Tài liệu Luận văn Những mảng tối của toàn cầu hóa và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập: 1
Luận văn
Những mảng tối của TCH và
giải pháp của Việt Nam trong
tiến trình hội nhập
2
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hoá (TCH) là một quá trình chung đang diễn ra với qui mô toàn cầu,
nó được coi là một tiến trình lịch sử. Đặc biệt, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
với những biến động của hệ thống kinh tế - Chính trị - Xã hội quốc tế và việc xảy
ra hàng loạt loại biến cố mang tầm lịch sử, càng ngày người ta càng cảm nhận đầy
đủ hơn, ảnh hưởng của những xu thế khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do
tầm quan trọng và tính bao trùm của nó, xu hướng TCH được coi là một vấn đề
trung tâm cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn trên toàn thế giới.
TCH trên thực tế, là xu hướng được khởi xướng từ các nước phát triển. Nhưng
cho đến nay nó đã và đang kéo các nước, kể cả các nước chậm phát triển vào quỹ
đạo của mình như một tất yếu lịch sử. Nó đang định ra những nguyên tắc mới cho
“cuộc chơi” trên bàn cờ thế giới, chung cho tất cả các nước mà không phân biệt
lớn hay nh...
70 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những mảng tối của toàn cầu hóa và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Những mảng tối của TCH và
giải pháp của Việt Nam trong
tiến trình hội nhập
2
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hoá (TCH) là một quá trình chung đang diễn ra với qui mô toàn cầu,
nó được coi là một tiến trình lịch sử. Đặc biệt, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
với những biến động của hệ thống kinh tế - Chính trị - Xã hội quốc tế và việc xảy
ra hàng loạt loại biến cố mang tầm lịch sử, càng ngày người ta càng cảm nhận đầy
đủ hơn, ảnh hưởng của những xu thế khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do
tầm quan trọng và tính bao trùm của nó, xu hướng TCH được coi là một vấn đề
trung tâm cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn trên toàn thế giới.
TCH trên thực tế, là xu hướng được khởi xướng từ các nước phát triển. Nhưng
cho đến nay nó đã và đang kéo các nước, kể cả các nước chậm phát triển vào quỹ
đạo của mình như một tất yếu lịch sử. Nó đang định ra những nguyên tắc mới cho
“cuộc chơi” trên bàn cờ thế giới, chung cho tất cả các nước mà không phân biệt
lớn hay nhỏ, phát triển hay kém phát triển. Đặc biệt với những nước chậm phát
triển thì có thể khó khăn hơn khi giải quyết các vấn đề nhập vào xu hướng TCH,
nhưng cũng không thể lảng tránh nó. Vấn đề đặt ra là chỉ có thể đối mặt với nó
như thế nào để mỗi dân tộc giảm thiểu được những tiêu cực phát sinh từ đó, thu
được hiệu quả phát triển tối đa trong khi vẫn bảo vệ được con đường phát triển đã
lựa chọn.
Đối với Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới đã gặt hái được nhiều thành công rực
rỡ. Nền kinh tế vận hành theo kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, xu hướng này cũng tác động rất mạnh có ảnh hưởng to lớn và toàn diện đến
tất cả các khía cạnh của đời sống Kinh tế - Chính trị - Xã hội. Hiện nay, càng tiến
sâu vào quá trình hội nhập Quốc tế, chúng ta càng cảm nhận rõ hơn những mặt
tích cực của tác động này, đồng thời là những tác động tiêu cực đó do chính xu
hướng này tạo ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á (1997) cho thấy rõ
điều đó. Thế kỷ XXI mở ra thời kỳ mới với những vận hội mới và thách thức mới,
nước ra đang từng bước chuyển chất lượng của tiến trình phát triển, bao gồm các
bước hội nhập quốc tế về thực chất như thực hiện các quy chế AFTA, APEC,
WTO, thiết lập quan hệ thương mại Việt- Mỹ. Việc khảo cứu xu hướng TCH càng
3
cần được coi là một trong những cơ sở quan trọng để thiết kế đường lối và hoạch
định chiến lược phát triển đất nước trên những chặng đường phía trước.
