Tài liệu Luận văn Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân tích hoạt động xuất khẩu: Luận văn
Đề Tài:
Những vấn đề lý luận cơ bản
về hoạt động xuất khẩu và phõn tớch
hoạt động xuất khẩu
Luận văn tốt nghiệp k36 - d5
Hà nội 2004
1
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. Khỏi niệm về hoạt động xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh
doanh xuất khẩu
1/ Khỏi niệm xuất khẩu hàng hoỏ, hiệu quả xuất khẩu và đặc điểm
hoạt động kinh doanh xuất khẩu
1.1/ Khỏi niệm về xuất khẩu hàng hoỏ
Xuất khẩu hàng hoỏ là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà
hàng hoỏ dịch vụ của quốc gia này bỏn cho quốc gia khỏc.
* Xuất khẩu hàng hoỏ thường diễn ra dưới cỏc hỡnh thức sau:
+ Hàng hoỏ nước ta bỏn ra nước ngoài theo hợp đồng thương mại
được ký kết của cỏc thành phần kinh tế của nước ta với cỏc thành phần
kinh tế ở nước ngoài khụng thường trỳ trờn lónh thổ Việt Nam.
+ Hàng hoỏ mà cỏc đơn vị, dõn cư nước ta bỏn cho nước ngoài qua
cỏc đường biờn giới, trờn bộ, trờn biển, ở hải đảo và trờn tuyến hàn...
106 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân tích hoạt động xuất khẩu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Những vấn đề lý luận cơ bản
về hoạt động xuất khẩu và phân tích
hoạt động xuất khẩu
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
1
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh
doanh xuất khẩu
1/ Khái niệm xuất khẩu hàng hoá, hiệu quả xuất khẩu và đặc điểm
hoạt động kinh doanh xuất khẩu
1.1/ Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà
hàng hoá dịch vụ của quốc gia này bán cho quốc gia khác.
* Xuất khẩu hàng hoá thường diễn ra dưới các hình thức sau:
+ Hàng hoá nước ta bán ra nước ngoài theo hợp đồng thương mại
được ký kết của các thành phần kinh tế của nước ta với các thành phần
kinh tế ở nước ngoài không thường trú trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Hàng hoá mà các đơn vị, dân cư nước ta bán cho nước ngoài qua
các đường biên giới, trên bộ, trên biển, ở hải đảo và trên tuyến hàng
không.
+ Hàng gia công chuyển tiếp
+ Hàng gia công để xuất khẩu thông qua một cơ sở ký hợp đồng gia
công trực tiếp với nước ngoài.
+ Hàng hoá do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán cho
người mua nước ngoài nhưng giao hàng tại Việt Nam
+ Hàng hoá do các chuyên gia, người lao động, học sinh, người du
lịch mang ra khỏi nước ta.
+ Những hàng hoá là quà biếu, đồ dùng khác của dân cư thường trú
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
2
nước ta gửi cho thân nhân, các tổ chức, huặc người nước ngoài khác.
+ Những hàng hoá là viện trợ, giúp đỡ của chính phủ, các tổ chức và
dân cư thường trú nước ta gửi cho chính phủ, các tổ chức, dân cư nước
ngoài.
1.2 / Hiệu quả xuất khẩu
Trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và nhà nước
luôn coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh “nhiệm vụ ổn định và phát
triển kinh tế cũng như sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công ngiệp
hoá của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần
vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”. Đảm bảo
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế xuất khẩu là mối quan tâm hàng
đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và cuả mỗi doanh nghiệp nói riêng.
Hiệu quả hoạt động xuất khẩu chủ yếu được thẩm định bởi thị
trường, là phương hướng cơ bản để xác định phương hướng hoạt động
xuất khẩu. Tuy vậy hiệu quả đó là gì? như thế nào là có hiệu quả?
Không phải là vấn đề đã được thống nhất. Không thể đánh giá được mức
độ đạt được hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu khi mà bản thân
phạm trù này chưa được định rõ bản chất và những biểu hiện của nó. Vì
vậy, hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu cũng như mục
tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế xuất khẩu của mỗi thời kỳ là vấn đề có ý
nghĩa thiết thực không những về lý luận thống nhất quan niệm về bản
chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu mà còn là cơ sở để xác định các tiêu
chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu, xác định yêu cầu
đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu của kinh tế ngoại
thương.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
3
Cho đến nay còn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về hiệu quả
kinh doanh nói chung và hiệu quả xuất khẩu nói riêng. Quan niệm phổ
biến là hiệu quả kinh tế xuất khẩu là kết quả của quá trình sản xuất trong
nước, nó được biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi
phí bỏ ra. Trong thực tiễn cũng có người cho rằng hiệu quả kinh tế xuất
khẩu chính là số lợi nhuận thu được thông qua xuất khẩu. Những quan
niệm trên bộc lộ một số mặt chưa hợp lý.
Một là, đồng nhất hiệu quả và kết quả. Hai là, không phân định rõ
bản chất và tiêu chuẩn hiệu quả xuất khẩu với các chỉ tiêu biểu hiện bản
chất và tiêu chuẩn đó.
Cần phân biệt rõ khái niệm “kết quả” và “hiệu quả”. Về hình thức
hiệu quả kinh tế là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa
cái phải bỏ ra và cái thu về được. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính
toán và phân tích hiệu quả. Tự bản thân mình, kết quả chưa thể hiện nó
tạo ra ở mức nào và với chi phí là bao nhiêu.
Mỗi hoạt động trong sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ nói
riêng là phải phấn đấu đạt được kết quả, nhưng không phải là kết quả bất
kỳ mà phải là kết quả có mục tiêu và có lợi ích cụ thể nào đó. Nhưng kết
quả có được ở mức độ nào với giá nào đó chính là vấn đề cần xem xét,
vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết qủa. Vì vậy, đánh giá hoạt
động kinh tế xuất khẩu không chỉ là đánh giá kết quả mà còn là đánh giá
chất lượng của hoạt động để tạo ra kết quả đó. Vấn đề không phải chỉ là
chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng hàng hoá mà còn là với chi
phí bao nhiêu để có được kim ngạch xuất khẩu như vậy. Mục đích hay
bản chất của hoạt động xuất khẩu là với chi phí xuất khẩu nhất định có
thể thu được lợi nhuận
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
4
lớn nhất. Chính mục đích đó nảy sinh vấn đề phải xem lựa chọn cách
nào để đạt được kết quả lớn nhất.
Từ cách nhìn nhận trên ta thấy các chỉ tiêu lượng hàng hoá xuất
khẩu, tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu chỉ là những chỉ tiêu thể hiện kết
quả của hoạt động xuất khẩu chứ không thể coi là hiệu quả kinh tế của
hoạt động xuất khẩu được, nó chưa thể hiện kết quả đó được tạo ra với
chi phí nào
Nếu chỉ dừng lại ở đó thì còn rất trìu tượng và chưa chính xác. Điều cốt
lõi là chi phí cái gì, bao nhiêu và kết quả được thể hiện như thế nào.
trong hoạt động xuất khẩu, kết quả đầu ra thể hiện bằng số ngoại tệ thu
được do xuất khẩu đem lại và chi phí đầu vào là toàn bộ chi phí doanh
nghiệp đã bỏ ra nhưng có liên quan đến hoạt động xuất khẩu bao gồm
chi phí mua huặc chi phí sản xuất gia công hàng xuất khẩu, chi phí vận
chuyển, bốc dỡ, bảo quản, chi phí sơ chế, tái chế hàng xuất khẩu và
những chi phí trực tiếp huặc gián tiếp khác gắn với hợp đồng xuất khẩu.
Từ những nhận xét trên ta có công thức tính hiệu quả xuất khẩu như sau:
2/ Các phương thức kinh doanh xuất khẩu
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp:
Hiệu quả xuất
kh u
Doanh thu
ngoại tệ do
xu tkh u đem
Chi phí liên
quan đến
ho t đ ng
=
Hiệu quả kinh tế =
Kết quả đầu
ra
Chi phí đầu
v o
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
5
Xuất khẩu trực tiếp là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị
tham gia hoạt động xuất khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp
đồng với nước ngoài; trực tiếp giao nhận hàng và thanh toán tiền hàng.
Các doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về
tài chính, có quyền tìm kiếm bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn
phương thức thanh toán và thị trường, xác định phạm vi kinh doanh
nhưng trong khuôn khổ chính sách quản lý xuất khẩu của nhà nước.
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu uỷ thác là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị
tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu không đứng ra trực tiếp đàm
phán với nước ngoài mà phải nhờ qua một đơn vị xuất khẩu có uy tín
thực hiện hoạt động xuất khẩu cho mình.
Đặc điểm hoạt động xuất khẩu uỷ thác là có hai bên tham gia trong
hoạt động xuất khẩu:
+ Bên giao uỷ thác xuất khẩu (bên uỷ thác): bên uỷ thác là bên có đủ
điều kiện bán hàng xuất khẩu.
+ Bên nhận uỷ thác xuất khẩu (bên nhận uỷ thác): bên nhận uỷ thác
xuất khẩu là bên đứng ra thay mặt bên uỷ thác ký kết hợp đồng với bên
nước ngoài. Hợp đồng này được thực hiện thông qua hợp đồng uỷ thác
và chịu sự điều chỉnh của luật kinh doanh trong nước. Bên nhận uỷ thác
sau khi ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu sẽ đóng vai trò là một bên của
hợp đồng mua bán ngoại thương.
Do vậy, bên nhận uỷ thác sẽ phải chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý
của luật kinh doanh trong nước, luật kinh doanh của bên đối tác và luật
buôn bán quốc tế.
Theo phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp giao
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
6
uỷ thác giữ vai trò là người sử dụng dịch vụ, còn doanh nghiệp nhận uỷ
thác lại giữ vai trò là người cung cấp dịch vụ, hưởng hoa hồng theo sự
thoả thuận giữa hai bên ký trong hợp đồng uỷ thác.
* Xuất khẩu theo hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu theo hiệp định của nhà nước
ký kết với nước ngoài. Các doanh nghiệp thay mặt nhà nước ký các hợp
đồng cụ thể và thực hiện các hợp đồng đó với nước bạn.
*Xuất khẩu ngoài hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu không nằm trong hiệp định
của nhà nước phân bổ cho doanh nghiệp.
3/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có các đặc điểm sau:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh xuất
khẩu bao giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá trong
hoạt động kinh doanh nội địa do khoảng cách địa lý cũng như các thủ
tục phức tạp để xuất khẩu hàng hoá. Do đó, để xác định kết quả hoạt
động kinh doanh xuất khẩu, người ta chỉ xác định khi hàng hoá đã luân
chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện xong một thương vụ ngoại
thương.
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu:
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu bao gồm nhiều loại, trong đó xuất
khẩu chủ yếu những mặt hàng thuộc thế mạnh trong nước như: rau quả
tươi, hàng mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ …
Thời điểm giao, nhận hàng và thời điểm thanh toán:
Thời điểm xuất khẩu hàng hoá và thời điểm thanh toán tiền hàng
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
7
không trùng nhau mà có khoảng cách dài.
Phương thức thanh toán:
Trong xuất khẩu hàng hoá, có nhiều phương thức thanh toán có thể
áp dụng được tuy nhiên phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng
là phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Đây là phương thức thanh
toán đảm bảo được quyền lợi của nhà xuất khẩu.
Tập quán, pháp luật:
Hai bên mua, bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập
quán kinh doanh khác nhau, do vậy phải tuân thủ luật kinh doanh cũng
như tập quán kinh doanh của từng nước và luật thương mại quốc tế.
II. Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế
1/ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ Công
Nghiệp Hoá đất nước.
Đất nước ta đang từng bước tiến tới Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại
Hoá đất nước. Đây là một nhiệm vụ cần thiết đáp ứng yêu cầu của Đảng
ta là đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu từng bước phát triển
nền kinh tế ngày một bền vững ổn định, xoá dần khoảng cách về kinh tế
giữa nước ta và các nước trên thế giới.
Nhìn chung các ngành sản xuất trong nước vẫn chưa thể đáp ứng
được yêu cầu của quá trình hiện đaị hoá chính vì vậy mà chúng ta cần
thiết phải nhập khẩu một số trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại từ
nước ngoài vào Việt Nam. Nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu có thể
được hình thành từ các nguồn sau:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài
+ Kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ
+ Vay nợ, nhận viện trợ
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
8
+ Xuất khẩu hàng hoá
Các nguồn vốn ngoại tệ như: đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay nợ,
kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ không đóng góp nhiều lắm vào việc tăng
thu ngoại tệ, chỉ có xuất khẩu hàng hoá là nguồn thu ngoại tệ lớn của đất
nước, nguồn thu này dùng để nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại phục
vụ công nghiệp hóa và trang trải những chi phí cần thiết khác cho quá
trình này, xuất khẩu không những nâng cao được uy tín xuất khẩu của
các doanh nghiệp trong nước mà còn phản ánh năng lực sản xuất hiện
đại của chính nước đó.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội
đầu tư, vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi
các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn
vốn duy nhất để trả nợ – trở thành hiện thực. Điều này càng nói lên vai
trò vô cùng quan trọng của xuất khẩu.
2/ Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy
sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô
cùng mạnh mẽ. Đó chính là thành quả của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình Công
Nghiệp Hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất
yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu
đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là: Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất
vượt quá tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế nước ta còn
quá lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ
tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
9
khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi
cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm.
Hai là: Coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan
trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản
xuất thể hiện ở chỗ:
Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội
phát triển. Khi chúng ta xuất khẩu một mặt hàng nào đó kéo theo đó là
sự phát triển các ngành khác phục vụ cho việc xuất khẩu mặt hàng này.
