi nhánh Ngân hàng phát triển nông nghiệp Thăng Bình chính thức được thành lập vào ngày 2/11/1988, trực thuộc Ngân hàng phát triển nông nghiệp Quảng Nam-Đà Nẵng, nằm trong hệ thống Ngân hàng phát triển nông nghiệp Việt Nam trên cơ sở bàn giao từ NHNN huyện Thăng Bình. Ngày 14/11/1990, theo quyết định số 400/CT của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, do đó, chi nhánh Ngân hàng phát triển nông nghiệp Thăng Bình đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp huyện Thăng Bình. Tiếp đó, ngày 15/10/1996, theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ký quyết định số 280/QĐ-NHNN, đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam và chi nhánh NHNo&PTNT huyện Thăng Bình cũng được lấy tên từ đó. Đầu năm 1997, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia tách thành 2 đơn vị hành chính và chi nhánh NHNo&PTNT huyện Thăng Bình là chi nhánh cấp 2, trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam, có trụ sở chính tại Quốc lộ 1A, thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. 2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của chi nhánh Thăng Bình 2.1.2.1 Chức năng của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình - Trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo phân cấp của NHNo&PTNT Việt Nam trên địa bàn theo địa giới hành chính. - Tổ chức điều hành kinh doanh và kiểm tra, kiểm toán nội bộ theo uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. - Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao và lệnh của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. 2.1.2.2 Nhiệm vụ của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình * Huy động vốn - Khai thác và nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và TCTD khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ; - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam; - Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam; * Cho vay - Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho SXKD, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. - Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển SXKD, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân và HSX thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền. * Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ. Cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước, các dịch vụ thu hộ, chi hộ, các dịch vụ thu phát tiền mặt cho khách hàng và các dịch vụ thanh toán khác theo quy định NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam. * Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn và cho vay, mua, bán, ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, tái bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam. * Kinh doanh dịch vụ ngân hàng khác: Thu, phát tiền mặt; mua bán vàng bạc; máy rút tiền tự động, dịch vụ thẻ; két sắt, nhận bảo quản, cất giữ, chiết khấu thương phiếu và các loại giấy tờ có giá khác, thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, các nhân trong và ngoài nước; đại lý cho thuê tài chính, dịch vụ ngân hàng khác được NHNo&PTNT Việt Nam cho phép. * Thực hiện dịch vụ bảo lãnh: Bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam . * Thực hiện các nhiệm vụ khác: Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định. Tổ chức thực hiện việc phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh doanh của của chi nhánh cấp trên và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương. Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cầu đột xuất của chi nhánh cấp trên. Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị phục vụ trực tiếp cho việc kinh doanh của chi nhánh cũng như việc quảng bá thương hiệu của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ khác được giám đốc cấp trên giao. 2.