Với mong muốn hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn bản chất của TCH đặc biệt ngoài
những mặt tích cực dễ nhận thấy là những tác động tiêu cực. Vì vậy, đề tài:
“Những mảng tối của TCH và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội
nhập” được tác giả chọn nghiên cứu.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khoá luận được trình
bày trong 3 chương:
Chương 1: Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Chương 2: Những mảng tối của TCH
Chương 3: Giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
CHƯƠNG 1
TOÀN CẦU HOÁ
4
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TOÀN CẦU HOÁ (TCH).
TCH và hội nhập quốc tế trong những năm gần đây trở thành đề tài được
đông đảo các nhà chính trị, các học giả, các nhà kinh doanh và dân chúng quan
tâm đặc biệt. Vậy TCH là gì? Biểu hiện của nó ra sao? và tác động của nó như thế
nào?
1.1.1. TCH là gì ?
TCH là một xu thế, một quá trình lịch sử, nhưng trong giai đoạn hiện nay vẫn
đang tiếp diễn, đang vận động phát triển rất nhanh và phức tạp. Do thế giới quan,
nhân sinh quan chính trị - tư tưởng khác nhau hoặc do phương pháp tiếp cận, góc
độ tiếp cận vấn đề khác nhau mà hiện có nhiều cách lý giải khác nhau, nhiều định
nghĩa khác nhau về TCH. Cho đến nay, giữa các nhà nghiên cứu và hoạt động
thực tiễn của Việt Nam cũng như trên thế giới chưa có sự thống nhất về khái niệm
“TCH” (Globalization hay Mondialisation). Có thể nêu ra một số định nghĩa về
TCH như sau:
- TCH là quá trình chuyên môn hoá các yếu tố riêng của mỗi quốc gia dân tộc
thành các yếu tố chung mà mọi quốc gia đều chấp nhận. Đó là quá trình tăng dần
những mối quan hệ, sự ảnh hưởng, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa tất
cả những sản phẩm, những thành quả riêng có tính đặc thù của từng đơn vị xã hội
trên toàn cầu theo hướng ngày càng xích lại gần nhau, tìm tới nhau, tạo thành
những giá trị chung nhất, giá trị phổ quát có ý nghĩa toàn nhân loại. Toàn cầu hoá
như vậy cũng có thể gọi là xã hội hoá, cộng đồng hoá, quốc tế hoá (GS.TS.
Nguyễn Văn Huyên).
- TCH là những quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước
khác nhau đang ngày càng trở nên phục thuộc lẫn nhau do có sự năng động của
việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ cũng như có sự lưu thông vốn tư bản và công
nghệ. Đây không phải là một hiện tượng mới mà là sự tiếp tục của một tiến trình
đã được khơi mào từ lâu (Uỷ ban châu Âu).
5
- TCH là quá trình hoạt động bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, là
một thứ thiết chế và liên kết kinh tế của giới xuyên quốc gia trong quá trình tích tụ
lực lượng nhằm đạt tới những tăng trưởng vững chắc (S.Herman).
- TCH là một xu hướng chính trị, là xu hướng bành trướng quyền lực của Mỹ
ra toàn thế giới nhằm mục đích thống trị thế giới. TCH hiện nay thực chất là Mỹ
hoá các mặt đời sống xã hội loài người, từ chính trị, kinh tế đến văn hoá, hệ giá trị
( GS Jean Marie Guihenno).
- TCH là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền
kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v… trên quy mô toàn
cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, TCH hầu như được dùng chỉ các tác động của
thương mại nói chung và tự do hoá thương mại hay “Tự do thương mại” nói riêng.
Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản là quy mô toàn cầu
kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ thông tin, văn hoá.
Từ các quan điểm, quan niệm các cách tiếp cận khác nhau về vấn đề TCH có
thế rút ra một quan điểm chung: TCH là kết quả của sự phát triển cao của lực
lượng sản xuất và sự gia tăng của mối liên hệ, liên kết, sự tuỳ thuộc và chế ước
lẫn nhau giữa tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế. Có thể định nghĩa TCH là
quá trình phổ biến hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, hoạt động, mô hình.
(Kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật, công nghệ …) nhất định
(1) . Một cách khách quan nhất TCH là sự phụ thuộc qua lại không ngừng giữa các
quốc gia và các cá nhân sự phụ thuộc này có thể xảy ra trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, công nghệ, môi trường văn hoá hay xã hội… rõ ràng cần phân biệt TCH
kinh tế với khái niệm rộng hơn là TCH nói chung.
