Tài liệu Luận văn Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay: Luận văn
Đề Tài:
Những nhân tố tác động
đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay
LỜI GIỚI THIỆU
1. Bối cảnh nghiên cứu
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một
bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày
và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong
trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi
nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được
đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất
theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ
nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và
hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước
ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo
toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước
nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm...
51 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Những nhân tố tác động
đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay
LỜI GIỚI THIỆU
1. Bối cảnh nghiên cứu
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một
bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày
và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong
trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi
nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được
đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất
theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ
nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và
hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước
ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo
toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước
nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm khoảng
50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ do bão
lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới
thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với
ngưỡng nghèo của thế giới.
2. Mục đích nghiên cứu
Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sồng trong cảnh cùng cực, Việt
Nam sẽ khó thực hiện được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Vấn đề đặt ra là
phải làm sao đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những
chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu
được những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo đói của Việt Nam.
Nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi sâu vào
thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời
vào cảnh khối cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xã hội, sự
phân hoá giàu nghèo giữa các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta
hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói ở Việt Nam cũng như nhiều
nước trên thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng
cuộc sống của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối
* 2USD tính theo PPP
cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng để giúp
xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ chỉ ra tổng quan của sự nghèo đói trên thế giới và chủ
yếu xoáy sâu vào tình trạng nghèo đói ở Việt Nam, trong những năm gần đây.
Đối tượng được đề cập đến chính là những người nghèo đói. Họ là ai và mức
khốn khổ của họ đến đâu, cần phải làm những gì cho cuộc sống của họ tốt đẹp
hơn. Thông qua các ngưỡng nghèo, các chỉ tiêu đánh giá đói nghèo như chất
lượng của cuộc sống, mức nghèo đến đâu, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm
bảo y tế như thế nào, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm bảo y tế như thế nào.
Nó sẽ xác định được các đối tượng rơi vào diện nghèo, diện đói.
4. Các câu hỏi nghiên cứu
Để đánh giá chính xác về tình trạng của nghèo đói ta cần trả lời các câu
hỏi:
- Đói nghèo là gì?
- Đói nghèo được biểu hiện ở những khía cạnh nào?
- Các chỉ tiêu và chuẩn mực để xác định và đánh giá đói nghèo?
- Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong những năm gần đây?
- Các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo đói?
- Các biện pháp khắc phục?
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích được tình trạng nghèo đói thì ta cần dùng một số phương
pháp như phân tích, đánh giá, so sánh, thống kê và mô tả nhằm phân tích xoáy
sâu vào các nhân tố tác động đến sự nghèo khó, đánh giá xem mức độ nghèo
đói đến đâu, diễn biến của nó như thế nào là phạm vi ảnh hưởng của nó ra
sao. Mặt khác cần phải có sự kết hợp với các số liệu thống kê để phản ánh
tình trạng nghèo đói một cách trung thực hơn, chính xác hơn. Qua đó cho
phép ta so sánh được các người nghèo, các nhóm dân cư nghèo, các vùng
nghèo và các quốc gia nghèo khác nhau.
6. Kết cấu của đề tài:
Đề tài sẽ được chia làm 3 phần:
Chương 1: Đói nghèo - các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo.
Chương 2: Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo.
Do phạm vi nghiên cứu rộng, năng lực và kinh nghiệm bản thân có hạn,
đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em mong nhận được
sự chỉ dẫn, gợi ý, nhận xét của thầy cô để bổ sung và hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên: Nguyễn Vũ Phúc
Lớp K35-F1 trường Đại học Thương mại
Chương 1: Tổng quan của đói nghèo
1.1. Khái niệm về đói nghèo
1.1.1. Định nghĩa về đói nghèo
Đói nghèo từ tiếng nói của chính người nghèo.
Tiếng nói của người nghèo cho ta những cảm nhận cụ thể, rõ ràng nhất
về các khía cạnh của nghèo đói (nghèo đói không chỉ bao hàm sự khốn cùng
về vật chất mà còn là sự thụ hưởng thiếu thốn về giáo dục và y tế. Một người
nghèo ở Kênia đã nói về sự nghèo đói: “Hãy quan sát ngôi nhà và đếm xem
có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và quần áo
tôi đang mặc trên người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ông thấy. Cái
mà ông thấy chính là nghèo đói”. Một nhóm thảo luận Braxin đã định nghĩa
về đói nghèo là: “Tiền lương thấp và thiếu việc làm, và cũng có nghĩa là
không được hưởng thụ về y tế, không có thức ăn và quần áo”. Ngoài ra, khái
niệm đói nghèo còn được mở rộng để tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương,
không có tiếng nó và quyền lực. Từ tiếng nói của người nghèo, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm về đói nghèo. Tuỳ thuộc vào cách tiếp
cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc gia mà ta có
các quan điểm khác nhau về nghèo đói.
Quan niệm trước đây
Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp.
Coi thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người.
Quan niệm này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo
dựa theo chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác
định đói nghèo theo thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống. Thu nhập
thấp không phản ánh hết được các khía cạnh của đói nghèo, nó không cho
chúng ta biết được mức khốn khổ và cơ cực của những người nghèo. Do đó,
quan niệm này còn rất nhiều hạn chế.
Quan điểm hiện nay
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo
đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp
cận khác nhau:
- Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu Á Thái Bình Dương
do ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái
niệm về định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập
quán của địa phương.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức
trung bình của cộng đồng.
+ Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng
cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ
yếu là trong lĩnh vực kinh tế.
+ Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực,
một vùng.
- Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự
nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo.
+ Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người
như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được
nuôi dưỡng tạm đủ.
+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng
chi tiêu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác
định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí
lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở
nước này hoặc nước khác.
Quan niệm của Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm
nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng:
Ở Việt Nam thì tách riêng đói và nghèo thành 2 khái niệm riêng biệt.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống.
Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay
mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không
đáng kể, nhà ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg
gạo/người/tháng (tương đương 45.000VND).
Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói:
“Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về
cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia
vào các quyết định của cộng đồng”
Qua các cách tiếp cận trên đã giúp chúng ta nâng cao sự hiểu về các
nguyên nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức hành
động đúng đắn để tấn công đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống
của người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
Các khía cạnh của đói nghèo.
Về thu nhập:
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có
mức thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người
nghèo thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công
việc cực nhọc nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công
việc này lại thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc
vào thời vụ và có tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn
như mưa, nắng, lũ lụt, hạn hán, động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp là những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên
việc chi tiêu cho cuộc sống của những người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết
các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ
được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí còn không đủ. Nhiều người rơi
vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề đủ dinh dưỡng, riêng việc
đáp ứng lượng Kcalo cần thiết, tối thiểu cho con người để có thể duy trì hoạt
động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc đáp ứng một cách
khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm sức
khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập...
cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra
được.
Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo.
Tài sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài
sản tài chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được
sức lao động cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Như đã trình bày ở trên, do thu
nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu về
lương thực thực phảam. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao động nặng nề
đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo do đó cũng không đảm bảo được các
kỹ năng cũng như sức lao động cơ bản. Tài sản tự nhiên như đât đai, thiếu tài
sản tự nhiên có nghĩa là thiếu, không có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi,
không thể canh tác được. Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản
xuất - người nghèo có rất ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất.
Điều này đã hạn chế khả năng lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so
với những người có đủ phương tiện sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của
họ. Còn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ,
dột nát, chật chội. Nhiều căn nhà không đủ đảm bảo an toàn, không bảo đảm
sức khoẻ cho những người sống trong đó. Do không có những tài sản giá trị
để bảo đảm nên người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận với các tổ chức
cho vay vốn, do thu nhập thấp nên người nghèo cũng không có khả năng tiết
kiệm nhiều. Đó chính là thiếu hụt tài sản tài chính. Còn tài sản xã hội, như
các mối quan hệ và trách nhiệm đối với nhau để khi cần có thể nhờ cậy và ảnh
hưởng chính trị đối với các nguồn lực, đối với người nghèo điều này cũng rất
hạn chế, do thu nhập thấp, lúc nào cũng phải lo chạy ăn đủ bữa nên người
nghèo không quan tâm hoặc không có khả năng tham gia nhiều vào các mối
quan hệ xã hội. Một điều cản trở nữa là, hầu hết khi tham gia vào các nhóm,
tổ chức nào đó cũng đều phải đóng một khoản phí nhất định, người nghèo lo
ăn còn chưa đủ, nói gì đến việc bỏ tiền tham gia nhóm, hội nào đó. Điều này
đã làm cho người nghèo dần bị cô lập và do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ
các nhóm, hội khi gặp khó khăn.
Y tế - giáo dục
Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao
như ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt
do ăn uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở
những vùng có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ
không được sử dụng nguồn nước sạch, không có công trình phụ hợp vệ sinh,
điều này cũng làm giảm đáng kể sức khoẻ của họ. Nó đã dẫn đến tình trạng tỷ
lệ chết của trẻ sơ sinh trong nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà
mẹ mang thai thiếu máu rất cao. Có điều này là do người nghèo có thu nhập
thấp, không đủ trả khoản tiền viện phí lớn cũng như các chi phí thuốc men
khác, thêm vào đó có thể do đối xử bất bình đẳng trong xã hội, người nghèo
không được quan tâm chữa trị bằng người giàu nên tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ
y tế của người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó, do nhận thức của người nghèo,
họ thường không quan tâm lắm bệnh tật của mình, khi bị bệnh họ thường cố
tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi bệnh trở nên trầm trọng
họ mới vào viện vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả không cao mà còn tốn
thêm nhiều khoản tiền không đáng có.
Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng.
Hầu hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ
thất học, mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Có tình trạng như vậy là do các gia
đình này không thể trang trải được các chi phí về họctập của con cái họ như
tiền học phí, tiền sách vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình.
Những người nghèo cũng đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức
với nghèo đói nhưng vấn đề học phí của con em họ quả là vấn đề quá khó
khăn với tình hình tài chính của gia đình. Một phụ nữ đã nói: “Các con tôi đã
sẵn sàng tới trường vào tháng 9, nhưng tôi không biết làm thế nào để có thể
cho cả ba đứa tới trường. Ở một số nước, trẻ em phải thôi học bởi lỡ hạn nộp
học phí đến đúng vào lúc mà gia đình không có khả năng thanh toán nhất.
Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ
cũng đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như
tương lai của họ và gia đình nhưng do thu nhập thấp, không đủ trang trải, học
phí, viện phí, họ đành phải để con cái thôi học, người bệnh không được khám
và chữa chạy đúng mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp
cận với các dịch vụ y tế. Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ,
giảm sức khoẻ cũng như hạn chế cơ hội phát triển của các thế hệ sau.
Nguy cơ dễ bị tổn thương
Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm
với sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là
gì? Nó chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
như bị ngược đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Nói cách
khác, những rủi ro mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của
họ chính là nguyên nhân khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo
do tài sản ít, thu nhập thấp, họ chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu
cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn
thương và rất khó vượt qua được các cú sốc có hại, những cú sốc mang tính
tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ dàng vượt qua được. Do thu
nhập thấp, người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với các cơ hội tăng trưởng
kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí không đáng có hoặc giảm
thu nhập. Ở các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay có người bị
ốm đau thì họ dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đảo lộn cuộc sống
của cả gia đình mà một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có
khi việc khắc phục những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự
khốn cùng của họ trong dài hạn. Chẳng hạn, ví dụ trên, do thiếu tài sản nên để
chạy chữa cho một người bị ốm, gia đình đã buộc phải quyết định cho một
đứa con nghỉ học hay họ phải bán trâu, bò, ngựa... những phương tiện lao
động cần thiết của gia đình. Cũng có thể người bệnh thì không khỏi được còn
gia đình từ cảnh khá giả rơi vào cảnh khốn cùng. Như vậy, nếu có thêm một
vài sự kiện nghiêm trọng nữa xảy ra thì sự suy sụp đến cùng kiệt là điều khó
tránh khỏi với người nghèo.
Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo
là sợ phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang
tính rủi ro cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành
công (ví dụ đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...)
chính điều này đã làm họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng
quay của thị trường và do vậy cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.
Không có tiếng nói và quyền lực
Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề
xã hội do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc
chung của cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân
họ. Trong cuộc sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt
đối xử, chịu sự thô bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người
bình thường khác nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị
sống phụ thuộc, luôn nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, không kiểm soát
được cuộc sống của mình. Đó chính là kết quả mà nguyên nhân không có
tiếng nói và quyền lực đem lại. Một người nghèo ở Trà Vinh nói họ chẳng
được gọi đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi lao động thì mới được gọi tới. Kể
cả khi họ tham gia được các cuộc họp của cộng đồng thì họ cũng không thể
quyết định được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan đến lợi ích của chính
họ.
Không có tiếng nói và quyền lực còn thể hiện ở chỗ những người phụ nữ
bị đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ nữ không có
quyền quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng của
họ.
1.2. Các thước đo chuẩn mực đánh giá đói nghèo
1.2.1. Các thước đo đói nghèo.
Đo lường đói nghèo thông qua các chỉ tiêu như thu nhập, chỉ số về giáo
dục và y tế, nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nói và quyền lực cho
phép có được một cách nhìn tổng thể về đói nghèo. Nó phản ánh chính xác
các nguyên nhân gây ra đói nghèo, từ đó chính phủ hay cộng đồng quốc tế có
các biện pháp thích hợp để hành động.
