Tài liệu Luận văn Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Những nhân tố bảo đảm tính định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở Việt nam
Lời mở đầu
Trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc, nước ta đã áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này trong điều kiện chiến tranh đã góp phần đắc
lực trong việc động viên nhân tàI vật lực phục vụ cho sản xuất và chiến đấu, hoàn
thành thắng lợi công cuộc bảo vệ Tổ quốc,đánh đuổi quân xâm lược,dành lạI độc lập,
tự do cho nhân dân.
Tuy nhiên khi chiến tranh kết thúc, nước ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp làm cho nền kinh tế Việt nam lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng: sản xuất trì trệ, nhiều ngành đình đốn, hàng hoá ngày càng khan
hiếm, giá cả leo thang, lạm phát với tốc độ phi mã, đời sống nhân dân lao động ngày
càng đói khổ. Đứng trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã nỗ lực tìm tòi giảI
pháp đưa đất nước thoát khỏi cơn khủng hoảng, nâng cao đời sống của nhân dân.Sau
giai đoạn...
38 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1107 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Những nhân tố bảo đảm tính định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở Việt nam
Lời mở đầu
Trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc, nước ta đã áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này trong điều kiện chiến tranh đã góp phần đắc
lực trong việc động viên nhân tàI vật lực phục vụ cho sản xuất và chiến đấu, hoàn
thành thắng lợi công cuộc bảo vệ Tổ quốc,đánh đuổi quân xâm lược,dành lạI độc lập,
tự do cho nhân dân.
Tuy nhiên khi chiến tranh kết thúc, nước ta vẫn tiếp tục duy trì cơ chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp làm cho nền kinh tế Việt nam lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng: sản xuất trì trệ, nhiều ngành đình đốn, hàng hoá ngày càng khan
hiếm, giá cả leo thang, lạm phát với tốc độ phi mã, đời sống nhân dân lao động ngày
càng đói khổ. Đứng trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã nỗ lực tìm tòi giảI
pháp đưa đất nước thoát khỏi cơn khủng hoảng, nâng cao đời sống của nhân dân.Sau
giai đoạn thử nghiệm đưa nền kinh tế vào quỹ đạo của kinh tế tị trường đạt được
những kết quả khả quan, tạI đạI hội VI, Đảng ta đã chính thức khẳng định chủ trương
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường. Sau một thời
gian đổi mới, thực tiễn phát triển của nước ta đã chứng minh quyết định trên của
Đảng là hoàn toàn đúng đắn: Kinh tế Việt Nam thoát khỏi tình trạng bế tắc, khủng
hoảng, lạm phát giảm xuống, đới sống nhân dân đựoc cảI thiện. Tuy nhiên chủ nghiã
xã hội là mục tiêu cao nhất của trong sự nghiệp đấu tranh Cách mạng của Đảng và
nhân dân ta. Đổi mới kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường không có một mục tiêu
nào khác ngoàI mục tiêu đó. Vì vậy Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị
trường không phảI là kinh tế thị trường như các nước khác mà là kinh tế thị trường
định hướng xà hội chủ nghĩa, tức là cơ chế thị trường nhằm đưa nước ta đI đến cáI
đích xã hội chủ nghĩa. Về bản chất đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng xã hội
chủ nghĩa, vừa kế thừa những thành tựu của loàI người vừa gắn liền với đặc đIểm và
mục tiêu chính trị, là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Cơ chế thị trường tuy có nhiều đIểm mạnh nhưng bản thân nó có nhiều khuyết tật
và những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội như xu thế phân
hoá giàu nghèo quá mức, vì lợi nhuận mà con người không từ mọi thủ đoạn chà đạp
lên đạo đức nhân phẩm..., và cơ chế thị trường có tính tự phát chuyển đổi lên tư bản
chủ nghĩa.Chính vì vậy để đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường ở Việt nam, cần xác định những nhân tố quan trọng đóng vai trò
đIều chỉnh nền kinh tế phát triển theo định hướng đã chọn. Từ đó đánh giá thực trạng
vai trò của những nhân tố đó để đưa ra những giảI pháp đúng đắn nhằm tăng cường
chức năng của các nhân tố đó nhằm phát triển kinh tế Việt Nam bền vững theo định
hưỡng xã hội chủ nghĩa.
Tôi xin trình bày đề án: “Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam” nhằm đưa ra một số ý kiến về vấn đề
này
I. Lý luận chung về kinh tế thị trường( KTTT) định hướng XHCN.
1. Kinh tế thị trường.
1.1. Khái niệm KTTT.
Trong lịch sử phát triển, nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức
kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra nhằm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người
sản xuất. Hình thức kinh tế này phổ biến trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ. Trong xã hội phong kiến nó tồn tại dưới hình thức kinh tế nông dân gia trưởng và
các điền trang, thái ấp của địa chủ. Hình thức kinh tế này khép kín qua các quá trình
kinh tế trong phạm vi một đơn vị sản xuất nhỏ tự cung tự cấp, không mở rộng với các
đơn vị khác. Vì vậy nó mang tính chất bảo thủ, trì trệ.
Kinh tế hàng hoá là sự phát triển kế tiếp của kinh tế tự nhiên trên cơ sở phát triển
của phân công lao động của kinh tế tự nhiên. Đó là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở
đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm để trao đổi hoặc bán trên thị trường. Hình thức đầu
tiên của nó là kinh tế hàng hoá giản đơn. Đó là kiểu sản xuất mà sản phẩm do sản xuất
và sức lao đọng của bản thân, được bán, trao đổi trên thị trường.
Kinh tế hàng hoá ra đời rất sớm, từ hình thức kinh tế hàng hoá giản đơn và được
tồn tại nhiều phương thức sản xuất. Với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản,
kinh tế hàng hoá giản đơn phát triển thành kinh tế hàng hoá phát triển hay kinh tế thị
trường. Như vậy, kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong
đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “ đầu ra” của sản phẩm đều thông qua thị trường.
Ngày nay không ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế thị trường
trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội,
không ai phủ nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trong trong
nhiều chế độ xã hội khác nhau.
1.2. Cơ chế thị trường:
Trong nền kinh tế trị trường, mọi yếu tố sản xuất, mọi hàng hoá đều có thị trường
của nó: thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường hàng tiêu dùng. Thị trường gắn
với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thị trường hình thành ở đâu có cung- cầu hàng hoá, nói
đến thị trường là nói đến hàng hoá, giá cả, tiền tệ, người bán, người mua.
Trên thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm. Các quy luật kinh tế vốn có
của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh
tranh... đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận
động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và
cơ cấu nhu cầu của sản xuất ( tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (
tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội. Như
vậy, nền kinh tế thị trường có khả năng tự điều tiết do sự tác động của các quy luật vốn
có của nó. Người ta gọi cơ chế tự điều tiết đó là cơ chế thị trường. Nói một cách cụ thể
hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn
nhau của các yếu tố giá cả, cung - cầu, cạnh tranh... Trực tiếp phát huy tác dụng trên thị
trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường có những ưu đIểm và tác dụng mà không có một cơ chế nào
hoàn toàn thay thế được: thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể
kinh tế, tạo đIều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế
phát triẻn năng động có hiệu quả. Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến
sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu
nhu cầu của xã hội. Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân nhiều sản
phẩm khác nhau. Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất. Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối
ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển phân phối các yếu tố sản
xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của htị trường, chúng sẽ chuyển đến nơi được sử
dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bổ một cách tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà
nước và có khả năng thích nghi cao trước những điều kiện kinh tế biến đổi.
Tuy nhiên cơ chế thị trường không phải là cơ chế hoàn hảo nên cũng có những
khuyết tật vốn có của nó: Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện sự cạnh tranh không
hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Thứ hai, do mục đích hoạt động của
các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội
gây ra ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế xã hội không
được đảm bảo. Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội
dù cơ chế thị trường có hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của
cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải tác động xấu
đến đạo đức và tình người. Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều
tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất
nghiệp. Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế
không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để
sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó người ta gọi là nền kinh tế hỗn
hợp.
2. Kinh tế thị trường định hưỡng XHCN.
2.1. Khái niệm KTTT định hướng XHCN.
Sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì và phát triển cơ chế
kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong toàn quốc. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này cả
trong thời bình không những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ như mong
muốn mà trái lại, đưa Việt Nam tiếp tục trượt dài trên con đường suy thoái, khủng
hoảng. Tại đại hội lần thứ VI ( tháng 12 năm 1986) , Đảng CSVN đã đề xuất đường lối
đổi mới nền kinh tế với tinh thần cơ bản là: chính thức tuyên bố chuyển nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN mà sau này
tại đại hội IX của Đảng CSVN được gọi dưới tên” nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN”
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng XHCN.
2.2. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của TBCN, nền kinh tế
thị trường vận động, tồn tại ở các nước XHCN và những nước đang trong thời kỳ quá
độ lên XHCN. Tuy nhiên KTTT định hướng XHCN có những điểm khác biệt căn bản
so với nền KTTT tư bản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về chế độ sở hữu. Cơ chế thị trường trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động
trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc
quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thị trường trong
nền kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN lại hoạt động trong sự đa dạng các quan
hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân,
với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước
và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng dẫn
sự phát triển kinh tế hàng hóa nhỏ và TBCN. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và
phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các
lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc
không muốn đầu tư vì không có hoặc ít lãi.
Thứ hai, về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước.