TCH bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế kéo theo các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, và cho đến nay vẫn chủ yếu là TCH kinh tế. TCH là sự gia tăng hoạt động
(1) PGS.TS.Trình Mưu - Nguyễn Hoàng Giáp, Quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại Việt Nam, Nxb
lý luận chính trị, HN- 2006. Tr63.
6
kinh tế xuyên quốc gia để vươn tới quy mô toàn cầu, là sự nhất thể hoá về thị
trường, vốn, sức lao động, dịch vụ, công nghệ và các quy mô pháp chế kinh tế
giữa các nước trên thế giới trên cơ sở hợp tác và phân công lao động quốc tế sâu
rộng.
1.1.2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của toàn cầu hoá.
1.1.2.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận quan trọng của toàn cầu hoá là lý thuyết về lợi thế so sánh do
Adam Smith nêu ra năm 1776 và sau này David Ricado (1987) đã bổ xung thêm
trong lý thuyết so sánh này có bốn điểm quan trọng:
Thứ 1: Thương mại tự do làm cho sản xuất có hiệu quả cao hơn.
Thứ 2: Thương mại tự do làm cho tiêu dùng có hiệu quả cao hơn.
Thứ 3: Thương mại tự do làm cho cạnh tranh mạnh mẽ hơn, làm tăng trưởng
kinh tế.
Thứ 4: Thương mại tự do thúc đẩy quá trình đổi mới.
Mọi quốc gia và công ty tham gia vào TCH đều chịu tác động theo 4 hướng
trên.
- Cơ sở lý luận thực tiễn đó là lý thuyết về kinh tế thị trường. Trước hết là
những quy tắc của kinh tế thị trường bao gồm : sự đối xử về kinh doanh về quyền
kinh doanh đối với công ty trong và ngoài nước, một đồng tiền quốc gia chuyển
đổi tiêu dùng, tác dụng giá cả, lãi suất, tác dụng thương mại ... Đây chính là một
nguồn lực phát triển cho mọi quốc gia .
- Cơ sở lý luận đó là lý thuyết thế, chế trong điều kiện kinh tế thị trường hội
nhập quốc tế những thể chế này có 5 hình thức : thể hiện tiền tệ, quan hệ lao
động, quan hệ cạnh tranh, phương thức hội nhập quốc tế, bản chất và hình thức
nhà nước.
Có thể còn những cơ sở lý luận khác nữa, nhưng ba lý luận trên đã và sẽ là cơ
sở quan trọng cho quá trình TCH và hội nhập kinh tế quốc tế và đại biểu cho quá
trình này đi theo hướng tiến bộ phù hợp với lợi ích của các quốc gia.
1.1.2.2. Những cơ sở thực tiễn
7
- Công nghệ toàn cầu là cơ sở quan trọng đầu tiên đặt nền tảng cho sự đẩy
mạnh mẽ quá trình TCH. Trong những thập kỷ gần đây công nghệ thông tin và
vận tải có những tiến bộ vượt bậc, đã làm giảm rất nhiều chi phí vận tải quốc tế và
liên lạc viễn thông quốc tế. Tiến bộ công nghệ này đã có tác động cực kỳ quan
trọng đến toàn bộ quan hệ kinh tế quốc tế, nó đã biến các công nghệ quốc gia
thành công nghệ toàn cầu. Nhờ đó sự hợp tác giữa các quốc gia có thể mở rộng
trên phạm vi toàn cầu.
- Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển.
- Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều và trở nên bức
xúc, ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Các vấn đề
kinh tế toàn cầu như : thương mại, điện tử, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng,
môi trường ...
