Luận văn Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Luận văn Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay: Luận văn Đề Tài: Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay LỜI GIỚI THIỆU 1. Bối cảnh nghiên cứu Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm...

pdf51 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Đề Tài: Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay LỜI GIỚI THIỆU 1. Bối cảnh nghiên cứu Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình quân hàng năm khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần 100.000 hộ do bão lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng nghèo của thế giới. 2. Mục đích nghiên cứu Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sồng trong cảnh cùng cực, Việt Nam sẽ khó thực hiện được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sao đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu được những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo đói của Việt Nam. Nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi sâu vào thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời vào cảnh khối cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xã hội, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng cuộc sống của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối * 2USD tính theo PPP cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu này sẽ chỉ ra tổng quan của sự nghèo đói trên thế giới và chủ yếu xoáy sâu vào tình trạng nghèo đói ở Việt Nam, trong những năm gần đây. Đối tượng được đề cập đến chính là những người nghèo đói. Họ là ai và mức khốn khổ của họ đến đâu, cần phải làm những gì cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn. Thông qua các ngưỡng nghèo, các chỉ tiêu đánh giá đói nghèo như chất lượng của cuộc sống, mức nghèo đến đâu, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm bảo y tế như thế nào, tình trạng giáo dục ra sao, sự đảm bảo y tế như thế nào. Nó sẽ xác định được các đối tượng rơi vào diện nghèo, diện đói. 4. Các câu hỏi nghiên cứu Để đánh giá chính xác về tình trạng của nghèo đói ta cần trả lời các câu hỏi: - Đói nghèo là gì? - Đói nghèo được biểu hiện ở những khía cạnh nào? - Các chỉ tiêu và chuẩn mực để xác định và đánh giá đói nghèo? - Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong những năm gần đây? - Các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo đói? - Các biện pháp khắc phục? 5. Phương pháp nghiên cứu Để phân tích được tình trạng nghèo đói thì ta cần dùng một số phương pháp như phân tích, đánh giá, so sánh, thống kê và mô tả nhằm phân tích xoáy sâu vào các nhân tố tác động đến sự nghèo khó, đánh giá xem mức độ nghèo đói đến đâu, diễn biến của nó như thế nào là phạm vi ảnh hưởng của nó ra sao. Mặt khác cần phải có sự kết hợp với các số liệu thống kê để phản ánh tình trạng nghèo đói một cách trung thực hơn, chính xác hơn. Qua đó cho phép ta so sánh được các người nghèo, các nhóm dân cư nghèo, các vùng nghèo và các quốc gia nghèo khác nhau. 6. Kết cấu của đề tài: Đề tài sẽ được chia làm 3 phần: Chương 1: Đói nghèo - các nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Chương 2: Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Một số biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo. Do phạm vi nghiên cứu rộng, năng lực và kinh nghiệm bản thân có hạn, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em mong nhận được sự chỉ dẫn, gợi ý, nhận xét của thầy cô để bổ sung và hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên: Nguyễn Vũ Phúc Lớp K35-F1 trường Đại học Thương mại Chương 1: Tổng quan của đói nghèo 1.1. Khái niệm về đói nghèo 1.1.1. Định nghĩa về đói nghèo  Đói nghèo từ tiếng nói của chính người nghèo. Tiếng nói của người nghèo cho ta những cảm nhận cụ thể, rõ ràng nhất về các khía cạnh của nghèo đói (nghèo đói không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất mà còn là sự thụ hưởng thiếu thốn về giáo dục và y tế. Một người nghèo ở Kênia đã nói về sự nghèo đói: “Hãy quan sát ngôi nhà và đếm xem có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và quần áo tôi đang mặc trên người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ông thấy. Cái mà ông thấy chính là nghèo đói”. Một nhóm thảo luận Braxin đã định nghĩa về đói nghèo là: “Tiền lương thấp và thiếu việc làm, và cũng có nghĩa là không được hưởng thụ về y tế, không có thức ăn và quần áo”. Ngoài ra, khái niệm đói nghèo còn được mở rộng để tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nó và quyền lực. Từ tiếng nói của người nghèo, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm về đói nghèo. Tuỳ thuộc vào cách tiếp cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc gia mà ta có các quan điểm khác nhau về nghèo đói.  Quan niệm trước đây Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Coi thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan niệm này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống. Thu nhập thấp không phản ánh hết được các khía cạnh của đói nghèo, nó không cho chúng ta biết được mức khốn khổ và cơ cực của những người nghèo. Do đó, quan niệm này còn rất nhiều hạn chế.  Quan điểm hiện nay Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhau: - Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. + Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương. + Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. + Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế. + Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng. - Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo. + Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được nuôi dưỡng tạm đủ. + Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu. + Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu tối thiểu. + Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hoặc nước khác. Quan niệm của Việt Nam Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng: Ở Việt Nam thì tách riêng đói và nghèo thành 2 khái niệm riêng biệt. - Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. - Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000VND). Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói: “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng” Qua các cách tiếp cận trên đã giúp chúng ta nâng cao sự hiểu về các nguyên nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức hành động đúng đắn để tấn công đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng tốt đẹp hơn. Các khía cạnh của đói nghèo.  Về thu nhập: Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức thu nhập thấp. Điều này do tính chất công việc của họ đem lại. Người nghèo thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực nhọc nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt, hạn hán, động đất...). Các nghề thuộc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của những người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí còn không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề đủ dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng Kcalo cần thiết, tối thiểu cho con người để có thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc đáp ứng một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập... cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thoát ra được. Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Như đã trình bày ở trên, do thu nhập thấp nên người nghèo không thể đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu về lương thực thực phảam. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao động nặng nề đã làm giảm sức khoẻ của người nghèo do đó cũng không đảm bảo được các kỹ năng cũng như sức lao động cơ bản. Tài sản tự nhiên như đât đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là thiếu, không có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được. Tài sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất ít hoặc hầu như không có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng lao động của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện sản xuất nó cũng làm giảm thu nhập của họ. Còn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát, chật chội. Nhiều căn nhà không đủ đảm bảo an toàn, không bảo đảm sức khoẻ cho những người sống trong đó. Do không có những tài sản giá trị để bảo đảm nên người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận với các tổ chức cho vay vốn, do thu nhập thấp nên người nghèo cũng không có khả năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là thiếu hụt tài sản tài chính. Còn tài sản xã hội, như các mối quan hệ và trách nhiệm đối với nhau để khi cần có thể nhờ cậy và ảnh hưởng chính trị đối với các nguồn lực, đối với người nghèo điều này cũng rất hạn chế, do thu nhập thấp, lúc nào cũng phải lo chạy ăn đủ bữa nên người nghèo không quan tâm hoặc không có khả năng tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội. Một điều cản trở nữa là, hầu hết khi tham gia vào các nhóm, tổ chức nào đó cũng đều phải đóng một khoản phí nhất định, người nghèo lo ăn còn chưa đủ, nói gì đến việc bỏ tiền tham gia nhóm, hội nào đó. Điều này đã làm cho người nghèo dần bị cô lập và do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn.  Y tế - giáo dục Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không được tốt do ăn uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ không được sử dụng nguồn nước sạch, không có công trình phụ hợp vệ sinh, điều này cũng làm giảm đáng kể sức khoẻ của họ. Nó đã dẫn đến tình trạng tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh trong nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà mẹ mang thai thiếu máu rất cao. Có điều này là do người nghèo có thu nhập thấp, không đủ trả khoản tiền viện phí lớn cũng như các chi phí thuốc men khác, thêm vào đó có thể do đối xử bất bình đẳng trong xã hội, người nghèo không được quan tâm chữa trị bằng người giàu nên tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó, do nhận thức của người nghèo, họ thường không quan tâm lắm bệnh tật của mình, khi bị bệnh họ thường cố tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi bệnh trở nên trầm trọng họ mới vào viện vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả không cao mà còn tốn thêm nhiều khoản tiền không đáng có. Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng. Hầu hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ thất học, mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Có tình trạng như vậy là do các gia đình này không thể trang trải được các chi phí về họctập của con cái họ như tiền học phí, tiền sách vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình. Những người nghèo cũng đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói nhưng vấn đề học phí của con em họ quả là vấn đề quá khó khăn với tình hình tài chính của gia đình. Một phụ nữ đã nói: “Các con tôi đã sẵn sàng tới trường vào tháng 9, nhưng tôi không biết làm thế nào để có thể cho cả ba đứa tới trường. Ở một số nước, trẻ em phải thôi học bởi lỡ hạn nộp học phí đến đúng vào lúc mà gia đình không có khả năng thanh toán nhất. Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ cũng đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như tương lai của họ và gia đình nhưng do thu nhập thấp, không đủ trang trải, học phí, viện phí, họ đành phải để con cái thôi học, người bệnh không được khám và chữa chạy đúng mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp cận với các dịch vụ y tế. Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ, giảm sức khoẻ cũng như hạn chế cơ hội phát triển của các thế hệ sau.  Nguy cơ dễ bị tổn thương Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm với sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì? Nó chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị ngược đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác, những rủi ro mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của họ chính là nguyên nhân khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo do tài sản ít, thu nhập thấp, họ chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua được các cú sốc có hại, những cú sốc mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp, người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí không đáng có hoặc giảm thu nhập. Ở các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay có người bị ốm đau thì họ dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đảo lộn cuộc sống của cả gia đình mà một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có khi việc khắc phục những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự khốn cùng của họ trong dài hạn. Chẳng hạn, ví dụ trên, do thiếu tài sản nên để chạy chữa cho một người bị ốm, gia đình đã buộc phải quyết định cho một đứa con nghỉ học hay họ phải bán trâu, bò, ngựa... những phương tiện lao động cần thiết của gia đình. Cũng có thể người bệnh thì không khỏi được còn gia đình từ cảnh khá giả rơi vào cảnh khốn cùng. Như vậy, nếu có thêm một vài sự kiện nghiêm trọng nữa xảy ra thì sự suy sụp đến cùng kiệt là điều khó tránh khỏi với người nghèo. Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo là sợ phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi ro cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành công (ví dụ đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đã làm họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và do vậy cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.  Không có tiếng nói và quyền lực Những người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề xã hội do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt đối xử, chịu sự thô bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người bình thường khác nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, không kiểm soát được cuộc sống của mình. Đó chính là kết quả mà nguyên nhân không có tiếng nói và quyền lực đem lại. Một người nghèo ở Trà Vinh nói họ chẳng được gọi đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi lao động thì mới được gọi tới. Kể cả khi họ tham gia được các cuộc họp của cộng đồng thì họ cũng không thể quyết định được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan đến lợi ích của chính họ. Không có tiếng nói và quyền lực còn thể hiện ở chỗ những người phụ nữ bị đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ nữ không có quyền quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng của họ. 1.2. Các thước đo chuẩn mực đánh giá đói nghèo 1.2.1. Các thước đo đói nghèo. Đo lường đói nghèo thông qua các chỉ tiêu như thu nhập, chỉ số về giáo dục và y tế, nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nói và quyền lực cho phép có được một cách nhìn tổng thể về đói nghèo. Nó phản ánh chính xác các nguyên nhân gây ra đói nghèo, từ đó chính phủ hay cộng đồng quốc tế có các biện pháp thích hợp để hành động.  Đói nghèo theo thu nhập Sử dụng thước đo thu nhập hay tiêu dùng bằng tiền để xác định và đo lường đói nghèo là một phương pháp đã được áp dụng từ lâu. Từ năm 1899 Seebohm Rowntree đã sử dụng phương pháp này để đo lường đói nghèo. Qua các cuộc khảo sát về thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình ông đã đưa ra định nghĩa: “Đói nghèo là mức tổng thu nhập không đủ trang trải nhu cầu thiết yếu tối thiểu để duy trì sức lực cơ bắp thuần tuý”. Nhu cầu thiết yếu đó bao gồm thực phẩm, tiền thuê nhà và một số thứ khác. Từ đó ông đã đi đến ước tính về đói nghèo của mình. Tuy cách làm này còn nhiều hạn chế song nó cũng phản ánh được phần lớn tình trạng nghèo khổ của người dân lúc bấy giờ. Hiện nay WB vẫn sử dụng phương pháp và cách tiếp cận giống như của Rowntree. Cách làm này cũng được nhiều quốc gia áp dụng vì nó có nhiều ưu điểm. Điều tra hộ gia đình thu được nhiều thông tin, là căn cứ để tìm ra các mối quan hệ giữa các khía cạnh khác nhau của đói nghèo, từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu. Ngoài ra, thước đo đói nghèo theo thu nhập và tiêu dùng đã xác định được ngưỡng nghèo. Đây là ranh giới quan trọng về thu nhập hay tiêu dùng mà dưới đó, các cá nhân và hộ gia đình bị coi là nghèo. Cách làm này xem ra rất tiện dụng khi đưa ra các con số tổng hợp đói nghèo trên phạm vi toàn cầu. WB đưa ngưỡng nghèo là 1USD/người/ngày và 2USD/người/ngày* bị coi là nghèo đói. Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, phương pháp này còn có một số hạn chế. Đó là, các cách điều tra khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các vùng, khu vực, giữa các quốc gia làm cho việc so sánh gặp nhiều khó khăn, số liệu thu thập từ các hộ gia đình thường không đầy đủ và chính xác, không phản ánh hết tình trạng bất bình đẳng chung của đói nghèo.  Y tế và giáo dục Ngoài cách tiếp cận dựa vào thu nhập WB còn sử dụng thước đo y tế và giáo dục để đo lường sự khốn cùng của người dân. Nó bao gồm các chỉ tiêu: * Về y tế: * Tính theo PPP - Tỷ lệ trẻ em sơ sinh; nặng dưới 2 5kg = Số trẻ sơ sinh nặng dưới 2 5kg;Tổng số trẻ sơ sinh trong năm x 100 - Tỷ lệ bà mẹ có thai; khám thai ít nhất 3 lần = Số phụ nữ có thai khám thai ít nhất 3 lần; Tổng phụ nữ sinh con trong năm x100 - Tỷ lệ bà mẹ có thai; tiêm uốn ván đủ mũi = Số phụ nữ có thai tiêm đủ mũi uốn ván;Tổng số phụ nữ sinh con trong năm x100 - Tỷ lệ hộ có giếng nước;hợp vệ sinh = Error!x100 - Tỷ lệ hộ có hố xí;hợp vệ sinh = Error! x 100 - Tỷ lệ tử vong; trẻ sơ sinh = Error! - Tỷ lệ tử vong;của sản phụ = Error! - Tuổi thọ bình quân là số năm trung bình một người có thể sống được. - Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai là tỷ lệ phụ nữ đang thực hiện hay bạn đời của họ đang thực hiện bất kỳ hình thức tránh thai nào. + Về giáo dục: - Tỷ lệ trẻ đến trường; đúng độ tuổi = Error! x 100 - Tỷ lệ trẻ ngoài; trường học = Error! x 100 - Tỷ lệ mù chữ; ở người lớn = Error! x 100 Đo lường nghèo đói dựa vào các chỉ số trên cho phép phản ánh đầy đủ các khía cạnh của người nghèo. Nó giúp ta có một bức tranh đầy đủ hơn về chất lượng cuộc sống của người dân, nó thuận lợi cho việc so sánh nghèo đói ở những nơi có thu nhập ngang nhau. Nhưng, trong thực tế, việc thu thập số liệu về các chỉ số này gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ như các ví dụ về tỷ lệ tử vong của trẻ em chủ yếu được lấy ra từ các kết quả điều tra dân số định kỳ, vì vậy các số liệu vẫn còn sự sai lệch khá lớn. Về tuổi thọ bình quân cũng rất khó xác định chính xác vì nó thường không được đo lường trực tiếp. Các số liệu về giáo dục cũng thất vọng không kém. Tỷ lệ đến trường cũng chỉ là con số ước tính thay cho số đến trường thực tế. Hơn nữa, tỷ lệ tổng số học sinh học tiểu học có thể tăng nếu số học sinh lưu ban tăng. Tuy nhiên, hiện nay, các nhà nghiên cứu đã có nhiều sáng kiến, họ đang cố gắng tìm ra những phương pháp hữu hiệ để có thể đưa ra các số liệu đáng tin cậy hơn.  Nguy cơ dễ bị tổn thương Đo lường nguy cơ dễ bị tổn thương chính là đo lường mức độ chống chọi với các cú sốc của những hộ gia đình như gặp rủi ro, bị ngược đãi, đánh đập, thiên tai, bị thôi việc, phải nghỉ học... Chẳng hạn, khi gặp rủi ro, các hộ gia đình có khả năng bù đắp lại các thiệt hại hay không và mức bù đắp như thế nào? Thông thường, người ta đo lường và đánh giá nguy cơ dễ bị tổn thương qua các góc độ: - Về tài sản vật chất: là những tài sản mà hộ có thể bán đi để bù đắp những mất mát tạm thời về thu nhập. Đây là thước đo về khả năng tự bảo hiểm của họ. Tài sản vật chất của hộ gia đình được xem xét theo hai khía cạnh giá trị và tính thanh khoản của nó. Tài sản có tính thanh khoản cao (hay khả năng hoá giá cao) thì mức độ bảo hiểm sẽ càng cao. - Về vốn con người: Các hộ gia đình có trình độ học vấn hạn chế thường dễ phải chịu sự bất ổn định về thu nhập và ít có khả năng quản lý rủi ro hơn. - Về đa dạng hoá thu nhập: ở nông thôn, hoạt động phi nông nghiệp mang tính rủi ro ít hơn hoạt động nông nghiệp. Vì vậy đa dạng hoá thu nhập là thước đo khả năng chống chọi lại các rủi ro liên quan đến thời tiết. - Mối liên hệ với mạng lưới an sinh. Đánh giá nguy cơ dễ bị tổn thương của hộ gia đình dựa vào các khoản hỗ trợ trông thấy mà họ sẽ được nhận khi khủng hoảng, từ các nhóm hay hiệp hội mà họ là thành viên. - Tham gia mạng lưới an sinh chính thức: Nguy cơ tổn thương của hộ gia đình sẽ giảm bớt nếu hộ đủ tiêu chuẩn nhận được sự trợ giúp xã hội bảo hiểm thất nghiệp, lương hưu và các khoản trợ cấp khác do nhà nước cấp. - Tiếp cận thị trường tín dụng. Tương tự, nguy cơ tổn thương của hộ gia đình sẽ giảm nếu hộ tiếp cận được nguồn tín dụng một cách nhẹ nhàng. Kết hợp tất cả góc độ này với nhau ta sẽ có được một bức tranh tổng thể về nguy cơ dễ bị tổn thương của những người nghèo, nó cho biết khả năng chống chọi của hộ khi có những biến động trong cuộc sống. Việc đo lường nguy cơ dễ bị tổn thương trên thực tế gặp nhiều khó khăn do nó là một khía niệm động nên việc đo lường rất phức tạp, tốn nhiều tiền của và công sức. Không thể đo lường nó bằng cách quan sát các hộ gia đình mà phải có cuộc điều tra, theo dõi trong nhiều năm mới có thể nắm bắt được những thông tin cơ bản và tính biến động và nguy cơ dễ bị tổn thương mà người nghèo là rất quan trọng.  