Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng

Tài liệu Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng: Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng phát triển kinh tế nhiều thành phần với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, nhằm phát huy mọi tiềm lực vật chất và lao động sáng tạo của toàn dân tộc để phát triển đất nước. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung - bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động các DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, qui mô nhỏ, hiệu quả kém, năng lực cạnh tranh thấp, công nghệ lạc hậu, thậm chí một số DNNN còn làm ...

pdf75 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 976 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng phát triển kinh tế nhiều thành phần với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, nhằm phát huy mọi tiềm lực vật chất và lao động sáng tạo của toàn dân tộc để phát triển đất nước. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung - bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động các DNNN vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, qui mô nhỏ, hiệu quả kém, năng lực cạnh tranh thấp, công nghệ lạc hậu, thậm chí một số DNNN còn làm ăn thua lỗ kéo dài… Vì vậy, vấn đề cải cách DNNN được đặt ra cấp bách. Một trong những giải pháp cải cách mang tính chiến lược là chuyển một bộ phận DNNN không cần nắm giữ 100% vốn sang công ty cổ phần. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng nói riêng đã trải qua một thời gian và đã thu được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, hàng loạt vấn đề sau cổ phần hóa cần được rút kinh nghiệm, cần được giải quyết, để các công ty cổ phần của thành phố Đà Nẵng sau cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có thể phát triển. Đây là những vấn đề không hề đơn giản chút nào, thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và không thể giải quyết một sớm một chiều mà cần phải đầu tư nghiên cứu. Thực tế, đối với thành phố Đà Nẵng năm 1997 sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước mới được Thành ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố đặc biệt quan tâm, trong đó trọng tâm là công tác CPH các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phố quản lý, trong đó 10 doanh nghiệp thương mại sau khi sắp xếp, sáp nhập còn lại 05 doanh nghiệp (DN), đến nay có 04 DN thực hiện xong CPH đã đi vào hoạt động, 01 DN đang chuẩn bị CPH. Trong 04 DN sau khi CPH có 01 DN đang gặp rất nhiều khó khăn có nguy cơ phá sản, lý do phá sản có nhiều nhưng chính là do đánh giá tài sản DN không chính xác, gây hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp sau CPH và quyền lợi của cổ đông, còn lại 03 DN CPH hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) có hiệu quả nhưng cũng gặp khó khăn về nhiều mặt cần được quan tâm đề ra các giải pháp để khắc phục. Xuất phát từ những lý do trên, tôi xin chọn vấn đề: “Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng” để làm đề tài nghiên cứu. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc của các doanh nghiệp nhà nước sau CPH trong ngành thương mại (TM) tại thành phố Đà Nẵng. 2. Tình hình nghiên cứu Cổ phần hóa DNNN đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu. Đối với nước ngoài, vấn đề này chủ yếu tập trung vào việc phân tích sự cần thiết, mục tiêu và các biện pháp chuyển đổi sở hữu DNNN nhằm phục vụ chủ trương tổ chức lại nền kinh tế quốc gia. Đối với Việt Nam chủ trương CPH DNNN đến nay không còn là điều mới mẻ, có nhiều công trình nghiên cứu về CPH nói chung và về các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH trên toàn quốc và ở một số địa phương. Ở Viện kinh tế - chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thị Oanh với đề tài: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp” Theo đó, tác giả xác định được cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình CPH và nêu ra các giải pháp chung nhất cho cổ phần hoá. Trên Tạp chí Cộng sản số 22/2004 có bài viết của đồng chí Lê Hữu Nghĩa Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương về: CPH DNNN ở Việt Nam hiện nay mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản số 18/2004 có bài viết của đồng chí Hồ Xuân Hùng Trưởng Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp về: CPH DNNN kết quả, vướng mắc và giải pháp... Các bài viết nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn, về mục tiêu của CPH; về kết quả, thuận lợi, khó khăn và các giải pháp để tháo gỡ, nhằm rút kinh nghiệm để làm tốt công tác CPH trong thời gian đến. Tuy nhiên, còn ít công trình nghiên cứu vấn đề: “Những vấn đề sau CPH các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng” dưới góc độ khoa học kinh tế - chính trị. Do đó, đề tài luận văn này vẫn là cần thiết và không trùng lặp với các luận văn thạc sỹ kinh tế đã bảo vệ ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khảo sát các DNNN trong ngành thương mại ở Đà Nẵng đã cổ phần hoá, tìm ra những vấn đề vướng mắc, tồn tại cần giải quyết. Từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp khắc phục. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: + Phân tích thực trạng CPH và hoạt động của các công ty cổ phần từ CPH DNNN trong ngành TM của thành phố Đà Nẵng để rút ra những mặt được, tồn tại và vướng mắc cần giải quyết. + Đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các công ty cổ phần từ cổ phần hóa DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng dưới góc cạnh những tồn tại, vướng mắc, thành công. Thời gian: từ năm 1997 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, điều tra, tổng kết thực tiễn. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề tồn tại, vướng mắc sau cổ phần hóa của các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng. - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 2 chương, 4 tiết. Chương 1 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN TỪ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam đã có từ năm 1991, và bắt đầu thực hiện từ năm 1992 bằng Chỉ thị 202 ngày 8-6-1992 và Chỉ thị 84 ngày 4-8-1993 của Thủ tướng Chính phủ. Đối với nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ CPH DNNN là một vấn đề hoàn toàn mới, cho nên thời gian đầu còn làm thí điểm. Những doanh nghiệp được chọn thí điểm thực hiện CPH là những doanh nghiệp có qui mô nhỏ và vừa, kinh doanh có lãi và tự nguyện CPH. Suốt 4 năm (1992-1996) cả nước chỉ CPH được 5 DN. Nếu 6 năm kể từ năm 1992 đến năm 1998, chúng ta chỉ cổ phần hóa được 30 doanh nghiệp và 5 năm sau đó, kể từ 1998 đến trước Hội nghị Trung ương III (khóa IX) có 523 doanh nghịêp Nhà nước được cổ phần, thì chỉ trong 4 năm trở lại đây, chúng ta đã hoàn thành cổ phần hóa 2.437 DNNN, nâng tổng số DNNN được CPH lên đến 2.890 đơn vị, trong tổng số 5.655 DNNN cần được CPH. Nhìn chung, trong tiến trình CPH được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, cộng với sự hưởng ứng từ phía các DNNN đã đạt được những thành công nhất định. Qua khảo sát, hơn 850 công ty của Nhà nước sau hơn 1 năm cổ phần hóa cho thấy: vốn điều lệ tăng 44%, doanh thu tăng gần 24%, lợi nhuận tăng 140%, nộp ngân sách tăng 25%, thu nhập của người lao động tăng 12%. Đối với thành phố Đà Nẵng, năm 1997 sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính, thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước mới được Thành ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố đặc biệt quan tâm, trong đó trọng tâm là công tác CPH các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phố quản lý, trong đó 10 doanh nghiệp thương mại sau khi sắp xếp, sáp nhập còn lại 05 doanh nghiệp (DN), đến nay có 04 DN thực hiện xong CPH đã đi vào hoạt động, 01 DN đang chuẩn bị CPH. Bốn doanh nghiệp CPH xong đó là: 1- Công ty CP thương mại dịch vụ Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối là 41,54%). 2- Công ty CP cung ứng tàu biển Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối 67,68%). 3- Công ty CP công nghệ phẩm Đà Nẵng (100% vốn cổ đông). 4- Công ty CP vật tư tổng hợp Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối 53,72%). Sự ra đời của công ty cổ phần từ CPH DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng nằm trong kế hoạch tổng thể của lãnh đạo Thành ủy, UBND TP về triển khai xây dựng Đề án và tổ chức thực hiện CPH theo chủ trương của Chính phủ. Uỷ Ban Nhân Dân thành phố thành lập Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nhằm thường xuyên theo dõi, đôn đốc và chỉ đạo kịp thời tiến độ thực hiện sắp xếp doanh nghiệp theo đề án được duyệt và theo đúng quy trình. Đến cuối năm 2005 đã có 21 doanh nghiệp của thành phố Đà Nẵng được CPH (trong đó DN thương mại là 04), bằng 65% kế hoạch được duyệt đến cuối năm 2006. Về các bước thực hiện tiến trình CPH đối với các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng cũng nằm trong qui trình chung của tất cả các DNNN khi chuyển sang công ty CP và có thể được chia thành 4 bước: Bước 1: Chuẩn bị CPH Bước 2: Xây dựng phương án CPH Bước 3: Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH Bước 4: Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh Từ các bước có thể khái quát bằng sơ đồ qui trình chuyển đổi DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng thành công ty cổ phần như sau: Sơ đồ 1.1: Qui trình chuyển đổi DNNN thành CTCP từ CPH DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng Chuẩn bị CPH (1) Lập danh sách DNNN cổ phần hoá (2) Chuẩn bị và thành lập Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp (3) Phổ biến và tuyên truyền chủ trương về CPH (4) Chuẩn bị các tài liệu Xây dựng phương án CPH (5) Đánh giá giá trị, phân biệt tài sản doanh nghiệp (6) Quyết định giá trị thực tế của doanh nghiệp (7) Dự kiến phương án CPH & dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CPH Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH (8) Phê duyệt phương án và quyết định chuyển DNNN thành CTCP (9) Thông tin về cổ phần hoá của doanh nghiệp (10) Đại hội cổ đông và Bầu hội đồng quản trị Ra mắt CTCP, đăng ký kinh doanh (11) Bàn giao công việc (12) Những công việc còn lại 1.1.1. Tình hình kinh doanh Sau CPH đa số các doanh nghiệp thương mại của thành phố Đà Nẵng SXKD ổn định và có hiệu quả, đã hình thành loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu về vốn, thực hiện được sự giám sát chặt chẽ hơn trong SXKD, huy động được nhiều vốn từ xã hội, tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức tổ chức quản lý mới cùng với đội ngũ cán bộ quản lý thích nghi hơn với cơ chế thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã tự huy động và phát hành cổ phiếu để tăng vốn Điều lệ, tuy không lớn nhưng đã thể hiện sự tự chủ trong việc huy động các nguồn vốn phục vụ cho kinh doanh và thể hiện sự thống nhất ý thức trong việc xây dựng và phát triển đơn vị. Từ những chuyển biến nói trên đã nâng cao rõ rệt hiệu quả SXKD. Qua kết quả điều tra các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau khi CPH trong thời gian qua và 6 tháng đầu năm 2006 cho thấy, bước đầu tuy có khó khăn nhưng nhìn chung vốn bình quân của doanh nghiệp tăng, có ¾ doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau CPH hoạt động SXKD có lãi đó là: Công ty CP thương mại dịch vụ Đà Nẵng, Công ty CP cung ứng tàu biển Đà Nẵng, Công ty CP công nghệ phẩm Đà Nẵng, tỷ suất lãi bình quân trước thuế tăng, mức nộp ngân sách tăng, thu nhập bình quân của người lao động tăng, năng suất lao động tăng so với khi chưa CPH. Các công ty đều thực hiện chia cổ tức hàng năm và mức cổ tức cao hơn so với lãi suất ngân hàng. Bên cạnh 03 đơn vị hoạt động SXKD có hiệu quả, còn một đơn vị KD không có hiệu quả và có nguy cơ phá sản đó là: Công ty CP vật tư tổng hợp Đà Nẵng, nguyên nhân phá sản có nhiều nhưng chủ yếu là do khi tiến hành CPH không làm tốt khâu kiểm kê đánh giá lại tài sản doanh nghiệp, sau CPH thiếu xây dựng Qui chế quản lý doanh nghiệp như: Qui chế hoạt động SXKD, Qui chế quản lý và sử dụng vốn..., mạng lưới hoạt động SXKD chưa gọn nhẹ, kém hiệu quả có những cửa hàng, chi nhánh thua lỗ kéo dài không phát hiện và xử lý kịp thời, công tác cán bộ còn xem nhẹ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhận thức về CPH chưa đúng, ý thức tổ chức kỹ luật kém, thiếu trách nhiệm trong công tác được giao, lãnh đạo doanh nghiệp theo cảm tính, nghiệp vụ chuyên môn kém, buông lỏng các nguyên tắc quản lý tài chính đã đưa