1.1.3. Biểu hiện của toàn cầu hoá.
Những tiến bộ vượt bậc của công nghệ gần đây đã tạo ra cơ hội cực kỳ lớn
đối với quá trình phát triển của con người. Tuy nhiên, những thành tựu đó có
mang lại lợi ích thiết thực cho nhân loại, cho cộng đồng quốc tế hay không còn
tuỳ thuộc vào cách sử dụng và mục đích sử dụng của mỗi con người và mỗi quốc
gia. Nền kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng từ công nghệ mới, hiện tại nó
đang giữ vị trí hàng đầu trong quá trình tương tác toàn cầu. Do đó gần đây nhiều
quốc gia công nghiệp đang tập chung chú ý vào công nghệ. Công nghệ có tác
dụng đột phá trong kinh tế tri thức là công nghệ thông tin kết hợp với truyền
thông và sinh học.Các công nghệ đó đều có bước nhảy vọt căn bản trong quá trình
đổi mới thể hiện ở hai mặt. Thứ nhất, thực hiện các cách thức và công việc cũ một
cách nhanh chóng và thuận lợi. Thứ hai, tạo ra cách thức nghề nghiệp hoàn toàn
mới mà trước đây loài người chưa thể hình dung ra được. Sự kết hợp giữa công
nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra Internet. Chính hệ thống này đã loại bỏ
các yếu tố mà trước đây con người khó vượt qua như yếu tố chi phí, không gian,
thời gian và đang mở ra kỷ nguyên mạng thông tin toàn cầu lấy thị trường toàn
cầu là mục tiêu và động lực phát triển. Công nghệ thông tin đã làm thay đổi
8
phương thức sản xuất, hình thức kinh doanh, và đổi mới môi trường cạnh tranh
kinh tế. Công nghệ sinh học tạo ra các khả năng nhận biết và chuyển dịch giữa các
loại vật liệu và các loài sinh vật. Do đó, nó đã phá vỡ giới hạn tự nhiên, tạo ra
những cơ thể mới, tạo ra mối liên kết giữa các nhà sản xuất và những người nông
dân bản địa tại những quốc gia giàu tài nguyên và mối liên hệ giữa ngành nông
nghiệp với các ngành công nghiệp như hoá dược, chế biến thực phẩm …Kinh tế
tri thức phát triển nhanh trên cơ sở công nghệ mới,do đó tri thức trở thành tài sản
quý giá.
Trong giai đoạn hiện nay, với tiền đề về vật chất, thể chế, pháp lý, kinh
nghiệm…, do quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá tạo ra, đồng thời với sự tác động
của các yếu tố kinh tế, khoa học công nghệ, chính trị… đã đẩy mạnh xu thế TCH
với những biểu hiện cụ thể.
1.1.3.1. Nền sản xuất dựa trên sự phân công lao động quốc tế rộng rãi.
Ngày nay đa số các sản phẩm hàng hóa dù giản đơn hay phức tạp đều không
phải do một người sản xuất ra, mà thường do nhiều người, nhiều xí nghiệp thậm
chí nhiều quốc gia cùng hợp tác sản xuất. Ví dụ như : về mặt kỹ thuật chiếc xe
Toyota gồm khoảng 20.000 chi tiết cấu thành và do hơn 105 công ty khác nhau
cùng tham gia sản xuất, hay một máy bay Boeing gồm hàng chục vạn chi tiết và
nó là sản phẩm của trên 600 công ty được đặt ở 29 quốc gia khác nhau cùng hợp
tác sản xuất. Điều này do quy luật phân công hợp tác lao động ngày càng phát
triển, nó không chỉ diễn ra trong phạm vi từng ngành, từng quốc gia mà đã mang
tầm quốc tế, tính toàn cầu.
Do lợi thế tự nhiên về tài nguyên và trình độ kỹ thuật cũng như dân trí của mỗi
nước là khác nhau do đó chuyên môn hoá sản xuất là tất yếu đã tạo tiền đề và cơ
sở cho trao đổi thương mại quốc tế, hình thành các mạng sản xuất và phân phối
toàn cầu. Giờ đây mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia trở thành một mắt xích trong
dây chuyền giá trị hàng hóa. Quá trình này phản ánh tính hai mặt của hội nhập :
Một mặt tạo lợi thế cho các nước phát huy đầy đủ ưu thế của sản xuất như tiết
kiệm lao động, giảm chi phí đầu vào, phân bổ và hình thành cơ cấu sản xuất tối ưu
9
để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; mặt khác, tạo ra sự liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày chặt chẽ, nước nào có quy mô sở hữu vốn, kỹ
thuật và trí tuệ ở trình độ cao sẽ có ưu thế, các nước nghèo dân trí thấp, kỹ thuật
lạc hậu, sở hữu vốn nhỏ bé sẽ phải tiếp tục đương đầu với những khó khăn và sự
thách đố ngày càng gay gắt của sự cạnh tranh quốc tế.
1.1.3.2. Sự lưu chuyển nhanh chóng và khổng lồ về hàng hoá, dịch vụ, đầu tư,
tài chính - tiền tệ, công nghệ … trên phạm vi toàn cầu.
Thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng và gia tăng với tốc độ cao hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chỉ tính khoảng thời gian 50 năm trở lại đây, GDP tăng
lên khoảng 4 lần thì tăng trưởng thương mại khoảng 16 lần. Thập niên 90 vừa qua,
thương mại quốc tế tăng bình quân 6% trong khi đó tổng sản phẩm quốc nội chỉ
tăng khoảng 2%. Thương mại quốc tế phát triển nhanh chóng trở thành sợi dây liên
kết quan trọng gắn bó nền kinh tế của các nước trên thế giới, tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ thế giới tăng không ngừng: Năm 1950 là 61 tỷ USD;
năm 1970 là 315 tỷ USD; năm 1990 là 3447 tỷ USD; năm 2005 con số đó là
10.160 tỷ USD (2). Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã tạo tiền đề
hiện thực cho một cuộc cách mạng mới trong quản lý mà trước hết là một cuộc
cách mạng về các quan niệm. Từ sự xuất hiện của Internet dẫn đến sự ra đời của
thương mại điện tử và do đó quy mô thương mại điện tử đang tăng lên chóng mặt,
đã đạt tới hàng ngàn tỷ USD ở thời điểm hiện nay.
Đầu tư nước ngoài tăng lên nhanh chóng: Năm 1960 tổng FDI quốc tế là 80 tỷ
USD; Năm 1980 là 502 tỷ USD; Năm 2000 là 1410 tỷ USD; năm 2005 con số đó
là trên 900 tỷ USD (3).
Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế của FDI, quá trình quốc tế hoá
tiền tệ cũng tăng nhanh, hàng loạt các vụ sáp nhập các ngân hàng lớn diễn ra,chỉ
trong vòng hơn một thập kỷ qua ít nhấp có 25 lần sáp nhập các ngân hàng lớn từ
hạng 200 trở lên, do đó thị trường tiền tệ mở rộng nhanh chóng, mức giao dịch
ngoại hối toàn cầu thậm chí cao gấp vài chục lần mức mậu dịch toàn cầu. Công
10
nghệ thông tin phát triển đã góp phần hiện đại hoá sự giao dịch trên thị trường
ngoại hối và dung lượng ngoại hối hiện nay đã đạt tới hàng ngàn tỷ USD mỗi
ngày.
1.1.3.3. Sự phát triển của các TNCs.
Các công ty xuyên quốc gia ( TNCs) phát triển nhanh chóng cả quy mô và số
lượng thúc đẩy quá trình TCH diễn ra nhanh hơn. Cuối năm 1997 giá trị sản lượng
(2) Websites:
(3)Websites:
của TNCs chiếm 20% tổng giá trị sản lượng toàn thế giới, chiếm 60% mậu dịch
toàn cầu; 70% kỹ thuật cao của thế giới và 80% chuyển giao kỹ thuật của thế giới.
Ngày nay, với khoảng 50.000 TNCs mà chủ yếu (80%) là các nước phát triển
đã can thiệp và khống chế phần lớn FDI, kỹ thuật cao và mậu dịch. Đứng trước
sức ép cạnh tranh và làn sóng tự do hoá giữa chúng đã có sự xích lại để hình thành
lên các liên minh chiến lược kiểu mới nhằm bảo vệ và tăng cường năng lực cạnh
tranh của mình.
1.1.3.4. Hình thành hệ thống các thiết chế quốc tế đầy quyền lực.
Sự ra đời của WTO đánh dấu một bước phát triển mới của thương mại quốc tế
trước hết là một chế ước có tính pháp lệnh nghiêm ngặt ISO 9000 đã trở thành
tiêu chuẩn chung của mậu dịch quốc tế.
Cơ chế điều hoà hoạt động mậu dịch quốc tế hoá kinh tế thế giới ngày càng
hoàn thiện. Quyền lực và vai trò của các tổ chức quốc tế như: IMF, WB, WTO…
với tư cách điều hoà và giám sát các hoạt động kinh tế thế giới ngày càng được
thể hiện rõ hơn.
1.1.3.5. Đời sống văn hoá - xã hội thế giới có nhiều nét chung.