Chẳng hạn khi xuất khẩu các sản phẩm dệt may thì ngành sản xuất
nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm cũng sẽ phát triển theo quy mô
xuất khẩu sản phẩm may. Chính điều này làm cho cơ cấu kinh tế thay
đổi một cách đồng bộ không có sự mất cân đối giữa các ngành với nhau.
Như vậy xuất khẩu đã góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế phù hợp với
xu thế phát triển của thế giới.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần
cho sản xuất phát triển và ổn định.
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường, nâng cao
khả năng chiếm lĩnh thị trường từ đó thu lợi nhuận cao. Mặt khác mở
rộng thị trường xuất khẩu là giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa
khi thị trường này có sự biến động ảnh hưởng không tốt đến việc kinh
doanh của doanh nghiệp và tăng khả năng thoả mãn nhu cầu cho người
tiêu dùng.
Thị trường nước ngoài hầu như là những thị trường có sức tiêu thụ
hàng hoá lớn hơn so với nhu cầu tiêu dùng trong nước, chính vì vậy mọi
doanh nghiệp đều luôn cố gắng thoả mãn tốt nhất nhu cầu này để tăng
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
10
doanh thu đạt lợi nhuận cao nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng
lớn, doanh nghiệp phảI chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp
khác. trong điều kiện như vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, nâng cao
năng lực sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng bằng cách nhập
các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Như vậy xuất khẩu góp phần phát triển sản xuất ngày một hiện đại hơn
và ổn định hơn.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho
sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến
xuất khẩu là điều kiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ
bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước,
tạo ra năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu chính là việc hàng hoá được tiêu dùng ở nước ngoài,
chịu sự cạnh tranh về giá cả, chất lượng.
Doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng trên thị trường thì phải có kế
hoạch sản xuất kinh doanh sao cho có thể tận dụng hết mọi năng lực sản
xuất hiện có để tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng được
đòi hỏi của người tiêu dùng về tính năng công dụng của sản phẩm càng
nhiều càng tốt nhưng lại phảI có mức giá cả hợp lý để vừa có thể cạnh
tranh về giá với các doanh nghiệp khác vừa mang lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp luôn cố gắng để sản
xuất có hiệu quả tăng cường đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị
sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
11
Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng có nghĩa là nền kinh tế cũng
ngày một đi lên, như vậy xuất khẩu không chỉ đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp mà còn làm cho nền kinh tế ngày một phát triển và ổn
định.
3/ Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc
làm và cải thiện đời sống của người dân.
Hiện nay việc hàng trăm triệu người lao động đang đổ xô về thành
phố kiếm việc làm đã gây ra nhiều vấn đề xã hội và làm cho sự quản lý
của nhà nước thêm khó khăn. Nó cũng chứng tỏ người dân đặc biệt là
những người dân ở các vùng nông thôn đang thiếu việc làm một cách
trầm trọng. Xuất khẩu đã giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho
người lao động, tạo thu nhập và cải thiện đời sống của dân cư. Đồng thời
xuất khẩu cũng đóng góp vào ngân sách quốc gia một nguồn vốn ngoại
tệ đáng kể. Đây là nguồn vốn dùng để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng
thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được nhằm phục vụ nhu cầu ngày
càng cao của người dân.
4/ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác
động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể thấy hoạt động xuất khẩu có
sớm hơn hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy
quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng,
đầu tư, mở rộng vận tảI quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế
đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
12
III. Sự cần thiết phảI phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu
1/ Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu
2/ Sự cần thiết phải phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn phải chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ cạnh tranh về mọi mặt: giá cả, chất
lượng, thị trường, khách hàng… nếu như doanh nghiệp không nhanh
nhậy nắm bắt được tình hình thực tế cũng như không biết chính xác về
tình hình kinh doanh, hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp mình
thì doanh nghiệp sẽ có những ảo tưởng về kết quả mà doanh nghiệp đã
đạt được điều này dẫn tới doanh nghiệp sẽ thất bại trong cuộc cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp sẽ dần mất đi những gì mà
mình đang có mà điều này cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đang
dần suy vong và có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu
hàng hoá thì sự cạnh tranh còn gay gắt hơn nhiều so với các doanh
nghiệp trong nước bởi vì doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu hàng hoá
sang thị trường nước ngoài không những phải chịu sự cạnh tranh của các
doanh nghiệp từ nhiều nơi khác mà còn phải chịu áp lực từ chính nước
mình xuất khẩu hàng hoá sang lý do là nhiều khi các nước đó áp dụng
các chính sách quy chế gây cản trở cho các doanh ngiệp xuất khẩu mục
đích là để bảo hộ cho ngành sản xuất trong nước của họ. Để giúp cho
các chủ doanh nghiệp xuất khẩu luôn nắm bắt được tình hình kinh doanh
thực tế cũng như biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không thì
công tác phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu là một việc
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
13
làm hết sức cần thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp tham gia vào
lĩnh vực xuất khẩu mà tất cả các doanh nghiệp đều phải chú trọng tới
công tác phân tích. Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu đem lại rất
nhiều lợi ích cho doanh nghiệp:
+ Việc phân tích tình hình xuất khẩu được thực hiện sau mỗi một
kỳ kinh doanh giúp doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch xuất khẩu mà doanh nghiệp đã đề ra ở kỳ kế hoạch.
Để thực hiện các nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đòi hỏi chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý phải xây dựng các chỉ tiêu
kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như các kế hoạch tài chính, kế hoạch
lao động, tiền lương … đó là những mục tiêu cần đạt được trong kỳ kế
hoạch. Nhưng đồng thời nó cũng là cơ sở để chỉ đạo mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, để nhận thức và đánh giá
tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ
doanh nghiệp cần thiết phải phân tích để thấy được mức độ hoàn thành
của các chỉ tiêu kế hoạch về phần trăm và số chênh lệch tăng giảm.
Việc phân tích này là cần thiết bởi vì thông qua phân tích các nhà
quản lý sẽ thấy được doanh nghiệp đã thực hiện kế hoạch đề ra ở mức độ
nào, có hoàn thành kế hoạch đề ra hay không từ đó tìm ra nguyên nhân
của việc không hoàn thành kế hoạch cũng như nhân tố góp phần vào
việc hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra và đưa ra các giải pháp để kỳ
kinh doanh tiếp theo sẽ hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt
ra. Việc phân tích này sẽ giúp doanh nghiệp nhìn ra đâu là mặt mạnh
cũng như những điểm còn yếu kém trong từng khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh để có thể tận dụng hết thế mạnh của mình, khắc phục
dần những điểm còn tồn tại từ đó nâng cao lợi nhuận, mở rộng sản xuất
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
14
kinh doanh, mở rộng thị trường nâng cao uy tín và vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường.
Doanh nghiệp nào cũng có thị trường, khách hàng, mặt hàng riêng
của mình, tuy nhiên doanh nghiệp cũng chia ra thành thị trường chính,
mặt hàng chủ lực, khách hàng truyền thống để từ đó có kế hoạch cung
ứng hàng hoá cho phù hợp. Nếu đối với các thị trường chính có sức tiêu
thụ lớn mà ta lại không chú ý tới, không có kế hoạch cung ứng hàng hoá
đầy đủ kịp thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng thì doanh
nghiệp sẽ dần mất đi thị phần trên thị trường đó và các doanh nghiệp
khác sẽ có cơ hội để chiếm lĩnh thị trường đó có nghĩa là doanh nghiệp
đang đánh mất cơ hội làm tăng lợi nhuận của chính mình.
Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu theo thị trường sẽ
cho ta biết được mức độ hoàn thành kế hoạch đối với thị trường chính
cũng như các thị trường khác để có kế hoạch cung ứng hàng hoá cho phù
hợp. Như vậy việc phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu là
thật sự cần thiết đối với mỗi một doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu.
+ Phân tích tình hình xuất khẩu ngay trong khi thực hiện kế
hoạch xuất khẩu giúp doanh nghiệp phát hiện ra những thay đổi bất
thường của thị trường có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch
xuất khẩu cũng như gây tổn thất cho doanh nghiệp về mặt kinh tế,
những khó khăn mới nảy sinh cản trở tiến trình thực hiện xuất khẩu.
Sau mỗi một kỳ kinh doanh, doanh nghiệp đều đưa ra những kế
hoạch kinh doanh cho kỳ tiếp sau, mặc dù đã có sự chuẩn bị trước nhưng
trong thực tế không phải lúc nào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều
diễn ra theo kế hoạch đã định. Thị trường luôn chứa đựng trong nó
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
15
những biến động bất thường, những biến động này có thể là theo chiều
hướng xấu đối với doanh nghiệp cũng có thể theo chiều hướng thuận lợi
cho doanh nghiệp nhưng bất kể là xấu hay tốt thì nhiệm vụ của nhà quản
lý doanh nghiệp là phải luôn đưa ra các quyết định chỉ đạo kinh doanh
linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế đưa doanh nghiệp thoát khỏi tình
trạng khó khăn do thị trường gây ra cũng như tận dụng cơ hội kinh
doanh do thị trường đem lại. Để làm được điều này các nhà quản lý phải
luôn nắm chắc tình hình kinh doanh xuất khẩu bằng cách tiến hành phân
tích thường xuyên, cẩn thận, kỹ lưỡng tình hình xuất khẩu từ đó có sự
điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu cho phù hợp.
Thị trường quốc tế luôn biến động hàng ngày hàng giờ nếu không
phân tích một cách toàn diện, thường xuyên thì không thể đưa ra một
quyết định tối ưu nhất, sáng suốt nhất. Một quyết định sai lầm, xa rời
thực tế không giải quyết được yêu cầu đang đặt ra sẽ khiến cho hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp không được liên tục thông suốt, gây
tổn thất cho doanh nghiệp. Để có thể đưa ra được những chính sách biện
pháp và chỉ đạo quản lý một cách hiệu quả thì việc phân tích rất cần thiết
phải được tiến hành ngay từ giai đoạn lập kế hoạch đến khi thực hiện kế
hoạch và sau khi kế hoạch đã được thực hiện.
+ Phân tích hiệu quả xuất khẩu sẽ cung cấp những thông tin
chính xác về kết quả kinh doanh, các nhân tố ảnh hưởng và nguyên
nhân ảnh hưởng đến kết qủa kinh doanh, từ đó tìm ra những chính
sách biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động
dưới sự chỉ đạo của nhà nước bằng các hệ thống chỉ tiêu pháp lệch. Mọi
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh như: sản xuất cái gì? sản xuất
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
16
cho ai? Sản xuất như thế nào đều do nhà nước trực tiếp chỉ đạo, doanh
nghiệp chỉ như một cỗ máy hoạt động theo kế hoạch đã định sẵn. Bởi
vậy mà việc doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không không phải
là vấn đề cần quan tâm trong thời kỳ đó, nếu doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ đã có nhà nước bù lỗ vì vậy doanh nghiệp chỉ quan tâm xem mình có
đạt được các chỉ tiêu kế hoạch do bên trên giao hay không.
Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế nhà nước đã trao quyền tự chủ kinh doanh
cho doanh nghiệp có nghĩa là chủ doanh nghiệp sẽ phải quyết định mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình và chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nhà nước chỉ kiểm soát
doanh nghiệp ở tầm vĩ mô:định hướng cho doanh nghiệp hoạt động, tạo
ra môi trường kinh doanh thuận lợi và doanh nghiệp chỉ được phép hoạt
động trong khuôn khổ mà nhà nước cho phép. Và khi mà sự suy vong
hay phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào nỗ lực của chính bản
thân doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh lại là một vấn đề sống còn
đối với doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp luôn cố gắng để tìm ra các biện pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh, tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường. Muốn
nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết ta phải biết được hiệu quả
kinh doanh hiện tại như thế nào để từ đó tìm ra nguyên nhân cũng như
những điểm đã đạt được, rút ra bài học cho kỳ sau. Định kỳ cứ sau mỗi
kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần phải tiến hành phân tích xem doanh
nghiệp đạt hiệu quả kinh doanh cao hay thấp bằng các chỉ tiêu phân tích
đã định trước phù hợp với yêu cầu và nội dung phân tích. Việc phân tích
sẽ cung cấp những thông tin chính xác trung thực về chất lượng kinh
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
17
doanh của doanh nghiệp, tìm ra các nhân tố và nguyên nhân ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó có kế hoạch chỉ đạo
cho kỳ kinh doanh sau để làm sao doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh
doanh cao hơn nữa. Nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng đồng nghĩa với
việc nâng cao lợi nhuận, phát triển mở rộng công việc kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tiền đề của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là tối ưu hoá
trong việc sử dụng các loại nguồn lực. Nguồn lực ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm các nguồn lực tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể và
không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể. Tối ưu hoá trong việc sử dụng
các loại nguồn lực phải được xem xét trong một tổng thể chung. Để đạt
được điều này đòi hỏi phải tiến hành phân tích một cách toàn diện, đầy
đủ tổng hợp toàn bộ các mặt có liên quan đến hoạt động của doanh
nghiệp để kịp thời phát hiện các nhân tố tích cực cũng như tiêu cực trong
kinh doanh làm cơ sở đề ra các quyết định đúng đắn và kịp thời nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiểu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau, nhưng cũng cần phải thấy rằng: hoạt động kinh doanh
cũng như các hoạt động khác nhiều khi cũng gặp những rủi ro làm giảm
hiệu qủa kinh doanh và có khi còn làm cho doanh nghiệp phá sản. Phân
tích giúp chủ động đối phó với các bất trắc có thể xảy ra và tránh các rủi
ro.