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức và mạng lưới hoạt động chi nhánh Thăng Bình Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của NHNo&PTNT Thăng Bình phù hợp với từng cấp chi nhánh quy định tại quy chế về tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam (Ban hành kèm theo quyết định 454/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 24/12/2004 của HĐQT-NHNo&PTNT Việt Nam). - Điều hành hoạt động kinh doanh của chi nhánh do Ban giám đốc gồm: 01 Giám đốc và 02 Phó Giám đốc giúp việc. - Các phòng, tổ chuyên môn, nghiệp vụ tại chi nhánh gồm có: phòng nghiệp vụ Kế hoạch kinh doanh, phòng Kế toán ngân quỹ, phòng Hành chính tổ chức, và tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ. - Trước năm 2002, NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình hoạt động kinh doanh trên địa giới hành chính của huyện với 21 xã thị trấn, ngoài khu vực trung tâm, mạng lưới giao dịch của chi nhánh gồm có 03 chi nhánh cấp 3 và 01 phòng giao dịch trực thuộc. Tuy nhiên, để thực hiện kế hoạch triển khai đề án cơ cấu lại ngân hàng của NHNo&PTNT Việt Nam và nâng cao vị thế của NHNo&PTNT Quảng Nam phù hợp với quy mô hoạt động, trong những năm qua, Giám đốc NHNo&PTNT Quảng Nam đã nâng cấp chi nhánh cấp 3 Kế Xuyên (đầu năm 2002) và chi nhánh cấp 3 Bình Quý (đầu năm 2004) thành chi nhánh cấp 2 trực thuộc tỉnh. Đến tháng 12/2005, NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình chỉ còn 01 chi nhánh cấp 3 và 1 phòng giao dịch trực thuộc. 2.1.4. Lực lượng lao động của chi nhánh Thăng Bình Với đặc điểm chia tách trong thời gian qua, lực lượng lao động của chi nhánh có nhiều biến động, trước năm 2002, toàn chi nhánh có trên 25 lao động, trong đó, đại học có 16 người, chiếm 64%, trung cấp có 5 người, chiếm 20%. Đến năm 2005, toàn chi nhánh chỉ có 16 người, trong đó, đại học có 14 người, chiếm 94%, CBTD là 6 người, chiếm 37% trên tổng số lao động của chi nhánh, chỉ tiêu này còn quá thấp so với tiêu chuẩn chung của NHNo&PTNT Việt Nam đặt ra. Nhìn chung chất lượng cán bộ của NHNo&PTNT Thăng Bình có vào thời điểm hiện nay chưa thật tốt, mặc dù cán bộ đào tạo Đại học chiếm tỷ lệ cao (chiếm 94% tổng lao động) nhưng đa phần là cán bộ có tuổi đời cao và được đào tạo trong cơ chế bao cấp, thiếu những cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành Ngân hàng - Tài chính trong cơ chế thị trường, số cán bộ sử dụng vi tính và ngoại ngữ còn ít, làm việc chủ yếu dựa trên kinh nghiệm là chính. Vì vậy, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh nói chung cũng như chất lượng tín dụng nói riêng của chi nhánh. Biểu 2.1: Trình độ của đội ngũ cán bộ Đơn vị: người, % ST T Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 SL T. lệ SL T. lệ SL T. lệ SL T.lệ SL T.lệ 1 Tổng cộng 25 22 22 17 16 2 CBTD 9 8 7 6 6 3 Tỷ lệ CBTD 0.36 0.36 0.32 0.35 0.38 4 Độ tuổi trung bình 45 46 46 42 40 5 Theo trình độ a Đại học 16 0.64 15 0.68 16 0.73 13 0.76 14 0.94 b Trung cấp 5 0.20 4 0.18 3 0.14 1 0.06 1 0.03 c Chưa qua đào tạo 4 0.16 3 0.14 3 0.14 3 0.18 1 0.03 (Nguồn: Báo cáo tình hình lao động 2001-2005 của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình) 2.1.5. Tình hình kinh doanh của chi nhánh Thăng Bình 2.1.5.1. Khái quát về tình hình kinh tế xã hội của huyện Thăng Bình ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh Huyện Thăng Bình nằm ở vùng trung của tỉnh Quảng Nam, có diện tích tự nhiên 384,75 Km2, với dân số tự nhiên năm 2005 là 189.688 người, mật số dân số trung bình là 493 người/ Km2, cao gần 3,5 lần so với tỉnh (141 người/ Km2). Là một huyện mật độ dân số cao nhưng chủ yếu sống dựa vào SXNN là chính, toàn huyện có 45.247 hộ, trong đó có 83,47% là hộ nông, lâm, thuỷ sản, với lực lượng lao động chiếm 76,61% số lao động của huyện. Là địa phương SXNN, nhưng đất đai bạc màu, diện tích canh tác bình quân đầu người thấp, thu nhập bình quân trên đầu người còn khá thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao so với mặt bằng chung của tỉnh, năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của huyện là 19% cao hơn so với tỷ lệ của tỉnh là 10,5%. Lũ lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra, làm cho đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, thu nhập tích luỹ thấp. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chậm phát triển, cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông liên xã, liên thôn xuống cấp làm cho lưu thông hàng hoá giữa các vùng gặp nhiều khó khăn. Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII (giai đoạn 2001- 2005), toàn Đảng, toàn dân đã nổ lực phấn đấu, từng bước khắc phục khó khăn, đạt được những kết quả quan trọng về chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng thể hiện trên một số mặt như sau: Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của huyện năm 2000, nông nghiệp chiếm 71%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm 9%, dịch vụ chiếm 20%. Đến năm 2005, nông nghiệp chiếm 60%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm 12%, dịch vụ chiếm 28%. Kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung. Cơ cấu cây con vật nuôi được chuyển đổi phù hợp tại các vùng sinh thái, giá trị thu được bình quân trên ha canh tác là 20,5 triệu đồng, giá trị SXNN tăng bình quân là 5,04% năm, cao hơn mức tăng bình quân của tỉnh là 4%. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2005 đạt 75 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm (2001-2005) là 12,42%, tăng gấp 2 lần so với năm 2000, một số cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đi vào hoạt động đã giải quyết được 1 lực lượng lớn lao động tại địa phương và tạo ra sản phẩm đa dạng. Thương mại, dịch vụ từng bước được mở rộng và phát triển, nhiều loại hình dịch vụ ở nông thôn phát triển nhanh như dịch vụ thương mại, kỹ thuật, thông tin, văn hoá, giải trí. Tốc độ tăng trưởng bình quân (2001-2005) của ngành thương mại dịch vụ là 20,03% năm. Kết cấu hạ tầng được quan tâm quy hoạch, xây dựng mới, cải tạo và nâng cấp. Hệ thống giao thông nông thôn phát triển, có hàng trăm km đường bê tông hoá, cấp phối đá được xây dựng, 100% xã có đường ô tô đến tận xã, hệ thống thuỷ lợi đảm bảo chủ động tưới tiêu trên 60% diên tích canh tác. Với những thành tựa về các mặt kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2005 đã đạt được trên đây đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh tín dụng nói riêng của ngân hàng. 2.1.5.2. Hoạt động huy động vốn của chi nhánh Thăng Bình Nguồn vốn huy động là yếu tố quan trọng, góp phần quyết định quy mô và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Tình hình huy động vốn của chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua được thể hiện biểu số 2.2. Biểu 2.2: Tình hình huy động vốn 2001-2005 của chi nhánh Thăng Bình Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 * Theo đối tượng gởi - TCKT 2.97 3.48 3.40 4.65 6.04 - Kho Bạc 31.50 39.70 44.59 41.30 42.97 - Dân cư 26.90 36.80 44.54 49.60 69.44 - Khác 0.16 0.16 0.01 0.28 0.10 * Theo kỳ hạn - Không kỳ hạn 34.70 43.40 48.00 46.30 49.10 - Có kỳ hạn 26.83 36.74 44.54 49.53 69.45 * Tổng Nguồn vốn 61.53 80.14 92.54 95.83 118.55 * Tốc độ tăng trưởng (%) 23.46% 30.25% 15.47% 3.56% 23.71% * T.độ TT của NHNo tỉnh(%) 7.48% 5.52% 12.91% 5.36% 18.71% ( Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001-2005 của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình) Qua biểu 2.2 số liệu cho thấy, nguồn vốn huy động của chi nhánh qua các năm (2001-2005) tăng trưởng với tốc độ khá cao, năm 2005 nguồn vốn huy động của Chi nhánh đạt 118,55 tỷ đồng, tăng 23,7% so với năm 2004. Sở dĩ nguồn vốn huy động tăng trưởng mạnh trong bối cảnh cạnh tranh giữa các ngân hàng, các định chế tài chính khác là do, ngay từ những ngày đầu mới được thành lập, ngân hàng đã bám sát tình hình thực tế trên địa bàn, gây dựng được uy tín đối với khách hàng, được khách hàng tín nhiệm cao. Vì vậy, nguồn vốn huy động của chi nhánh luôn đứng đầu so với các chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam. Đồ thị 2.1 : Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của chi nhánh Thăng Bình - Về cơ cấu của nguồn vốn huy động theo đối tượng gởi Trong cơ cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh cho thấy, nguồn huy động từ dân cư năm 