Không có tiếng nói và quyền lực Không có tiếng nói và quyền lực có thể được đo lường bằng cách sử dụng kết hợp các biện pháp có sụ tham gia của người dân, phỏng vấn và điều tra quốc gia về các vấn đề như mức tự do dân sự, tự do chính trị. Không có tiếng nói và quyền lực thể hiện ở chính mức độ được trao quyền của người dân. Tức là, xem xét khả năng tham gia vào các quyết định của gia đình, của cộng đồng vì những người nghèo thường bị khinh miệt, đối xử và thậm chí còn bị hạn chế một số quyền mà những người bình thường khác nghiễm nhiên được hưởng. đo lường mức độ không có tiếng nói và quyền lực nó phản ánh nỗi khổ đau mà những người nghèo cam lòng gánh chịu. Họ không có cả những quyền tham gia vào những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến phúc lợi của họ. Việc đo lường đói nghèo dựa theo tiêu chí này được người nghèo cho là rất quan trọng. Tuy nhiên, việc thực hiện gặp nhiều khó khăn, tốn kém nhiều tiền của và công sức, nó phải được thực hiện bằng các cuộc điều tra, phỏng vấn, theo dõi trong nhiều năm mới có thể nắm bắt được những thông tin chính xác về vấn đề này. 1.2.2. Các chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo ở Việt Nam  Chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp cá nhân và hộ gia đình - Hộ nghèo: Ở Việt Nam để đo tình trạng nghèo đói, có nhiều cách tính hộ nghèo. Chẳng hạn thành phố Hồ Chí Minh lấy mức thu nhập bình quân dưới 500.000đ/1 khẩu/1 năm (tương đương trên 33kg gạo/tháng). Vĩnh Phú lấy tiêu chuẩn dưới 500.000đ/1 khẩu/1 năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân nhân khẩu. Gia đình nào có mức thu nhập bình quân dưới 30 kg gạo một khẩu một tháng được coi là nghèo. Có ý kiến đề nghị lấy mức tối thiểu do nhà nước quy định làm chuẩn. Người có mức sống dưới mức nghèo khổ là người có thu nhập bình quân một tháng thấp hơn mức tối thiểu do nhà nước quy định (hiện nay là 210.000đ). Theo Bộ Lao động- Thương binh xã hội tiêu chuẩn xác định hộ nghèo như sau: + Năm 1993: Hộ nghèo là hộ có thu nhập thấp bình quân đầu người dưới 13kg gạo/tháng ở nông thôn (tương đương 45.000 đồng), 20 kg gạo/tháng ở thành thị (tương đương 70.000 đồng). + Năm 1996: Hộ nghèo là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu người tháng. Dưới 25kg/người ở thành thị, dưới 20kg/người ở nông thôn, đồng bằng và trung du, dưới 15kg/người ở nông thôn miền núi. - Hộ đói: Theo Bộ Lao động - Thương binh xã hội, tiêu chuẩn xác định hộ đói như sau: + Năm 1993: Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 8kg gạo/tháng ở nông thôn, 13kg/tháng ở thành thị. + Năm 1996: Hộ đói là hộ có thu nhập quy đổi ra gạo bình quân đầu người là 13kg/tháng. Song, trên thực tế những hộ đói là hộ thiếu lương thực trong gia đình từ 3 tháng trở lên thể hiện thiếu ăn, đứt bữa, bữa cơm, bữa cháo, ăn độn khoai sắn... Như vậy những hộ đói thì thường con cái của họ thất học, nhà cửa dột nát, đồ dùng trong nhà không đáng kể, không còn lương thực dự trữ trong nhà, song cũng không có tiền để mua lương thực trong ngày, mặc dù trên thị trường không thiếu lương thực. Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh xã hội mới đưa ra chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2001-2005. Theo tiêu chuẩn này thì có hai phương án để lựa chọn: Khu vực áp dụng Chuẩn nghèo (đồng/người/tháng) Phương án 1 (thấp) Phương án 2 (cao) Thành thị 135.000 150.000 Nông thôn đồng bằng 70.000 100.000 Nông thôn miền núi 45.000 80.000 Các chuẩn mực trên có thể đúng trên tổng thể song không thể áp dụng cho từng đối tượng, từng vùng cụ thể được. Nếu lấy mức bình quân 800.000đồng/khẩu/năm là hộ nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh thì có thể lại là hộ giàu ở vùng nông thôn miền núi phía Bắc. Vì vậy để chọn và phân loại hộ đói nghèo ở Việt Nam có thể phải xem xét các đặc trưng cơ bản có nó như: Thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán, nợ thuế triền miền, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm thuê cuốc mướn để kiếm sống qua ngày hoặc đi ăn xin... Nếu đưa các chuẩn mực này ra để xác định thì rất dễ biết hộ đói nghèo ở nông thôn... Bảng 1.1. Các chỉ tiêu đánh giá nghèo cấp hộ gia đình Lĩnh vực Chỉ tiêu I. Nhu cầu ăn 1. Số lượng gạo tối thiểu (12kg/người/tháng) 2. giá trị khẩu phần ăn tối thiểu một ngày (...đ/người/tháng) II. Nhu cầu mặc 3. Không đủ quần áo, chăn ấm trong mùa rét 4. Không đủ màn chống muỗi III. Nhà ở 5. Hộ gia đình ở lều, lán và nhà tạm bợ IV. Việc làm 6. Thiếu việc làm (thiếu trên tháng/năm) V. Sức khoẻ 7. Trẻ em từ 1 - 3 tuổi suy dinh dưỡng thể thiếu ăn (dưới 80% trọng lượng cần có của độ tuổi) 8. Người lớn 15-60 tuổi ốm đau kinh niên (trên 30 ngày/năm) 9. Không có khả năng chữa bệnh khi ốm đau. VI. Giáo dục 10. Người lớn trong độ tuổi lao động (15-60) mù chữ 11. Trẻ em 6-11 tuổi không đi học 12. Hộ gia đình không có đài hoặc ti vi để nghe. Nguồn: Vũ Tuấn Anh “Những tiêu chuẩn đánh giá mức nghèo ở nông thôn”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4 năm 1997, trang 36. Dựa vào 12 chỉ tiêu trên thì chắc chắn các hộ nghèo đều ở mức độ khác nhau. Nhưng các thẻ phân loại các dạng hộ nghèo thành hai nhóm: Nhóm 1: Hộ nghèo có 5 chỉ tiêu về ăn, mặc, ở dưới chuẩn mực. Nhóm 2: Hộ rất nghèo có trên 5 chỉ tiêu dưới chuẩn mực. Bên cạnh các chỉ tiêu trên, qua cuộc điều tra tình trạng giầu nghèo năm 97**** Tổng cục Thống kê chọn mức nhiệt lượng tối thiểu là 2.100 Calo cho người/ngày thuộc diện nghèo đói. Ứng với mức đảm bảo nhu cầu nhiệt lượng trên, Tổng cục thống kê đưa ra chuẩn mực hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân. Nông thôn: dưới 50.000đồng/người/tháng, trong đó rất nghèo là dưới 30.000/tháng (hay 360.000đ/người/năm). Thành thị: Dưới 70.000 đồng/người/tháng, trong đó rất nghèo là dưới 50.000 đồng/người/tháng (hay 600.000 đồng/người/năm). Qua đó ta thấy các chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở Việt Nam do Bộ Lao động thương binh - xã hội và Tổng cục Thống kê đưa ra là cực kỳ thấp so với chuẩn mực nghèo khổ chung trên thế giới do ngân hàng thế giới đưa ra là dưới 370USDngười/năm*. Điều này càng chứng tỏ nước ta là một nước cực nghèo, vấn đề đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất cho người nghèo là vấn đề nan giải. Đồng thời cũng cho thấy tính tương đối khi xác định chuẩn nghèo đói ở mỗi nơi là khác nhau. Vì vậy để đánh giá được chính xác nghèo đói thì phải biết được mức độ nghèo đói đến đâu? nghèo hay rất nghèo. Thực tế nước ta vẫn tồn tại một bộ phận dân cư ở tình trạng thiếu ăn, đói về lương thực (nhiệt lượng chỉ đạt 1500 Calo/người/ngày). Do đó khi đánh giá nghèo ở Việt Nam nên phân thành hai cấp độ nghèo và đói vì nó phản ánh đúng hiện thực khách quan.  Chỉ tiêu đánh giá nghèo ở cấp cộng đồng Để đánh giá các vùng nghèo, ở nước ta thường dùng hai chỉ tiêu chính: - Tỷ lệ các hộ nghèo tuyệt đối trên tổng số hộ của vùng. - Thu nhập bình quân một thành viên trong một hộ gia đình của vùng. * 370USD l tính theo PPP Ngoài ra còn có thể kết hợp với một số chỉ tiêu khác như: - Bình quân lương thực tính trên một nhân khẩu nông nghiệp - Số kilômét đường giao thông trên một nhân khẩu nông nghiệp - Tổng mức hàng hoá lưu thông (nhập, xuất) trong vùng tính theo đầu người. - Tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ trẻ em đến trường. - Tỷ lệ y, bác sĩ, giường bệnh trên một nghìn người dân. - Tuổi thọ bình quân. Các chuẩn mực để xác định vùng nghèo: - Tỷ lệ các hộ nghèo từ 60% trở lên. - Bình quân thu nhập của một thành viên trong hộ gia đình của cả vùng hơn mức thu nhập trung bình của một thành viên của một hộ gia đình trong cả nước. Ngoài ra cũng có thể dùng thêm một số chỉ tiêu phụ như: - Bình quân lương thực tính trên đầu người dân nông nghiệp dưới 200kg/năm. - Số kilômét đường giao thong trên một kilômét vuông nhỏ hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. - Mức trung bình điện năng, tiền vốn trên một lao động nhỏ hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. - Tỷ lệ mù chữ cao hơn 1,5 lần mức trung bình của cả nước. - Tỷ lệ y, bác sĩ, giường bệnh trên một nghìn dân thấp hơn 1/3 mức trung bình của cả nước. Nguồn: Bộ Lao động thương binh - xã hội và Tổng cục thống kê 2000. Bảng 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá nghèo ở cấp cộng đồng Lĩnh vực Chỉ tiêu I. Mức sống nói chung 1. Tỷ lệ số dân nghèo (hoặc số hộ nghèo) trong tổng số hộ dân (hộ) 2. Giá trị một ngày công lao động trên thị trường lao động địa phương. II. Nguồn lực tự nhiên (ruộng đất) 3. Diện tích đất canh tác nông, lâm, ngư nghiệp bình quân/người. 4. Tỷ lệ số hộ không có hoặc có ít ruộng đất (dưới 1/2 mức trung bình đầu người). III. Việc làm 5. Tỷ lệ số người lao động thiếu việc làm (trên 3 tháng/năm) trong tổng số lao động. 6. Tỷ lệ lao động làm trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và phi nông nghiệp. IV. Sức khoẻ 7. Tỷ lệ trẻ em 1-5 tuổi suy dinh dưỡng thể thiếu cân (dưới 80% trọng lượng cần có của độ tuổi). 8. Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh 9. Có hay không trạm y tế xã 10. Số nhân viên y tế (cả công, tư cả y và dược) tính trên 1000 dân. V. Giáo dục 11. Tỷ lệ người lớn mù chữ 12. Tỷ lệ trẻ em 6-10 tuổi không đi học 13. Số giáo viên hoạt động trên địa bàn tính trên 1000 dân VI. Nhà ở vệ sinh VII: Văn hoá và giao tiếp 14. Tỷ lệ hộ gia đình ở lều lán và nhà tạm bợ trong tổng số hộ 15. Tỷ lệ hộ có nguồn nước sạch (giếng, ống dẫn nước sạch) 16. Tỷ lệ hộ có nhà tắm 17. Tỷ lệ hộ có nhà xí hợp vệ sinh 18. Số Kw/h điện tiêu dùng tính trên đầu người/tháng 19. Có hay không có công trình văn hoá quan trọng (nhà văn hoá, thư viện, loa truyền thanh) 20. Có hay không có chợ. 21. Số máy điện thoại tính trên 1000 dân VIII. Sự tham gia của nhân dân vào các hoạt động xã hội. 22. Tỷ lệ số thành viên các tổ chức chính trị, xã hội (Đảng, Đoàn thanh niên, phụ nữ, mặt trận tổ quốc, các hội nghề nghiệp) trên 1000 dân. IX. Đời sống và địa vị của phụ nữ 23. Tỷ lệ phụ nữ có thai suy dinh dưỡng 24. Số phụ nữ tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội tại địa phương trên 1000 phụ nữ. Nguồn: Vũ Tuấn Anh “Những tiêu chuẩn đánh giá mức nghèo ở nông thôn”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4 năm 1997, trang 38. Những chỉ tiêu về mức thu nhập ở cấp cộng đồng (làng xã) là phản ánh mức độ đáp ứng những nhu cầu cơ bản về hàng hoá và dịch vụ công cộng, cả trong tiêu dùng vật chất lẫn hưởng thụ văn hoá tinh thần. Nhìn chung hiện nay nước ta dùng hệ thống chỉ tiêu này để đánh giá nghèo cấp cộng đồng là tương đối hợp lý. Tuy nhiên nó vẫn còn có mặt hạn chế, chưa nêu bật được chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người để đánh giá về nghèo. Mặt khác, sau những trận bão khủng khiếp cuối những năm 90 ở Nam Bộ, nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về nhà ở kiên cố, người ta xây dựng nhà nổi để sống chung với lũ. Hoặc hiện nay nhu cầu về gạo đang có xu hướng giảm, và cũng có thể rất nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về màn nếu họ ở nhà lầu với máy điều hoà nhiệt độ... Những hộ như thế chưa chắc đã thuộc diện nghèo đói.1.3. Bức tranh nghèo đói toàn cầu Trong thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến một sự tiến bộ vượt bậc trong công cuộc xoá đói giảm nghèo và cải thiện phúc lợi ở các nước đang phát triển, tuổi thọ bình quân đã tăng 20 năm, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh và tỷ lệ sinh giảm hơn một nửa. Năm 1965 đến năm 1998, thu nhập trung bình tăng hơn hai lần ở các nước này và riêng trong giai đoạn 1990-1998, số người trong cảnh cùng cực đã giảm được 78 triệu người. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XXI nghèo đói vẫn còn là vấn đề rất lớn của toàn cầu. Theo số liệu của WB, trong số 6 tỷ người của thế giới thì có đến 2,8 tỷ người sống dưới mức 2USD/ngày và 1,2 tỷ người sống dưới mức 1USD/ngày. Mức độ nghèo đói của toàn thế giới là rất lớn. Xét theo từng khu vực mức độ này có khác nhau nhưng vẫn nói lê tính nghiêm trọng của tình hình nghèo đói của từng khu vực cũng như toàn thế giới. Số liệu thống kê của LHQ năm 1998 cho thấy: Tại Nam Á, có 560 triệu người nghèo (chiếm một nửa tổng số người nghèo trên thế giới). 