Không phải ngẫu nhiên mà các doanh nghiệp đều luôn quan tâm đến
việc phân tích hiệu quả kinh doanh và họ cho là phân tích là điều cần
thiết. Công việc này không những đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi
ích mà còn giúp doanh nghiệp tận dụng được những khả năng tiềm tàng
mà doanh nghiệp chưa sử dụng hết để thúc đẩy quá trình hoạt động sản
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
18
xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp xuất khẩu hoạt động có hiệu quả không những đem lại nguồn
ngoại tệ cho doanh nghiệp mình mà còn góp phần tăng thu ngoại tệ cho
đất nước, cải thiện cán cân thương mại, bình ổn tỷ giá hối đoái, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của các doanh
nghiệp xuất khẩu trong nước. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu cần phải được tiến hành trên nhiều mặt, tiến hành một cách toàn
diện từ đó mới có được những phương hướng hoạt động thích hợp cho
kỳ kinh doanh sau để làm sao sử dụng hết nguồn lực vật chất hiện có
nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh.
+ Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu là cơ sở khoa học
cho việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh ở kỳ tiếp theo
Doanh nghiệp là một hệ thống bao gồm nhiều phần tử: phòng, ban,
chi nhánh…mỗi một bộ phận đều có chức năng nhiệm vụ riêng, những
chức năng đó dù là nhỏ nhất cũng đều có quan hệ với nhau tạo nên hiệu
quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Phân
tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là cơ sở khoa học cho
việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh tiếp theo đó cũng chính là
việc phối hợp hoạt động giữa các phòng ban trong doanh nghiệp sao cho
ăn khớp, hoạt động nhịp nhàng, hợp lý, tất cả các phòng ban đều hướng
tới một mục tiêu chung là lợi nhuận của doanh nghiệp thì doanh nghiệp
sẽ đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Trên cơ sở nhận xét đánh giá về
kết quả doanh nghiệp đạt được ở kỳ này, phân tích hiệu quả kinh doanh
cao hay thấp, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra một kế hoạch kinh doanh cũng
như đưa ra các chỉ tiêu cần đạt được trong kỳ tiếp theo sao cho phù hợp
với khả năng của doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể hoàn thành vượt
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
19
mức kế hoạch đề ra.
Một kế hoạch kinh doanh đưa ra mà không dựa trên các kết quả đã
đạt được trước đó rất có thể sẽ là một kế hoạch nằm ngoài khả năng thực
hiện của doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ theo đuổi những mục tiêu xa
vời mà không để ý đến thực lực của doanh nghiệp mình sẽ dẫn đến
không hoàn thành kế hoạch và không đạt được hiệu quả kinh doanh như
mong muốn. Các doanh nghiệp luôn đứng vững trước mọi thay đổi của
thị trường là những doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh hợp lý, luôn
thích ứng với sự thay đổi của thị trường, cung ứng hàng hoá kịp thời đáp
ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Các kế hoạch sản xuất kinh
doanh không chỉ là mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt tới mà nó còn là
định hướng cho doanh nghiệp hoạt động.
Nói tóm lại, phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là
một việc làm hết sức cần thiết trong mỗi doanh nghiệp, nó giúp doanh
nghiệp nhận thức và đánh giá đúng đắn tình hình và hiệu quả hoạt động
kinh doanh, thấy được những thành tích, kết quả đã đạt được, những
mâu thuẫn tồn tại và những nguyên nhân ảnh hưởng để trong kỳ kinh
doanh tới phát huy hơn nữa những thành tích đã đạt được, tránh lặp lại
những sai lầm và giải quyết mâu thuẫn còn vướng mắc. Đúc kết được
những bài học kinh nghiệm, những sáng kiến cải tiến rút ra từ thực tiễn,
kể cả những bài học kinh nghiệm thành công huặc thất bại làm cơ sở cho
việc đề ra những phương án, kế hoạch kinh doanh trong kỳ tới.
IV. Nguồn tài liệu và phương pháp phân tích
1.Nguồn tài liệu
Phân tích kinh tế nói chung cũng như phân tích hoạt động kinh tế
nói riêng có một vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô cũng
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
20
như vi mô. Để quản lý tốt nền kinh tế quốc dân, quản lý một ngành hay
quản lý một doanh nghiệp đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra những chủ
trương chính sách biện pháp quản lý đúng đắn, phù hợp với tình hình
thực tiễn và quy luật phát triển khách quan. Muốn vậy đòi hỏi các nhà
quản lý các cấp phải thường xuyên tiến hành phân tích các hiện tượng
kinh tế cũng như quá trình và kết quả sản xuất kinh doanh.
Để có thể tiến hành phân tích đòi hỏi phải thu thập một lượng thông
tin cần thiết đầy đủ kịp thời phù hợp với mục đích yêu cầu về nội dung
và phạm vi của đối tượng phân tích. Thông tin dùng trong phân tích hoạt
động kinh tế là những số liệu tài liệu cần thiết làm cơ sở để tính toán và
phân tích tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nó cũng là cơ sở cho việc đề ra các quyết định tối ưu trong kinh
doanh và quản lý. Các quyết định của nhà quản lý nếu thiếu sự nghiên
cứu, phân tích một cách đầy đủ toàn diện các số liệu thông tin thì sẽ dẫn
tới những quyết định thoát ly thực tế không phù hợp với yêu cầu khách
quan từ đó sẽ dẫn đến khả năng rủi ro thua lỗ trong sản xuất kinh doanh.
Nguồn tài liệu ta có thể sử dụng để phân tích hoạt động kinh tế của
doanh nghiệp gồm: nguồn tài liệu bên ngoài và nguồn tài liệu bên trong
doanh nghiệp cung cấp.
* Nguồn tài liệu bên ngoài là các nguồn tài liệu phản ánh chủ trương
chính sách của Đảng nhà nước và các ngành về việc chỉ đạo, phát triển
sản xuất và lưu thông trong và ngoài nước.
+ Chính sách kinh tế tài chính do nhà nước quy định trong từng
thời kỳ như: chính sách cấp vốn huặc cho vay vốn, các chính sách thuế
của nhà nước, chính sách về kinh tế đối ngoại, chính sách về ngoại
giao….
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
21
+ Tình hình thay đổi về thu nhập thị hiếu trong và ngoài nước.
+ Biến động về cung cầu giá cả trên thị trường trong và ngoài
nước.
* Nguồn tài liệu bên trong là các tài liệu liên quan đến việc phản ánh
quá trình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
+ Tài liệu thông tin từ các kế hoạch sản xuất kinh doanh đã đặt ra
bao gồm: kế hoạch tài chính, kế hoạch xuất khẩu hàng hoá, kế hoạch về
sử dụng vốn…
+ Số liệu trên các báo cáo tài chính do phòng kế toán lập hàng kỳ:
báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, bảng cân đối tài
khoản, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
+ Số liệu do các phòng kinh doanh cung cấp hàng tháng: báo cáo
xuất khẩu theo tháng, theo quý.
+ Tài liệu hạch toán: các sổ sách kế toán, hạch toán tổng hợp, chi
tiết, các chứng từ hoá đơn.
Thông tin trong phân tích hoạt động kinh tế rất phong phú và đa
dạng, trước khi tiến hành phân tích cần phải kiểm tra lại thông tin, số
liệu tài liệu đã thu thập để đảm bảo tính đúng đắn về mặt nội dung kinh
tế, thời điểm địa điểm phát sinh, phương pháp ghi chép, tính toán để
tránh những sai sót vì sự sai sót về số liệu dùng trong phân tích sẽ ảnh
hưởng đến kết quả phân tích.
Tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu phân tích mà nhà phân tích sẽ
lựa chọn thông tin cho thích hợp.
2. Phương pháp phân tích
Xuất phát từ nội dung, đối tượng và nhiệm vụ phân tích của doanh
nghiệp, phân tích kinh tế vừa phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
22
của các môn khoa học khác như thống kê, kế toán, tài chính, quản lý
kinh tế… vừa có những phương pháp nghiên cứu riêng của mình, mỗi
phương pháp đều có những ưu nhược điểm và điều kiện vận dụng nhất
định, mang tính nghiệp vụ – kỹ thuật cụ thể, phải tuỳ thuộc vào loại hình
doanh nghiệp, bản chất của các hiện tượng kinh tế, kết quả kinh tế, đối
tượng cụ thể, các nguồn tài liệu, số liệu và vào mục đích phân tích… để
lựa chọn phương pháp thích hợp. Sau đây là một số phương pháp thường
được sử dụng:
2.1/ Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến để đánh giá kết quả,
xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để áp
dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so
sánh được của các chỉ tiêu:
+ Thống nhất về nội dung, phương pháp xác định, thời gian và đơn
vị tính của chỉ tiêu so sánh.
+ Tuỳ theo mục đích phân tích để xác định gốc so sánh. Gốc so
sánh có thể chọn gốc thời gian (kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ năm
trước…) huặc gốc không gian (so với tổng thể, so với đơn vị khác có
điều kiện tương đương, so với các bộ phận trong cùng tổng thể…) kỳ
được chọn làm gốc so sánh gọi là kỳ gốc, còn kỳ được chọn để phân
tích là kỳ phân tích. Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng thời kỳ
tương ứng là trị số chỉ tiêu kỳ gốc, kỳ phân tích.
Có nhiều dạng so sánh, phải căn cứ vào mục đích và yêu cầu của
việc phân tích để lựa chọn dạng so sánh. Mỗi dạng so sánh đều có ý
nghĩa kinh tế riêng của nó, giúp cho doanh nghiệp biết được sự vận động
của các hoạt động kinh tế trên mọi góc độ khác, từ đó có những phương
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
23
pháp khai thác tiềm năng của bản thân doanh nghiệp và tiềm năng của
xã hội mà doanh nghiệp có thể khai thác được. Qua so sánh ta biết được
kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ đã đặt ra, biết được tốc độ phát
triển của các hiện tượng kinh tế đồng thời biết được mức độ cụ thể của
từng bộ phận cấu thành hệ thống chỉ tiêu cần phân tích.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh
tế bao gồm nhiều nội dung khác nhau:
So sánh giữa số thực hiện của kỳ báo cáo với số kế hoạch huặc số
định mức để thấy được mức độ hoàn thành bằng tỷ lệ phần trăm (%) hay
số chênh lệch tăng giảm.
So sánh giữa số liệu thực hiện kỳ báo cáo với số liệu cùng kỳ năm
trước huặc các năm trước. Mục đích của việc so sánh này là để thấy
được sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế qua những thời kỳ
khác nhau và xu thế phát triển của chúng trong tương lai.
So sánh giữa số liệu thực hiện của một đơn vị này với một đơn vị
khác để thấy được sự khác nhau và mức độ,khả năng phấn đấu của đơn
vị. Thông thường thì người ta thường so sánh với những đơn vị bình
quân tiên tiến trở lên.
Ngoài ra, trong phân tích hoạt động kinh tế người ta thường phải so
sánh giữa doanh thu với chi phí đế xác định kết quả kinh doanh huặc so
sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với các chỉ tiêu chung để xác định tỷ trọng của
nó trong chỉ tiêu chung…
Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích người ta thường tiến
hành so sánh bằng các phương pháp sau:
* So sánh giản đơn
So sánh giản đơn là phương pháp so sánh trực tiếp trị số của chỉ tiêu
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
24
phân tích giữa hai kỳ (kỳ phân tích và kỳ gốc)
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%) =
Mức chênh lệch = Chỉ tiêu thực hiện – Chỉ tiêu kế hoạch.
Việc so sánh như trên sẽ cho biết khối lượng, quy mô mà doanh
nghiệp đạt ở mức độ nào, với tỷ lệ đạt bao nhiêu.
* So sánh có liên hệ:
So sánh có liên hệ là phương pháp so sánh để xem xét sự biến động
của chỉ tiêu phân tích nhưng có liên hệ với tình hình thực hiện của một
chỉ tiêu khác có liên quan.
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch =
(liên hệ với …)
Phương pháp so sánh còn được dùng để phản ánh nhịp độ biến động
hay tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu cần phân tích (thường là 5 năm).
Tốc độ phát triển liên hoàn: 100
1
i
i
i
M
M
T
Tốc độ phát triển định gốc: 100
0
M
M
T ioi
Tốc độ phát triển bình quân: 1 n itichcacTT
Trong đó:
iT : tỷ lệ phát triển liên hoàn
Chỉ tiêu thực
hi n
Chỉ tiêu kế
ho ch
100
Chỉ tiêu
th c hi n
Chỉ tiêu kế
ho ch
Chỉ tiêu liên hệ kế
ho ch
Chỉ tiêu liên hệ
100
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
25
T : tỷ lệ phát triển bình quân
iT 0 : tỷ lệ phát triển định gốc
iM : doanh thu bán hàng kỳ i
1iM : doanh thu bán hàng kỳ i -1
0M : doanh thu bán hàng kỳ gốc
Phương pháp so sánh giản đơn được sử dụng để phân tích tình hình
xuất khẩu theo thị trường, theo các đơn vị trực thuộc, theo các phòng
kinh doanh và theo tháng. Thông qua việc so sánh này ta biết được các
phòng kinh doanh xuất nhập khẩu có hoàn thành nhiệm vụ xuất khẩu
của mình hay không cả về số tương đối và số tuyệt đối, phương pháp so
sánh còn được sử dụng để theo dõi tình hình xuất khẩu qua các năm
(thường là 5 năm trở lên) để thấy được xu hướng của xuất khẩu qua các
năm là tăng hay giảm.
Như vậy phương phương pháp so sánh được sử dụng hầu hết trong
các nội dung phân tích tình hình xuất khẩu. Ngoài phương pháp so sánh
còn có một số phương pháp cũng được sử dụng trong phân tích tình hình
và hiệu quả xuất khẩu, sau đây là các phương pháp đó.
2.2/ Phương pháp biểu mẫu sơ đồ
Trong phân tích kinh tế người ta phải dùng biểu mẫu, sơ đồ phân
tích để phản ánh một cách trực quan qua các số liệu phân tích. Biểu phân
tích nhìn chung được thiết lập theo các dòng cột để ghi chép các chỉ tiêu
và số liệu phân tích. Các dạng biểu phân tích thường phản ánh mối quan
hệ so sánh giữa các chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với nhau: so sánh giữa số
thực hiện với số kế hoạch, so với số cùng kỳ năm trước huặc so sánh
giữa chỉ tiêu cá biệt với chỉ tiêu tổng thể. Số lượng các dòng cột tuỳ
thuộc vào mục đích yêu cầu và nội dung phân tích. Tuỳ theo nội dung
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
26
phân tích mà biểu phân tích có tên gọi khác nhau, đơn vị tính khác nhau.