Đói nghèo theo thu nhập
Sử dụng thước đo thu nhập hay tiêu dùng bằng tiền để xác định và đo
lường đói nghèo là một phương pháp đã được áp dụng từ lâu. Từ năm 1899
Seebohm Rowntree đã sử dụng phương pháp này để đo lường đói nghèo. Qua
các cuộc khảo sát về thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình ông đã đưa ra
định nghĩa: “Đói nghèo là mức tổng thu nhập không đủ trang trải nhu cầu
thiết yếu tối thiểu để duy trì sức lực cơ bắp thuần tuý”. Nhu cầu thiết yếu đó
bao gồm thực phẩm, tiền thuê nhà và một số thứ khác. Từ đó ông đã đi đến
ước tính về đói nghèo của mình. Tuy cách làm này còn nhiều hạn chế song nó
cũng phản ánh được phần lớn tình trạng nghèo khổ của người dân lúc bấy giờ.
Hiện nay WB vẫn sử dụng phương pháp và cách tiếp cận giống như của
Rowntree. Cách làm này cũng được nhiều quốc gia áp dụng vì nó có nhiều ưu
điểm. Điều tra hộ gia đình thu được nhiều thông tin, là căn cứ để tìm ra các
mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau của đói nghèo, từ đó đưa ra các
giải pháp hữu hiệu. Ngoài ra, thước đo đói nghèo theo thu nhập và tiêu dùng
đã xác định được ngưỡng nghèo. Đây là ranh giới quan trọng về thu nhập hay
tiêu dùng mà dưới đó, các cá nhân và hộ gia đình bị coi là nghèo. Cách làm
này xem ra rất tiện dụng khi đưa ra các con số tổng hợp đói nghèo trên phạm
vi toàn cầu. WB đưa ngưỡng nghèo là 1USD/người/ngày và
2USD/người/ngày* bị coi là nghèo đói. Bên cạnh các ưu điểm nêu trên,
phương pháp này còn có một số hạn chế. Đó là, các cách điều tra khác nhau
giữa các thời kỳ, giữa các vùng, khu vực, giữa các quốc gia làm cho việc so
sánh gặp nhiều khó khăn, số liệu thu thập từ các hộ gia đình thường không
đầy đủ và chính xác, không phản ánh hết tình trạng bất bình đẳng chung của
đói nghèo.
Y tế và giáo dục
Ngoài cách tiếp cận dựa vào thu nhập WB còn sử dụng thước đo y tế và
giáo dục để đo lường sự khốn cùng của người dân. Nó bao gồm các chỉ tiêu:
* Về y tế:
* Tính theo PPP
-
Tỷ lệ trẻ em sơ sinh; nặng dưới 2
5kg =
Số trẻ sơ sinh nặng dưới 2
5kg;Tổng số trẻ sơ sinh trong năm x 100
- Tỷ lệ bà mẹ có thai; khám thai ít nhất 3 lần
=
Số phụ nữ có thai
khám thai ít nhất 3 lần; Tổng phụ nữ sinh con trong năm
x100
- Tỷ lệ bà mẹ có thai; tiêm uốn ván đủ mũi =
Số phụ nữ có thai
tiêm đủ mũi uốn ván;Tổng số phụ nữ sinh con trong năm x100
- Tỷ lệ hộ có giếng nước;hợp vệ sinh = Error!x100
- Tỷ lệ hộ có hố xí;hợp vệ sinh = Error! x 100
- Tỷ lệ tử vong; trẻ sơ sinh = Error!
- Tỷ lệ tử vong;của sản phụ = Error!
- Tuổi thọ bình quân là số năm trung bình một người có thể sống được.
- Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai là tỷ lệ phụ nữ đang thực hiện
hay bạn đời của họ đang thực hiện bất kỳ hình thức tránh thai nào.
+ Về giáo dục:
- Tỷ lệ trẻ đến trường; đúng độ tuổi = Error! x 100
- Tỷ lệ trẻ ngoài; trường học = Error! x 100
- Tỷ lệ mù chữ; ở người lớn = Error! x 100
Đo lường nghèo đói dựa vào các chỉ số trên cho phép phản ánh đầy đủ
các khía cạnh của người nghèo. Nó giúp ta có một bức tranh đầy đủ hơn về
chất lượng cuộc sống của người dân, nó thuận lợi cho việc so sánh nghèo đói
ở những nơi có thu nhập ngang nhau. Nhưng, trong thực tế, việc thu thập số
liệu về các chỉ số này gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ như các ví dụ về tỷ lệ tử
vong của trẻ em chủ yếu được lấy ra từ các kết quả điều tra dân số định kỳ, vì
vậy các số liệu vẫn còn sự sai lệch khá lớn. Về tuổi thọ bình quân cũng rất
khó xác định chính xác vì nó thường không được đo lường trực tiếp. Các số
liệu về giáo dục cũng thất vọng không kém. Tỷ lệ đến trường cũng chỉ là con
số ước tính thay cho số đến trường thực tế. Hơn nữa, tỷ lệ tổng số học sinh
học tiểu học có thể tăng nếu số học sinh lưu ban tăng. Tuy nhiên, hiện nay,
các nhà nghiên cứu đã có nhiều sáng kiến, họ đang cố gắng tìm ra những
phương pháp hữu hiệ để có thể đưa ra các số liệu đáng tin cậy hơn.
Nguy cơ dễ bị tổn thương
Đo lường nguy cơ dễ bị tổn thương chính là đo lường mức độ chống
chọi với các cú sốc của những hộ gia đình như gặp rủi ro, bị ngược đãi, đánh
đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Chẳng hạn, khi gặp rủi ro, các hộ
gia đình có khả năng bù đắp lại các thiệt hại hay không và mức bù đắp như
thế nào? Thông thường, người ta đo lường và đánh giá nguy cơ dễ bị tổn
thương qua các góc độ:
- Về tài sản vật chất: là những tài sản mà hộ có thể bán đi để bù đắp
những mất mát tạm thời về thu nhập. Đây là thước đo về khả năng tự bảo
hiểm của họ. Tài sản vật chất của hộ gia đình được xem xét theo hai khía cạnh
giá trị và tính thanh khoản của nó. Tài sản có tính thanh khoản cao (hay khả
năng hoá giá cao) thì mức độ bảo hiểm sẽ càng cao.
- Về vốn con người: Các hộ gia đình có trình độ học vấn hạn chế thường
dễ phải chịu sự bất ổn định về thu nhập và ít có khả năng quản lý rủi ro hơn.
- Về đa dạng hoá thu nhập: ở nông thôn, hoạt động phi nông nghiệp
mang tính rủi ro ít hơn hoạt động nông nghiệp. Vì vậy đa dạng hoá thu nhập
là thước đo khả năng chống chọi lại các rủi ro liên quan đến thời tiết.
- Mối liên hệ với mạng lưới an sinh. Đánh giá nguy cơ dễ bị tổn thương
của hộ gia đình dựa vào các khoản hỗ trợ trông thấy mà họ sẽ được nhận khi
khủng hoảng, từ các nhóm hay hiệp hội mà họ là thành viên.
- Tham gia mạng lưới an sinh chính thức: Nguy cơ tổn thương của hộ gia
đình sẽ giảm bớt nếu hộ đủ tiêu chuẩn nhận được sự trợ giúp xã hội bảo hiểm
thất nghiệp, lương hưu và các khoản trợ cấp khác do nhà nước cấp.
- Tiếp cận thị trường tín dụng. Tương tự, nguy cơ tổn thương của hộ gia
đình sẽ giảm nếu hộ tiếp cận được nguồn tín dụng một cách nhẹ nhàng.
Kết hợp tất cả góc độ này với nhau ta sẽ có được một bức tranh tổng thể
về nguy cơ dễ bị tổn thương của những người nghèo, nó cho biết khả năng
chống chọi của hộ khi có những biến động trong cuộc sống.
Việc đo lường nguy cơ dễ bị tổn thương trên thực tế gặp nhiều khó khăn
do nó là một khía niệm động nên việc đo lường rất phức tạp, tốn nhiều tiền
của và công sức. Không thể đo lường nó bằng cách quan sát các hộ gia đình
mà phải có cuộc điều tra, theo dõi trong nhiều năm mới có thể nắm bắt được
những thông tin cơ bản và tính biến động và nguy cơ dễ bị tổn thương mà
người nghèo là rất quan trọng.
Không có tiếng nói và quyền lực
Không có tiếng nói và quyền lực có thể được đo lường bằng cách sử
dụng kết hợp các biện pháp có sụ tham gia của người dân, phỏng vấn và điều
tra quốc gia về các vấn đề như mức tự do dân sự, tự do chính trị. Không có
tiếng nói và quyền lực thể hiện ở chính mức độ được trao quyền của người
dân. Tức là, xem xét khả năng tham gia vào các quyết định của gia đình, của
cộng đồng vì những người nghèo thường bị khinh miệt, đối xử và thậm chí
còn bị hạn chế một số quyền mà những người bình thường khác nghiễm nhiên
được hưởng. đo lường mức độ không có tiếng nói và quyền lực nó phản ánh
nỗi khổ đau mà những người nghèo cam lòng gánh chịu. Họ không có cả
những quyền tham gia vào những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến phúc lợi của
họ. Việc đo lường đói nghèo dựa theo tiêu chí này được người nghèo cho là
rất quan trọng. Tuy nhiên, việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, tốn kém nhiều
tiền của và công sức, nó phải được thực hiện bằng các cuộc điều tra, phỏng
vấn, theo dõi trong nhiều năm mới có thể nắm bắt được những thông tin chính
xác về vấn đề này.
1.2.2. Các chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo ở Việt Nam
Chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp cá nhân và hộ gia đình
- Hộ nghèo: Ở Việt Nam để đo tình trạng nghèo đói, có nhiều cách tính
hộ nghèo. Chẳng hạn thành phố Hồ Chí Minh lấy mức thu nhập bình quân
dưới 500.000đ/1 khẩu/1 năm (tương đương trên 33kg gạo/tháng). Vĩnh Phú
lấy tiêu chuẩn dưới 500.000đ/1 khẩu/1 năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức
lương thực bình quân nhân khẩu. Gia đình nào có mức thu nhập bình quân
dưới 30 kg gạo một khẩu một tháng được coi là nghèo. Có ý kiến đề nghị lấy
mức tối thiểu do nhà nước quy định làm chuẩn. Người có mức sống dưới mức
nghèo khổ là người có thu nhập bình quân một tháng thấp hơn mức tối thiểu
do nhà nước quy định (hiện nay là 210.000đ). Theo Bộ Lao động- Thương
binh xã hội tiêu chuẩn xác định hộ nghèo như sau:
+ Năm 1993: Hộ nghèo là hộ có thu nhập thấp bình quân đầu người dưới
13kg gạo/tháng ở nông thôn (tương đương 45.000 đồng), 20 kg gạo/tháng ở
thành thị (tương đương 70.000 đồng).
+ Năm 1996: Hộ nghèo là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu
người tháng. Dưới 25kg/người ở thành thị, dưới 20kg/người ở nông thôn,
đồng bằng và trung du, dưới 15kg/người ở nông thôn miền núi.
- Hộ đói: Theo Bộ Lao động - Thương binh xã hội, tiêu chuẩn xác định
hộ đói như sau:
+ Năm 1993: Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 8kg
gạo/tháng ở nông thôn, 13kg/tháng ở thành thị.
+ Năm 1996: Hộ đói là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu
người là 13kg/tháng. Song, trên thực tế những hộ đói là hộ thiếu lương thực
trong gia đình từ 3 tháng trở lên thể hiện thiếu ăn, đứt bữa, bữa cơm, bữa
cháo, ăn độn khoai sắn... Như vậy những hộ đói thì thường con cái của họ thất
học, nhà cửa dột nát, đồ dùng trong nhà không đáng kể, không còn lương thực
dự trữ trong nhà, song cũng không có tiền để mua lương thực trong ngày, mặc
dù trên thị trường không thiếu lương thực.
Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh xã hội mới đưa ra chuẩn nghèo
mới áp dụng cho giai đoạn 2001-2005. Theo tiêu chuẩn này thì có hai phương
án để lựa chọn:
Khu vực áp dụng Chuẩn nghèo (đồng/người/tháng)
Phương án 1 (thấp) Phương án 2 (cao)
Thành thị 135.000 150.000
Nông thôn đồng bằng 70.000 100.000
Nông thôn miền núi 45.000 80.000
Các chuẩn mực trên có thể đúng trên tổng thể song không thể áp dụng
cho từng đối tượng, từng vùng cụ thể được. Nếu lấy mức bình quân
800.000đồng/khẩu/năm là hộ nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh thì có thể lại là
hộ giàu ở vùng nông thôn miền núi phía Bắc. Vì vậy để chọn và phân loại hộ
đói nghèo ở Việt Nam có thể phải xem xét các đặc trưng cơ bản có nó như:
Thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán, nợ thuế triền
miền, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ
học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm thuê cuốc mướn để kiếm
sống qua ngày hoặc đi ăn xin... Nếu đưa các chuẩn mực này ra để xác định thì
rất dễ biết hộ đói nghèo ở nông thôn...
Bảng 1.1. Các chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp hộ gia đình
Lĩnh vực Chỉ tiêu
I. Nhu cầu ăn 1. Số lượng gạo tối thiểu (12kg/người/tháng)
2. giá trị khẩu phần ăn tối thiểu một ngày (...đ/người/tháng)
II. Nhu cầu mặc 3. Không đủ quần áo, chăn ấm trong mùa rét
4. Không đủ màn chống muỗi
III. Nhà ở 5. Hộ gia đình ở lều, lán và nhà tạm bợ
IV. Việc làm 6. Thiếu việc làm (thiếu trên tháng/năm)
V. Sức khoẻ 7. Trẻ em từ 1 - 3 tuổi suy dinh dưỡng thể thiếu ăn (dưới
80% trọng lượng cần có của độ tuổi)
8. Người lớn 15-60 tuổi ốm đau kinh niên (trên 30
ngày/năm)
9. Không có khả năng chữa bệnh khi ốm đau.
VI. Giáo dục 10. Người lớn trong độ tuổi lao động (15-60) mù chữ
11. Trẻ em 6-11 tuổi không đi học
12. Hộ gia đình không có đài hoặc ti vi để nghe.
Nguồn: Vũ Tuấn Anh “Những tiêu chuẩn đánh giá mức nghèo ở nông
thôn”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4 năm 1997, trang 36.