600 triệu dân đang suy dinh dưỡng, 250 triệu người không được sống trong những điều kiện vệ sinh cơ bản. Có 1/3 trẻ sơ sinh thiếu cân, 80% số phụ nữ mang thai lại thiếu máu, 1,8 triệu trẻ em không được tới trường học. Lực lượng trẻ em phải lao động kiếm sống rất cao. Ví dụ, ở Ấn Độ có khoảng từ 14 đến 100 triệu trẻ em phải lao động. Đông Á là khu vực có GDP tính trên đầu người tăng trung bình 5%, mức cao nhất thế giới. Tuy vậy, khu vực này vẫn có 170 triệu người nghèo khổ. Tại miền Nam Châu Phi - Xahara có 215 triệu người nghèo, hơn 80 triệu trẻ em đến tuổi tới trường không được đi học. Hàng năm có 1,3 triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang. Tại các nước Ả Rập, từ năm 1960 đến năm 1993, thu nhập thực tế là 3%/năm, nhưng hiện nay vẫn còn 73 triệu người nghèo, 60 triệu người mù chữ. Tại Mĩ la tinh và vùng Caribê, 150 triệu người nghèo, 56% nông dân không có nước sạch để uống. Tại các nước nông nghiệp phát triển, GDP thực tế tăng hơn 3%/năm, tuy nhiên vãn có hơn 100 triệu người nghèo, hơn 5 triệu người không có nhà ở và hơn 30 triệu người nghèo không có việc làm. Qua những số liệu trên, ta thấy nghèo đói toàn cầu vẫn đang là vấn đề mang tính bức xúc. Điều này còn được thể hiện ở sự bất bình đẳng cao trên thế giới, theo số liệu của WB, thu nhập trung bình của 20 nước giàu nhất gấp 37 lần mức thu nhập trung bình của 20 nước nghèo nhất (khoảng cách này đã tăng gâp đôi trong vòng 40 năm qua). Nếu phân chia toàn bộ dân số thế giới, và chiếm một lượng của cải vật chất và trình độ tương ứng với mỗi nhóm thì ta có thể thấy: 20% dân số giàu nhất thế giới chiếm dụng 87,5% GNP; 84,2% thương mại thế giới; 85,0% tích luỹ; 85,0% đầu tư trong khi đó 20% dân số nghèo nhất chiếm các chỉ tiêu tương ứng là 1,46%; 0,9%; 0,7% và 0,9%. Rõ ràng là một nhóm người thì có tất cả còn nhóm kia coi như không có gì. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, hiện nay, loài người thực tế đã sản xuất đủ lương thực, thực phẩm để nuôi sống toàn bộ hành tinh, nếu tính lượng Kcalo bình quân đầu người. Nhưng vấn đề lại là ở việc phân phối chúng như thế nào. 20% dân số giàu nhất tiêu dùng 87-90% giá trị sản phẩm của toàn thế giới, 6% số người giàu nhất đã tiêu dùng 35-40% sản phẩm của thế giới. Do vậy, nghèo đói, bệnh tật và suy dinh dưỡng có thể coi là điều tất yếu với nhóm dân số nghèo. Sự bất bình đẳng cao còn thể hiện giữa các giới, tỷ lệ người nghèo đói trong giới phụ nữ vẫn trầm trọng hơn nam giới. Phụ nữ chiếm 60% lực lượng lao động trên thế giới nhưng họ chỉ hưởng 10% thu nhập và sử dụng chưa đầy 1% ruộng đất của thế giới, chiếm 1/6 trong số 6 tỷ người của thế giới hiện đang thiếu dinh dưỡng. Có từ 20-40% phụ nữ ở các nước đang phát triển không thể có chế độ ăn phù hợp, 350 triệu phụ nữ không được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tối thiểu cần thiết. Riêng khu vực Nam Á, được đánh giá là nơi có sự phân hoá giàu nghèo chậm hơn cả, thì vẫn còn tới 80% số phụ nữ mang thai bị thiếu máu, số người thiếu dinh dưỡng lên tới 841 triệu(1). Qua bức tranh đói nghèo trên của thế giới, ta có thể khẳng định rằng nghèo đói vẫn là tình trạng mang tính toàn cầu và đang là hiện tượng bức xúc hiện nay. Báo cáo của Liên hiệp quốc cho rằng, tình trạng đói nghèo trên thế giới, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của sự khai phá đến kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, chiến tranh, bùng nổ dân số, phân phối không công bằng trong xã hội, do các như cầu thiết yếu bị bỏ qua (bảo hiểm xã hội, nguồn nước, vệ sinh...) do quá tập trung đầu tư vào khu vực quân sự, giảm ngân sách xã hội, trật tự kinh tế bất hợp lý là trở ngại lớn trên con đường đi lên của các đang phát triển, đồng thời cũng là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với Liên hiệp quốc. Đói nghèo còn là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng tội phạm, bạo lực, mất an ninh xã hội. Nó không những mang lại hậu quả kinh tế - xã hội nghiêm trọng cho các nước đang phát triển mà còn là nguyên nhân quan trọng của xung đột. Vì vậy, giảm bớt và đi đến xoá đói nghèo đói đã trở thành tiêu điểm chú ý của toàn nhân loại, trở thành mục tiêu và nhiệm vụ nặng nề của các tổ chức phi chính phủ và các chính phủ trên thế giới. Tất cả đã và đang áp dụng mọi biện pháp nhằm ngăn chặn sự gia tăng nghèo đói trên hành tinh chúng ta. (1) Xem báo Nhân dân, 9/1/1996 Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam 2.1. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam Nghèo đói đang là một trong những vấn đề bức xúc ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, đòi hỏi nhà nước và xã hội cần đặc biệt quan tâm. Sau 15 năm đổi mới xây dựng kinh tế theo hướng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Việt Nam đã và đang thu được những kết quả đáng khích lệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bộ mặt nông thôn có những thay đổi lớn. Một bộ phận nghèo đói không biết cách làm ăn nhờ sự giúp đỡ của cồng đồng nay đã thoát khỏi cảnh nghèo. Phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục... từng bước được cải thiện và phát triển đảm bảo nhu cầu ngày càng tốt hơn của xã hội, đặc biệt là nhóm người nghèo đã có sự thay đổi rất lớn. Theo báo cáo của WB trong cuộc toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội, 15-16/2/2000 thì tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam năm 1993 là 58,1% giảm xuóng 34,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo Bộ LĐTBXH thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam là 26,0% năm 1993 giảm xuống 15,7% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 11%. Qua các số liệu thống kê trên ta thấy, dù đánh giá tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam bằng phương pháp nào thì Việt Nam vẫn có tốc độ giảm nghèo rất nhanh, đã từng được cộng đồng quốc đánh giá có một trong những nước có, tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, xét trên tổng thể, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa các thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng gia tăng và gay gắt. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Đến nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều, việc làm là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn”.  So sánh nghèo đói theo vùng Bảng 2.1. Diễn biến nghèo đói theo vùng ở Việt Nam Vùng 1996 1997 1998 Số hộ nghèo đói Tỷ lệ Số hộ nghèo đói Tỷ lệ Số hộ nghèo đói Tỷ lệ 1. Miền núi và Trung du Bắc bộ 695.503 27,24 638.400 25,32 570.445 22,89 2. Đồng bằng sông Hồng 330.519 11,01 302.460 9,81 272.160 8,38 3. Bắc Trung bộ 609.372 30,80 544.926 27,84 500.225 24,62 4. Duyên hải miền Trung 413.660 23,14 358.260 22,44 291.815 17,8 5. Tây Nguyên 188.876 29,45 180.400 27,84 172.915 25,65 6. Đông Nam Bộ 116.728 6,17 103.900 5,50 91.400 4,75 7. Đồng bằng sông Cửu Long 502.912 16,25 190.750 15,60 189.090 15,37 Cả nước 2.857.122 19,23 2.622.906 17,68 2.387.050 15,7 Nguồn: Nguyễn Hải Hữu “Nghèo đói ở Việt Nam. Chính sách và giải pháp”. Hội thảo, toạ đàm về chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam. Việc làm và xoá đói giảm nghèo. Bộ LĐTB-XH, năm 1999. Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ nghèo đói ở các vùng cũng có sự khác biệt đáng kể. Vùng Bắc Trung Bộ (24,62%) và vùng Tây Nguyên (25,65%) là hai vùng có tỷ lệ nghèo đói cao nhất, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất 4,75%. Ở đây có sự chênh lệch giữa các vùng có tỷ lệ nghèo đói cao với vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp gần 5 lần. Đồng thời cũng dễ dàng nhận thấy người nghèo tập trung nhiều nhất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc 570.145 hộ chiếm 23,9%, tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ có 500.225 hộ chiếm 20,9%, Đồng bằng sông Cửu Long có 489.050 hộ chiếm 20,51%, cả bốn vùng còn lại chỉ chiếm 34,7%. Xét trong từng vùng, giữa các tỉnh tỷ lệ nghèo đói cũng sự khác biệt. Tại vùng Tây Nguyên, tỷ lệ nghèo đói của Lâm Đồng là 15,89%; Đắc Lắc là 26,44%; nhưng Gia Lai là 44,85% và Kon Tum là 54,4%. Tỷ lệ này chênh lệch tới 3,4 lần giữa tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất so với tỉnh có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất. Nếu lấy chuẩn mực tối thiểu để so sánh thì một số tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu có tỷ lệ nghèo đói đều dưới 5% trong khi đó một số tỉnh có tỷ lê nghèo dói cao như Hoà Bình 55,7%; Kon Tum 54,5%; Quảng Bình 46%; Gia Lai 44,85%; Lai Châu 42,4%; Sơn La 40%. Tỷ lệ nghèo đói chênh lệch giữa các thành phố gần 10 lần. Theo báo cáo của địa phương, hiện nay mới có 10 tỉnh, thành phố (chiếm 16%) có tỷ lệ nghèo đói dưới 10% phân bố ở đồng bằng Sông Hồng 5 tỉnh Đông Nam Bộ 4 tỉnh, Đồng bằng Sông Cửu Long 1 tỉnh. Trong khi đó có 11 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói từ 50% trở lên (chiếm 18%) tập trung ở miền núi phía Bắc 5 tỉnh, Bắc Trung bộ 3 tỉnh, Duyên Hải miền Trung 1 tỉnh, Tây Nguyên 9 tỉnh. Một số huyện thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên có tỷ lệ hộ nghèo đói rất cao từ 60-70%. Theo đánh giá cả nhóm công tác các chuyên gia chính phủ cho thấy 40% người nghèo của Việt Nam sống tập trung tại ba khu vực: miền núi phía Bắc 28%; Đồng bằng sông Cửu Long là 21% và Bắc Trung Bộ là 18%. Như vậy sự khác nhau về tỷ lệ nghèo ở các vùng, các tỉnh, thành phố cho thấy khả năng bứt phá, vươn lên của các vùng, tỉnh, thành phố là khác nhau. Nơi nào có điều kiện phát triển nhanh, nơi đó có tỷ lệ giảm nghèo nhanh.  So sánh thu nhập bình quân đầu người tháng theo vùng ở Việt Nam (tính theo giá hiện hành) Đơn vị: 1000 đồng Vùng 1994 1995 1996 Tỷ lệ hộ nghèo 1996 Tỷ lệ hộ giàu 1996 Cả nước 176,47 206,10 226,70 17,81 3,67 Miền núi và trung du Bắc Bộ 133,63 160,65 173,76 23,69 1,36 Đồng bằng sông Hồng 170,88 201,18 223,30 12,09 2,94 Bắc Trung bộ 135,02 160,21 174,05 23,31 1,42 Duyên hải miền Trung 154,96 176,03 194,66 16,37 1,63 Tây Nguyên 197,71 241,14 165,60 27,77 5,25 Đông Nam bộ 291,85 338,91 378,05 8,09 11,94 Đồng bằng sông Cửu Long 203,90 221,96 242,31 16,30 4,61 Nguồn: “Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”. Đề tài cấp Bộ Khoa học quản lý kinh tế, Học viện CTQG HCM, Hà Nội 1997, trang 43. Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy 2 miền có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là miền núi và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung bộ cũng là nơi có tỷ lệ nghèo đói cao và tỷ lệ hộ giàu thấp. Đông Nam bộ là vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất đồng thời cũng có tỷ lệ số hộ nghèo thấp nhất và tỷ lệ số hộ giàu cao nhất. Tuy nhiên, không phải lúc nào thu nhập cũng tỷ lệ thuận với mức giảm nghèo. Ở đồng bằng sông Hồng, thu nhập đứng thứ 4 trong 7 vùng nhưng lại có tỷ lệ nghèo rất thấp, đứng thứ 2. Trong khi đó, Tây Nguyên có mức thu nhập bình quân đứng thứ 2 nhưng lại có tỷ lệ nghèo đói cao nhất trong 7 vùng. Như vậy, có sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư trong 1 vùng.  