Còn sơ đồ, biểu đồ đồ thị được sử dụng trong phân tích để phản ánh
sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế trong những khoảng thời
gian khác nhau huặc các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau mang tính chất
hàm số giữa các chỉ tiêu kinh tế. Khi tiến hành phân tích tình hình hay
hiệu quả xuất khẩu thì ta đều phải lập bảng biểu để ghi các số liệu vào
các dòng cột đã chọn thực chất chính là ta đang áp dụng phương pháp
biểu mẫu sơ đồ, tuy nhiên phương pháp này không được sử dụng một
mình nó nó còn kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp so
sánh, phương pháp số chênh lệch, tỷ trọng, tỷ suất. Ngoài ra, trong phân
tích hoạt động kinh tế người ta còn sử dụng các phương trình quy hoạch
tuyến tính huặc phương trình phi tuyến trong trường hợp các chỉ tiêu
phân tích kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu khác bằng các phương trình
trên. Các kết quả thu được khi sử dụng các hàm hồi quy thông qua ngoại
suy chủ yếu phục vụ cho phân tích dự đoán để lập các chỉ tiêu cho các
kế hoạch ngắn và dài hạn. Nhưng khi sử dụng các kết quả đó cần phải
lưu ý rằng chúng được tính toán dựa trên các hiện tượng và kết quả kinh
tế đã xảy ra trong quá khứ và lại được sử dụng cho hiện tại và tương lai
gần, trong đó chúng còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác. Do đó,
cần phải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để tiến hành điều chỉnh
các chỉ tiêu đã được lập ra sao cho phù hợp với tình hình biến động của
thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của các chỉ tiêu, giúp cho
công tác quản lý đạt được hiệu quả cao nhất. trọng, tỷ suất.
Phương pháp này được dùng để phân tích tình hình xuất khẩu theo
các nội dung như đã nêu ở phương pháp so sánh. Đây cũng là một
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
27
phương pháp được sử dụng phổ biến giống như phương pháp so sánh.
2.3/ Phương pháp cân đối
Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế – tài chính của doanh nghiệp có
nhiều chỉ tiêu có liên hệ với nhau bằng những mối liên hệ mang tính
chất cân đối. Các quan hệ cân đối trong doanh nghiệp có hai loại: cân
đối tổng thể và cân đối cá biệt
Cân đối tổng thể là mối quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp.
Ví dụ: giữa tài sản và nguồn vốn kinh doanh liên hệ với nhau bằng công
thức:
Tài sản = Nguồn vốn
Huặc giữa các chỉ tiêu của lưu chuyển hàng hoá có mối quan hệ cân đối
được phản ánh qua công thức:
Hàng
tồn đầu
kỳ
+
Hàng
nhập
trong kỳ
=
Hàng
bán
trong kỳ
+
Hao
hụt
+
Hàng
tồn
cuối kỳ
Cân đối cá biệt là quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế cá biệt
v.v…
Từ những mối liên hệ mang tính cân đối nếu có sự thay đổi một chỉ
tiêu nào đó sẽ dẫn sự thay đổi một chỉ tiêu khác từ đó xác định được ảnh
hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích.
Do vậy khi phân tích một chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu
Nợ phải thu
khách hàng
đầu kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng
trongkỳ
=
Nợ phải thu
khách hàng đã
thu trong kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng
cuối kỳ
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
28
kinh tế khác bằng mối liên hệ cân đối ta phải lập công thức cân đối, thu
thập số liệu, áp dụng phương pháp số chênh lệch để xác định mức độ
ảnh hưởng của các chỉ tiêu đến chỉ tiêu phân tích.
Ví dụ: Khi tính toán phân tích trị giá vốn của hàng xuất bán trong kỳ ta
có công thức sau:
Trị giá
vốn hàng
xuất bán
=
Trị giá hàng
tồn kho đầu
kỳ
+
Trị giá hàng
mua vào
trong kỳ
-
Hao hụt
trong
kỳ
-
Trị giá
hàng tồn
cuối kỳ
Huặc
Nợ phải
thu khách
hàng cuối
kỳ
=
Nợ phải thu
khách hàng
đầu kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng
trong kỳ
-
Nợ phải thu
khách hàng đã
thu trong kỳ
2.4/ Phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch
Quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp luôn chịu sự
tác động ảnh hưởng của các nhân tố trong đó có những nhân tố mang
tính chất khách quan và có những nhân tố mang tính chất chủ quan. Về
mức độ ảnh hưởng có nhân tố ảnh hưởng tăng, nhưng có những nhân tố
ảnh hưởng giảm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy, để phân tích các nhân tố ảnh hưởng qua đó thấy được
mức độ và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố đến đối tượng nghiên
cứu ta phải áp dụng những phương pháp tính toán khác nhau trong đó có
phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch.
Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng trong trường hợp
giữa đối tượng phân tích với các nhân tố ảnh hưởng có mối liên hệ phụ
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
29
thuộc chặt chẽ được thể hiện bằng những công thức toán học mang tính
chất hàm số trong đó có sự thay đổi của các nhân tố thì kéo theo sự biến
đổi của chỉ tiêu phân tích. Ví dụ: khi phân tích doanh thu bán hàng ta
thấy có hai nhân tố ảnh hưởng cơ bản là số lượng hàng bán và đơn giá
bán. Hai nhân tố đó có liên hệ với doanh thu bán hàng bằng công thức
sau:
Doanh thu bán hàng = Số lượng hàng bán Đơn giá bán
Phương pháp thay thế liên hoàn cho phép thu nhận một dãy số
những giá trị điều chỉnh bằng cách thay thế liên hoàn các giá trị ở kỳ gốc
của các nhân tố bằng giá trị của các kỳ báo cáo. Số lượng nhân tố càng
nhiều thì số điều chỉnh càng nhiều. Mỗi lần thay thế là một lần tính toán
riêng biệt. Kết quả tính toán được khi thay thế trừ đi giá trị của kỳ gốc
huặc giá trị thay thế lần trước thể hiện mức độ ảnh hưởng nhân tố đó đến
đối tượng phân tích.
Nếu số chênh lệch mang dấu (+) thì ảnh hưởng tăng và ngược lại.
Khi thay thế một nhân tố thì phải giả định nhân tố khác không thay đổi.
Các nhân tố thay đổi phải được sắp xếp trong công thức tính toán theo
một trình tự hợp lý. Khi thay đổi trình tự thay thế có thể cho ta những
kết quả khác nhau, nhưng tổng của chúng không thay đổi.
Dạng tổng quát của phương pháp thay thế liên hoàn có thể được
minh hoạ như sau:
Giả sử một chỉ tiêu phân tích có hai nhân tố ảnh hưởng được thể
hiện bằng biểu thức:
Z = f(x,y) = x.y
Trong đó: Z là chỉ tiêu tổng hợp cần phân tích
F là hàm số
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
30
x;y là những biến số biểu thị sự biến đổi của hai nhân tố ảnh
hưởng.
Ta có: 00000 ., yxyxfZ là giá trị gốc
11111 .),( yxyxfZ là giá trị kỳ thực tế
0101 ),( yxyxfxZ là giá trị điều chỉnh của nhân tố x
1111 .),( yxyxfZ y là giá trị điều chỉnh của nhân tố y
Số chênh lệch tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích được xác định bằng
công thức:
0011 yxyxZ
Số chênh lệch do tác động của nhân tố x
0001 yxyxZ x
Số chênh lệch do tác động của nhân tố y
0111 yxyxZ y
Tổng hợp lại ta có:
yx ZZZ
Trong thực tế phân tích, phương pháp thay thế liên hoàn còn được
thực hiện bằng phương pháp số chênh lệch. Phương pháp số chênh lệch
sử dụng ngay số chênh lệch của các nhân tố ảnh hưởng để thay thế vào
các biểu thức tính toán mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến chỉ tiêu
phân tích.
So với phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch
đơn giản hơn trong cách tính toán, cho ngay kết quả cuối cùng. Tuy
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
31
nhiên phương pháp này chỉ được áp dụng trong trường hợp đối tượng
phân tích liên hệ với các nhân tố ảnh hưởng bằng công thức tính giản
đơn, chỉ có phép nhân, không có phép chia.
Phương pháp chênh lệch được minh hoạ tổng quát như sau:
01 xxx là số chênh lệch của nhân tố x
01 yyy là số chênh lệch của nhân tố y
0.)( yxxZ là số chênh lệch do tác động của nhân tố x
yxyZ .)( 1 là số chênh lệch do tác động của nhân tố
y
phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch không
được dùng trong phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu ở Công ty
xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội nhưng phương pháp này vẫn được đưa
ra nhằm giúp cho công ty có thể dùng phương pháp này để xác định
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kim ngạch xuất khẩu. Để xác
định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới kim ngạch xuất khẩu có thể
dùng công thức sau:
Kim
ngạch xuất
khẩu
(USD)
=
Số
lượng
hàng
xuất
khẩu
Đơn giá
xuất
khẩu
Tỷ giá
ngoại
tệ
Sử dụng công thức trên cùng phương pháp thay thế liên hoàn huặc
phương pháp số chênh lệch ta sẽ xác định được mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố trên đến kim ngạch xuất khẩu.
2.5 Phương pháp chỉ số
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
32
Phương pháp chỉ số được áp dụng để tính toán phân tích sự biến
động tăng giảm và mối liên hệ tác động phụ thuộc lẫn nhau của các chỉ
tiêu kinh tế có một huặc nhiều yếu tố khác. Chỉ tiêu chỉ số được xác định
bằng mối liên hệ so sánh của một chỉ tiêu kinh tế ở những thời điểm
khác nhau, thường là so sánh kỳ báo cáo và kỳ gốc. Các chỉ số áp dụng
trong phân tích kinh tế có hai loại: chỉ số chung và chỉ số cá thể.
Chỉ số chung là chỉ số phản ánh sự biến động tăng giảm của một chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp có nhiều yếu tố hợp thành. Ví dụ: Chỉ số tăng giảm
của chỉ tiêu doanh thu bán hàng trong kỳ.
Chỉ số cá thể là chỉ số phản ánh sự biến động tăng giảm của một chỉ
tiêu kinh tế riêng biệt. Ví dụ: Chỉ số giá cả hàng hoá bán ra trong kỳ; chỉ
số tăng giảm lao động huặc mức thu nhập của người lao động trong
kỳ…
Phân tích kinh tế bằng phương pháp chỉ số cho phép ta thấy được
mức biến động tăng giảm và mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các
yếu tố hợp thành của một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp tại những thời điểm
khác nhau.
Ví dụ: pqM III
Trong đó: MI chỉ số doanh thu bán hàng trong kỳ
qI chỉ số số lượng hàng bán
pI chỉ số giả cả hàng bán
áp dụng công thức trên, kết hợp với phương pháp thay thế liên hoàn
có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố (số tuyệt đối)
đến Doanh thu bán hàng, doanh thu xuất khẩu.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
33
+ Tỷ trọng: là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ % của một chỉ tiêu cá thể so
với chỉ tiêu tổng thể.
Tỷ trọng được sử dụng trong phân tích tình hình xuất khẩu hàng
hoá theo thị trường, dựa vào công thức này ta sẽ tính được từng thị
trường có kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số.
+ Tỷ suất: là một chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ so sánh giữa một
chỉ tiêu này với một chỉ tiêu khác có liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn
nhau: tỷ suất chi phí, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất tự tài trợ, tỷ suất đầu tư.
Nó được sử dụng trong phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Dựa
vào tỷ suất như tỷ suất lợi nhuận ta sẽ biết được lợi nhuận doanh nghiệp
thu được thực tế so với doanh thu là bao nhiêu, hay tỷ suất chi phí phản
ánh tình hình sử dụng chi phí thực tế thể hiện việc tiết kiệm hay lãng phí
chi phí.
Tỷ suất LNXK trên doanh thu =
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn =
Số tổng
th
= Tỷ trọng
(%)
Số cá
bi t
100
LN XK trước thuế (sau
thu )
Doanh thu
thu n
100
LN XK trước thuế
(sau thu )
Tổng vốn kinh doanh
bình quân
100
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
34
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH VÀ HIỆU QUẢ
KINH DOANH XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY XUẤT NHẬP
KHẨU TẠP PHẨM HÀ NỘI
I. Giới thiệu khái quát về công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà
nội
Tên công ty: Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội
Tên giao dịch: tocontap
Trụ sở: 36 Bà Triệu – Quận hoàn kiếm – Hà Nội
1. Quá trình hình thành và phát triển
Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội được thành lập
ngày 5/3/1956, trực thuộc Bộ Công Thương. Trong nền kinh tế tập
trung với quy mô là một tổng công ty, công ty là một doanh nghiệp
chủ đạo của nhà nước trong hoạt động ngoại thương.
Với hơn 10 lần tách nhập, tổ chức của công ty có nhiều sự thay
đổi: tách dần một số bộ phận để thành lập các công ty khác như:
Artexport, Bartex, Textimex, Mecanimex…
Theo quyết định số 333/TM – TCCB về việc sắp xếp lại các Doanh
nghiệp nhà nước do Bộ Thương Mại ban hành ngày 31/03/1993, tổng
công ty được đổi thành Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội.