Dựa vào 12 chỉ tiêu trên thì chắc chắn các hộ nghèo đều ở mức độ khác
nhau. Nhưng các thẻ phân loại các dạng hộ nghèo thành hai nhóm:
Nhóm 1: Hộ nghèo có 5 chỉ tiêu về ăn, mặc, ở dưới chuẩn mực.
Nhóm 2: Hộ rất nghèo có trên 5 chỉ tiêu dưới chuẩn mực.
Bên cạnh các chỉ tiêu trên, qua cuộc điều tra tình trạng giầu nghèo năm
97**** Tổng cục Thống kê chọn mức nhiệt lượng tối thiểu là 2.100 Calo cho
người/ngày thuộc diện nghèo đói. Ứng với mức đảm bảo nhu cầu nhiệt lượng
trên, Tổng cục thống kê đưa ra chuẩn mực hộ nghèo là hộ có mức thu nhập
bình quân.
Nông thôn: dưới 50.000đồng/người/tháng, trong đó rất nghèo là dưới
30.000/tháng (hay 360.000đ/người/năm).
Thành thị: Dưới 70.000 đồng/người/tháng, trong đó rất nghèo là dưới
50.000 đồng/người/tháng (hay 600.000 đồng/người/năm).
Qua đó ta thấy các chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở Việt Nam do Bộ
Lao động thương binh - xã hội và Tổng cục Thống kê đưa ra là cực kỳ thấp so
với chuẩn mực nghèo khổ chung trên thế giới do ngân hàng thế giới đưa ra là
dưới 370USDngười/năm*. Điều này càng chứng tỏ nước ta là một nước cực
nghèo, vấn đề đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất cho người nghèo là vấn đề
nan giải. Đồng thời cũng cho thấy tính tương đối khi xác định chuẩn nghèo
đói ở mỗi nơi là khác nhau. Vì vậy để đánh giá được chính xác nghèo đói thì
phải biết được mức độ nghèo đói đến đâu? nghèo hay rất nghèo. Thực tế nước
ta vẫn tồn tại một bộ phận dân cư ở tình trạng thiếu ăn, đói về lương thực
(nhiệt lượng chỉ đạt 1500 Calo/người/ngày). Do đó khi đánh giá nghèo ở Việt
Nam nên phân thành hai cấp độ nghèo và đói vì nó phản ánh đúng hiện thực
khách quan.
Chỉ tiêu đánh giá nghèo ở cấp cộng đồng
Để đánh giá các vùng nghèo, ở nước ta thường dùng hai chỉ tiêu chính:
- Tỷ lệ các hộ nghèo tuyệt đối trên tổng số hộ của vùng.
- Thu nhập bình quân một thành viên trong một hộ gia đình của vùng.
* 370USD l tính theo PPP
Ngoài ra còn có thể kết hợp với một số chỉ tiêu khác như:
- Bình quân lương thực tính trên một nhân khẩu nông nghiệp
- Số kilômét đường giao thông trên một nhân khẩu nông nghiệp
- Tổng mức hàng hoá lưu thông (nhập, xuất) trong vùng tính theo đầu
người.
- Tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ trẻ em đến trường.
- Tỷ lệ y, bác sĩ, giường bệnh trên một nghìn người dân.
- Tuổi thọ bình quân.
Các chuẩn mực để xác định vùng nghèo:
- Tỷ lệ các hộ nghèo từ 60% trở lên.
- Bình quân thu nhập của một thành viên trong hộ gia đình của cả vùng
hơn mức thu nhập trung bình của một thành viên của một hộ gia đình trong cả
nước.
Ngoài ra cũng có thể dùng thêm một số chỉ tiêu phụ như:
- Bình quân lương thực tính trên đầu người dân nông nghiệp dưới
200kg/năm.
- Số kilômét đường giao thong trên một kilômét vuông nhỏ hơn 1/3 mức
trung bình của cả nước.
- Mức trung bình điện năng, tiền vốn trên một lao động nhỏ hơn 1/3 mức
trung bình của cả nước.
- Tỷ lệ mù chữ cao hơn 1,5 lần mức trung bình của cả nước.
- Tỷ lệ y, bác sĩ, giường bệnh trên một nghìn dân thấp hơn 1/3 mức trung
bình của cả nước.
Nguồn: Bộ Lao động thương binh - xã hội và Tổng cục thống kê 2000.
Bảng 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá nghèo ở cấp cộng đồng
Lĩnh vực Chỉ tiêu
I. Mức sống nói
chung
1. Tỷ lệ số dân nghèo (hoặc số hộ nghèo) trong tổng số hộ
dân (hộ)
2. Giá trị một ngày công lao động trên thị trường lao động
địa phương.
II. Nguồn lực tự
nhiên (ruộng
đất)
3. Diện tích đất canh tác nông, lâm, ngư nghiệp bình
quân/người.
4. Tỷ lệ số hộ không có hoặc có ít ruộng đất (dưới 1/2 mức
trung bình đầu người).
III. Việc làm 5. Tỷ lệ số người lao động thiếu việc làm (trên 3 tháng/năm)
trong tổng số lao động.
6. Tỷ lệ lao động làm trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp
và phi nông nghiệp.
IV. Sức khoẻ 7. Tỷ lệ trẻ em 1-5 tuổi suy dinh dưỡng thể thiếu cân (dưới
80% trọng lượng cần có của độ tuổi).
8. Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh
9. Có hay không trạm y tế xã
10. Số nhân viên y tế (cả công, tư cả y và dược) tính trên
1000 dân.
V. Giáo dục 11. Tỷ lệ người lớn mù chữ
12. Tỷ lệ trẻ em 6-10 tuổi không đi học
13. Số giáo viên hoạt động trên địa bàn tính trên 1000 dân
VI. Nhà ở vệ
sinh
VII: Văn hoá và
giao tiếp
14. Tỷ lệ hộ gia đình ở lều lán và nhà tạm bợ trong tổng số
hộ
15. Tỷ lệ hộ có nguồn nước sạch (giếng, ống dẫn nước sạch)
16. Tỷ lệ hộ có nhà tắm
17. Tỷ lệ hộ có nhà xí hợp vệ sinh
18. Số Kw/h điện tiêu dùng tính trên đầu người/tháng
19. Có hay không có công trình văn hoá quan trọng (nhà văn
hoá, thư viện, loa truyền thanh)
20. Có hay không có chợ.
21. Số máy điện thoại tính trên 1000 dân
VIII. Sự tham
gia của nhân dân
vào các hoạt
động xã hội.
22. Tỷ lệ số thành viên các tổ chức chính trị, xã hội (Đảng,
Đoàn thanh niên, phụ nữ, mặt trận tổ quốc, các hội nghề
nghiệp) trên 1000 dân.
IX. Đời sống và
địa vị của phụ
nữ
23. Tỷ lệ phụ nữ có thai suy dinh dưỡng
24. Số phụ nữ tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà
nước và đoàn thể xã hội tại địa phương trên 1000 phụ nữ.
Nguồn: Vũ Tuấn Anh “Những tiêu chuẩn đánh giá mức nghèo ở nông
thôn”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4 năm 1997, trang 38.
Những chỉ tiêu về mức thu nhập ở cấp cộng đồng (làng xã) là phản ánh
mức độ đáp ứng những nhu cầu cơ bản về hàng hoá và dịch vụ công cộng, cả
trong tiêu dùng vật chất lẫn hưởng thụ văn hoá tinh thần.
Nhìn chung hiện nay nước ta dùng hệ thống chỉ tiêu này để đánh giá
nghèo cấp cộng đồng là tương đối hợp lý. Tuy nhiên nó vẫn còn có mặt hạn
chế, chưa nêu bật được chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người để đánh giá về
nghèo. Mặt khác, sau những trận bão khủng khiếp cuối những năm 90 ở Nam
Bộ, nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về nhà ở kiên cố, người ta xây dựng
nhà nổi để sống chung với lũ. Hoặc hiện nay nhu cầu về gạo đang có xu
hướng giảm, và cũng có thể rất nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về màn
nếu họ ở nhà lầu với máy điều hoà nhiệt độ... Những hộ như thế chưa chắc đã
thuộc diện nghèo đói.1.3. Bức tranh nghèo đói toàn cầu
Trong thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến một sự tiến bộ vượt bậc trong
công cuộc xoá đói giảm nghèo và cải thiện phúc lợi ở các nước đang phát
triển, tuổi thọ bình quân đã tăng 20 năm, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh và tỷ lệ sinh
giảm hơn một nửa. Năm 1965 đến năm 1998, thu nhập trung bình tăng hơn
hai lần ở các nước này và riêng trong giai đoạn 1990-1998, số người trong
cảnh cùng cực đã giảm được 78 triệu người. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XXI
nghèo đói vẫn còn là vấn đề rất lớn của toàn cầu. Theo số liệu của WB, trong
số 6 tỷ người của thế giới thì có đến 2,8 tỷ người sống dưới mức 2USD/ngày
và 1,2 tỷ người sống dưới mức 1USD/ngày. Mức độ nghèo đói của toàn thế
giới là rất lớn. Xét theo từng khu vực mức độ này có khác nhau nhưng vẫn nói
lê tính nghiêm trọng của tình hình nghèo đói của từng khu vực cũng như toàn
thế giới. Số liệu thống kê của LHQ năm 1998 cho thấy: Tại Nam Á, có 560
triệu người nghèo (chiếm một nửa tổng số người nghèo trên thế giới). 600
triệu dân đang suy dinh dưỡng, 250 triệu người không được sống trong những
điều kiện vệ sinh cơ bản. Có 1/3 trẻ sơ sinh thiếu cân, 80% số phụ nữ mang
thai lại thiếu máu, 1,8 triệu trẻ em không được tới trường học. Lực lượng trẻ
em phải lao động kiếm sống rất cao. Ví dụ, ở Ấn Độ có khoảng từ 14 đến 100
triệu trẻ em phải lao động. Đông Á là khu vực có GDP tính trên đầu người
tăng trung bình 5%, mức cao nhất thế giới. Tuy vậy, khu vực này vẫn có 170
triệu người nghèo khổ. Tại miền Nam Châu Phi - Xahara có 215 triệu người
nghèo, hơn 80 triệu trẻ em đến tuổi tới trường không được đi học. Hàng năm
có 1,3 triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang. Tại các nước Ả Rập, từ năm
1960 đến năm 1993, thu nhập thực tế là 3%/năm, nhưng hiện nay vẫn còn 73
triệu người nghèo, 60 triệu người mù chữ. Tại Mĩ la tinh và vùng Caribê, 150
triệu người nghèo, 56% nông dân không có nước sạch để uống. Tại các nước
nông nghiệp phát triển, GDP thực tế tăng hơn 3%/năm, tuy nhiên vãn có hơn
100 triệu người nghèo, hơn 5 triệu người không có nhà ở và hơn 30 triệu
người nghèo không có việc làm.
Qua những số liệu trên, ta thấy nghèo đói toàn cầu vẫn đang là vấn đề
mang tính bức xúc. Điều này còn được thể hiện ở sự bất bình đẳng cao trên
thế giới, theo số liệu của WB, thu nhập trung bình của 20 nước giàu nhất gấp
37 lần mức thu nhập trung bình của 20 nước nghèo nhất (khoảng cách này đã
tăng gâp đôi trong vòng 40 năm qua). Nếu phân chia toàn bộ dân số thế giới,
và chiếm một lượng của cải vật chất và trình độ tương ứng với mỗi nhóm thì
ta có thể thấy: 20% dân số giàu nhất thế giới chiếm dụng 87,5% GNP; 84,2%
thương mại thế giới; 85,0% tích luỹ; 85,0% đầu tư trong khi đó 20% dân số
nghèo nhất chiếm các chỉ tiêu tương ứng là 1,46%; 0,9%; 0,7% và 0,9%. Rõ
ràng là một nhóm người thì có tất cả còn nhóm kia coi như không có gì.
Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, hiện nay, loài người thực tế đã sản xuất
đủ lương thực, thực phẩm để nuôi sống toàn bộ hành tinh, nếu tính lượng
Kcalo bình quân đầu người. Nhưng vấn đề lại là ở việc phân phối chúng như
thế nào. 20% dân số giàu nhất tiêu dùng 87-90% giá trị sản phẩm của toàn thế
giới, 6% số người giàu nhất đã tiêu dùng 35-40% sản phẩm của thế giới. Do
vậy, nghèo đói, bệnh tật và suy dinh dưỡng có thể coi là điều tất yếu với
nhóm dân số nghèo.
Sự bất bình đẳng cao còn thể hiện giữa các giới, tỷ lệ người nghèo đói
trong giới phụ nữ vẫn trầm trọng hơn nam giới. Phụ nữ chiếm 60% lực lượng
lao động trên thế giới nhưng họ chỉ hưởng 10% thu nhập và sử dụng chưa đầy
1% ruộng đất của thế giới, chiếm 1/6 trong số 6 tỷ người của thế giới hiện
đang thiếu dinh dưỡng. Có từ 20-40% phụ nữ ở các nước đang phát triển
không thể có chế độ ăn phù hợp, 350 triệu phụ nữ không được hưởng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ tối thiểu cần thiết. Riêng khu vực Nam Á, được đánh giá
là nơi có sự phân hoá giàu nghèo chậm hơn cả, thì vẫn còn tới 80% số phụ nữ
mang thai bị thiếu máu, số người thiếu dinh dưỡng lên tới 841 triệu(1).