2005 đạt 69,44 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2004 và là năm có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động trong dân cư cao nhất. Trong những năm qua, chỉ số giá tiêu dùng, giá vàng luôn biến động, tỷ lệ lạm phát ở mức cao (năm 2004 là 9,5%), lãi suất danh nghĩa thấp hơn tỷ lệ lạm phát nên lãi suất thực của tiền gởi tiết kiệm âm. Tuy nhiên, chi nhánh đã áp dụng nhiều biện pháp thích hợp để khai thác nguồn vốn tại chỗ nhằm đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh như: tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo và thực hiện triển khai các sản phẩm huy động của NHNo&PTNT Việt Nam như tiết kiệm trả lãi sau được thanh toán trước hạn từng phần, tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ, tiết kiệm dự thưởng, kỳ phiếu, đồng thời, chi nhánh đã đổi mới phong cách phục vụ theo hướng tận tình chu đáo, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt. Do vậy, tiền gởi dân cư liên tục tăng với tốc độ cao, năm 2005 tăng 48,3 tỷ đồng, gấp 3,29 lần so với năm 2000 và từng bước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn huy động (năm 2005, chiếm 58,5%). Nguồn huy động từ các tổ chức kinh tế năm 2005 tăng 30% so với năm 2004, 6.044.653.43.482.97 0 20 40 60 80 100 120 140 2001 2002 2003 2004 2005 - TCKT - Kho B¹ c - D©n c- Tæng Nguån vèn nhưng nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không đáng kể bởi khách hàng là doanh nghiệp trên địa bàn không nhiều. Ngoài ra, nguồn tiền gởi kho bạc chiếm tỷ trọng khá lớn (36% năm 2005) trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng, mặc dù nguồn vốn này có tốc độ tăng trưởng khá nhưng đây là nguồn không ổn định. Vì vậy, muốn mở rộng hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải có những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để tăng cường nguồn vốn huy động từ dân cư. - Về cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn huy động. Nguồn vốn có kỳ hạn có tốc độ tăng trưởng nhanh chiếm tỷ trọng hơn 58% tổng nguồn năm 2005. Đây là nổ lực rất lớn của ngân hàng, từ chổ nguồn vốn không kỳ hạn (chủ yếu nguồn tiền gởi kho bạc) là nguồn hoạt động chủ yếu (năm 2001, nguồn không kỳ hạn chiếm 56%, tiền gởi kho bạc chiếm 51% trên tổng nguồn vốn), ngân hàng đã tích cực huy động nguồn vốn có kỳ hạn từ dân cư. Đến năm 2005, nguồn vốn có kỳ hạn chiếm hơn 58% trong tổng nguồn, trong đó, tiền gởi tiết kiệm chiếm 43% trên tổng nguồn. Đồ thị 2.2: Cơ cấu vốn huy động của chi nhánh Thăng Bình theo loại kỳ hạn Tóm lại, với sự nỗ lực của mình, thời kỳ 2001-2005 đánh dấu một thời kỳ khá thành công của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình trong công tác huy động vốn, giúp chi nhánh Thăng Bình nâng cao tính chủ động về nguồn vốn trong việc mở rộng cho vay, cơ cấu vốn huy động cũng có những chuyển biến theo hướng tích cực, vốn huy động trong dân cư, có kỳ hạn có xu hướng tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng nguồn huy động, tạo tiền đề thuận lợi cho việc phát triển chi nhánh trong tương lai. Tuy nhiên, so với quy mô hoạt động ngày càng mở 34 .7 26.83 43 .4 36.74 48 44.54 46 .3 49.53 49 .1 69.45 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2001 2002 2003 2004 2005 - Kh«ng kú h¹n - Cã kú h¹n rộng, nguồn vốn huy động tại chỗ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay của các các nhân, HSX trên địa bàn. Trong những năm sắp tới, Ban lãnh đạo chi nhánh Thăng Bình cần có những biện pháp tăng cường nguồn huy động, điều chỉnh cơ cấu huy động để đảm bảo sự chủ động trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thăng Bình. 2.1.5.3. Hoạt động cho vay của chi nhánh Thăng Bình Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế của huyện Thăng Bình, nhu cầu vốn của các tổ chức, cá nhân, HSX ngày càng tăng, chi nhánh đã chủ trương mở rộng quy mô cho vay, đầu tư cho các dự án SXKD có hiệu quả nhằm mở rộng hoạt động tín dụng. Chính vì vậy, khách hàng đến giao dịch với ngân hàng ngày càng đông, uy tín và khả năng cho vay của chi