Đây là một công ty có bề dầy lịch sử buôn bán quốc tế lâu năm
nhất ở Việt Nam. Công ty đã xác lập mối quan hệ kinh tế – quốc tế
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
35
với trên 70 nước và khu vực trên toàn thế giới. Hoạt động của công ty
không chỉ hạn chế trong lĩnh vực XNK đơn thuần mà đã mở rộng ra
nhiều lĩnh vực khác như: tiếp nhận gia công, lắp ráp, sản xuất theo
mẫu mã kiểu dáng mà khách hàng yêu cầu, đổi hàng, hợp tác đầu tư
xí nghiệp để sản xuất hàng XNK, đại lý nhập khẩu, chuyển khẩu…
Các chi nhánh công ty trong và ngoài nước thuộc công ty:
+ Chi nhánh tocontap tại TPHCM: 1168D - Đường 312 – Quận 11
+ Chi nhánh tocontap tại Hải Phòng: 96A – Nguyễn Đức Cảnh
+ Xí nghiệp tocan chuyên sản xuất chổi quét sơn, con lăn tường liên
doanh với Canada.
+ Các văn phòng đại diện tại Đức, Nga, Séc, Hungari
Công ty là một đơn vị hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân tự chủ về
mặt tài chính, có tài khoản VNĐ và ngoại tệ tại ngân hàng và có con dấu
riêng, công ty hoạt động theo luật pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam và theo điều lệ tổ chức của công ty.
2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty
* Chức năng của công ty
Chi nhánh
TPHCM
Công ty XNK
tạp phẩm H
Xí nghiệp
TOCAN
Chi nhánh Hải
Phòng
Đại diện
công ty tại
Đức, Nga,
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
36
Trong cơ chế thị trường, công ty được trao quyền tự chủ kinh doanh,
tìm kiếm bạn hàng, tự hạch toán kinh doanh và đảm bảo kinh doanh có
lãi. Ngoài ra, công ty phải tiếp tục hoàn thành các chỉ tiêu do Bộ Thương
Mại giao cho. Tạo lập tốt các mối quan hệ hợp tác kinh doanh lâu dài,
đảm bảo tăng trưởng vốn và cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân
viên.
Mục đích kinh doanh của công ty là thông qua các hoạt động XNK,
sản xuất, liên doanh, hợp tác đầu tư sản xuất để khai thác có hiệu quả
nguồn vật tư nguyên liệu và nhân lực của đất nước, đẩy mạnh sản xuất
và xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
- Nội dung hoạt động:
+ XNK các mặt hàng tạp phẩm và vật tư, nguyên liệu để phục vụ
nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước do công ty khai thác từ mọi
thành phần kinh tế trong và ngoài nước và do công ty tự sản xuất và
liên doanh, liên kết hợp tác đầu tư với tổ chức và cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế.
+ Nhận XNK uỷ thác, làm đại lý, môi giới mua bán các mặt hàng
cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước
ngoài theo quyết định của nhà nước và Bộ Thương Mại.
+ Tổ chức sản xuất gia công hàng XNK, liên doanh liên kết hợp
tác đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với các tổ chức trong và ngoài
nước.
* Nhiệm vụ của công ty
+ Xây dựng và tổ chức có hiệu quả các kế hoạch sản xuất kinh
doanh trong đó có kế hoạch xuất nhập khẩu
+ Tạo điều kiện cho các đơn vị trực thuộc, đơnvị liên doanh áp
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
37
dụng các biện pháp có hiệu quả để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất
nhập khẩu
+ Tự tạo nguồn vốn, đảm bảo tự trang trải về mặt tài chính, bảo
toàn vốn, đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế và XNK của đất
nước. Quản lý sử dụng theo đúng chế độ và có hiệu quả các nguồn
đó.
+ Tiếp cận thị trường, nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị
trường, cải tiến mẫu mã, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng
cao chất lượng hàng hoá, tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhu cầu xuất khẩu.
+ Tuân thủ các chế độ, chính sách, luật pháp quy định liên quan
đến hoạt động của đơn vị. Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh
tế nói chung, hợp đồng ngoại thương nói riêng. Sau khi ký kết hợp
đồng với khách hàng nước ngoài phải sao chụp hợp đồng gửi cho
phòng KTTC. Tuân thủ sự quản lý của cấp trên thực hiện đúng nghĩa
vụ với cơ quan cấp trên với nhà nước.
+ Không ngừng cải thiện điều kiện lao động nhằm nâng cao năng
suất lao động từ đó nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên và
hiệu quả kinh tế.
3. Tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh
Khi chuyển sang kinh doanh thích ứng với nền kinh tế thị trường,
công ty cần phải có một bộ máy chỉ đạo kinh doanh ngọn nhẹ và nhạy
bén để các bộ phận trong cơ cấu tổ chức có thể liên hệ mật thiết với
nhau đảm bảo tính đồng bộ của toàn bộ hệ thống. Vì vậy, trướckia
tocontap có 10 phòng quản lý, 1992 có 7 phòng hiện nay sắp xếp thu
gọn còn lại 4 phòng, đồng thời công ty cũng phải giải thể những
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
38
phòng kinh doanh kém hiệu quả, thành lập một số phòng kinh doanh
mới năng động và hiệu quả hơn.
Hiện nay Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội có cơ
cấu tổ chức bộ máy quản lý như sau:
Nhiệm vụ các phòng ban:
+ Tổng giám đốc là người đứng đầu công ty chịu trách nhiệm
trước pháp luật và bộ thương mại về các hoạt động và hiệu quả kinh
doanh toàn công ty. Điều hành quản lý công ty theo luật doanh nghiệp
và các quy định khác có liên quan theo thoả ước lao động, hợp đồng
lao động, quy chế điều khiển của công ty.
+ Phó giám đốc là người trực tiếp giúp tổng giám đốc điều hành hoạt
động kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc
Phòng tổng
hợp
Phòng
h nh
Phòng t i
chính kế
Các đơn vị
thuộc
Phó tổng giám
đ c
Phòng tổ chức
v quản lý lao
Tổng giám
đốc
Phòng kinh
doanh
XNK1…XNK
Các chi
nhánh tại
các t nh
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
39
về sự uỷ quyền đó.
+ Phòng tổ chức và quản lý lao động: tổ chức quản lý lao động
của công ty theo nhiệm vụ của công ty, yêu cầu điều động, sắp xếp bố
trí lao động của tổng giám đốc trên cơ sở nắm vững các quy định về
tổ chức, lao động tiền lương quy định của bộ luật lao động.
Làm kế hoạch tuyển dụng lao động theo mục đích sản xuất kinh
doanh, giải quyết khiếu nại, vướng mắc về quyền lợi của người lao
động trong công ty, bảo vệ chính trị nội bộ phòng gian bảo mật.
+ Phòng tổng hợp: tổng hợp các vấn đề đối nội, đối ngoại sản
xuất kinh doanh. Thu thập nắm bắt thông tin mới nhất trong và ngoài
nước có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Tìm hiểu, tìm kiếm đối tác để hợp tác kinh doanh cho công ty,
phiên dịch, biên dịch các tài liệu giúp tổng giám đốc nắm được tình
hình diễn biến hàng ngày.
Thống kê và lập bảng biểu hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh
doanh, xây dựng kế hoạch quý, tháng, năm.
Tổng hợp và phân tích các dữ liệu, số liệu phát sinh, cung cấp
cho tổng giám đốc kịp thời điều chỉnh sản xuất kinh doanh, làm các
báo cáo định kỳ trình tổng giám đốc, bộ chủ quản, các cơ quan quản
lý nhà nước có liên quan. Tập trung những ý kiến bằng văn bản công
việc có liên quan chung đến tổng giám đốc xem xét quyết định
Theo dõi đôn đốc ghi sổ những hợp đồng kinh doanh xuất nhập
khẩu thông qua giấy phép và tờ khai hải quan để từ đó giám đốc có
thể nắm chắc hoạt động XNK của các phòng kinh doanh. Hàng tháng
vào ngày 04 cung cấp các số liệu thực hiện kim ngạch của từng phòng
để tính lương.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
40
+ Phòng kế toán tài chính:
Với chức năng giám đốc đồng tiền thông qua việc kiểm soát quản lý
tiền vốn và tài sản của công ty. Phòng có chức năng:
Hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh về nghiệp vụ mở sổ
sách theo dõi hoạt động của đơn vị, theo quyđịnh của chế độ báo cáo
thống kê kế toán hạch toán nội bộ, theo quy định của công ty và
hướng dẫn của bộ tài chính.
Kiểm tra, kiểm soát các phương án kinh doanh đã được Tổng
giám đốc duyệt. Thường xuyên đối chiếu chứng từ để các đơn vị hạch
toán chính xác. Tham gia góp ý và chịu trách nhiệm về các kiến nghị
của mình về từng phương án kinh doanh cụ thể xác định kết quả kinh
doanh để tính trả lương cho các đơn vị. Xây dựng phương thức quy
chế, hình thức cho vay vốn, giám sát theo dõi việc sử dụng vốn vay
của công ty và bảo lãnh ngân hàng. Nắm chắc chu trình luân chuyển
vốn của từng hợp đồng, phương án nhằm ngăn chặn nguy cơ sử dụng
vốn kém hiệu quả, huặc mất vốn, không để tình trạng này xảy ra vì
buông lỏng quản lý, vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính tiền tệ.
Lập quỹ dự phòng để giải quyết các phát sinh bất lợi trong sản
xuất kinh doanh. Chủ động sử lý khi có những thay đổi về tổ chức
nhân sự lao động có liên quan đến tài chính.
+Phòng hành chính quản trị: chức năng chính là phục vụ sản xuất
kinh doanh, quản lý hành chính văn thư lưu trữ dữ liệu, hồ sơ chung,
phương tiện thiết bị đã mua sắm để phục vụ cho quản lý và điều hành
sản xuất kinh doanh trong toàn công ty có hiệu quả và tiết kiệm.
Ngoài ra phòng còn có chức năng khác như:
Cất trữ bảo quản, giữ gìn những tài sản hiện có không để hư hỏng
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
41
mất mát, xuống cấp huặc xảy ra cháy nổ.
Đề xuất mua sắm các phương tiện làm việc và các nhu cầu sinh
hoạt của công ty, sửa chữa, bảo vệ an toàn cơ quan.
Duy trì thời gian làm việc, giữ gìn vệ sinh đảm bảo môi trường
công ty sạch đẹp. Đáp ứng nhu cầu cần thiết của lãnh đạo và các
phòng ban trong công ty về điều kiện làm việc như chống nóng,
chống mất cắp và có biện pháp ngăn ngừa kẻ trộm đột nhập vào cơ
quan lấy tài liệu.
+ Phòng kinh doanh: với người đại diện là trưởng phòng được
giám đốc uỷ quyền ký kết các hợp đồng, uỷ thác theo phương án kinh
doanh đã được giám đốc duyệt và phải chịu trách nhiệm trước giám
đốc về sự uỷ nhiệm đó.
Phòng kinh doanh XNK1: chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các
mặt hàng sản phẩm bằng giấy, từ giấy như bột giấy, giấy báo, vở,
giấy than, giấy in, các loại máy vi tính, máy in laser và phụtùng…
Phòng kinh doanh XNK 2: chuyên kinh doanh các loại văn phòng
phẩm, đồ dùng học sinh, dụng cụ thể thao. Các mặt hàng gốm sứ, mỹ
nghệ sơn mài. Các loại đồ dùng bằng nhựa, các dụng cụ cầm tay
trong gia đình và cho công việc nội trợ, nhạc cụ, đồ chơi trẻ em.
Phòng kinh doanh XNK 3: chuyên kinh doanh các mặt hàng may
mặc, hàng dệt kim, hàng len dạ, các nguyên vật liệu dùng cho ngành
dệt như bông tự nhiên, bông tổng hợp, tơ len tự nhiên, tơ len nhân
tạo…
Phòng XNK 4: chuyên kinh doanh các mặt hàng về thiết bị điện,
điện tử hàng gia dụng, thiết bị văn phòng, cáp điện các loại…
Phòng XNK7: chuyên kinh doanh các mặt hàng nông lâm sản…
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
42
Phòng XNK8: chuyên kinh doanh XNK các mặt hàng nông sản,
thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ tạp phẩm.
Ngoài các mặt hàng chuyên doanh như trên các phòng còn XNK
các mặt hàng khác khi có nguồn hàng và thị trường thích hợp đảm
bảo kinh doanh có hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả phòng XNK 5 sát nhập vào phòng XNK 8.
4. Đội ngũ lao động của công ty
Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội có 390 cán bộ công
nhân viên bao gồm cả cán bộ quản lý. Năm nay so với năm trước thì
công ty có không sự thay đổi về số lượng nhân viên nhưng có sự thay
đổi về nhân sự. Một số người đến tuổi đã về hưu và những người trẻ
tuổi vừa mới ra trường được công ty nhận vào làm việc.
Toàn bộ nhân viên trong công ty đều là những người có trình độ
đại học, cao đẳng huặc trung cấp. Mọi người từ giám đốc đến các
nhân viên đều có tình thần làm việc tốt, sáng tạo, nhiệt tình trong
công việc góp phần tạo nên thành công của công ty như ngày nay.
Từ khi thành lập đến nay, công ty đã từng bước sắp xếp điều
chỉnh phân công đúng người đúng việc, chọn lựa những sinh viên mới
ra trường hay những người có năng lực nghiệp vụ chuyên môn để
nhận vào làm tại công ty. Điều này không những giúp cho công ty có
được đội ngũ lao động năng động, sáng tạo làm việc có hiệu quả mà
còn góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân. Bên cạnh những
người làm việc có kinh nghiệm, kiến thức thì còn có một bộ phận
những nhân viên trẻ năng động sáng tạo trong công việc đã tạo nên
một không khí làm việc lành mạnh, hăng say góp phần không nhỏ vào
việc thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
43
Các nhân viên trong công ty được hưởng chế độ lao động theo
quy định: bảo hiểm, khen thưởng, nghỉ phép, hưởng lương phù hợp
với công việc của mỗi người. Mức thu nhập bình quân của nhân viên
trong công ty được trình bày qua biểu sau:
Qua bảng trên ta thấy đời sống của cán bộ công nhân viên ngày
càng được nâng cao. Như vậy các nhân viên trong công ty được quan
tâm cả về vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ làm việc ngày càng tốt hơn để làm
cho doanh nghiệp kinh doanh ngày một hiệu quả.