Qua bức tranh đói nghèo trên của thế giới, ta có thể khẳng định rằng
nghèo đói vẫn là tình trạng mang tính toàn cầu và đang là hiện tượng bức xúc
hiện nay. Báo cáo của Liên hiệp quốc cho rằng, tình trạng đói nghèo trên thế
giới, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của sự khai phá đến kiệt quệ tài
nguyên thiên nhiên, chiến tranh, bùng nổ dân số, phân phối không công bằng
trong xã hội, do các như cầu thiết yếu bị bỏ qua (bảo hiểm xã hội, nguồn
nước, vệ sinh...) do quá tập trung đầu tư vào khu vực quân sự, giảm ngân sách
xã hội, trật tự kinh tế bất hợp lý là trở ngại lớn trên con đường đi lên của các
đang phát triển, đồng thời cũng là một trong những thách thức nghiêm trọng
nhất đối với Liên hiệp quốc.
Đói nghèo còn là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng tội phạm, bạo
lực, mất an ninh xã hội. Nó không những mang lại hậu quả kinh tế - xã hội
nghiêm trọng cho các nước đang phát triển mà còn là nguyên nhân quan trọng
của xung đột. Vì vậy, giảm bớt và đi đến xoá đói nghèo đói đã trở thành tiêu
điểm chú ý của toàn nhân loại, trở thành mục tiêu và nhiệm vụ nặng nề của
các tổ chức phi chính phủ và các chính phủ trên thế giới. Tất cả đã và đang áp
dụng mọi biện pháp nhằm ngăn chặn sự gia tăng nghèo đói trên hành tinh
chúng ta.
(1) Xem báo Nhân dân, 9/1/1996
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam
2.1. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam
Nghèo đói đang là một trong những vấn đề bức xúc ở Việt Nam cũng
như nhiều nước trên thế giới, đòi hỏi nhà nước và xã hội cần đặc biệt quan
tâm. Sau 15 năm đổi mới xây dựng kinh tế theo hướng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển, Việt Nam đã và đang thu được những kết quả đáng
khích lệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bộ mặt nông thôn có những thay đổi
lớn. Một bộ phận nghèo đói không biết cách làm ăn nhờ sự giúp đỡ của cồng
đồng nay đã thoát khỏi cảnh nghèo. Phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục... từng
bước được cải thiện và phát triển đảm bảo nhu cầu ngày càng tốt hơn của xã
hội, đặc biệt là nhóm người nghèo đã có sự thay đổi rất lớn. Theo báo cáo của
WB trong cuộc toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội,
15-16/2/2000 thì tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam năm 1993 là 58,1% giảm xuóng
34,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo Bộ LĐTBXH thì tỷ lệ
nghèo đói của Việt Nam là 26,0% năm 1993 giảm xuống 15,7% năm 1998 và
hiện nay còn khoảng 11%. Qua các số liệu thống kê trên ta thấy, dù đánh giá
tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam bằng phương pháp nào thì Việt Nam vẫn có tốc
độ giảm nghèo rất nhanh, đã từng được cộng đồng quốc đánh giá có một trong
những nước có, tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, xét trên
tổng thể, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, phân hoá giàu nghèo giữa các
vùng, giữa các thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có
xu hướng gia tăng và gay gắt. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VIII Đảng
cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Đến nay nước ta vẫn là một trong những
nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động,
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần
nhiều, việc làm là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa
các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và
kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn”.
So sánh nghèo đói theo vùng
Bảng 2.1. Diễn biến nghèo đói theo vùng ở Việt Nam
Vùng 1996 1997 1998
Số hộ nghèo
đói
Tỷ lệ Số hộ
nghèo đói
Tỷ lệ Số hộ
nghèo đói
Tỷ lệ
1. Miền núi và Trung
du Bắc bộ
695.503 27,24 638.400 25,32 570.445 22,89
2. Đồng bằng sông
Hồng
330.519 11,01 302.460 9,81 272.160 8,38
3. Bắc Trung bộ 609.372 30,80 544.926 27,84 500.225 24,62
4. Duyên hải miền
Trung
413.660 23,14 358.260 22,44 291.815 17,8
5. Tây Nguyên 188.876 29,45 180.400 27,84 172.915 25,65
6. Đông Nam Bộ 116.728 6,17 103.900 5,50 91.400 4,75
7. Đồng bằng sông
Cửu Long
502.912 16,25 190.750 15,60 189.090 15,37
Cả nước 2.857.122 19,23 2.622.906 17,68 2.387.050 15,7
Nguồn: Nguyễn Hải Hữu “Nghèo đói ở Việt Nam. Chính sách và giải
pháp”. Hội thảo, toạ đàm về chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam. Việc làm
và xoá đói giảm nghèo. Bộ LĐTB-XH, năm 1999.
Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ nghèo đói ở các vùng cũng có sự khác biệt
đáng kể. Vùng Bắc Trung Bộ (24,62%) và vùng Tây Nguyên (25,65%) là hai
vùng có tỷ lệ nghèo đói cao nhất, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp
nhất 4,75%. Ở đây có sự chênh lệch giữa các vùng có tỷ lệ nghèo đói cao với
vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp gần 5 lần. Đồng thời cũng dễ dàng nhận thấy
người nghèo tập trung nhiều nhất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc
570.145 hộ chiếm 23,9%, tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ có 500.225 hộ chiếm
20,9%, Đồng bằng sông Cửu Long có 489.050 hộ chiếm 20,51%, cả bốn vùng
còn lại chỉ chiếm 34,7%.
Xét trong từng vùng, giữa các tỉnh tỷ lệ nghèo đói cũng sự khác biệt. Tại
vùng Tây Nguyên, tỷ lệ nghèo đói của Lâm Đồng là 15,89%; Đắc Lắc là
26,44%; nhưng Gia Lai là 44,85% và Kon Tum là 54,4%. Tỷ lệ này chênh
lệch tới 3,4 lần giữa tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất so với tỉnh có tỷ lệ nghèo
đói thấp nhất. Nếu lấy chuẩn mực tối thiểu để so sánh thì một số tỉnh như
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu có tỷ lệ nghèo đói đều
dưới 5% trong khi đó một số tỉnh có tỷ lê nghèo dói cao như Hoà Bình
55,7%; Kon Tum 54,5%; Quảng Bình 46%; Gia Lai 44,85%; Lai Châu
42,4%; Sơn La 40%. Tỷ lệ nghèo đói chênh lệch giữa các thành phố gần 10
lần. Theo báo cáo của địa phương, hiện nay mới có 10 tỉnh, thành phố (chiếm
16%) có tỷ lệ nghèo đói dưới 10% phân bố ở đồng bằng Sông Hồng 5 tỉnh
Đông Nam Bộ 4 tỉnh, Đồng bằng Sông Cửu Long 1 tỉnh. Trong khi đó có 11
tỉnh có tỷ lệ nghèo đói từ 50% trở lên (chiếm 18%) tập trung ở miền núi phía
Bắc 5 tỉnh, Bắc Trung bộ 3 tỉnh, Duyên Hải miền Trung 1 tỉnh, Tây Nguyên 9
tỉnh. Một số huyện thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên có tỷ lệ hộ nghèo đói rất cao từ 60-70%.
Theo đánh giá cả nhóm công tác các chuyên gia chính phủ cho thấy 40%
người nghèo của Việt Nam sống tập trung tại ba khu vực: miền núi phía Bắc
28%; Đồng bằng sông Cửu Long là 21% và Bắc Trung Bộ là 18%. Như vậy
sự khác nhau về tỷ lệ nghèo ở các vùng, các tỉnh, thành phố cho thấy khả
năng bứt phá, vươn lên của các vùng, tỉnh, thành phố là khác nhau. Nơi nào
có điều kiện phát triển nhanh, nơi đó có tỷ lệ giảm nghèo nhanh.
So sánh thu nhập bình quân đầu người tháng theo vùng ở Việt Nam
(tính theo giá hiện hành)
Đơn vị: 1000 đồng
Vùng 1994 1995 1996 Tỷ lệ hộ
nghèo 1996
Tỷ lệ hộ
giàu 1996
Cả nước 176,47 206,10 226,70 17,81 3,67
Miền núi và trung du Bắc Bộ 133,63 160,65 173,76 23,69 1,36
Đồng bằng sông Hồng 170,88 201,18 223,30 12,09 2,94
Bắc Trung bộ 135,02 160,21 174,05 23,31 1,42
Duyên hải miền Trung 154,96 176,03 194,66 16,37 1,63
Tây Nguyên 197,71 241,14 165,60 27,77 5,25
Đông Nam bộ 291,85 338,91 378,05 8,09 11,94
Đồng bằng sông Cửu Long 203,90 221,96 242,31 16,30 4,61
Nguồn: “Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói giảm
nghèo trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”.
Đề tài cấp Bộ Khoa học quản lý kinh tế, Học viện CTQG HCM, Hà Nội 1997,
trang 43.
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy 2 miền có thu nhập bình quân đầu
người thấp nhất là miền núi và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung bộ cũng là nơi
có tỷ lệ nghèo đói cao và tỷ lệ hộ giàu thấp. Đông Nam bộ là vùng có thu
nhập bình quân đầu người cao nhất đồng thời cũng có tỷ lệ số hộ nghèo thấp
nhất và tỷ lệ số hộ giàu cao nhất. Tuy nhiên, không phải lúc nào thu nhập
cũng tỷ lệ thuận với mức giảm nghèo. Ở đồng bằng sông Hồng, thu nhập
đứng thứ 4 trong 7 vùng nhưng lại có tỷ lệ nghèo rất thấp, đứng thứ 2. Trong
khi đó, Tây Nguyên có mức thu nhập bình quân đứng thứ 2 nhưng lại có tỷ lệ
nghèo đói cao nhất trong 7 vùng. Như vậy, có sự chênh lệch về thu nhập giữa
các nhóm dân cư trong 1 vùng.
Chênh lệch thu nhập giữa các vùng và các nhóm dân cư.
Bảng 2.3. Thu nhập năm theo giá so sánh bình quân đầu người theo
nhóm hộ và theo vùng kinh tế
Đơn vị: 1000đ
Khu vực Vùng Chung
Thành thị Nông
thôn
Miền núi
và trung
du Bắc
Bộ
ĐB Sông
Hồng
Bắc
Trung Bộ
Duyên
hải miền
Trung
Tây
Nguyên
Đông
Nam bộ
ĐB sông
Cửu
Long
Tổng cộng
chung
Phân theo
nhóm hộ*
3146 7142 2188 2133 3189 2377 2619 2590 6004 2915
1 806 926 804 733 833 863 868 718 628 745
2 1489 1550 1487 1465 1512 1481 1494 1498 1506 1487
3 2177 2235 2173 2184 2190 2165 2180 2131 2218 2151
4 3272 3360 3257 3258 3234 3257 3200 3265 3382 3280
5 7914 9617 6625 6596 8282 6716 6436 7248 9351 6839
* Phụ lục 2
Nhóm 5 so
với nhóm
1 (lần)
9,9 10,39 8,24 8,11 9,94 7,79 7,12 10,09 14,89 9,18
Nguồn: TCTK - VLSS - 1998
Xét theo giá tại thời điểm điều tra, mức thu nhập của nhóm hộ 5 (nhóm
hộ giàu) nhiều gấp 6,73 lần so với nhóm hộ 1 (nhóm hộ nghèo). Tuy nhiên
nếu xét theo giá so sánh thì thấy mức thu nhập của nhóm 5 chung các vùng
lớn gấp 9,9 lần so với nhóm hộ 1. Theo các vùng kinh tế, vùng 1 là 8,11 lần;
vùng 2 là 9,91 lần; vùng 3 là 7,79 lần; vùng 4 là 7,42 lần; vùng 5 là 10,09 lần;
đặc biệt vùng 6 Đông Nam Bộ - có sự chênh lệch rất cao 14,89 lần; và vùng 7
là 9,18 lần. Ở khu vực nông thôn là 8,21 lần và và ở khu vực thành thị là
10,39 lần.
Nhìn chung, sự phân tầng thu nhập giữa các nhóm hộ trong vùng với
giữa các vùng, giữa các khu vực có sự chênh lệch lớn so với các giai đoạn
trước.
Bảng 2.4- Thu nhập bình quân đầu người/tháng
Nhóm 1994
(1000đ)
1995
(1000đ)
1996
(1000đ)
1995 so
với 1994
(%)
1996 so
với 1995
(%)
Nhóm 1 63,0 734,3 78,6 117,9 105,8
Nhóm 2 99,0 121,7 134,9 126,0 108,9
Nhóm 3 133,2 166,7 184,4 125,2 110,6
Nhóm 4 185,0 227,6 250,2 122,4 109,9
Nhóm 5 408,5 519,6 574,7 127,2 110,6
Nguồn: Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa “Kinh tế thị trường và sự phân
hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” NXB
CTQG, 1998.
Theo bảng trên ta thấy, thu nhập bình quân đầu người/tháng của các
nhóm đều tăng lên nhưng nhóm 1 tăng chậm nhất. Làm cho khoảng cách về
thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày nay càng lớn tăng 5,8% hay 1,5 nghìn
đồng, nhóm 5 tăng 10,0% hay 55,7 nghìn đồng. Qua phân tích trên ta thấy khả
năng vươn lên để thoát ra khỏi sự tình trạng nghèo đói của nhóm 1 là rất khó
khăn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ rất lớn của Đảng, Nhà nước và cộng đồng.
So sánh nghèo đói theo khu vực thành thị - nông thôn
Bảng 2.5 - Tỷ lệ nghèo ở thành thị và nông thôn
Đơn vị: %
Cả nước Thành thị Nông thôn
1993 1998 1993 1998 1993 1998
Tỷ lệ nghèo LTTP 24,9 15,0 7,9 2,3 29,1 18,3
Tỷ lệ nghèo chung* 58,1 37,4 25,1 9,0 66,4 44,9
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói (WB)
Ở Việt Nam, nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, hiện
nay số người nghèo sống ở nông thôn là 90% (còn ở thành thị là 10%) trong
đó 45% sống ở dưới ngưỡng nghèo (theo WB) Việt Nam, tấn công nghèo
đói).