Trong cớ chế thị trường TBCN sự can thiệp của nhà nước luôn mang tính chất tư sản và
trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm đảm bảo môi trường kinh tế xã
hội thuận lợi cho sự thống trị của gia cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột
TBCN. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN thì
sự can thiếp của nhà nước XHCN vào nền kinh tế nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng
của toàn thể nhân dân lao động thực hiện mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Thứ ba, về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quảnlý của nhà nước XHXN. Cơ chế đó bảo
đảm tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới mục đích XHXN theo phương
châm nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường điều tiết doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở
cả hai mặt cơ bản: một là nhà nước XHXN là nhân tố đóng vai trò trung tâm và điều tiết
vĩ mô nền kinh tế, hai là, cơ chế trị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, đóng
vai trò trùng gian giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Thứ tư, là về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã
hôịi. Trong sự phát triển của kinh tế TBCN, vấn đề công bằng xã hội không bao giờ
được giả quyết triệt để. Mục đích của giải quyết các vấn đề xã hội chỉ là phương tiện để
chính phủ tư sản duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
nhà nước chủ động giảI quyết ngay tư đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế
thị trường mà còn là mục tieu của chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền kinh tế thị
trường định hướng XHXN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà còn
ở mức sống thực tế của mọi người đêù được nâng lên, y tế, giáo dục phát triển, đạo đức,
văn hoá dân tộc được giữ gìn, môi trường sinh thái được bảo vệ.
3. Những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
Từ những đIểm khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng
XHCN đã nêu ở trên, ta thấy rằng đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là nền kinh tế thị trường vừa dựa vào những nguyên tắc và quy luật của
kinh tế thị trường, vừa dựa trên ngững nguyêt tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội
nhằm mục đích hướng tới chế độ XHCN. Việt Nam ta cũng chọn con đường đi lên
XHCN và thực hiện nền kinh tê thị trường, do đó cần phải tìm cách quản lý tốt nền
kinh tế đảm bảo cho nó đi đúng định hướng XHCN. Những nhân tố bảo đảm tính định
hướng XHXN của nền KTTT ở VN bao gồm: vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước và
vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước.
3.1. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước.
3.1.1 Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của
những quy luật vốn có của nó, như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh
tranh.., giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quuyết định đối với việc
phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Mặc dù cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng
nó vẫn có nhiều khuyết tật như đã trình bầy ở phần trước, cho nên hầu như tất cả các
nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa ở
một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”.Tức là cơ chế vận hành của nền
kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế trị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều
khác biệt trong cơ chế vận hành của nền kinh tế của nước ta là nhà nước quản lý nền
kinh tế không phải là nhà nước tư sản mà là nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân
và vi dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Do đó chức năng của nhà nước ta trong
quản lý kinh tế bao gồm sửa chữa những thất bại của thị trường và đồng thời bảo đảm
cho nền kinh tế đi đúng quỹ đạo XHCN chứ không phải đi theo con đường TBCN. Cụ
thể bao gồm những chức năng sau:
* Nhà nước phải có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế đất
nước. Công cụ của việc định hướng phát triển kinh tế xã hội bao gồm nhiều loại trong
đó chủ yếu là: hoạch định chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát
triển. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một hệ thống quan điểm cơ bản, các mục
tiêu dài hạn phát triển kinh tế xã hội và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn một cách
có căn cứ khoa học trên cơ sở huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực và lợi thế phát
triển của đất nước để đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong quá trình phát triển Đảng ta đã
xác định một hệ thống quan điểm bao gồm: 1. Phát triển nhanh và bền vững, 2. Xây
dựng nền tảng của một nước công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ chiến
lược; 3. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động thực hiện hội nhập kinh tế song
phương và đa phương; 4. Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách sâu rộng và đồng bộ cả
về kinh tế, xã hội và bộ máy hành chính nhà nước hướng vào giải phóng triệt để lực
lượng sản xuất, phát huy tới mức cao nhất sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc,
tạo động lực và nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh, bền vững, đảm bảo thắng
lợi trong hội nhập quốc tế; 5. Kết hợp kinh tế, xã hội với quốc phòng an ninh, nhằm
thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền an ninh của Tổ quốc. Sau đó nhà nước đề ra mục tiêu và nhiệm vụ của
chiến lược. Các hoạt động khác bao gồm: Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế – xã
hội; Lập kế hoạch phát triển kinh tê - xã hội 5 năm; Lập kế hoạch kế hoạch kinh tễ xã
hội hàng năm; xây dựng các chương trình quốc gia.
* Nhà nước cung ứng hàng hoá công cộng, những hàng hoá và dịch vụ mà thị
trường không cung ứng hay cung ứng không đầy đủ, đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội.Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế và các dịch vụ cơ sở hạ tầng xuất phát từ 3 lý
do:
- Dịch vụ kết cấu hạ tầng có vai trò to lớn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Cơ sở hạ tầng được xem là đIều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Sản xuất không thể
phát triển được nếu không được đảm bảo về nguồn nhân lực, giao thông, điện nước và
thông tin
- Dịch vụ cơ sở hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, thời gian thu hòi vốn dàI và
việc thu hòi vốn khó khăn, thường thu hồi gián tiếp mà ít thu hồi trực tiếp.
- Dịch vụ cơ sở hạ tầng phần lớn là những hàng hoá công cộng. Những hàng hoá
này không được các nhà sản xuất tư nhân quan tâm vì lợi ích của người sản xuất ra nó ít
hơn nhiều sơ với lợi ích xã hội và vấn đề sử dụng không phải trả tiền của hàng hoá công
cộng. Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển thuận lợi, Nhà nước tất yếu phải có trách
nhiệm cung cấp các dịch vụ hạng tầng cho xã hội.
- Ngoài ra cung cấp các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, và các dịch vụ khác là
một trách nhiệm tối cao khác của Nhà nước. Nhà nước có thể cung cấp các dịch vụ này
bằng một trong hai cách: Một là cung cấp trực tiếp thông qua các doanh nghiệp hoặc cơ
quan sự nghiệp của nhà nước. Hai là nhà nước tạo điều kiện khuyến khích tư nhân trong
việc cung cấp kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội như trợ cấp cho các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ hạ tầng, đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hạn tầng,
dịch vụ xã hội. Tuỳ thuộc vào hiệu quả hoạt động mà nhà nước sẽ lựa chọn cách thức
nào.
* Nhà nước cung cấp một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và
vững chắc, không chỉ là hệ thống luật lệ và quy định mà còn bao hàm các định chế cần
thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao
gồm toà án và các cơ quan vưỡng chế thi hành luật. Trong các nền kinh tế thị trường,
phần lớn các giao dịch dựa trên hợp đồng. Khi những luật lệ quy định quyền sở hữu
được rõ ràng và cơ chế cưỡng bức thi hành luật vận hành tốt thì chi phí hoạt động kinh
doanh thấp hơn và thị trường vận hành tốt hơn. Cụ thể, hệ thống pháp luật kinh tế do
nhà nước ban hành có những vai trò sau:
+ Pháp luật kinh tế xác định vị trí pháp lý của các tổ chức và đơn vị kinh tế. ở nước
ta pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng thể hiện đường lối, chính sách phát
triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn theo đường lối phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Bằng việc ban hành và thực thi một hệ thống pháp luật
về các loại hình doanh nghiệp như Luật doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp, luật
hợp tác xã, địa vị pháp lý của các chủ thể kinh tế được xác định.
+ Bằng pháp luật kinh tế, Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh tế trên thị trường: xác
định hành vi nào là hợp lý, hành vi nào là phi pháp. Thông qua pháp luật kinh tế, nhà
nước khẳng định chức năng của mình đối với phát triẻn kinh tế trên cơ sở páht huy tính
tích cực của htị trường và hạn chế những tiêu cực có hại của nền kinh tế: hàng giả, hàng
lậu, độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, huỷ hoại môi trường, tham nhũng...
+ Luật pháp về kinh tế là công cụ của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế cũng là quá trình hoàn thiện quản lý nhà
nước về kinh tế. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
thì nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật của nhà nước có ý nghĩa quyết
định đến sự thành công của sự đổi mới kinh tế đất nước.
* Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo
ra môi trường khuyến khích cạnh tranh và một sân chơi bình đẳng cho mọi cá nhân, tổ
chức không phân biệt thành phần kinh tế và hình thức sở hữu trong việc sử dụng các
nguồn lực phát triển, lựa chọn việc làm và tham gia vào các hoạt động kinh doanh là
một chức năng quan trọng khác của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ở tất cả các nước, khu vực tư nhân luôn là động
lực chủ yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một đặc điểm nổi bật của
nền kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thỉtường là tình trạng độc quyền, phân biệt đối xử giữa các thành
phần kinh tế, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Vị trí độc quyền
của doanh nghiệp hầu hết do nhà nước quyết định theo phương thức hành chính như
cấm hoặc hạn chế các doanh nghiệp khác không được kinh doanh chứ không hình thành
nhờ hiệu quả kinh doanh thông qua con đường tập trung, tích tụ vốn. Trong bối cảnh đó,
tự do hoá thương mại và tự do gia nhập ngành, bãi bỏ hàng rào bảo hộ là những biện
pháp hữu hiệu để hạn chế sự bất công và phi hiệu quả gắn liền với độc quyền. Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu. Do đó
không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là nền
tangr của chế độ xã hội mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế
độ tư hữu phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị
kinh tế thuộc chế độ tư hữu, các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các hình thức
hợp tác liên doanh giữa trong và ngoàI nước... Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần
đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát
triển.
* Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và páht triển đồng bộ các
loại thị trường như thị trường tài chính, thị trường hàng hoá,dịch vụ, thị trường lao
động, thị trường bất động sản..nhằm giải phóng lực lượng sản xuất và thực hiện vai trò
tổ chức, quả lý để cho các loại thị trường này hoạt động theo quy luật vốn có. Trong
trường hợp một nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị
trường như Việt Nam, thị trường có thể hoạt động không hiệu quả bởi các rào cản do
các chính sách của chính phủ tạo ra. Cần loại bỏ những méo mó của thị trường và xây
dựng nền tảng thể chế và pháp lý cho các thị trường ra đời và vận hành hiệu quả.
* Nhà nước gắn phát triển kinh tế với giữ vững môi trường văn hoá xã hội ổn định,
nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ
tài nguyên môi trường sinh thái, thực hiện mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữa
tổ chức kinh doanh và môi trường văn hoá xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc
tạo ra môi trường văn hoá xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế hoạt động
hiệu quả hơn.
Thứ nhất là vấn đề việc làm,để giải quyết vấn đề việc làm , nhà nước cần có các
chương trình, chính sách nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập. Ví dụ như
khuyến khích phát triển nông nghiệp và nông thôn, phân phối lại thu nhập cho người
nghèo, tăng sức mua của chính phủ với hàng hoá của các doanh nghiệp quy mô nhỏ, sử
dụng nhiều lao động, cải thiện sự linh hoạt về lương ở mức cao.Thứ hai là vấn đề công
bằng xã hội: công bằng xã hội là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa đồng thời là
động lực của phát triển kinh tế. Công bằng không thể dựa vào thị trường nên nhà nước
cần phải can thiệp nhằm tăng thu nhập làm cho khoảng cách giàu nghèo không tăng
hoặc giảm đi, đảm bảo cho mọi người chứ không phải là một số người được hưởng lợi
từ thành quả tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Nhà nước thực hiện vai trò đảm
bảo công bằng xã hội thông qua các giải pháp như: Phân phối lại thu nhập thông qua
thuế, đánh thuê thu nhapạ, tăng phúc lợi xã hội, trợ cấp xã hội, trợ giá cho hàng háo và
dịch vụ có ngoại ứng tích cực, đánh thúe đối với hàng hoá dịch vụ có ngoại ứng tiêu
cực, điều tiết giá cả ( lương tối thiểu, lãi suất..), khuyến khích đầu tư vào vốn nhân lực...
Thứ ba, là vấn đề xoá đói giảm ngheo: Đây cũng là mục tiêu và động lực của phát
triển kinh tế. Song thị trường không thể giải quyết tận gốc vấn đề này bởi lẽ phân phối
nguồn lực hiệu quả không có nghĩa là phân phối công bằng Do đó cần có sự can thiệp
của nhà nước nhằm giảm đói nghèo được thực hiện theo các hướng: phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, tín dụng cho người nghèo, giáo dục tiểu học phổ cập, thực hiện các
chương trình về công ăn việc làm, chương trình xoá đói giảm nghèo, trợ cấp cho người
nghèo...
Thứ tư là củng cố và phát triển văn hoá, khắc phục những tiêu cực của xã hội. Nền
kinh tế thị trường phát triển, sự mở rộng hội nhập kinh tế vớic các nước đI liền với
những tệ nạn xã hội, sự tha hoá về nhân cách con người. Do đó nhà nước có nhịêm vụ
củng cố và phát triển nền văn hoá truyền thống, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn
định theo định hướng XHCN.
Cuối cùng là vấn đề bảo vệ môI trường sinh thái. Lý thuyết hiện đại đã khẳng định
thất bại của thị trường trong việc bảo vệ môi trường bắt nguồn từ thực tế là sản xuất tư
nhân gây ra tác động tiêu cực đối với môi trường và chi phí xã hội không được phản ánh
đầy đủ vào chi phí sản xuất nếu chỉ thông qua các lực lượng thị trường. Do đó lượng ô
nhiễm có khuynh hướng vượt quá mức “ tối ưu” hoặc các nguồn tài nguyên thiên nhiên
có thể bị khai thác qua mức, làm giảm tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Nhà nước
có thể can thiệp bằng cách đánh thuế môi trường đói với các loại hàng hoá, dịch vụ gây
ô nhiễm mội trường, hoặc đặt ra mức xả thỉa và trừng phạt các doanh nghiệp vi phạm
bằng các biện pháp hành chính hoặc kinh tế. NgoàI ra nhà nước còn bỏ vốn đầu tư cho
các dự án cải tạo môi trường như trồng rừng, nạo vét sông ngòi, hình thành các khu sinh
thái, xây dựng các hệ thống xử lý chất thải ..
* Đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, giữ vững ổn định chính trị tạo thuận
lợi cho các hoạt động kinh doanh. Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô làm giảm những biến
động ngắn hạn trong nền kinh tế và khuyển khích tăng trưởng bền vững lâu dài. ổn định
kinh tế vĩ mô có ý nghĩa rất lớn đối với tăng trưởng và phát triẻn kinh tế. Nó củng cố
lòng tin của các chủ thể kinh tế vào tương lai của nền kinht ế, nó tránh cho nền kinh tế
khỏi những cuộc khủng hoảng, suy thoái. Để ổn định kinh tế vĩ mô, nhà nước có thể sử
dụng các biện pháp như: gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho phát triển, duy trì sự
cân đối giữa thu chi ngân sách nhà nước nhằm giữ cho lạm phát ở mức kiểm soát được,
duy trì sự cân đối trong cán cân thương mại bằng việc duy trì tỷ giá hối đoái hợp lý,
tăng, giảm cung tiền để giảm hoặc tăng mức giá..
Ngoài chức năng ổn định kinh tế vĩ mô, nhà nước còn có chức năng giữ vững ổn
định chính trị, tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế. Muốn như thế
Đảng CSVN phải tăng cường vai trò lãnh đạo của mình, đoàn kết toàn dân cùng tham
gia vào quá trình phát triển kinh tế, xây dựng chế độ XHCN.
3.1.2. Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.
Những nội dung chủ yếu quản lý kinh tế của Nhà nước ta bao gồm:
- Quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Toàn bộ sự phát triển của nền kinh
tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triẻn kinh tế. Để xây dựng chiến
lược đúng, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế -xã hội, xác định
rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy, cần thực hiện dân chủ
hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách.
- Kế hoạch: Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến
lựơc, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược. Kế hoạch xác định mục
tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các
mục tiêu đó.
- Tổ chức: Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch
đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách
nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí
cán bộ thích hợp.
- Chỉ huy và phối hợp: nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể
khác nhau vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu quả, cần có sự chỉ
huy thống nhất ( điều chỉnh từ một trung tâm). Để có thể chỉ huy nền kinh tế, phải có cơ
quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để
điều hoà, phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuát xã hội , giải quyết kịp thời các
vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế.
- Khuyến khích và trừng phạt: bằng các đòn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần,
khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền
kinh tế thì được khuyến khích, ngược lại, không làm theo định hướng của kế hoạch, làm
hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
3.1.3. Các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước XHCN ở Việt Nam.
Để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế đã nêu ở trên, nhà nước Việt nam đã
sửa dụng những công cụ sau:
- Hệ thông pháp luật: pháp luật thường được hiểu là hệ thóng các quy tắc xử sự có
tính chát bắt buộc chung ( quy phạm pháp luật) thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và
cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ nhằm mục tiêu bảo toàn và
phát triển xã hội theo các đặc trưng đã định. Trong thực tế có 2 loại văn bản pháp luật
điều chỉnh hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế là văn bản quy phạm pháp luật và
văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh,
bảo vệ và giáo dục đảm bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương pháp nhất
định. Thông qua việc thực hiện các chức năng này, pháp luật có vai trò quan trọng trong
quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN được thể hiện ở các mặt cơ bản sau: Pháp luật tạo tiền đề pháp lý
vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế
quốc dân nhằm thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết
hợp hài hoà phát triển kinh tế với phát triển xã hôị và bảo vệ môi trường.
- Kế hoạch: Kế hoạch là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm
tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch bao gồm các nội
dung: chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch dự án, ngân sách. Trong đó chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội là đường lối chung trong một thời gian dài ( ở nước ta
thường là 10 năm), quy hoạch phát triển kinh tế tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp
xếp các nguồn lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu không gian và thời gian, kế
hoạch trung hạn ( kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để cụ thể
hoá các mục tiêu và các giảI pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Trong cơ chế vận
hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì kế hoạch kết hợp với thị trường là hai
công cụ quản lý của nhà nước. Sự đIều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn
lực, còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển
theo định hướng của kế hoạch.
- Lực lượng kinh tế của nhà nước: Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các
công cụ pháp luật, kế hoạch hoá, mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển
theo định hướng XHCN, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bên vững. Nờ đó nhà
nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế, xã
hội do kế hoạch đặt ra.