Quá trình TCH đem lại sự kết nối hàng loạt lĩnh vực khoa học, công nghệ,
truyền thông, sản xuất và lưu thông hàng hoá … Văn hoá, với tính cách là nền
tảng tinh thần của xã hội không nằm ngoài tác động của xu hướng TCH, xu hướng
mà sự liên thông ngày càng tăng giữa các xã hội và các yếu tố của nó do sự
xuyên văn hoá; sự gia tăng bùng nổ giao thông và công nghệ truyền thông góp
phần thúc đẩy giao lưu văn hoá, gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế như việc xuất
11
khẩu các văn hoá sản phẩm (phim ảnh hay sách báo …). Sự tràn lan của chủ nghĩa
đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng đến đa dạng văn hoá làm mờ
đi những nét riêng trong văn hoá quốc gia thông qua sự đồng hoá, lai tạp của văn
hoá.
Đó chính là những biểu hiện cụ thể của TCH. Người ta đã xác định rằng hiện
nay đang hình thành một thế giới nhất thể hoá trên cơ sở 5 mạng lưới liên kết bao
gồm: làng thông tin toàn cầu (global information village), chợ văn hoá toàn cầu
(global cultural bazaar), đại siêu thị toàn cầu (global shopping mall), trụ sở lao
động toàn cầu (global work place) và mạng lưới tài chính toàn cầu (global financial
network)(4)
1.1.4. Tác động của TCH đến đời sống nhân loại.
TCH có bản chất kép. Một mặt, nó là một xu thế khách quan như kết quả của
sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và các yếu tố vật chất khác. Mặt khác nó
cũng là một quá trình kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa bị một số thế lực tư bản
quốc tế chi phối. Sự đan xen giữa cái khách quan và cái chủ quan đã làm cho
TCH, về bản chất, trở thành quá trình đầy mâu thuẫn, chứa đựng mặt tích cực lẫn
mặt tiêu cực đối với từng quốc gia cũng như toàn thể nhân loại.
1.1.4.1. Trên lĩnh vực kinh tế
TCH thúc đẩy phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đưa lại tăng
trưởng cao cho nền kinh tế thế giới nói chung cũng như từng nước nói riêng, thúc
đẩy mọi nước kể cả các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhất, phải cải tổ
và bắt nhịp vào quá trình hình thành một thị trường thế giới thống nhất như một
chỉnh thể. TCH truyền bá và chuyển giao trên quy mô lớn những thành quả mới
mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản
xuất kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghệm quốc tế đến mọi quốc gia dân tộc,
đến từng gia đình, từng con người và đặc biệt, tạo tiền đề và điều kịên cho các
quốc gia đi sau thực hiện các bước phát triển rút ngắn. TCH thúc đẩy sự cải cách
sâu rộng các nền kinh tế quốc gia cũng như gia tăng tiến trình hội nhập khu vực
12
và quốc tế để các chủ thể này có thể nâng cao thế thương lượng cạnh tranh và phát
triển trong nền kinh tế thế giới.
Ý niệm về chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia mờ đi thông qua các
hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành các tổ chức như: WTO, OPEC… các tổ chức
quốc gia sẽ mất dần quyền lực, quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa
phương như WTO, WIPO, IMF… các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với
các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc
nâng cao các hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế.
Thúc đẩy thương mại quốc tế:
- Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu
(4) Một số vấn đề cần biết về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb lao động, HN- 2004. Tr12.
dịch tư do với thuế quan thấp hoặc không có.
- Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản.
- Giảm hoặc bỏ hẳn hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp địa
phương.
Thắt chặt vấn đề sở hữu trí tuệ:
- Hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia.
- Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước. Ví dụ: Bằng sáng chế do
Việt Nam cấp có thế được Mỹ thừa nhận.
TCH cũng làm cho hiện tượng “chảy máu chất xám” diễn ra nhiều và dễ dàng
hơn, kéo theo biến tướng là nạn “săn đầu người”. Hai hiện tượng này đã góp phần
làm gia tăng khoảng cách giầu nghèo các quốc gia phát triển và đang phát triển,
giữa từng khu vực riêng biệt.
1.1.4.2. Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội.
Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân và dân
tộc.
- Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và
văn minh khác nhau. TCH giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách
13
thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá
hoạt động du lịch, qua việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá.
- Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy
thương mại và văn hoá mạnh. Trên thực tế thông tin tạo ra chính kiến và vì thế
một vài tập đoàn truyền thông lớn, chủ yếu là ở phương Tây có thể tạo ra và làm
giả thông tin đưa đến dân chúng.