nhánh ngày càng nâng cao. Hoạt động cho vay của chi nhánh trong thời gian qua thể hiện ở biểu số 2.3. Biểu 2.3: Hoạt động tín dụng của chi nhánh Thăng Bình Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 * Theo TPKT - DNQD 1.62 1.21 1.52 0.90 0.11 - DNNQD 1.13 0.30 4.09 11.90 35.30 - Hộ SX 57.75 46.69 59.82 50.70 73.09 * Theo Thời hạn - Ngắn hạn 38.10 31.60 42.75 44.50 87.20 - Trung hạn 22.40 16.60 22.68 19.00 21.30 * Theo Ngành kinh tế - NLNN 54.30 42.20 55.70 48.50 75.30 - Công Nghiệp 1.82 1.70 1.85 6.52 15.80 - Thương mại & DVụ 4.38 4.30 7.88 8.48 17.40 * Tổng dư nợ 60.50 48.20 65.43 63.50 108.50 - Tốc độ tăng trưởng dư nợ (%) 15.26% -20.33% 35.75% -2.95% 70.87% - Tốc độ tăng trưởng dư nợ của NHNo&PTNT tỉnh (%) 20.8% 35.24% 23.26% 12.18% 21.89% (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001-2005 của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình) Qua số liệu thống kê (biểu 2.3) cho thấy, dư nợ thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, trừ năm 2002 và 2004 (do tách chi nhánh cấp 3 Kế Xuyên và Bình Quý thành lập chi nhánh cấp 2 trực thuộc tỉnh). Đến năm 2005, dư nợ của chi nhánh đạt 108,5 tỷ đồng, tăng tuyệt đối so với năm 2004 là 45 tỷ đồng, với tốc độ tăng 70%, so với năm 2000, dư nợ của chi nhánh năm 2005 tăng hơn gấp 2 lần. Về cơ cấu cho vay theo thời hạn Đồ thị 2.3: Cơ cấu vốn dư nợ của chi nhánh Thăng Bình theo loại kỳ hạn Dư nợ trung hạn của chi nhánh trong thời kỳ 2001-2005 đã được điều chỉnh theo hướng giảm dần và chiếm tỷ lệ ngày càng thấp trên tổng dư nợ, năm 2001 chiếm 27% thì năm 2005 chỉ chiếm 19,6%. Tuy nhiên, về số tuyệt đối, dư nợ trung hạn vẫn tăng nhẹ qua các năm (chỉ giảm vào năm 2002 và 2004 do tách chi nhánh cấp 3 Kế Xuyên và Bình Quý). Đến 31/12/2005, dư nợ cho vay trung hạn đạt 21,3 tỷ đồng, tăng so với năm 2001 là 1,7 tỷ đồng. Ngược lại, dư nợ ngắn hạn tăng mạnh qua từng năm, năm 2005 đạt 87,2 tỷ đồng, tăng so với năm 2004 là 42,7 tỷ đồng, với tốc độ tăng 95,6%, so với năm 2001 tăng gần gấp 3 lần. 38 .1 22.4 31 .6 16.6 42 .7 5 22.68 44 .5 19. 87 .2 21.3 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2001 2002 2003 2004 2005 1. Ng¾n h¹n 2. Trung, dµi h¹n Về đối tượng khách hàng vay vốn Khách hàng của chi nhánh trên địa bàn bao gồm các cá nhân, doanh nghiệp, HTX và các hộ gia đình vay vốn để phát triển SXKD hay tiêu dùng trong đó số lượng khách hàng đông đảo nhất là HSX. - Đối với khách hàng là HSX. Đây là bộ phận khách hàng có món vay nhỏ nhưng có số lượng khá đông đảo và là thị trường mục tiêu của chi nhánh Thăng Bình. Đến 2005, dư nợ của bộ phận này đạt 73,09 tỷ đồng, chiếm trên 67% tổng dư nợ (chỉ tiêu trên giao là 60%), tăng 22,4 tỷ so với năm 2004 với tốc độ tăng là 44% và tăng 25,8 tỷ so với năm 2000. Để đạt được kết quả như vậy, chi nhánh Thăng Bình đã có nhiều nổ lực trong việc mở rộng cho vay, cùng với việc cho vay các khách hàng truyền thống, chi nhánh Thăng Bình đã mở rộng cho vay đầu tư theo các chương trình phát triển kinh tế địa phương như cho vay nuôi bò lai theo QĐ 66 của UBNN tỉnh , cho vay phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, cho vay thu mua hàng nông sản phục vụ nhà máy hạt điều tại cụm công nghiệp Hà Lam - Chợ Được, cho vay xuất khẩu lao động và cho vay phục vụ đời sống. Việc mở rộng cho vay HSX của chi nhánh Thăng Bình chủ yếu phụ thuộc vào việc gia tăng số hộ vay vốn và mức dư nợ trên hộ vay. Năm 2002 và 2004, dư nợ cho vay HSX giảm một phần do tách 2 chi nhánh cấp 3. Mặt khác, năm 2004, chi nhánh Thăng Bình đã bàn giao dịch vụ hộ nghèo sang Ngân hàng Chính sách xã hội và nợ tồn đọng khắc phục lũ lụt đã được xử lý theo VB 227/NHNo-TD ngày 31/12/2004. Như vậy, địa bàn bị thu hẹp do chia tách nên số lượng HSX vay giảm đáng kể từ hơn 12.500 hộ năm 2000, đến năm 2005 chỉ còn hơn 5.350 hộ. Để khắc phục vấn đề này, chi nhánh Thăng Bình đã nâng mức cho vay đối với mỗi HSX vay vốn, năm 2000, mức dư nợ bình quân một HSX là 3,67 triệu đồng thì năm 2005, bình quân một HSX đã nâng lên 13,67 triệu đồng (biểu 2.4). Biểu 