5. Tình hình thực hiện công tác tài chính
5.1. Tình hình tổ chức và phân cấp quản lý tài chính
* Tổ chức bộ máy kế toán
Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội là một đơn vị hạch toán
kinh doanh độc lập. Theo quy định của bộ thương mại công ty được
quyền tự chủ về tài chính, tự tổ chức kinh doanh theo quy định của
nhà nước. Vì thế phòng kế toán tài chính của công ty có nhiệm vụ tổ
chức quản lý tài chính, hạch toán với tư cách là đơn vị hạch toán độc
lập. Bộ máy kế toán của công ty tổ chức hình thức kế toán tập trung.
Để thực hiệntốt chức năng nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao hiệu
quả kinh doanh tại công ty đã áp dụng chế độ thống kê kế toán do Bộ
Tài Chính ban hành.
Năm tài chính của công ty bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31
Chỉ tiêu Kỳ này Kỳ trước
1. Tổng quỹ lương 5.163.000.000 6.915.229.166
2. Tổng thu nhập 5.163.000.000
3. Lương bình quân 1.103.205 / tháng 1.381.940
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
44
tháng 12 hàng năm. Tại công ty việc phân tích hoạt động kinh doanh
được tiến hành mỗi năm 1 lần theo quy chế hiện hành.
Do áp dụng chế độ kế toán tập trung nên tại các chi nhánh Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh kế toán tiến hành thu thập chứng từ
sử lý ban đầu sau đó gửi lên phòng kế toán công ty để hạch toán tổng
hợp.
Phòng kế toán của công ty gồm 10 người được phân công các
phần hành kế toán cụ thể:
- Trưởng phòng kế toán tài chính (kiêm kế toán trưởng) chịu
trách nhiệm điều hành chung công tác hạch toán của công ty và các đơn
vị trực thuộc. Là người trực tiếp thông tin báo cáo, giúp giám đốc lập
phương án tự chủ tài chính.
- Phó phòng kế toán giúp việc kế toán trưởng và thay kế toán
trưởng chịu trách nhiệm điều hành chung công tác kế toán của công
ty khi kế toán trưởng đi vắng. Đồng thời quản lý các nghiệp vụ liên
quan đến tiền gửi, tiền vay ngân hàng.
- Kế toán tổng hợp: có trách nhiệm kiểm tra đối chiếu tất cả các
tài khoản vào cuối tháng, quý, năm lập các biểu kế toán, báo cáo
quyết toán, bảng cân đối tài khoản, báo cáo kết quả kinh doanh.
- Các nhân viên phụ trách các phần hành kế toán gồm:
+ Kế toán hàng hoá phụ trách việc xuất nhập khẩu của một phòng
cụ thể, chịu trách nhiệm lượng hàng xuất nhập và theo dõi tiền hàng.
+ Kế toán chi phí kiêm kế toán máy: tập tập phân bổ mọi chi phí
kinh doanh của công ty cho hợp lý. Đồng thời có trách nhiệm tập hợp
số liệu để đưa vào máy vi tính, kiểm tra số liệu của báo cáo kế toán và
bảng tổng kết tài sản.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
45
+ Kế toán tiền lương và thanh toán nội bộ: có trách nhiệm về các
khoản chi trong nội bộ doanh nghiệp.
+ Kế toán thanh toán đối ngoại: thực hiện các giao dịch với ngân
hàng, chịu trách nhiệm về các khoản thanh toán với nước ngoài, kiểm
tra và quản lý chứng từ ngoại.
+ Kế toán TSCĐ: theo dõi sự tăng giảm TSCĐ, tính và trích khấu
hao TSCĐ theo chế độ quy định.
+ Thủ quỹ: quản lý giám sát số lượng tiền xuất nhập quỹ và tiền
gửi ngân hàng.
+ Các nhân viên tại chi nhánh, đơn vị trực thuộc có trách nhiệm
thu thập sử lý sơ bộ chứng từ, định kỳ gửi về phòng kế toán công ty
để theo dõi tập trung.
Sơ đồ phòng kế toán tài chính
Trưởng phòng kế
Phó phòng kế
toán
Kế toán
t ng h p
Phó phòng t i
chính
Bộ
phận
kế
toán
h ng
hoá v
Bộ
phận
kế
toá
n
chi
Bộ
phận
kế
toán
than
h
Bộ
phận
kế
toán
lươn
g v
Bộ
phận
kế
toán
TSCĐ
v kế
Thủ
quỹ
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
46
* Hình thức tổ chức ghi sổ kế toán của công ty
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của công tác kế toán, đặc điểm kinh
doanh của công ty cũng như các hoạt động kinh tế, tài chính quy mô của
công ty gắn liền với khối lượng mức độ phức tạp của các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh mà công ty lựa chọn hình thức kế toán chứng từ ghi sổ.
Việc lựa chọn hình thức ghi sổ cái doanh nghiệp đăng ký với bộ tài
chính. đồng thời tuân thủ các quy định về hệ thống sổ sách và phương
pháp ghi chép theo hình thức kế toán đã lựa chọn. Việc công ty lựa chọn
hình thức chứng từ ghi sổ là phù hợp với nội dung kinh tế phát sinh. đặc
biệt hình thức này có ưu điểm là đơn giản dễ làm dễ kiểm tra, dễ đối
chiếu.
Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức chứng từ – ghi sổ
Các nhân viên
kế toán ở các
đ n v tr c
Chứng từ
g c
Sổ quỹ
Chứng từ
ghi s
Bảng tổng
hợp chứng
t g c
Sổ thẻ kế
toán
chi ti t
Sổ đăng ký
chứng từ
ghi s
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
47
Ghi chú:
5.2. Tình hình xây dựng các kế hoạch tài chính và việc thực hiện các
kế hoạch đó
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn có sự biến động, sự biến
động đó có thể là tốt cũng có thể là xấu đối với công ty. Công ty phải
luôn tìm mọi biện pháp chủ động đối phó với sự biến động đó để có thể
tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh cũng như giảm thiểu đến mức thấp
nhất thiệt hại có thể xảy ra.
Để có thể làm ăn có hiệu quả cao trong nền kinh tế thị trường đòi
hỏi mỗi một doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một kế hoạch kinh
doanh cụ thể. Kế hoạch này phải đảm bảo công ty sẽ tận dụng hết được
năng lực vật chất hiện có để tạo ra lợi nhuận lớn nhất. Trong kế hoạch
kinh doanh thì kế hoạch tài chính là một bộ phận quan trọng nó giúp cho
công ty sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính đã hình thành trong
công ty, tổ chức nguồn vốn hợp lý cho các dự án kinh doanh, phân phối
sử dụng lợi nhuận đúng mục đích.
Ghi h ng
ng y
Ghi cuối
tháng
Đối chiếu,
Bảng cân đối số
phát sinh
Báo cáo t i
chính
SỔ Bảng tổng
hợp chi
ti t
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
48
Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà nội luôn tuân thủ đúng việc lập
kế hoạch tài chính một cách cẩn thận dựa trên các kết quả tài chính của
năm trước, kế hoạch tài chính phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh
của công ty, và phù hợp với yêu cầu của bộ thương mại. Kế hoạch tài
chính do cán bộ phòng kế toán lập ra sau đó gửi lên Bộ Tài Chính để
duyệt nếu Bộ Tài Chính chấp thuận thì công ty sẽ thực hiện kế hoạch tài
chính đó với sự đôn đốc, giám sát của phòng kế toán. Việc lập kế hoạch
tài chính là rất quan trọng, nó chính là mục tiêu mà công ty cần phải
hoàn thành từ đó so sánh kết quả thực hiện được với kế hoạch đã đề ra
công ty sẽ biết được năm qua tình hình tài chính của công ty có hoàn
thành kế hoạch do bộ thương mại giao cho hay không từ đó tìm ra
nguyên nhân và giải pháp để làm sao trong năm tới hoàn thành kế hoạch
được giao. Kế hoạch tài chính chính là phương hướng hoạt động của
công ty, nó giúp cho công ty hoạt động không bị lệch lạc chệnh hướng
khỏi mục tiêu chung của toàn công ty đó là hiệu quả kinh doanh. Trong
khi thực hiện kế hoạch công ty luôn tiến hành phân tích, đánh giá tình
thình thực hiện kế hoạch để tìm ra những sự cố cũng như những diễn
biến mới nảy sinh trong quá trình thực hiện để kịp thời điều chỉnh, thúc
đẩy qúa trình thực hiện tốt kế hoạch đề ra.
5.3 Cơ cấu nguồn vốn
Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động sản xuất kinh doanh
đều phải cần một số vốn nhất định ban đầu. Vốn là một đầu vào quan
trọng nhưng một vấn đề còn quan trọng hơn đặt ra cho mỗi doanh
nghiệp là làm sao để sử dụng vốn có hiệu quả. Việc phân chia nguồn
vốn cho hợp lý là vấn đề cần được quan tâm. Sau đây là cơ cấu nguồn
vốn tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
49
Nguồn vốn Số đầu năm Số cuối năm
A. Nợ phải trả 92.938.498.922 95.429.366.326
I. Nợ ngắn hạn 65.040.010.552 60.457.266.378
II. Nợ dài hạn 23.832.339.110 34.972.099.948
B. Nguồn vốn chủ sở hữu 47.632.710.268 49.932.576.735
I. Nguồn vốn quỹ 46.899.812.023 48.080.781.409
II. Nguồn kinh phí, quỹ khác 732.898.245 1.851.795.326
Tổng nguồn vốn 140.571.209.190 145.361.943.061
Qua bảng trên ta thấy tổng nguồn vốn của công ty giảm tuy nhiên
nguồn vốn chủ sở hữu vẫn tăng và nợ ngắn hạn giảm xuống. Điều này
chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì nguồn vốn chủ sở hữu
mới tăng thêm, tăng được khả năng tự chủ về tài chính vì giảm được các
khoản nợ vay. Nguyên nhân của việc tổng nguồn vốn giảm là do nợ dài
hạn tăng lên và nguồn vốn quỹ cũng tăng lên, công ty cần có kế hoạch
cũng như xem xét lại cơ cấu nguồn vốn cho thích hợp hơn nữa và có kế
hoạch đối với các khoản nợ dài hạn cũng như việc trích lập các quỹ
trong doanh nghiệp cho hợp lý.
5.4 Tình hình tăng giảm nguồn vốn nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn kinh doanh được đầu tư từ các
chủ doanh nghiệp, nớ thể hiện quy mô của doanh nghiệp. Nguồn vốn
này doanh nghiệp hoàn toàn có quyền sử dụng vào mục đích kinh doanh,
không phải hoàn trả như nguồn công nợ (trừ khi có quyết định rút vốn
của chủ sở hữu). Nguồn vốn chủ sở hữu được hình thành từ vốn đầu tư
ban đầu (vốn pháp định) và vốn bổ sung từ lợi nhuận huặc từ các nguồn
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
50
khác. Để phục vụ cho yêu cầu quản lý, nguồn vốn chủ sở hữu được phân
thành nguồn vốn kinh doanh, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, các
quỹ xí nghiệp và các nguồn khác. Sự tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu
có ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng của vốn cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh. Sau đây là số liệu về tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu
của Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
51
Chỉ tiêu Số đầu kỳ Tăng
trong kỳ
Giảm
trong kỳ
Số cuối kỳ
I. Nguồn vốn kinh
doanh
45.210.346.
469
35.715.06
0
45.246.061.
529
1. NSNN cấp 17.804.697.
480
17.804.697.
480
2. Tự bổ sung 27.405.648.
989
35.715.06
0
27.441.364.
049
II. Các quỹ 926.029.01
6
948.966.6
71
35.715.06
0
1.839.280.6
27
1. Quỹ phát triển kinh
doanh
792.779.39
7
888.259.4
05
35.715.06
0
1.645.323.7
42
2. Quỹ nghiên cứu
KH, ĐT
3. Quỹ dự phòng tài
chính
133.249.61
9
60.707.26
6
193.956.88
5
III. Nguồn vốn ĐTXD
cơ bản
306.903.16
5
306.903.16
5
1. Ngân sách cấp 17.508.579 17.508.579
2. Nguồn khác 289.394.58
6
289.394.58
6
IV. Quỹ khác 732.898.24
5
730.559.3
53
1.076.873.
816
2.540.331.4
14
1. Quỹ KT 211.486.54
0
476.352.8
60
170.000.0
00
517.839.40
0
2. Quỹ phúc lợi 454.826.89
5
223.852.8
60
906.873.8
16
598.669.75
5
3. Quỹ DP mất việc
làm
66.584.810 3 .353.63
3
96.938.443
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
52
Qua bảng trên ta thấy trong năm 2003 doanh nghiệp hoạt động có kết
quả tốt thể hiện ở việc nguồn vốn kinh doanh tăng lên. Nguyên nhân
không phải do nhà nước cấp mà do doanh nghiệp tự bổ sung từ lợi
nhuận để lại cho doanh nghiệp. Nguồn vốn quỹ của doanh nghiệp cũng
tăng chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận và quan tâm đến
việc bổ sung nguồn vốn quỹ. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản không
có sự biến động. Trong năm tiếp theo doanh nghiệp cần phát huy tốt hơn
nữa thế mạnh của công ty mình để mở rộng quy mô của công ty.