Việc gia tăng các luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các
công nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc, điện thoại… đồng thời làm gia tăng
trao đổi văn hoá quốc tế. Việc tiếp cận dễ dàng với các luông thông tin và văn hoá
có thể dẫn đến sự đồng hoá, lai tạp văn hóa, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của
văn hoá. Do đó, giữ gìn bản sắc văn hoá riêng của dân tộc là một trong những vấn
đề đặt ra của mỗi quốc gia trong thời đại TCH.
Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy rõ ràng khuynh hướng, hướng tới đồng nhất
hoá việc dùng “tiếng Anh toàn cầu” (“globish” viết tắt của global English).
Xu thế TCH thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động giao lưu văn hoá và trí thức quốc tế,
tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Văn
hoá chỉ thực sự trở thành động lực, mục tiêu và hệ điều tiết sự phát triển khi nó
được thường xuyên bồi bổ thông qua giao lưu rộng mở sâu sắc giữa các nền văn
hoá khác nhau. Lần đầu tiên trong lịch sử cơ hội giao lưu này được mở rộng ra
nhờ xu hướng TCH làm cho phương Đông và phương Tây, dân tộc này và dân tộc
khác xích lại gần nhau. Đồng thời xu thế TCH làm cho tri thức loài người kết tinh
khá cô đọng vào các phát minh; sáng chế khoa học, công nghệ, kỹ thuật… được
phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại.
1.1.4.3. Trên lĩnh vực chính trị.
Xu thế TCH tạo điều kiện cho tất cả các nước tham gia vào đời sống quốc tế,
bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích tập hợp lực lượng… nhằm thực hiện mục tiêu
chiến lược của mình. Các nước đang phát triển đã khẳng định vị thế ngày càng
cao của mình trong bối cảnh TCH hiện nay thông qua các diễn đàn quốc tế như
Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, nhóm G77 (gồm 77 quốc gia đang
14
phát triển, chủ trương đoàn kết trao đổi ý kiến, phối hợp hoạt động trong diễn đàn
liên hợp quốc chống lại sự áp đặt của các cường quốc tư bản phát triển).
Xu thế TCH cũng làm cho các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.
Đây là cơ hội tích cực để loại bỏ mọi biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một
chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối, thống trị của các siêu cường đối với đông đảo
các quốc gia dân tộc khác trên thế giới. Đây cũng là cơ hội cho sự hình thành một
trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm như khuôn khổ quyền lực cho cơ chế sinh
hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc. Do tác
động chủ quan hay khách quan, TCH trong giai đoạn hiện nay là một quá trình
đầy mâu thuẫn và mang tính chất hai mặt : vừa tích cực, vừa tiêu cực. Với tư cách
là một xu thế tất yếu, khách quan, là hệ quả của sự phát triển cao của lực lượng
sản xuất và các yếu tố vật chất khác, TCH là một xu thế tiến bộ, tích cực trong đời
sống nhân loại. Loài người tồn tại và phát triển trước hết dựa trên sản xuất. Vì vậy
TCH bắt nguần từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hoá sản xuất
những thành quả của sản xuất ; từ việc mở rộng quan hệ xã hội, chính trị, công
nghệ, văn hoá...
Những thành quả kinh tế - chính trị, khoa học - công nghệ, các hệ thống quản
lý xã hội, các định chế pháp lý quốc tế, thậm chí cả lối tư duy và lối sống thông
qua giao lưu ngày càng sâu rộng, đặc biệt qua điện tử viễn thông, qua Internet đã
trở thành tài sản chung, thành những khái quát chung của cộng đồng quốc tế. TCH
đã tạo cơ hội cho mọi người, mọi quốc gia, dân tộc có thể rút ngắn khoảng cách.
Thông qua giao lưu trao đổi hợp tác TCH còn làm tăng cường sự hiểu biết tình
hữu nghị, sự tôn trọng lẫn nhau trong khu vực, các nền văn hoá, văn minh các tôn
giáo khác nhau . Xem xét từ tất cả các mặt trên rõ ràng TCH là bước phát triển
tích cực của đời sống nhân loại.