2.4: Hoạt động cho vay HSX của chi nhánh Thăng Bình Đơn vị tính: triệu đồng Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Số hộ 7,93 1 10,05 7 11,10 5 12,30 9 12,50 2 8,26 7 9,61 6 4894 4912 5345 Dư nợ 22,6 10 23,55 0 24,86 0 26,74 0 45,81 0 57,7 50 46,6 90 59,8 20 50,7 00 73,0 90 Dư nợ/ hộ 2.85 2.34 2.24 2.15 3.67 6.99 4.86 12.2 2 10.3 2 13.6 7 (Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm cho vay HSX của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình) Đồ thị 2.4 : Tốc độ tăng trưởng cho vay HSX của chi nhánh Ngoài ra, cùng với việc thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, chi nhánh Thăng Bình đã mở rộng diện vay, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của mọi khách hàng. Tính đến 31/12/2005, dư nợ cho vay đáp ứng nhu cầu đời sống người dân của chi nhánh Thăng Bình chiếm 16,1% trên dư nợ HSX, tăng 20,1% so với năm 2004. Qua khảo sát thống kê cho thấy người dân đi vay để phục vụ sinh hoạt đời sống chủ yếu là mua sắm phương tiện giao thông (chiếm 55%), xây dựng sữa chữa nhà ở, và mua sắm phương tiện nghe nhìn (chiếm 30%), chỉ có 15% chi tiêu khác. - Đối với đối tượng khách hàng là DN. Từ khi có chủ trương của Chính phủ về cổ phần hoá các DNNN và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển, 9616 4894 4912 5345 8267 1250212309 11105 10057 7931 0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 14000 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 S« hé D- nî D- nî /hé nhiều công ty TNHH, DNTN ra đời. Đến năm 2005, trên địa bàn huyện có 27/30 DNNQD và 1 DNNN có quan hệ tín dụng với ngân hàng (năm 2000 chỉ có 2 DNNN và 2 DNNQD). Vì vậy, năm 2005, dư nợ của nhóm khách hàng DNNQD là 35,3 tỷ đồng, chiếm 32,5% trên tổng dư nợ, tăng so với năm 2004 là 23,3 tỷ, với tốc độ tăng là 195%, so với năm 2000, tăng gấp 18 lần (biểu 2.3). Việc mở rộng, tăng trưởng dư nợ của các DNNQD phù hợp với chủ trương phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn. Ngoài ra, DNNN chỉ có 1 đơn vị và dư nợ chiếm tỷ lệ không đáng kể. Như vậy, DNNQD sẽ là một trong những khách hàng chính, quan trọng mà chi nhánh Thăng Bình cần phải quan tâm hơn nữa trong thời gian tới. * Về đối tượng và ngành nghề cho vay Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Bình đã tích cực thực hiện việc cho vay trực tiếp đến hộ nông dân theo Nghị định 14/CP của Thủ tướng Chính phủ và tổ chức triển khai Quyết định 67 của Chính phủ đến các HSX thông qua các chương trình phối hợp với Hội nông dân, Hội phụ nữ và các đoàn thể khác để chuyển tải vốn đến HSX. Cơ cấu tín dụng theo ngành kinh tế phù hợp với cơ cấu phát triển kinh tế của địa phương, dư nợ cho vay ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, ngày càng đóng góp tích cực vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, con vật nuôi, góp phần ổn định đời sống kinh tế, xã hội trên địa bàn. Vốn của chi nhánh Thăng Bình chủ yếu được đầu tư vào các lĩnh vực sau: - Ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Tính đến 31/12/2005, dư nợ ngành này đạt 75,3 tỷ đồng, chiếm 70%, tăng 26,8 tỷ so với 2004, với tốc độ tăng là 55,3%, tập trung vào các đối tượng như phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ sản xuất lương thực, trồng cây ăn quả, mua giống, thức ăn gia súc, gia cầm hay nuôi trồng thuỷ sản. Đặc biệt ngành chăn nuôi của huyện phát triển khá mạnh nhờ vốn tín dụng của ngân hàng, chi nhánh Thăng Bình đã mở rộng cho vay để nuôi bò, nuôi dê, nuồi lợn sữa theo mô hình khinh tế trang trại, hoạt động của các trang trại này rất hiệu quả và hoàn trả nợ ngân hàng đúng hạn. Tuy nhiên, vấn đề dịch bệnh và biến động giá cả đầu ra của các sản phẩm đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay. Ngoài ra, ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản là ngành có truyền thống và thế mạnh ở một huyện ven biển. Vốn của ngân hàng được đầu tư vào các đối tượng như nuôi tôm sú, tôm hùm, nuôi cá và đánh bắt thuỷ sản đã tạo điều kiện cho các hộ chăn nuôi mở rộng diện tích, nâng cao khả năng thâm