Chênh lệch thu nhập giữa các vùng và các nhóm dân cư. Bảng 2.3. Thu nhập năm theo giá so sánh bình quân đầu người theo nhóm hộ và theo vùng kinh tế Đơn vị: 1000đ Khu vực Vùng Chung Thành thị Nông thôn Miền núi và trung du Bắc Bộ ĐB Sông Hồng Bắc Trung Bộ Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam bộ ĐB sông Cửu Long Tổng cộng chung Phân theo nhóm hộ* 3146 7142 2188 2133 3189 2377 2619 2590 6004 2915 1 806 926 804 733 833 863 868 718 628 745 2 1489 1550 1487 1465 1512 1481 1494 1498 1506 1487 3 2177 2235 2173 2184 2190 2165 2180 2131 2218 2151 4 3272 3360 3257 3258 3234 3257 3200 3265 3382 3280 5 7914 9617 6625 6596 8282 6716 6436 7248 9351 6839 * Phụ lục 2 Nhóm 5 so với nhóm 1 (lần) 9,9 10,39 8,24 8,11 9,94 7,79 7,12 10,09 14,89 9,18 Nguồn: TCTK - VLSS - 1998 Xét theo giá tại thời điểm điều tra, mức thu nhập của nhóm hộ 5 (nhóm hộ giàu) nhiều gấp 6,73 lần so với nhóm hộ 1 (nhóm hộ nghèo). Tuy nhiên nếu xét theo giá so sánh thì thấy mức thu nhập của nhóm 5 chung các vùng lớn gấp 9,9 lần so với nhóm hộ 1. Theo các vùng kinh tế, vùng 1 là 8,11 lần; vùng 2 là 9,91 lần; vùng 3 là 7,79 lần; vùng 4 là 7,42 lần; vùng 5 là 10,09 lần; đặc biệt vùng 6 Đông Nam Bộ - có sự chênh lệch rất cao 14,89 lần; và vùng 7 là 9,18 lần. Ở khu vực nông thôn là 8,21 lần và và ở khu vực thành thị là 10,39 lần. Nhìn chung, sự phân tầng thu nhập giữa các nhóm hộ trong vùng với giữa các vùng, giữa các khu vực có sự chênh lệch lớn so với các giai đoạn trước. Bảng 2.4- Thu nhập bình quân đầu người/tháng Nhóm 1994 (1000đ) 1995 (1000đ) 1996 (1000đ) 1995 so với 1994 (%) 1996 so với 1995 (%) Nhóm 1 63,0 734,3 78,6 117,9 105,8 Nhóm 2 99,0 121,7 134,9 126,0 108,9 Nhóm 3 133,2 166,7 184,4 125,2 110,6 Nhóm 4 185,0 227,6 250,2 122,4 109,9 Nhóm 5 408,5 519,6 574,7 127,2 110,6 Nguồn: Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa “Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” NXB CTQG, 1998. Theo bảng trên ta thấy, thu nhập bình quân đầu người/tháng của các nhóm đều tăng lên nhưng nhóm 1 tăng chậm nhất. Làm cho khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày nay càng lớn tăng 5,8% hay 1,5 nghìn đồng, nhóm 5 tăng 10,0% hay 55,7 nghìn đồng. Qua phân tích trên ta thấy khả năng vươn lên để thoát ra khỏi sự tình trạng nghèo đói của nhóm 1 là rất khó khăn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ rất lớn của Đảng, Nhà nước và cộng đồng.  So sánh nghèo đói theo khu vực thành thị - nông thôn Bảng 2.5 - Tỷ lệ nghèo ở thành thị và nông thôn Đơn vị: % Cả nước Thành thị Nông thôn 1993 1998 1993 1998 1993 1998 Tỷ lệ nghèo LTTP 24,9 15,0 7,9 2,3 29,1 18,3 Tỷ lệ nghèo chung* 58,1 37,4 25,1 9,0 66,4 44,9 Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói (WB) Ở Việt Nam, nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, hiện nay số người nghèo sống ở nông thôn là 90% (còn ở thành thị là 10%) trong đó 45% sống ở dưới ngưỡng nghèo (theo WB) Việt Nam, tấn công nghèo đói). Do thu nhập thấp, tăng trưởng kinh tế chậm nên chi tiêu thực tế của người dân cũng tăng chậm. Ta có thể thấy điều này qua bảng sau.  So sánh tăng trưởng chỉ tiêu theo vùng Bảng 2.6- Tăng trưởng chi tiêu bình quân đầu người ở nông thôn và thành thị (1993-1998) Tăng trưởng chi tiêu ở thành thị (%) Tăng trưởng chi tiêu ở nông thôn (%) Chênh lệch thành thị nông thôn (%) Chung cả nước 60,5 30,4 30,1 - Miền núi phía Bắc 65,8 26,9 38,9 - Đồng bằng sông Hồng 47,2 51,4 -4,2 - Bắc Trung bộ 86,4 37,2 49,2 - Duyên hải miền Trung 39,1 25,5 13,6 - Tây nguyên 24,8 - * Tỷ lệ nghèo chung bằng tỷ lệ nghèo LTTP + Tỷ lệ nghèo phi lương thực - Đông Nam Bộ 78,1 59,1 19,0 - Đồng bằng sông Cửu Long 35,7 10,6 25,1 Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói 12/1999. Ước tính của WB - dựa vào số liệu VLSS93 và VLSS98. Qua bảng trên có thể thấy tăng trưởng chi tiêu ở vùng nông thôn là tương đối thấp (trừ đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ) Duyên Hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long có mức tăng trưởng chi tiêu ở thành thị và cả ở nông thôn là thấp nhất. Chênh lệch thành thị và nông thôn ở Bắc Trung Bộ cao nhất là 49,2%, ở đồng bằng sông Hồng thấp nhất -4,2%. Mức tăng chi tiêu thể hiện chất lượng cuộc sống được cải thiện ở mức nào chênh lệch giữa thành thị và nông thôn thể hiện khoảng cách chênh lệch mức cải thiện đời sống giữa hai khu vực. Qua bảng trên ta thấy khoảng cách này có nơi tương đối lớn thể hiện sự phân hoá giàu nghèo giữa 2 khu vực tăng. Tóm lại, qua những phân tích ta thấy tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả nước đã giảm nhưng vẫn ở mức cao 11%. Riêng ở nông thôn còn khoảng 20,87% hộ nghèo với khoảng 10 tiệu nông dân nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng là tương đối phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng thu nhập bình quân của các nhóm dân cư tăng nhưng nhóm 2 tăng chưa đáng kể, cuộc sống của người dân nghèo đã được cải thiện nhưng chưa nhiều. Ngưỡng nghèo của Việt Nam nói chung vẫn xa so với ngưỡng nghèo của thế giới. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo Để đánh giá được tình trạng đói nghèo ở nước ta, trước tiên cần phải tìm hiểu các nhân tố tác động đến vấn đề nghèo đói. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói, nó không chỉ đơn thuần là nhân tố về kinh tế hoặc thiên tai, địch hoạ gây ra. Mà tình trạng đói nghèo ở nước ta có sự đan xen của cái tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, của cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, cả tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội. Do đó cần phải đánh giá đúng nguyên nhân, mức độ của từng nguyên nhân dẫn đến nghèo đói đối với từng đối tượng cụ thể. 2.2.1. Nhóm nguyên tố thuộc về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội  Vị trí địa lý không thuận lợi ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình phức tạp (miền núi, hải đảo vùng sâu), không có đường giao thông. Đây cũng chính là một nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng và địa phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế bị cô lập, tách biệt với bên ngoài, khó tiếp cận được các nguồn lực của phát triển, như tín dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường... làm cho cuộc sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc là những nhân tố khách quan tác động mạnh mẽ đến vấn đề nghèo đói.  Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, làm cho thu nhập của người nông dân thấp, việc tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có. Theo các kết quả điều tra, đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân thì thiếu đất canh tác hay đất đai khó làm ăn cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn đến cảnh túng thiếu, đói ăn, đứt bữa của người dân đặc biệt là đối với các hộ nghèo đói ở vùng núi. Hiện nay vấn đề thiếu đất sản xuất lương thực ở nước ta (đặc biệt là đất lúa) ngày càng mang tính trầm trọng. Nguyên nhân này là do dân số ngày càng đông nhưng đất nông nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp làm cho rất nhiều hộ nông dân không đủ tiềm lực để phát triển. Hiện nay nhiều nơi ở vùng biển không có hoặc có không đáng kể đất trồng lúa, đây là nhân tố tác động trực tiếp đến các hộ nghèo, có thể được coi là một trong những nhân tố cơ bản làm cho những hộ này triền miên bị đói. Nhưng việc xoá đói không phải bằng cách cấp đất sản xuất lương thực mà phải kết hợp nhiều biện pháp khác. Đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với các cấp lãnh đạo trong việc lựa chọn các giải pháp thích họp giúp họ xoá đói, tức là phải làm gì để giúp họ có thu nhập thì họ mới có khả năng tiếp cận được lương thực, thực phẩm.  Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra đặc biệt là bão, lut, hạn hán, cháy rừng, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Trung bình 10 cơn bão, lụt một năm, lại thêm hạn hán, mưa đá, cháy rừng, những cơn lốc xảy ra thường xuyên ở nhiều vùng đã là nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2 triệu người thiếu đói hàng năm. Tác hại của bão lụt, hạn hán là rất lớn, nó luôn là kẻ thù đồng hành với những người nghèo đói, nó có thể cướp đi cả tính mạng sống và tiền của con người. Rất nhiều vùng và tỉnh đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai gây ra như lụt bão thì hàng nghìn hộ lại rơi vào cảnh thiếu đói, các công trình công cộng, các cơ sở sản xuất và hạ tầng bị phá hỏng. Điển hình là trận lũ xảy ra vào tháng 11 và tháng 12 năm 1999 ở các tỉnh miền Trung đã gây ra những tổn thất to lớn về người và tài sản cho 7 triệu dân ở 7 tỉnh phá huỷ nhiều cơ sở hạ tầng ở vungf này, ước tính thiệt hại do lũ lụt gây ra trên 3000 tỷ đồng, tác độg trực tiếp đến đời sống vốn đã cơ hàn của người dân. Hậu quả của bão lụt để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc lát mà phải trải qua nhiều năm. Hiện nay hạnhán, thiếu nước, cháy rừng cũng được xem là vấn đề nóng bỏng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo đói của người dân. Trong cuối tháng 3 đầu tháng 4 vừa qua hạn hán xảy ra ở nhiều nơi tàn phá nhiều cây lương thực và hoa màu. Ở Đắc Lắc ước tính mỗi ngày có đến 250-300 ha bị thiệt hại do hạn hán gây ra. Ở tỉnh Kiên Giang ảnh hưởng của diện cháy rừng là rất lớn hơn 4000 ha rừng U Minh Thượng bị tàn phá ảnh hưởng trực tiếp đến 2700 hộ đói xung quanh vốn đã cơ cực, túng thiếu. Thêm vào đó tình trạng thiếu nước sinh hoạt, thiếu nước tưới tiêu cũng là vấn đề rất khó khăn mà những người dân nghèo gặp phải (hiện nay giá nước ở một số nơi lêntới trên 3000 đồng/1km với tình hình hiện nay, hiện tượng hạn hán, thiếu nước kéo dài, cháy rừng xảy ra liên miên (như rừng Tràm, rừng U Minh Thượng, rừng quốc gia Cà Mau) đang là vấn đề đặt ra rất cấp bách đối với các cấp chính quyền là phải làm gì để cải thiện tình hình tốt hơn.  Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém nhưng không có thị trường, thị trường hoạt động yếu ớt hay thị trường không đầy đủ cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Mặc dù trong những năm gần đây chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn nhiều nơi xa. Đây là những nơi còn tiềm ẩn nhiều dấu hiệu của đói nghèo lạc hậu. Những hộ ở đây không phải ai cũng được sử dụng điện. Hệ thống tưới tiêu còn hạn chế, rất nhiều nơi chưa có trạm bơm. Việc tiếp cận với nước sạch (nước máy) gần như không có, ngay cả nước giếng vẫn còn hạn hẹp, rất nhiều hộ còn đang dùng nước sông, suối, nước mưa... Trong sản xuất trồng trọt, khó khăn lớn nhất là hệ thống kênh mương chưa phát triển nên không đủ nước tưới cho cây trồng, đặc biệt là cho lúa và hoa mầu. Hiện nay ở nhiều nơi hệ thống kênh mương, cống đập, trạm bơm chủ yếu vẫn còn tạm bợ, chưa kiên cố, có nơi xuống cấp nghiêm trọng tác động trực tiếp đến việc giảm sản lượng năng suất cây trồng. Về vấn đề cơ sở hạ tầng (như đường giao thông, điện, trường học, trạm y tế, bệnh viện, bưu điện, chợ huyện...), thị trường (lao động, vốn, hàng hoá) vẫn còn kém phát triển. Đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số càng có ít cơ hội tiếp cận với những dịch vụ trêngân hàng (theo hình.....). Điều này có thể thấy rõ ở các vùng không có đường giao thông hoặc giao thông đi lại khó khăn thì hầu như chưa có thị trường hoặc thị trường hoạt động quá yếu ớt. Nó đồng nghĩa với việc họ bị đặt ra ngoài quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Từ những vấn đề trên, ta thấy, những người nghèo muốn vượt thoát khỏi tình trạng nghèo đói trước hết phải được tiếp cận với thị trường, trên cơ sở đó mới có thể tham gia vào sự vận động của kinh tế thị trường. Muốn thị trường phát triển, bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì việc phát triển giao thông cơ sở hạ tầng có ý nghĩa lớn góp phần nối các thị trường trong nước lại với nhau, thúc đẩy thị trường phát triển tạo điều kiện cho việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Hình 2.1.  