- Chính sách: Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu mà nhà nước sử dụng để
quản lý nền kinh tế. Mỗi chính sách là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện
các mục tiêu quan trọng trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển
kinh tế xã hội. Có hai nhóm: Chính sách kinh tế , chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách
tàI chính, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả..., và chính sách xã hội: chính sách dân
số, chính sách lao động và việc làm, chính sách giáo dục, chính sách bảo vệ mội
trường...Trong đó có hai loại chính sách quan trọng tác động trực tiếp đến nền kinh tế
được nhà nước sử dụng thường xuyên để điều tiết vĩ mô nền kinh tế đó là chính sách tài
chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh
hưởng quyết định đến sử dụng ngân sách nhà nước, Nhà nước đIều chỉnh phân bố các
nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối và
thực hiện các chức năng của mình. Nộ dung của ngân sách nhà nước bao gồm các khoản
thu và khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn
không chỉ tạo thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiều dùng.
Chính sách tiền tệ: là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết
vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chính sách tiền tệ phảI khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín
dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện đIều tiết
cung, cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông
qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế.
- Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại: để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu.
Thông qua các công cụ đó, nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu , bảo hộ hợp lý sản
xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta, giữ vững được
độc lập , chủ quyền , bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
3.2. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
3.2.1. KháI niệm thành phần kinh tế nhà nước
Việc đề ra quan đIểm” thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng
với các thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”
là một trong những thành tự to lớn của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
CSVN, nó đánh dấu một sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Đảng và Nhà
nước ta về con đường đI lên CNXH cũng như các yếu tố cơ bản cấu thành nên nền kinh
tế đó. Tuy nhiên, hiện nay, trong giới hạn lý luận cũng như trong một số cán bộ Đảng
viên và quân chúng nhân dân, nhận thức về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà
nước vẫn chưa được thấu đáo, thậm chí một số người còn chưa rõ thành phần kinh tế
nhà nước là gì, nó có giống với kinh tế quốc doanh trước đây không.
Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu nhà nước về tư
liệu sản xuất. Một số người cũng nhất trí cho rằng thành phần kinh tế nhà nước phảI dựa
trên sở hữu nhà nước, nhưng họ coi mọi sở hữu nhà nước, kể cả sở hữu trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp là thành phần kinh tế nhà nước. Quan niệm như thế là sai
lầm. PhảI phân biệt nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế, kiểm soát nền kinh tế
theo các nguyên tắc của thị trường với Nhà nước là một lực lượng chính trị với các
phương tiẹn vật chất đảm bảo cho sự thống trị chính trị đó. Chỉ có sở hữu nhà nước với
tư cách một lực lượng kinh tế, một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở
hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Với quan niệm như thế, thành phần kinh tế nhà
nước bao gồm các yếu tố cấu thành:
- Yếu tố thứ nhất là hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN): Đây là các tổ
chức kinh tế mà Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn đIều lệ hoặc cổ phần vốn góp chi phối,
được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH. DNNN
có hai loại: Loại hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và loại hoạt động công ích
không vì mục tiêu lợi nhuận . NgoàI ra còn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ
chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế: cầu,
đường, sân bay, bến cảng... loại này có xu hường chuyển hoá từng phần sang một hoặc
hai loại trên.
- Yếu tố thứ hai là hệ thống tàI chính của Nhà nước. Ngày nay khi mà xu hướng mở
rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở các quốc gia, thì ở nước
ta do nhà nước có vai trò to lớn trong đảm bảo công bằng, nên tàI chính nhà nước trở
thành lực lượng kinh tế đáng kể. Từ ngân sách nhà nước có thể hình thành các luồng tàI
chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp không phảI doanh nghiệp nhà nước
để sinh lãI, cho vay tín dụng... Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi vốn
trở thành một trong những ngồn lực sản xuất chủ yếu thì một phần tàI chính nhà nước,
kể cả chi tiêu ngân sách thường xuyên trở thành lực lượng kinh tế lớn.
- Yếu tố thứ ba: là hệ thống dự trữ, tàI nguyên đất đai, vùng biển thuộc sở hữu nhà
nước. Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đất đai, mặt biển không phận
đều thuộc sở hữu nhà nước. Các bộ phận đất đai nhà nước giao cho dân sử dụng lâu dài.
Cũng có bộ phận đất đai, mặt biển, tàI nguyên, không phận.. Nhà nước cho thuê và có
thu nhập. Thu nhập đó có thể táI đầu tư, củng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho công
dân dưới hình thức nào đó. Dù mục đích sử dụng có thể khác nhau, song không phủ
nhận rằng sở hữu đất đai, mặt biển, bầu trời cùng với dự trữ quốc gia đã làm cho nhà
nước thực sử là chủ thể kinh tế mạnh không chỉ có khả năng tham gia vào các quá trình
kinh tế mà còn có thể đóng vai trò đIều tiết, định hướng và kiểm soát các quá trình kinh
tế đó.
- Yếu tố thứ tư: là hệ thống dịch vụ nhà nước.kể cả dịch vụ thu phí và dịch vụ
không thu phí. Khác với quan niệm sai lầm trước kia cho rằng của cảI chỉ tồn tại dưới
dạng vật chất hữu hình, ngày nay kinh tế học hiện đại cho rằng của cảI còn là những
dịch vụ với tư cách là hàng hoá vô hình nhưng có vai trò thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người và làm tăng chất lượng của cuộc sống và cũng được tính vào GDP. Những
dịch vụ nhà nước có thể kể ra như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ hảI quan, dịch vụ thủ tục
hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm soát, thị trường tiền, thị trường chứng
khoán, thị trường vốn. Với việc cung cấp các dịch vụ này, nhà nước có thể tác động vào
thị trường và qua thị trường tác động vào nền kinh tế. nhân tố này góp phầnlàm cho
tiềm lực kinh tế của nhà nước được nhân bội lên.
Tóm lại: Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước(DNNN), các sở hữu
nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của nhà nước
đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là hệ thống kinh tế
nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành : DNNN và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp.
3.2.2. Vì sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam, mỗi thành phần đều có vai trò vị
trí và đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế đất nước song do tính chất của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta cần đặc biệt nhấn mạnh thành phần kinh tế
nhà nước ( KTNN), KTNN làm chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Việc xác lập vai trò chủ đạo của thành phần KTNN là vấn đề
có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa KTTT định hướng XHCN
với KTTT tư bản CN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta đã quyết định
KTNN phảI giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một
chế độ xã hội đều có một sơ sở kinh tế tương ứng với nó, KTNN cùng với Kinh tế tập
thể tạo nên nền tảng cho chế độ XH mới – XHCN ở nước ta. Cụ thể, KTNN phảI giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì những lý do sau:
Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất,
là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. ở đây cần
phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hứu. Nhà nước - đạI diện cho toàn dân - là chủ sở
hữu tư liệu sản xuất, tàI sản công cộng cảu toàn dân.
Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống ccủa nền
kinh tế , do đó nó có khả năng, đIều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế
khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo huớng đã định.
Thứ ba, KTNN là lực lượng bảo đảm cho sựphát triển ổn định của nền kinh tế, là
lực lượng có khả năng can thiệp, đIều tiết hướng dẫn, giúp đỡ, và liên kết tạo đIều kiện
cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ tư, KTNN có thể tác động tới các thnàh phần kinh tế khác không chỉ bằng các
công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp thông qua những thiết chế
và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN.
Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đạI tiên
tiến, do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước
và tự tích tụ để không ngừng táI sản xuất mở rộng.
Thứ sáu, KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị
mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sỗng còn
nhưng ít ai dám đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn chậm.
3.2.3 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
TạI đạI hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, nội dung vai trò chu đạo của thành
phần kinh tế nhà nước đã được khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả
KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giảI
quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng
phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện các chức năng đIều tiết và quản
lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Như vậy vai trò chủ đạo của thành phần
KTNN gồm những nội dung sau:
_ KTNN là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác
phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước. KTNN có khả năng, đIều kiện về
mọi mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các kế hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng,
cảI tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, đIện, các công trình
công cộng khác phục vụ cho sản xuất và đời sống trong suốt quá trình công nghiệp hoá,
hiện đạI hoá đất nước, theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. KTNN có đIều kiện để đI đầu
trong việc tập trung nghiên cứu xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản
xuất những hàng hoá mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có
nhu cầu và đem lạI lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng được nhiều lao động tạo đà cho
kinh tế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; đI đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật về nghiên cứu chế tạo, triển khai công nghệ mới, chuyển giao công nghệ truyền
thống đóng vai trò quyết định trong việc thăm dò và các thành phần kinh tế khác khai
thác tàI nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, vừa khai thác
có hiệu quả tàI nguyên , vừa bảo vệ môI trường sinh thái. Kinh tế nhà nước còn là lực
lượng đI đầu trong việc đổi mới và nâng cao trình độn nănglực quản lý kinh tế, cả về
dổi mới trang thiết bị, cũng như cách tổ chức và phân phối, là tấm gương tiêu biểu cho
các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế đất nước thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước về mọi lĩnh vực, đặc biệt là giảI quyết việc làm, thực hiện luật
Luật lao dộng, xoá đòi giảm nghèo...đI đầu trong việc đóng góp vào ngân sách quốc gia.
KTNN là lực lượng xung kích của nhà nước trong việc hìnhthành , xây dựng các trung
tâm kinh tế,văn hoá, xã hội và phân bố dân cư. Những trách nhiệm trên đây của KTNN
về thực chất là tạo nền tảng kinh tế - xã hội, định hướng nền kinh tế phát triển đúng
hưóng, hợp quy luật, nhanh và bền vững.
