Luận văn Phân tích chính sách kinh tế mới của LêNin

Tài liệu Luận văn Phân tích chính sách kinh tế mới của LêNin: LUẬN VĂN: Chính sách kinh tế mới của LêNin A. phần mở đầu : giới thiệu đề tài Trong khi nền kinh tế, chính trị xã hội đất nước không ổn định thì đặt ra yêu cầu nhà nước phảI có chính sách đổi mới cho phù hợp với đIều kiện thực tiễn xã hội. Nước Nga sau khi thoát khỏi chiến tranh tình hình đất nước rất bất ổn. Lê-nin, người lãnh đạo tối cao của nhà nước Xô-Viết đã đề ra chính sách kinh tế mới nhằm giảI quyết tình hình khó khăn của đất nước. Bởi vì kinh tế cộng sản thời chiến không thể duy trì trong cả thời bình. Phương thức phân phối sản phẩm theo chủ nghĩa bình quân không thể tiếp tục duy trì, nó không kích thích được sự phát triển của đất nước. Để giảI quyết những mâu thuân đang phát sinh chính quyền Xô-Viết đã nhanh chóng đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế –không thể chỉ duy trì kinh tế nhà nước là duy nhất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước nào cũng phải trải qua những khó khăn do đIều kiện kinh tế xã hội c...

pdf50 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Phân tích chính sách kinh tế mới của LêNin, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Chính sách kinh tế mới của LêNin A. phần mở đầu : giới thiệu đề tài Trong khi nền kinh tế, chính trị xã hội đất nước không ổn định thì đặt ra yêu cầu nhà nước phảI có chính sách đổi mới cho phù hợp với đIều kiện thực tiễn xã hội. Nước Nga sau khi thoát khỏi chiến tranh tình hình đất nước rất bất ổn. Lê-nin, người lãnh đạo tối cao của nhà nước Xô-Viết đã đề ra chính sách kinh tế mới nhằm giảI quyết tình hình khó khăn của đất nước. Bởi vì kinh tế cộng sản thời chiến không thể duy trì trong cả thời bình. Phương thức phân phối sản phẩm theo chủ nghĩa bình quân không thể tiếp tục duy trì, nó không kích thích được sự phát triển của đất nước. Để giảI quyết những mâu thuân đang phát sinh chính quyền Xô-Viết đã nhanh chóng đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế –không thể chỉ duy trì kinh tế nhà nước là duy nhất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước nào cũng phải trải qua những khó khăn do đIều kiện kinh tế xã hội chưa thực sự phát triển, thời kỳ quá độ luôn có những đặc thù riêng của nó buộc người lãnh đạo phảI xem xét, phân tích và đưa ra những chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. NgoàI ra mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế luôn gắn liền với nhau đổi mới kinh tế phảI đI đôI với đổi mới chính trị xã hội. Đòi hỏi Đảng và nhà nước phảI nghiên cứu tình hình để dưa ra những chính sách phù hợp nhất Hệ thống chính trị được xây dựng trên nền tảng kinh tế là cơ sở tồn tại của phát triển xã hội một cách toàn diện. Để có thể ổn định chính trị thì trước hết ta phảI ổn định về kinh tế. Trong điều kiện kinh tế nước Nga đang khó khăn : nông nghiệp kém phát triển, nền đại công nghiệp không phát huy tác dụng như trước, chỉ còn là sản xuất nhỏ do thiếu nguyên liệu, thiếu lương thực. Công nhân thất nghiệp tràn lan … Đã nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, tình hình chính trị bất ổn Để giảI quyết tình hình trên việc chính quyền Xô-Viết dưa ra chính sách kinh tế mới là hoàn toàn đúng dắn. Cũng như nước Nga, Việt Nam sau khi thoát khỏi chiến tranh, “kinh tế thời chiến” – phương thức sản xuất tập trung không còn phù hợp, chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không thể tiếp tục duy trì. Nhà nước ta đã nhanh chóng đổi cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của xã hội. Sự vân dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam là một bước đI đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Nhanh chóng phát triển kinh tế đưa đất nước tiến lên Chủ Nghĩa X ã Hội. Nhà nước ta song song vơí quá trình đổi mới kinh tế là đổi mới hệ thống chính trị giảm sự cồng kềnh của bộ máy nhà nước, giảm sự chồng chéo trong lãnh đạo quản lý, hệ thống pháp luật cũng thay đổi nhằm kích thích đầu phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam hiên nay đang thực hiện quá trình đổi mới chính. Trên cơ sở nghiên cứu chính sách kinh tế mới nhà nước ta đã tìm ra những biện pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn xã hội. Chính sách kinh tế mới đã để lại bàI học kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới. Tuy ý nghĩa thời sự của chính sách kinh tế mới không còn nhưng bàI học về phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đó. B. nội dung: CHƯƠNG 1:NHững vấn đề cơ bản về chính sách kinh tế mới của LêNin I. hoàn cảnh ra đời của chinh sách kinh tế mới * Điều kiện ra đời Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết trong hoà bình. Do đó, chính sách “Kinh tế cộng sản thời chiến” đã làm xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó, giờ đây không cho phép nó đi xa hơn nữa, vì nông dân nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với chính sách kinh tế cộng sản thời chiến (thể hiện rõ ở cuộc bạo loạn Cron-Xtat gần Lêningrát); khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ. Cho nên phải cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do Lênin đề ra năm 1918, phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. 1. Tình hinh kinh tế trước thời kỳ đổi mới a. Về nông nghiệp: Những thành phần kinh tế chủ yếu của kinh tế Xô Viết vẫn như cũ. Nông dân “nghèo ” (vô sản và nửa vô sản ), trong rất nhiều trường hợp đã cảI biến thành tầng lớp trung nông. Điều đó làm cho “thành phần tiểu tư hữu, tiểu tư sản được tăng cường thêm”. Một mặt khác cuộc nội chiến 1918-1920 đã làm tình trạng suy đồi của xứ sở càng thêm trầm trọng ghê gớm, đã làm chậm trễ việc phục hồi các lực lượng sản xuất nhất là nó đã hút hết máu mủ của giai cấp vô sản. thêm vào đó nạn mất mùa 1920, nạn thiếu cỏ cho gia súc, bệnh dịch súc vật, càng kìm hãm thêm việc phục hồi ngành vận tải và công nghiệp. Tình hình chính trị năn 1921 đã đưa đến chỗ buộc phải dùng những biện pháp tức thời, biện pháp đặc biệt nhất để cải thiện đời sống nông dân và phục hồi lực lượng sản xuất của họ trong hoàn canh nước Nga bị tàn phá trong chiến tranh, nền kinh tế đát nươc kiêt quệ. Đây là nguồn nuôi sông nươc Nga (nước Nga lầ một nước nông nghiệp lạc hậu trươc chiến tranh) nhưng tình hình nông nghiệp cũng không mấy khả quan. Diện tích gieo trồng thu hẹp đáng kể. Tổng sản lượng giảm 40% so với năm 1913. Nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ. Chính sách cộng sản thời chiến kéo dài đã làm cho nông nghiệp giảm sút đáng kể. Quá trình chưng thu lương thực thừa tạo cho xã hội một sức ỳ lớn làm cho nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung đi vào khủng hoảng. b. Về công nghiệp : Sau chiến tranh công nghiệp nước nga bị tàn phá nặng nề, tài sản quốc gia bị tàn phá hư hỏng rất nhiều. Đại công nghiệp công nghiệp không phát huy vai trò của mình nữa mà chỉ còn lại “tiểu công nghiệp sản xuất nhỏ”. Các nhà máy công xưởng, kho bãi, máy móc bị tàn phá nghiêm trọng, một số chỉ còn là đống phế thải. Tổng sản lượng công nghiệp giảm hơn 4 lần so với năm 1917. Tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế không cao chỉ đạt 25%. Sản xuất đại công nghiệp giảm xuống còn 12. 8%, sản xuất công nghiệp giảm xuống còn 14. 1%. c. Về giao thông vận tải: Cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống bị tàn phá nghiêm trọng sau chiến tranh. Các phương tiện giao thông vận tải cũng bị thiệt hại nặng nề. Mặt khác, tình trạng thiếu nhiên liệu lại càng làm cho giao thông vận tải bị tê liệt. d. Về tài chính tín dụng: Lạm phát ngày càng cao tới mức không kiểm soát nổi. Ngân hàng nhà nước chưa được thiết lập lại, dự trữ vàng bảo đảm cho lưu thông giảm đi. Ngân sách nhà nước bội liên miên. Hệ thống tài chính-tín dụng lâm vào tình trạng rối loạn. Tóm lại, tình trạng kinh tế nước Nga bây giờ vô cùng yếu kém. Cả sản xuất và lưu thông đều sa sút. Đời sống của nhân dân cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Thu nhập của công nhân và nông dân đều giảm. Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra đã kéo nền kinh tế nước Nga xuống thấp hơn rất nhiều lần so với trước chiến tranh. e. về thương nghiệp: Kể từ khi thực hiện chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến, thương nghiệp bị xoá bỏ hoàn toàn. Nền kinh tế mang tính chất hiện vật cao. Trao đổi sản phẩm trên thị trường bị cấm. Nhà nước vẫn áp dụng chế độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng hiện vật cho người tiêu dùng và theo hướng bình quân hoá. Thị trường thiếu hàng hoá, vận động một cách chậm chạp. Tính ỳ của nền kinh tế càng tăng do sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào thương nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. 2. Tình hình chính trị-xã hội : Tình hình kinh tế như trên đã dẫn tới tinh hình chính trị –xã hội không mấy khả quan. Nông dân luôn có tâm trạng bất mãn do những mong đợi về cảI thiện đời sống sau chiến tranh không được đáp ứng. Lòng tin của giai cấp nông dân đối với cách mạng giảm dần. Giai cầp công nhân mất dần bản chất giai cấp do số công nhân thất nghiệp tăng, điều kiện sống của họ không được đảm bảo. Nhà nước Xô- Viết vẫn còn non trẻ, lại vừa phải lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống bọn phản động và đế quốc nên ít nhiều vẫn còn sai sót trong lãnh đạo. Đặc biệt là sự nóng vội trong việc hoạch định đường nối đI lên xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng yếu đi do lòng tin của nhân dân đối với Đảng Cộng sản không còn như trước nữa. Liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ do những mối liên hệ kết nối về kinh tế giữa hai giai cấp bị nhà nước làm cho mờ nhạt dần. Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng một số người lợi dụng tình hình khủng hoảng bất ổn để gây rối loạn kinh tế như bọn đầu cơ tích trữ. Nạn trộm cắp, lừa đảo xảy ra ở nhiều nơi khiến cuộc sống của người dân không được yên ổn. An ninh chính trị ngày càng bất ổn định. Tình hình trên đe doạ sự tồn tại của nền chuyên chính vô sản. Với thưc trạng đất nước như vậy khiến cho người dân không thể không đặt ra câu hỏi là liệu chế độ chuyên chính vô sản có đưa nước Nga đạt tới sự phát triển bền vững hay không và có thực sự đem lại dân chủ bình đẳng, tự do hạnh phúc cho đời sống nhân dân hay không? Nhà nước Xô Viết đã phải thực sụ đương dầu với những thử thách vô cùng gay go phức tạp. Việc giải quyết những vấn đề đó không phải là dễ dàng. Giai cấp vô sản đứng lên lãnh đạo chưa lâu chưa có kinh nghiệm quản lý và lãnh đạo, đặc biêt lãnh đạo một đất nước có nhiều giai cấp cùng song song tồn tại một quốc gia đa dân tộc rộng lớn. Mặt khác ban lãnh đạo còn xuất hiện những ý kiến khác nhau, nên khó thống nhất hoạt động trong khi nội chiến chưa kết thúc, tình hình chính tri vô cùng rối ren, trong khi kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng. 3. Ngyên nhân: **. Cơ sở lý luận và sự cần thiết của một chính sách mới: Trong qúa trình chiến đấu và chiến thắng của nhà nước Xô -Viết suốt bảy thập kỷ qua, mùa xuân năm 1921 đã đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử chủ nghĩa xã hội thế giới như một bước ngoặt: Đảng cộng sản và Nhà nước Xô- Viết trẻ tuổi ban hành chính sách “Kinh tế mới”. Cuối năm 1920 tình hình kinh tế bị chi phối bởi một mạng lưới dày đặc các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa. Quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chủ yếu tồn tại trong nông thôn (dân số nông thôn chiếm 82, 4% dân số, kinh tế nông nghiệp chiếm 51, 4% thu nhập quốc dân) đặc điểm này được Lê-nin rất chú ýphân tích khi Người vạch ra chiến lược tình thế giải quyết cuộc khủng hoảng và chiến lược lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông dân và nông nghiệp trong chiến lược và sách lược của Đảng có ý nghĩa quyết định đến bảo vệ những thành quả của cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước đây, chính quyền Xô -Viết đứng vững được trong nội chiến và sự can thiệp của nước ngoài là nhờ tinh thần hy sinh của nhân dân, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Nhiệt tình cách mạng của quần chúng là động lực duy nhất trong chiến đấu và chiến thắng. Sau chiến tranh, giai cấp nông dân vẫn là người chủ yếu nuôi sống đất nước, đời sống của họ lại đang thiếu thốn, khó khăn. Nếu Đảng giữ được nhiệt tình cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng. Ngược lại nếu làm mất lòng tin của họ thì sự nghiệp cách mạng sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ được lòng tin lúc này có nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kỳ xây dựng. Xuất phát từ sự phân tích đó, Lê- nin đã chỉ ra rằng: Phải bắt đầu từ nông dân và nông nghiệp, phải cải thiện đời sống của người lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thường giữa nông nghiệp và công nghiệp, củng cố liên minh công nông trên cơ sở kinh tế nhằm lôi cuốn những người sản xuất nhỏ vào việc xây dựng đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có một chính sách như vậy mới tạo được tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lê-nin đã đóng vai trò quyết định trong việc đưa lý luận mác-xít về thời kỳ quá độ vào thực tiễn cuộc sống và làm phong phú thêm lý luận đó. Nhờ tư tưởng ấy mà Đảng đã sửa chữa được những sai lầm trong thời kỳ đó. Sau chiến tranh, khi những hy vọng trông chờ vào việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần không không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lừa dối quần chúng, tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô-viết non trẻ Những sai lầm chủ quan của người cộng sản cũng là một thực tế phải giải quyết đồng thời với việc giải quết mâu thuẫn khách quan. Trong những năm tháng cần thiết phải áp dụng “chính sách cộng sản thời chiến “ đã hình thành về quan niệm khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Những chủ trương chính sách sai lầm bắt nguồn từ quan niệm nôn nóng muốn chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, đã làm cho thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội sa sút. Lực lượng sản xuất hiện có không thể sử dụng và mất mát, hao mòn. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ là hình thức bề ngoài, xơ cứng và khô héo dần. Nhiều chủ trương biện pháp quá đáng ra đời từ quan niệm này là một trong những nguy cơ làm tăng khủng hoảng. Chính sách kinh tế là cả một cơ chế nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nước Nga đồng thời củng cố vững chắc nền chuyên chính vô sản. Nền kinh tế có phát triển hay không sẽ qyuết định sự ổn định bền vững của hệ thống chính trị. Chính sách kinh tế mới được thực hiện với mục đích khắc phục tình trạng kiệt quệ của nền kinh tế nước Nga và đưa nó vào quỹ đạo phát triển trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là giúp cho chế độ chính trị được ổn định. Một nền kinh tế mạnh là điều kiện kiên quyết để đạt được một chế độ chính trị vững vàng. Khi lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xã hội được đáp ứng một cách tương đối công bằng thì mâu thuấn với chính trị sẽ đực giải quyết. Muốn nghiên cứu nội dung của chính sách này, ta phảI đặt chúng trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Mối một khâu trong chính sách cần phải thấy rõ ý nghĩa của thếu lương thực một bước đI dúng đắn của nhà nước Nga trong con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thếu lương thực cho phép nông dân có sản phẩm thừa đem trao đổi. Đây hoàn toàn không phải là đi ngược với mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, nước Nga vừa mới trải qua chiến tranh, lương thực thiếu. Nếu tiếp tục thực hiện chính sách lương thực cũ, mà nhà nước độc quyền mua bán lương thực thì chỉ làm cho nông nghiệp thêm sa sút mà thôi bởi chính sách cũ không còn phù hợp trong đIều kiện mới nữa. Chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu hướng tới của cách mạng vô sản như sử dụng biện pháp nào, cách thức nào để từng bước đạt được mục tiêu đó lại còn phụ thuộc hoàn cảnh thực tiễn, không thể ngay một lúc thực hiện phân phối theo phương thức cộng sản chủ nghĩa. Thuế lương thực là bước đấu tiên tạo cơ sở vật chất cho việc tiếp tục thực hiện mục tiêu của cách mạng vô sản. Theo như Lê-nin đã nói: “Thuế lương thự là một trong những hình thức của bước quá độ từ chủ nghĩa cộng sản quân sự - chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trang cùng khốn cực độ, tình trạng hoang tàn và chiến tranh buộc chúng ta phải thi hành, để bước sang chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường. Và chế độ này là một hình thức của bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội với những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân chúng tạo nên, sang chủ nghĩa cộng sản”. Chỉ có chính sách lương thực như thế mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chyên chính của mình trong một nước tiểu nông. Nhà nước Xô Viết đã thực sự phải đối mặt với những thử thách vô cùng gay go phức tạp. Viêc giải quyết tất cả những vấn đề đặt ra không phải là dễ dàng. Giai cấp vô sản nắm chinh quyền chưa được bao lâu, ít nhiều còn chưa có kinh nghiệm trong lĩnh đạo và quản lý, đặc biệt là quản lý một đất nước rộng lớn với cơ cấu giai cấp phức tạp như nước Nga. Mặt khác, trong ban lãnh đạo xuất hiện những ý kiến, quan điểm khác nhau nên khó thống nhất hoạt động. Khi nội chiến kết thúc tình hình chính trị rối ren cũng là điều khó tránh khỏi trong bối cảnh một nền kinh tế đang khủng hoảng trầm trọng. Tình hình thực tế trên đây buộc nhà nước Xô-Viết phải xem xét lại đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải chăng những việc làm trước đó của nhà nước là đúng đắn, phù hợp với những lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội? Chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến được thi hành kéo dài quá mức gây nên những khủng hoảng là một đIều không thể tránh khỏi. Nó không phải là một giai đoạn tất yếu trong chính sách kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác bản thân nhà nước Xô-Viết cũng nóng vội muốn chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội không thích ứng với tính chất và trình độ cuẩ lực lượng sản xuất thì tất yếu không thể tranh khỏi những thiếu sót và thực tế những thiếu sót đó đã tạo ra những lỗ hổng lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Chính vì quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất nên khủng hoảng mới xảy ra. Quyền sở hữu, quản lý và tổ chức sản xuất đều thuộc nhà nước trong khi lưc lượng sản xuất chậm phục hồi, các cơ sở sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật bị chiến tranh tàn phá. Trước chiến tranh nước Nga có nền đại công nghiệp phát triển mạnh nhưng trải qua chiến tranh, đại công nghiệp mạnh đó không còn nữa. Phân phối lại mang nặng chủ nghĩa bình quân, những kích thích về lợi ích kinh tế bị hạn chế tới mức tối thiểu trong toàn bộ nền kinh tế hầu như chỉ tồn tạI hình thức kinh tế nhà nước. Tính năng động của cá nhân không được phát huy. Tính xã hội hoá sản xuất lạI bị cản trở bởi nông nghiệp và công nghiệp tách rời nhau. Hinh thức sở hữu nhà nước cùng với việc tổ chức quản lý kém năng động và phân phối mang chủ nghĩa bình quân không thể phù hợp với lực lượng sản xuất đăng nằm trong giai đoạn chậm phục hồi do bị chiến tranh tàn phá. Nhìn chung, thì tình trạng nước Nga bây giờ chứng tỏ một đIều là những chính sách mà nước Nga đang thực hiện là không hợp thời, không thích ứng với đIều kiện đất nước bây giờ. Chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến đã giúp nước Nga đứng vững trong chiến tranh nhưng điều đó không có nghĩa là nó sẽ tiếp tục đem lạI cho nước Nga sự phục hồi và phát triển trong đIều kiện hoà bình. Thực tế đã chứng minh là việc kéo dài thực hiện chính sách này chỉ làm cho nước Nga càng chìm sâu trong cuộc khủng hoảng kinh tế mà thôi. Nếu muốn tiếp tục thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tất yếu nhà nước phải xây dựng một chinh sách mơí phù hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ. Chính sách đó phải khác phục được tính ỳ của nền kinh tế nước Nga phải đưa công nghiệp và nông nhiệp trở lại với mối quan hệ trao đổi qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, qua đó củng cố vững chắc khối liên minh công- nông. Khi đã khắc phục được những khó khăn trong kinh tế thì giải quyết vấn đề chính trị sẽ dễ dàng hơn. Năm1918, Lê-nin đã đề ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng việc thực hiện đã bị hoãn lại do chiến tranh. Giờ đây, khi chiến tranh đã qua đi và trước thực trạng đất nước đang trong tình trạng khủng hoảng, kế hoạch đó phải được tiếp tục thực hiện. Có thể nói, đây là giải pháp duy nhất mà nhà nước Xô-Viết có thể tiến hành để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X của Đảng cộng sản Bônsêvic Nga họp tư ngày 8 đến ngày16-3-1921 đã ban hành chính sách kinh tế mới (NEP). II. Nội dung của chính sách kinh tế mới. Chính sách kinh tế mới là cả một cơ chế kinh tế nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nước Nga đồng thời củng cố vững chắc nền chuyên chinh vô sản. Nền kinh tế có phát triển hay không sẽ quyết định sự ổn định vững chắc của hệ thống chính trị chính sách kinh tế mới đ ược thực hiện nhằm khắc phục tình trạng kiệt quệ của nền kinh tế nước Nga và đưa nó vào quỹ đ ạo phát triển trong thời kỳ quá đ ộ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Một nền kinh tế mạnh là điều kiện để đạt được một chế đ ộ chính trị vững vàng. Khi lợi ích kinh tế của các giai cấp được đáp ứng một cách công bằng thì mâu thuẫn chính trị sẽ giảm bớt –đem lại sự ổn định về xã hội. Nghiên cứu chính sách kinh tế này ta phảI đ ặt chúng trong mối quan hệ liên hoàn với nhau 1. Thuế lương thực Thuế lương thực là một trong những hình thức của bước quá độ chủ nghĩa từ chủ nghĩa “ cộng sản quân sự ”, chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trạng cùng khốn cực độ tình trạng hoang tàn và chién tranh buộc chúng ta phảI thi hành - để bước sang chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường. Và chế độ này là một trong những hình thức của bước quáđộ từ chủ nghĩa xã hội - với những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân chúng tạo nên – sang chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa “cộng sản quân sự ” có đIều này đặc biệt là thực tế chúng ta đã lấy ở nông dân tất cả những lương thực của họ và có khi cả những lương thực không phải là thừa mà là một phần cần thiết cho sự sống của họ. Như vậy là để cung cấp cho quân đội và công nhân chúng ta phảI lấy đI một phàn nguồn sông của nông dân. Nếu không thế chúng ta đã không thể thắng được bọn địa chủ vá tư bản trong xứ nông nghiệp tiểu nông suy tàn này và bọn đế đế quốc bên ngoàI. Nhưng cần phải hiểu cho đúng mức độ của thành tích ấy. Chiến tranh và tình trạng hoang tàn buộc chúng ta phảI thi hành chủ chủ nghĩa “cộng sản quân sự ”. Nó không phải là một chính sách phù hợp với nhiêm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Đó là một biện pháp tạm thời. Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì một chính sách đúng là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì. Chỉ có chính sách ấy mới phù hợp nhiệm vụ của giai cấp vô sản chỉ có chính sách đó mới tăng cường được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và dưa chủ nghĩa xã hội lên chỗ toàn thắng. Vì vậy đặt ra yêu cầu thực hiện “thuế lương thực ” để giảI quyết tình hình thực tế của đất nước. Đây là bước đầu tiên quan trọng trong cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế mới. sở dĩ như vậy bời vì trong điều kiện nước Nga bây giờ, đại công nghiệp đã mất đi vị thế kinh tế trước đây của nó, tiểu nông nghiệp tuy khó phat huy vai trò song không phải là ngành tạo ra khối lượng sản phẩm lớn đáp ứng nhu cầu cấp bách của đất nước, thương nghiệp hầu như không tồn tại chỉ có nông nghiệp là nguồn chính chủ yếu “nuôi sống” quốc gia. Mặc dù vậy ngành nông nghiệp cũng đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề, vì vậy để khôI phục nền kinh tế cần tiến hành khôI phục sản xuất nông nghiệp đầu tiên. có khôI phục sản xuất lương thực thì mới cảI thiện đời sống nhân dân, trong điều kiện bây giờ lương thực là nhu cầu cấp thiết đối với nước Nga. Theo như Lênin đã nói:”Muốn cảI thiện đời sống công nhân thì phảI có bánh mì và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay điêù chướng ngại nhất là ở đó. nhưng chúng ta chỉ có thể tăng thêm sức sản xuất và thu hoạch lúa mì tăng thêm sự dự trữ và vân taqỉ nhiên liệu bằng cách cảI thiện đời sống của nông dân- bằn cach nâng cao sức sản xuất của họ ”. Bên cạnh đó thực tế cũng cho they rằng kinh tế nông nghiệp suy sụp một cách nghiêm trọng lực lượng sản xuất nông nghiệp bị lung lay, lòng tin của nông dân đối với chính quyền Xô Viết bị giảm sút, tình trạng đầu cơ tích luỹ tràn lan vì vậy việc chỉnh đốn lại nền sản xuất nông nghiệp là một yêu cầu cấp bách. chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến kéo dài, với nội dung trưng thu lương thực thừa đã thủ tiêu nhưng kích thích đối với nông dân, kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp. Do đó tất yếu nó phảI được thay thế bằng một chính sách kinh tế mới nhằm sửa chữa nhưng sai sót mà nền kinh tế thời chiến ngây nên cho nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Thuế lương thực được thực hiện thống nhất từ tháng 5/1923 với hình thức hỗn hợp bằng hiện vật hoặc bằng tiền tệ (từ năm 1924 bằng hiện vật là chủ yếu). Mức thuế được thu phân biệt đói với các hộ nông dân: Đối với bần nông thì thu thuế bằng 1. 2% thu nhập, với trung nông thu bằng 3. 