canh, chuyển hướng sang nuôi công nghiệp, từ đó giải quyết công ăn việc làm, nhiều hộ ngư dân vùng ven biển thoát nghèo và vượt lên giàu có đồng thời tạo nguồn nguyên liệu rất lớn phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động chăn nuôi (nuôi tôm) còn rất bấp bênh và ở trình độ thấp nên nguy cơ rủi ro cho vay của chi nhánh Thăng Bình trong lĩnh vực này là khá cao. Đồ thị 2.5: Tỷ trọng dư nợ các ngành kinh tế - Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Đối với CN và TTCN, chi nhánh Thăng Bình cũng đã đạt được nhiều kết quả trong công tác tăng trưởng dư nợ, đáp ứng được nhu cầu vay vốn của nhân dân, phục vụ tốt chương trình kinh tế của huyện. Đến năm 2005, dư nợ ngành này đạt 15,7 tỷ tăng so với 2004 là 9,2 tỷ với tốc độ tăng là 141% so với năm 2004 và tăng gấp 15 lần so với năm 2000. Kết quả dư nợ này cũng khá phù hợp với sự phát triển của ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Đặc biệt, năm 2005, chi nhánh đã cho vay đầu tư phát triển làng nghề truyền thống tại Thị trấn Hà Lam, cho vay đầu tư phát triển mây tre xuất khẩu ở Bình Nguyên và một số ngành nghề khác, cho vay để phát triển cơ sở hạ tầng tại cụm công nghiệp Hà Lam - Chợ Được. - Ngành thương mại dịch vụ: Cùng với việc gia tăng dư nợ ở các ngành nông lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dư nợ của ngành dịch vụ cũng được gia tăng nhanh chóng. Năm 2005, dư nợ của ngành này đạt 16 tỷ đồng, tăng so với 2004 là 8,9 tỷ với tốc độ tăng 105%, so với năm 2000, tăng gấp 10 lần. 89.75% 87.55% 85.13% 76.38% 69.40% 3.01% 3.53% 2.83% 10.27% 14.56% 7.24% 8.92% 12.04% 13.35% 16.04% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% 2001 2002 2003 2004 2005 NLNN C«ng NghiÖp Th-¬ng m¹ i&DV Tóm lại, dư nợ cho vay của chi nhánh thời kỳ 2001-2005 tăng trưởng khá nhanh, nhất là dư nợ của các DNNQD và HSX. Kết quả đạt được trên đây xuất phát từ việc kinh tế trên địa bàn giữ ổn định và duy trì mức tăng trưởng cao làm cho mức sống của người dân tăng lên, cùng với chính sách kích cầu của Nhà nước, nhu cầu mua sắm, sản xuất hàng hoá và tiêu dùng tăng mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong cơ cấu tăng trưởng, dư nợ trung hạn còn chiếm tỷ lệ khá thấp và có xu hướng giảm, trong khi đó nguồn vốn huy động tại chi nhánh có xu hướng tăng nhanh về nguồn vốn dài hạn. Đây là một vấn đề mà chi nhánh cần quan tâm hơn nữa trong việc mở rộng đầu tư tín dụng của mình. Với sự nổ lực, cố gắng không ngừng của đội ngũ cán bộ, công nhân viên, hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thăng Bình thời kỳ 2001-2005 luôn có lãi, năm 2005 lợi nhuận của chi nhánh Thăng Bình đạt được là 4,31 tỷ, tăng so với năm 2004 là 0,76 tỷ, với tốc độ tăng là 21,4%, so với năm 2000, tăng gấp 3,5 lần. Kết quả kinh doanh của chi nhánh Thăng Bình được thể hiện biểu 2.5. Biểu 2.5: Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thăng Bình Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 1. Thu Nhập 6.4 6.77 8.32 8.73 11.23 - Thu lãi cho vay 5.79 4.62 5.62 5.96 9.49 - Thu dịch vụ 0.04 0.05 0.06 0.07 0.11 2. Tổng chi phí 4.26 4.65 5.26 5.18 6.92 - Trả lãi tiền vay 2.98 3.22 3.64 3.43 5.10 - Trích lập quỹ dự phòng 0.53 0.65 0.19 0.14 0.17 3. Lợi Nhuận 2.14 2.12 3.06 3.55 4.31 (Nguồn: Báo cáo cân đối hằng năm 2001-2005 của NHNo&PTNTchi nhánh Thăng Bình) 2.2. Thực trạng về hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình 2.2.1. Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh Thăng Bình Với phương châm mở rộng tín dụng phải gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế thấp nhất nợ quá hạn phát sinh. Tình hình RRTD của NHNo& PTNT chi nhánh Thăng Bình được thể hiện biểu số 2.6a. và 2.6b. Biểu 2.6a: Tình hình về rủi ro tín dụng theo thời hạn của chi nhánh Đơn vị tính: tỷ đồng STT Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 1 Nợ quá hạn 2.54 1.86 1.77 1.54 1.46 a - Ngắn hạn 1.84 1.37 1.50 1.43 1.35 2 Nợ khó đòi 0.30 0.31 0.21 0.10 0.08 a - Ngắn hạn 0.26 0.27 0.18 0.08 0.07 3 Tỷ lệ Nợ quá hạn 4.20% 3.85% 2.71% 2.42% 