_ KTNN là lực lượng vật chất quan trọng, chủ yếu nhất để nhà nước đIều tiết và
quản lý vĩ mô nền kinh tế.Nhà nước cỉ có thể đIều tiết được nền kinh tế khi có trong tay
một tiềm lực kinh tếmạnh. KTNN chính là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra Iềm lực kinh
tế mạnh để nhà nước thực hiện yêu cầu đó. Trong KTNN, hệ thống, hệ thống doanh
nghiệp nhà nước là lực lượng chủ lực tạo ra tiềm lực vật chất của kinh tế nhà nước, có ở
những khâu trọng yếu cảu nền kih tế, cung ứng phần lớn những tư liệu sản xuất chủ
yếuvà tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai trò nòng cốt trong việc củng cố , phát triển
các bộ phận cấu thành hệ thống KTNN, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế cao
và bền vững. Bên cạnh hệ thống DNNN, kinh tế nhà nước còn có tiềm lực mạnh về
nguồn vốn từ ngân sách, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, đủ năng lực đầu tư vào kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp,
thực hiện các dự án phát triển khu dân cư... KTNN là lực lượng vật chất quan trọng nhất
để nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát tiển ổn định,
bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến trong
nền kinh tế, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường.
_ KTNN là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế và giảI quyết các vấn đề xã hội của đất nước.
Nhà nước sử dụng lực lượng kinh tế của nhà nước để đầu tư cho những ngành, những
khu vực, những công trình kinh tế trọng đIểm, tạo “đầu tàu” kéo nền kinh tế của từng
ngành, vùng phát triển đI lên; tập trung xây dựng các khu vực kinh tế trọng đIểm, cá
khu công nghiệp với vự phân bố hợp lý theo vùng, miền, địa bàn để phát huy lợi thế,
khả năng về mọi mặt, làm thay đổi bộ mặt kinh tế từng địa bàn, vùng, miền cả nước.
KTNN còn được sử dụng chủ yếu vào thực hiện các chương trình giảI quyết việc làm,
vay vốn xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống, đồi trọc...góp phần giảI quyết công ăn
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm bớt sự phân tầng xã hội do cơ chế thị
trường gây ra.
II. Thực trạng những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở
nước ta
1. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
1.1 Mặt mạnh trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
ĐạI hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt lớn trong lịch sử kinh
tế nước ta, lần đầu tiên chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung kế hoạch hoá
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đề ra. Sau khi đề ra chủ
trương đúng đắn, nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng tìm tòi học
hỏi cách quản lý kinh tế thị trường ở các nước khác đồng thời vận dụng một cách sáng
tạo vào nền kinh tế của trong nước nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của
nó. Nhờ đó Kinh tế Việt Nam vượt qua được một giai đoạn thử thách gay go, thu được
những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. GDP liên tục tăng với tốc độ cao, xuất khẩu
tăng, tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ
tăng lên, đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Nhà nước ta đã nhận thức rõ các công cụ quản lý kinh tế và vận dụng chúng một
cách linh hoạt trong từng hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời không ngừng bổ sung hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, và liên tục sửa đổi cho phù hợp với đIều kiện hoàn cảnh mới.
Nhiều bộ luật mới được ra đời như Luật doanh nghiệp, luật thương mạI, luật đầu tư,vv..
làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn.
Để phát triển kinh tế trong đIều kiện nguồn vốn trong nước thiếu, nhà nước ta thực
hiện chiến lược kinh tế mở nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam cụ thể là
vốn ODA và vốn FDI. Những hoạt động cụ thể là cho ra đời các chính sách thu hút đầu
tư, tạo môI trường đầu tư thông thoáng, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng Luật đầu
tư nước ngoàI vv..Kết quả là vốn đầu tư vào Việt Nam liên tục tăng, nhiều khu công
nghiệp được xây dựng góp phần tăng GDP và tạo công ăn việc làm cho nhiều lao
động.Hiện nay có hơn 4500 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã thành lập và hoạt động
tại Việt Nam, luôn có tốc độ tăng trưởng cao, năm 2004 đóng góp khoảng 16% vốn đầu
tư phát triển của xã hội, gần 10% GDP và ngân sách nhà nước.
NgoàI ra trong những năm qua, nhà nước ta đã hoàn thành tốt chức năng bảo đảm
ổn định chính trị xã hội, tạo môI trường hoà bình để nền kinh tế phát triển bền vững.
1.2 Mặt yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng quản lý kinh tế của nhà nước ta vẫn
còn tồn tạI nhiều yếu kém.
Trước hết là hệ thống pháp luật tuy đã liên tục được sửa đổi và hoàn chỉnh nhưng
vẫn chưa đầy đủ và còn nhiều sai sót. Tình trạng gian lận thương mạI, cạnh tranh bất
bình đẳng có xu hướng gia tăng và tinh vi phức tạp hơn vì quy định của pháp luật chưa
đầy đủ và việc thực thi pháp luật chưa nghiêm. Hiện nay chúng ta có 4 luật là luật doanh
nghiệp nhà nước(sửa đổi), luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật hợp tác xã (sửa đổi) trong
đó vẫn thể hiện sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Các chính sách đầu tư,
vốn vay chưa khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn dành sự ưu ái đặc biệt cho
doanh ngiệp nhà nước. Một số lĩnh vực kinh tế còn thiếu các quy định cụ thể của pháp
luật nên hoạt động thiếu hiệu quả.
Chức năng quản lý các thị trường đặc biệt là thị trường hàng hoá dịch vụ còn nhiều
khiếm khuyết. Danh mục hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá, quản lý bằng hạn
ngạch hoặac giấy phép tuy đã giảm nhưng vẫn còn nhiều so với các nước khác. Hơn thế
nữa, trong không ít trường hợp độc quyền nhà nước đã trở thành độc quyền doanh
nghiệp nhà nước. Nguyên tắc doanh nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
được tự do kinh doanh theo pháp luật trong tất cả các ngành nghề má pháp luật không
cấm tuy đã được xác lập bằng các quy định của pháp luật (Luật doanh nghiệp, luật
thương mạI), nhưng thực tế vẫn tồn tạI không ít những trở ngạI do cơ chế xin cho và và
do cách nghĩ, cách làm cũ vẫn còn tồn tạI ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức
trong cơ quan công quyền. Hiện tượng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa
phương, theo ngành, theo thành phần kinh tế tuy về cơ bản đã được loạI trừ, nhưng
không phảI đã chấm dứt hoàn toàn. Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền có vị trí
quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo cho thị trường phát triển có
trật tự, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Tuy nhiên đến nay dự án luật này tuy đã được
Quốc hội thông qua nhưng chưa có hiệu lực thi hành.
Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua tuy đã được tiến hành nhưng kết
quả vẫn chưa được bao nhiêu, thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, cửa quyền.
Hiện nay, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục tăng nhanh nhưng nhà nước ta
chưa kịp thời chỉ ra phương hướng đổi mới kinh tế hợp tác, quản lý kinh tế hợp tác còn
sơ hở, việc thành lập doanh nghiệp đầu tư nước ngoài gắn liền với các dự án đầu tư lại
bị giới hạn về thời gian hoạt động và hình thức đầu tư (liên doanh, hợp đồng hợp tác
kinh doanh, 100% vốn nước ngoài), doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ được tổ chức
hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn với nhiêù quy định đặc thù trái
với các nguyên tắc của kinh tế thị trường như: về vốn, về nguyên tắc biểu quyết và các
thủ tục khác.
1.3 Nguyên nhân những mặt yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước ta
Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước ta còn tồn
tại là do nhiều nguyên nhân cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quyền. Nguyên nhân
khách quan là sự phá hoại của các thế lực thù địch và chèn ép về thương mại của các
nước có thế lực kinh tế và chính trị mạnh.Nhưng nguyên nhân chính vẫn là nguyên nhân
chủ quan. Thứ nhất là do nền kinh tế thị trường mới được hình thành chưa lâu, trong khi
đó nền kinh tế kế hoạch hoá lại tồn tại một thời gian dài và đã khắc sâu trong tư tưởng
của một thế hệ. Vì vậy đội ngũ quản lý kinh tế trong nhà nước chưa bắt kịp với sự đổi
mới, vẫn còn chịu ảnh hưởng của cách nghĩ, cách làm cũ. Thứ hai là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thể chế kinh tế xuất hiện lần đầu tiên trong lịch
sử, nó sử dụng cơ chế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa để xây dựng XHCN. Vì vậy
về lý luận cũng như nội dung quản lý kinh tế của nhà nước nhằm giữ cho nền kinh tế
phát triển ổn định theo định hướng XHCN cần được thử nghiệm và tổng kết. Quá trình
đó tất yếu phải có nhiều lần thất bại và cần có thời gian. Một nguyên nhân quan trọng
khác là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ,
công chức trong bộ máy nhà nước ta gay nên tệ nạn quan liêu, tham nhũng. Trong đó
nạn tham nhũng đang ở tình trạng đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nước ta vẫn có thể coi là
một nước nghèo nhưng lại là một trong những nước có tỉ lệ tham nhũng cao nhất thế
giới.