5% thu nhập, với phú nông thu bằng 5. 6% thu nhập. Ngoài ra người nông dân có thể tự do buôn bán lúa gạo sau khi đã nôp đủ thuế. 2. Khôi phục và phát triển sản xuất trao đổi hàng hoá giữa thành thị và nông thôn giữa công nghiệp và nông nghiệp: Đổi cho tiểu nông tất cả những sản phẩm mà họ cần dùng do nền đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa cung cấp để lấy lúa mì và nguyên liệu. Đó là chính sách hay nhất, hợp lý nhất và đó là chính sách mà ta bắt đầu thi hành. Nhưng chúng ta không thể đổi cho họ tất cả sản phẩm, không thể như thế đựơc và cũng không thể làm sớm như thế được. Vậy chúng ta phảI làm thế nào. Hoặc là tìm cách ngăn cấm, bao vây đến cùng mọi sự phát triển của mậu dịch tư nhân, không phải là của nhà nước nghĩa là mọi sự phát triển của tư bản thương mại bước phát triển tất nhiên phảI xảy ra hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một hành động dại dột tự sát đối với đảng nào tìm cách áp đặt nó. Dại dột vì về phương diện kinh tế chính sách ấy không thể nào thực hiện được; tự sát vì những đảng nào thực hiện chính sách như thế nhất định sẽ bị “phá sản”. Trong điều kiện hiện nay không thể xoá bỏ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và càng không thể “chỉ có một thị trường tiêu thụ sản phẩm là nông thôn ”. Làm như vậy sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Vậy chúng ta phải làm thế nào ? Cải thiện đời sống của nhân dân là việc đầu tiên cần nhưng nếu chỉ dựa vào nền nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp, thì không thể cân đối phát triển kinh tế. Thuế lương thực được thi hành đã tạo đIều kiện cho người nông dân hăng hái tham gia sản xuất, tạo ra ngày càng nhiều nông sản nhưng không có trao đổi hàng hoá thì chính sách thuế lương thực sẽ tự đánh mất tác dụng kích thích lợi ích vật chất của nó. Thuế lương thực có nghĩa là tự do bán số lương thực còn thừa (của nông dân sau khi họ đã nộp song thuế), thì chúng ta phải cố sức hướng sự phát triển ấy của chủ nghĩa tư bản, vì sự tự do buôn bán, tự do thương mại chính là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính sách kinh tế mới với nội dung mở rộng trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn đã đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng trong công nông nghiệp nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung. Nó cho phép người nông dân được tự do trao đổi, buôn bán nông sản để lấy sản phẩm công nghiệp. Nông nghiệp cần máy móc thiết bị để tiến hành sản xuất còn lương thực cần cho đời sống của công nhân, các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm cũng cần nguyên liệu để duy trì hoạt động sản xuất. Những nhu cầu đó chỉ có thể được đáp ứng thông qua trao đổi hàng hoá giữa hai ngành. Nói chung lại, trao đổi hàng hoá là cầu nối để gắn kết công nghiệp với nông nghiệp nhằm hỗ trợ nhau thú đẩy quá trình phụ hồi và phát triển lực lượng sản xuất. Sản xuất nông nghiệp mang tính chất hàng hoá sẽ mang lại lợi ích cho người nông dân nhiều hơn so với sản xuất tự cung tự cấp. Trao đổi hàng hoá mang lại sự năng động cho công nghiệp và nông nghiệp, hai ngành hỗ trợ nhau tự cải tiến sản xuất đẻ đáp ứng nhu cầu trao đổi. trước đây, do yêu cầu phục vụ quân đội trong chiến tranh sản phảm làm ra đều thuộc quyền quản lý và phân phối của nhà nước trao đổi hàng hoá bị cấm. khi bước sang thời kì kiến thiết đất nước trong hoà bình công nghiệp và nông nghiệp không chỉ đơn thuần sản xuất ra sản phẩm mà là sản xuất hàng hoá phải tính đến sản lượng và chất lượng sản phẩm để việc trao đổi được chấp nhận. Mặt khác yêu cầu của công cuộc khôi phục đất nước và xây dung chủ nghĩa xã hội là công nghiệp và nông nghiệp phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Đây là hai ngành chủ chốt trong nền kinh tế quốc dân, nếu như mỗi phát triển theo một hướng riêng lẻ, không ăn khớp với nhau thì hẳn là sẽ nảy sinh sự mất cân đối, sự lệch lạc trong phát triển. Bên cạnh đó trao đổi hàng hoá được thực hiện giữa thành thị và nông thôn đã làm sống động lại toàn độ sinh hoat xã hội thu hẹp khoảng cách về mức sống, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân ở hai khu vực này. Đó chính là mục đích khâu thứ hai trong chính sách kinh tế mới. Như vậy vấn đề khôi phục và phát triển sản xuất trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn là vấn đề tất yếu phải được thực hiện trong cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế mới. Tuy nhiên. Từ đó lại nảy sinh ra một vấn đề cần giải quyết. Đó là việc khôi phục phát triển hàng hoá trong nông nghiệp sẽ kéo theo sự khôi phục và kích thích xu hướng Tư Ban chủ nghĩa. Bàn luận về vấn đề này LêNin cho rằng đó là một tất yếu không tránh khỏi nhưng không nên vì thế ngăn chặn sự phát triển của trao đổi hàng hoá. Xu hương Tư Bản chủ nghĩa sẽ nhờ nó mà khôI phục, điều này là đúng. Tuy nhiên nó khôi phục ở mức độ nào thì điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sự quản lý của nhà nước Nga. Xu hướng này phảI được kiểm soát chặt chẽ bằng cách sử dụng hình thức kinh tế” chủ nghĩa Tư Bản nhà nước”. Nhà nước liên kết với tư nhân trong sản xuất và bằng những chính sách, những quy định về kinh tế hướng nó vào quỹ đạo thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc ngăn chặn xu hướng ấy sẽ có hại cho công cuộc khôI phục và phát triển nền kinh tế. Để đảm bảo lợi ích của Chủ Nghĩa Xã Hội thì phải phát triển Chủ NghĩaTư Bản nhà nước và trao đổi hàng hoá để phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp. Tóm lại, việc khôi phục và mở rộng sản xuất trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn là đúng đắn và hợp lý. Nó là một đòn bẩy quan trọng cho sự phát triển sản xuất lương thực nói riêng và sản xuất công nông nghiệp nói chung. Đồng thời thông qua trao đổi, tác dụng của thuế lương thực được phát huy hơn nữa. Nó thể hiện sự phù hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. 3. Tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp: Muốn trao đ ổi hàng hàng hoá đ ược thực hiện thông suốt, bên cạnh việc khuyến khích nông dân tích cực sản xuất còn phải tính đ ến việc khôi phục công nghiệp. Để có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân thì công nghiệp phải phục hồi và phát triển. Do chiến tranh tàn phá sản xuất công nghiệp đang sa sút thiếu nguyên liệu công nhân thất nghiệp tràn lan, thiếu lương thực. Kỷ luật lao động lỏng lẻo, năng xuất lao động thấp. Giai cấp công nhân bị phân tán và đang cò nguy cơ mất dàn bản chất giai cấp - mất đi ý chí đấu tranh. Việc tổ chức lại nền sản xuất đại công nghiệp là một yêu cầu cấp bách. Trước chiến tranh nước Nga đ ã từng có một nền đại công nghiệp rất phát triển. Nhưng trải qua một thời gian dài với biến cố chiến tranh, đại công nghiệp không còn là thế mạnh của nền kinh tế nước Nga nữa. Lực lượng sản xuất trong công nghiệp đ ang còn trong tình trạng thấp kém do cơ sở kỹ thuật chưa kịp phục hồi. Vấn đ ề này đ ặt ra là phảI sắp xếp lại, tổ chức lại cơ cấu ngành công nghiệp, khai thác thế mạnh của từng ngành để phát huy vai trò của công nghiệp và giai cấp công nhân trong khôI phục kinh tế đất nước. Do yêu cầu của ngành công nghiệp cần máy móc trang thiết bị kỹ thuật để sản xuất nên công nghiệp phải phục hồi nhanh chóng để tạo cân đối giữa hai ngành, kịp thời hỗ trợ nông nghiệp trong sản xuất. Với việc làm này, nhà nước đ ã thực sự khẳng đ ịnh vai trò quan trọng của mình. Để khôi phục sản xuất công nghiệp nhà nước đã trợ giúp vốn cho các cơ sở sản xuất, tạo công ăn việc làm thu hút nhân công, ổn định sản xuất. Đây là việc làm kịp thời đã khắc phục tình trạng thất nghiệp tràn lan, tình trạng thiếu vốn để cải tiến thiết bị –nâng cao sản xuất. Viêc khôi khôi phục sản xuất trên trang thiết bị cũ cũng là việc nên làm trong điều kiện hiện nay. Trước đ ây khi nước Nga thực hiện chính sách kinh tế thời chiến đã quốc hữu hoátoàn bộ xí nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước kiển soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm không những với đại công nghiệp mà ngay với cả tiểu công nghiệp. Khi thực hiện chính sách kinh tế mới nhà nước chỉ sử dụng một phần các xí nghiệp trước đây đã quốc hữu hoá, phần còn lại cho tư nhân mua hoăc thuê lại dưới một hình thức tô nhượng đ ể tư nhân tự do kinh doanh. Đây là một việc làm đ úng đ ắn bởi trong đ Iều kiện lực lượng sản xuất chậm phục hồi mà chỉ thừa nhận một hình thức kinh tế là kinh tế nhà nước thì thật là sai lầm. Trình đ ộ của lực lượng sản xuất chưa cho phép xây dung một quan hệ sản xuất như vậy. Việc nhà nước công nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một việc làm hợp với đ Iều kiện khách quan của xã hội trong quá trình tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Quá trình khôI phục và phát triển công nghiệp đ ược tiến hành trình tựtừ công nghiệp nhẹ đ ến công nghiệp nặng. Công nghiệp nhẹ ưu tiên những ngành gắn bó với nông nghiệp và nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm. Công nghiệp nặng chú trọng vào công nghiệp năng lượng nhưnh vẫn cân đ ối với các ngành công nghiệp nặng khác. Bước đI đầu tiên của quá trình khôI phục công nghiệp mà chính sách kinh tế mới đ ề ra là xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp và nông thôn. KhôI phục công nghiệp bắt đ ầu từ công nghiệp thực phẩm, chế biến nông sản. Dưới tác dụng của thuế lương thực, nông sản sản xuất ra ngày càng đòi phảI có nơI tiêu thụ. Phát triển công nghiệp nhẹ chính là đ áp ứng đ òi hỏi đó. Sự quan tâm đ ầu tư của nhà nước, và sự cung cấp nguyên liệu của nông nghiệp sẽ đ ảm bảo cho phục hồi nhanh chónh công nghiệp nhẹ. Như Lê-Nin đã phân tích, để cảI thiện đ ời sống của công nhân thì phảI có bánh mỳ và nhiên liệu. Thuế lương thực đ ã giảI quyết được một phần yêu cầu đó. Để khắc phục tình trạng thiếu nhiên liệu cho sản xuất và sinh hoạt Nga chủ trương phát triển công nghiêp nặng và dành phần lớn vốn đầu tư cho công nghiệp năng lượng góp phần khắc phục và cảI thiện nó về cơ bản. Chúng ta có thể thấy rằng chính sách kinh tế mới của Lê-Nin đ ề ra là rất hợp lý và chặt chẽ. Nó đ ã tạo đIều kiện cho nước Nga phát triển, từng bước tháo ngỡ những khó khăn khắc phục những hậu quả do chiến tranh gây ra. Đặc biệt, trong chính sách kinh tế mới, nền sản xuất công nghiệp đ ã đ ược tổ chức lại với cơ cấu nhiếu thành phần. Kinh tế tư nhân được phục hồi. Nước Nga trước đây đã phát triển với nền đại công nghiệp rực. Đến giai đoạn này, trong quá trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội không thể ngay một lúc xoá bỏ sở hữu tư nhân mà phảI công nhận sự tồn tại của nó là một tất yếu khách quan. Đó mới là việc làm hợp với quy luật kinh tế. Thời kì quá đ ộ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. là thời kỳ đ ấu tranh giữa hai thế lực, một bên là Chủ NghĩaTư Bản chưa bị tiêu diệt, một bên là Chủ Nghĩa Xã Hội còn non yếu. Thực tế cho thấy không thể không thể chỉ tồn taị một thành phần kinh tế nhà nước là duy nhất. Vì lợi ích của toàn xã hội nhà nước Xô -Viết phảI chấp nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và nhà nước Nga là áp dụng chính sách kinh tế mới là hoàn toàn đ úng đắn. Trong thờ kỳ thực hiện chính sách này kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đ ạo và chiếm ưu thế hơn hẳn so với các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh đ ó, hình tư kinh tế tư bản nhà nước –một sự đ ổi mới trong chính sách kinh tế của nước Nga –“là những mắt xích trung gian. Có thể tạo đIều kiện thuận lợi cho bước nước Nga nhanh chóng phục hồi sản xuất tăng trưởng kinh tế ”. Nhà nước hợp tác với tư nhân trong sản xuất công nghiệp :tư nhân là trung gian phân phối sản phẩm cho nhà nước, nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp, hầm mỏ, đất đai …Sản xuất trong công nghiệp dần hồi phục. Chính sách kinh tế mới không chỉ đề cập đến vấn đề đổi mới cơ chế ngàng mà còn đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô trong công nghiệp tăng cường phân công hợp tác giưa các ngành rồi qua đó nâng cao trình đ ộ phân công lao đ ộng xã hội. Các thành phần kinh tế đ ược tự do kinh doanh là điều kiện đ ể phát triển công nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp, đ ể hai ngành này có thể hỗ trợ cho nhau, góp phần củng cố liên minh công-nông về mặt kinh tế. Như chúng ta đ ã biết, cũng như vật chất quyết định ý thức, kinh tế sẽ quyết định đến sự ổn định hay không ổn định của hệ thống chính trị. Sau nội chiến liên minh công –nông có nguy cơ tan vỡ chính là do những lợi ích kinh tế của cả hai giai cấp không được đảm bảo. Khi mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp được giảI quyết thì vấn đề này cũng sẽ được giải quyết. Chính sách kinh tế mới với nội dung tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp vừa giảI quyết được yêu cầu khôI phục công nghiệp