II. Thực trạng về phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả xuất
khẩu
1. Thực trạng về tổ chức phân tích
a) Các hình thức phân tích
Trong công tác hoạt động kinh tế có nhiều hình thức phân tích mỗi
hình thức đều có một ưu điểm riêng, tuỳ vào mục đích phân tích, yêu
cầu của nhà quản lý mà công ty lựa chọn hình thức phân tích cho phù
hợp. Phòng tổng hợp tại công ty có nhiệm vụ thu thập nắm bắt những
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
53
thông tin mới nhất về thị trường có liên quan tới hoạt động sản xuất kinh
doanh, thu thập số liệu, tài liệu từ các phòng XNK1, XNK2 …. XNK8.
Việc thu thập thông tin được thực hiện mỗi tháng và số liệu cũng được
tổng hợp sau mỗi kỳ kinh doanh.
Dựa vào yêu cầu quản lý và phân tích, phòng tổng hợp áp dụng hai
hình thức phân tích đó là phân tích nghiệp vụ và phân tích định kỳ.
* Phân tích nghiệp vụ
Phân tích nghiệp vụ được tiến hành thường xuyên liên tục tại công
ty xuất nhập khẩu Hà Nội. Công việc này là do phòng tổng hợp đảm
nhận, phòng có chức năng tổng hợp phân tích dữ liệu số liệu phát sinh
cung cấp cho tổng giám đốc để giúp giám đốc kịp thời điều chỉnh sản
xuất kinh doanh, lập các báo cáo định kỳ trình tổng giám đốc, bộ chủ
quản và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Hàng tuần, hàng
tháng phòng tổng hợp đều tập hợp số liệu về kim ngạch xuất khẩu của
các phòng kinh doanh từ phòng xuất nhập khẩu 1 đến phòng xuất nhập
khẩu 8, xí nghiệp tocan, chi nhánh Hải Phòng, chi nhánh TP HCM. Sau
khi số liệu đã được kiểm tra kỹ lưỡng bởi các nhân viên trong phòng
tổng hợp để chắc chắn rằng số liệu là khớp đúng như trong hợp đồng thì
trưởng phòng tổng hợp tiến hành phân tích các số liệu đã thu thập được.
SAU ĐÂY LÀ BÁO CÁO KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU TỪ
1/1/2003 ĐẾN 31/3/2003
Sau khi đã phân tích về tình hình thực hiện xuất khẩu của các phòng so
với kế hoạch, so với cùng kỳ năm trước thì phòng tổng hợp những số
liệu trên lên phòng tổng giám đốc để giúp tổng giám đốc nắm vững tình
hình kinh doanh xuất khẩu từ đó tổng giám đốc có sự chỉ đạo kế hoạch
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
54
kinh doanh cho thích hợp với diễn biến tình hình thực tế.
Ngoài ra phòng Tài chính - Kế toán cũng đóng góp vào việc nhận
định tình hình tình hình kinh doanh, nhận ra những khó khăn đang xảy
ra khi thực hiện hợp đồng như việc ký quỹ mở L/C, hay việc kiểm tra
các hợp đồng xuất khẩu, tính toán các chi phí trong quá trình xuất
khẩu… Kế toán trưởng là người trực tiếp chỉ đạo các nhân viên thực
hiện các công việc liên quan đến xuất khẩu hàng hoá theo đúng quy định
và phù hợp với tình hình diễn biến của thị trường. Kế toán trưởng cũng
đưa ra những nhận xét, đánh giá về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh dựa
trên sự ghi chép hạch toán của phòng kế toán từ đó tham mưu cho giám
đốc cũng như giúp giám đốc nắm được tình hình để đưa ra những quyết
định đúng đắn.
Phân tích nghiệp vụ có một ý nghĩa quan trọng, nó góp phần thúc
đẩy thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, phát hiện và ngăn ngừa
kịp thời những mâu thuẫn tồn tại huặc những khó khăn mới nảy sinh.
Công ty xuất nhập khẩu Hà Nội hiểu rõ tầm quan trọng của công tác
phân tích nghiệp vụ nên các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại công ty luôn
được phân tích một cách thường xuyên toàn diện để làm sao nắm bắt
được trung thực, chính xác diễn biến kinh doanh từ đó đưa ra những
quyết định đúng giúp cho hoạt động kinh doanh được liên tục thông
suốt.
* Phân tích định kỳ
Cứ sau mỗi kỳ kinh doanh công ty đều tiến hành phân tích định kỳ.
Số liệu dùng để phân tích là những số liệu tổng hợp do phòng kế toán
cung cấp và số liệu do phòng tổng hợp thu thập và tổng hợp. Mục đích
của việc phân tích này không nằm ngoài mục đích là kiểm tra đánh giá
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
55
lại tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, qua đó xác định
chính xác kết quả kinh doanh. Đồng thời qua phân tích cũng tìm ra
những mâu thuẫn tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng khách quan
cũng như chủ quan từ đó đề ra những phương hướng biện pháp cải tiến,
hoàn thiện làm cơ sở căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch kỳ tới. Tuy
nhiên việc phân tích định kỳ tại công ty không được thực hiện như lý
thuyết. Ngoài các báo cáo tài chính do phòng kế toán lập: báo cáo kết
quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng
cân đối tài khoản thì cuối năm công ty có lập một báo cáo tổng kết năm
trong đó nêu lên những kết quả mà công ty đã đạt được, đưa ra những
tồn tại cần phải khắc phục, đưa ra phương hướng và kế hoạch hoạt động
cho năm sau.
Sau đây là một vài nét chính trong Báo cáo tổng kết năm 2003
của Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội
Phần I
Tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
1/ Kế hoạch bộ giao cả năm 24.000.000 USD
Trong đó: Xuất khẩu: 7.000.000 USD
Nhập khẩu 17.000.000 USD
2/ Công ty đã thực hiện cả năm 25.892.479 USD
Trong đó: Xuất khẩu: 6.751.486 USD
Nhập khẩu: 19.141.011 USD
Như vậy, cả năm công ty đã thực hiện kim ngạch XNK = 107,89% so
với chỉ tiêu được giao và = 104,05% so với kim ngạch thực hiện năm
2002.
Phần II
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
56
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính
I. Vốn kinh doanh
+ Vốn lưu động : 25.827 triệu đồng
+ Vốn cố định: 19.165 triệu đồng
II. Các chỉ tiêu tài chính cơ bản: kế hoạch thực hiện
1. Doanh thu (triệu đồng) 280.000 327.468
2. Các khoản nộp ngân sách (triệu đồng) 38.542
45.563
Thuế GTGT 16.000 16.936
Thuế XNK 17.870 23.613
Thuế TTĐB 4.000 4.345
Thuế TNDN 672 672
3. Phí trực tiếp (triệu đồng) 15.494
4. Phí quản lý (triệu đồng) 2.465
5. Lợi nhuận (triệu đồng) 2.100
6. Thu nhập bình quân người / tháng
2.100.000
Năm 2003, công ty đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành và hoàn thành
vượt mức các chỉ tiêu tài chính được giao, cụ thể là:
+ Doanh thu đạt 327.468 triệu đồng, bằng 116,9% kế hoạch và bằng
113,9% năm 2002.
+ Nộp ngân sách đạt 45.563 triệu đồng, bằng 118,2% kế hoạch và
bằng 105% năm 2002.
+ Lợi nhuận đạt 2.100 triệu đồng, bằng 100% kế hoạch và bằng
106% năm.
Phần III
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
57
Phương hướng công tác năm 2004
Năm 2004 là năm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện kế
hoạch 05 năm 2001 – 2005. Sự ổn định và phát triển của các doanh
nghiệp, trong đó có công ty ta đóng góp một phần quan trọng trong
việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Phát huy
những kết quả đạt được trong năm 2003, toàn thể cán bộ trong công
ty trên dưới một lòng đoàn kết nhất trí, nỗ lực phấn đấu vì sự phồn
vinh của công ty trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, luôn luôn tự
học hỏi và tìm tòi sáng tạo để tự mình theo kịp sự tiến triển của xã
hội, thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu được giao là:
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu: 26.500.000 USD
Trong đó: + Xuất khẩu 7.500.000 USD
+ Nhập khẩu 19.000.000 USD
2. Doanh thu: 330 tỷ VNĐ
3. Nộp ngân sách: 41,7 tỷ VNĐ
4. Lợi nhuận: 2,2 tỷ VNĐ
Để thực hiện các chỉ tiêu trên chúng ta phải thực hiện các biện pháp
sau:
+ Củng cố và mở rộng thị trường ngoài nước để tăng mạnh kim
ngạch xuất khẩu. Cần phải củng cố những mặt hàng đang xuất và mở
rộng thêm mặt hàng mới vào thị trường truyền thống của công ty là
Canada, Nam mỹ như chilê, argentina, đồng thời tích cực chào bán
hàng cho các thị trường mới như Châu phi, trung đông, các nước
ASEAN… tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại để
phát hiện và kịp thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đẩy mạnh xuất
khẩu.
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
58
+ Chủ động gắn bó với cơ sở sản xuất trong nước để tạo nguồn cung
cấp hàng xuất khẩu ổn định, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu phù hợp
với nhu cầu, thị hiếu luôn thay đổi của thế giới, tạo ra những mặt
hàng có giá thành rẻ, chất lượng cao, tạo sức cạnh tranh cho hàng
xuất khẩu.
+ Mở rộng hoạt động của công ty sang lĩnh vực sản xuất để tạo sự
cân bằng trong hoạt động kinh doanh của công ty có cả sản xuất và
kinh doanh.
+ Giải quyết dứt điểm các công nợ đang tồn đọng và giải phóng
nhanh hàng tồn kho.
2. Tổ chức công tác phân tích
Công tác phân tích có ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Nếu công
tác phân tích được chuẩn bị tốt, kỹ lưỡng, cẩn thận thì sẽ có nhận xét
đánh giá khách quan trung thực về tình hình sản xuất kinh doanh của
công ty, tìm ra được những khó khăn trong quá trình kinh doanh từ đó
mới đề ra được biện pháp điều chỉnh. Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm
hà nội là một công ty nhà nước trực thuộc bộ thương mại, mọi hoạt động
kinh doanh đều do giám đốc chịu trách nhiệm điều hành và quản lý. Do
vậy để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh của mình luôn chính
xác và có hiệu quả thì tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo công việc phân
tích hoạt động kinh doanh trong công ty và phòng tổng hợp được giao
nhiệm vụ đó. Bên cạnh phòng tổng hợp thì kế toán trưởng cũng có trách
nhiệm trong việc nhận định tình hình kinh doanh. Kế toán trưởng trực
tiếp chỉ đạo các nhân viên của mình lập các báo cáo tài chính để phản
ánh trung thực tình hình tài chính của công ty từ đó tham mưu và giúp
giám đốc có cái nhìn tổng quát về tình hình kinh doanh của công ty. Qua
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
59
một thời gian thực tập tại công ty em thấy phòng tổng hợp tổ chức công
tác phân tích như sau:
+Chuẩn bị phân tích: công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà nội có
tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì vậy sau mỗi kỳ kinh doanh công ty
đều tiến hành phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu của công ty. Trước khi phân tích thì phòng tổng hợp tiến hành thu
thập thông tin số liệu từ phòng kinh doanh XNK 1 đến XNK 8 sau đó
kiểm tra lại số liệu đã thu thập được để đảm bảo số liệu hiện có là khớp
đúng về mọi mặt. Số liệu dùng để phân tích tình hình xuất khẩu là do
phòng kinh doanh cung cấp còn số liệu để phân tích hiệu quả kinh doanh
xuất khẩu là do phòng kế toán cung cấp.
+ phân tích: Sau khi đã thu thập và sử lý số liệu phòng tổng hợp
tiến hành phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Phương
pháp được sử dụng để phân tích là phương pháp so sánh, phương pháp
biểu mẫu phương pháp số chênh lệch. Nội dung phân tích tình hình xuất
khẩu: phân tích tình hình xuất khẩu theo phòng kinh doanh, phân tích
chung tình hình xuất khẩu, phân tích tình hình xuất khẩu theo các đơn vị
trực thuộc, theo các mặt hàng chủ yếu. Các chỉ tiêu được chọn để phân
tích hiệu quả xuất khẩu là lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ
suất lợi nhuận trên nguồn vốn chủ sở hữu, sau mỗi bảng biểu mà phòng
lập ra đều có nhận xét đánh giá nhưng còn sơ sài, chung chung chưa chỉ
ra được các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu và nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty.
Công ty không đi sâu phân tích từng nội dung cụ thể nào nên cũng
không có các báo cáo phân tích được lập theo quy định mà việc lập biểu
phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu được phản ánh hết vào báo cáo
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
60
tổng kết năm, trong báo cáo đó trình bày một cách khái quát tóm lược
tình hình kinh doanh của công ty trong đó có tình hình xuất khẩu và hiệu
quả xuất khẩu. Báo cáo tổng kết năm được công bố công khai cho mọi
thành viên trong công ty được biết.
Trên đây là các bước tiến hành phân tích sau mỗi kỳ kinh doanh,
qua các bước trên ta thấy Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội cũng
chú trọng đến công tác phân tích hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên việc phân tích này vẫn còn nhiều thiếu sót cần phải
thay đổi để phát huy vai trò của phân tích hoạt động kinh tế trong việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2. Thực trạng về nội dung phân tích tình và hiệu quả xuất khẩu
2.1/ Thực trạng về nội dung phân tích tình hình xuất khẩu
2.1.1 Phân tích chung tình hình xuất khẩu
Sau mỗi một kỳ kinh doanh công ty tiến hành phân tích chung
tình hình xuất khẩu để thấy được mức độ hoàn thành kế hoạch do bộ
giao bằng cách so sánh doanh số xuất khẩu thực tế công ty đạt được
và doanh số kế hoạch do Bộ giao cho.
Biểu 1: Phân tích chung tình hình xuất khẩu
Đơn vị tính: USD
Chỉ tiêu
Kế hoạch
Thực hiện
Chênh lệch
Số tiền Tỷlệ
(%)
Tổng doanh số xuất
khẩu
7.000.000 6.751.486 -
248.514
-3.55
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
61
Về xuất khẩu: Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu của công ty không hoàn
thành so với kế hoạch đã định. Kim ngạch xuất khẩu đạt 6.751.486 USD
giảm 248.514 USD so với kế hoạch tương ứng với tỷ lệ giảm 3,55%.
Năm 2003 công ty thực hiện kim ngạch xuất khẩu thấp, chưa xứng với
tiềm năng hiện có của công ty. Một mặt do nguyên nhân khách quan là
kinh tế thế giới năm qua có nhiều khó khăn, sức mua giảm, giá thành
hàng xuất khẩu Việt Nam còn cao nhưng yếu tố chủ quan của chúng ta
là chính. Chúng ta thiếu sự gắn kết, hợp tác thực sự với các cơ sở sản
xuất nên nguồn cung cấp hàng xuất khẩu cho chúng ta không ổn định,
còn mang tính chất thu gom là chính. Nghiệp vụ giao dịch chào bán
hàng xuất khẩu của cán bộ còn yếu, về tư tưởng còn ngại làm hàng xuất
khẩu vì làm hàng xuất khẩu cần phải đầu tư thời gian, công sức, chi phí.
Chính vì vậy kim ngạch của chúng ta còn thấp. Việc này nguyên nhân
đã rõ, chúng ta cần rút kinh nghiệp, tìm ra biện pháp khắc phục để đẩy
mạnh xuất khẩu năm 2004, phấn đấu đạt kế hoạch xuất khẩu Bộ giao
năm 2004 cho công ty là 7,5 triệu USD.
2.1.2 Phân tích tình hình xuất khẩu theo năm
Phân tích tình hình xuất khẩu theo năm nhằm thấy được tốc độ phát
triển của doanh thu xuất khẩu qua các năm, xu hướng biến động của
doanh thu theo chiều hướng nào tăng hay giảmlàm cơ sở cho việc xây
dựng kế hoạch xuất khẩu cho phù hợp.
Biểu 2: Phân tích tình hình xuất khẩu theo năm
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
62
Đơn vị tính: Đồng
Tốc độ phát triển của tổng doanh thu có xu hướng tăng, giảm không đều
qua các năm, năm 2002 tốc độ phát triển của doanh thu có giảm đi chút
ít so với năm 2001 là 2,2% nhưng đến năm 2003 thì tốc độ phát triển của
doanh thu lại cao hơn so với năm 2002 là 27,3%.
Tốc độ phát triển của doanh thu xuất khẩu lên xuống thất thường.
Trong năm 2001, 2002 thì tốc độ tăng của doanh thu rất cao so với năm
2000 nhưng đến năm 2003 thì tốc độ tăng của doanh thu lại giảm
xuống. Như vậy công ty cần phải nâng cao kim ngạch xuất khẩu và ổn
định tốc độ phát triển của doanh thu.
2.1.3 Phân tích tình hình xuất khẩu theo tháng
Để thực hiện tốt kế hoạch xuất khẩu đòi hỏi công ty phải theo dõi
kim ngạch xuất khẩu qua từng tháng, từng quý làm cơ sở căn cứ cho
việc tổ chức chỉ đạo và quản lý kinh doanh. Phân tích tình hình xuất
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003
Tổng doanh thu
187.150.996.
333
292.330.059.
525
288.237.355.
415
339.452.206.
648
Doanh thu xuất
khẩu
28.752.502.2
87
58.198.858.4
51
52.473.706.5
81
47.533.635.2
39
Tốc độ phát triển
định gốc của
tổng DT
100 156,2 154 181.3
Tốc độ phát triển
định gốc của
DTXK
100 178,1 182,5 165,3
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
63
khẩu theo tháng nhằm mục đích thấy được mức độ và tiến độ hoàn thành
kế hoạch xuất khẩu. Đồng thời qua phân tích cũng thấy được sự biến
động của kim ngạch xuất khẩu ở các thời điểm khác nhau và những nhân
tố ảnh hưởng của chúng để có chính sách và biện pháp thích hợp trong
việc chỉ đạo kinh doanh. Hơn nữa việc phân tích tình hình xuất khẩu
theo tháng cũng giúp công ty biết được tình hình xuất khẩu qua từng
tháng có ổn định hay không, kim ngạch xuất khẩu cao hay thấp từ đó có
biện pháp cải thiện và có kế hoạch ổn định tình hình xuất khẩu qua các
tháng để không có tình trạng tháng thì xuất khẩu được tháng thì không
hay tháng thì kim ngạch xuất khẩu cao tháng thì kim ngạch xuất khẩu
thấp. Nội dung phân tích này là phù hợp với yêu cầu của công ty vì kim
ngạch xuất khẩu của công ty qua các tháng là không đều nhau.
Hàng tháng tại phòng tổng hợp của công ty có tập hợp số liệu về
kim ngạch xuất khẩu để đánh giá tình hình xuất khẩu qua từng tháng.
Sau đây là báo cáo xuất khẩu tháng 12 năm 2003
Biểu 3: Phân tích tình hình xuất khẩu theo tháng
Đơn vị tính:
USD
Mặt hàng/Nước ĐVT XK tháng 12 Luỹ kế XK 12 tháng
Số
lượng
Trị giá
(USD) Số lượng
Trị giá
(USD)
Tổng trị giá USD 446.294 6.751.486
_ Trong đó: MD "
GC " 40.297
_ Tự doanh: " 446.294 6.703.902
_ Uỷ thác " 7.287
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
64
1/ Canada " 2.947.700
2/ Úc " 100.054 396.154
3/ Lào " 474.811
4/ Anh " 155.783
5/ Hungari " 11.010
6/ Irắc " 318.118 2.091.600
7/ Philipin " 28.122 495.400
8/ Tây ban nha " 28.643
9/ Chilê " 37.950
10/ Nhật " 13.487
11/ Cộng hoà Séc " 5.000
12/Đức " 30.617
13/ Italia " 53.923
14/ U.A.E " 9.408
Mặt hàng/Nước đến 446.294 6.751.486
1. Chổi sơn " 346.240 3.483.157
_ Canada " 318.118 2.936.345
_Úc " 28.122 391.029
_ Anh " 155.783
2. Quần áo Chiếc 41.972
_ Canada " 11.355
_ Đức " 30.617
*3.Mây tre đan USD 22.895
_ Nhật " 13.487
_ U.A.E " 9.408
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
65
4.Gốm sứ, sơn
mài/TBN " 28.643
5.Đồ gỗ mỹ
nghệ/Italia 53.923
6.Mỳ ăn liền / CH
Séc 5.000
7. Ng.liệu sx mỳ/ Lào USD 100.054 474.811
8. VPP/ Irắc USD 2.091.600
9. Thảm cói /
Hungari 11.010
10. Gạo /chile USD 538.475
Tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 12 là 446.294 USD dẫn đến tổng
kim ngạch xuất khẩu 12 tháng là 6.751.486 USD trong đó gia công là
40.297 USD, xuất khẩu trực tiếp là 6.703.902 USD, xuất khẩu uỷ thác
là 7.287 USD. Như vậy kim ngạch xuất khẩu mà công ty đạt được
chủ yếu là do công ty tự xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu do gia công
và uỷ thác đem lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ.
Thông qua báo cáo xuất khẩu từng tháng như trên thì công ty biết
được tổng trị giá xuất khẩu là bao nhiêu trong đó có chi tiết ra từng
mục một đó là hàng mậu dịch, hàng gia công, hàng xuất khẩu uỷ thác,
và hàng xuất khẩu trực tiếp. Báo cáo cũng cho biết công ty xuất khẩu
sang thị trường nào, mặt hàng gì với giá trị xuất khẩu như thế nào.
2.1.4 Phân tích tình hình xuất khẩu theo các phòng kinh doanh
Hàng tháng các phòng kinh doanh đều cung cấp số liệu cho phòng
tổng hợp, phòng tổng hợp phân tích tình hình xuất khẩu theo các phòng
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
66
này bằng bảng sau:
Biểu 4: Phân tích tình hình xuất khẩu theo các phòng kinh doanh
Đơn vị tính: USD
Phòng kinh doanh
Các chỉ tiêu kế
hoạc năm
2003 (USD)
Thực hiện năm
2003(USD)
% hoàn
thành kế
hoạch
xuất khẩu
Phòng XNK 1 300.000 315.000 105
Phòng XNK 2 673.000 538.542 80
Phòng XNK 3 456.000 396.758 87
Phòng XNK 4 587.000 422.897 72,04
Phòng XNK 6 400.000 425.421 106,3
Phòng XNK 7 384.000 295.857 77,04
Phòng XNK 8 700.000 752.123 107,4
Xí nghiệp TOCAN 3.000.000 3.234.152 107,8
Chi nhánh Hải
Phòng
200.000 170.000 85
Chi nhánhTP. HCM 300.000 200.736 66,91
Tổng cộng 7.000.000 6.751.486 96,5
Như vậy công ty không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu, % hoàn
thành kim ngạch xuất khẩu so với kế hoạch đạt 96,5% giảm 3,5%. đứng
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
67
đầu về kim ngạch xuất khẩu của công ty là xí nghiệp tocan với kim
ngạch xuất khẩu là 3.234.152 USD, đứng thứ 2 là phòng XNK 8 với kim
ngạch xuất khẩu là 752.123 USD và đứng thứ 3 là phòng XNK 2 với
kim ngạch xuất khẩu là 538.542 USD.
Các bộ phận phòng ban đã có nhiều cố gắng để hoàn thành kế hoạch
của công ty giao, tuy nhiên hoạt động của các bộ phận chưa đều tay.
Công ty có 11 bộ phận kinh doanh, trong đó có 4 phòng ban đã hoàn
thành và hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch:
1. Xí nghiệp TOCAN: 107,8% 3. Phòng XNK 6:
106,3%
2. Phòng XNK 8: 107,4% 4. Phòng XNK 1:
105%
có 6 bộ phận không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu đó là phòng XNK 2,
XNK 3, XNK 4, XNK 7, chi nhánh Hải Phòng và chi nhánh TP. HCM
Xí nghiệp TOCAN: Năm 2003 mặc dù có nhiều biến động như phải
điều chuyển bố trí lại sản xuất, tình hình nước úng ngập kéo dài, cuối
năm bị thiếu hụt nguyên liệu trầm trọng song xí nghiệp vẫn cố gắng
khắc phục để hoàn thành các chỉ tiêu được giao như thực hiện kim ngạch
XK là 3.234.152 bằng 107,8% so với kế hoạch.
Hai chi nhánh tại Hải Phòng và tại T.P HCM: trong năm qua cả hai chi
nhánh đều được củng cố lại và bắt tay vào hoạt động kinh doanh, tuy
kim ngạch chưa cao nhưng đã đánh giá được sự ổn định và cố gắng của
cả hai chi nhánh. Chi nhánh Hải Phòng có triển vọng trở thành một bộ
phận kinh doanh khá của công ty.
2.1.6 Phân tích tình hình xuất khẩu theo các mặt hàng chủ yếu
Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội kinh doanh xuất nhập
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
68
khẩu rất nhiều loại hàng hoá khác nhau, nhưng có những mặt hàng xuất
khẩu là mặt hàng chủ lực của công ty. Để biết được các mặt hàng chủ
yếu đã được thực hiện xuất khẩu so với kế hoạch như thế nào công ty
sau mỗi kỳ kinh doanh công ty đã thống kê như sau:
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là:
+ Chổi quét sơn: 3.483.157/ 3.000.000 USD KH
+ Hàng văn phòng phẩm: 2.091.600 / 1.000.000 KH
+ Hàng nông sản: 538.475 USD
+Hàng nguyên liệu xuất khẩu cho xí nghiệp liên doanh mỳ lào: 474.811
USD
+ Hàng xuất khẩu khác: 163.425 USD
So với năm 2002, xuất khẩu năm 2003 vượt trên 15% (6,751 / 5,853
triệu USD). Tuy kim ngạch có tăng trưởng nhưng mặt hàng thì chưa
được mở rộng và triển vọng duy trì tăng trưởng là không mấy sáng sủa.
Kim ngạch xuất khẩu tập trung phần lớn là hàng chổi quét sơn của xí
nghiệp tocan và hàng xuất đi Iraq. Trong thời gian qua việc đầu tư mở
rộng sản xuất của đối tác nước ngoài vào xí nghiệp tocan là không có
nên khả năng tăng trưởng xuất khẩu của mặt hàng chổi quét sơn là thấp.
Chính vì vậy kế hoạch XNK của công ty giao cho xí nghiệp tocan năm
2004 chỉ bằng năm 2003. Do tình hình chiến tranh, việc xuất khẩu hàng
hoá sang Iraq đã bị dừng lại từ đầu năm 2003. Hiện tại việc nối lại hàng
xuất sang Iraq là không chắc chắn, rủi ro rất cao vì tình hình chính trị, an
ninh của Iraq rất không ổn định, các vụ khủng bố xảy ra thường xuyên
trong khi các hãng bảo hiểm lại không dám bán bảo hiểm chiến tranh
cho hàng xuất đi Iraq.
Trong khi đó, nhóm hàng truyền thống của công ty ta trong nhiều
LuËn v¨n tèt nghiÖp k36 - d5
Hµ néi 2004
69
năm như gốm sứ, mây tre, thủ công mỹ nghệ ngày càng suy giảm. những
mặt hàng khác như cao su, mỳ ăn liền, các loại gia vị… xuất khẩu bấp
bênh, kim ngạch không đáng kể. Trong năm qua công ty đã xuất khẩu
được gần 3000 tấn gạo đi Chile. Số lượng gạo xuất đi Chile tuy còn nhỏ
nhưng nếu chúng ta làm tốt, đặc biệt là vấn đề thông tin giá cả, thị
trường cho khách hàng thì có thể tăng trưởng khá.
Trong năm 2003 đối với các mặt hàng chủ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.pdf