2. Thực trạng về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Như đã trình bày ở phần trước,thành phần KTNN bao gồm 2 bộ phận cấu thành:
DNNN và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp nhà nước đóng
vai trò chủ đạo của KTNN.Vai trò chủ đạo của DNNN thể hiện ở chỗ duy trì tỷ trọng
tương đối lớn trong những cân đối then chốt về sản lượng chủ yếu, cân đối ngoạI tệ, nộp
ngân sách. Vai trò nêu gương dẫn dắt cảu DNNN thể hiện ở hiệu quả kinh tế, tiến bộ
công nghệ, năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của DNNN trong từng ngành và
trong quá trình hội nhập. Vì vậy trong vai trò chủ đạo của thành phần KTNN, hiệu quả
sản xuất, kinh doanh của DNNN đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trong những năm vừa qua, DNNN đã có những bước tiến mới phát triển và ngày
càng hoàn thiện. Những mặt làm được của DNNN như hội nghị TƯ 3 khoá IX đã đánh
giá:” DNNN đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của
nền kinh tế, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo ổn định và phát triển
kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước. DNNN chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản
phẩm trong nước, trong tổng thu nngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp
tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã
hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu
cho xã hội, quốc phòng, an ninh. “ Theo kết qủa đIều tra doanh nghiệp tính đến ngày
1\1\2004 cho thấy DNNN chiếm 8,5% số lượng doanh nghiệp cả nước và 48,5% lao
động, 62,1% về nguồn vốn, 57,5% về doanh thu và 52,6% về nộp ngân sách. Hệ thống
DNNN đã tạo ra được một lực lượng vật chất cần thiết cho việc tác động chi phối và
hợp tác trong thực hiện cân đối chủ yếu của nền kinh tế, ngày càng khẳng định vai trò
nòng cốt, dẫn dắt, lôI cuốn và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác hoạt động hướng vào
mục tiêu chung do nhà nước dề ra .
Tuy nhiên, bên cạnh những kết qủa nêu trên, DNNN hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế, yếu kém:
_ Số DNNN kinh doanh bị lỗ còn chiếm tỉ trọng cao, trong khi tỉ trọng vốn đầu tư vào
DNNN là cao nhất (chủ yếu là vốn từ ngân sách nhà nước). Năm 2004, số DNNN có lãI
chỉ chiếm 83%, số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 14,7%.ĐIều đó đòi hỏi cần xem xét lạI
mục đích đầu tư, ngành nghề đầu tư, lĩnh vực đầu tư và các chính sách quản lý vốn
trong DNNN.
_ Nợ của DNNN còn lớn. Tổng số nợ phảI thu là 96,775 tỷ đồng, bằng 51% tổng số vốn
và bằng 23% tổng doanh thu; tổng số nợ phảI trả là 207,789 tỷ đồng. Nếu bù trừ giữa nợ
phảI trả với nợ phảI thu thì DNNN vẫn còn nợ 111,014 tỷ đồng, bằng 58,6% tổng số
vốn nhà nước tạI DNNN. Thực tế đó đặt ra vấn đề: muốn sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu
và nâng cao hiệu quả hoạt độngcủa DNNN thì không thể không giảI quyết vấn đề nợ,
bàI toán giảI quyết nợ của DNNN cũng phảI được đặt ra
_ Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNN nói riêng
còn yếu. Trong tương lai gần, nếu hàng rào thuế quan và phi thuế quan với các nước
ASEAN được dỡ bỏ, thì hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất khó cạnh
tranh được với hàng nhập khẩu. Các mặt hàng như máy móc, thiết bị, phân bón, linh
kiện điện tử và vi tính.. chủ yếu là nhập khẩu. Một số mặt hàng trong nước đã sản xuất
được như sắt, thép, xi măng , giấy, đường, bột ngọt, ô tô, xe máy, kính xây dựng ...
nhưng kém hàng nhập khẩu cả về chất lượng và giá cả. Sở dĩ lâu nay các doanh nghiệp
sản xuất các hàng hoá này còn hoạt động được một phần rrất quan trọng là nhờ chính
sách bảo hộ của nhà nước (theo thống kê hiện nay thì mức độ bảo hộ đối với đồ uống là
50%, đường là 32,4%, gạch và gạch ốp lát là 48%, chất tẩy rửa là 39%, đồ dùng gia
đình là 60%, xe máy, xe đạp là 59%, hàng may mặc là 42%...Thực trạng đó đòi hỏi phải
sắp xếp, cơ cấu lại các doanh nghiệp và DNNN, đồng thời cũng cần có sự hỗ trợ từ phía
nhà nước để giúp DNNN nâng cao sức cạnh tranh trê thị trường trong nước và quôc tế.
_ Việc sắp xếp đổi mới và cổ phần hoá DNNN còn chậm so với mục tiêu và kế hoạch
đặt ra: còn nhiều DNNN có quy mô nhỏ, hiệu quả kinh doanh thấp, làm ăn thua lỗ kéo
dài đã làm hạn chế vai trò chủ đạo của KTNN, đồng thời cũng làm chậm tiến trình phát
triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta. Từ khi thực hiện chính sách cổ
phần hoá doanh nghiệp vào năm 1992 theo chỉ thị số 202 và chỉ thị số 84 của thủ tướng
chính phủ thì tới nay có khoảng 1400 doanh nghiệp được cổ phần hoá còn hưon 4200
DNNN chưa cổ phần hoá. Như hội nghị TƯ khoá IX đã nêu: “Việc sắp xếp, đổi mới
nhất là cổ phần hoá DNNN theo tinh thần nghị quyết TƯ 3 thực hiện chậm so với mục
tiêu đề ra”. Trong khi việc sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp chỉ đạt 81% kế hoạch đề
ra thì cổ phần hoá DNNN chỉ đạt 63%. Riêng 6 tháng đầu năm2004 chỉ đạt 20% kế
hoạch, chưa noi đến tình trạng chung là doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá mới chỉ
dừng lại ở quy mô vừa và nhỏ, thể hiện ở số vốn của các DNNN đã được cổ phần hoá
chưa nhiều nên tác động tích cực của giảipháp này đến việc nâng cao sử dụng vốn của
nhà nước chưa cao.
Những tồn tại yếu kém trên do những nguyên nhân chủ yếu sau:
_ Chủ trương, chính sách và pháp luật cơ bản thể hiện tinh thần xoá bỏ cơ chế bao cấp
đối với DNNN, nhưng trên thực tế hoạt động quản lý đã có lúc, có nơi vẫn có sự bao
cấp dưới hình thức khác nhau như trợ giá, bù lỗ, hỗ trợ xuất khẩu, ưu đãi trong quan hệ
tín dụng...Bao cấp sinh ra ỷlại, không chịu đổi mới, bao cấp cũng là nguyên nhân dẫn
đến không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, do vậy cũng không thể có nền kinh tế
thị trường thật sự, đồng thời bao cấp cũng gây ra tâm lý không muốn rời xa nhà
nước,không muốn chuyển đổi hình thức sở hữu daonh nghiệp. NHưng cũng cần phân
biệt hìh thức bảo trợ trực tiếp cho DNNN với vai trò hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy
phát triển doanh nghiệp bằng các biện pháp phù hợp với cơ chế thị trường.
_ Việc quy hoạch các DNNN còn chậm , sự khẳng định ngành, lĩnh vực then chốt nhà
nước cần đầu tư 100% cốn chưa cụ thể, dẫn đén tình trạng chờ đợi, không muốn cổ
phần hoá hoặc chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác, làm cho hoạt động của DNNN
kém hiệu quả và dậm chân tại chỗ.
_ Các quy định về cổ phần hhoá DNNN chưa thật sự phù hợp với thực tế và có xu
hướng vận động khách quan của các quan hệ kinh tế, tài chính làm ảnh hưởng dến tốc
độ cổ phần hoá, như các quy định về định giá doanh nghiệp khi chuyển đổi; phương
thức bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp; tỉ lệ cổ phần nhà nước
chi phối; người nước ngoài được mua không quá 30% cổ phần của doanh nghiệp được
cổ phần hoá. Đây là những vấn đề cần nghiên cứu bổ sung và sửa đổi lại cho phù hợp
hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hoá.
_ Hiện nay vẫn còn phần lớn DNNN có công nghệ lạc hậu, phương pháp quản lý sản
xuất, kinh doanh và trình độ lao động chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế. Do đó
ăng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, dẫn tới kết quả và khả
năng cạnh tranh trên thị trường của DNNN bị hạn chế. TRong khi đó vốn cho sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn thiếu nghiêm trọng, tình tạng chiếm dụng vốn của
nhau trong kinh doanh còn diễn ra khá phổ biến, làm cho vốn càng bị thiếu trầm trọng
hơn.
_ Vaii trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong DNNN còn chịu sự lãnh đạo vừa chồng chéo
vừa phân tán, chưa gắn nhiệm vụ chính trị của tổ chức Đảng cấp trên với tổ chức Đảng
tại doanh nghiệp.Tuyệt đại đa số lãnh đạo của doanh nghiệp lad Đảng viên nhưng quá
nhiều người “bằng mặt” nhưng không “bằng lòng”, mất đoàn kết.
_ Cơ chế giám sát tài chính quá yếu, thiếu trung thực. Một thực tế là nhiều doanh nghiệp
được đánh giá lãi ( dều có duyệt quyết toán hàng năm, thậm chỉ cả kiểm toán) nhưng
khi bàn giao giám dốc, khi tổ chức lại thì vỡ ra thua lỗ lớn, thậm chí rất lớn.
III Nhứng giải pháp tăng cườngvai trò quản lý của nhà nước và vai trò chủ đạo
của thành phần kinh tế nhà nước.