vừa giảI quyết một phần nguy cơ tan vỡ của khối liên minh công-nông. NgoàI ra việc tổ chức lại sản xuất công nghiệp cũng đ áp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở kinh tế bước đ ầu của Chủ Nghĩa Xã Hội, ổn định sản xuất giữa các thành phần kinh tế, vân dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội 4. Chủ chuyển đ ổi cơ chế quản lý sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc tập trung dân Trong thời gian thực hiện chính sách kinh tế Cộng Sản thời chiến, cơ chế quản lý tập trung được thực hiện koé dàI sang cả thừi kỳ hoà bình đã kìm hãm tính năng động của các cơ sở sản xuất. Nhà nước thống nhất quản lý tập trung bằng mệnh lệnh đối với các xí nghiệp quốc doanh, kiểm soát sản xuất và phân phối sản phẩm. Tất cả cơ sở sản xuất đều phụ thuộc vào nhà nước. Tính tự chủ trong kinh doanh bị hạn chế. Vấn đề đặt ra là nếu muốn khôI phục toàn bộ nền kinh tế thì không thể tiếp tục duy trì hình thức quản lý kinh tế kém năng động kém tự chủ như vậy. Do đó chính sách kinh tế mới đã đưa ra biệm pháp chuyển đổi cơ chế quản lý sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tinh thần chung của cơ chế quản lý này là để cho các doanh nghiệp tự chủ về tài chính, về phân phối lợi nhuận và tiền lương, chịu trách nhiệm trang trải chi phí, phân phối thu nhập dựa trên số lượng và chất lượng lao động. Cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh bị xoá bỏ. Các xí nghiệp được quyền quyết định tổ chức cung ứng, tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường, chủ động về kế hoạch sản xuất. Do đó, mõi cơ sở sản xuất phải tự tính toán sản lượng, giá bán. Lãi thì doanh nghiệp được hưởng, lỗ thì doanh nghiệp chịu. Nói chung, nhà nước chỉ làm nhiệm vụ quản lý về vĩ mô đói với nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển của các xí nghiệp và của cả nền kinh tế, đảm bảo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi trong hình thức quản lý gắn liền với sự thay đổi cơ cấu quản lý kinh tế xã hội. Thực chất quản lý theo phương pháp hạch toán kinh doanh là sự ứng dụng nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa vừa tập trung vừa dân chủ. Lê Nin chỉ rõ :” chính sách kinh tế mới không thay đổi kế hoạch kinh tế thống nhất của nhà nước và không vượt qua ngoàI giới hạn của kế hoạch đó ”. Các xí nghiệp quá độ sang hạch toán kinh tế sử dụng ngày càng rộng rã quan hệ hàng hoá --tiền tệ đặt ra yêu cầu là phảI nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước ở tầm vĩ mô. Hoạt động của Uỷ ban kế hoạch nhà nước được triển khai với việc soạn thảo các kế hoạch trước mắt để khôI phục các ngành công nghiệp. Thực chất nhà nước tăng cường việc hiện thực quản lý vĩ mô sẽ giúp tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các yếu tố của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Nhà nước sẽ phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các xí nghiệp quốc doanh và tư nhân cùng phát triển sản xuất. Như vậy kinh tế sẽ phục hồi nhanh chóng. Một nội dung nưã mà chính sách kinh tế đề cập đến là thực hiện dân chủ hoá trong quản lý kinh tế. Chính sách kinh tế này đã đảm bảo cho sự tham gia của quần chúng voà hoạt động quản lý. Dân chủ hoá trong quản lý là kết quả của sự thay đổi quan niệm về những vấn đề cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không phảI chỉ có duy nhất nhà nước quản lý sản xuất bằng phương pháp thuần tuý mệnh lệnh mới là đảm bảo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc dân chủ hoá trong quản lý kinh tế yêu cầu sự công khai và dân chủ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo quản lý, các vấn đề về cảI tiến sản xuất và quản lý phải được giải quyết dựa trên quyết định của đạI diện công đoàn và chính quyền. Nguyên tắc này đã hướng người lao động quan tâm đến lợi ích vật chất, vì lợi ích vật chất mà quan tâm đến kết quả lao động. Qua đó, quần chúng nhân dân lao động sẽ tăng thêm lòng tin vào các cán bộ quản lý bởi chính họ là những người kiểm soát hoạt động của cán bộ quản lý. Chính sách kinh tế mới đặt ra yêu cầu “ tổ chức rộng rãi có kế hoạch, thường xuyên và công khai việc lựa chọn cán bộ khá nhất cho công cuộc xây dựng kinh tế, những cán bộ hành chính và cán bộ tổ chức trên quy mô chung và chuyên môn, địa phương và toàn quốc ”. Như vậy, việc chuyển đổi cơ chế quản lý sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc tập trung dân chủ đã góp phần tăng tính năng động, sáng tạo của từng cá nhân, từng cơ sở sản xuất đồng thời tạo đIều kiện sử dụng được tất cả các nguồn lực cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế từng bước tiến lên mục tiêu Xã Hội Chủ Nghĩa. 5. Tổ chức lại quá trình lưu thông, củng cố lưu thông tiền tệ –ngân hàng : Sau nội chiến, do hiệu lực kéo dàI của chính sách kinh tế cộng sản thời chiến nển trao đổi buôn bán thương mại hầu như không tồn tại, chỉ có nhà nước độc quyền buôn bán lương thực và phân phối sản phẩm công nghiệp. Bước sang thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới, nhà nước cho phép tự do buôn bán, tự do thương mại nhưng dưới sự điều tiết quản lý vĩ mô của nhà nước. Điều này đánh dấu sự thay đổi trong quan niệm về con đường tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội của nước Nga. Trước đây, nước Nga không chấp nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hoá trong quá trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Chính sách kinh tế mới đã khắc phục sai lầm đó, chuyển hình thức phân phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu chuyển nền kinh tế từ trạng thái khủng hoảng hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường. Mục đích cao nhất của chính sách này là thiết lập liên minh công – nông về mặt kinh tế. Trong điều kiện chiến tranh, nông nghiệp lạc hậu công nghiệp bị phân tán thì chỉ bằng cách khôI phục thương nghiệp trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp thì mới gắn kết hai ngành này lạI với nhau. Thương nghiêp là mối liên hệ kinh tế duy nhất giữa tiểu nông và giai cấp vô sản. Tuy nhiên, tự do thương mạI không có nghĩa là để cho thương nghiệp tư nhân lấn át thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian đầu thực hiện chính sách kinh tế mới, thương nghiệp xã hội chủ nghiã do thiếu vốn và hàng hoá nên không chiếm được vị thế kinh tế cao nhưng với sự giúp đỡ của nhà nước (nhà nước tạo đIều kiện để liên kết công nghiệp quốc doanh và tiểu thủ công nghiệp với thương nghiệp quốc doanh và tập thể để nắm quỹ hàng hoá dùng làm phương tiện đIều tiết thị trường ), vị thế đó đã thay đổi. Nhà nước giúp thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chiếm các vị trí chỉ huy trong thương nghiệp khi triển khai quá trình lưu chuyển hàng hoá đồng thời hướng quá trình đó đI thẳng tới nhu cầu của nông thôn và thành thị. Hội nghị Đảng Cộng Sản Bônsêvíc Nga lần thứ XI tháng 12-1921 đã nêu ra phương hướng quản lý trong lĩnh vực lưu thông là : “ Căn cứ vào thị trường hiện có và tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh vực thị trường và bằng những biện pháp kinh tế thường xuyên, có cân nhắc và được xây dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc đIều tiết thị trường và lưu thông tiền tệ ”. Nhà nước sử dụng nhiều hình thức thương nghiệp với một cơ cấu đảm bảo phát huy vai trò của thương nghiệp nhà nước, loạI dần tư thương ra khỏi lĩnh vực bán buôn, canh tranh với tư bản thương nghiệp bán lẻ. Nhà nước tăng cường đầu tư cho lĩnh vực giao thông vận tảI để kịp thời đáp ứng yêu cầu vận chuyển của nội thương và cả ngoạI thương. Song song với quá trình tổ chức lạI lưu thông hàng hoá, nhà nước cũng thực hiện ổn định nền tàI chính quốc gia. Do tác dụng của chế độ hạch toán kinh tế nên nguồn thu cho ngân sách nhà nước tăng bởi các xí nghiệp tự chủ về tàI chính không đòi hỏi kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Nhà nước tăng cường kiểm kê, kiểm soát việc chi tiêu, hạn chế chi phí sản xuất và chi phí quản lý của các xí nghiệp. Nhà nước chủ trương tổ chức lạI tàI chính quốc gia, đIều tiết giá cả chống lạI lạm phát, chống lạI sự mất giá của đồng Rúp ; thiết lâp chính sách tàI thống nhất dựa trên quan đIểm tập trung tàI chính. Qua đIểm này chính là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Để khắc phục tình trạng bội chi của ngân sách nhà nước, nhà nước Xô-Viết đã thực hiện cân đối thu chi giảm biên chế cắt giảm chi tiêu không cần thiết cho bộ máy hành chính, bãI bỏ chế độ bao cấp. để tăng thu cho ngân sách, nhà nước xây dựng lạI hệ thống thuế nhằn đIều tiết lạI thu nhập của các tầng lớp dân cư. Hệ thống thuế bao gồm : thuế công thương nghiệp, thuế thu nhập, thuế tàI sản, thuế nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước phát hành công tráI, khôI phục ngoạI thương để tăng dự trữ vàng. Ngân hàng nhà nước được thiết lập lạI, tiến hành thay đổi đơn vị tiền tệ, phát hành giấy bạc ngân hàng cho các tổ chức kinh tế công thương nghiệp quốc doanh vay, dần dần rút đồng Rúp Xô Viết ra khỏi lưu thông chống lạm phát. Ngày 5 -2-1924, nhà nước ban hành đạo luật phát hành giấy bạc mới (rúp vàng). Ngày 16-2-1924 ra sắc lệnh đình chỉ phát hành đồng rúp Xô - viết để trang trải ngân sách. Ngày 7- 3- 1924 Nhà nước ra đạo luật rút đồng rúp Xô - viết ra khỏi lưu thông. Tiếp theo việc ổn định đồng tiền là củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng. Trong quá trình từ 1921- 1923, ngân hàng nhà nước đã được củmg cố. Tiếp đó đã mở rộng hệ thống tín dụng bằng cách thành lập các ngân hàng khác. Ngân hàng công thương nghiệp : cấp tín dụng cho nghành công nghiệp, thương nghiệp. Nhà nước củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng tiến tới hoàn thành cảI cách tiền tệ. III. Tác dụng của chính sách kinh tế mới. 1. Tác dụng : về nông nghiệp : Sau một thời gian thực hiện chính sách kinh tế mới, nhà nước Xô - Viết đã khôI phục được nề kinh tế bị chiến tranh tàn phá. Nông nghiệp đến năm 1925 đã vượt mức trước chiến tranh. Nạn đói được đẩy lùi, sản lượng lương thực không ngừng tăng qua các năm. Diện tích gieo trồng được mở rộng. Do mức thuế thấp nên nhà nước không thu được nhiều lương thực nhưng thông qua con đường trao đổi đã có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Do mức thuế thấp nên năm 1921 nhà nước thu được 240 triệu pút so với 423 triệu pút trưng thu trước đây. Nhưng để bù lại, do nông dân hăng hái sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các nông sản khác tăng lên. Nhà nuớc qua con đường trao đổi có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Ngoài ra, do mức thuế ổn định, người nông dân nào cũng biết đuợc số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để vượt qua mức đó. Nhà nước thu thuế rõ ràng, thuận lợi. Thuế lương thực là đòn mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì :” thuế luơng thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân. Bấy giờ, nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm, và đó chính là điều chủ yếu “(còn thiếu khoán ruộng đất nhớ chèn thêm) Về công nghiệp : Số công nhân có việc làm tăng nhanh, khắc phục được tình trạng thất nghiệp tràn lan. Công nghiệp dầu khí được khôI phục và cảI tạo về cơ bản, cùng với các cơ sở năng lượng khác, hoàn thành kế hoạch đIện- khí hoá. Sản xuất công nghiệp tăng cao chưa từng thấy, mức tăng sản phẩm trung bình hàng năm là 41%. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913 đạt 75, 5% (đến năm 1926 khôI phục được 100%). Ngành đIện và cơ khí chế tạo vượt mức trước chiến tranh, xí nghiệp công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm cũng đã vượt mức trước chiến tranh. Về thương nghiệp và tàI chính tiền tệ : Thương nghiệp phát triển mạnh mẽ. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá năm1926 đã bằng hai lần năm 1924. Liên Xô đã mở rộng quan hệ buôn bán với hơn 40 nước. Năm 1925-1926 thu nhập của nhà nước tăng lên gần 5 lần so với nă m 1922 –1923. Ngân hàng nhà nước được lập lạI năm 1921, tiền hành đổi tiền vào các năm 1922- 1923. Giá trị đồng Rúp tăng lên đáng kể. Về chính trị : Nhà nước Nga đã tiến được một bước dàI trong việc củng cố liên minh công –nông, ổn định hệ thống chính trị. Tình trạng rối ren trước kia đã được khắc phục. Giai cấp công nhân đã phát huy được năng lực lãnh đạo của giai cấp mình. Thành công lớn nhất của thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới là tháng 12-1922 Liên Bang Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Xô - Viết được thành lập và là nhà nước xã hội chủ nghĩa đàu tiên trên thế giới. 2. ý nghĩa Chính sách kinh tế mới được thực hiện đã tạo đIều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn và thành thị, đáp ứng dược yêu cầu của quy luật kinh tế của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính hàng hoá và có nhiều thành phần. Nó là chiến lược xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội từ đIểm- xuất phát kinh tế lạc hậu. Mỗi bước đI của chính sách này là một bước tiến trong sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Trong toàn bộ các khâu của chính sách kinh tế mới không có khâu nào không phù hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Đây còn là chiến lược liên minh công –nông về mặt kinh tế. Chính sách nà đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế của cả hai giai cấp công nhân và nông dân. Qua chính sách này, Lênin đã nêu rõ để củng cố nền chuyên chính vô sản thì phảI bắt đầu từ đâu, phải giải quyết những khó khăn về chính trị dựa trên việc giải quyết những khó khăn về kinh tế. Chính sách kinh tế mới còn có ý nghĩa về mặt lý luận. Nó là một kiểu mẫu cho sự vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác-Ănghen vào thực tiễn. Qua chính sách này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cơ chế kinh tế trong thời kì quá độ. Về những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. đối với các nước tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội đều cần thuyết vận dụng tinh thần cơ bản của chính sách kinh tế mới như vấn đề quan hệ hàng hoá- tiền tệ, nguyên tắc liên minh công nông, sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần…Đây là những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác về các giai đoạn của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Nó đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế xẵ hội chủ nghĩa. CHƯƠNG II: Sự vận dụng chính sách kinh tế mới vào việt nam: I. Việt Nam tước thời kỳ đổi mới :. Trước khi nghiên cứu chính sách kinh tế mới cuả Đảng và nhà nước ta hiên nay. chúng ta hãy cùng nhìn xuyên suốt chiều dàI lịch sử của đất nước. đất nước ta đã trảI qua một thời kỳ chiến tranh dàI và khốc liệt. Với sự lãnh đạo của Đảng cộng Sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đem lạI hoà bình tự do trên đất nước ta. Đảng đã xác định mục tiêu đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa sở dĩ như vậy trong bối cảnh thế gới, tư bản chủ nghĩa đã trở lên lạc hậu bởi tính chất phản động hiếu chiến. Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản không còn đạI diện cho xu thế mới của thời đạI nữa. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới. thực sự chỉ có xã hội mới thực sự tồn tạI quyền dân chủ, hướng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hộ hoàn toàn đúng đắn. đảng và nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phảI khôI phục đất nước sau chiến tranh. Công cuộc khôI phục và phát triển kinh tế xây dựng và củng cố chế độ chính tri là một thử thách đối với Đảng ta và nhà nước Xã HôI Chủ Nghĩa. Chiến tranh đã để lạI hậu quả nặng nề về kinh tế xã hội cũng như về đời sống tinh thần. Bây giờ, nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ. Cơ sở vật chất thấp kém do bị chiến tranh tàn phá. Phân công lao động xã hội chưa phát triển, năng xuất lao động thấp, trình độ tổ chức quản lý yếu. Điều kiện trong nước khó khăn như vậy lại còn bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận kinh tế. Tuy nhiên, đất nước hoà bình cũng là một môI trường thuận lợi cho xây dựng và khôI phục kinh tế. Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đăng diễn ra mạnh mẽ cũng ảnh hưởng tới công cuộc khôI phục kinh tế. Bên cạnh đó, nước ta lại được sự giúp đỡ của Liên Xô và Đông Âu- những nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trước năm 1986, do ảnh hưởng cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, nền kinh tế nước ta trở nên trì trệ. Đại hội IV và đại hội V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với tinh thần là đảy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đưa nền kinh tế của nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ phát triển nông nghiệp và công nghiêp nhẹ kết hợp kinh tế với quốc phòng, cân đối phát triển giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương để tiến tới xây dựng nền kinh tế quốc dân thống nhất. Về cơ bản, đường lối của đảng là rất đúng dắn song trong quá trình thực hiện, bên cạnh những thành tựu đạt được còn có nhiều sai sót. Về nông nghiệp : mô hình kinh tế hợp tác xã hoạt động không hiệu quả, yếu kếm về tổ chức quản lý, sản xuất bấp bênh, năng xuất thấp. Nông dân có sự phân hoá giàu nghèo. Tất cả nông dân đều lao động sản xuất trong hợp tác xã và tính công điểm. Do không có sự có gắng nỗ lực của từng cá nhân nên sản lượng nông nghiệp không cao. Nhà nước ban hành chỉ thị 100 khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động – một hình thức quản lý tiến bộ phù hợp với thực tiễn đất nước ta nhưng lạI bị hạn chế về trình độ quản lý yếu kém làm cho nó không phát huy được hết tác dụng. Về công nghiệp : Nhà nước tiến hành quốc hữu hoá các xí ngiệp của tư sản mạI bản và tư sản bỏ chạy ra nước ngoài. Nhà nước chỉ đặt kế hoạch trước định mức sản phẩm trước rồi sản xuất tràn lan mà không hề tính đến vấn đề tiêu thụ như thế nào. Sản xuất hoàn toàn không gắn với thị trường. Trong công nghiệp hầu như chỉ có công nghiệp quốc doanh nhưng lại hoạt động kếm hiệu quả. Tuy nhiên, trong giai đoạn này nước ta cũng đã xây dựng được một số ngành công nghiệp nặng quan trọng và nhiều công trình công nghiệp lớn. Về thương nghiệp và tàI chính tín dụng : Nhà nước xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư doanh, thị trường xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và mở rộng nhưng lưu thông phân phối vẫn rối ren. Thị trường tàI chính tiền tệ không ổn định. Giá cả tăng nhanh, lạm phát nghiêm trọng ngân sách nhà nước bị thâm hụt. Mởu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán hoạt động kém hiệu quả. Về ngoạI thương, nước ta chỉ mở rộng buôn bán trao đổi phần lớn với các nước trong khối SEV, không quan hệ với các nước tư bản. Suốt một thời gian dàI, nước ta không nhận thức đúng đắn vai trò của sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường. Đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi nhẹ và phủ nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, coi kinh tế thị trường là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản mà tách rời một cách siêu hình sản xuất hàng hoá với thị trường. Rõ ràng là trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta còn yếu kém. Thế mà chúng ta đã vội vàng áp đặt cho nó một quan hệ sản xuất tiên tiến – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là không phù hợp với quy luật. Nguyên nhân chính là do trong công tác quản lý, nhà nước ta đã nóng vội muốn nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội mà không vận dụng một cách đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ qú độ. Nền kinh tế kế hoạch hoá và tập trung cao độ gây mất tính năng động. Bên cạnh đó, hoạt động tư tưởng tổ chức và công tác cán boọ của Đảng có nhiều khuyết điểm dẫn đến sai lầm trong lãnh đạo, quản lý. Cơ chế quản lý yếu kém, quan liêu bao cấp là vật cản đối với quá trình xây dựng đất nước, khôI phục kinh tế. Đứng trước thực tiễn đó, Đảng và nhà nước đã phảI đánh giá lạI tình hình và đưa ra đường lối đổi mới bắt đầu từ đạI hội Đảng khoá VI ( tháng 12/1986). II:chủ chương đổi mới của Đảng và nhà nước: 1. Đổi mới nền kinh tế: a, Đổi mới về cơ cấu kinh tế : Nghị quyết đại hội đảng VI, đã xác định : “Đổi mới toàn diện nhưng phảI tập trung lãnh đạo đổi mới kinh tế ”. Trước hết nhà nước tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên cơ sở đã nắm vững tinh thần cơ bản của chính sách kinh tế mới cuả Lê-nin. Nhà nước ta chủ trương “ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tâp trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định xã hội chủ nghĩa”. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng cơ chế mới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và trình độ lãnh đạo quản lý của bộ máy nhà nước. Các doanh nghiệp trong nước trước đây phụ thuộc vào nhà nước cả về tàI chính cũng như đường lối hoạt động sản xuất thì nay đã chuyến sang chế độ hạch toán kinh doanh, có quyền tự chủ về tàI chính. các doanh nghiệp sẽ phảI tự tính toá n xem nên sản xuất với sản lượng là bao nhiêu, giá thành sản phẩm như thế nào để thị trường chấp nhận. Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã dựa trên sự nghiên cứu tìm hiểu kỹ về thị trường. Không còn tình trạng nhà nước chịu lỗ thay doanh nghiệp. Cần phả thấy rằng sản xuất hàng hoá không đối lập vơí chủ nghĩa xã hội mà là một thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại và nó cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn hình thức hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh. Cơ chế quản lý mệnh lệnh thuần tuý không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Tính năng động của nền kinh tế thị trường không cho phép duy trì cơ chế quản lý kém hiệu quả như vậy. Muốn phát triển kinh tế thị trường theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa thì phảI đổi mới cơ chế quản lý. Cùng với chuyển các xí nghiệp sang hạch toán kinh tế nhà nước ta chủ trương dân chủ hoá trong quản lý kinh tế, đảm bảo quyền lợi của quần chúng lao động. Người lao động trở thành người giám sát hoạt động của các cán bộ lãnh đạo. Những quyết định về quản lý doanh nghiệp đều dược thông qua dựa trên sự góp ý của người lao động. Nhà nước cũng thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãI cho các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời hạn chế tốiđa tình trạng độc quyền. Bên cạnh đó nhà nước còn phải nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô thông qua việc tạo mổi trường ổn điều kiện ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước ban hành những chính sách, nghị định, nghị quyết trong lĩnh vực kinh tế như chính sách thúê , luật doanh nghiệp …Trực tiếp quy định quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước. Đồng thời trên cơ sở hoạch định chính sách giá cả, chế độ phân phối thu nhập để duy trì sự ổn định của cơ chế kinh tế, đảm bảo lợi ích của toàn bộ thành viên của các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp cũng được nhà nước hướng dẫn và hỗ trợ phát triển thông qua các kế hoạch và chính sách kinh tế. Nhà nước có thể tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động bằng cách tổ chức, thu nhập. Xử lý, cung cấp thông tin ; dự báo và định hướng về thị trường trong và ngoàI nước ; tổ chức hướng dẫn các hoạt động thương mại, quản lý công tác nghiên cứu khoa học thương mại, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý tiết kiệm ; thanh tra kiểm tra thực hiện chính sách quy hoạch kế hoạch phát triển thương mại ; tổ chức đấu tranh chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả, đầu cơ lũng đoạn thị trường. Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước còn dựa trên cơ sở tăng cường hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh các công cụ tài chính tín dụng, sự hoạt động của các doanh nghiệp này cũng là một công cụ hữu hiệu để nhà nước lắm bắt và quản lý thị trường. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế được thực hiện toàn diện từ cấp cao nhất là nhà nước cho tới cấp cơ sở là các doanh nghiệp lớn nhỏ trong nền kinh tế. Cơ chế quản lý được thay đổi sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển năng động hơn, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp cũng tốt hơn trước. Nghị quyết đại hộ IX đề ra : Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xây dựng nền kinh tế độc lập dân chủ, dưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, tăng trưoảng kinh tế đI đôI vớ phát triển văn hoá, từng bước cảI thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ môI trường, đI đôI với phát triển kinh tế –xã hội tăng cường an ninh quốc phòng. Thực công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, tiếp tục đưa nông nghiệp phát triển, chú trọng phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, Tây Nam …Mục tiêu trong 5năm 2001-2005: nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 7. 5%/năm, Tổng GDP năm 1005 gấp 2 lần GDP năm 1995. Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp là 20-21%GDP, công nghiệp và xây dựng là 38-39% các nghành dịch vụ là 441-42%. Tạo việc làm cho 7. 