doanh nghiệp đi đến phá sản, mất vốn Nhà nước và cổ đông, người lao động mất việc làm, đời sống khó khăn.... Cụ thể qua khảo sát sự ra đời và tình hình kinh doanh của các đơn vị được thể hiện như sau: 1) Công ty cổ phần thương mại - dịch vụ Đà Nẵng (vốn Nhà nước chi phối là 41,54%) Công ty cổ phần thương mại dịch vụ Đà Nẵng CPH theo theo Nghị định 64 của Chính phủ và được thành lập theo Quyết định số 27/2004/QĐ-UB ngày 24 tháng 2 năm 2004 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt phương án CPH DNNN chuyển Công ty thương mại - dịch vụ Đà Nẵng thành Công ty CP thương mại - dịch vụ Đà Nẵng, tiến hành Đại hội cổ đông ngày 31 tháng 3 năm 2004 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/4/2004. Sau CPH, Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban giám đốc (BGĐ) công ty đã có những định hướng cơ bản cho hoạt động của đơn vị, đồng thời nhanh chóng tiến hành những biện pháp cụ thể để sắp xếp ổn định tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Phấn đấu tạo dựng thương hiệu của đơn vị làm nền tảng cho việc ổn định phát triển kinh danh lâu dài, mở rộng thị trường, ổn định và củng cố hệ thống tiêu thụ, xây dựng nhóm mặt hàng chủ lực có tính cạnh tranh cao nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, bên cạnh đó gắn kết với nhà SX tạo mối quan hệ hợp tác bền vững trong lĩnh vực sản xuất (SX), nâng cao chất lượng loại hình kinh doanh (KD) dịch vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, không ngừng nâng cao mức sống đối với người lao động, đảm bảo kinh doanh có lãi để chia cổ tức cho cổ đông. Kết quả khảo sát cụ thể tình hình kinh doanh của công ty thương mại dịch vụ như sau: Bảng 1.1: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP thương mại dịch vụ ĐN trước và sau khi cổ phần hóa. TT Chi tiêu ĐVT Năm trước khi CPH Các năm sau CPH Năm 2004 Năm 2005 6T 2006 1 Tổng doanh thu 1000đ 200.000.000 61.776.000 81.224.000 40.650.000 2 Kim ngạch XK USD 80.000 230.094 153.799 3 Nộp NSNN 1000đ 6.462.685 202.532 831.852 193.900 4 Lợi nhuận sau thuế 1000đ 107.160 652.527 360.447 76.970 5 Thu nhập bình quân 1000đ 853 1.062 1.523 1.500 6 Cổ tức/tháng % 0,6 0,6 0,6 (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP thương mại dịch vụ từ khi CPH đến nay) Qua bảng 1.1 ta nhận thấy sau khi chuyển sang CTCP đơn vị hoạt động tương đối ổn định. + Tình hình doanh thu: doanh thu của công ty tăng, năm 2005 doanh thu đạt 81,224 tỷ đồng cao hơn doanh thu năm 2004 (61,776 tỷ đồng) là 19,448 tỷ đồng và mức tăng là 31,48%. + Tình hình lợi nhuận, kim ngạch XNK: kinh doanh có lãi nhưng không tăng, KNXK tăng. + Tình hình thu nhập: Sau khi CPH lợi nhuận tuy không tăng nhưng số lao động giảm nên tình hình thu nhập tăng lên so với trước, từ thu nhập bình quân năm 2004 là 1.062.000 đồng năm 2005 lên 1.523.000 đồng với mức tăng là 43,41%. + Về cổ tức: Cổ tức chia cho cổ đông cũng tăng năm 2004 là 152.299.000 đồng năm 2005 là 191.798.000 đồng với mức tăng 25,93%. Tỷ lệ chia cổ tức thường lớn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng. 2) Công ty cổ phần Công nghệ phẩm Đà Nẵng (100% vốn cổ đông) (bảng 1.2). Công ty Công nghệ phẩm Đà Nẵng là doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện chủ trương của thành phố về tiến hành CPH trong năm 2004 theo Quyết định số 196/2004/QĐUB ngày 08/12/2004 của UBND thành phố Đà Nẵng V/v phê duyệt phương án CPH chuyển Công ty Công nghệ phẩm ĐN thành Công ty cổ phần Công nghệ phẩm ĐN. Đại hội cổ đông lần thứ nhất vào ngày 03/4/2005 và chính thức đi vào hoạt động ngày 18/4/2005. Sau cổ phần công ty hoạt động theo mô hình mới được sắp xếp lại, duy trì hoạt động kinh doanh trên cơ sở các đơn vị trực thuộc kinh doanh chuyên ngành hàng hóa, đồng thời loại bỏ những mặt hàng kinh doanh không có hiệu quả, tìm những mặt hàng mới, giữ vững thị trường cũ, mở rộng thị trường mới, có nhu cầu tiêu thụ nhanh và thực hiện phương châm: triệt để thực hành tiết kiệm các chi phí để tối đa hóa lợi nhuận. HĐQT đã định hướng theo mô hình kinh doanh thương mại - dịch vu - sản xuất - xuất nhập khẩu cơ cấu hợp lý, chuyển một phần sang sản xuất để hỗ trợ cho nhau trong quá trình SXKD của đơn vị. Đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất bao bì 32 tỷ đồng, đã đi vào hoạt động từ tháng 6/2006. Tình hình kinh doanh của Công ty sau CPH bước đầu cũng gặp nhiều khó khăn vừa kinh doanh vừa ổn định củng cố, tư tưởng của cán bộ công nhân viên (CBCNV) chưa chuyển biến kịp theo hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần, mặt khác tư tưởng dao động giữa người nghỉ và người ở lại làm việc, tác động rất lớn đến tình hình kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, với sự quyết tâm của HĐQT, BGĐ đã lãnh đạo đơn vị từng bước ổn định và kinh doanh đạt hiệu quả, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2005 và 6 tháng đầu năm 2006. * Kết quả khảo sát cụ thể tình hình kinh doanh của công ty CP công nghệ phẩm như sau: Bảng 1.2: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP Công nghệ phẩm trước và sau khi cổ phần hóa. TT Chi tiêu ĐVT Trước khi CPH Các năm sau CPH Năm 2005 6T 2006 01 Tổng doanh thu 1000đ 332.000.000 255.000.000 123.420.000 02 Kim ngạch XK USD 1.630.000 73.900 51.000 03 Kim ngạch NK USD 1.050.000 2.303.900 76.000 04 Nộp NSNN 1000đ 1.655.000 780.000 80.000 05 Lợi nhuận sau thuế 1000đ 63.540 181.000 06 Thu nhập bình quân 1000đ 867 1.200 1.500 (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP công nghệ phẩm từ khi CPH đến nay) * Đây là doanh nghiệp mới CPH, vốn 100% là của cổ đông, Qua hơn một năm kinh doanh ta nhận thấy tổng doanh thu, KNXK, KNNK, nộp ngân sách của công ty giảm, do công ty thu hẹp việc kinh doanh các mặt hàng kém hiệu quả. Mặc dù doanh thu giảm nhưng lợi nhuận của công ty vẫn không thay đổi, thu nhập của người lao động tăng, năm 2004 thu nhập bình quân là 860.000 đồng, sau CPH năm 2005 thu nhập bình quân là 1.200.000 đồng với mức tăng là 13,70%, 6 tháng năm 2006 1.500.000 đồng. 3) Công ty CP Cung ứng tàu biển (Vốn Nhà nước chi phối 67,68%) (bảng 1.3). Công ty CP Cung ứng tàu biển Đà Nẵng CPH theo theo Nghị định 64 của Chính phủ và được thành lập theo Quyết định số 23/QĐ-UB ngày 01 tháng 3 năm 2000 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt phương án CPH DNNN chuyển Công ty Cung ứng tàu biển thương mại và du lịch Đà Nẵng thành Công ty CP Cung ứng tàu biển thương mại và du lịch Đà Nẵng, từ năm 2005 đến nay tên công ty được rút ngắn lại thành Công ty CP Cung ứng tàu biển, Công ty CP chính thức đi vào hoạt động từ tháng 01 năm 2001 đây là một trong những DNNN của thành phố nói chung của ngành thương mại nói riêng đi đầu trong công tác CPH. Sau CPH, mặc dù tình hình SXKD của đơn vị khó khăn nhưng đơn vị vẫn cố gắng duy trì công ăn việc làm cho người lao động, với định hướng họat động theo mô hình kinh doanh kinh doanh cung ứng tàu biển, du lịch dịch vụ, khách sạn, nhà hàng. Qua khảo sát tình hình kinh doanh của công ty sau 5 năm CPH ta nhận thấy như sau: Bảng 1.3: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP Cung ứng tàu biển ĐN trước và sau khi cổ phần hóa. STT Chi tiêu ĐVT Năm trước khi CPH Các năm sau CPH Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 01 Doanh thu thực hiện 1000đ 38.599.321 39.541.428 27.776.546 47.848.182 45.289.626 55.019.923 02 Lãi (+), lỗ (-) thực hiện 1000đ 73.448 181.324 187.518 329.691 562.164 648.035 03 Lợi nhuận sau thuế 1000đ 49.994 135.993 140.639 247.268 233.296 486.036 04 Lợi nhuận dùng để chia cổ tức 1000đ 127.429 127.308 212.181 159.135 341.730 05 Nộp NSNN 1000d 3.378.877 7.024.339 963.162 1.278.205 3.513.914 3.039.061 06 Thu nhập BQ (người/tháng) 1000đ 799 1.068 1.413 1.398 1.420 1.500 (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP Cung ứng tàu biển từ khi CPH đến nay) * Qua bảng 1.3 ta nhận thấy sau CPH những năm đầu công ty kinh doanh tuy có khó khăn nhưng tình hình kinh doanh của công ty phát triển tương đối tốt, doanh thu tăng không đều nhưng hiệu quả kinh doanh qua các năm đều tăng, cổ tức chia cho cổ đông tăng theo từng năm, thu nhập bình quân của người lao động tăng, với mức tăng so với những năm đầu khi mới CPH là 30%, đóng góp cho ngân sách nhà nước lớn. 4) Công ty CP vật tư tổng hợp: (Vốn nhà nước chi phối 53,72%) (bảng 1.4). Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng là DNNN được chuyển sang Công ty CP vật tư tổng hợp theo Quyết định số 141/QĐ-UB ngày 15 tháng 10 năm 2003 của UBND thành phố Đà Nẵng và bắt đầu chính thức đi vào hoạt động công ty CP từ tháng 01 năm 2004. Sau khi CPH những tháng đầu năm 2004 tình hình kinh doanh của đơn vị thực hiện tốt, thị trường, thị phần vẫn duy trì, thu nhập của người lao động ổn định. Nhưng đến cuối năm 2004 và đầu năm 2005 tình hình kinh doanh giảm sút nghiêm trọng, thị trường, thị phần bị thu hẹp do thiếu vốn hoạt động, tình hình tài chính mất cân đối, nợ bị chiếm dụng lớn không thu hồi được, kinh doanh thua lỗ, 6 tháng đầu năm 2006 hoạt động kinh doanh hoàn toàn ngưng hẳn, tài chính thâm hụt lớn, mất khả năng kinh doanh, đơn vị xin phá sản, đang chờ ý kiến của lãnh đạo thành phố Đà Nẵng. Bảng 1.4: Kết quả tình hình kinh doanh của Công ty CP Vật tư tổng hợp ĐN trước và sau khi cổ phần hóa. STT Chi tiêu ĐVT Trước CPH Các năm sau CPH Năm 2004 Năm 2005 01 Tổng doanh thu 1000đ 232.000.000 144.800.000 67.700.000 02 Nộp NSNN 1000đ 57.000.000 2.300.000 1.700.000 03 Lợi nhuận 1000đ 50.000. - 518.200 - 1.400.000 04 Thu nhập bình quân 1000đ 1.050 1.300 850 (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động SXKD của công ty CP Vật tư tổng hợp từ khi CPH đến nay) * Sau CPH tình hình kinh doanh của đơn vị đi xuống, doanh thu giảm, nộp ngân sách giảm, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, thu nhập giảm mạnh, người lao động không có việc làm, đơn vị chuẩn bị phá sản. Qua tình hình kinh doanh 4 DN CPH trong ngành thương mại của TP Đà Nẵng ta nhận thấy, sau CPH các doanh nghiệp tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận, chia cổ tức, chưa chú trọng đến vấn đề có ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của DN là thực hiện đổi mới công nghệ, đầu tư vốn vào phát triển SXKD. Chính vì vậy, bên cạnh những DN làm ăn có hiệu quả vẫn còn DN làm ăn kém hiệu quả như Công ty CP vật tư tổng hợp Đà Nẵng, ngoài nguyên nhân ban đầu như đã nêu là xác định giá trị DN không chính xác, quản lý tài chính lỏng lẻo, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý... doanh nghiệp không dám hoạt động vì càng hoạt động càng lỗ, không những thế, gần đây các nhà quản lý đã nhận thấy có một số DNNN sau khi CPH đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng DN này không nhiều song đây là hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng đến uy tín của DNNN CPH, đến chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước cần được quan tâm khắc phục. 1.1.2. Tình hình tài chính Một trong những mục tiêu quan trọng của CPH là tạo khả năng huy động vốn của xã hội một cách linh hoạt nhằm khắc phục tình trạng thiếu vốn ở hầu hết các DN. Trước CPH các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng phần lớn có quy mô vừa và nhỏ. Hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn hoạt động. Qua khảo sát, sau CPH tình hình tài chính của đa số các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng được làm trong sạch, lành mạnh, hơn nữa nợ trước CPH được Nhà nước tham gia xử lý, những công nợ chuyển sang trước khi cổ phần các đơn vị tiếp tục xử lý thu hồi, đa số công nợ có thế chấp, có tài sản. Nợ sau CPH được xác định trách nhiệm rõ ràng và được qui định cụ thể trong Điều lệ hoạt động của các đơn vị; vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp đã tăng lên. Các đơn vị vẫn duy trì và giữ vững được sự tín nhiệm đối với ngân hàng, với các tổ chức tín dụng các khế ước vay vốn được trả đúng hạn. Tuy nhiên, tình hình vay vốn của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau khi CPH đang gặp rất nhiều khó khăn, Mặc dù Nhà nước qui định các công ty CP được vay vốn tín dụng tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính và các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước như các DNNN nhưng thực tế không hoàn toàn thuận lợi như văn bản quy định (Điều 26 Nghị định số 64/2004/NĐ-CP về doanh nghiệp nhà nước thành lập công ty cổ phần). Từ khi Nhà nước có chủ trương CPH, có tình trạng phân biệt đối xử trong hoạt động cho vay tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước. Các