Nhân tố liên quan đến chiến tranh Nhân tố chiến tranh có liên quan mật thiết đến yếu tố vị trí địa lý. Những vùng trước đây là chiến tranh tàn phá nặng nề thì môi trường sống ở đây vẫn chưa được phục hồi được hoàn toàn, đặc biệt các chất độc màu da cam, điôxin do đế quốc Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh đã để lại di chứng nặng nề về môi trường và con ngưoừi Việt Nam. Hơn 1,5 triệu người bị thương tật, hơn 1 triệu người già bị mất nguồn nuôi dưỡng do con cái thân nhân chết trong chiến tranh. Trên 300.000 trẻ em bị mồ côi, hàng nghìn nạn nhân bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Đây là nhóm dân cư thường bị thiệt thòi và gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ dễ rơi vào tình cảnh nghèo đói. Không một tỉnh, thành phố nào trong cả nước ta là không gánh chịu và phải giải quyết hậu quả do chiến tranh để lại. Và việc giải quyết hậu quả này cũng không thể một sớm mộtchiều mà có thể phải mất nhiều thập kỷ. 2.2.2. Nhóm nhân tố liên quan đến cộng đồng  An ninh, trật tự: Môi trường an ninh, trật tự có tác động đáng kể tới các hộ nghèo thực tế cho thấy, tệ nạn xã hội thường đồng hành với nghèo đói. Nếu ở nơi nào tệ nạn xã hội gia tăng, trật tự an ninh xã hội không đảm bảo thì ở đó khó có sự phát triển kinh tế nói chung và của người nghèo nói riêng. Người nghèo nói chung là nhóm người có mức sống dễ bị tổn thương cao. Họ có thu nhập thấp, tài sản không đáng giá. Nếu bị rủi ro mất cắp vât dụng lao động thì họ rất dễ rơi vào cảnh khốn cùng. Theo nghiên cứu cho thấy, các hộ nghèo khi bị mất tài sản nhất là công cụ lao động, phương tiện kiếm sống của gia đình thì rất lâu sau, vài tháng, một năm, thậm chí nhiều năm sau họ mới có thể phục hồi lại được (trở lại mức khi chưa bị mất cắp). Khi người nghèo bị mất cắp thì cuộc sống của họ vốn nghèo lại càng nghèo hơn, vốn đã khốn cùng lại càng cùng cực hơn. Ngoài nguy cơ dễ bị mất cắp, cuộc sống ở khu vực trật tư, an ninh không đảm bảo cũng là cho người nghèo luôn cảm thấy không yên tâm để sản xuất, lao động, khi mua thêm những tài sản phục vụ cho cuộc sống, họ cũng phải đắn đo rất nhiều. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của họ và làm cho những cố gắng không xoá đói giảm nghèo gặp nhiều khó khăn.  Tập quán: Về một mặt nào đó, tập quán, lối sống cũng là một trở lực tới sự phát triển của người nghèo. Tập quán du canh du cư của một số đồng bào vùng dân tộc (nhất là Tây Bắc) đã làm cho tình trạng nghèo đói (đói kinh niên, đói gay gắt) về lương thực thực phẩm xảy ra thường xuyên. Chính tập quán này đã đẩy họ rơi vào tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo truyền kiếp. Cái vòng luẩn quẩn “nghèo đói phải du canh du cư và vì du canh du cư càng thêm nghèo đói” cộng thêm các hủ tục lạc hậu về văn hoá, lối sống bám chặt vào số phận của một số đồng bào miền núi. Ví dụ, ở Lạng Sơn lương thực miền núi cần 500kg/ người mới gọi là đủ ăn nhưng hơn nửa số ấy không phải để ăn mà dùng để nấu rượu “Người dân nghèo  uống rượu  năng suất lao động giảm  càng nghèo. Chính cái vòng luẩn quẩn này đã gây nên tình trạng 89% trong số người Dao và 100% người H’mông được coi là nghèo. 2.3. Nhóm nhân tố liên quan đến mỗi cá nhân và hộ gia đình 2.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về nhân khẩu học  Quy mô và cơ cấu hộ gia đình Qua nghiên cứu cho thấy quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng nghèo đói. Người nghèo phổ biến ở những hộ gia đình có quy mô lớn, mỗi hộ có rất nhiều con, tuổi còn nhỏ. Theo phỏng vấn đánh giá PPA (1998) thì 72% số hộ cho rằng vì đông con nên dẫn đến tình trạng nghèo đói. Mặc dù vậy, họ vẫn chưa ý thức được rõ về sự tác hại của tình trạng đông con. Tình trạng sinh nhiều con, sinh quá dầy ở các cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng đang trong độ tuổi sinh đẻ là khá phổ biến. Bình quân các hộ này từ 3-5 con, thậm chí 7 con. Điều này làm cho cuộc sống gia đình họ gặp rất nhiều khó khăn. Cũng vì khó khăn mà hộ gia đình từ làm ăn khá hoặc trung bình đã trở thành nghèo đói. Do số người trong gia đình là tương đối nhiều nên chi tiêu cho những vấn đề thiết yếu hàng ngày là khá cao (chẳng hạn chi tiêu cho lương thực, quần áo, thuốc men...) trong khi đó, tổng thu nhập của một hộ nghèo thường không tăng nhiều hoặc có tăng nhưng cũng không thể đủ để trang trải các khoản chi tiêu hàng ngày, hoặc làm ngày nào ăn hết ngày đó, không thể có được các khoản tích luỹ và do vậy việc thoát khỏi nghèo đói trở nên bế tắc. Bảng 2.4. Nhân khẩu bình quân 1 hộ theo nhóm chi tiêu Đơn vị tính: người/hộ Nhóm hộ (chi tiêu) Chung 1 (rất nghèo) 2 3 4 5 (rất giàu) Chung 4,7 5,6 5,1 4,6 4,3 4,1 Khu vực: - Thành thị - Nông thôn 4,4 4,8 5,7 5,6 5,4 5,1 4,8 4,6 4,6 4,3 4,1 4,0 1. Miền núi và trung du Bắc bộ 4,9 5,8 5,2 4,6 4,1 3,7 2. ĐB sông Hồng 4,0 4,5 4,4 4,0 3,9 3,7 3. Bắc Trung bộ 4,7 5,6 4,9 4,5 4,0 3,8 4. Duyên hải miền Trung 4,9 5,6 5,5 4,9 4,6 4,3 5. Tây Nguyên 5,7 6,4 5,6 5,4 5,3 4,5 6. Đông Nam bộ 4,8 6,1 5,2 5,3 5,4 4,5 7. ĐBSCL 5,0 6,2 5,9 5,1 4,4 3,8 Nguồn: TCTK VLSS 1988 Nhìn vào bảng trên ta thấy, hộ nghèo thường có số nhân khẩu bình quân cao hơn hộ giàu từ 1,5 người trở lên, nhân khẩu bình quân trên hộ vùng nông thôn thường cao hơn thành thị, cao nhất là đồng bằng sông Cửu Long, hộ nghèo nhiều hơn hộ giàu gới 2,4 người. Vùng núi phía Bắc là 2,1 người; Tây Nguyên là 1,9 người; Bắc Trung Bộ là 1,8 người; Tình trạng phổ biến của cả nước là các hộ nghèo đói lại thường nhiều con, thiếu lao động. Điều này tạo nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo.  Tỷ lệ người sống phụ thuộc Theo số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư của tổng cục thống kê cho ta thấy, tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động ở nhóm hộ nghèo là rất cao, và tỷ lệ này giảm dần khi nhóm mức chi tiêu bình quân đầu người tăng dần. Bảng 2.8. Số trẻ em dưới 15 tuổi theo nhóm hộ gia đình Đơn vị: trẻ em/1 lao động Nhóm hộ 1 (rất nghèo) 2 3 4 5 (rất giàu) Chung 28 2,2 1,7 1,4 1,2 Nông thôn 2,8 2,2 1,8 1,4 1,3 Thành thị 2,7 2,1 1,6 1,3 1,1 Nguồn: Việt Nam - Tấn công đói nghèo. WB ước tính trên số liệu của VLSS 98. Theo bảng trên ta thấy nhóm (hộ nghèo nhất) thường là những hộ có số người phụ thuộc cao nhất, chênh lệch giữa nhóm 1 và nhóm 5 là 1,6 người. Trong đó, ở nông thôn, số người phụ thuộc cao hơn ở thành thị là 0,1 người (nhóm 1) và 0,2 người (nhóm 5) số người phụ thuộc cao dẫn đến gánh nặng của những người lao động chính tăng lên họ phải làm để không những nuôi bản thân mình mà còn nuôi cả những người khác trong gia đình. Có nghĩa là 1 người nhóm 1 phải làm gấp 2,8;1,2 =2,3 lần so với 1 người thuộc nhóm 5. Có thể nói tình trạng phụ thuộc của các gia đình là “người làm thì ít, người ăn thì nhiều” và thường xảy ra ra tình trạng thiếu lao động (do số người trong gia đình đông nhưng phần lớn vẫn chưa tự lao động để nuôi sống bản thân mình mà phải phụ thuộc vào một vài lao động chính). Tình trạng thiếu lao động còn thể hiện ở chỗ, người lao động chính, ngoài công việc kiếm tiền nuôi gia đình còn phải gánh thêm nhiều công việc nhà do số người phụ thuộc tăng. Lao động bỏ ra của họ cho công việc nhà cũng là đáng kể, vì làm việc nhà nên họ không thể làm các công việc tạo ra thu nhập khác. Có thể thấy tình trạng hộ nghèo có số người sống phụ thuộc cao là rất phổ biến, nó xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Đây là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng rát lớn, thậm chí có tính chất quyết định, tới tình trạng nghèo đói của người dân, nó cản trở việc thực hiện xoá đói giảm nghèo của người dân nói riêng và của Đảng, Nhà nước nói chung. Cùng với mức sinh cao (gia đình đông con), tỷ lệ người sống phụ thuộc cũng đã tạo nên một vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Đó là: do sinh nhiều con nên lao động thiếu, số người phụ thuộc cao, gánh nặng đè lên vai những người lao động chính, một người làm để phải nuôi mấy người do đó làm không đủ ăn, vì vậy con cái không được hưởng một cách đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như y tế, giáo dục... dẫn đến vòng đời của chúng sẽ lại rơi vào cảnh nghèo đói.  Giới tính của người làm chủ gia đình: Chính nhân tố giới tính của người làm chủ gia đình cũng quyết định lớn đến mức độ nghèo đói cao của hộ gia đình. Thường những gia đình mà người phụ nữ làm chủ thì dễ rơi vào cảnh nghèo đói và mức nghèo đói còn trầm trọng hơn so với các hộ khác. Lời nói của chị T, quận 10 thành phố Hồ Chí Minh là một minh chứng cho điều này: “Cuộc sống của chúng tôi rất chật vật. Kể từ khi chồng tôi mất, tôi không thể nào kiếm được việc làm và các con tôi cũng không thể đến trường được nữa” (Phỏng vấn, đánh giá PPA, 1998). Những hộ gia đình có mức sống khá và trung bình mà trước đây có người đàn ông làm chủ nhưng vì một nguyên nhân nào đó (rủi ro thiên tai, bệnh tật) mà trụ cột gia đình này mất đi, người phụ nữ lại không đủ khả năng đảm đương được trách nhiệm này thì hộ gia đình đó rất dễ bị một cú sốc lớn không thể chống lại được và dễ rơi vào tình trạng nghèo đói. Người phụ nữ có đặc điểm là không làm được những công việc nặng nhọc mà nam giới có thể làm, thêm vào đó, họ còn phải chịu nhiều định kiến, sự bất bình đẳng xã hội nên với cùng một côngivệc họ chỉ nhận được một khoản tiền công ít hơn so với người nam giới. Công việc của người phụ nữ thường là bất ổn định và họ khó kiếm việc hơn nam giới nên thu nhập làm ra thường rất thấp. Bên cạnh đó, người phụ nữ còn phải lo toan công việc gia đình nên không thể dành hết thời gian và công sức cho việc tạo thêm thu nhập. Đó là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng các hộ nghèo có người phụ nữ làm chủ thường có cuộc sống khốn cùng hơn những hộ nghèo có người đàn ông làm chủ. Hiện nay, nguyên nhân nghèo đói do giới tính cũng đáng được quan tâm vì vẫn còn nhiều hộ do phụ nữ làm chủ, họ rất dễ bị tổn thương và lâm vào cảnh đói nghèo. Qua cuộc điều tra chọn mẫu ở tỉnh Quảng Bình, chủ hộ là nam có 1.488 hộ, tổng số nhân khẩu thuộc hộ nam là 8.465 người, bình quân một hộ nam có 5,7 người/hộ. Trong khi đó, số hộ có chủ hộ là nữ: 562 hộ, bình quân 1 hộ nữ chỉ có 3,9 người/hộ. Qua đó ta thấy số hộ gia đình ở Quảng Bình đang thiếu vai trò của nam giới còn chiếm một tỷ lệ đáng kể: 562/1488 = 37,77%. Bảng 2.9. Số khẩu trung bình của một hộ điều tra. Phân theo giới của chủ hộ thuộc tỉnh Quảng Bình Không nghèo Đói Nghèo Huyện Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam 1. Đồng Hới 4,3 5,1 5,8 7,0 4,7 6,1 2. Bố Trạch 3,8 5,1 3,9 6,0 3,4 5,2 3. Lệ Thuỷ 3,6 5,7 3,9 6,1 4,1 5,7 4. Minh Hoá 5,7 5,5 4,8 6,2 4,0 5,1 5. Quảng Ninh 3,5 5,2 3,9 6,1 3,0 6,8 6. Quảng Trạch 3,5 5,2 3,4 5,4 4,0 5,6 7. Tuyên Hoá 3,8 4,7 3,8 6,0 6,1 5,5 Chung 3,7 5,3 3,9 6,0 4,1 5,8 Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình: “Nghèo đói, xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” - NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. 