5 triệu lao động, nâng tỷ lệ lao động đào tạo lên 30%. b. Đổi mới cơ cấu Đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, nhà nước tiến hành đổi mới cơ cấu nền kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường có sự đIũu tiết của nhà nước, tổ chức lại các thành phần kinh tế. Dựa trên việc phân tích của Lê-nin về sự cần thiết phảI phát triển kinh tế hàng hoá và sự tồn tại của sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thời kỳ quá độ, nhà nước ta đã xác định 5 thành phần kinh tế tồn tại độc lập và bình dẳng trong nền kinh tế thị trường. Năm thành phần kinh tế bao gồm : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể – tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế tư bản tư nhân (theo như hiến pháp năm 1992 đã phân loại ). Nhà nước đổi mới tổ chức các hợp tác xã và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. năm thành phần kinh tế được tự do hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nhưng phải đảm bảo theo đúng pháp luật và được đặt dưới sự quản lý chung của nhà nước. Khu vực kinh tế nhà nước đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp và cơ sở hạ tầng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động. Các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã đổi mới về quy mô, tổ chức và phương thức hoạt động để phát triển sản xuất kinh doanh. Kinh tế cá thể- tiểu chủ phát triển rộng rãI trong hầu hết các ngành kinh tế: thương mại, dịch vụ, nông- lâm- ngư nghiệp do đặc tính năng động nhạy bén trước những thay đổi của thị trường. Thành phần kinh tế này hoạt động rất hiệu quả. Kinh tế tư bản tư nhân bước đầu phát triển tập trung vào lĩnh vực thương mạ, dịch vụ, đầu tư vào sản xuất còn ít. Nhà nước ta đang có chủ trương khuyến khích tư bản tư nhân mạnh dạn đầu tư vào sản xuất công nghiệp nông nghiệp áp dụng công nghệ kĩ thuật hiện đại nhưng đồng thời cũng tăng cường hiệu lực quản lý để hạn chế mặt tiêu cực của thành phần kinh tế này. đối với kinh tế tư bản nhà nước, đây là hình thức tốt nhất để thu hút vốn, công nghệ kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Như Lê- nin đã phân tích, đây là hình thức kinh tế trung gian quá độ để đưa nền kinh tế nói riêng và đất nước ta nói chung nên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được đIũu đó, nhà nước ta đã không coi nhẹ hình thức kinh tế này và cũng không kìm hãm sự phát triển của nó mà chỉ hướng nó đI theo một mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. đổi mới kinh tế tạo ra môI trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp nào sản xuất hàng hoá có chất lượng tốt và giá thành thấp sẽ được người tiêu dùng chấp nhận và sẽ khẳng định được vị chí trên thị trường. Tư đó các nhà sản xuất phảI tự nghiên cứu tìm tòi để tăng chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm. Sự cạnh tranh đó sẽ làm cho nền kinh tế phát triển. Mặt khác khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó giảI phóng cá nhân tham gia kinh tế khỏi sự phụ thuộc vào quan liêu, tạo điều kiện cho họ trở thành chủ thể của hoạt động kinh tế và qua đó tạo tính năng động sáng tạo cho mỗi thành viên. thể chế kinh tế thị trường đã phá bỏ quan hệ đặc quyền đẳng cấp, cung cấp môI trường cạnh tranh bình đẳng. Trước đây, nền kinh tế nườc ta mang nặng tình hiện vật, tự cung tự cấp, kế hạch hoá tập trung tạo nên tâm lý thụ động ỷ lại. Sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường đã mang lại sức sống cho nền kinh tế, đưa nó trở về vẻ đẹp vốn có. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá tác dụng của nền kinh tế thị trường, phải có sự quản lý đIều tiết vĩ mô của nhà nước để đảm bảo nó phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội. Chế độ tem phiếu trước đây được bãi bỏ hoàn toàn. phân phối sản phẩm dựa theo thị trường. Nhà nước thi hành đánh thuế thu nhập nhằm phân phối lại thu nhập, đIều tiết trong táI phân phối để tránh bbất bình đẳng. Việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã tạo nên động lực, khơi dậy mọi tiềm năng, đặc biệt là tính năng động sáng tạo của mọi người trong xã hội. Cùng với sự đổi mới thành phần kinh tế, cơ cấu ngành và vùng kinh tế bắt đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo hướng quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu chế xuất, khu công nghiệp đang được xây dung. Rõ ràng nếu muốn nâng trình độ kinh tế hàng hoá nên trìng độ kinh tế thị trường hiện đại thì phải có một cơ sở kĩ thuật hiện đại. Nhìn chung nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất còn yếu kém, công nghệ lạc hậu nên năng xuất lao động không cao. Muốn xây dựng một nền kinh tế hiện đại thì không chỉ có đổi mới cơ chế mà phải đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. để đạt được điều đó, nhà nước ta phải tăng cường cải tiến nâng cấp các cơ sở kĩ thuật hiện có, tranh thủ công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới. Qua các dự án đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam, giám đặt nghiêm gặt việc nhập cônh nghệ và thiết bị, tránh biến nước ta thành bãI thảI công nghệ của thế giới. cơ cấu nghành kinh tế cũng đòi hỏi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên nhà nước vẫn thực hiện phát triển nhiều loại hình kinh tế nông nghiệp có hiệu quả, đó là kinh tế trang trại, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn, nông –lâm –ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá gắn liền với chế biến sản phẩm bằng công nghệ tiến bộ. Hiện nay, kinh tế nông thôn còn dựa chủ yếu trên cơ sở nông nghiệp để phát triển nhưng là một sự phát triển tổng hợp, đa ngành nghề với sự biến đổi quan trọng trong phân công lao động xã hội tại nông thôn còn dựa, tạo ra những lực lượng sản xuất mà nông nghiệp truyền thống trước đây trưa tong có. trước đây mô hình hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả do chỉ chú ý đến việc thay đôi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong quá trình cảI tạo xã hội chủ nghĩa mà không giảI quyết tốt vấn đề tổ chức quản lý và phân phối. Các hợp tác xã, tổ chức hợp ly sản xuất nông nghiệp chỉ có hình thức không có thực chất của quan hệ sản xuất mới. Để khắc phục tình trạng đó, nhà nước ta xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới theo nguyên tắc tự nguyện dânchủ bình đẳng, tổ chức và phân phối phong phú đa dạng. Các hợp tác xã chủ yếu chuyển hướng làm dịch vụ cung ứng vật tư, thuỷ lợi, thu mua nông sản, bảo vệ thực vật …. Hoạt động của nông trường quốc doanh cũng được nhà nước hỗ trợ bằng cách cho vay vốn. Thành phần kinh tế cá thể –tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước trong nông nghiệp cũng được nhà nước tạo điều kiện phát triển. Nhà nước chủ trương phát triển nông –lâm –ngư nghiệp, khai thác hết tiềm năng đa dạng của các ngành này. Công nghiệp và nông nghiệp liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Trong mối quan hệ với nông nghiệp, công nghiệp không chỉ dừng lại ở lĩnh vực chế biến mà còn có thể phát triển những ngành công nghiệp phục vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp như công nghiệp cơ khí, sửa chữa chế tạo máy móc nông nghiệp, thuỷ lợi … Về công nghiệp nói riêng, trình độ công nghệ kỹ thuật vẫn còn lạc hậu. Nhà nước ta khi bước vào thời kỳ đổi mới phảI tiếp nhận thưc trạng của cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp kém phát triển. Hiện nay, chủ trương của nhà nước là tăng cường đổi mới thiết bị và công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ với các nước tiên tiến trên thế giới nhằm rút ngắn quá trình nghiên cứu và phát triển. NgoàI việc nhập khẩu hợp lý những công nghệ tiên tiến từ nước ngoàI vào để thay thế công nghệ lạc hậu, nước ta cũng đã đồng thời nghiên cứu cảI tiến một số thiết bị, dây chuyền công nghệ đang hoạt động trong nền kinh tế, trong bước trang bị lại để nâng dần trình độ công nghệ. Kinh tế nhà nước đang trong quá trình đổi mới, tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện sản xuất và thích nghi với việc quản lý theo kinh tế thị trường, tuy nhiên nền sản xuất mặc dù đan xen những yếu tố hiện đại, song kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc còn chiếm tỷ lệ lớn. Trong chính sách NEP của Lê nin, điều đầu tiên ông nhắc tới trong nội dung đó chính là sự cải tạo nền nông nghiệp. Muốn đưa nền nông nghiệp từ trạng thái năng suất thấp, hiệu quả thấp, sử dung lao động thủ công là chính, sang một hệ thống có năng suất cao, hiệu quả dựa trên những phương pháp công nghệ tiên tiến của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành có hàm lựơng khoa học công nghệ cao, giá trị gia tăng nhanh. Muốn đạt mục tiêu này phải phát triển công nghiệp, nhưng quan trọng hơn là đổi mới công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế, phải sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới. Là một nước đi sau về phát triển kinh tế, Việt Nam nhất thiết phải tận dụng quá trình chuyển giao công nghệ, tiếp thu, làm chủ được các loại hình công nghệ hiện đại để nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thông qua một quá trình đổi mới công nghệ rộng khắp từ sản xuất kinh doanh đến dịch vụ, quản lý. Nền kinh tế VN hiện nay cũng như nhiều nước đang phát triển khác, được đặc trưng bằng sự chiếm ưu thế của sản phẩm nông nghiệp và lao động nông thôn, dù công nghiệp hoá đã bắt đầu. Muốn phát triển phải cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế, tạo sự dịch chuyển nền kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, nền kinh tế từ nặng về nông nghiệp sẽ chuyển dần về phía công nghiệp và dịch vụ, trong đó quan trọng là công nghiệp chế biến và các dịch vụ xã hội, dịch vụ kinh tế, dịch vụ trí tuệ. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành theo hướng trên sẽ vấp phải một trở lực hết sức lớn nếu không thu hút được số lao động dư dôi ra trong nông nghiệp. Khắc phục trở ngại này đòi hỏi phải đầu tư để tạo thêm chỗ làm việc trong nền kinh tế ở khu vực đô thị và nhất là ở nông thôn. Vì vậy phát triển công nghiệp nông thôn, tăng đầu tư vào nông thôn sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới đưa được nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu Các-Mác cho rằng, những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với nhửng tư liệu lao động nào. Nền kinh tế nước ta hiện nay về cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ, trình độ lao động còn thấp kém lạc hậu, lao động thủ công là chính, năng suất thấp. Lao động nông nghiệp nước ta vẫn chiếm khoảng 70%tổng số lao động, địa bàn nông thôn chiếm gần 80%dân số cả nước và là nơi tập chung đại bộ phận người nghèo trong xã hội. Số liệu điều tra gần đây cho thấy có tới 29, 5%tổng số hộ dân có mức thu nhập dưới 20Kg gạo 1người/1tháng;5, 6%hộ thu nhập chỉ đạt dưới 8Kg gạo 1người/1tháng ;khoảng 20%hộ thiếu và đói. Như chúng ta đã biết. Vào năm 1950, khu vực Đông nam á còn rất lạc hậu. Trên 50%lao động ở Nhật bản thuộc khu vực nông nghiệp, năng suất công nghiệp của Nhật bản chỉ bằng 15% năng suất công nghiệp của Mỹ, Hàn quốc, còn nghèo hơn cả Xuđăng( châu phi). Ngày nay Nhật bản đã trở thành một siêu cường kinh tế thế giới, là thành viên của nhóm 7nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới ( Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Canada, Anh, Italia ) và có giá trị GDP đầu người cao nhất thế giới. Bốn l nước công nghiệp mới : Hàn quốc, Đài loan, Singapo, Hồng kông đã tạo nên những nền công nghiệp tăng trưởng nhanh chóng chưa từng thấy. Qúa trình công nghiệp hoá ở những lãnh thổ và quốc gia này chỉ cần khoảng 30 năm. Các nước này đã từng xuất phát từ xã hội truyền thống, với nền nông nghiệp chiếm tới 75%lao động và trên 30%GDP, sau đó họ đã đào tạo tiền đề công nghiệp hoá dựa trên những đột phá công nghệ trong công nghiệp, trong xây dựng kết cấu hạ tầng và sản xuất các sản phẩm chế tạo hướng về xuất khẩu, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư. . . . Giai đoạn công nghiệp hoá được tăng tốc thông qua những yếu tố nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế(giảm mạnh tỷ lệ nông nghiệp trong GDP), về khả năng duy trì mức tăng trưởng kinh tế ở mức cao, về một chính sách thuận lợi cho phát triển các công nghệ hiện đại, về một nền giáo dục-đào tạo vững vàng, tạo năng lực nội sinh của quốc gia, bảo đảm cho giai đoạn trưởng thành, gắn liền công nghiệp hoá với hiện đại hoá, phấn đấu trở thành một quốc gia phát triển. Vì vây nước ta phảI thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn đến năm 2020 nước ta cơ bản là một nước công nghiệp như mục tiêu đại hội IX đề ra. Tóm lại, đổi mới cơ cấu kinh tế là một cơ chế nhằm phát triển toàn diện các ngành kinh tế, khai thác tối đa khả năng sẵn có của tong ng ành. đổi mới kinh tế với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội c. Đổi mới quan hệ đối ngoại : Nhà nước ban hành cácđạo luật mới, đặc biệt là các đạo luật kinh tế thực hiện mở cửa nền kinh tế. nếu như trước đây chỉ quan hệ kinh tế với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thì nay đã chuyển sang đa phương hoá trong chính sách đối ngoại theo quan đIúm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đông thế giới, phấn đấu hoà bình, độc lập và phát triển ”. Mặt khác mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là xu thế phát triển tất yếu khách quan của mọi quốc gia trong thời đại ngày nay. Nhà nước ta xác định : trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại phảI xử lý tốt mối quan hệ kinh tế và chính trị, đưa hoạt động kinh tế đối ngoại phục vụ đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy ý chí tự lực tự cường thông qua mở cửa, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại ; lợi dụng có hiệu quả những lợi thế trong phân công lao động quốc tế, đầu tư quốc tế và quốc tế hoá đời sống. Nhà nước xây dựng chính sách ngoại thương xuất nhập khẩu với mục tiêu nâng cao tốc độ và kim ngạch xuất khẩu. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông lâm thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc và một số loại khoáng sản, hàng công nghiệp mà ta có lợi thế. Để đạt dược mục tiêu trên, nhà nước ta đã thực hiên thống nhất quản lý ngoại thương nhưng không độc quyền ngoại thương; ta chủ trương nâng cao trình độ chế biến hạ giá thành để thu hút khách hàng ngoại quốc; tăng hiệu xuất ngoại tệ, tiếp cận thị trường thế giới, xây dựng đồng bộ chương trình và công nghệ xuất khẩu. Đảng và nhà nước cũng chủ trương tính lại tỷ giá hối đoáI sát với sức mua của đồng tiền Việt Nam, tạo điều kiện cho kinh tế đối ngoại, tăng thu ngoại tệ vào ngân hàng. Đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại cũng dựa trên sự cân đối xuất nhập khẩu, tránh nhập khẩu tràn lan. Nếu hàng hoá nào trong nước có thể sản xuất được thì hạn chế nhập khẩu. ngoài ra, chính phủ còn hướng các chính sách đối ngoại vào việc mở rộng đa dạng hoá các họat động kinh tế đối ngoai, đặc biệt là đối sách về thị trường, tìm kiếm đối tác tàI trợ và bạn hàng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư quốc tế là tất yếu khách quan không thể thiếu được trong thời đại hội nhập kinh tế ngày nay. Nó làm tăng nguồn vốn tăng công nghệ mowis nâng cao trình độ quản lý, tạo thêm công ăn việc làm, đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên, tiếp cận kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Hiện nay, đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam gồm cả hai hình thức: Đầu tư trực tiếp, và đầu tư gián tiếp. Thông qua hợp tác quốc tế, cac doanh nghiệp trong nư ớc sẽ có điều kiện học hỏi phương pháp quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới. Nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoà tạo môI trường thuận lợi và bình đẳng cho đầu tư, bảo vệ lợi ích của đất nước. Luật này quy định rõ lĩnh vực đầu tư, quyền hạn và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoàI. Tóm lại, hoạt động kinh tế đối ngoại có hỉệu quả sẽ góp phần khắc phục nhanh chóng nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngay càng xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đảm bảo nền kinh tế đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Để mở rộng quan hệ với nhiều nước chúng ta mở cửa cho phép đầu tư nứoc ngoàI vào Việt Nam. Tham gia tích cực các hoạt động cùng có lợi trong các hiệp hội các nước Đông Nam A (ASEA N), diễn đàn hợp tác các nước châu á-TháI Bình Dương (APEC), kí hiệp định thương mại Việt –Mỹ, nước ta có quan hệ với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với hơn 70 nước. Với nội thương, nhà nước thực hiện kiểm soát, dán tem các mặt hàng tiêu dùng để chống hàng giả. Các mặt hàng nước ngoàI cạnh tranh cùng hàng nội địa trên thị trường. Sự cạnh tranh đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải năng động. Hơn nữa, tìm cách thay đổi mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để thu hút khách hàng. Tuy nhiên nhà nước ta đang tìm cách giảI quyết tình trạng hàng nhập lậu vào Việt Nam gây thất thoát hàng tỉ đồng cảu nhà nước. Hàng nước ngoàI tràn lan trên thị trường Việt Nam cũng là một mối đe doạ với các nhà doanh nghiệp trong nước. Nó thúc đẩy các doanh nghiệp phảI kinh doanh có hiệu quả hơn nữa để có sức mạnh thị trường. Trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội, thương nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp từng bước xây dựng cơ chế thị trường theo sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhờ đổi mới theo quan niệm cung –cầu. Thương nghiệp còn có thúc đẩy phân công lao động, xã hội phát triển, phân bố tàI nguyên thiên nhiên, khai thác hợp lý để so sánh giữa các vùng trong nước. Nội thương nói riêng và thương nghiệp nói chung là cầu nố giữa nông nghiệp và công nghiệp, giúp cho hai nghành đó trao đổi sản phẩm cho nhau, gắn kết hai nghành này chặt chẽ hơn và từ đó góp phần củng cố khối liên minh công – nông. Cũng như các ngành kinh tế khác, trong thương nghiệp, nhà nước ta luôn tạo đIều kiện cho hình thức thương nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo đồng thơì tổ chức lại thương nghiệp nhà nước để có thể chiễm lĩnh thị trường (cả trong lĩnh vực bán buôn bán lẻ). NgoàI ra hà nước cũng tạo đIều kiện cho các hình thức thương nghiệp khác hoạt động có hiệu quả hơn. Đặc biệt, các hợp tác xã thương nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đạI hoá nông nghiệp và nông thôn cũng như trong các chính sách với các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Phát triển các hình thức lưu thông cùng với việc xây dựng cơ cấu công –nông nghiệp hợp lý sẽ tạo cơ sở vững chắc cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. d)Đổi mới hệ thống tàI chính- tín dụng: Trong giai đoạn trước thời kỳ đổi mới, hệ thống ngân hàng nhà nước hoạt động không có hiệu quả. Thị trường tàI chình, tiền tệ không ổn định. Lạm pháp nghiêm trọng, giá cả tăng nhanh. Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới hệ thông tàI chính – tín dụng nhằm khắc phục tình trạng trên. Nhà nước đã thay thế việc bao cấp cho vay của ngân hàng nhà nước bằng các hoạt động của các tổ chức tín dụng trung gian. Ngân hàng nhà nước có nhiệm vụ chủ uyế là ổn định tiền tệ, đề xuất chính sách tiền tệ và hệ thống tiền tệ của đát nước, hỗ trợ sự phát triển kinh tế quốc dân. Các tổ chức này làm trung gian thu hút và cung ứng vốn, và đương nhiên trong nền kinh tế thị trường thì các tổ chức này phảI cạnh tranh với nhau. Cơ chế tín dụng đã có những bước chuyển khá quan trọng. Hoạt động tín dụng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, đổi mới về cả phạm vi, tính chất và nội dung. Nhiều quan hệ tín dụng khác nhau với nhiều nguồn lợi tức khác nhau phản ánh nền kinh tế nhiều thành phần. Các quan hệ tín dụng này vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong nền kinh tế thị trường theo sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan hệ tín dụng nhà nước phảI lớn mạnh để đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong quan hệ tín dụng xã hội. Nhà nước đã áp dụng cơ chế cho vay vốn đầu tư để phát triển sản xuất ;khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, tự vay, tự trả, tự chiệu trách nhiệm về vốn đầu tư;chính phủ cho vay đối với các dự án thuộc đối tượng dự án cần được tập trung, khuyến khích. Nhiều đòn bẩy tín dụng như lãI xuất, thế chấp, bảo lãnh đã được áp dụng. Nền tàI chính đơn nhất được thay thế bằng nền tàI chính nhiều thành phần. Nhà nước ta đã phát hành tín phiếu kho bạc nhà nước ngắn hạn (dưới một năm)và tín phiếu dàI hạn để huy động vốn nhàn dỗi trong dân vào nhu cầu đầu tư. NgoàI ra nhà nước đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tàI chính;xây dựng hệ thống thông tin, phân tích kiểm soát kiểm tra tàI chính;kiện toàn bộ máy tàI chính. Quan hệ tiền tệ và lưu thông tiền tệ từ chỗ khép kín chuyển sang hoạt động theo cơ chế mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới. Nhà nước đã kiềm chế được lạm pháp bằng cách khuyến khích tiết kiệm trong dân, giảm khối lượng tiền giấy trong lưu thông, không dùng tiền phát hành để cho vay, cân đối tiền – hàng, giảm chi ngân sách. . Lạm pháp từng bước được đẩy lùi. Toàn bộ nền tàI chính – tín dụng đều thống nhất dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hôị chủ nghĩa. 2. Đổi mới hệ thống chính trị: Song songvới việc đổi mới kinh tế, Đảng ta từng bước đổi mới hệ thống chính trị cho những bước đI của đổi mới kinh tế. Hệ thống chính trị nước ta trong các mạng dân tộc-dân chủ đã lấy mục tiêu phục vụ klháng chiến làm trọng và phát huy vai trò trong 30năm kháng chiến. Đến giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cần phảI được đổi mới để đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước trong hoà bình. Đảng ta đã xác định:việc thực hiện đổi mới thành công hay thất bạI là có quyết định đúng hay không mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới chính trị phảI có nội dung và bước đI thích hợp. Mối giai cấp, tầng lớp khác nhau, nếu không thoả đáng sẽ gây nên mâu thuấn và sự bất ổn định chính trị. Ôn định chính trị là cơ sở cho sự ổn định xã hội nói chung và là nhân tố không thể thiếu của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta. Đầu những năm 90, trong hoàn cảnh thé giới phức tạp do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, việc giữ chế độ chính trị ở nước ta là rất khó khăn do sự chống đối của các thế lực thù địch trong và ngoàI nước. Tuy nhiên, Đảng ta khẳng vẫn định: “Giữ mvững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dung và bảo vệ Tổ Quốc, kiên trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đảng ta tiến hành đổi mới mối quan hệ giữa các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị, phát huy quyền lực chính trị của nhân dân, mở rộng dân chủ, xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 30-CT/Tw: “ về xây dung và thực hiên quy chế dân chủ ở cơ sở”, (18-2 1998) phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị “ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thực hiện tốt chế độ dân chủ ở cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích của mình. Một trong những vấn đề quan trọng nhất của đổi mới chính trị là kiện toàn bộ máy của hệ thống chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và bản chất cách mạng của nước ta, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. đảng ta đã ban hành nghị quyết trung ương 6 với nội dung chủ yếu là chấn chỉnh lại đội ngũ cán bộ, Đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống; kiên quyết xây dung chế độ phê bình, tự phê bình, củng cố tổ chức cơ sở, tổ chức chính trị gọn nhẹ, có hiệu quả; cảI tiến việc ra nghị quyết và thực hiện nghị quyết, không để cho một số người lợi dụng kẽ hở để tha hoá. đảng ta kiên quyết làm trong sạch tổ chức để tăng thêm lòng tin của nhân dân đối với hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, nhà nước ta đã tích cực giảm tối thiểu sự cồng kềnh của bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động để lãnh đạo tốt công cuộc xây dung CNXH. đổi mới chính trị là một trong những nhiêm vụ khó khăn cho Đảng và nhà nước. đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có được thực hiên thành công hay không sẽ quyết định đến kết quả bước đầu thực hiện mục tiêu xây dung chủ nghĩa xã hội ở nước ta. III. những thành quả của công cuộc đổi mới, những tồn tại và phương hướng giả quyêt: 1. Nhân xét về vấn đề vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam: Thời kỳ Liên Xô thực hiện chính sách kinh tế mới đã qua lâu rồi nhưng những vấn đề được đề cập trong chính sách đó lại rất gần với những vấn đề mà chúng ta đang phảI giả quyết trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chúng ta đều they rằng bối cảnh đất nước khi tiến hành đổi mới rất khác so với bối cảnh Liên Xô thời đó. nhà nước ta không vận dụng chính sách này một cách máy móc mà đã dựa trên cơ sở đánh gia tình hình thực tiễn của đất nước để vận dụng một cách sáng tạo tinh thần của chính sách đó. nước Nga khi tiến hành áp dungj chính sách kinh tế mới dã qua giai đoạn phát triển TBCN với nền đại công nghiệp tồn tại bên cạnh nền nông nghiệp sản xuất nhỏ hàng hoá. đIúm xuất phat của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga có đIúm khác so với nước ta là có sự quyện giữa TB độc quyền hiện tại với những tàn tích phong kiến. Nước ta khi quá độ lên cnxh đã bỏ qua giai đoạnh phát triển TBCN vì lúc đó nó đã trở nên lạc hâu do tính phản động, hiếu chiến và không còn đại diện cho xu thế của thời đại nữa. nước ta chưa có nền đại công nghiệp, còn nông nghiệp thì mới ở trình độ thấp, sản xuất tự cung tự cấp. Như vậy đIúm xuất phat về kinh tế xã hội chính trị và giai cập của nước ta khi bắt đầu công cuộc đổi mới là khác rất nhiều so với nước Nga. ĐIểm khác biệt thứ hai mà chúng ta dễ dàng nhận they là về bối cảnh quốc tế. Nước nga bây giờ là tiên phong trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phảI đối mặt với lực lượng các nước TBCN hùng hậu và nguy cơ chiến tranh xâm lược. Thế nhưng ngày nay, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong xu thế hoà bình, yhợp tác giữa các nước trên thế giới. Thời đIúm nước ta bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là