1. Những giải pháp tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
Vai trò quản lý kinh tế nhà nước là nhân tố quyết định nhất đảm bảo cho tính định
hướng XHCN của nền KTTT ở Việt Nam. Để nhà nước làm tốt vai trò quản lý của
mình, đưa nền kinh tế phát triển bền vững theo định hướng đã chọn, cần có những giải
pháp sau:
_ Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, trước hết phải xác định rõ phạm vi,
nội dung quản lý nhà nước về kinh tế; tách chính quyền ra khỏi các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Trừ một số ít công trình, dự án dịch vụ công thiết yếu, chính quyền là chủ
đầu tư trực tiếp tổ chức đấu thầu thực hiện, chính quyền các cấp sẽ không tham gia vào
các dự án sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đóng
vai trò chủ chốt trong tất cả các hoạt động ddầu tư, kinh doanh. Nhà nước trung ương
tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, xây dựng và tổ chức
thực hiện chiến lược, quy hoạch,kế hoạch phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước;
thực hiện các biện pháp điều tiết vĩ mô đối với toàn bộ đối với toàn bộ nền kinh tế.
Chính quyền các địa phương cần được phân cấp đầy đủ hơn quyền hạn và trách nhiệm
trong việc tổ chức thực thi pháp luật về kinh tế do nhà nước trung ương ban hành, xây
dựng và tổ chức thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của
địa phương , đồng thời hỗ trợ, tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của
người dân và doanh nghiệp trên địa bàn.
_ Đổi mới công tác kế hoạch cả về nội dung lẫn phương pháp. Tập trung nhiều hơn
cho cho đổi mới công tác xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế
xã hội. Chiến lược và quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở thông tin, số liệu khoa
học chuẩn xác với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan tổ chức, người dân, đặc biệt là
các viện nghiên cứu, các nhà khoa học. Sau khi xây dựng xong phải được công bố phổ
biến rộng rãi để định hướng cho xã hội, người dân tham gia thực hiện. Các kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm cảu cả nước cũng như các địa phương phaỉ
hết sức cụ thể, và chỉ nên bao gồm một số ít chỉ tiêu định hướng về tăng trưởng ổn định
kinh tế vĩ mô, xoá đói giảm nghèo, văn hoá, y tế, xã hội, môi trường, chương trình đầu
tư công cộng...
_ Hoàn thiện và sử dụng có hiệu lực và hiệu quả hệ thống công cụ điều tiết vĩ mô.
Mục tiêu điều tiết vĩ mô và mục tiêu yêu cầu tổng thể đã được xác định trong kế hoạch
nhà nước phải là căn cứ chủ yếu để chế định chính sách tài chính, tiền tệ. Chính sách tài
chính phải trởt hành công cụ quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tối ưu hoávà điều
tiết thu nhập, thực hiện xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và trình độ
phát triển giữa các tầng lớp và các vùng. Chính sách tiền tệ phải phát huy tác dụng quan
trọng trong bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và kinh tế vĩ mô.
_ Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. Phải cương quyết xoá bỏ bao cấp, giảm thiểu
tối đa cơ chế xin cho, xin cấp phếp; mở rộng chế độ đăng ký; thực hiện nguyên tắc
người dân và doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm, công chức chỉ
được làm những gì mà pháp luật quy định, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật.
_ Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, thành lập daonh nghiệp, gia nhập thị trường một cách
tối đa trên cơ sở quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, doanh nhân,
doanh nghiệp. Nhà nước chỉ phê duyệt cấp phép các dự án quan trọng liên quan đến an
ninh kinh tế, có ảnh hưởng đến tài nguyên môi trường, đến quy hoạch tổng thể và các
dự án cho Chính phủ đầu tư. Đối với các dự án còn phải phê duyệt, cấp phếp đầu tư, cần
có quy chế phân cấp hợp lý theo chính quyền các địa phương theo nguyên tắc phân
quyền gắn vơí trách nhiệm, mở rộng phân cấp gắn với tăng cường kiểm tra giám sáy cảu
cấp trên đối với việc thi hành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch chung của
cấp dưới...
_ Đổi mới cơ chế quản lý về thuế trên cơ sở hoàn thiện pháp luaatj về thuế theo
hướng đơn giản, mặt bằng về thuế rộng, tỷ lệ thuế thấp, thu và quản lý thuế nghiêm túc.
Đẩy nhanh việc áp dụng chế độ để doanh nhân, doanh nghiệp khai nộp thuế, cơ quan
thuế giám sát kiểm tra thay cho cách để cho cán bộ thuế trực tiếp tính thuế, thu thuế như
lâu nay.
_ Đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội về các sản phẩm, dịch vụ công bằng việc xác
định rõ những sản phẩm, dịch vụ nào thuộc trách nhiệm nhà nước phải cung cấp miến
phí hoặc không thể thương mại hoá, còn lại là những sản phẩm, dịch vụ công cộng được
xã hội hoá. Đối với loại sản phẩm dịch vụ công thứ nhất, nhà nước căn cứ vào tính hiệu
quả để quyết định thông qua tổ chức của mình hay các đơn vị sự nghiệp hoặc thông qua
đấu thầu để có được sản phẩm dịch vụ cung cấp cho xẫ hội. Đối với loại sản phẩm dịch
vụ công thứ hai, cần phải mở rộng để các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế thuộc mọi
thành phần kinh tế tham gia. Do vậy đồng thời với việc đổi mới hoàn thiện thể chế
daonh nghiệp, cần tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế các đơn vị sự nghiệp khoa học,
giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin...
_ Nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức nhà nước, xây sựng bộ máy
lãnh đạo, quản lý nhà nước trong sạch. Nền kinh tế nước ta có thể quá độ lên CNXH
chính là cố điều kiện tiên quyết: chính quyền thuộc về nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo cảu Đange Cộng sản Việt Nam. Chỉ có một nhà nước mà đội ngũ của nó là những
người toàn tâm , toàn ý phục vụ nhân dân mới có thể ngăn ngừa được nguy cơ đưa nền
kinh tế nước ta đi chệch hướng XHCN.Cần có những biện pháp điều tra làm rõ và trừng
phạt nghiêm khắc những hành vi tham nhũng nhằm giảm tệ nạn tham nhũng trong bộ
máy nhà nước ta.
2. Những giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của thnah phần kinh tế nhà nước,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Để tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước đảm bảo tính định
hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước_là nhân tố đóng vai trò chủ đạo của KTNN. Những giải chủ yếu
bao gồm:
_ Sớm thành lập tập đoàn đầu tư nhà nước chuyên lo quản lý, sử dụng vốn sở hứu
nhà nước tại doanh nghiệp. Tập đoàn đầu tưnhà nước do chính phủ quyết định thành
lập. Tập đoàn chịu trách nhiệm phê duyệt điều lệ định hướng chiến lược phát triển và
nhân sự của doanh nghiệp. Tập đoàn làm chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước ở
tất cả cac doanh nghiệp nhà nước. Bằng giải pháp này , Bộ quản lý ngành sẽ chỉ còn
chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành, không còn chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nước như hiện nay, khắc phục tình trạng “ vừa đá bóng vừa thổi còi”, phân biệt
quản lý nhà nước với quản lý doanh nghiệp, một vấn đề rất bức xúc lâu nay chưa giải
quyết. Một số ý kiến lo ngại cho rằng khu vực nhà nước ở nước ta hiện còn rất lớn, tất
cả các bộ quản lý chuyên ngành đều có chức năng đại diện chủ sở hữu vốn chủ sở hữu
vốn nhà nưóc ở các doanh nghiệp thuộc ngành mình quản lý mà việc quản lý còn chưa
tốt, vậy một tập đoàn đầu tư sẽ hoạt động thế nào. Thực ra, khó khănvề chuyển đổi tổ
chức, những lực cản liên quan đến lợi ích, đến thói quen của cách làm cũ là điều chúng
ta phải tính đến nhưng nhất định phải làm được. Điều quan trọng là mô hình mới nhờ
tách được những chức năng quản lý doanh nghiệp ra khỏi chức năng quản lý nhà nước,
những tiêu cực do tình trang “ vừa đá bóng vừa thổi còi” gây nên sẽ không còn nữa,
trách nhiệm quản lý được nâng lên. Mô hình mới cũng cho phép công tác quản lý được
thực iện tập trung, thống nhất và đồng bộ hơn, đỡ cồng kềnh hơn, thời gian xử ký nhan
hơn. Hiệu quả quản lý từ đó chắc chắn sẽ được nâng cao.
_ Khẩn trương tiến tới tất cả các loại hình doanh nghiệp đều thực hiện chung một
luật doanh nghiệp. Hiện nay DNNN còn được quá nhiều ưu đãi dưới nhiều hình thức
như ưu đãi về thị trường kinh doanh, về tín dụng, khoanh nợ, xoá nợ, dàn nợ tràn lan vô
thời hạn, bao cấp về sư dụng đất đai,.. Tình trạng phân biệt đối xử nêu trên làm cho môi
trường cạnh tranh không lành mạnh, làm chậm trễ thêm tiến trình thực hiện cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước.
_ Rà soát, sắp xếp lại, thu gọn bớt DNNN theo hướng vốn thuộc sử hữu nhà nước
chỉ đầu tư vào những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không đủ
khả năng về vốn, về kĩ thuật, hoặc một số mặt hàng trước mắt cần bảo hộ của nhà nước
trong thời gian nhất định. Giảm cơ cấu về số lượng doanh nghiệp tới giới hạn cần thiết.
Theo đó, tiếp tục phân loại doanh nghiệp nhà nước theo bốn nhóm đã xác định. Nhóm
1, là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt, liên quan đến quốc phòng, an
ninh, bí mật quốc gia. Nhóm 2 , là những doanh nghiẹp hoạt dộng trong những ngành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân, những ngành mà khu vực kinh tế tư nhân không có
khả năng đầu tư . Nhóm 3, là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh
tranh và sinh lợi lớn tạo nguồn thu chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Nhóm 4, là các
doanh nghiệp còn lại, cần được đẩy mạnh việc cổ phần hoá và các giải pháp đa dạng
hóa hình thức sở hữ. Cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ của chủ sỏ
hữu doanh nghiệp nhà nước, vì vậy cần giao cho cơ quan trực thuộc Chính phủ có dủ
quyền hạn để làm việc này(ngoài ra còn phải có những tiêu thức cụ thể cho việc sắp
xếp, quy hoạch lại DNNN).
_ Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN bằng việc triển khai đồng bộ những biện
pháp chủ yếu sau: Một là đổi mới quá trình cổ phần hoá, từ cổ phần hoá chủ yếu là donh
nghiệp nhỏ thua lỗ chuyển sang cổ phần hoá cả những doanh nghiệp lớn, các tổng công
ty, các doanh nghiệp làm ăn có lãi; từ cổ phần hoá DNNN trong một số lĩnh vực rất hạn
chế sang cổ phần hoá các doanh nghiệp ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá; từ hình
thức cổ phần hoá nội bộ là chính sang bán ra bên ngoài, kể cả cho các nhà đầu tư cho
nước ngoài. Hai là, tiếp tục lựa chọn một số tổng công ty DNNN lớn trong các lĩnh vực
nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để thí diểm cổ phần hoá. Tuỳ theo đặc diểm và
nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà lựa chọn hình thức cổ phần
hoá phù hợp theo nguyên tắc: dơn giản thủ tục , sau cổ phần hoá doanh nghiẹp mạnh
hơn về vốn, thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp , thêm bạn hàng chiến lược,
mở rộng thị trường vốn công nghệ đảm bảo lợi ích chi người lao động , không gây thất
thoát tài sản nhà nước. Ba là đổi mới cách xác định giá trị doanh nghiệp gắn với đổi mới
phương thức bán cổ phiếu đối vơí doanh nghiệp cổ phần hoá. Mở rộng hình thức định
giá thông qua các tổ chức thẩm định giá, kiểm toán, tư vấn tài chính đối với doanh
nghiệp vừa và lớn; đối với tổng công ty nên thuê các tổ chức định giá nước ngoài; đồng
thời gắn quá trình CPH với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
_ Chuyển đổi mô hình hoạt động của các công ty nhà nước hiện nay sang mô hình
công ty mẹ-công ty con. Hoạt động trong mô hình các tổng công ty nhà nước hiện nay
quyền tự chủ của của các doanh nghiệp thành viên vẫn chưa được tôn trọng đầy đủ.
Theo quy định hiện hành, rấy nhiều vấn đề quan trọng như kế hoạch hoạch sản xuất
kinh doanh hàng năm , phần lớn cac dự án đầu tư, tổng biên chế lao động, đơn giá tiền
lương , nhiều vấn đề về thanh lý tài sản, về giải quyết công nợ tồn đọngvv..đều phải chờ
ý kiến phê duyệt của tổng công ty mới được thực hiện. Nhiều trường hợp bỏ lỡ thời cơ
kinh doanh. Trong quy dịnh hiện hành cũng chưa có diểm nào nói rõ quyền hạn của
tổng công ty và công ty thành viên trong việc phân phối sử dụng số lợi nhuận còn lại
của tổng công ty thành viên sau khi nộp thuế. Thực hiện mô hình công ty mẹ-công ty
con, moi hoạt động của công ty con dược thực hiện theo luật doanh nghiệp, vì vậy mọi
phiền hà chậm trễ do cơ chế xin-cho, phê duyệt trước đây sẽ không còn nữa, trách
nhiệm và quyền tự chủ của doanh nghiệp được nâng cao, đồng thời về phía mình các
tổng công ty nhà nước cũng có quỳen cao hơn trong việc thực hiện quá trình tích tụ và
tập trung vốn của mình. HIện nay một số công ty đã tiến hành chuyển dổi sang mô hình
này và đã đạt được những thành công đáng kể, năng suất sản lượng tăng lên rõ rệt mặc
dù lao động dược giảm bớt.
_ Tiếp tục đổi mới căn bản cơ chế quản lý các dự án đầu tư với tư cách là đại diện
chủ sử hữu vốn tại DNNN , các cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên phê duyệt dịnh hướng
vào những dự án đầu tư có giá trị từ 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp trở lên. Tầm
quan trọng của mỗi dự án phụ thuộc vsào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Việc
phân biệt tầm quan trọng của các dự án theo kiểu phân loại A, B, C, như hiện nay là
không hợp lý.
_ Tách việc thực hiện các chính sách xã hội ra khỏi hoạt động kinh doanh. Kinh
doanh là hoạt động kiếm lời. Thực hiện chính sách xã hội thuộc trách nhiệm của nhà
nước. Giá cả của sản phẩm cần được xác định trên cơ sở giá thị trường. NHà nước yêu
cầu doanh nghiệp bán sản phẩm cho các đối tượng thuộc diện bảo đảm chính sách xã
hôị thì nhà nước phải bù chênh lệch cho doanh nghiêp hoặc có các chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp về thị trường, về thuế, về tín dụng, về đào tạo, về chuyển giao công
nghệvv..
Kết luận
Chủ trương chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghiã là một thành tựu to lớn của Đảng ta.Trong những năm vừa qua,
nền kinh tế Việt Nam liên tục phát triển đồng thời từng bước hội nhập vào tiến trình
phát triển hiện đạI của nền kinh tế toàn cầu, làm cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện
đạI hoá của Việt Nam đạt được những kết quả to lớn.
Tuy nhiên con đường đI đến đích xã hội chủ nghĩa còn nhiều gian nan, thử
thách.Trên con đường này, hai nhân tố quan trọng giúp cho nền kinh tế nước ta đI đúng
hướng chính là vai trò quản lý kinh tế của nhà nước và vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế nhà nước.Vai trò của nhà nước là bảo đảm ổn định chính trị, kinh tế, xã hội; định
hướng cho sự phát triển kinh tế, đIều tiết để kinh tế phát triển ổn định; đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển có hiệu quả; Khắc phục và hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, thực hiện công bằng xã hội. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
thể hiện ở chỗ kinh tế nhà nước là lực lượng mở đường, hỗ trợ và định hướng cho các
thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước; Kinh tế
nhà nước là lực lượng vật chất để nhà nước đIều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế; Kinh
tế nhà nước là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế và giảI quyết các vấn đề xã hội.
Mặc dù trước đây chưa có tiền lệ sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội nhưng bằng lý luận và những thực tiễn bước đầu ở Việt Nam chứng tỏ
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phảI là ảo tưởng mà là có thể thực
hiện được nếu biết kết hợp vai trò quản lý của nhà nước cùng với vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền
kinh tế đồng thời không ngừng nỗ lực tăng cường hiệu quả hoạt động của hai nhân tố
này. Hiện tạI vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ta cũng như vai trò chủ đạo của thành
phần kinh tế nhà nước tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng nói chung vẫn
còn nhiều yếu kém. Có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nhưng nguyên
nhân chính là do nền kinh tế thị trường mới được hình thành nên những tư tưởng, quan
niệm cũ của cơ chế kế hoạch hoá vẫn còn tồn tạI, ngoàI ra là do sự thụ động, thiếu tìm
tòi sáng tạo của đội ngũ quản lý. Tuy nhiên nếu chúng ta thực hiện tốt những giảI pháp
được đưa ra và cùng với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, nhất định công cuộc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam sẽ thành công.
Tài liệu tham khảo
Tạp chí Lý luận chính trị, số 3- 2004, số 8- 2004
Tạp chí kinh tế và phát triển
Tạp chí Cộng sản, số 18( tháng 9 năm 2004)
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin-Nxb Chính trị quốc gia
Tạp chí Kinh tế và dự báo số 5/2004
Tạp chí quản lý kinh tế
Mục lục
I. Lý luận chung về kinh tế thị trường( KTTT) định hướng XHCN. .......................... 1
2. Kinh tế thị trường..................................................................................................... 1
1.1. Khái niệm KTTT ............................................................................................................... 1
1.2. Cơ chế thị trường ............................................................................................................. 1
2. Kinh tế thị trường định hưỡng XHCN...................................................................... 3
2.1. Khái niệm KTTT định hướng XHCN ............................................................................ 3
2.2. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng XHCN ............ 3
3. Những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở VN ............... 5
3.1. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước............................................................................ 5
3.1.1 Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước .................................................................. 5
3.1.2. Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam ....................................................................................................10
3.1.3. Các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước XHCN ở Việt Nam ............................11
3.2. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. ...................................................13
3.2.1. KháI niệm thành phần kinh tế nhà nước .................................................................13
3.2.2. Vì sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo.....................................................15
3.2.3 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ..................................16
II. Thực trạng những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở
nước ta .......................................................................................................................... 18
1. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ......................................................... 18
1.1 Mặt mạnh trong quản lý kinh tế của nhà nước ta .......................................................18
1.2 Mặt yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước ta ...........................................................19
1.3 Nguyên nhân những mặt yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước ta ............. 20
2. Thực trạng về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ...............................21
III Nhứng giải pháp tăng cườngvai trò quản lý của nhà nước và vai trò chủ đạo
của thành phần kinh tế nhà nước................................................................................ 25
1. Những giải pháp tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ...........................25
2. Những giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của thnah phần kinh tế nhà nước,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước .......................................................................26
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam.pdf