Do thu nhập thấp, tăng trưởng kinh tế chậm nên chi tiêu thực tế của
người dân cũng tăng chậm. Ta có thể thấy điều này qua bảng sau.
So sánh tăng trưởng chỉ tiêu theo vùng
Bảng 2.6- Tăng trưởng chi tiêu bình quân đầu người ở nông thôn và
thành thị (1993-1998)
Tăng trưởng chi
tiêu ở thành thị
(%)
Tăng trưởng chi
tiêu ở nông thôn
(%)
Chênh lệch
thành thị nông
thôn (%)
Chung cả nước 60,5 30,4 30,1
- Miền núi phía Bắc 65,8 26,9 38,9
- Đồng bằng sông Hồng 47,2 51,4 -4,2
- Bắc Trung bộ 86,4 37,2 49,2
- Duyên hải miền Trung 39,1 25,5 13,6
- Tây nguyên 24,8 -
* Tỷ lệ nghèo chung bằng tỷ lệ nghèo LTTP + Tỷ lệ nghèo phi lương thực
- Đông Nam Bộ 78,1 59,1 19,0
- Đồng bằng sông Cửu Long 35,7 10,6 25,1
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói 12/1999. Ước tính của WB -
dựa vào số liệu VLSS93 và VLSS98.
Qua bảng trên có thể thấy tăng trưởng chi tiêu ở vùng nông thôn là tương
đối thấp (trừ đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ) Duyên Hải miền Trung
và Đồng bằng sông Cửu Long có mức tăng trưởng chi tiêu ở thành thị và cả ở
nông thôn là thấp nhất. Chênh lệch thành thị và nông thôn ở Bắc Trung Bộ
cao nhất là 49,2%, ở đồng bằng sông Hồng thấp nhất -4,2%.
Mức tăng chi tiêu thể hiện chất lượng cuộc sống được cải thiện ở mức
nào chênh lệch giữa thành thị và nông thôn thể hiện khoảng cách chênh lệch
mức cải thiện đời sống giữa hai khu vực. Qua bảng trên ta thấy khoảng cách
này có nơi tương đối lớn thể hiện sự phân hoá giàu nghèo giữa 2 khu vực
tăng.
Tóm lại, qua những phân tích ta thấy tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả
nước đã giảm nhưng vẫn ở mức cao 11%. Riêng ở nông thôn còn khoảng
20,87% hộ nghèo với khoảng 10 tiệu nông dân nghèo. Sự phân hoá giàu
nghèo giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng là tương đối phổ biến và có xu
hướng ngày càng tăng thu nhập bình quân của các nhóm dân cư tăng nhưng
nhóm 2 tăng chưa đáng kể, cuộc sống của người dân nghèo đã được cải thiện
nhưng chưa nhiều. Ngưỡng nghèo của Việt Nam nói chung vẫn xa so với
ngưỡng nghèo của thế giới.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo
Để đánh giá được tình trạng đói nghèo ở nước ta, trước tiên cần phải tìm
hiểu các nhân tố tác động đến vấn đề nghèo đói. Có rất nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến nghèo đói, nó không chỉ đơn thuần là nhân tố về kinh tế hoặc thiên
tai, địch hoạ gây ra. Mà tình trạng đói nghèo ở nước ta có sự đan xen của cái
tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, của cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực
tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, cả tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội. Do đó cần
phải đánh giá đúng nguyên nhân, mức độ của từng nguyên nhân dẫn đến
nghèo đói đối với từng đối tượng cụ thể.
2.2.1. Nhóm nguyên tố thuộc về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
Vị trí địa lý không thuận lợi ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình
phức tạp (miền núi, hải đảo vùng sâu), không có đường giao thông. Đây cũng
chính là một nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng và địa
phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế
bị cô lập, tách biệt với bên ngoài, khó tiếp cận được các nguồn lực của phát
triển, như tín dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường... làm cho
cuộc sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc là
những nhân tố khách quan tác động mạnh mẽ đến vấn đề nghèo đói.
Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó, năng suất cây
trồng vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, làm cho thu nhập của người nông dân thấp,
việc tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có. Theo
các kết quả điều tra, đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân thì
thiếu đất canh tác hay đất đai khó làm ăn cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn
đến cảnh túng thiếu, đói ăn, đứt bữa của người dân đặc biệt là đối với các hộ
nghèo đói ở vùng núi. Hiện nay vấn đề thiếu đất sản xuất lương thực ở nước
ta (đặc biệt là đất lúa) ngày càng mang tính trầm trọng. Nguyên nhân này là
do dân số ngày càng đông nhưng đất nông nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp
làm cho rất nhiều hộ nông dân không đủ tiềm lực để phát triển. Hiện nay
nhiều nơi ở vùng biển không có hoặc có không đáng kể đất trồng lúa, đây là
nhân tố tác động trực tiếp đến các hộ nghèo, có thể được coi là một trong
những nhân tố cơ bản làm cho những hộ này triền miên bị đói. Nhưng việc
xoá đói không phải bằng cách cấp đất sản xuất lương thực mà phải kết hợp
nhiều biện pháp khác. Đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với các cấp lãnh đạo
trong việc lựa chọn các giải pháp thích họp giúp họ xoá đói, tức là phải làm gì
để giúp họ có thu nhập thì họ mới có khả năng tiếp cận được lương thực, thực
phẩm.
Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra đặc
biệt là bão, lut, hạn hán, cháy rừng, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời
sống của nhân dân. Trung bình 10 cơn bão, lụt một năm, lại thêm hạn hán,
mưa đá, cháy rừng, những cơn lốc xảy ra thường xuyên ở nhiều vùng đã là
nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2 triệu người thiếu đói hàng năm. Tác
hại của bão lụt, hạn hán là rất lớn, nó luôn là kẻ thù đồng hành với những
người nghèo đói, nó có thể cướp đi cả tính mạng sống và tiền của con người.
Rất nhiều vùng và tỉnh đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai gây ra
như lụt bão thì hàng nghìn hộ lại rơi vào cảnh thiếu đói, các công trình công
cộng, các cơ sở sản xuất và hạ tầng bị phá hỏng. Điển hình là trận lũ xảy ra
vào tháng 11 và tháng 12 năm 1999 ở các tỉnh miền Trung đã gây ra những
tổn thất to lớn về người và tài sản cho 7 triệu dân ở 7 tỉnh phá huỷ nhiều cơ sở
hạ tầng ở vungf này, ước tính thiệt hại do lũ lụt gây ra trên 3000 tỷ đồng, tác
độg trực tiếp đến đời sống vốn đã cơ hàn của người dân. Hậu quả của bão lụt
để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc lát mà phải trải qua
nhiều năm. Hiện nay hạnhán, thiếu nước, cháy rừng cũng được xem là vấn đề
nóng bỏng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo đói của người dân. Trong
cuối tháng 3 đầu tháng 4 vừa qua hạn hán xảy ra ở nhiều nơi tàn phá nhiều
cây lương thực và hoa màu. Ở Đắc Lắc ước tính mỗi ngày có đến 250-300 ha
bị thiệt hại do hạn hán gây ra. Ở tỉnh Kiên Giang ảnh hưởng của diện cháy
rừng là rất lớn hơn 4000 ha rừng U Minh Thượng bị tàn phá ảnh hưởng trực
tiếp đến 2700 hộ đói xung quanh vốn đã cơ cực, túng thiếu. Thêm vào đó tình
trạng thiếu nước sinh hoạt, thiếu nước tưới tiêu cũng là vấn đề rất khó khăn
mà những người dân nghèo gặp phải (hiện nay giá nước ở một số nơi lêntới
trên 3000 đồng/1km với tình hình hiện nay, hiện tượng hạn hán, thiếu nước
kéo dài, cháy rừng xảy ra liên miên (như rừng Tràm, rừng U Minh Thượng,
rừng quốc gia Cà Mau) đang là vấn đề đặt ra rất cấp bách đối với các cấp
chính quyền là phải làm gì để cải thiện tình hình tốt hơn.
Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém nhưng
không có thị trường, thị trường hoạt động yếu ớt hay thị trường không đầy đủ
cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Mặc dù
trong những năm gần đây chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư
xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, tuy nhiên
cho đến nay vẫn còn nhiều nơi xa. Đây là những nơi còn tiềm ẩn nhiều dấu
hiệu của đói nghèo lạc hậu. Những hộ ở đây không phải ai cũng được sử dụng
điện. Hệ thống tưới tiêu còn hạn chế, rất nhiều nơi chưa có trạm bơm. Việc
tiếp cận với nước sạch (nước máy) gần như không có, ngay cả nước giếng vẫn
còn hạn hẹp, rất nhiều hộ còn đang dùng nước sông, suối, nước mưa...
Trong sản xuất trồng trọt, khó khăn lớn nhất là hệ thống kênh mương
chưa phát triển nên không đủ nước tưới cho cây trồng, đặc biệt là cho lúa và
hoa mầu. Hiện nay ở nhiều nơi hệ thống kênh mương, cống đập, trạm bơm
chủ yếu vẫn còn tạm bợ, chưa kiên cố, có nơi xuống cấp nghiêm trọng tác
động trực tiếp đến việc giảm sản lượng năng suất cây trồng.
Về vấn đề cơ sở hạ tầng (như đường giao thông, điện, trường học, trạm y
tế, bệnh viện, bưu điện, chợ huyện...), thị trường (lao động, vốn, hàng hoá)
vẫn còn kém phát triển. Đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số càng có ít cơ
hội tiếp cận với những dịch vụ trêngân hàng (theo hình.....). Điều này có thể
thấy rõ ở các vùng không có đường giao thông hoặc giao thông đi lại khó
khăn thì hầu như chưa có thị trường hoặc thị trường hoạt động quá yếu ớt. Nó
đồng nghĩa với việc họ bị đặt ra ngoài quá trình phát triển kinh tế của đất
nước.
Từ những vấn đề trên, ta thấy, những người nghèo muốn vượt thoát khỏi
tình trạng nghèo đói trước hết phải được tiếp cận với thị trường, trên cơ sở đó
mới có thể tham gia vào sự vận động của kinh tế thị trường. Muốn thị trường
phát triển, bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì
việc phát triển giao thông cơ sở hạ tầng có ý nghĩa lớn góp phần nối các thị
trường trong nước lại với nhau, thúc đẩy thị trường phát triển tạo điều kiện
cho việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Hình 2.1.
Nhân tố liên quan đến chiến tranh
Nhân tố chiến tranh có liên quan mật thiết đến yếu tố vị trí địa lý. Những
vùng trước đây là chiến tranh tàn phá nặng nề thì môi trường sống ở đây vẫn
chưa được phục hồi được hoàn toàn, đặc biệt các chất độc màu da cam, điôxin
do đế quốc Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh đã để lại di chứng nặng nề về
môi trường và con ngưoừi Việt Nam. Hơn 1,5 triệu người bị thương tật, hơn 1
triệu người già bị mất nguồn nuôi dưỡng do con cái thân nhân chết trong
chiến tranh. Trên 300.000 trẻ em bị mồ côi, hàng nghìn nạn nhân bị ảnh
hưởng của chất độc màu da cam. Đây là nhóm dân cư thường bị thiệt thòi và
gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ dễ rơi vào tình cảnh nghèo đói.
Không một tỉnh, thành phố nào trong cả nước ta là không gánh chịu và phải
giải quyết hậu quả do chiến tranh để lại. Và việc giải quyết hậu quả này cũng
không thể một sớm mộtchiều mà có thể phải mất nhiều thập kỷ.
2.2.2. Nhóm nhân tố liên quan đến cộng đồng
An ninh, trật tự:
Môi trường an ninh, trật tự có tác động đáng kể tới các hộ nghèo thực tế
cho thấy, tệ nạn xã hội thường đồng hành với nghèo đói. Nếu ở nơi nào tệ nạn
xã hội gia tăng, trật tự an ninh xã hội không đảm bảo thì ở đó khó có sự phát
triển kinh tế nói chung và của người nghèo nói riêng. Người nghèo nói chung
là nhóm người có mức sống dễ bị tổn thương cao. Họ có thu nhập thấp, tài sản
không đáng giá. Nếu bị rủi ro mất cắp vât dụng lao động thì họ rất dễ rơi vào
cảnh khốn cùng. Theo nghiên cứu cho thấy, các hộ nghèo khi bị mất tài sản
nhất là công cụ lao động, phương tiện kiếm sống của gia đình thì rất lâu sau,
vài tháng, một năm, thậm chí nhiều năm sau họ mới có thể phục hồi lại được
(trở lại mức khi chưa bị mất cắp). Khi người nghèo bị mất cắp thì cuộc sống
của họ vốn nghèo lại càng nghèo hơn, vốn đã khốn cùng lại càng cùng cực
hơn. Ngoài nguy cơ dễ bị mất cắp, cuộc sống ở khu vực trật tư, an ninh không
đảm bảo cũng là cho người nghèo luôn cảm thấy không yên tâm để sản xuất,
lao động, khi mua thêm những tài sản phục vụ cho cuộc sống, họ cũng phải
đắn đo rất nhiều. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của họ
và làm cho những cố gắng không xoá đói giảm nghèo gặp nhiều khó khăn.
Tập quán:
Về một mặt nào đó, tập quán, lối sống cũng là một trở lực tới sự phát
triển của người nghèo. Tập quán du canh du cư của một số đồng bào vùng dân
tộc (nhất là Tây Bắc) đã làm cho tình trạng nghèo đói (đói kinh niên, đói gay
gắt) về lương thực thực phẩm xảy ra thường xuyên. Chính tập quán này đã
đẩy họ rơi vào tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo truyền kiếp. Cái vòng luẩn
quẩn “nghèo đói phải du canh du cư và vì du canh du cư càng thêm nghèo
đói” cộng thêm các hủ tục lạc hậu về văn hoá, lối sống bám chặt vào số phận
của một số đồng bào miền núi. Ví dụ, ở Lạng Sơn lương thực miền núi cần
500kg/ người mới gọi là đủ ăn nhưng hơn nửa số ấy không phải để ăn mà
dùng để nấu rượu “Người dân nghèo uống rượu năng suất lao động
giảm càng nghèo. Chính cái vòng luẩn quẩn này đã gây nên tình trạng 89%
trong số người Dao và 100% người H’mông được coi là nghèo.
2.3. Nhóm nhân tố liên quan đến mỗi cá nhân và hộ gia đình
2.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về nhân khẩu học
Quy mô và cơ cấu hộ gia đình
Qua nghiên cứu cho thấy quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến
tình trạng nghèo đói. Người nghèo phổ biến ở những hộ gia đình có quy mô
lớn, mỗi hộ có rất nhiều con, tuổi còn nhỏ. Theo phỏng vấn đánh giá PPA
(1998) thì 72% số hộ cho rằng vì đông con nên dẫn đến tình trạng nghèo đói.
Mặc dù vậy, họ vẫn chưa ý thức được rõ về sự tác hại của tình trạng đông
con. Tình trạng sinh nhiều con, sinh quá dầy ở các cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng
đang trong độ tuổi sinh đẻ là khá phổ biến. Bình quân các hộ này từ 3-5 con,
thậm chí 7 con. Điều này làm cho cuộc sống gia đình họ gặp rất nhiều khó
khăn. Cũng vì khó khăn mà hộ gia đình từ làm ăn khá hoặc trung bình đã trở
thành nghèo đói. Do số người trong gia đình là tương đối nhiều nên chi tiêu
cho những vấn đề thiết yếu hàng ngày là khá cao (chẳng hạn chi tiêu cho
lương thực, quần áo, thuốc men...) trong khi đó, tổng thu nhập của một hộ
nghèo thường không tăng nhiều hoặc có tăng nhưng cũng không thể đủ để
trang trải các khoản chi tiêu hàng ngày, hoặc làm ngày nào ăn hết ngày đó,
không thể có được các khoản tích luỹ và do vậy việc thoát khỏi nghèo đói trở
nên bế tắc.
Bảng 2.4. Nhân khẩu bình quân 1 hộ theo nhóm chi tiêu
Đơn vị tính: người/hộ
Nhóm hộ (chi tiêu) Chung
1 (rất
nghèo)
2 3 4 5 (rất giàu)
Chung 4,7 5,6 5,1 4,6 4,3 4,1
Khu vực:
- Thành thị
- Nông thôn
4,4
4,8
5,7
5,6
5,4
5,1
4,8
4,6
4,6
4,3
4,1
4,0
1. Miền núi và
trung du Bắc bộ
4,9 5,8 5,2 4,6 4,1 3,7
2. ĐB sông Hồng 4,0 4,5 4,4 4,0 3,9 3,7
3. Bắc Trung bộ 4,7 5,6 4,9 4,5 4,0 3,8
4. Duyên hải
miền Trung
4,9 5,6 5,5 4,9 4,6 4,3
5. Tây Nguyên 5,7 6,4 5,6 5,4 5,3 4,5
6. Đông Nam bộ 4,8 6,1 5,2 5,3 5,4 4,5
7. ĐBSCL 5,0 6,2 5,9 5,1 4,4 3,8
Nguồn: TCTK VLSS 1988
Nhìn vào bảng trên ta thấy, hộ nghèo thường có số nhân khẩu bình quân
cao hơn hộ giàu từ 1,5 người trở lên, nhân khẩu bình quân trên hộ vùng nông
thôn thường cao hơn thành thị, cao nhất là đồng bằng sông Cửu Long, hộ
nghèo nhiều hơn hộ giàu gới 2,4 người. Vùng núi phía Bắc là 2,1 người; Tây
Nguyên là 1,9 người; Bắc Trung Bộ là 1,8 người; Tình trạng phổ biến của cả
nước là các hộ nghèo đói lại thường nhiều con, thiếu lao động. Điều này tạo
nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Tỷ lệ người sống phụ thuộc
Theo số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư của tổng cục thống
kê cho ta thấy, tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động ở nhóm hộ nghèo là rất
cao, và tỷ lệ này giảm dần khi nhóm mức chi tiêu bình quân đầu người tăng
dần.
Bảng 2.8. Số trẻ em dưới 15 tuổi theo nhóm hộ gia đình
Đơn vị: trẻ em/1 lao động
Nhóm hộ
1 (rất nghèo) 2 3 4 5 (rất giàu)
Chung 28 2,2 1,7 1,4 1,2
Nông thôn 2,8 2,2 1,8 1,4 1,3
Thành thị 2,7 2,1 1,6 1,3 1,1
Nguồn: Việt Nam - Tấn công đói nghèo. WB ước tính trên số liệu của
VLSS 98.
Theo bảng trên ta thấy nhóm (hộ nghèo nhất) thường là những hộ có số
người phụ thuộc cao nhất, chênh lệch giữa nhóm 1 và nhóm 5 là 1,6 người.
Trong đó, ở nông thôn, số người phụ thuộc cao hơn ở thành thị là 0,1 người
(nhóm 1) và 0,2 người (nhóm 5) số người phụ thuộc cao dẫn đến gánh nặng
của những người lao động chính tăng lên họ phải làm để không những nuôi
bản thân mình mà còn nuôi cả những người khác trong gia đình. Có nghĩa là 1
người nhóm 1 phải làm gấp 2,8;1,2 =2,3 lần so với 1 người thuộc nhóm 5. Có
thể nói tình trạng phụ thuộc của các gia đình là “người làm thì ít, người ăn thì
nhiều” và thường xảy ra ra tình trạng thiếu lao động (do số người trong gia
đình đông nhưng phần lớn vẫn chưa tự lao động để nuôi sống bản thân mình
mà phải phụ thuộc vào một vài lao động chính). Tình trạng thiếu lao động còn
thể hiện ở chỗ, người lao động chính, ngoài công việc kiếm tiền nuôi gia đình
còn phải gánh thêm nhiều công việc nhà do số người phụ thuộc tăng. Lao
động bỏ ra của họ cho công việc nhà cũng là đáng kể, vì làm việc nhà nên họ
không thể làm các công việc tạo ra thu nhập khác. Có thể thấy tình trạng hộ
nghèo có số người sống phụ thuộc cao là rất phổ biến, nó xảy ra ở hầu hết các
tỉnh thành trong cả nước. Đây là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng rát lớn,
thậm chí có tính chất quyết định, tới tình trạng nghèo đói của người dân, nó
cản trở việc thực hiện xoá đói giảm nghèo của người dân nói riêng và của
Đảng, Nhà nước nói chung. Cùng với mức sinh cao (gia đình đông con), tỷ lệ
người sống phụ thuộc cũng đã tạo nên một vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Đó
là: do sinh nhiều con nên lao động thiếu, số người phụ thuộc cao, gánh nặng
đè lên vai những người lao động chính, một người làm để phải nuôi mấy
người do đó làm không đủ ăn, vì vậy con cái không được hưởng một cách đầy
đủ những nhu cầu thiết yếu như y tế, giáo dục... dẫn đến vòng đời của chúng
sẽ lại rơi vào cảnh nghèo đói.
Giới tính của người làm chủ gia đình:
Chính nhân tố giới tính của người làm chủ gia đình cũng quyết định lớn
đến mức độ nghèo đói cao của hộ gia đình. Thường những gia đình mà người
phụ nữ làm chủ thì dễ rơi vào cảnh nghèo đói và mức nghèo đói còn trầm
trọng hơn so với các hộ khác. Lời nói của chị T, quận 10 thành phố Hồ Chí
Minh là một minh chứng cho điều này: “Cuộc sống của chúng tôi rất chật vật.
Kể từ khi chồng tôi mất, tôi không thể nào kiếm được việc làm và các con tôi
cũng không thể đến trường được nữa” (Phỏng vấn, đánh giá PPA, 1998).
Những hộ gia đình có mức sống khá và trung bình mà trước đây có
người đàn ông làm chủ nhưng vì một nguyên nhân nào đó (rủi ro thiên tai,
bệnh tật) mà trụ cột gia đình này mất đi, người phụ nữ lại không đủ khả năng
đảm đương được trách nhiệm này thì hộ gia đình đó rất dễ bị một cú sốc lớn
không thể chống lại được và dễ rơi vào tình trạng nghèo đói. Người phụ nữ có
đặc điểm là không làm được những công việc nặng nhọc mà nam giới có thể
làm, thêm vào đó, họ còn phải chịu nhiều định kiến, sự bất bình đẳng xã hội
nên với cùng một côngivệc họ chỉ nhận được một khoản tiền công ít hơn so
với người nam giới. Công việc của người phụ nữ thường là bất ổn định và họ
khó kiếm việc hơn nam giới nên thu nhập làm ra thường rất thấp. Bên cạnh
đó, người phụ nữ còn phải lo toan công việc gia đình nên không thể dành hết
thời gian và công sức cho việc tạo thêm thu nhập. Đó là những nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến tình trạng các hộ nghèo có người phụ nữ làm chủ thường có
cuộc sống khốn cùng hơn những hộ nghèo có người đàn ông làm chủ.
Hiện nay, nguyên nhân nghèo đói do giới tính cũng đáng được quan tâm
vì vẫn còn nhiều hộ do phụ nữ làm chủ, họ rất dễ bị tổn thương và lâm vào
cảnh đói nghèo. Qua cuộc điều tra chọn mẫu ở tỉnh Quảng Bình, chủ hộ là
nam có 1.488 hộ, tổng số nhân khẩu thuộc hộ nam là 8.465 người, bình quân
một hộ nam có 5,7 người/hộ. Trong khi đó, số hộ có chủ hộ là nữ: 562 hộ,
bình quân 1 hộ nữ chỉ có 3,9 người/hộ. Qua đó ta thấy số hộ gia đình ở Quảng
Bình đang thiếu vai trò của nam giới còn chiếm một tỷ lệ đáng kể: 562/1488 =
37,77%.
Bảng 2.9. Số khẩu trung bình của một hộ điều tra. Phân theo giới của chủ
hộ thuộc tỉnh Quảng Bình
Không nghèo Đói Nghèo Huyện
Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam
1. Đồng Hới 4,3 5,1 5,8 7,0 4,7 6,1
2. Bố Trạch 3,8 5,1 3,9 6,0 3,4 5,2
3. Lệ Thuỷ 3,6 5,7 3,9 6,1 4,1 5,7
4. Minh Hoá 5,7 5,5 4,8 6,2 4,0 5,1
5. Quảng Ninh 3,5 5,2 3,9 6,1 3,0 6,8
6. Quảng Trạch 3,5 5,2 3,4 5,4 4,0 5,6
7. Tuyên Hoá 3,8 4,7 3,8 6,0 6,1 5,5
Chung 3,7 5,3 3,9 6,0 4,1 5,8
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình:
“Nghèo đói, xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” - NXB Nông nghiệp, Hà Nội,
2001.
2.2.3. Các nhân tố kinh tế
Nghề nghiệp và mức độ đa dạng hoá của nghề nghiệp
Yếu tố nghề nghiệp có những ảnh hưởng nhất định tới sự nghèo đói của
người dân. Nghề nghiệp là nguồn cung cấp thu thập cho gia đình, vì vậy, tính
chất của nghề đó quyết định đến mức thu nhập và tính ổn định của thu nhập
thấp, bấp bênh. Thông thường, người dễ rơi vào tình trạng nghèo đói là những
người chỉ làm những công việc có thu nhập thấp, tỉnh rủi ro cao dẫn đến sự
bất ổn định về thu nhập. Thêm vào đó, họ chỉ có một nguồn thu duy nhất đưa
vào nghề đó. Thống kê cho thấy nghèo đói ở nước ta chủ yếu rơi vào các hộ
nông dân mà trong đó các hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao. Nông nghiệp là
nghề phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nếu có rủi ro xảy ra (như hạn hán, lũ lụt)
thì nguy cơ mất trắng toàn bộ hoa mầu là rất cao. Nếu gia đình chỉ trông chờ
vào thu nhập do hoa mầu thì khi xảy ra những sự cố như vậy, nguy cơ rơi vào
cảnh nghèo đói của họ sẽ rất cao.
Để thấy rõ điều nay ta có thể phân tích tỷ lệ các ngành nghề trong từng
nhóm hộ. Nó cho chúng ta bức tranh rõ nét hơn về các nguyên nhân đói nghèo
gắn liền với tình trạng thuần nông không có thêm nghề phụ.
Bảng 2.10: Phân tích tỷ lệ các hộ đói và nghèo phân theo ngành nghề
hoạt động
Ngành nghề sản xuất Đói Nghèo Chung cho các hộ
Nông nghiệp thuần nông nghề khác 90,57 88,05 86,59
Nghề khác 2,49 1,61 2,59
Dịch vụ buôn bán nhỏ 0,10 0,92 0,69
Lâm nghiệp + nông nghiệp 4,76 1,61 3,32
Làm thuê 1,14 2,53 1,80
Nghề thủ công 0,21 0,46 0,20
Thủy sản 0,73 4,82 4,82
Tổng 100 100 100
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình:
“Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”, trang 167 - NXB Nông
nghiệp - 2001.
Nhìn vào bảng trên ta thấy các hộ thuộc nhóm đói có tới 90,57% là thuần
nông và tỷ lệ thuần nông giảm dần theo chiều tăng về mức thu nhập của
nhóm, hộ không nghèo có tỷ lệ thuần nông thấp hơn cả 79,69%. Như vậy,
phân tích nguồn thu nhập theo ngành nghề mà các hộ đang tham gia hoạt
động cho thấy một nét chung là: thuần nông là bạn đường của tình trạng
nghèo đói.
Do tính bấp bênh của việc phụ thuộc vào một nghề duy nhất nên nghèo
đói cũng có thể được xem xét dưới góc độ đa dạng hoá ngành nghề. Việc đa
dạng hoá ngành nghề có tỷ lệ thuận với mức độ giảm nghèo. Đa dạng hoá
ngành nghề đến đâu quyết định khả năng hạn chế rủi ro và tăng thu nhập của
người dân, do đó có thể giảm được đói nghèo. Vì vậy, có thể nói, khi xem xét
đến vấn đề đa dạng hoá thu nhập hay đa dạng hoá ngành nghề, nếu hộ chỉ phụ
thuộc vào một nghề duy nhất thì khả năng nghèo đói là cao, nếu hộ đa dạng
hoá ngành nghề thì khả năng này sẽ giảm.
Tình trạng không có hoặc thiếu việc làm
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề thất nghiệp ở thành thị và
thiếu việc làm ở nông thôn vẫn mang tính bức xúc. Chính tình trạng không có
việc làm, thiếu việc làm thường xuyên đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập
của người dân. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm cho các hộ gia
đình rơi vào cảnh đói nghèo.
Bảng 2.11- Số người thiếu việc làm trong 12 tháng chia theo nhóm tuổi
Tổng số Chia theo nhóm tuổi (%)
(người) 15-24 25-34 35-44 45-54 55-59 > 60
Cả nước 9.418.380 30,53 29,98 23,81 10,98 2,60 2,09
Thành thị 1.198.882 29,70 31,99 24,91 10,79 1,92 1,43
Nông thôn 8.219.498 30,65 29,68 2,38 11,01 2,70 2,19
Miền núi và trung du
Bắc Bộ
1.393.328 35,39 5,9 23,4 1,89 2,87 1,33
Đồng bằng sông Hồng 2.554.720 25,67 28,30 27,62 12,43 3,31 2,67
Bắc Trung bộ 1.465.462 27,47 28,35 25,03 12,72 3,67 2,76
Duyên hải miền Trung 879.623 30,53 32,57 19,56 9,73 3,13 3,38
Tây Nguyên 199.433 32,03 32,67 23,40 8,01 2,59 1,30
Đông Nam bộ 870.856 32,96 35,01 21,44 7,97 1,38 1,24
Đồng bằng sông Cửu
Long
2.054,958 34,29 30,92 21,37 10,39 1,74 1,29
Nguồn: Theo số liệu của TCTK “Thực trạng lao động và việc làm ở Việt
Nam 1998”
Nhìn vào bảng trên ta thấy, tỷ lệ thiếu việc làm ở nước ta ở mức cao
(khoảng 22%) trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên (9,4% triệu/47 triệu).
Đáng chú ý tỷ lệ thiếu việc làm ở nhóm tuổi từ 25 đến 34 tuổi là: 29,98% và
từ 35 tuổi đến 44 tuổi là 23,81%. Đây là độ tuổi sung sức nhất cả về thể lực và
trí lực nhưng lại có tỷ lệ thiếu việc làm khá cao (trên 50% trong tổng số người
thiếu việc làm).
Bảng 2.12. Tình trạng không có việc làm thường xuyên ở các vùng
Đơn vị: người
Từ 15 tuổi trở lên Trong tuổi lao động Vùng
Tổng số Nữ Tổng số Nữ
* Cả nước 1.338.849 640.435 1.334.936 618.487
- Thành thị 427.175 204.500 422.215 202.210
- Nông thôn 961.674 435.935 922.721 416.277
Miền núi và trung du Bắc Bộ 20.919 44.753 119.410 44.176
Đồng bằng sông Hồng 349.780 154.293 331.128 144.439
Bắc Trung Bộ 263.721 121.100 248.615 113.370
Duyên hải miền Trung 125.452 56.883 121.825 55.430
Tây Nguyên 15.393 8.769 15.393 8.769
Đông Nam Bộ 239.285 110.364 237.536 109.836
Đồng bằng sông Cửu Long 274.299 144.273 271.029 142.467
Nguồn: TCTK “Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam 1998” trang
518-520. NXB Thống kê 1999.
Qua 2 bảng trên ta thấy số người thiếu việc làm và có việc làm không
thường xuyên ở khu vực nông thôn chiếm số lượng lớn (8.219.498 người
không có việc làm và 961.674 người có việc làm không thường xuyên. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói ở nôg
thôn cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ nghèo ở thành thị.
Cơ cấu chỉ tiêu:
Cơ cấu chi tiêu của các hộ nghèo thường rất eo hẹp. Họ chỉ có khả năng
trang trải với mức hạn chế, tối thiểu các chi phí lương thực và phí lương thực
thiết yếu khác, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm
thu nhập vì khó tiếp cận các cơ hội tăng trưởng kinh tế. Thu nhập thấp nên
mãi dù họ chỉ có khả năng trang trải tối thiểu các chi phí lương thực nhưng nó
cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của họ.
Bảng 2.13. Cơ cấu chi tiêu chia theo nhóm hộ
Đơn vị tính (%).
Nhóm hộ Chung
1 (rất
nghèo)
2 3 4 5 (rất giàu)
Chi đời sống 100 100 100 100 100 100
- Chi ăn uống 52,95 70,69 65,64 61,67 51,11 13,51
+ Lương thực 15,30 35,37 26,84 21,72 16,05 7,57
+ Thực phẩm 24,93 26,26 28,97 29,15 27,96 21,10
+ Chất đốt 3,77 4,11 4,08 4,02 3,89 3,52
+ Ăn uống ngoài gia
đình
5,19 0,70 1,86 2,71 4,48 7,65
+ Uống và hút 3,76 4,23 3,89 3,81 3,71 3,64
- Chi khôngphải ăn
uống
47,05 29,31 31,36 38,33 43,91 56,45
+ May mặc 4,31 5,79 5,71 5,38 4,76 3,34
+ ở 7,51 4,00 4,62 5,29 6,44 9,81
+ Đồ dùng bền lâu 12,10 4,08 6,26 8,79 10,84 16,47
+ Y tế 5,22 4,64 5,21 5,45 5,71 5,01
+ Giao thông bưu điện 1,26 0,48 0,65 0,77 0,91 1,71
+ Giáo dục 6,37 3,22 3,95 4,52 5,53 8,29
+ Văn hoá thể thao 0,65 0,08 0,10 0,17 0,37 1,12
+ Khác 9,54 7,03 7,87 8,77 9,32 10,61
Nguồn: TCTK VLSS 1998
Nhìn vào bảng trên ta thấy, người nghèo phải chi tới 70,69% tỷ trọng
ngân quỹ gia đình cho các khoản chi ăn uống. Trong đó 61,65% dành cho
lương thực thực phẩm. Chi ngoài ăn uống chỉ chiếm 29,31%, trong đó chi cho
các khoản giao thông bưu điện (0,48%), giáo dục (3,22%), văn hoá thể thao
(0,08%) chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Mặc dù tỷ trọng chi cho ăn uống cao như
vaỵa nhưng số lượng và chất lượng bữa ăn của họ vẫn không được đảm bảo,
tình trạng thiếu ăn, đứt bữa vẫn còn tồn tại. Khẩu phần ăn của họ không đảm
bảo được lượng Kcalo cần thiết cho cuộc sống bình thường nhằm tái sản xuất
sức lao động. Nói chung, bữa ăn của các hộ nghèo rât đạm bạc, không đủ dinh
dưỡng. Bình quân mỗi người/ngày mới đảm bảo được 1944 Kcalo, trong đó
lương thực bao gồm gạo, ngô, khoai, sắn chiếm 80%, thực phẩm khác chỉ
chiếm dưới 20%. Mặt khác, những người nghèo thường ít có cơ hội tiếp xúc
với các dịch vụ y tế. Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ.
Tình trạng sức khoẻ kém cũng là một nguyên nhân không kém phần quan
trọng dẫn đến nghèo đói, nó cũng làm người nghèo khó thoát khỏi vòng luẩn
quẩn của đói nghèo. Thu nhập thấp ăn uống không đầy đủ sức khoẻ
kém năng suất lao động thấp làm không đủ ăn thiếu đói vay
mượn nợ nần nhiều thu nhập thấp... đó chính là vòng luẩn quẩn mà người
nghèo rất dễ mắc phải.
Nhóm nhân tố về tài sản
- Nghèo do thiếu vốn: thiếu hạc không có vốn là nguyên nhân mà người
nghèo cho rằng có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghèo đói của họ. Không có
vốn để sản xuất kinh doanh chính là trở lực rất lớn đối với người lao động khi
tham gia vào kinh tế thị trường. Vốn là rất cần thiết, là điều kiện ban đầu cần
phải có để giúp cho các hộ nghèo thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vấn đề đặt ra ở
đây là làm thế nào các hộ nghèo có thể tiếp cận với các nguồn tín dụng để họ
có nhiều cơ hội hơn trong sản xuất kinh doanh. Hiện nay sự tiếp cận tín dụng
của các hộ nghèo còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ hộ vay vốn ngân hàng mới chỉ
chiếm 54,14%, lãi suất vay trung bình 1,18%. Còn hơn 455 số hộ không có
khả năng trả số nợ quá hạn. Sở dĩ hộ nghèo tiếp cận vốn còn khó khăn là do
cách sản xuất của hộ nghèo còn giản đơn, không biết thâm canh, thiếu kinh
nghiệm sản xuất, do lãi suất vay vốn cao và thủ tục vay còn rườm rà hoặc
cũng có thể do họ ngại rủi ro vay về không biết đầu tư vào đâu, có hoàn được
vốn không. Họ sợ đầu tư vào những cái mới vì không biết nó thế nào vì thế họ
vẫn cứ làm theo cách truyền thống, không có khoa học. Trong nông nghiệp thì
do không biết cách đầu tư, cải tạo đất cho tốt, không đưa các loại giống mới
vào trồng, không có các loại phân bón tăng trưởng hợp lý và cũng không sử
dụng các loại thuốc phòng tránh sâu bệnh dẫn đến năng suất cây trồng thấp và
nghèo lại hoàn nghèo. Hiện nay, rất nhiều hộ nghèo đã nhận thức được tầm
quan trọng và tính bức xúc của vốn, nhưng không phải ai muốn vay cũng
được cho vay. Có một nghịch lý là: vốn ngân hàng cho người nghèo vay còn
nhiều, nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo đói lại lớn, mà các hộ nghèo vẫn
phải đi vay mượn tư nhân, chịu cảnh vay nặng lãi. Thực tế nhu cầu vay vốn
thường có tính chất đột xuất trong số các hộ nghèo và nhu cầu phi sản xuất
thường không phù hợp với cơ chế vay vốn của ngân hàng. Hiện nay, đây là
một bất cập về cơ chế vay vốn, và là một thực tế nghiệt ngã trong cuộc sống
của người nghèo đói. Không ít hộ đã phải bán lúa non để lo lót các khoản chi
tiêu không thể chối từ trong gia đình... đang dồn họ vào thế bí: đã nghèo lại
nghèo thêm . Số liệu dưới đây phản ánh phần nào nhu cầu vay vốn của các hộ
nghèo và mức độ đáp ứng trên thực tế.
Bảng 2.14: Lý do vay vốn của các hộ theo nhóm chỉ tiêu
Đơn vị đo: %
Các nhóm hộ Chung
1 2 3 4 5
Sản xuất và đầu tư cơ
bản
66,32 15,53 63,25 69,23 69,25 65,77
Mua nhà, làm nhà 10,28 26,92 10,56 10,20 16,77 7,51
Mua sẵm đồ dùng 2,88 2,42 12,17 3,95 3,56 1,70
Tiêu dùng chung, ăn
khi giáp hạt
3,29 12,21 2,77 3,22 3,72 2,83
Chi tiêu khác 17,22 12,93 11,24 13,39 6,71 22,19
Tổng 100 100 100 100 100 100
Nguồn: TCTK: VLSS 1998
Bảng 2.14: Nhu cầu vốn của hộ giàu nghèo và mức độ đáp ứng vốn của
một số ngân hàng, tính bình quân một hộ vay.
Đơn vị tính: 1000đ
Hộ giàu Hộ nghèo
H. Lục
Nam (Bắc
Giang)
Gia Lâm
(Hà Nội)
Yên Mỹ
(Hưng
Yên)
H. Lục Nam
(Bắc Giang)
Gia Lâm
(Hà Nội)
Yên Mỹ
(Hưng Yên)
Số hộ điều tra 10 6 13 2 1 2
- Nhu cầu vốn/1
hộ
11806,5 16056,2 21151,6 4286,8 3820,5 4005,3
- Đáp ứng 10112,0 16189,5 23537,4 2819,9 2163,5 2886,1
- Tỷ lệ đáp ứng 85,65 100,64 75,46 65,76 56,62 72,06
Nguồn: Phạm Văn Khiêm- Những biện pháp huy động vốn và sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn của hộ nông dân các tỉnh phía Bắc, Viện Kinh tế nông
nghiệp, 1999.