thời đIúm chủ nghĩa xã hội đã thành hệ thống trên thế giớ mà đưngs đầu là Liên Xô. khối các nước xã hội chủ nghĩa đang bước vào giai đoạn phát triển, đang củng cố về cơ sở kinh tế, chính trị và xã hội, tích cực tham gia và thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, củng cố khả năng bảo vệ hoà bình thế giới. đồng thời, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuất thời đại đã và đang diễn ra mạnh mẽ thúc đẩy quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, thay đổi lực lượng sản xuất cả về lượng và chất, nâng cao cơ sở vật chất của quá trình sản xuất. Nước ta có đIúm thuân lợi là nước ta đI sau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật do đó ta có thể học hỏi kinh nghiêm của những nước đI trước. Hợp tác đầu tư quốc tế là con đường nhanh nhất để có thể đuổi kịp trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới và trình độ quản lý của các nước phát triển. Từ đó, chúng ta có thể xây dung cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội với sự lãnh đao quản lý của đảng và nhà nước. Qua tình hình thực tế Việt Nam sau một thời gian thực hiện chính sách đổi mới, chúng ta they rằng nền kinh tế đã phát triển lên một bước, đời sống nhân dân đã được nâng cao hơn trước. Tình trạng trì trệ của nền kinh tế không còn nữa mà thay vào đó là sự sôI nổi của cơ chế thị trường. Trước đây chúng ta không chấp nhận nề kinh tế thị trường, coi nó là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản. nhà nước đã phat hiện ra sai lầm đó và kịp thời khắc phục bằng cách đề ra chính sách đổi mới. Nhầ nước ta đã dựa trên cơ sở nghiên cứu chính sách kinh tế mới để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. chính sách kinh tế mới đã đưa ra mô hình nền kinh tế hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như Lênin đã phân tích rất rõ trong chính sách này, sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá và các thành phần kinh tế khác ngoàI kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, cần phảI they được đIều đó. nhà nước ta đã nhận they những sai lầm của mình trong việc vội vàng áp đặt quan hệ kinh tế tiến bộ vào một nền kinh tế mà trình ddộ của lực lượng sản xuất chưa cho phép. Nhà nước cũng they được những hạn chế của hình thức quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, kế hoạch hoá từ khâu sản xuất đến lưu thông phân phối và đã chuyển sang vận dung phương pháp hạch toán kinh doanh theo đường lối của chính sách kinh tế mới. Vận dụng quan hệ hàng – tiền trong nền kinh tế không phảI là đI ngược với mục tiêu xa hội chủ nghĩa mà chính nó sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường ở nước ta chính là sự vận dung chính sách kinh tế mới. Chính sách này cũng đã chỉ ra con đường củng cố khối liên minh công- nông vững chắc với điểm xuất phát là giả quyết mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp. Nước ta cũng đang vận dụng chiến lược liên minh công- công về mặt kinh tế này để giữ vững nền tảng của đất nước. 2. Những thành tựu của công cuộc đổi mới: a. Lĩnh vực kinh tế: Nền kinh tế nước ta trong những năm đổi mới đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, khắc phục được tình trạng trì trệ suy thoát. nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục và ổn định: 8. 2% năm 1992; 9. 5% năm 1995; 8. 8% năm 1997 và gần 5. 83% năm 1998. quá trình công nghiệp hoá cũng diễn ra tương đối nhanh. Tỉ trọng công nghiệp và xây dung trong GDP tăng từ 22. 7% năm 1990 lên 30. 3% năm 1995 và 31. 7% năm 1997. cơ cấu nền kinh tế cũng chuyển đối theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng nganh công nghiệp và dịch vụ. Dịch vụ từ 38. 6% lên 42. 5%; nông nghiệp từ 38. 7% còn 25. 7%. tuy giảm tỷ trọng trong GDP nhưng sản lượng lương thực tăng liên tục từ 21. 5 triệu tấn năm 1990 lên 30. 6 triệu tấn năm 1997; 31. 3 triệu tấn năm 1998 và 33. 5 triệu tấn năm 1999. nhà nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới với 4. 5 triệu tấn năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 (chỉ đạt 4 triêu tấn). Lĩnh vực tàI chính – tiền tệ đạt tiến đọ đáng kêt, ngăn chặn được nạn lạm phát cao và tong bước đẩy lùi lạm phát. chỉ tính riêng năm năm 1991 đến 1995, chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm tử 67. 4% năm 1991 xuống còn 17. 5% năm 1992; 5, 2% năm 1993; 14. 4% năm 1994 và 12. 7% năm 1995. khối lượng tín dụng tăng nhanh liên tục qua các năm. các công ty dần dần được cổ phần hóa. Thành công lớn của qua trình đổi mới trong lĩnh lĩnh vực đổi mới tại thành phố Hồ Chí Minh vạo ngày 21 thang 8 năm 2000. cùng với sự nghiệp đổi mới nhà nước ta thực hiện xoa đói giảm nghèo chủ yếu ở nông thôn và các vùng dân tộc thiểu số. Chính phủ hỗ trợ cho các đồng bào dân tộc thiểu số: năm 1994 hỗ trợ cho 28 dân tộc ở 31 tỉnh 30 tỷ đồng, năm 1995 hỗ trợ cho 34 dân tộc ở 38 tỉnh 30 tỷ đồng. Hơn 2. 2 triệu lượt hộ trong tổng số 3 triệu hộ nghèo được vay hơn 1060 tỷ đồng. Trên pham vi cả nước, tỷ lệ hộn nghèo đói trong tổng số giảm từ 28. 8% năm 1992 xuống còn 19% năm 1997. chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo được thực hiện lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác. Về kinh tế đối ngoại, nước đã gia nhập tổ chức thương mại tự do khu vực (AFTA), ngày 28-7-1995 gia nhập ASEAN để mở rộmg quan hệ kinh tế với các nước láng giềng. nhà nước ta chấp nhận giao lưu kinh tế với tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. NgoàI ra, Việt Nam còn ra nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương(APEC)để hội nhập với quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Nước ta đang cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tàI chính tiền tệ như quỹ tiền tệ (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châub á (ADB). Tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam cũng đang tăng lên. xu thế hoà bình hợp tác đã và đang mở ra cho nước ta những cơ hội phát triển kinh tế, tong bước xấy dung cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Lĩnh vực chính trị: Qua 15 năm đổi mới, hệ thống chính trị nước ta đã tiến thêm một bước trong đó tổ chức và phương thức hoạt động. Các tổ chức chính trị- xã hội phát triển đa dạng hơn. tính chủ động của các tổ chức được tăng lên. quá trình dân chủ hoá trong đảng và ngoàI xã hội được mở ra. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hoá tư tưởng được phát huy. Vai trò của Quốc hội và các tổ chức quần chúng tăng lên rõ rệt. Hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đã được nâng cao hơn trước. Thông qua cảI tiến nội dung và đổi mới hình thức của phương tiện thông tin đại chúng qua việc cảI tiến của hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các đoàn thể cũng như các cuộc tiệp xúc giữa đại biểu nhân dân với cử chi nhân dân đã có dịp bày tỏ tâm tư nguyện vọng của mình thẳng thắn phê bình góp ý kiến xây dung Đảng và Nhà nước. Việc thực hiên dân chủ ở cơ sở đã tạo đIều kiện để các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào các hoạt động chính trị của đât nước, thúc đẩy không khí sinh hoạt dân chủ trong xã hội có lợi cho việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. hệ thống pháp luật được xem xét lại đã giảm được sự chồng chéo trong các quy định của văn bản pháp luật. Hiệu lực của các văn bản pháp luật cũng được nâng cao. Khối liên minh công nông trí thức ngày càng phát triển. Những thành tựu này sẽ không có được nếu không có những thành tựu của đổi mới kinh tế. Nhờ có đổi mới kinh tế giữ vững được sự ổn định chính trị và đổi mới hệ thống chính trị theo yêu cầu phat triển kinh tế 1. Những han chế trong quá trình đổi mới. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi kinh tế, đổi mới chính trị. Nhưng có thể they rằng những hoạt động nhằm đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế của Đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng còn chưa mấy hiêu quả. a. Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý đIều tiết của nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của nền kinh tế thị trường thì lại nảy sinh những tác động xấu. Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường nước ta vẫn phảI gánh chịu những tàn dư của nền kinh tế quan liêu bao cấp. Ưu đIúm của kinh tế thị trường chưa phat huy thì hàng loạt những nhược đIúm đã xuất hiên gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng. Tỷ lệ thất nghiệp tăng, số lao động dư thừa quá nhiều gây ra gánh nặng cho nền kinh tế. Bảo trợ và phúc lợi xã hội quá tảI không thể giả quyết được hết các vấn đề tồn tại; các dịch vụ lao động các trung tâm giới tâm giới thiệu việc làm không thể giảI quyết hết các vấn đè việc làm cho người lao động. Từ đó nảy sinh các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, mại dâm, … cơ chế thị trường thêm nhập vào nước ta gây ra các tệ nan như vây và trở thành gánh nặng cho nhà nước. Mặt xấu của cơ chế thị trường bộc lộ ngày càng rõ. Một hạn chế nữa của cơ chế thị trường là tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, đạo đức làm nảy sinh các tệ nạn xã hội. đặc đIúm nổi bâtj của cơ chế thị trường là đặt lợi nhuận trên hết. Một khi con người đã bị đồng tiền lam cho mờ mắt thì các giá trị đạo đức không còn giá trị. Có những người sẵn sàng bán rẻ lương tâm để đổi lấy lợi nhuận. Hiện tượng tham ô buôn lậu, …gia tăng kể từ khi cơ chế thi trường thâm nhập vào nước ta. Và cũng từ khi nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường thì chủ nghĩa cá nhân phát triển gây mâu thuẫn giữa lợi ích riêng với lợi ích chung của xã hội, những lợi ích chung của xã hội bị xâm phạm. những người đI thưo chủ nghĩa cá nhân luôn đặt lợi ích của mình lên trên hết không quan tâm đến lợi ích của ngưới khác. vì thế mà có những vụ tham ô, tham nhũng với số tiền và tàI sản lên đến hàng nghìn tỷ đồng Việt Nam. đIều đặc biệt quan trọng là họ luôn xa rời với lý tưởng xã hội chủ nghĩa ủng hộ chủ nghĩa tư bản, ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. Chỉ trong mấy năm gần đây nhà nước ta đã phảI xét xử liên tiếp các vụ án cỡ lớn: vụ buôn lậu ma tuý Vũ Xuân Trường, Vụ án Minh Phụng- EPCO, vụ án Tân Trường Sanh, … Nhiều người khi làm việc chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà không quan tâm đén lợi ích xã hội nhiều lúc đã để lại hậu quả nghiêm trọng tiêu biểu là vụ cháy rừng U Minh Thượng, … Chúng ta có thể they rõ rằng một số giá trị đạo đức đã bị suy thoáI, trà đạp một cách trắng trợn. Một số người chạy theo cơ chế thị trường sing báI đồng tiền coi đồng tiền quý hơn cả giá trị đạo đức, nhân cách. Họ tôn thờ đồng tiền thế lực đồng tiền làm cho con người quay lưng lại với những phẩm chất đạo đức mà lẽ ra con người phải có. Một số giá trị cao đẹp về quan hệ xã hội truyền thống Việt Nam về con người Việt Nam XHCN bị sói mòn và xem nhẹ. Việc chạy theo lợi ích vật chất một cách quá đáng đã đẩy con người tới chỗ pham tội. tình trạng buôn bán và tàng trữ ma tuý là một ví dụ đIún hình nhất. đó là hậu quả nghiêm trọng nhất do cơ chế thị trường đem lại. ngoàI ra, sự phân hoá giầu nghèo gia tăng nhanh gây nên nhiều cách biệt và bất bình đăng trong mối quan hệ xã hội. khoảng cách giầu nghèo gia tăng với biên độ ngày càng lớn đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn giữa miền xuôI và miền ngược. Mặt khác, do trình độ quản lý không cao, các thủ tục pháp lý rườm rà cộng với những vấn đề nêu trên mà đối với nhà đầu tư nước ngoàI môI trường đầu tư không tốt. vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoàI không muốn đầu tu vào Việt Nam hoạc vẫn còn rụt rè, e ngại và chỉ giám đầu tư với số vốn không nhiều. tỉ lệ đầu tư vào Việt Nam không cao. bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng đang trong tình trạng khó khăn do tỉ lệ nợ quá hạn và tỉ lệ nợ không thể thu hồi quá cao. Tất cả những hạn chế nêu trên nhìn trung đều do sự quản lý yếu kém của cán bộ trong cơ quan nhà nước. Quản lý kèm sẽ sảy ra nhiều những vấn đề phức tạp khó giảI quyết, tuy nhiên nguyên nhân trực tiếp vẫn là do tác động của các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường mà nhà nước vẫn không thể kiểm soát hết được. mặt khác, nền kinh tế nhà nước ta còn nhiều bất hợp lý như dựa quáquá nhiều vào đầu tư nước ngoàI, sử dụng vốn kém hiệu quả, cơ cấu vốn đầu tư kém hợp lý. các cư sở sản xuất trong nước sử dụng phần nhiều máy móc đã lạc hậu, nên sản phẩm sản xuất ra không tốt bằng hàng ngoại, năng xuất không cao, giá thành sản phẩm cao. Nên không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Những hạn chế nêu trênlà những cản trở đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta, đây là thử thách đối với cơ chế quản lý cuẩ nước ta. GiảI quyết được thử

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Chính sách kinh tế mới của LêNin.pdf
Tài liệu liên quan