1.35% a - Ngắn hạn 4.83% 4.34% 3.51% 3.21% 1.55% b - Trung hạn 3.13% 2.95% 1.19% 0.57% 0.53% 4 Tỷ lệ Nợ khó đòi 0.50% 0.64% 0.32% 0.16% 0.07% a - Ngắn hạn 0.68% 0.85% 0.42% 0.18% 0.08% a - Trung hạn 0.18% 0.24% 0.13% 0.11% 0.05% (Nguồn: Báo cáo cân đối hằng năm 2001-2005 của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình) * Về tỷ lệ nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh từ năm 2001-2005 nhìn chung có xu hướng giảm qua các năm, năm 2001 nợ quá hạn 2,54 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ nợ quá hạn là 4,20%, đến năm 2005 nợ quá hạn chỉ còn 1,46 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ nợ quá hạn 1,35%. Con số này cho thấy, chất lượng của khoản mục tín dụng tại chi nhánh Thăng Bình trong thời gian qua đã từng bước được kiểm soát. * Về tỷ lệ nợ khó đòi. Cùng với việc giảm dần tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm thì tỷ lệ nợ khó đòi của chi nhánh cũng giảm mạnh. Năm 2001, nợ khó đòi của chi nhánh là 0,3 tỷ đồng, chiếm 11,8% nợ quá hạn, tương ứng với tỷ lệ nợ khó đòi là 0,496%, năm 2005, nợ khó đòi của chi nhánh chỉ còn 0,08 tỷ đồng, chiếm khoản 5,48% trên tổng nợ quá hạn, tương ứng với tỷ lệ nợ khó đòi là 0,074%. Biểu 2.6b: Rủi ro tín dụng theo ngành nghề cho vay của chi nhánh Thăng Bình Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 1. Nợ quá hạn 2.54 1.86 1.77 1.54 1.46 - Trong đó, Hộ SX 2.54 1.86 1.77 1.54 1.46 2. Tỷ lệ Nợ quá hạn 4.20% 3.85% 2.71% 2.42% 1.35% a. Nông, lâm, ngư nghiệp 4.20% 3.96% 2.71% 2.60% 1.53% b. Công Nghiệp 3.85% 2.35% 2.16% 1.38% 0.82% c. Thương mại & DVụ 4.34% 3.49% 2.79% 2.24% 1.03% 3. Nợ khó đòi 0.30 0.31 0.21 0.10 0.08 - Trong đó, Hộ SX 0.30 0.31 0.21 0.10 0.08 4. Tỷ lệ Nợ khó đòi 0.50% 0.64% 0.32% 0.16% 0.07% a. Nông, lâm, ngư nghiệp 0.516% 0.687% 0.323% 0.165% 0.093% b. Công Nghiệp 0.275% 0.294% 0.270% 0.00 0.00 c. Thương mại & DVụ 0.342% 0.349% 0.317% 0.236% 0.057% (Nguồn: Báo cáo chuyên đề tín dụng hằng năm 2001-2005 của NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Bình) Đồ thị 2.6: Tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ khó đòi của chi nhánh 4.20% 3.85% 2.71% 2.42% 1.35% 0.07%0.16% 0.32% 0.64%0.50% 0.00% 1.00% 2.00% 3.00% 4.00% 5.00% 2001 2002 2003 2004 2005 Tû lÖ Nî qu¸ h¹ n Tû lÖ Nî khã ®ßi Nợ quá hạn và nợ khó đòi của chi nhánh Thăng Bình tập trung chủ yếu vào đối tượng khách hàng là HSX và ở trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thương mại, dịch vụ. Đối với ngành nông lâm, ngư nghiệp, năm 2001, tỷ lệ nợ quá hạn là 4,20%, tỷ lệ nợ khó đòi là 0,516%, đến năm 2005, tỷ lệ này tương ứng chỉ còn 1,53% và 0,093%. Đối với ngành thương mại, dịch vụ, năm 2001, tỷ lệ nợ quá hạn là 4,34%, tỷ lệ nợ khó đòi là 0,342%, đến năm 2005, tỷ lệ này tương ứng chỉ còn 1,03% và 0,057%. Ngoài ra, nợ quá hạn và nợ khó đòi của chi nhánh Thăng Bình còn tập trung phần lớn vào các món vay ngắn hạn (đây cũng là hoạt động cho vay chủ yếu của chi nhánh Thăng Bình, chiếm 80%) và có xu hướng giảm qua các năm, năm 2001, nợ quá hạn cho vay ngắn hạn là 1,84 tỷ đồng, chiếm 72,44% nợ quá hạn của chi nhánh với tỷ lệ nợ quá hạn là 4,83%, nợ khó đòi là 0,26 tỷ đồng, chiếm trên 86% nợ khó đòi của toàn chi nhánh với tỷ lệ nợ khó đòi là 0,682%, đến năm 2005, nợ quá hạn cho vay ngắn hạn là 1,35 tỷ đồng, chiếm 92,46% nợ quá hạn của chi nhánh với tỷ lệ nợ quá hạn là 1,55%, nợ khó đòi trong cho vay ngắn hạn là 0,07 tỷ đồng, chiếm trên 87,5% nợ khó đòi của toàn chi nhánh với tỷ lệ nợ khó đòi là 0,08%. Ngược lại với cho vay ngắn hạn, nợ quá hạn và nợ khó đòi trong cho vay trung hạn có xu hướng giảm qua các năm. Năm 2001, tỷ lệ nợ quá hạn là 3,13%, tỷ lệ nợ khó đòi là 0,18%, đến năm 2005 tỷ lệ này tương ứng là 0,53% và 0,05%. Tuy nhiên, tốc độ giảm nợ khó đòi trong cho vay trung hạn lại chậm hơn nhiều so với cho vay ngắn hạn. * Về khả năng thu hồi của các k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Định hướng và giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thăng Bình.pdf
Tài liệu liên quan