2.2.3. Các nhân tố kinh tế  Nghề nghiệp và mức độ đa dạng hoá của nghề nghiệp Yếu tố nghề nghiệp có những ảnh hưởng nhất định tới sự nghèo đói của người dân. Nghề nghiệp là nguồn cung cấp thu thập cho gia đình, vì vậy, tính chất của nghề đó quyết định đến mức thu nhập và tính ổn định của thu nhập thấp, bấp bênh. Thông thường, người dễ rơi vào tình trạng nghèo đói là những người chỉ làm những công việc có thu nhập thấp, tỉnh rủi ro cao dẫn đến sự bất ổn định về thu nhập. Thêm vào đó, họ chỉ có một nguồn thu duy nhất đưa vào nghề đó. Thống kê cho thấy nghèo đói ở nước ta chủ yếu rơi vào các hộ nông dân mà trong đó các hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao. Nông nghiệp là nghề phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nếu có rủi ro xảy ra (như hạn hán, lũ lụt) thì nguy cơ mất trắng toàn bộ hoa mầu là rất cao. Nếu gia đình chỉ trông chờ vào thu nhập do hoa mầu thì khi xảy ra những sự cố như vậy, nguy cơ rơi vào cảnh nghèo đói của họ sẽ rất cao. Để thấy rõ điều nay ta có thể phân tích tỷ lệ các ngành nghề trong từng nhóm hộ. Nó cho chúng ta bức tranh rõ nét hơn về các nguyên nhân đói nghèo gắn liền với tình trạng thuần nông không có thêm nghề phụ. Bảng 2.10: Phân tích tỷ lệ các hộ đói và nghèo phân theo ngành nghề hoạt động Ngành nghề sản xuất Đói Nghèo Chung cho các hộ Nông nghiệp thuần nông nghề khác 90,57 88,05 86,59 Nghề khác 2,49 1,61 2,59 Dịch vụ buôn bán nhỏ 0,10 0,92 0,69 Lâm nghiệp + nông nghiệp 4,76 1,61 3,32 Làm thuê 1,14 2,53 1,80 Nghề thủ công 0,21 0,46 0,20 Thủy sản 0,73 4,82 4,82 Tổng 100 100 100 Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân đình: “Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”, trang 167 - NXB Nông nghiệp - 2001. Nhìn vào bảng trên ta thấy các hộ thuộc nhóm đói có tới 90,57% là thuần nông và tỷ lệ thuần nông giảm dần theo chiều tăng về mức thu nhập của nhóm, hộ không nghèo có tỷ lệ thuần nông thấp hơn cả 79,69%. Như vậy, phân tích nguồn thu nhập theo ngành nghề mà các hộ đang tham gia hoạt động cho thấy một nét chung là: thuần nông là bạn đường của tình trạng nghèo đói. Do tính bấp bênh của việc phụ thuộc vào một nghề duy nhất nên nghèo đói cũng có thể được xem xét dưới góc độ đa dạng hoá ngành nghề. Việc đa dạng hoá ngành nghề có tỷ lệ thuận với mức độ giảm nghèo. Đa dạng hoá ngành nghề đến đâu quyết định khả năng hạn chế rủi ro và tăng thu nhập của người dân, do đó có thể giảm được đói nghèo. Vì vậy, có thể nói, khi xem xét đến vấn đề đa dạng hoá thu nhập hay đa dạng hoá ngành nghề, nếu hộ chỉ phụ thuộc vào một nghề duy nhất thì khả năng nghèo đói là cao, nếu hộ đa dạng hoá ngành nghề thì khả năng này sẽ giảm. Tình trạng không có hoặc thiếu việc làm Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn vẫn mang tính bức xúc. Chính tình trạng không có việc làm, thiếu việc làm thường xuyên đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm cho các hộ gia đình rơi vào cảnh đói nghèo. Bảng 2.11- Số người thiếu việc làm trong 12 tháng chia theo nhóm tuổi Tổng số Chia theo nhóm tuổi (%) (người) 15-24 25-34 35-44 45-54 55-59 > 60 Cả nước 9.418.380 30,53 29,98 23,81 10,98 2,60 2,09 Thành thị 1.198.882 29,70 31,99 24,91 10,79 1,92 1,43 Nông thôn 8.219.498 30,65 29,68 2,38 11,01 2,70 2,19 Miền núi và trung du Bắc Bộ 1.393.328 35,39 5,9 23,4 1,89 2,87 1,33 Đồng bằng sông Hồng 2.554.720 25,67 28,30 27,62 12,43 3,31 2,67 Bắc Trung bộ 1.465.462 27,47 28,35 25,03 12,72 3,67 2,76 Duyên hải miền Trung 879.623 30,53 32,57 19,56 9,73 3,13 3,38 Tây Nguyên 199.433 32,03 32,67 23,40 8,01 2,59 1,30 Đông Nam bộ 870.856 32,96 35,01 21,44 7,97 1,38 1,24 Đồng bằng sông Cửu Long 2.054,958 34,29 30,92 21,37 10,39 1,74 1,29 Nguồn: Theo số liệu của TCTK “Thực trạng lao động và việc làm ở Việt Nam 1998” Nhìn vào bảng trên ta thấy, tỷ lệ thiếu việc làm ở nước ta ở mức cao (khoảng 22%) trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên (9,4% triệu/47 triệu). Đáng chú ý tỷ lệ thiếu việc làm ở nhóm tuổi từ 25 đến 34 tuổi là: 29,98% và từ 35 tuổi đến 44 tuổi là 23,81%. Đây là độ tuổi sung sức nhất cả về thể lực và trí lực nhưng lại có tỷ lệ thiếu việc làm khá cao (trên 50% trong tổng số người thiếu việc làm). Bảng 2.12. Tình trạng không có việc làm thường xuyên ở các vùng Đơn vị: người Từ 15 tuổi trở lên Trong tuổi lao động Vùng Tổng số Nữ Tổng số Nữ * Cả nước 1.338.849 640.435 1.334.936 618.487 - Thành thị 427.175 204.500 422.215 202.210 - Nông thôn 961.674 435.935 922.721 416.277 Miền núi và trung du Bắc Bộ 20.919 44.753 119.410 44.176 Đồng bằng sông Hồng 349.780 154.293 331.128 144.439 Bắc Trung Bộ 263.721 121.100 248.615 113.370 Duyên hải miền Trung 125.452 56.883 121.825 55.430 Tây Nguyên 15.393 8.769 15.393 8.769 Đông Nam Bộ 239.285 110.364 237.536 109.836 Đồng bằng sông Cửu Long 274.299 144.273 271.029 142.467 Nguồn: TCTK “Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam 1998” trang 518-520. NXB Thống kê 1999. Qua 2 bảng trên ta thấy số người thiếu việc làm và có việc làm không thường xuyên ở khu vực nông thôn chiếm số lượng lớn (8.219.498 người không có việc làm và 961.674 người có việc làm không thường xuyên. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói ở nôg thôn cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ nghèo ở thành thị.  Cơ cấu chỉ tiêu: Cơ cấu chi tiêu của các hộ nghèo thường rất eo hẹp. Họ chỉ có khả năng trang trải với mức hạn chế, tối thiểu các chi phí lương thực và phí lương thực thiết yếu khác, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm thu nhập vì khó tiếp cận các cơ hội tăng trưởng kinh tế. Thu nhập thấp nên mãi dù họ chỉ có khả năng trang trải tối thiểu các chi phí lương thực nhưng nó cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của họ. Bảng 2.13. Cơ cấu chi tiêu chia theo nhóm hộ Đơn vị tính (%). Nhóm hộ Chung 1 (rất nghèo) 2 3 4 5 (rất giàu) Chi đời sống 100 100 100 100 100 100 - Chi ăn uống 52,95 70,69 65,64 61,67 51,11 13,51 + Lương thực 15,30 35,37 26,84 21,72 16,05 7,57 + Thực phẩm 24,93 26,26 28,97 29,15 27,96 21,10 + Chất đốt 3,77 4,11 4,08 4,02 3,89 3,52 + Ăn uống ngoài gia đình 5,19 0,70 1,86 2,71 4,48 7,65 + Uống và hút 3,76 4,23 3,89 3,81 3,71 3,64 - Chi khôngphải ăn uống 47,05 29,31 31,36 38,33 43,91 56,45 + May mặc 4,31 5,79 5,71 5,38 4,76 3,34 + ở 7,51 4,00 4,62 5,29 6,44 9,81 + Đồ dùng bền lâu 12,10 4,08 6,26 8,79 10,84 16,47 + Y tế 5,22 4,64 5,21 5,45 5,71 5,01 + Giao thông bưu điện 1,26 0,48 0,65 0,77 0,91 1,71 + Giáo dục 6,37 3,22 3,95 4,52 5,53 8,29 + Văn hoá thể thao 0,65 0,08 0,10 0,17 0,37 1,12 + Khác 9,54 7,03 7,87 8,77 9,32 10,61 Nguồn: TCTK VLSS 1998 Nhìn vào bảng trên ta thấy, người nghèo phải chi tới 70,69% tỷ trọng ngân quỹ gia đình cho các khoản chi ăn uống. Trong đó 61,65% dành cho lương thực thực phẩm. Chi ngoài ăn uống chỉ chiếm 29,31%, trong đó chi cho các khoản giao thông bưu điện (0,48%), giáo dục (3,22%), văn hoá thể thao (0,08%) chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Mặc dù tỷ trọng chi cho ăn uống cao như vaỵa nhưng số lượng và chất lượng bữa ăn của họ vẫn không được đảm bảo, tình trạng thiếu ăn, đứt bữa vẫn còn tồn tại. Khẩu phần ăn của họ không đảm bảo được lượng Kcalo cần thiết cho cuộc sống bình thường nhằm tái sản xuất sức lao động. Nói chung, bữa ăn của các hộ nghèo rât đạm bạc, không đủ dinh dưỡng. Bình quân mỗi người/ngày mới đảm bảo được 1944 Kcalo, trong đó lương thực bao gồm gạo, ngô, khoai, sắn chiếm 80%, thực phẩm khác chỉ chiếm dưới 20%. Mặt khác, những người nghèo thường ít có cơ hội tiếp xúc với các dịch vụ y tế. Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ. Tình trạng sức khoẻ kém cũng là một nguyên nhân không kém phần quan trọng dẫn đến nghèo đói, nó cũng làm người nghèo khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Thu nhập thấp  ăn uống không đầy đủ  sức khoẻ kém  năng suất lao động thấp  làm không đủ ăn  thiếu đói  vay mượn nợ nần nhiều  thu nhập thấp... đó chính là vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất dễ mắc phải.  Nhóm nhân tố về tài sản - Nghèo do thiếu vốn: thiếu hạc không có vốn là nguyên nhân mà người nghèo cho rằng có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghèo đói của họ. Không có vốn để sản xuất kinh doanh chính là trở lực rất lớn đối với người lao động khi tham gia vào kinh tế thị trường. Vốn là rất cần thiết, là điều kiện ban đầu cần phải có để giúp cho các hộ nghèo thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào các hộ nghèo có thể tiếp cận với các nguồn tín dụng để họ có nhiều cơ hội hơn trong sản xuất kinh doanh. Hiện nay sự tiếp cận tín dụng của các hộ nghèo còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ hộ vay vốn ngân hàng mới chỉ chiếm 54,14%, lãi suất vay trung bình 1,18%. Còn hơn 455 số hộ không có khả năng trả số nợ quá hạn. Sở dĩ hộ nghèo tiếp cận vốn còn khó khăn là do cách sản xuất của hộ nghèo còn giản đơn, không biết thâm canh, thiếu kinh nghiệm sản xuất, do lãi suất vay vốn cao và thủ tục vay còn rườm rà hoặc cũng có thể do họ ngại rủi ro vay về không biết đầu tư vào đâu, có hoàn được vốn không. Họ sợ đầu tư vào những cái mới vì không biết nó thế nào vì thế họ vẫn cứ làm theo cách truyền thống, không có khoa học. Trong nông nghiệp thì do không biết cách đầu tư, cải tạo đất cho tốt, không đưa các loại giống mới vào trồng, không có các loại phân bón tăng trưởng hợp lý và cũng không sử dụng các loại thuốc phòng tránh sâu bệnh dẫn đến năng suất cây trồng thấp và nghèo lại hoàn nghèo. Hiện nay, rất nhiều hộ nghèo đã nhận thức được tầm quan trọng và tính bức xúc của vốn, nhưng không phải ai muốn vay cũng được cho vay. Có một nghịch lý là: vốn ngân hàng cho người nghèo vay còn nhiều, nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo đói lại lớn, mà các hộ nghèo vẫn phải đi vay mượn tư nhân, chịu cảnh vay nặng lãi. Thực tế nhu cầu vay vốn thường có tính chất đột xuất trong số các hộ nghèo và nhu cầu phi sản xuất thường không phù hợp với cơ chế vay vốn của ngân hàng. Hiện nay, đây là một bất cập về cơ chế vay vốn, và là một thực tế nghiệt ngã trong cuộc sống của người nghèo đói. Không ít hộ đã phải bán lúa non để lo lót các khoản chi tiêu không thể chối từ trong gia đình... đang dồn họ vào thế bí: đã nghèo lại nghèo thêm . Số liệu dưới đây phản ánh phần nào nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo và mức độ đáp ứng trên thực tế. Bảng 2.14: Lý do vay vốn của các hộ theo nhóm chỉ tiêu Đơn vị đo: % Các nhóm hộ Chung 1 2 3 4 5 Sản xuất và đầu tư cơ bản 66,32 15,53 63,25 69,23 69,25 65,77 Mua nhà, làm nhà 10,28 26,92 10,56 10,20 16,77 7,51 Mua sẵm đồ dùng 2,88 2,42 12,17 3,95 3,56 1,70 Tiêu dùng chung, ăn khi giáp hạt 3,29 12,21 2,77 3,22 3,72 2,83 Chi tiêu khác 17,22 12,93 11,24 13,39 6,71 22,19 Tổng 100 100 100 100 100 100 Nguồn: TCTK: VLSS 1998 Bảng 