Nhìn vào bảng trên ta thấy hộ giàu có nhiều lợi thế hơn hộ nghèo trong
việc vay vốn ngân hàng. Các hộ giàu được đáp ứng với mức độ khá cao về
nhu cầu vay vốn từ 75,48% đến 100% thậm chí vượt nhu cầu. Trong lúc đó,
hộ nghèo đã thiếu vốn, cần vốn nhưng lại chưa được vay thoả đáng, mức độ
đáp ứng cao nhất cũng chỉ đến 72,0%. Theo đánh giá của ngân hàng phục vụ
người nghèo, tỷ lệ nợ quá hạn đối với hộ nghèo nhất chiếm tỷ trọng cao trong
tổng số nợ quá hạn nói chung. Trong khi điều kiện sản xuất còn gặp nhiều khó
khăn, các hộ nghèo có nhiều mặt hạn chế, thì nợ nần triền miên đối với họ là
điều khó tránh khỏi. Điều này đã góp phần làm bần cùng thêm cuộc sống của
họ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho họ khó thoát khỏi cảnh nghèo
đói.
- Nghèo do thiếu tài sản vật chất:
Thiếu hoặc không có tài sản luôn là nguyên nhân gây ra nghèo đói đối
với các hộ gia đình. Như là các đôi vợ chồng trẻ, mới bước vào cuộc sống, có
xuất phát điểm thấp (giá trị tài sản ban đầu nhỏ) họ gặp rất nhiều khó khăn
trong sản xuất kinh doanh, trong việc tiếp cận với thị trường, nắm bắt các cơ
hội, nhạy bén với các xu thế của xã hội. Các hộ có xuất phát điểm thấp thì rất
dễ rơi vào cảnh nghèo đói nếu có rủi ro xảy ra. Vì tài sản có giá trị của họ, xét
cho cùng, chỉ có căn nhà và một đồ đạc sinh hoạt thiết yếu (điều quan trọng ở
đây không phải là tổng giá trị của tài sản là bao nhiêu mà chúng ta phải xem
xét khả năng có thể hoá giá các tài sản này để bù đắp cho các thiệt hại do các
rủi ro đem lại) chính vì không có tài sản để tự bảo hiểm nên nhiều hộ gia đình
đã phải sống chung với nghèo đói.
Thiếu tài sản còn thể hiện ở các hộ gia đình không có hoặc không đáng
kể các tư liệu sản xuất để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, họ
thường phải sống ở trong những căn nhà lán, lều tạm bợ. Ngay cả ở thành phố
một số gia đình nghèo vẫn phải sống trong các căn nhà ổ chuột, không đảm
bảo được các điều kiện hợp vệ sinh. Đây chính là nguyên nhân gây ra các
dịch bệnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của chính bản thân họ. Theo kết
quả điều tra năm 1993 của Bộ Nông nghiệp và CNTP về tình trạng giàu
nghèo trong nông thôn cho thấy: Nhà ở của hộ nghèo còn đơn sơ: mới chỉ có
15,7% số hộ có nhà ngói, 72% còn ở nhà tranh vách đất, 11,7% số hộ ở lều
tạm. Đồ dùng sinh hoạt trong gia đình còn quá thiếu thốn, bình quân mỗi hộ
có một chiếc giường gỗ hoặc tre, 0,3 chiếc xe đạp. Về tư liệu sản xuất bình
quân 10 hộ mới có một con trâu hoặc bò, ngay cả cày, bừa bằng gỗ vẫn còn
thiếu thốn. Trong lúc đó, các hô giàu đã tích luỹ khá lớn, đã mua sắm được
nhiều loại máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh, phương tiện sinh hoạt. Đã
có 16,1% số hộ giàu có nhà ở mái bằng hoặc từ 2 tầng trở lên; 77% số hộ có
nhà ngói, chỉ còn 6,9% ở nhà tranh. Số hộ có ti vi các loại là 17%, trong lúc
đó 16,8% số hộ có ti vi mầu, 79% số hộ có radiô các loại, 87,8% số hộ có xe
đạp.
Bảng 2.16: Tình hình nhà ở theo 5 nhóm hộ phân theo mức chi tiêu
1997-1998
Đơn vị tính: %
Theo nhóm Khu vực Chung
1 nghèo
nhất
2 3 4 5 giàu
nhất
Thành
thị
Nông
thôn
1. Nhà kiểu biệt thự 0,07 0,00 0,00 0,00 0,00 100,0 91,39 8,61
2. Nhà căn hộ cao tầng
khép kín
3,98 1,53 1,81 2,10 7,65 86,92 86,07 13,93
3. Nhà căn hộ cao tầng
không khép kín
2,19 0,63 11,72 10,24 34,08 43,34 97,38 52,62
4. Nhà căn hộ 1 tầng
kiên cố khép kín
1,74 1,61 0,68 5,33 18,99 73,40 85,91 14,09
5. Nhà căn hộ 1 tầng
kiên cố không khép kín
6,94 10,07 19,82 20,81 24,50 24,85 21,70 78,30
6. Nhà bán kiên cố 59,18 17,75 20,19 21,27 22,38 18,11 17,49 82,51
7. Nhà tạm khác 29,91 33,51 23,79 21,51 11,20 6,98 11,64 88,36
Nguồn: TCTK: VLSS 1998
Theo các số liệu điều tra ở trên ta thấy tỷ lệ hộ nghèo chủ yếu ở nhà bán
kiên cố, nhà tạm vẫn còn cao (33,51 nhà tạm và 17,75 nhà bán kiên cố). Và
hầu hết các hộ ở nông thôn hiện còn ở nhà bán kiên cố, nhà tạm. Qua đây ta
thấy được bức tranh khái quát cuộc sống khó khăn, túng thiếu của họ. Đây
cũng chính là nguyên nhân làm cho họ phải sống trong cảnh lam lũ, bần cùng,
cơ hàn và nghèo đói.
Ngoài ra mức độ tiếp cận của các thành viên trong hộ với các loại tài sản
cũng có tác động đáng kể đến tình trạng nghèo đói của bản thân họ.
Biểu 2.17: Giá trị tài sản bình quân theo đầu người
Đơn vị tính: 1000đ/người
Trị giá các loại tài sản Không nghèo Đói Nghèo Chung
1. Radio- Cassette 4,84 2,98 37,82 3,75
2. Tivi 7,78 1,68 3,88 4,08
3. Xe máy 3,2 1,50 2,32 2,3
4. Xe đạp 44,35 22,32 33,56 31,68
5. Bình bơm thuốc trừ sâu 2,48 2,34 0,99 1,16
6. Xe bò 8,18 4,68 8,40 6,58
7. Máy bơm nước 2,48 0,02 1,35 1,19
8. Nhà ở 736,03 373,13 560,93 527,84
9. Trâu 57,22 33,03 42,70 42,74
10. Bò 128,56 109,25 114,22 116,42
Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình
“Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” trang 176, NXB Nông
nghiệp 2201.
Ta thấy chính giá trị bình quân của các tài sản, vận dụng phản ánh mức
sống chung của các hộ. Đặc biệt là các hộ đói việc tiếp cận với các loại tài sản
còn rất nhiều hạn chế. Ví dụ bình quân mỗi người trong hộ đói chỉ có 1500
đồng so với mỗi cái xe trị giá vài chục triệu để thấy khoảng cách của họ đến
các phương tiện đi lại đắt tiền này còn xa vời, không biết trong đời có đạt
được không. Qua đây ta thấy chính sự thiếu thốn các loại tài sản trên làm cho
việc đi lại, nuôi trồng, sản xuất gặp nhiều khó khăn, là nguyên nhân phổ biến
gây ra tình trạng nghèo đói ở nhiều nơi.
2.3.3. Các nhân tố xã hội
Nhóm nhân tố giáo dục
Người nghèo thường có trình độ học vấn tương đối thấp, thiếu kỹ năng
làm việc và thông tin, thiếu kinh nghiệm sản xuất, không có kinh nghiệm làm
ăn, cho nên không có được các giải pháp để tự thoát nghèo. Dân trí thấp, tự ti,
kém năng động, lại không đợc hướng dẫn cách thức làm ăn, đây là nguyên
nhân làm cho nhiều hộ rơi vào cảnh đói nghèo triền miên, đặc biệt là các hộ
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc miền núi, ít người.
Thực tế đã chứng minh, các hộ nghèo đói thì chủ hộ thường có học vấn
thấp. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên. Bảng 2.18 sẽ
minh chứng rõ thêm điều này.
Bảng 2.18: Trình độ học vấn của các hộ
Đơn vị (%)
Các nhóm hộ Chung
1 (rất
nghèo)
2 3 4 5 (rất giàu)
Chung 100 19,98 20,00 20,01 20,01 20,00
- Chưa bao giờ đến
trường
100 39,86 19,99 16,19 15,01 8,94
- Chưa tốt nghiệp cấp I 100 23,33 23,03 21,14 19,38 13,13
- Tốt nghiệp cấp I 100 21,27 21,24 19,75 19,60 18,11
- Chưa tốt nghiệp cấp II 100 17,63 20,96 23,57 20,87 16,97
- Chưa tốt nghiệp cấp
III
100 10,54 13,03 20,33 19,55 36,55
- Nghề cơ sở 100 10,13 15,86 19,32 25,23 29,15
- THCN 100 6,98 14,31 15,41 23,60 39,69
- Đại học và cao đằng trở
lên
100 1,45 4,57 3,59 20,21 70,15
Nguồn: TCTK : VLSS, 1998
Theo bảng trên, trong nhóm hộ nghèo nhất thì số người chưa bao giờ đến
trường chiếm tỷ lệ cao nhất, đáng chú ý là trình độ từ cấp III trở lên chiếm tỷ
lệ ít nhất. Người nghèo thường không được đào tạo nghề nghiệp. Đây là điều
đáng lo ngại nhất đối với người nghèo, họ rất ít có các cơ hội để kiếm được
việc làm tốt và tạo thu nhập cao, do đó nghèo đói là khó tránh khỏi.
Bảng 2.19: Trình độ học vấn của người nghèo (năm 1993)
Trình độ học vấn Tỷ lệ nghèo (%) Tỷ lệ trong tổng số
người nghèo (%)
Tỷ lệ trong tổng
số dân số (%)
- Không được đi học 57 12 8
- Tiểu học 42 39 35
- Phổ thông cơ sở 38 37 36
- Phố thông trung học 25 8 12
- Dạy nghề 19 3 6
- Đại học 4 0 3
- Tổng số 37 100 100
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói - WB.
Như vậy, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, gần 90%
người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn tỷ lệ chưa hoàn
thành chương trình giáo dục tiểu học ở nhóm hộ nghèo cao nhất 57%, ngược
lại, tỷ lệ tốt nghiệp đại học thuộc diện nghèo đói chỉ chiếm 4%. Ta thấy sự
chênh lệch học vấn giữa người nghèo và người giàu là khá rõ ràng.
Bảng 20.2: Trình độ văn hoá của chủ hộ phân theo nhóm
Tỷ lệ (%) Giàu Nghèo
- Không biết chữ 0 24,3
- Học hết cấp I 28,1 53,6
- Học hết cấp II 44,2 20,3
- Học hết cấp III 27,7 1,8
Nguồn: Giàu - nghèo trong nông thôn hiện nay. NXB Nông nghiệp 1999.
Theo kết quả này thì nhóm hộ nghèo có tới 24,3% chưa biết chữ trên
53% chỉ có trình độ học vấn cấp I. Trong khi đó, nhóm hộ giàu phần lớn đạt
trình độ học vấn cấp II, cấp III. Các hộ nghèo không có điều kiện học tập văn
hoá, các con em họ không có nhiều cơ hội đến trường, nhất là con em vùng
dân tộc ít người, miền núi vùng sâu, vùng xa, đây cũng là một trong các
nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo từ đời này sang đời
khác, thực tế, bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là
chìa khoá quan trọng để thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Tuy nhiên, các con số thống kê được đã chỉ ra rằng, vấn đề lớn liên quan
đến việc tiếp thu các kỹ năng, các kiến thức chung, việc có được thông tin là
đặc biệt quan trọng. Các hộ sẽ được xếp vào nhóm khá giả hơn nếu như
những người trưởng thành trong gia đình có trình độ học vấn nhất định và trẻ
em được đến trường. Theo phỏng vấn, đánh giá PPA ở thành phố Hồ Chí
Minh, nhiều hộ cho rằng cần phải có trình độ cao hơn mức phổ thông cơ sở để
có cơ hội kiếm được một công việc ổn định. Như vậy, đời sống mới bớt nhọc
nhằn, khổ cực hơn.
Nhóm nhân tố liên quan đến sức khoẻ
Hiện nay, cách đánh giá nghèo đói của WB không chỉ dựa vào thu nhập
mà còn dựa vào khía cạnh sức khoẻ của người dân.
*** Hình 2.1. Đánh giá nghèo đói qua các khía cạnh đa chiều
Ghi chú: H: là ngưỡng được xác định là người khoẻ mạnh.
Y: là thu nhập của người nghèo theo thu nhập.
Ở bảng trên, đã biểu hiện được mối quan hệ giữa sức khoẻ và thu nhập,
nó phản ánh đầy đủ hơn tình trạng nghèo khó của con người. Người dân có
thu nhập thấp sẽ làm giảm khả năng cải thiện về sức khoẻ, thể hiện ở việc dễ
ốm đau và ít có cơ hội điều trị bệnh. Ngược lại, sức khoẻ không tốt cũng gây
những ảnh hưởng tiêu cực tới việc làm và thu nhập.
Ở Việt Nam, mức độ nghèo đói về sức khoẻ thể hiện rất rõ nét, nó thể
hiện sự bần cùng hơn của những người nghèo khi không tiếp cận với các dịch
vụ y tế. Điều này rất phổ biến ở khu vực nông thôn, ở những vùng sâu, vùng
xa và nhất là ở nhóm các dân tộc thiểu số (hình 2,2)
Hình 2.2. Các nhóm thiẻu số ở Việt Nam ít được tiếp cận các dịch vụ y ế
hơn các nhóm không thiểu số
Nguồn: Phỏng theo Van de Walle và Gunewardena 2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.pdf