DNNN có thể không cần thế chấp để được vay vốn, các DN CP là phải có tài sản để thế chấp, các thủ tục thế chấp tài sản ra công chứng kéo dài, chậm trễ, do các đơn vị cổ phần chưa được cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà đất, tài sản hoặc không có đơn vị chủ quản bảo lãnh để vay tín chấp. Hơn nữa, ngân hàng luôn dè dặt, thận trọng khi cho công ty cổ phần đặc biệt là các công ty CP nhà nước không giữ CP chi phối vay vốn, do nhận thức các phương án kinh doanh của công ty CP không còn được cơ quan nhà nước phê duyệt phương án vay vốn. Bên cạnh đó, các nguồn vốn ưu đãi, các “đặc ân” của thành phố đối với doanh nghiệp cổ phần không còn như trước kia là DNNN, làm cho doanh nghiệp khó khăn về tài chính, đÔi khi “lỡ nhịp”, mất cơ hội trong các thương vụ kinh doanh. Qua khảo sát các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng bên cạnh ¾ đơn vị (Công ty CP thương mại dịch vụ Đà Nẵng, Công ty CP Công nghệ phẩm Đà Nẵng, Công ty CP Cung ứng tàu biển Đà Nẵng) sau CPH tình hình tài chính được làm tương đối trong sạch, lành mạnh còn 01 doanh nghiệp (Công ty CP Vật tư tổng hợp Đà Nẵng) sau CPH tình hình tài chính hết sức khó khăn. Nguyên nhân khó khăn do khi tiến hành các bước thực hiện CPH không làm tốt khâu kiểm kê đánh giá lại tài sản doanh nghiệp. Theo quy định trước khi CPH Hội đồng thẩm định tài sản doanh nghiệp phải kiểm kê, đánh giá cụ thể hàng tồn kho, giá trị tài sản doanh nghiệp nhưng do chủ quan, chỉ đánh giá, kiểm kê lại tài sản doanh nghiệp trên giấy tờ, văn bản thiếu thực tế; sau CPH thiếu xây dựng Quy chế quản lý doanh nghiệp như quy chế sử dụng vốn, một số đơn vị để thua lỗ kéo dài không xử lý kịp thời, buông lỏng nguyên tắc quản lý tài chính. Bên cạnh đó, các đơn vị cấp dưới báo cáo thiếu trung thực, dấu lỗ...Những nguyên nhân cơ bản trên đã đưa doanh nghiệp đi đến phá sản, mất vốn của Nhà nước và cổ đông. Mặc dù đã được UBND thành phố Đà Nẵng đồng ý giải quyết cho bán một số tài sản lớn như nhà, xe ô tô để trả nợ vay ngân hàng, cùng với một số biện pháp khác của đơn vị nhưng vẫn không cứu vãn được tình hình, doanh nghiệp đang chuẩn bị làm các thủ tục phá sản. Qua khảo sát tình hình tài chính của các doanh nghiệp CP trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng như sau: Bảng 1.5: Tình hình tài chính của Công ty CP Thương mại Dịch vu Đà Nẵng STT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2004 Năm 2005 6 T 2006 01 Vốn kinh doanh: Trg đó:-Vốn N.nước(%) -Vốn DN (%) Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng 4,580 3,199 1,381 2,962 1,411 1,551 2,653 1,102 1,551 2,653 1,102 1,551 02 Lợi nhuận trước thuế 1000đ 107.160 652.527 360.447 87.232 03 Lợi nhuận sau thuế 1000đ 107.160 652.527 360.447 87.232 04 Các khoản phải thu Tỷ đồng 20,369 10,090 11,105 13,271 05 Nợ phải trả Tỷ đồng 32,587 16,199 16,255 18,875 06 Cổ tức % % 0,6 0,6 0,6 (Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm) Bảng 1.6: Tình hình tài chính của Công ty CP Công nghệ phẩm Đà Nẵng STT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2005 6 T 2006 01 Vốn kinh doanh: Trg đó:-Vốn N.nước (%) -Vốn DN (%) Tỷ đồng 1000đ 1000đ 6.387 0 6.387 6.389 0 6.387 6.387 0 6.387 02 Lợi nhuận trước thuế 1000đ 88.400 251.000 03 Lợi nhuận sau thuế 1000đ 63.540 181.000 04 Nợ phải thu Tỷ đồng 61.195 50.580 05 Nợ phải trả Tỷ đồng 113.412 84.479 06 Cổ tức % 5%/năm ( Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm) Bảng 1.7: Tình hình tài chính của Công ty CP Cung ứng tàu biển Đà Nẵng TT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 6 T 2006 01 Vốn kinh doanh: Trg đó:- Vốn N.nước (%) -Vốn DN (%) 1000đ 1000đ 4.818 5.304 5.304 3.590 1.714 5.304 3.590 1.714 5.304 3.590 1.714 5.695 3.854 1.840 5.695 3.854 1.840 02 LN trước thuế 1000đ 73.448 181.324 187.518 329.691 562.164 648.035 320.000 03 LN sau thuế 1000đ 49.994 135.993 140.639 247.268 233.296 486.036 240.000 04 Nợ phải thu 1000đ 2.220 3.200 2.600 2.400 5.402 2.344 2.200 05 Nợ phải trả 1000đ 1.900 2.800 2.200 2.100 5.751 2.266 2.150 06 Cổ tức % 0,20 0,20 0,33 0,25 0,50 0,70 (Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm) Bảng 1.8: Tình hình tài chính của Công ty CP Vật tư tổng hợp Đà Nẵng STT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2004 Năm 2005 01 Vốn kinh doanh: Trong đó:- Vốn N.nước (%) -Vốn DN (%) 1000đ 1000đ 2.109.000 2.149.000 1.851.000 2.149.000 1.851.000 02 Lợi nhuận trước thuế 1000đ 121.000 85.000 Lỗ 03 Lợi nhuận sau thuế 1000đ 80.000 5.000 Lỗ 04 Nợ phải thu 1000đ 22.737.706 05 Nợ phải trả 1000đ 36.981.000 06 Cổ tức %/năm 7,2% (Nguồn: Báo cáo tình hình SXKD của đơn vị qua các năm) * Đối với Công ty CP vật tư tổng hợp về vấn đề tài chính cần được phân tích làm rõ thêm như sau: - Năm 2004 tình hình hoạt động SXKD của doanh nghiệp vẫn được duy trì, đời sống cán bộ công nhân viên giữ được mức thu nhập đủ sống, tuy nhiên tình hình tài chính ở quí 4/2004 đã có dấu hiệu biểu hiện khó khăn do vốn bị chiếm dụng quá lớn. - Năm 2005 hoạt động SXKD giảm sút nghiêm trọng, tình hình tài chính mất cân đối, nợ bị chiếm dụng không thu hồi được, tình trạng bán nợ tràn lan hầu hết ở các đơn vị trực thuộc mà nhiều nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh. Người lao động mất việc làm, thu nhập chỉ còn 70% lương, hoạt động SXKD lỗ 1,4 tỷ. - Năm 2006 SXKD hoàn toàn bị ngưng hẳn vì không có vốn, doanh nghiệp chỉ tập trung thực hiện các biện pháp thu hồi vốn bán tài sản nhưng tình hình vẫn không được cải thiện, tài chính thâm thụt ngày càng lớn dẫn đến xin phá sản. 1.1.3. Tình hình về lao động, sắp xếp lao động Căn cứ phương án CPH về sắp xếp lao động, các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố ĐN đánh giá thực trạng của doanh nghiệp mình tại thời điểm đó để có phương án sắp xếp lại lao động, dự kiến số lao động tiếp tục làm việc tại công ty, số lao động tiếp tục tuyển dụng thêm hay giải quyết tiếp số lượng dôi dư là bao nhiêu người. Phân loại và lập phương án hỗ trợ kinh phí đào tạo lại theo quy định của Chính phủ. Nhìn chung, lực lượng lao động của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau CPH được sắp xếp lại trong cơ cấu tổ chức mới phù hợp với trình độ và khả năng của từng người, các doanh nghiệp cố gắng đảm bảo toàn bộ số cán bộ, công nhân viên và người lao động được bố trí việc làm, kiên quyết cắt giảm số lượng lao động gián tiếp không cần thiết. Ban hành các quy chế rõ ràng về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động, gắn tiền lương và thu nhập với chất lượng công việc. Do vậy, đã nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập cho người lao động (mặc dù có đơn vị doanh thu không tăng). Hầu hết người lao động trong các công ty cổ phần trong ngành thương mại ở TP ĐN đều là các cổ đông, được mua cổ phần với giá ưu đãi (đối với những cán bộ có tên trong danh sách lao động tại thời điểm CPH mỗi năm làm việc tại công ty được mua 10 cổ phần mệnh giá 100.000đ vì mỗi cổ phần ưu đãi khi mua sẽ được Nhà nước hỗ trợ 30%). Người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của TP ĐN đều gắn với đơn vị trên các lợi ích là thu nhập và cổ tức. Chính lợi ích kinh tế đã trở thành động lực mạnh mẽ, làm cho người lao động nâng cao ý thức trách nhiệm đối với công việc của mình cũng như đối với hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, các đơn vị cũng rất chú trọng đến việc đào tạo cán bộ, chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức tham dự đầy đủ các đợt học tập chính trị để nâng cao nhận thức về quan điểm đường lối của Đảng, các cán bộ quản lý được tạo điều kiện tham gia các khóa đào tạo tại chức về quản trị kinh doanh, kế toán, luật, ngoại ngữ. Các đơn vị đều xây dựng “Quy chế quản lý hoạt động của công ty”, quy định cụ thể về nội quy, nề nếp làm việc, quyền hạn và trách nhiệm của các chức danh cũng như các đơn vị thành viên. Bước đầu các đơn vị đã có một đội ngũ cán bộ chuyên môn khá, có thể đảm đương được nhiệm vụ đối với hoạt động mới của công ty cổ phần, nhất là quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực thương mại. Tình hình lao động ở các doanh nghiệp sau CPH nhìn chung khắc phục được những tồn tại, nhược điểm cố hữu ở DNNN, quyền của doanh nghiệp được mở rộng, quá trình ra quyết định của doanh nghiệp được hợp lý hoá hơn, đáp ứng kịp thời của cơ chế thị trường, cơ chế quản lý điều hành của doanh nghiệp đã có sự thay đổi và tiến bộ rõ rệt. Bộ máy tổ chức doanh nghiệp được bố trí hợp lý hơn, tinh giảm được lao động gián tiếp. Tạo được động lực và buộc người lao động, cán bộ quản lý phải thể hiện tinh thần trách nhiệm cao hơn trong mọi hoạt động, tránh được những lãng phí, tiêu cực không cần thiết thường thấy ở DNNN, CBCNV và người lao động tự giác làm việc tạo ra tác phong công nghiệp trong công việc mà trước CPH chưa có được. Tuy nhiên, trên thực tế sau CPH tình hình lao động ở các doanh nghiệp cổ phần vẫn thiếu sinh khí mới, hầu hết bộ máy quản lý ít được đổi mới, người lao động vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, tư duy và tác phong cũ của DNNN. Cơ chế hoạt động theo mô hình cổ phần vẫn còn chưa thống nhất và bất cập, chưa thích nghi với cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp chưa có chính sách thu hút các nhân tài, các cán bộ quản lý giỏi từ trong và ngoài công ty. Nguyên nhân là do các đơn vị chưa mạnh dạn đầu tư tiền của cho việc tìm người và thuê người có trình độ năng lực về cho doanh nghiệp. Mặt khác, một số nhân viên cũ của doanh nghiệp trình độ năng lực còn yếu, chưa chịu khó và tự giác học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của mình để đáp ứng yêu cầu của mô hình hoạt động mới đây là những khó khăn cho các doanh nghiệp sau CPH. Đặc biệt đối với Công ty CP Vật tư tổng hợp do quá trình CPH và hoạt động của công ty CP hiệu quả kém nên dẫn đến doanh nghiệp phá sản. Vì vậy việc giải quyết tình hình lao động ở đơn vị này hết sức phức tạp, từ khâu giải quyết quyền lợi cho người lao động, cổ đông đến việc tìm kiếm cơ hội làm việc ở đơn vị mới rất cần lãnh đạo thành phố, các ngành các cấp và doanh nghiệp quan tâm giải quyết. Tình hình lao động của các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng qua khảo sát Bảng 1.9: Tình hình lao động ở Công ty CP Thương mại và dịch vụ (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm) STT Chỉ tiêu Trước CPH Năm 2004 Năm 2005 6T 2006 1 Tổng số LĐ 232 115 101 71 2 Trình độ: - ĐH - Trung cấp - CNKT - LĐ PT 45 67 02 118 30 25 02 58 30 25 02 44 30 25 02 14 Bảng 1.10: Tình hình lao động ở Công ty CP Công nghệ phẩm STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 6T năm 2006 1 Tổng số LĐ 280 100 171 2 Trình độ - Trên ĐH - Đại học - Trung cấp - CNKT - LĐ phổ thông 75 48 09 71 46 27 11 47 2 52 29 13 65 (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm) Bảng 1.11: Tình hình lao động ở Công ty CP Cung ứng tàu biển ĐN STT Chỉ tiêu Trước CPH Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 6T 2006 1 Tổng số LĐ 120 120 102 102 92 76 119 2 Trình độ - Trên ĐH - ĐH - Trung cấp - CNKT - LĐ phổ thông 46 30 25 19 46 30 25 19 41 24 23 14 41 24 23 14 39 24 20 09 35 20 16 05 52 33 23 11 (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm). Bảng 1.12: Tình hình lao động ở Công ty CP Vật tư tổng hợp STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 1 Tổng số LĐ 78 69 2 Trình độ - Trên ĐH - ĐH - Trung cấp - CNKT - LĐ phổ thông 25 23 20 10 18 20 25 06 (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng của đơn vị qua các năm) 1.1.4 Tình hình thu nhập Tình hình thu nhập của người lao động ở các doanh nghiệp trước hết là tiền lương, tiền lương của CBCNV trong các doanh nghiệp được trả căn cứ trên hệ số lương cơ bản của cá nhân, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả công việc của người đó đối với công ty. Việc trả lương của các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng cũng tuân thủ các quy định chung, đảm bảo nguyên tắc người lao động nhận lương không thấp hơn bậc lương cơ bản đang được hưởng; lương thực lĩnh của từng cá nhân là lương cơ bản nhân với hệ số lương thực tế của doanh nghiệp. Hệ số lương thực tế của từng người không cố định, nó phụ thuộc vào hiệu quả của từng người mang lại cho công ty, nó được điều chỉnh cho phù hợp với đóng góp của từng người trong tháng và được ghi trong bản lương từng tháng; việc xem xét điều chỉnh hệ số lương của từng người do giám đốc công ty quyết định trên cơ sở đánh giá kết quả công tác của từng người và xem xét ý kiến đề nghị của các giám đốc trung tâm, chi nhánh, cửa hàng và phụ trách các phòng chức năng. Việc đánh giá đúng đóng góp của người lao động thông qua tiền lương tiền thưởng tạo động lực cho tất cả mọi người có trách nhiệm hơn, năng động hơn trong công việc, động viên khuyến khích được khả năng của mọi người đóng góp vào sự phát triển của công ty. Ngoài thu nhập bằng tiền lương và tiền thưởng, hằng năm các doanh nghiệp cổ phần phân phối công khai quỹ phúc lợi cho cán bộ công nhân viên và người lao động thông qua các hoạt động tham quan nghĩ dưỡng, nghỉ hè, nghỉ tết và các ngày lễ lớn trong năm. Nhìn chung, các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau cổ phần hoá tình hình thu nhập của người lao động đều tăng lên so với trước. Thu nhập bình quân của người lao động được tăng dần. Đời sống mọi mặt được cải thiện đáng kể, các chế độ chính sách của người lao động luôn được quan tâm đầy đủ, 100% người lao động được mua BHXH và BHYT. Ngoài ra lao động là cổ đông được chia cổ tức theo cổ phần được mua, cổ tức thường cao hơn lãi suất tiền gởi tiết kiệm của ngân hàng. Một số doanh nghiệp cổ phần kiên quyết chấm dứt việc trả lương dàn đều theo thâm niên công tác mà áp dụng hình thức quản lý và phân phối tiền lương, tiền thưởng theo hiệu quả của từng người. Hình thức này thường được các công ty không có vốn nhà nước chi phối áp dụng như Công ty cổ phần Công nghệ phẩm là doanh nghiệp 100% vốn cổ đông. Tuy nhiên, tình hình thu nhập và các chế độ của người lao động sau cổ phần hoá vẫn còn một số vấn đề vướng mắc, Nhà nước chưa có hướng dẫn rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của công ty, chế độ chính sách gắn với doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá như: Vấn đề BHXH đối với người lao động ở công ty cổ phần chưa kịp thay đổi nên hiện nay các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng vẫn vận dụng các quy định của doanh nghiệp Nhà nước về chế độ BHXH để hoạt động; chế độ chính sách đối với người lao động vận dụng theo các quy định hiện hành của Nhà nước về mức lương và nâng bậc lương…đó là chưa kể đến doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hoá hoạt động kém hiệu quả dẫn đến phá sản, cần có chi phí thất nghiệp cho người lao động trong thời gian doanh nghiệp chuẩn bị phá sản và sau phá sản để người lao động đủ sống và tìm kiếm việc làm mới. * Tình hình thu nhập của các công ty cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng qua khảo sát. Bảng 1.13: Tình hình thu nhập của các công ty cổ phần a) Công ty Cổ phần Thương mại dịch vụ Đà Nẵng TT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2004 Năm 2005 6 T 2006 01 Tổng quỹ lương Tỷ đồng 2,373 1,000 .1,280 0,893 02 TN bìnhquân/tháng 1000 đồng 853 1000 1.500 1.500 b) Công ty cổ phần công nghệ phẩm ĐN STT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2005 6 T 2006 01 Tổng quỹ lương Tỷ đồng 1.808.000 780.000 536.000 02 TN bình quân/tháng 1000 đồng 867 1200 1500 c) Công ty cổ phần cung ứng tàu biển ĐN. TT Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 01 Tổng quỹ lương Tỷ đồng 1,150 1,551 2,034 2,047 2,062 2,161 02 Thu nhập bình quân/tháng 1000 đồng 1.100 1.080 1.200 1.400 1.450 1.800 d) Công ty cổ phần vật tư tổng hợp ĐN. STT Chỉ tiêu Trước CPH Năm 2004 Năm 2005 01 Tổng quỹ lương 02 Thu nhập bình quân/tháng 1.050 1.350 950 (Nguồn: Báo tình hình kết quả SXKD của đơn vị qua các năm) 1.1.5. Đóng góp cho ngân sách Nhà nước Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà nẵng sau khi cổ phần hoá cũng có nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thuế như: thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất… các khoản đóng góp này của các doanh nghiệp thể hiện sự đóng góp của doanh nghiệp cho ngân sách của Nhà nước nói chung và cho sự phát triển của Thành phố Đà Nẵng nói riêng. Mặc dù các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng sau cổ phần hoá được hưởng ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá theo Nghị định 66 của Chính phủ, nhưng nhìn chung mức nộp ngân sách vẫn tăng lên so với trước. Ngoài việc đóng góp ngân sách cho Nhà nước các doanh nghiệp rất tích cực đóng góp cho công tác xã hội như xây dựng các công trình phúc lợi, xây dựng nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách, gia đình thương binh - liệt sĩ... Qua khảo sát các doanh nghiệp cổ phần trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng đóng góp vào ngân sách nhà nước qua các năm như sau: Bảng 1.14: Tình hình nộp ngân sách của các Công ty CP Đơn vị tính: 1000đ a) Công ty Cổ phần Thương mại dịch vụ Đà Nẵng Chỉ tiêu Trước CPH Năm 2004 Năm 2005 6 tháng năm 2006 Nộp ngân sách 6.462.285 202.532 831.825 193.900 b) Công ty CP Công nghệ phẩm ĐN Chỉ tiêu Trước CPH Năm 2005 6 tháng 2006 Nộp ngân sách 1.655.000 780.000 80.000 c) Công ty CP Cung ứng tàu biển Chỉ tiêu Trước CPH Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 6 T 2006 Nộp ngân sách 3.378 7.042 963,16 1.278 2.573 3.039 554 d) Công ty CP Vật tư tổng hợp ĐN Chỉ tiêu ĐVT Trước CPH Năm 2004 Năm 2005 Nộp ngân sách 1000đồng 2.300.000 1.700.000 (Nguồn: Báo tình hình kết quả SXKD của đơn vị qua các năm) 1.1.6. Hiệu quả sử dụng vốn Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng phải dựa trên việc sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh. Căn cứ vào số liệu báo cáo, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh trước khi CPH của các doanh nghiệp trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng và sau khi CPH ta có hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị như sau: Bảng 1.15: Hiệu quả sử dụng vốn của các công ty CP a) Công ty CP thương mại dịch vụ ĐN Chỉ tiêu Trước khi CPH Năm 2004 Năm 2005 6T 2006 Hiệu quả sử dụng vốn 0,23% 22,03% 13,7% 3,29% b) Công ty CP Công nghệ phẩm ĐN Chỉ tiêu Trước khi CPH Năm 2005 6T 2006 Hiệu quả sử dụng vốn 1,39% 3,99% 3,19% c) Công ty CP Cung ứng tàu biển ĐN Chỉ tiêu Trước khi CPH Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 6 T 2006 Hiệu quả sử dụng vốn 1,52% 3,42% 3,54% 6,22% 10,60% 11,38% 5,62% ( Nguồn: Báo tình hình kết quả SXKD của đơn vị qua các năm) 1.2. nH÷NG RµO C¶N Vµ NH÷NG VÊN §Ò §ÆT RA SAU Cæ PHÇN HO¸ C¸C DOANH NGHIÖP NHµ N¦íC TRONG NGµNH TH¦¥NG M¹I §µ N½NG 1.2.1. Những cản trở cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Hiện nay, vấn đề nhận thức của cán bộ, công nhân viên chức và người lao động, thậm chí cả những cán bộ lãnh đạo trong các DNNN trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng cần tiến hành CPH còn một số vấn đề. Đa số đều cho rằng CPH là mất đi quyền lợi và thu nhập vốn đang ổn định của mình mà không hiểu là CPH sẽ đem lại cho họ nhiều hơn quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh (SXKD), CPH là một biện pháp đổi mới DNNN, CPH giúp cho kinh tế quốc doanh tập trung vào những lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế và làm ăn có hiệu quả cao hơn, đồng thời phát huy tính năng động của các thành phần kinh tế. Tất cả đều nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và ổn định, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cho nên CPH là để đổi mới. Mục đích chủ yếu của CPH DNNN là cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp. Việc CPH DNNN đã thu hút được nguồn vốn trong cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp và ngoài xã hội vào phát triển SXKD; phát huy được tính năng động, sáng tạo của người quản lý và người lao động; doanh thu, lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách Nhà nước, tích luỹ vốn đều tăng đáng kể; việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động được cải thiện. Nhìn chung CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn, đã tạo ra động lực mới đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt cho Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Tuy nhiên, vẫn còn một số cản trở đối với hoạt động của các DN sau CPH từ nhiều phía cụ thể như sau: - Cản trở từ phía cơ quan chủ quản DNNN: Đối với cán bộ lãnh đạo và công chức các cơ quan chủ quản, không ít người bị sợ mất quyền sau CPH DNNN. Trong khi đó các chế tài về quyền lợi, trách nhiệm của các bên chưa thật rõ ràng, nhất là lợi ích chung và lợi ích riêng. Một số đơn vị chủ quản thiếu chủ động và tập trung thực hiện do chưa muốn tách chức năng quản lý SXKD ra khỏi chức năng quản lý nhà nước. Thủ tục hành chính rườm rà với cơ chế “xin – cho” trong thủ tục CPH làm cho quá trình CPH DNNN kéo dài. Để đánh giá được giá trị tài sản doanh nghiệp, các đơn vị CPH phải tiếp xúc với nhiều đoàn kiểm tra khác nhau của Ngành quản lý cấp trên, của các Sở, Ban, Ngành của thành phố như: Sở thương mại, Sở tài chính, Sở khoa học - công nghệ, Sở địa chính và môi trường, Sở công nghiệp, Sở kế hoạch - đầu tư… nhưng do các Sở, Ban, Ngành chưa có một chuẩn thống nhất nên có doanh nghiệp phải chờ đợi cả năm trời. Vẫn còn một số cán bộ có nhận thức không thống nhất về chủ trương, bước đi, cách làm, trình tự thủ tục giải quyết các vấn đề trong quá trình CPH, lo CPH DNNN sẽ biến thành tư nhân hóa DNNN, nhất là đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối. Từ đó chưa mạnh dạn đề xuất chính sách thúc đẩy quá trình CPH và sau CPH theo đề án của Chính phủ, Bộ, Ngành, thành phố cũng như việc hoạch định các bước đi tiếp theo sau CPH tạo chính sách thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Trong khi đó, qui trình CPH không đơn giản, đặc biệt là nội dung, qui chế phân định rạch ròi giữa quyền lợi, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm mà người lao động không dễ dàng gì tiếp thu. - Cản trở từ những người lãnh đạo DNNN và người lao động: Đối với lãnh đạo doanh nghiệp, số năng động sáng tạo vẫn còn phân vân, nửa muốn cổ phần, nửa lại chần chừ không muốn tiên phong đi trước mà muốn đi ở giữa; số chưa giỏi thì lo sợ không biết cổ đông có bầu mình không, lo sợ sự giám sát của cổ đông tăng lên thì quyền lãnh đạo (theo lối cũ) của mình giảm xuống. Do đó, không ít doanh nghiệp không thuộc danh mục Nhà nước cần giữ lại để củng cố và phát triển, nhưng vẫn còn trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước nên tìm cách trì hoãn CPH, cố tình không giải quyết các thủ tục tiến hành CPH doanh nghiệp. Đối với người lao động chưa thấy rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình, cũng như họ không được giải thích, quán triệt chi tiết, rõ ràng về chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước mục đích là để giúp họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp, nên khi CPH người lao động còn nhiều băn khoăn, lo ngại, không tích cực. Tâm lý phổ biến là lo thiếu việc làm sau CPH, nhiều nơi nỗi lo này trở thành gánh nặng cho cả doanh nghiệp lẫn người lao động. Trong quá trình sắp xếp số lao động dôi dư, nếu đối tượng nào gần hưu thì doanh nghiệp động viên họ về trước tuổi, nhưng trong số họ lao động trẻ vẫn còn nhiều, sẽ làm gì tiếp theo sau khi nghỉ việc, trong khi vấn đề xin việc làm hiện nay rất khó khăn, số lao động ở lại thì từ quyền làm chủ tập thể DN, nay có thêm quyền làm chủ với tư cách là cổ đông còn đang rất là mới mẻ, nhiều người chưa hình dung thực chất ra sao, liệu DN có khá lên hay khó khăn hơn, trong khi chính sách, quan niệm đang biểu hiện đối xử bất bình đẳng giữa DNNN với DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Mặt khác, đối với người lao động bỏ vốn đầu tư mua cổ phần trong khi nhiều nhu cầu chi tiêu khác của mỗi gia đình đang thôi thúc hàng ngày và “sức ỳ” của nếp sống làm việc trong DNNN có lẽ là khó khăn chủ yếu khi chuyển sang cổ phần hoá DNNN. - Sự chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo địa phương thiếu sự đồng bộ và kiên quyết khi tiến hành CPH: Sự không thống nhất trong chính sách về CPH DNNN cùng với thiếu kiểm tra, giám sát và kịp thời chấn chỉnh của Chính phủ, các Bộ, Ngành cũng như các cơ quan chức năng của địa phương đã dẫn đến sự không thống nhất trong việc triển khai CPH DNNN ở địa phương. Vì vậy, đã có biểu hiện tuỳ tiện hoặc làm chậm trong việc xúc tiến thực hiện chủ trương CPH ở một số DNNN trong ngành thương mại tại thành phố Đà Nẵng. Mặt khác, tiến trình CPH chưa đặt đúng mức chưa gắn chặt trong chương trình tổng thể về cơ cấu sắp xếp lại khu vực DNNN, do đó việc triển khai thực hiện chưa đồng bộ. Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp của Thành phố còn thiếu kiên quyết, phân cấp, phân quyền còn hạn chế, kéo dài thời gian chờ đợi giải quyết. Vấn đề chuyển một số DNNN sang công ty cổ phần là vấn đề mới lại liên quan đến nhiều lĩnh vực tài chính, lao động, sở hữu, hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể vì vậy cán bộ của các ngành được phân công làm làm nhiệm vụ này còn lúng túng. Trong khi đó thủ tục quy trình CPH còn rườm rà, phức tạp cứng nhắc, chưa gắn với cải cách thủ tục hành chính. Nhiều nơi, cán bộ công chức còn có biểu hiện gây phiền cho DN, thiếu thống nhất trong chỉ đạo thực hiện, các văn bản pháp lý của Nhà nước, các bộ ngành còn chậm, chưa nhất quán, chưa thật sự đồng bộ dẫn đến việc vận dụng còn nhiều vướng mắc. Từ quá trình xây dựng đến thực hiện đề án còn bộc lộ tình trạng chưa sát với thực tế, thiếu sự kết hợp giữa ngành với lãnh thổ. Không ít nơi thiếu dân chủ bàn bạc đối với doanh nghiệp và người lao động. Hiện nay công tác CPH còn mang tính chất dàn đều, phong trào mà chưa được xem xét thấu đáo về khía cạnh chuyên môn, chuyên ngành hoạt động, phạm vi và khả năng của doanh nghiệp. Vấn đề CPH các doanh nghiệp để lấy số lượng mà coi nhẹ chất lượng doanh nghiệp còn khá phổ biến. Công tác phối kết hợp giữa các cơ sở, ban, ngành còn chưa chặt chẽ trong công tác thẩm định phương án cổ phần, xác định doanh nghiệp có thể CPH là những vấn đề khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp sau CPH 1.2.2. Những vấn đề tồn tại, vướng mắc xảy ra sau cổ phần hoá 1.2.2.1 Quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần Nhận thức về mối quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần chưa thật rõ ràng, nhất là doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50%, hơn nữa đa số cổ đông là người lao động trực tiếp từ trước đến nay nên ranh giới giữa công ty cổ phần và DNNN vẫn còn nhiều cổ đông chưa thật sự nắm rõ. Đa số cổ phần bán ra thuộc về người lao động của DNNN cũ, trong các doanh nghiệp này sau CPH còn nhiều trường hợp các cổ đông là người lao động không thấy được vai trò chủ sở hữu thực sự của mình để tích cực tham gia bàn bạc, thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty. Không ít cổ đông vẫn có tâm lý e dè trước lãnh đạo doanh nghiệp nhất là khi đề cập đến vấn đề chất vấn, bãi miễn các chức vụ lãnh đạo do vẫn còn quan niệm về vị trí, vai trò của mình như trong DNNN trước kia. Điều đó cho thấy tình trạng làm chủ “hình thức” của người lao động và các cổ đông trong doanh nghiệp sau CPH vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Một số quyền cơ bản và hợp pháp của cổ đông tại nhiều doanh nghiệp CPH còn chưa được đảm bảo, trước hết là quyền thông tin, dẫn đến hầu hết các cổ đông nhỏ cảm thấy bị đứng ngoài công ty, quan hệ giữa cổ đông và công ty trở thành quan hệ giữa người vay và người cho vay vốn. Ngoài ra, quy định pháp lý hiện hành cho phép người lao động được chia cổ phần hưởng lợi tức, được thừa kế, nhưng không được sở hữu. Như vậy, người lao động không phải là cổ đông đầy đủ theo đúng nghĩa của nó. Ngược lại với hiện tượng trên, ở một số doanh nghiệp sau khi CPH do ngộ nhận, đánh đồng không phân biệt rõ vị thế của cổ đông - sở hữu cổ phần - làm chủ doanh nghiệp với vị thế của người lao động trực tiếp chịu sự điều hành theo kỷ luật lao động và cơ chế, Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp, của lãnh đạo doanh nghiệp cho nên nhiều người lao động - cổ đông trong doanh nghiệp đã có những hành vi “dân chủ quá trớn”. Để đảm bảo quyền làm chủ của mình, những người này mặc dù có nơi chỉ chiếm chưa đến 1% cổ phần doanh nghiệp cũng để mắt và có ý kiến tới mọi chuyện, tranh đấu, chất vấn quyết liệt với các quyết định điều hành của Ban giám đốc doanh nghiệp. Đến mức DNNN sau CPH, Ban giám đốc doanh nghiệp mỗi khi đưa ra quyết định mua sắm, chi tiêu quá 100 ngàn đồng cũng đều phải họp xin ý kiến từng việc rất căng thẳng, hoàn toàn không phù hợp với cơ chế thị trường kinh doanh hiện nay rất cần phản xạ nhanh, quyết định nhanh để chớp lấy thời cơ. Vậy một DNNN sau khi CPH mà có tới hàng trăm ông chủ ngang quyền nhau và đều đòi hỏi điều hành doanh nghiệp như một giám đốc cũng sẽ dẫn đến không hiệu quả, tựa như một DNNN hoạt động theo tinh thần làm chủ tập thể mà Nhà nước là đại diện duy nhất trước khi CPH. 1.2.2.2. Về tổ chức bộ máy quản lý và hệ thống kinh doanh của các công ty cổ phần Nhìn chung các doanh nghiệp sau khi CPH đều tiến hành tổ chức và hình thành bộ máy quản lý của mình theo quy định của Luật doanh nghiệp, nhân sự được sắp xếp lại tinh gọn hơn, phù hợp với chuyên môn được đảm nhận. Tuy nhiên về hoạt động của bộ máy trong không ít doanh nghiệp thì dường như lại chưa đạt mục tiêu khắc phục yếu kém trong phương thức điều hành của DNNN, cụ thể là: Thứ nhất: Bộ máy không đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH vẫn dùng nguyên bộ máy cũ, chỉ đưa một số vị trí lên, vẫn còn có hiện tượng đội ngũ cán bộ quản lý ít được đổi mới, nhiều doanh nghiệp sau CPH, Giám đốc cũ thành Chủ tịch Hội đồng quản trị, Phó giám đốc thành giám đốc doanh nghiệp mới. Hiện nay chưa có doanh nghiệp nào sau CPH sử dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành. Nguyên nhân là do bán cổ phần chủ yếu cho nội bộ công nhân viên nên thiếu nhà đầu tư chiến lược là những cổ đông bên ngoài doanh nghiệp có tỷ lệ cổ phần đủ lớn làm thay đổi các quyết sách và quản trị doanh nghiệp. Việc bộ máy tổ chức ít thay đổi dẫn đến tư duy, trình độ quản lý và điều hành doanh nghiệp cũng ít thay đổi, do vậy hiệu quả quản lý cũng chưa được nâng cao. Điều đó cũng cho thấy, các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi cũng chưa phát huy ưu điểm của mô hình mới là chuyên nghiệp hóa cán bộ điều hành, thể hiện qua việc quá ít doanh nghiệp thuê những cán bộ quản lý giỏi từ bên ngoài. Thứ hai: Một số công ty chưa tổ chức hoạt động đúng với loại hình doanh nghiệp mới; nhiều doanh nghiệp thậm chí còn giữ nguyên phương thức điều hành cũ. Trong cơ cấu tổ chức, hoàn toàn không có sự tách biệt rõ ràng về quản lý - điều hành (mặc dù Điều lệ công ty quy định), nảy sinh xung đột giữa Hội đồng quản trị và Ban giám đốc giống như trong DNNN hiện nay (chẳng hạn giám đốc điều hành không tuân thủ nghị quyết Hội đồng quản trị). Qua khảo sát trực tiếp tại một số doanh nghiệp còn cho thấy, toàn bộ Ban giám đốc là thành viên Hội đồng quản trị. Được hỏi về nguyên nhân, lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng việc cứng nhắc áp dụng mọi quy định về bộ máy tổ chức, quản lý theo Luật doanh nghiệp có thể dẫn tới chồng chéo chức năng, nhiệm vụ trong nội bộ doanh nghiệp, chẳng hạn đối với công ty cổ phần có số lượng cán bộ quản lý ít, sản xuất giản đơn thì không nhất thiết phải thành lập cả Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Thứ ba: Nhiều doanh nghiệp được CPH trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (01/01/2000) chưa có sự điều chỉnh về chức năng quyền hạn của các cơ quan quản lý và điều hành cho phù hợp như Hội đồng quản trị (hình thức, cách thức thông qua quyết định của Hội đồng quản trị đã thay đổi), Ban kiểm soát (thay đổi về số lượng, tiêu chuẩn, nhiệm vụ) cũng như Điều lệ doanh nghiệp. Ngoài ra vẫn còn một số doanh nghiệp được CPH chưa tuân thủ các quy định của Luật doanh nghiệp về đổi tên, kế thừa nhãn mác của doanh nghiệp cũ v.v... 1.2.2.3. Về việc quản lý vốn, tài sản của nhà nước ở công ty cổ phần Việc quản lý vốn của Nhà nước do người đại diện vốn nhà nước trong HĐQT đảm nhận và quản lý theo quy định của Nhà nước nhưng sự lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước ở các DNNN sau CPH vẫn tiếp tục diễn ra thông qua các kênh như sau: Do doanh nghiệp thiếu trách nhiệm quản lý hay lạm dụng khai thác sử dụng với phần tài sản giữ hộ Nhà nước còn lại trong doanh nghiệp mà chưa sử dụng dứt điểm sau khi CPH kể cả phần nợ doanh nghiệp phải thu hồi hoặc do Nhà nước mất không phần chênh lệch giá trị giữa giá trị thực (gồm giá tính đúng, đủ giá trị doanh nghiệp kể cả giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vô hình của doanh nghiệp) và giá trị kế toán thấp nhất khi tiến hành CPH DNNN (đặc biệt là khi CPH không thông qua thị trường chứng khoán hoặc chỉ khoanh vùng bán cổ phần trong nội bộ doanh nghiệp) hoặc do áp dụng không đúng thực tế các ưu đãi của Nhà nước cho các DNNN sau CPH. Do chưa có quy định rõ ràng, cụ thể hợp lý quyền lợi, trách nhiệm của người đại diện hoặc kiêm nhiệm quản lý cổ phần nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước vẫn còn nắm giữ ít nhiều cổ phần của doanh nghiệp, thẩm quyền và phương hướng xử lý việc bán bớt hay tăng thêm CP Nhà nước trong các doanh nghiệp đã CPH chưa được rõ ràng và hiệu lực thực tế, gây khó khăn trong các quyết định liên quan đến huy động tăng giảm vốn Điều lệ của Công ty cổ phần, cũng như đến việc thực hiện quyền sở hữu tài sản của Nhà nước trong công ty cổ phần, từ đó trực tiếp hay gián tiếp gây tổn hại cho vốn, tài sản Nhà nước trong các doanh nghiệp này. Đây là một vấn đề khó chấp nhận nhất vì nó hoàn toàn trái ngược với mục tiêu chủ đạo của CPH DNNN. Thực tế CPH DNNN trong thời gian qua cho thấy CPH các DNNN là điều cần thiết và phải được tiến hành minh bạch, công khai, nhanh và triệt để hơn, không minh bạch công khai, càng trì hoãn quá trình CPH càng làm gia tăng tình trạng thất thoát tài sản Nhà nước hoặc doanh nghiệp thụ động “chờ xem sao”, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và gây lãng phí tài sản cho Nhà nước. 1.2.2.4. Vấn đề nợ và quan hệ tài chính sau cổ phần Đối với khoản nợ thừa kế, Chính phủ đã có cơ chế tạo điều kiện cho phép doanh nghiệp xủ lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng trước khi chuyển đổi. Mặc dù vậy, việc xử lý các tồn đọng cũng chỉ mới giới hạn ở các khoản nợ đã xác định được là không có khả năng thu hồi với các bằng chứng như: con nợ đã bị giải thể, phá sản, đã bị chết, đang thi hành án hoặc đang bỏ trốn trong khi người thân có quan hệ thừa kế không có khả năng thanh toán nợ. Còn những khoản nợ tồn tại nhiều năm do cơ chế cũ để lại, dù con nợ còn tồn tại nhưng cũng khó có khả năng thu hồi thi doanh nghiệp phải thừa kế và không xử lý được. Thực chất đây là gánh nặng của các doanh nghiệp sau chuyển đổi và các nhà đầu tư phải gánh chịu. Điều đó cho thấy, để tình hình tài chính của doanh nghiệp sau khi chuyển đổi thực sự lành mạnh, khả năng cạnh tranh thực sự được cải thiện, quyền lợi của các nhà đầu tư thực sự được rõ ràng, Nhà nước cần có cơ chế xử lý dứt điểm trước chuyển đổi. Mặt khác, nếu không xử lý trước chuyển đổi được thì cần chia sẻ gánh nặng với doanh nghiệp, chẳng hạn giao khoán các khoản nợ cho một định chế trung gian của Nhà nước để tiếp tục theo dõi, xử lý hoặc bán cho công ty mua bán nợ. Đối với các khoản nợ và tài sản tồn đọng đã được loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp, thì mặc dù theo qui định hiện hành các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện chuyển đổi được quyền loại trừ một số khoản nợ và tài sản tồn đọng ra khỏi giá trị doanh nghiệp để CPH, giao, bán, khoán và cho thuê. Về nguyên tắc, đến thời điểm chuyển đổi nếu các khoản nợ và tài sản này chưa xử lý xong sẽ được doanh nghiệp giao cho cơ quan quyết định chuyển đổi xử lý tiếp, trong đó có phương án doanh nghiệp chuyển đổi giữ hộ trong thời hạn 90 ngày. Từ quy định này đã nảy sinh những vấn đề sau: Về phía các doanh nghiệp, do không phải tài sản sở hữu doanh nghiệp nên trách nhiệm xử lý không cao, thậm chí trong phần lớn các trường hợp doanh nghiệp tiếp tục tận dụng, khai thác một cách bất hợp pháp. Chính các quy định không rõ ràng nên việc bảo quản gần như bị buông lỏng, tài sản xuống cấp nghiêm trọng, không còn giữ được hình thái vật chất và giá trị ban đầu. Nhà nước và các cơ quan chức năng chưa ban hành quy định về trách nhiệm đối với tài sản sau thời hạn 90 ngày. Không ít doanh nghiệp phàn nàn về sự phiền hà trong việc “giữ hộ” tài sản Nhà nước, bởi vì doanh nghiệp vừa phải bố trí mặt bằng để cất giữ (trừ trường hợp doanh nghiệp tiếp tục khai thác bất hợp pháp), lại phải chịu những chi phí bảo quản, bảo vệ rất tốn kém. Thực tế về nợ và tài sản tồn đọng (có thừa kế cũng như không thừa kế) như trên, một mặt nói lên tính bất cập trong quá trình hiện hành, mặt khác cũng cho thấy tính bức xúc phải có một định chế pháp lý của Nhà nước đảm nhiệm việc xử lý các khoản nợ và tài sản này một cách hợp lý. Vốn, tín dụng và những vướng mắc trong quan hệ với ngân hàng của doanh nghiệp sau CPH: Sự khác biệt quan trọng nhất đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước và sau chuyển đổi chính là vấn đề vốn. Trước đây, Nhà nước đầu tư vốn và giao vốn cho doanh nghiệp Nhà nước khi thành lập và ngoài ra tuy khả năng ngân sách, Chính phủ (Bộ Tài chính) quyết định đầu tư bổ sung vốn hàng năm cho một số doanh nghiệp Nhà nước (tùy thuộc lĩnh vực kinh doanh) dưới hình thức bổ sung vốn lưu động. Sau khi chuyển đổi, do lợi thế này không còn nên doanh nghiệp (tập thể người lao động, cổ đông, kể cả cổ đông đại diện cho vốn Nhà nước v.v...) bị hạn chế, thì nguồn vốn từ bên ngoài trở nên đặc biệt quan trọng. Theo kết quả điều tra, mặc dù tỷ lệ vay vốn ngân hàng vẫn chiếm đa số trong tổng vốn huy động từ bên ngoài sau chuyển đổi (gần 57%) nhưng rõ ràng tỷ lệ này quá thấp so với trước chuyển đổi. Điều này cho thấy đã có vấn đề nảy sinh trong quan hệ với ngân hàng so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước, buộc doanh nghiệp phải vay thêm từ các nguồn khác ngoài cổ phần, rất khó khăn cho doanh nghiệp. Thực tế đòi hỏi phải nghiên cứu và đánh giá đúng thực chất của vấn đề, bởi vì theo các quy định hiện hành, doanh nghiệp sau chuyển đổi được quyền vay vốn ngân hàng như đối với doanh nghiệp nhà nước. Song giữa thực tế và quy định còn một khoảng cách khá xa. Nhiều doanh nghiệp sau chuyển đổi cho rằng sau khi CPH, họ đều gặp khó khăn trong việc vay tín dụng ngân hàng. Nguyên nhân có nhiều, nhưng quan trọng nhất vẫn là những quy định ngặt nghèo về thế chấp - một vấn đề luôn là trở ngại chính cản trở doanh nghiệp sau CPH tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng, trong khi đây là lợi thế của DNNN do nắm trong tay nhiều nguồn lực có giá trị được Nhà nước giao (như đất đai) hoặc được bảo lãnh dưới dạng tín chấp. Kết quả điều tra chỉ ra rằng 80% doanh nghiệp sau CPH gặp khó khăn về thế chấp trong vay tín dụng ngân hàng và tới hơn 90% cho rằng vẫn còn hành vi phân biệt đối xử của ngân hàng ở các mức độ khác nhau đối với doanh nghiệp trước và sau khi CPH. Cũng theo số liệu điều tra này, đa số doanh nghiệp sau CPH khẳng định lợi thế của DNNN trong quan hệ với ngân hàng, trong vay vốn là rất lớn. Qua điều tra nghiên cứu, nổi lên vấn đề chủ yếu là: Do không còn là DNNN, doanh nghiệp CPH mất đi sự đảm bảo của Nhà nước trong vay vốn, cụ thể là mất đi sự phê duyệt của các cơ quan chủ quản đối với các phương án đầu tư hoặc các khoản đầu tư hoặc các khoản vay lớn của doanh nghiệp. Thực chất, biện pháp này có tính chất bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng dưới mọi hình thức (kể các phê duyệt phương án vay để doanh nghiệp gây sức ép với ngân hàng). Nói cách khác, doanh nghiệp sau CPH không còn tín chấp để vay vốn. 1.2.2.5. Vấn đề giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá Việc giải quyết số lao động dôi dư sau CPH là vấn đề nan giải đối với doanh nghiệp, nhất là khi Nghị định 41 của Chính phủ không được áp dụng cho những đơn vị CPH trước 12 tháng khi Nghị định ra đời. Để đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển, số cán bộ, công nhân năng lực yếu kém sẽ phải nghỉ việc, nhưng có người đã có quá trình làm việc lâu năm, nên việc xử lý số lao động dôi dư nầy là một vấn đề tế nhị, làm sao đáp ứng được yêu cầu phát triển của doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo cho các cán bộ, công nhân phải nghỉ hưu sớm thỏa mái, yên tâm. Đây là bài toán hết sức khó. Trong khi đó, số lao động dôi dư tại thời điểm CPH cần đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần trước đây được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đến nay thì DN không còn được hỗ trợ nữa khiến cho khả năng hoạt động của doanh nghiệp bị hạn chế. Hơn nữa đội ngũ cán bộ chủ chốt của một số doanh nghiệp còn kém về năng lực cũng như phẩm chất, được đề bạt trong cơ chế cũ, nay chuyển sang công ty CP không đảm đương được nhiệm vụ được giao, ở các DNNN địa phương sau khi CPH, hầu hết đều có cán bộ của Sở tài chính hoặc Sở thương mại được cử xuống để quản lý vốn nhưng những cán bộ này nhiều người không am hiểu SXKD của CTCP, trong KD lại cần độ an toàn hơn là mạo hiểm nên dễ dẫn đến mất cơ hội.Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, người sử dụng lao động kế tiếp muốn cơ cấu lại lao động đã gặp phải vướng mắc vì nhiều người lao động không muốn rời khỏi doanh nghiệp nên việc đàm phán lại hợp đồng lao động gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với số lượng lao động cũ chuyển sang theo hợp đồng không xác định thời hạn (thực chất là theo biên chế suốt đời). Một khó khăn nữa đối với việc giải quyết lao động dôi dư sau CPH là các cổ đông không muốn chi trả trợ cấp một lần cho họ vì sợ giảm cổ tức của mình. Vì vậy, để tháo gỡ vướng mắc sau CPH cần ban hành và thực hiện chính sách xử lý lao động dôi dư trước khi CPH, tạo đủ nguồn tài chính để thực hiện chính sách này. Nói chung, có thể nhận thấy rằng các chế độ giải quyết lao động dôi dư tuy đã được quan tâm song chủ yếu mới tập trung vào mục tiêu giải quyết cho người lao động rời khỏi doanh nghiệp mà chưa chú ý đến việc tạo điều kiện và cơ hội cho lao động dôi dư tìm việc làm mới, để người lao động yên tâm khi rời khỏi doanh nghiệp. 1.2.2.6. Vấn đề hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội ở doanh nghiệp sau cổ phần hoá Thực tế sau CPH ở không ít doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội hoạt động yếu, nhất là người đúng đầu còn lúng túng, chưa tìm cách tháo gỡ để tổ chức hoạt động phù hợp với cơ chế quản lý mới của doanh nghiệp. Việc phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể với lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng các qui chế và triển khai chương trình hành động, các phong trào thi đua còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều nội dung hoạt động của công ty các tổ chức đoàn thể không được biết, hoặc vai trò rất hạn chế, vị trí và vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội đang phai nhạt dần, một số đoàn viên ít gắn bó với tổ chức mình... Hiện tại, tổ chức đảng cơ sở, công đoàn, đoàn thanh niên của các công ty cổ phần tuy về nguyên tắc không thay đổi, nhưng về nội dung và hình thức hoạt động trong thực tế đã có sự thay đổi nhất định so với khi còn là DNNN. Đối với các công ty cổ phần quyền sở hữu là các cổ đông, quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp là Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp nào Hội đồng quản trị, Giám đốc có ý thức đảng tốt thì ở đó hoạt động của tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng còn phát huy tác dụng. Ngược lại thì hoạt động của các tổ chức đoàn thể rất hạn chế. Bên cạnh đó, một số lãnh đạo công ty CP chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của các đoàn thể chính trị, xã hội, nên có dấu hiệu buông lỏng trong chỉ đạo và phối hợp hoạt động; đội ngũ cán bộ của các tổ chức đoàn thể nhìn chung còn yếu kém về lý luận, trình độ chưa tương xứng và phù hợp với đặc điểm của công ty CP, một số công nhân, người lao động, thiếu ý thức tổ chức, chạy theo lợi ích kinh tế ít quan tâm đến sinh hoạt tập thể, thờ ơ với việc học tập các chủ trương chính sách, chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, chưa thấy quyền lợi lâu dài nên ít sinh hoạt các đoàn thể quần chúng. Các văn bản quy phạm pháp luật qui định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội trong các loại hình doanh nghiệp, còn thiếu chưa đầy đủ. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao trong các công ty CP cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều phải thành lập các tổ chức đoàn thể chính tri, xã hội thu hút quần chúng và duy trì hoạt động thường xuyên, có hiệu quả góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh. Muốn vậy: Thứ nhất, phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội trong các doanh nghiệp CP. Thứ hai, đổi mới toàn diện công tác cán bộ, từ khâu lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo bố trí, sử dụng cho đến chính sách đối với cán bộ của các đoàn thể. Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của các cáp ủy và sự chỉ đạo sâu sát của các đoàn thể cấp trên cơ sở. Thứ tư, các cơ chế chính sách, các văn bản qui phạm pháp luật, cần tiến hành đồng bộ, kịp thời, sát thực tế sớm định hướng cho cơ sở thực hiện. Thứ năm, là xây dựng qui chế phới hợp hoạt động giữa các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội với HĐQT và BGĐ công ty. Thứ 6: Nâng cao và tạo sự thống nhất nhận thức của cán bộ, đảng viên và người lao động về vai trò của các tổ chức đoàn thể trong công ty cổ phần. Qua khảo sát cho thấy, sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển, đổi mới, nâng cao hiệu quả SXKD của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước trong công nhân và người lao động, thường xuyên bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp cho người lao động, tôn trọng và phát huy vai trò giám sát và quyền làm chủ của người lao động đối với hoạt động trong DN, cho nên phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện kịp thời cho các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội trong các loại hình DN hiện nay hoạt động chính là từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước. 1.2.2.7. Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá Sự quản lý nhà nước đối với các DNNN sau cổ phần còn nhiều hạn chế: Sau CPH các doanh nghiệp cần có một cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp để giúp đỡ doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật. Tuy nhiên các cơ quan trước đây trên thực tế đã “quay lưng” lại trước nhu cầu hỗ trợ của các doanh nghiệp và buông lỏng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH hoặc là phân công không rõ ràng. Về phía Nhà nước, hiện nay chưa rõ cơ quan nào là đầu mối để tổng hợp và giải quyết những vướng mắc cho doanh nghiệp, chịu trách nhiệm tuyên truyền, cung cấp thông tin, phổ biến chính sách, chế độ, cũng như thông tin về công nghệ, ngành hàng v.v... cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tổ chức hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp thu công nghệ tiên tiến. Do đó các DN CP đi vào hoạt động với điều kiện mới, thiếu sự giúp đỡ của Nhà nước, các doanh nghiệp vốn đã yếu nay càng yếu kém hơn. Ngược lại với hiện tượng trên thì việc quy định trường hợp doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty nhà nước mà khi CPH, Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối thì vẫn là thành viên của tổng công ty là chưa thỏa đáng. Đồng thời, sẽ khó khăn chấp nhận việc các doanh nghiệp, sau khi CPH vẫn được đơn vị chủ quản cũ gọi lên “định kỳ báo cáo”. Việc Nhà nước có sự quan tâm đúng mức hỗ trợ doanh nghiệp cần CPH ngay từ đầu: xây dựng danh mục, kế hoạch CPH các DNNN, xác định giá doanh nghiệp, triển khai các thủ tục CPH và ngay cả thời kỳ đầu “hậu CPH” có ý nghĩa quan trọng “giảm sốc” cho doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp nhanh chóng ổn định tâm lý, nhận thức và tinh thần kinh doanh. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định nhất đến sự thành bại của quá trình CPH doanh nghiệp qua thực tế cho thấy là việc thống nhất nhận thức và hành động giữa các cấp, đơn vị có trách nhiệm: Đảng ủy, chính quyền thành phố, cơ quan chủ quản và bản thân doanh nghiệp cần CPH. Đồng thời cần hết sức coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý, tăng các chế tài hành chính và kinh tế nhằm tăng trách nhiệm cho từng cá nhân, cấp cụ thể trong quá trình CPH. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các quy định Nhà nước và các thông tin liên quan đến doanh nghiệp sẽ CPH cũng tỏ ra có nhiều tác động tích cực đến nâng cao nhận thức, củng cố quyết tâm và tạo cơ hội thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình CPH DNNN. Công tác hỗ trợ và hoàn thiện quản lý doanh nghiệp hoạt động, định hướng, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quá trình CPH DNNN, đạt mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Một mặt, cần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH, trong đó có quan hệ giữa các cơ quan chủ quản cũ, cơ quan sở, ngành với doanh nghiệp trong các nội dung, khía cạnh hoạt động của đời sống doanh nghiệp; Mặt khác cần hoàn thiện cơ chế quản lý nội bộ doanh nghiệp theo đúng mô hình doanh nghiệp cổ phần. Phát huy dân chủ, tinh thần trách nhiệm, tự giác, chủ động, sáng tao, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm của người lao động và cổ đông doanh nghiệp sau CPH và đáp ứng các yêu cầu quản lý, kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường đầy cạnh tranh. Đồng thời Nhà nước Trung ương và địa phương cần quan tâm hỗ trợ đúng mức, thích hợp doanh nghiệp sau CPH về tín dụng, tài chính, thông tin xúc tiến thị trường, đào tạo và đào tạo lại lãnh đạo, người lao động của doanh nghiệp. 1.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc Đến nay tiến trình CPH DNNN ở thành phố ĐN đã được thực hiện gần 10 năm (từ năm 1997 khi chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính, Đà Nẵng trực thuộc Trung ương) trong đó có các DNNN trong ngành thương mại. Những kết quả đạt được từ CPH cho thấy đây thực sự là một cuộc “lột xác” làm “ thay da đổi thịt” các DNNN, song bên cạnh đó cũng còn nhiều tồn tại vướng mắc làm cho CPH “đầu xuôi đuôi chưa lọt” cần tìm ra nguyên nhân để có biện pháp khắc phục. Từ tình hình kinh doanh của các CTCP, những rào cản và những vấn đề đặt ra sau CPH có thể nêu một số nguyên nhân tồn tại, vướng mắc chủ yếu sau: Thứ nhất: Công tác tuyền truyền về chủ trương, chính sách CPH của Đảng và Nhà nước chưa sâu chỉ mới dừng lại ở mức phổ biến Nghị quyết, chưa tổ chức học tập nghiên cứu để cán bộ, đảng viên và người lao động thấy hết yêu cầu cần thiết, tác dụng nhiều mặt và lợi ích của việc CPH các DNNN. Từ đó nhận thức của cán bộ, công nhân viên chức, người lao động, cổ đông và kể cả những cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp về vấn đề CPH, về quan hệ giữa cổ đông và công ty cổ phần còn hạn chế. Thứ hai: Vấn đề quản trị và điều hành của các đơn vị sau CPH còn nhiều bất cập. Chưa có cơ quan thống nhất đánh giá việc quản trị công ty sau CPH, nhất là việc chấp hành Điều lệ tổ chức hoạt động Công ty theo qui định của Luật doanh nghiệp để hướng dẫn hoặc khuyến cáo các doanh nghiệp thực hiện đúng qui định của pháp luật về cổ đông, Đại hội cổ đông, biểu quyết của cổ đông hoặc chuyển nhượng cổ phần khi tham gia thị trường chứng khoán. Thứ ba: Các cơ chế tài chính cho việc chuyển đổi DNNN sang công ty cổ phần thiếu đồng bộ, nhiều điểm không phù hợp, chậm được sữa đổi bổ sung, bản thân doanh nghiệp trước khi CPH phần lớn cũng thiếu lành mạnh, rõ ràng; Nợ tồn đọng của quá trình CPH chưa được xử lý dứt điểm, công nợ doanh nghiệp không đối chiếu được hoặc đối chiếu trên văn bản, giấy tờ không kiểm kê thực tế, không đánh giá đúng tài sản doanh nghiệp, lãi lỗ không rõ, không xác định được nguyên nhân. Thứ tư: Việc huy động vốn, vay vốn từ ngân hàng của các đơn vị sau CPH gặp nhiều khó khăn, do việc chứng nhận tài sản gắn liền với bất động sản để doanh nghiệp thực hiện thế chấp vay vốn tín dụng chưa được qui định cụ thể, nên khó khăn cho doanh nghiệp trong quan hệ vay vốn với các tổ chức tín dụng, không có tài sản để thế chấp, không có sự bảo hộ của Nhà nước để tín chấp, bên cạnh đó lòng tin của ngân hàng khi cho vay có sự thay đổi đáng kể. Mặt khác sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện pháp khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ… không còn. Nói chung, chưa tạo được môi trường bình đẳng cho doanh nghiệp sau CPH về vốn. Bên cạnh đó, sự thiếu rõ ràng về quyền sử dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ đất đai có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức công ty cổ phần. Thứ năm: Chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh và các biện pháp thúc đẩy kinh doanh của các đơn vị chưa thực sự khoa học, vẫn còn yếu kém, hiệu quả không cao. Thứ sáu: Suy nghĩ, tư duy, tác phong lề lối làm việc của cán bộ, công nhân viên và người lao động kể cả cán bộ lãnh đạo chậm được đổi mới cho phù hợp với loại hình DN sau CPH. Ban lãnh đạo của các DN hầu như vẫn là từ công ty cũ chuyển sang, chưa có sự thay đổi trong cung cách quản lý, chưa tạo được bước đột phá, tạo niềm tin, động lực cho các cổ đông. Vấn đề giải quyết lao động dôi dư sau CPH tuy được quan tâm nhưng còn nhiều vấn đề chưa thỏa đáng và chỉ mới tập trung giải quyết cho người lao động rời khỏi doanh nghiệp chứ chưa chú ý đến việc tạo điều kiện và cơ hội cho người lao động dôi dư tìm việc làm mới. Thứ bảy: Sự quản lý vốn, tài sản của Nhà nước trong doanh nghiệp sau khi cổ phần còn nhiều vướng mắc, chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, chế độ cơ quan chủ quản không còn, nhiều doanh nghiệp xử lý vấn đề này hết sức lúng túng. Chưa có qui định cơ quan cung cấp thông tin cho doanh nghiệp sau khi CPH nên việc tiếp cận thông tin, sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sau CPH còn yếu, chưa có sự thống nhất quản lý của Nhà nước về hành chính cụi thể để doanh nghiệp ghi tiêu đề khi thực hiện báo cáo (đơn vị trực tiếp quản lý về mặt Nhà nước như ở công ty nhà nước). Thứ tám: Phương thức lãnh đạo và vai trò của các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp cổ phần chưa được phát huy, nhất là đối với tổ chức đảng mặc dù đã có một số văn bản hướng dẫn của Trung ương, Ban tổ chức Trung ương nhưng vẫn còn lúng túng chưa thể định hình về phương thức hoạt động và vai trò tổ chức Đảng trong công ty cổ phần, nên vai trò hạt nhân chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng chưa được phát huy. Chương 2 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI SAU CPH Ở CÁC DNNN TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.1. PHƯƠNG HƯỚNG KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI, VƯỚNG MẮC Để khắc phục những tồn tại, vướng mắc sau cổ phần hóa thời gian đến các Ngành, các cấp, các DN CP nói chung và các DN CP trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng nói riêng cần thực hiện một vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất: Hoàn thiện về tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng cơ chế quản lý mới cùng với đội ngũ cán bộ quản lý thích nghi hơn với cơ chế thị trường, chú trọng công tác đào tạo, đào tạo lại và bố trí cán bộ có đủ trình độ và năng lực, phù hợp với mô hình hoạt động của công ty CP. Tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương chính sách CPH của Đảng và Nhà nước trong các doanh nghiệp CP, đồng thời nâng cao nhận thức của cán bộ, công nhân viên, người lao động, cổ đông kể cả cán bộ quản lý về hoạt động của công ty CP, về mối quan hệ giữa cổ đông và công ty CP. Giải quyết dứt điểm những ván đề vướng mắc đối với người lao động và cổ đông. Thứ hai: Xây dựng kế hoạch và chiến lược phát triển SXKD lâu dài góp phần xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành trung tâm kinh tế, trung tâm thương mại, giao lưu hàng hóa của Miền Trung -Tây nguyên, làm đầu mối, trung tâm XNK của khu vực, trở thành điểm đầu cũng như điểm cuối của hành lang kinh tế Đông - Tây và giao lộ xuyên Á; tham gia xây dựng nâng cao năng lực hoạt động của các DN trong lĩnh vực thương mại; tổ chức tốt hệ thống phân phối, khôi phục vai trò trung tâm lưu chuyển, phát luồng và buôn bán hàng hóa của khu vực Miền Trung -Tây nguyên, phát triển thị trường bán lẻ, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, hướng mạnh xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng giao lưu buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới, tập trung phát triển thương hiệu, quảng bá sản phẩm hàng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững các mối quan hệ với các đối tác đã được thiết lập. Thứ ba: Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử trong lĩnh vực tín dụng, thuế đối với doanh nghiệp CPH. Trong lĩnh vực tín dụng sự thay đổi tư cách DN là sự thay đổi lớn nhất đối với các DN được CPH. Sự thay đổi này có khả năng dẫn đến một hậu quả các DNNN sau CPH khó tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng Nhà nước. Đây chính là một trong những trở lực lớn đối với CPH DNNN, nó tạo ra sự sợ hãi ở lãnh đạo các DNNN đang có ý định tham gia tiến trình CPH. Mặt khác, đối với các công ty CP được hình thành trên nền tảng DNNN CPH từ tình trạng dễ dàng đáp ứng nhu cầu vốn, khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn về vốn hoạt động SXKD rất dễ bị tổn thương. Trong lĩnh vực thuế, các DNNN đã CPH cũng gặp nhiều bất lợi, do cách tiếp cận không thống nhất đối với các DN được coi là thuần túy nhà nước. Khi DNNN được CPH và chuyển thành công ty CP bị coi là của “tư nhân”. Vì vậy, cách tiếp cận, đối xử của các cơ quan thuế quan không còn thân thiện như trước đây. Hơn nữa việc tính thuế tài sản đối với DN CPH cũng chứa đựng nhiều bất hợp lý. Tất cả những điều nêu trên cho thấy có sự phân biệt đối xử không đáng có giữa DNNN thuần túy và DNNN đã CPH. Vì vậy cần phải thay đổi cách tiếp cận ở những người hoạch định chính sách, pháp luật và cả những người thực thi chúng. Cần tiếp cận theo quan điểm “Vì hiệu quả” tức là DN nào làm ăn có hiệu quả, mang lại lợi ích cho cộng đồng thì hãy dành cho chúng về vốn, công nghệ và những ưu tiên khác, không kể chúng thuộc thành phần kinh tế nào. Thứ tư: Xây dựng nền tài chính lành mạnh, thành lập ban xử lý và thu hồi công nợ, tăng cường hoạt động của Ban kiểm tra đôn đốc xử lý thu hồi công nợ tồn đọng, dây dưa, khó đòi. Tăng cường hoạt động của Ban thanh tra, kiểm soát, khắc phục hậu quả do việc bất cập trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. 2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI SAU CỔ PHẦN HOÁ Ở CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH THƯƠNG MẠI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN ĐẾN Hậu CPH là vấn đề rất lớn đang đặt ra các yêu cầu cần phải giải quyết.Trước những vấn đề tồn tại vướng mắc về hoạt động của các DN sau CPH trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng đòi hỏi các ngành, các cấp, các đơn vị cần phải tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động. Trong đó, cần có một số giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty sau khi CPH. Để tăng cường sức sáng tạo mới cho công ty cần phải hoàn thiện chế độ quản lý bằng các giải pháp đồng bộ, mang tính hệ thống, có trọng tâm theo từng thời kỳ. 2.2.1. Giải pháp hoàn thiện tổ chức quản lý Quá trình CPH DNNN ở nước ta, tuy là quá trình chuyển đổi một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân thành đa sở hữu, nhưng về mặt bản chất đây là một trong những nội dung quan trọng của quá trình hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cụ thể là phải tìm một hình thức quản lý công ty CP vừa phát huy quyền lợi thiết thân và trách nhiệm đầy đủ của người lao động, cổ đông, Hội đồng quản trị (HĐQT) của công ty CP, vừa bảo đảm quản lý một cách dân chủ, nâng cao hiệu quả sử dụng những tài sản của doanh nghiệp, trong đó có một phần đáng kể hay CP chi phối của sở hữu nhà nước. Ban giám đốc, Hội đồng quản trị của công ty cần quán triệt, xác định một cách rõ ràng, dứt khoát, thống nhất cao độ về chủ trương tổ chức, hoạt động, điều lệ quy định của công ty về Hội đồng quản trị và giám đốc, quyền hạn của các cổ đông, chế độ chính sách đối với người lao động. Quản trị công ty CP hiện nay là một vấn đề quan trọng. Hệ thống quản trị của công ty bao gồm một loạt các nguyên tắc xác định những mối quan hệ (quyền lợi và trách nhiệm) giữa các cổ đông, các nhà quản lý công ty, các chủ nợ, Chính phủ, những bên tham gia nắm giữ quyền lợi khác nhau trong công ty và những cơ chế trực tiếp hoặc gián tiếp để thực thi những nguyên tắc này. Những nội dung chính của quản trị công ty bao gồm: cơ cấu sở hữu, việc bảo vệ và kiểm soát các cổ đông, kiểm soát và bảo vệ các chủ nợ, thị trường chuyển nhượng, quyền kiểm soát công ty, cạnh tranh thị trường và tài chính công ty. Đây là những vấn đề rất mới đối với các đơn vị so với trước đây. Do đó cần thực hiện các cách thức sau để giải quyết vấn đề quản trị công ty sau CPH Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chung về luật pháp cho những người lao động và cán bộ quản lý công ty về quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông, của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý trong công ty như Đại hội cổ đông, HĐQT, trình tự và thủ tục thông qua các quyết định quan trọng của công ty nhằm làm cho cổ đông, đặc biệt cổ đông là người lao động nắm được, tránh xảy ra những xung đột trong nội bộ công ty hoặc làm cho việc “làm chủ” của người lao động và cổ đông thiểu số chỉ là hình thức hoặc “dân chủ” quá trớn do họ không hiểu về công ty cổ phần và hoạt động của công ty. Tù đó đảm bảo cho hoạt động của các đơn vị thực sự hiệu quả. Tổ chức nghiên cứu nhằm phát hiện các vấn đề của quản trị công ty, tổ chức đào tạo, tập huấn về quản trị công ty cổ phần. Kiểm soát việc chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu để hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần không đúng pháp luật cho cổ đông khác. Có quy định cụ thể tiêu chuẩn giám đốc, nếu 2 năm lãnh đạo hoạt động SXKD không có lãi thì thay giám đốc mới để tạo sức ép nâng cao trình độ, trách nhiệm của giám đốc và động viên giám đốc. Thậm chí sẽ đi thuê những giám đốc điều hành giỏi ở bên ngoài về để điều hành công ty. Tổ chức đào tạo những cán bộ quản lý và chuyên môn giỏi để dần dần hình thành một đội ngũ có năng lực cho công ty. Ngoài ra công ty cần có chính sách, cơ chế khuyến khích những nhân tài thực sự. Muốn phát triển lâu dài và vững chắc công ty sẽ phải đầu tư củng cố những bộ phận hiện có nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường đồng thời phải có kế hoạch xây dựng những bộ phận hoạt động trong các lĩnh vực mới để có thể mở rộng thị trường, đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ của công ty. Trước mắt tiến hành các bước chuẩn bị để xây dựng một phòng chuyên môn mạnh khai thác thị trường, Củng cố tăng cường năng lực và khả năng chuyên môn cho phòng kinh doanh XNK, thông tin xúc tiến thương mại. Chuẩn bị các điều kiện để sẵn sàng Hội nhập kinh tế quốc tế, mở các văn phòng, chi nhánh đại diện ở hai đầu đất nước đó là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhằm mở rộng thị trường và đáp ứng yêu cầu phát triển của các công ty. Bên cạnh đó, các đơn vị phải tập trung đào tạo được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ khoa học kỹ thuật vừa có trình độ quản lý kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó công ty có thể phân cấp quản lý và giao quyền chủ động nhiều hơn nữa cho các trung tâm, chi nhánh trực thuộc và các bộ phận trong công ty. Cải tiến cơ chế tuyển chọn, đề bạt đánh giá người lãnh đạo và công tác quản lý của công ty. Trên thực tế, người lãnh đạo doanh nghiệp có sự khác biệt với cơ quan hành chính. Vì vậy, công ty nên xã hội hóa phương thức và tiêu chuẩn tuyển chọn, đề bạt lãnh đạo doanh nghiệp cũng như cơ chế đánh giá thành tích, hiệu quả kinh doanh. Cổ đông có thể căn cứ vào sự biến động giá trị cổ phiếu trên thị trường và thông tin công bố công khai của công ty để tìm hiểu thành tích, thông qua việc bán và mua và cổ phiếu để thực thi quyền hành thuộc sở hữu đối với công ty. Cổ đông và HĐQT căn cứ vào tình hình thực hiện các chỉ tiêu của công ty để đánh giá công việc, thành tích của công ty, nắm quyền bỏ phiếu tín nhiệm người lãnh đạo công ty. Cần bồi dưỡng nâng cao kiến thức cán bộ lãnh đạo cũng như các cổ đông về kinh tế thị trường, về cơ hội thách thức hội nhập. đặc biệt là các phương thức xử lý các vấn đề xảy ra sau quá trình CPH. Khuyến khích các cán bộ tham gia thi tuyển giám đốc để được lựa chọn đảm nhận chức trách lãnh đạo trong công ty. Khuyến khích và có các giải pháp đối với các cán bộ thiếu năng lực, giúp họ tự nguyện xin rút khỏi ban lãnh đạo cũ của công ty để được hưởng sự phân công công tác cho phù hợp ở các bộ phận khác. Đồng thời cần nghiên cứu giải quyết thỏa đáng quyền lợi đối với các cán bộ lãnh đạo công ty, đặc biệt là khi các đối tượng này không tiếp tục đảm trách các chức vụ này tại công ty. Trong thời gian tới cần khẩn trương xây dựng, hoàn thiện và áp dụng rộng rãi cơ chế thuê giám đốc điều hành từ những người có trình độ chuyên môn, trách nhiệm và các năng lực cần thiết nhằm đảm bảo tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Thậm chí có thể thuê những nhà quản lý, giám đốc có trình độ cao của nước ngoài phù hợp với Bộ luật Lao động và các thỏa thuận tự nguyện khác. Cần nâng cao hiệu quả cơ cấu quản lý của các đơn vị. Một cơ cấu quản lý có hiệu quả được thể hiện ở sự hợp tác lâu dài giữa những người có quan hệ lợi ích trên cơ sở cân đối trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích. Trước mắt, mấu chốt của tính sáng tạo trong cơ cấu quản lý các đơn vị là đồng thời với việc xác lập quyền tài sản pháp nhân, cần kiến lập cơ chế ràng buộc và giám sát trên hai mặt: Thông qua việc bố trí những người có quan hệ lợi ích trong nội bộ đơn vị để nâng cao hiệu quả của cơ cấu quản lý đơn vị. Trên cơ sở làm cho lợi nhuận và rủi ro của con người cân xứng với nhau, hình thành cơ chế ràng buộc giữa người sở hữu, người kinh doanh và những người có quan hệ lợi ích khác nhau, vừa bảo vệ quyền lợi của cổ đông với tư cách là chủ sở hữu, quyền tự chủ đầy đủ là chủ thể kinh doanh của đơn vị. Đồng thời, có thể kiểm soát và ràng buộc người trong nội bộ công ty lợi dụng sự trao quyền của người sở hữu, có hành vi trục lợi để tối đa hóa lợi ích của mình. Các công ty phải thông qua việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng để nâng cao hiệu suất của cơ cấu quản trị bên ngoài công ty. Sự tồn tại và cạnh tranh hoàn hảo của thị trường sản phẩm và thị trường vốn không chỉ làm cho người chủ sở hữu và người có quan hệ lợi ích có được thông tin trung thực kịp thời từ trên xuống về thành tích, hiệu quả kinh doanh của đơn vị, hình thành các hình thức xử lý hành vi vi phạm của người đại diện, mà hơn thế còn có thể thông qua cơ chế mạnh thắng, yếu bị đào thải, để kích thích và ràng buộc hành vi của người kinh doanh. 2.2.2. Giải pháp về chiến lược sản xuất - kinh doanh Các doanh nghiệp CP thương mại của thành phố Đà Nẵng khi xây dựng chiến lược kinh doanh, trước hết phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố Đà Nẵng, của cả nước, của ngành mình về lĩnh vực thương mại dịch vụ. Khi xây dựng chiến lược các doanh nghiệp phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của đơn vị, về tiềm năng lợi thế, phù hợp với doanh nghiệp. Đối với các DN CP trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng, giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển SXKD giai đoạn (2006 - 2010) là phải tổ chức tốt và nâng cao năng lực hoạt động của các DN trong lĩnh vực thương mại; tổ chức tốt hệ thống phân phối, khôi phục vai trò trung tâm lưu chuyển, phát luồng và buôn bán hàng hóa của khu vực Miền Trung - Tây nguyên, làm đầu mối, trung tâm XNK của khu vực, trở thành điểm đầu cũng như điểm cuối của hành lang kinh tế Đông - Tây và giao lộ xuyên Á; tham gia xây dựng và triển khai dự án thương mại điện tử; theo dõi việc phối hợp của thành phố, của Sở thương mại với Bộ thương mại về việc triển khai sàn giao dịch điện tử để khi có đủ điều kiện tham gia. Đối với phát triển thị trường bán lẻ, các DN cần thực hiện chủ trương của thành phố tích cực xây dựng các trung tâm bán lẻ có quy mô lớn, có tính chuyên nghiệp cao, phù hợp với sinh hoạt đô thị..., đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, hướng mạnh xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng giao lưu buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới, tập trung phát triển thương hiệu, sản phẩm hàng hóa, quảng bá sản phẩm hàng hóa địa phương... Trong quá trình kinh doanh phải chú ý đến môi trường kinh doanh vì môi trường ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Mọi sự thay đổi dù nhỏ của môi trường cũng dẫn tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Chính vì vậy khi hoạt đông KD các đơn vị phải xây dựng cho mình chiến lược, đây là căn cứ định hướng cho hoạt động KD lâu dài của đơn vị. Không những thế, xây dựng được chiến lược KD đúng thì doanh nghiệp có thể lường trước được các tình huống có thể xảy ra kể cả những rủi ro và thách thức, đảm bảo cho doanh nghiệp SXKD hiệu quả ổn định và phát triển lâu dài. - Về xây dựng chiến lược kinh doanh: Xây dựng chiến lược kinh doanh là cách kết hợp tiềm năng có hạn về tài chính và con người chuyển thành lợi nhuận tối đa và thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. Do đó, yêu cầu đặt ra khi xây dựng chiến lược KD công ty phải xây dựng chiến lược KD ngắn hạn và chiến lược kinh doanh dài hạn phải đạt được mục tiêu cụ thể là gì, kế hoạch để công ty tồn tại và phát triển. Khi xây dựng chiến lược kinh doanh phải thể hiện bằng một chương trình hành động tổng quát hướng tới đạt được mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh mang tính định hướng, không cụ thể chi tiết, để thực hiện nó cần phải có kế hoạch và hoạt động tác nghiệp khác để hỗ trợ. Quá trình kinh doanh phải xác định được mục tiêu cụ thể cho doanh nghiệp theo các hướng sau: Kinh doanh phải đảm bảo an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro từ thị trường bên ngoài.Gắn việc mở rộng thị trường để công ty phát triển ngày càng lớn mạnh với nâng cao hiệu quả kinh doanh.Tăng cường đầu tư đầy đủ tiềm lực, sức mạnh trên một số lĩnh vực kinh doanh chính để điều tiết thị trường khi có biến động mạnh phải đề ra giải pháp tài chính chủ động, thích ứng với quá trình cạnh tranh. Từ những định hướng, mục tiêu cụ thể công ty phải theo đuổi là: tăng doanh thu, tăng đầu tư, tăng lợi nhuận. Mục tiêu quan trọng nhất, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty là doanh số và lợi nhuận. Với mục tiêu đề ra cho công ty là tăng cường hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý, phương thức công cụ cạnh tranh để đạt được mục đích kinh doanh. Bên cạnh xây dựng chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty phải xây dựng chiến lược cho từng bộ phận, chi nhánh, từng trung tâm, từng chức năng khác nhau như: chiến lược tài chính, chiến lược nhân sự, chiến lược marketing. Các chiến lược này có mối quan hệ mật thiết với nhau để tìm kiếm thị trường, lĩnh vực, mặt hàng kinh doanh mới sao cho mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất cho doanh nghiệp. Ngoài việc hình thành một chiến lược kinh doanh chung cho công ty, cũng nên vạch ra những chiến lược riêng biệt về chức năng khác nhau hoặc về từng quan hệ bổ trợ nhau. Trong dó các chiến lược thường được các công ty quan tâm nhất là: chiến lược tìm kiếm chi phí thấp hơn chi phí cạnh tranh; tìm kiếm thị trường mới; tìm kiếm cách thức củng cố hình ảnh cũng như nhãn hiệu thương mại thông qua chất lượng dịch vụ cho khách hàng hoặc quảng cáo; tìm kiếm các phân đoạn thị trường, phân đoạn khách hàng riêng biệt của doanh nghiệp. Nói chung, xây dựng chiến lược nhằm giảm thấp chi phí và khai thác thị trường mới có ý nghĩa thời sự và thiết yếu đối với các công ty trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra chiến lược tạo và duy trì uy tín trên thị trường cũng không kém phần quan trọng đối với công ty. Để xây dựng một chiến lược kinh doanh tổng thể, cùng với các chiến lược của bộ phận, chi nhánh, trung tâm đảm bảo yêu cầu chính xác và hiệu quả trong cạnh tranh công ty cần phải lựa chọn, áp dụng chiến lược cạnh tranh thích hợp cho mình. Hoạt động kinh doanh công ty phải dựa vào sức lực của chính mình, dựa vào những khách hàng, các đối thủ cạnh tranh để lựa chọn và áp dụng chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả. Việc hoạch định chiến lược là công việc rất khó khăn đối với công ty, đòi hỏi phải tập trung trí tuệ, do vậy hoạch định chiến lược cần có được sự trợ giúp của chuyên gia, các nhà hoạch định có kinh nghiệm thực hiện. Khi hoạch định chiến lược cần phải tuân thủ các bước sau: Bước 1: Phân tích tình hình nội bộ công ty Bước 2: Dự báo môi trường kinh doanh tương lai Bước 3: Xác định chức năng, lĩnh vực hoạt động và mục tiêu cụ thể Bước 4: Hoạch định chiến lược đối với mỗi hoạt động chức năng và hoạch định chiến lược đối với những hoạt động liên đới hỗ trợ Bước 5: Xây dựng được chiến lược kinh doanh cho công ty. Phân tích tình hình nội bộ công ty cho phép đánh giá khả năng của công ty có thể nắm bắt và thống trị được các cơ hội kinh doanh sắp tới hay không. Vì vậy, phải đánh giá đúng điểm mạnh, điểm yếu của công ty trên cơ sở phân tích kỹ càng những lợi thế cũng như những hạn chế trong tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác. Đáng chú ý là: trong chiến lược kinh doanh phải đặc biệt quan tâm đến việc khai thác những ưu thế của công ty. Nói đến ưu thế của công ty là bao hàm toàn bộ những khả năng về tài sản hiện có hay tiềm tàng của công ty, chủ yếu thuộc về vật lực, nhân lực và các lợi thế so sánh khác như uy tín, danh tiếng, vị trí địa lý, điều kiện về thông tin. Như vậy, có thể đánh giá không chỉ những lợi thế truyền thống, hữu hình mà cả những lợi thế vô hình. Đối với đội ngũ lao động thực hành tác nghiệp, công ty phân tích tiềm năng dựa trên trình độ chuyên môn. Đội ngũ cán bộ, nhân v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại của thành phố Đà Nẵng.pdf
Tài liệu liên quan