2.14: Nhu cầu vốn của hộ giàu nghèo và mức độ đáp ứng vốn của một số ngân hàng, tính bình quân một hộ vay. Đơn vị tính: 1000đ Hộ giàu Hộ nghèo H. Lục Nam (Bắc Giang) Gia Lâm (Hà Nội) Yên Mỹ (Hưng Yên) H. Lục Nam (Bắc Giang) Gia Lâm (Hà Nội) Yên Mỹ (Hưng Yên) Số hộ điều tra 10 6 13 2 1 2 - Nhu cầu vốn/1 hộ 11806,5 16056,2 21151,6 4286,8 3820,5 4005,3 - Đáp ứng 10112,0 16189,5 23537,4 2819,9 2163,5 2886,1 - Tỷ lệ đáp ứng 85,65 100,64 75,46 65,76 56,62 72,06 Nguồn: Phạm Văn Khiêm- Những biện pháp huy động vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của hộ nông dân các tỉnh phía Bắc, Viện Kinh tế nông nghiệp, 1999. Nhìn vào bảng trên ta thấy hộ giàu có nhiều lợi thế hơn hộ nghèo trong việc vay vốn ngân hàng. Các hộ giàu được đáp ứng với mức độ khá cao về nhu cầu vay vốn từ 75,48% đến 100% thậm chí vượt nhu cầu. Trong lúc đó, hộ nghèo đã thiếu vốn, cần vốn nhưng lại chưa được vay thoả đáng, mức độ đáp ứng cao nhất cũng chỉ đến 72,0%. Theo đánh giá của ngân hàng phục vụ người nghèo, tỷ lệ nợ quá hạn đối với hộ nghèo nhất chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nợ quá hạn nói chung. Trong khi điều kiện sản xuất còn gặp nhiều khó khăn, các hộ nghèo có nhiều mặt hạn chế, thì nợ nần triền miên đối với họ là điều khó tránh khỏi. Điều này đã góp phần làm bần cùng thêm cuộc sống của họ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho họ khó thoát khỏi cảnh nghèo đói. - Nghèo do thiếu tài sản vật chất: Thiếu hoặc không có tài sản luôn là nguyên nhân gây ra nghèo đói đối với các hộ gia đình. Như là các đôi vợ chồng trẻ, mới bước vào cuộc sống, có xuất phát điểm thấp (giá trị tài sản ban đầu nhỏ) họ gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trong việc tiếp cận với thị trường, nắm bắt các cơ hội, nhạy bén với các xu thế của xã hội. Các hộ có xuất phát điểm thấp thì rất dễ rơi vào cảnh nghèo đói nếu có rủi ro xảy ra. Vì tài sản có giá trị của họ, xét cho cùng, chỉ có căn nhà và một đồ đạc sinh hoạt thiết yếu (điều quan trọng ở đây không phải là tổng giá trị của tài sản là bao nhiêu mà chúng ta phải xem xét khả năng có thể hoá giá các tài sản này để bù đắp cho các thiệt hại do các rủi ro đem lại) chính vì không có tài sản để tự bảo hiểm nên nhiều hộ gia đình đã phải sống chung với nghèo đói. Thiếu tài sản còn thể hiện ở các hộ gia đình không có hoặc không đáng kể các tư liệu sản xuất để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, họ thường phải sống ở trong những căn nhà lán, lều tạm bợ. Ngay cả ở thành phố một số gia đình nghèo vẫn phải sống trong các căn nhà ổ chuột, không đảm bảo được các điều kiện hợp vệ sinh. Đây chính là nguyên nhân gây ra các dịch bệnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của chính bản thân họ. Theo kết quả điều tra năm 1993 của Bộ Nông nghiệp và CNTP về tình trạng giàu nghèo trong nông thôn cho thấy: Nhà ở của hộ nghèo còn đơn sơ: mới chỉ có 15,7% số hộ có nhà ngói, 72% còn ở nhà tranh vách đất, 11,7% số hộ ở lều tạm. Đồ dùng sinh hoạt trong gia đình còn quá thiếu thốn, bình quân mỗi hộ có một chiếc giường gỗ hoặc tre, 0,3 chiếc xe đạp. Về tư liệu sản xuất bình quân 10 hộ mới có một con trâu hoặc bò, ngay cả cày, bừa bằng gỗ vẫn còn thiếu thốn. Trong lúc đó, các hô giàu đã tích luỹ khá lớn, đã mua sắm được nhiều loại máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh, phương tiện sinh hoạt. Đã có 16,1% số hộ giàu có nhà ở mái bằng hoặc từ 2 tầng trở lên; 77% số hộ có nhà ngói, chỉ còn 6,9% ở nhà tranh. Số hộ có ti vi các loại là 17%, trong lúc đó 16,8% số hộ có ti vi mầu, 79% số hộ có radiô các loại, 87,8% số hộ có xe đạp. Bảng 2.16: Tình hình nhà ở theo 5 nhóm hộ phân theo mức chi tiêu 1997-1998 Đơn vị tính: % Theo nhóm Khu vực Chung 1 nghèo nhất 2 3 4 5 giàu nhất Thành thị Nông thôn 1. Nhà kiểu biệt thự 0,07 0,00 0,00 0,00 0,00 100,0 91,39 8,61 2. Nhà căn hộ cao tầng khép kín 3,98 1,53 1,81 2,10 7,65 86,92 86,07 13,93 3. Nhà căn hộ cao tầng không khép kín 2,19 0,63 11,72 10,24 34,08 43,34 97,38 52,62 4. Nhà căn hộ 1 tầng kiên cố khép kín 1,74 1,61 0,68 5,33 18,99 73,40 85,91 14,09 5. Nhà căn hộ 1 tầng kiên cố không khép kín 6,94 10,07 19,82 20,81 24,50 24,85 21,70 78,30 6. Nhà bán kiên cố 59,18 17,75 20,19 21,27 22,38 18,11 17,49 82,51 7. Nhà tạm khác 29,91 33,51 23,79 21,51 11,20 6,98 11,64 88,36 Nguồn: TCTK: VLSS 1998 Theo các số liệu điều tra ở trên ta thấy tỷ lệ hộ nghèo chủ yếu ở nhà bán kiên cố, nhà tạm vẫn còn cao (33,51 nhà tạm và 17,75 nhà bán kiên cố). Và hầu hết các hộ ở nông thôn hiện còn ở nhà bán kiên cố, nhà tạm. Qua đây ta thấy được bức tranh khái quát cuộc sống khó khăn, túng thiếu của họ. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho họ phải sống trong cảnh lam lũ, bần cùng, cơ hàn và nghèo đói. Ngoài ra mức độ tiếp cận của các thành viên trong hộ với các loại tài sản cũng có tác động đáng kể đến tình trạng nghèo đói của bản thân họ. Biểu 2.17: Giá trị tài sản bình quân theo đầu người Đơn vị tính: 1000đ/người Trị giá các loại tài sản Không nghèo Đói Nghèo Chung 1. Radio- Cassette 4,84 2,98 37,82 3,75 2. Tivi 7,78 1,68 3,88 4,08 3. Xe máy 3,2 1,50 2,32 2,3 4. Xe đạp 44,35 22,32 33,56 31,68 5. Bình bơm thuốc trừ sâu 2,48 2,34 0,99 1,16 6. Xe bò 8,18 4,68 8,40 6,58 7. Máy bơm nước 2,48 0,02 1,35 1,19 8. Nhà ở 736,03 373,13 560,93 527,84 9. Trâu 57,22 33,03 42,70 42,74 10. Bò 128,56 109,25 114,22 116,42 Nguồn: Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình “Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” trang 176, NXB Nông nghiệp 2201. Ta thấy chính giá trị bình quân của các tài sản, vận dụng phản ánh mức sống chung của các hộ. Đặc biệt là các hộ đói việc tiếp cận với các loại tài sản còn rất nhiều hạn chế. Ví dụ bình quân mỗi người trong hộ đói chỉ có 1500 đồng so với mỗi cái xe trị giá vài chục triệu để thấy khoảng cách của họ đến các phương tiện đi lại đắt tiền này còn xa vời, không biết trong đời có đạt được không. Qua đây ta thấy chính sự thiếu thốn các loại tài sản trên làm cho việc đi lại, nuôi trồng, sản xuất gặp nhiều khó khăn, là nguyên nhân phổ biến gây ra tình trạng nghèo đói ở nhiều nơi. 2.3.3. Các nhân tố xã hội  Nhóm nhân tố giáo dục Người nghèo thường có trình độ học vấn tương đối thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin, thiếu kinh nghiệm sản xuất, không có kinh nghiệm làm ăn, cho nên không có được các giải pháp để tự thoát nghèo. Dân trí thấp, tự ti, kém năng động, lại không đợc hướng dẫn cách thức làm ăn, đây là nguyên nhân làm cho nhiều hộ rơi vào cảnh đói nghèo triền miên, đặc biệt là các hộ vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc miền núi, ít người. Thực tế đã chứng minh, các hộ nghèo đói thì chủ hộ thường có học vấn thấp. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên. Bảng 2.18 sẽ minh chứng rõ thêm điều này. Bảng 2.18: Trình độ học vấn của các hộ Đơn vị (%) Các nhóm hộ Chung 1 (rất nghèo) 2 3 4 5 (rất giàu) Chung 100 19,98 20,00 20,01 20,01 20,00 - Chưa bao giờ đến trường 100 39,86 19,99 16,19 15,01 8,94 - Chưa tốt nghiệp cấp I 100 23,33 23,03 21,14 19,38 13,13 - Tốt nghiệp cấp I 100 21,27 21,24 19,75 19,60 18,11 - Chưa tốt nghiệp cấp II 100 17,63 20,96 23,57 20,87 16,97 - Chưa tốt nghiệp cấp III 100 10,54 13,03 20,33 19,55 36,55 - Nghề cơ sở 100 10,13 15,86 19,32 25,23 29,15 - THCN 100 6,98 14,31 15,41 23,60 39,69 - Đại học và cao đằng trở lên 100 1,45 4,57 3,59 20,21 70,15 Nguồn: TCTK : VLSS, 1998 Theo bảng trên, trong nhóm hộ nghèo nhất thì số người chưa bao giờ đến trường chiếm tỷ lệ cao nhất, đáng chú ý là trình độ từ cấp III trở lên chiếm tỷ lệ ít nhất. Người nghèo thường không được đào tạo nghề nghiệp. Đây là điều đáng lo ngại nhất đối với người nghèo, họ rất ít có các cơ hội để kiếm được việc làm tốt và tạo thu nhập cao, do đó nghèo đói là khó tránh khỏi. Bảng 2.19: Trình độ học vấn của người nghèo (năm 1993) Trình độ học vấn Tỷ lệ nghèo (%) Tỷ lệ trong tổng số người nghèo (%) Tỷ lệ trong tổng số dân số (%) - Không được đi học 57 12 8 - Tiểu học 42 39 35 - Phổ thông cơ sở 38 37 36 - Phố thông trung học 25 8 12 - Dạy nghề 19 3 6 - Đại học 4 0 3 - Tổng số 37 100 100 Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói - WB. Như vậy, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, gần 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn tỷ lệ chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học ở nhóm hộ nghèo cao nhất 57%, ngược lại, tỷ lệ tốt nghiệp đại học thuộc diện nghèo đói chỉ chiếm 4%. Ta thấy sự chênh lệch học vấn giữa người nghèo và người giàu là khá rõ ràng. Bảng 20.2: Trình độ văn hoá của chủ hộ phân theo nhóm Tỷ lệ (%) Giàu Nghèo - Không biết chữ 0 24,3 - Học hết cấp I 28,1 53,6 - Học hết cấp II 44,2 20,3 - Học hết cấp III 27,7 1,8 Nguồn: Giàu - nghèo trong nông thôn hiện nay. NXB Nông nghiệp 1999. Theo kết quả này thì nhóm hộ nghèo có tới 24,3% chưa biết chữ trên 53% chỉ có trình độ học vấn cấp I. Trong khi đó, nhóm hộ giàu phần lớn đạt trình độ học vấn cấp II, cấp III. Các hộ nghèo không có điều kiện học tập văn hoá, các con em họ không có nhiều cơ hội đến trường, nhất là con em vùng dân tộc ít người, miền núi vùng sâu, vùng xa, đây cũng là một trong các nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo từ đời này sang đời khác, thực tế, bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khoá quan trọng để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, các con số thống kê được đã chỉ ra rằng, vấn đề lớn liên quan đến việc tiếp thu các kỹ năng, các kiến thức chung, việc có được thông tin là đặc biệt quan trọng. Các hộ sẽ được xếp vào nhóm khá giả hơn nếu như những người trưởng thành trong gia đình có trình độ học vấn nhất định và trẻ em được đến trường. Theo phỏng vấn, đánh giá PPA ở thành phố Hồ Chí Minh, nhiều hộ cho rằng cần phải có trình độ cao hơn mức phổ thông cơ sở để có cơ hội kiếm được một công việc ổn định. Như vậy, đời sống mới bớt nhọc nhằn, khổ cực hơn.  Nhóm nhân tố liên quan đến sức khoẻ Hiện nay, cách đánh giá nghèo đói của WB không chỉ dựa vào thu nhập mà còn dựa vào khía cạnh sức khoẻ của người dân. *** Hình 2.1. Đánh giá nghèo đói qua các khía cạnh đa chiều Ghi chú: H: là ngưỡng được xác định là người khoẻ mạnh. Y: là thu nhập của người nghèo theo thu nhập. Ở bảng trên, đã biểu hiện được mối quan hệ giữa sức khoẻ và thu nhập, nó phản ánh đầy đủ hơn tình trạng nghèo khó của con người. Người dân có thu nhập thấp sẽ làm giảm khả năng cải thiện về sức khoẻ, thể hiện ở việc dễ ốm đau và ít có cơ hội điều trị bệnh. Ngược lại, sức khoẻ không tốt cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực tới việc làm và thu nhập. Ở Việt Nam, mức độ nghèo đói về sức khoẻ thể hiện rất rõ nét, nó thể hiện sự bần cùng hơn của những người nghèo khi không tiếp cận với các dịch vụ y tế. Điều này rất phổ biến ở khu vực nông thôn, ở những vùng sâu, vùng xa và nhất là ở nhóm các dân tộc thiểu số (hình 2,2) Hình 2.2. Các nhóm thiẻu số ở Việt Nam ít được tiếp cận các dịch vụ y ế hơn các nhóm không thiểu số Nguồn: Phỏng theo Van de Walle và Gunewardena 2000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề tài Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan