Tài liệu Luận văn Những vấn đề lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Luận văn
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN
TRÚC THƯỢNG TẦNG
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đang là một đất nước
có được nhiều sự chú ý từ các nước trên thế giới.
Đó là đất nước Việt Nam đã và đang trên con đường đổi mới một cách toàn
diện và ngày càng sâu sắc về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành
nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặtđó của đời sống xã
hội được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong
đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể v...
14 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Những vấn đề lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN
TRÚC THƯỢNG TẦNG
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đang là một đất nước
có được nhiều sự chú ý từ các nước trên thế giới.
Đó là đất nước Việt Nam đã và đang trên con đường đổi mới một cách toàn
diện và ngày càng sâu sắc về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành
nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặtđó của đời sống xã
hội được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong
đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau.
Tính chất đan xen - quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế
sôi động, phong phú, vừa mang tình phức tạp trong quá trình thực hiện định
hướng xã hội. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản
chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến
trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như
vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng đòi hỏi của cơ sở hạ tầng.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1 Khái niệm
1.1 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Kết cấu của cơ sở hạ tầng gồm 3 bộ phận
-Quan hệ sản xuất tàn dư
-Quan hệ sản xuất thống trị
-Quan hệ sản xuất mầm mống
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị.
Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã
hội mới. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo ,
chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống
kinh tế- xã hội. Bới vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi
quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư
và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
1.2. Kiến trúc thượng tầng
Là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan
hệ nội tại của kiến trúc thượng tầng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
Trong kết cấu kiến trúc thượng tầng thì Nhà nước là bộ phận quan trọng
nhất. Bởi vì, Nhà nước nắm trong tay sưc mạnh kinh tế và bạo lực, nó chi phối
3
mọi bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng và các bộ phận này phải phục ting
nó.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
xã hội.
2.1 Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung, tính chất kết cấu của kiến trúc thượng
tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra
sao, giai cấp đại diện cho nó như thế nào thì hệ thống thiết chế chính trị pháp
quyền, đạo đức, triết học v..v.. và quan hệ của các thể chế tương ứng với các
thiết chế ấy cũng như vậy. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng thể
hiện ở những mặt sau:
-Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định sự hình thành kiến trúc thượng tầng,
cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.
-Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng trong một
hình thái kinh tế xã hội nhật định, khi cơ sở hạ tầng biến đổi thì kiến trúc
thượng tầng cũng biến đổi theo.
-Cơ sở hạ tầng quyết định sự thay đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng.
Khi cơ sở hạ tầng nào mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất
theo, khi cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì nó lại sản sinh ra kiến trúc thượng tầng
mới phù hợp với nó.
Ví dụ cơ chế bao cấp tương ướng với nó là Nhà nước xơ cứng, mệnh lệnh
quan liêu
Cơ chế thị trường tương ứng với nó là Nhà nước năng động, hoạt động có
hiệu quả
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mọi
hình thái KTXH.
2.2 Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng
4
Kiến trúc thượng tầng củng cố, bảo vệ duy trì CSHT sinh ra nó và đấu tranh
chóng lại CSHT và KTTT đối lập với nó.
Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra nhưng sau khi xuất hiện nó
có tính độc lập tương đối do đó nó tác động lại cơ sở hạ tầng thể hiện ở những
mặt sau:
-Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì củng cố và
hoàn thiện cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó vàtìm cách xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ, kiến
trúc thượng tầng cũ. Nó luôn luôn giữ lại và kế thừa những cái cũ đã làm tiền đề
cho cái mới.
Ví du: Nhà nước tư sản hiện đại củng cố, bảo vệ, phát triển sở hữu tư nhân
tư liệu sản xuất. Còn Nhà nước vô sản thì bảo vệ, phát triển sở hữu xã hội (tập
thể).
Trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng thì Nhà nước là yếu tố cơ bản có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với cơ sở hạ tầng. Vai trò của Nhà nước tác động
đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở 3 chiều hướng. Bằng công cụ pháp luật, bằng
sức mạnh kinh tế và sức mạng bạo lực của Nhà nước có thể tác động làm cho
kinh té phát triển theo chiều hướng tất yếu.
Nhà nước là yếu tố tác động trở lại mạnh mẽ nhất đối với CSHT vì nó là
công cụ bạo lực tập trung trong tay giai cấp thống trị.
Nó không chỉ thực hiện chức năng kinh tế bằng hệ thống chính sách kinh tế
- xã hội đúng, nó còn có tác dụng trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng phải thông qua thì mới có
hiệu lực đối với CSHT.
Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại CSHT theo hai chiều
-Tích cực: Khi KTTT tác động cùng chiều với những quy luật vận động của
CSHT thì nó thúc đẩy CSHT phát triển. Do đó, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã
hội.
5
-Tiêu cực: Khi KTTT tác động ngược chiều với những quy luật vận động
của CSHT, khi nó là sản phẩm của quan hệ kinh tế lỗi thời thì nó cản trỏ, kìm
hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Do đó, nó kìm hãm sự phát triển kinh tế.
6
PHẦN II
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG
VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN ở nước ta , cần vận dụng quán triệt quan hệ biện chứng giữ cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế đa thành phần.
Tính chất đan xen, quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế
sống động, phongphú, vừa mang tính phưvs tạp trong quá trình thực hiện định
hướng XHCN. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú của nền kinh
tế, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là
kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở
kinh tế. Không phải đa thành phần kinh tế thì phải đa đảng, đa nguyên chính trị,
nhưng nhất thiết kiến trúc thượng tầng phải được đổi mới theo hướng đổi mới
tổ chức , đổi mới bộ máy, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa
dạng hoá các tổ chức hiệp họi, đoàn thể… mở rộng dân chủ, nhằm quy tụ sức
mạnh của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chỉ có như vậy kiến
trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cơ sở hạ tầng.
Và như vậy chỉ cần một đảng là Đảng cộng sản lãnh đạo vẫn thực hiện được
mực tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
1. Đặc điểm hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng
sản chủ nghĩa.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa không hình
thành tự phát trong xã hội cũ, mà hình thành tự giác sau khi giai cấp vô sản
giành chính quyền và phát triển hoàn thiện “Suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản ”.
7
Muốn có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa. Trước
hết giai cấp vô sản phải dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước cũ, lập nên
nhà nước vô sản. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản tiến hành
quốc hữu hoá, tịch thu, trưng thu nhà máy, xí nghiệp của giai cấp tư sản nhằm
tạo ra cơ sở kinh tế ban đầu của chủ nghĩa xã hội.
Việc nhà nước chuyên chính vô sản phải ra đời trước để tạo điều kiện và
làm công cụ, phương tiện cho quần chúng nhân dân, tiến hành triệt để quá trình
ấy hoàn toàn phù hợp với qui luật khách quan của xã hội. Đó là sự phát triển
khách quan trong quá trính sản xuất vật chất của xã hội, đòi hỏi phải có một cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tiến bộ hơn thay thế cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa lỗi thời phản động. Tuynhiên, nhà nước
chuyên chính vô sản có thật sự vững mạnh hay không lại hoàn toàn phụ thuộc
vào sự phát triển của sự phát triển của cơ sở hạ tầng cộng sản chủ nghĩa.
2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng XHCN khác căn bẳn với cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng.
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất
đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu
bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình
sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột .
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội
chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới: của dân do dân và vì dân. Pháp luật xã hội chủ
nghĩa là công cụ để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa
học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.
8
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp. Cho nên cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi vì,
cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần
đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng
có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá
trình mang tính cách mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh gay
go, quyết liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Chính vì những lý do đó mà nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến
với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, đi lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua
chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa ) chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao
gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản
xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa
thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa
cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà
nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong
đó biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền
sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới
hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các
9
hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
cơ sở kinh tế hợp lý. Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ
khoá VII, Đảng ghi rõ “phải tập chung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã
được chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao
thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế ”. Đồng
thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ:”Tư nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng,
toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục
của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít. Bởi vậy, trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởnh chủ đạo trong đời sống tinh thần
của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công
nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự
của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động
của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của
dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo ”. Như vậy, tất cả các
10
tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông tồn tại như một
mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền
lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước
giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều
chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra
trong suốt thời kỳ quá độ.
3. Một số kiến nghị nhằm vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi
mới ở nước ta
Đổi mới kinh tế phải đi liền với đổi mới chính trị.
Kinh tế và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì kinh tế
giữ vai trò quyết định chính trị, vì.
Kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, còn chính trị là biểu hiện tập trung
của kinh tế.
Cơ sở kinh tế với tính cách là kết cấu hiện thực sản sinh ra hệ thống chính trị
tương ứng với quy định hệ thống đó. Nói cách khác, tính chất xã hội, giai cấp
của chính trị bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và gia cấp của cơ sở hạ
tầng. Từ đó dẫn đến ự biến đổi căn bản của kinh tế lẫn chính trị.
Sự tác động của chính trị đói với kinh tế: Chính trị được biểu hiện tập trung
bằng nhà nước, có sức mạnh vật chất tương ứng. Nhà nước có tác dụng quyết
định năng lực hiện thực hoá nhẵng tất yếu kinh tế. Ănghen nói" Bạo lực ( quyền
lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế".
Sau khi giành được chính quyền, bất cứ giai cấp nào muốn thống trị vững
chắc toàn xã hội, thì giai cấp đó phải đưa ra đường lối mở rộng, phát triển kinh
tế trên quy mô toàn xã hội để tong bước thống trị kinh tế đối với toàn xã hội.
Kinh tế vững mạnh, nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại
11
tạo thêm phương tiện vậtchất để củng cố địa vị kinh tế xã hội của giai cấp thống
trị.
Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, chúng ta chủ chương tiến
hành đổi mới đồng bộ phải kết hợp ngay từ đầu, đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội. Trong đó, đổi mới kinh tế là trọng
tâm, còn đổi mới chính trị thúc đẩy đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế chính là đổi
mới ở lĩnh vực CSHT, đó là đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý,
phương thức phân phối, quy trình công nghệ…nhằm làm cho nền kinh tế nước
ta phát triển hoà nhập với trình độ phát triển kinh tế thế giới.
Đổi mới kinh tế là tiền đề cho đổi mới chính trị, nó tạo ra nền tảng vật chất
cho ổn định về chính trị xã hội, nó làm nảy sinh nhu cầu đổi mới hệ thống chính
trị, làm cho nó năng động và trở thành động lực thực sự của sự phát triển kinh
tế.
Đổi mới chính trị phải xuất phát từ yêu cầu đổi mới kinh tế, phải phù hợp
với đổi mới kinh tế.
Đổi mới chính trị chính là đổi mới ở bộ phận quan trọng của KTTT, đổi mới
chính trị thể hiện ở đổi mới tổ choc, đổi mới bộ máy, phân cấp lãnh đạo của
Đảng, dân chủ hoá trước hết từ trong Đảng.
Đổi mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế
Khi đường lối chính trị, thiết chế chính trị được đổi mới phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế thì chính trị trở thành định hướng cho phát triển kinh tế.
Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự để phát triển kinh tế và
chính trị còn đóng vai trò can thiệp điều tiết, khắc phục những mặt trái do đổi
mới kinh tế đưa đến.
12
KẾT LUẬN
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một
bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Cho nên việc giải quyết củng cố cơ sở
hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là cả một
quá trình rất phức tạp. Mọi quan niệm, mọi tưởng đơn giản đều không phù hợp
với thực tế, nhất là chúng ta đang ở chặng đầu tiên của của thời kỳ quá độ.
Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ: đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa,
xây dựng cơ sở hạ tầng chủ nghĩa xã hội, liên tục tròn suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH với những hình thức và bước đi thích hợp.
Đảng ta đã sáng suốt khi đề ra bước đầu thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện bằng cách kết hợp chặt chẽ đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Em tin rằng với nhận thức đúng đắn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đảng ta
nhất định lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi hoàn toàn, dưới đà phát
triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay, công cuộc đổi mới Đảng lãnh đạo nhất
định sẽ đưa nước ta lên ngang tầm với các nước đang phát triển trong khu vực
và thế giới.
13
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin
2. Hỏi đáp Triết học
3. Văn kiến Đại hội Đảng VII, VIII
4. Đổi mới kinh tế ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp.
5. Và một số tạp chí khác…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề Tài NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG.pdf