TCH trong giai đoạn hiện nay không đơn giản là quá trình tiến hoá lịch sử tự
nhiên của loài ngưới cũng không phải là đơn thuần là quốc tế kinh tế - kỹ thuật mà
chủ yếu là phạm trù kinh tế - xã hội đang chứa đựng những bất công và nghịch lý
lớn. Hiện nay các nước tư bản chủ nghĩa giàu có nhất và các công ty tư bản xuyên
15
quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh
nhất (vốn kỹ thuật, công nghệ, tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế) để tác động
lên toàn thế giới. Họ cũng nắm cả những phương tiện hùng mạnh nhất trong lĩnh
vực sản xuất, tinh thần, văn hoá, văn minh cũng như các nguồn lực quan trọng về
chất xám từ đó có thể thấy rằng TCH kinh tế trong điều kiện hiện nay là một quá
trình đang diễn ra với ưu thế dẫn đầu, chi phối của chủ nghĩa tư bản, là xu hướng
bành trướng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra toàn thế giới, là quá trình TCH
giá trị của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển phương tây. Xét từ khía cạnh này
TCH là xu thế tiêu cực phản văn hoá. Vì thế TCH trong điều kiện hiện nay là một
quá trình đầy mâu thuẫn, trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc gay gắt cho một TCH bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc, vì một xã hội
quốc tế công bằng ngày càng thoát khỏi sự khống chế, áp đặt, bá quyền, lũng đoạn
của các thế lực tư bản quốc tế.
1.2. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.
Sự tham gia quá trình TCH được gọi là hội nhập. Hội nhập có nhiều nội dung
và cấp độ khác nhau như : Hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế, hội nhập văn hoá,
hội nhập kinh tế… TCH và hội nhập có thể nhiều mặt : an ninh; chính trị; kinh tế;
văn hoá… nhưng cho đến nay,TCH và hội nhập tiến triển mạnh nhất và rõ nét
nhất là TCH và hội nhập về kinh tế.
1.2.1. Sự cần thiết hội nhập quốc tế của Việt Nam.
TCH và hội nhập quốc tế là một xu thế, một quá trình, không phải ngẫu
nhiên mà nó đã và đang lôi kéo ngày càng nhiều quốc gia tham gia vào. Mỗi quốc
gia đều có lý do riêng của mình nhưng đều có nhận định rằng tất cả các quốc gia
cũng như Việt Nam đều nhận thấy những lợi ích mà quá trình này mang lại.
Thứ nhất: Hội nhập quốc tế làm gia tăng các mối quan hệ, giao lưu giữa
các quốc gia với nhau, từ đó có cơ hội mở rộng thị trường ra bên ngoài, phát triển
sản xuất.
16
Thứ hai: TCH và hội nhập giúp tiếp cận các nguồn vốn, khoa học công
nghệ mới có hiệu quả hơn, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa các nước giàu với
các nước nghèo, giúp các nước đang phát triển tiến kịp các nước phát triển.
Thứ ba: TCH giúp khai thông giao lưu các nguồn lực của các quốc gia trên
thế giới, làm cho việc phân bổ các nguồn lực có hiệu quả hơn, đẩy mạnh quá trình
phân công lao động quốc tế.
Thứ tư: Tham gia TCH, trở thành thành viên các tổ chức khu vực và thế
giới giúp nâng cao vị thế quốc tế và tạo thế đứng vững chắc hơn trong quan hệ
quốc tế, tránh bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế đối với tất cả các quốc
gia, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển.
Thứ năm: Đối với Việt Nam tham gia TCH và hội nhập quốc tế còn là cơ
hội để đẩy nhanh quá trình cải cách đất nước củng cố và hoàn thiện hệ thống luật
pháp.
TCH và hội nhập quốc tế giống như một con tàu đang chạy, nếu như một
quốc gia không nhanh chóng nhảy lên tàu thì khoảng cách giữa họ và con tàu sẽ
ngày càng xa, hay nói cách khác, nếu một quốc gia đứng ngoài quá trình toàn cầu
hoá thì họ sẽ bị tụt hậu. TCH và hội nhập quốc tế là cơ hội phát triển cho tất cả
các quốc gia. Tham gia hội nhập quốc tế, tất cả các quốc gia cũng như Việt Nam
sẽ nhận được những cơ hội và lợi ích từ quá trình này mang lại. Điều này phản
ánh sự cần thiết phải hội nhập quốc tế của Việt Nam.
1.2.2. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Xu thế TCH có nhiều tác động tích cực tạo ra cơ hội và điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Trước sự gia tăng cả về bề rộng lẫn
chiều sâu của xu thế TCH, Việt Nam không thể đứng ngoài, không tham gia quá
trình TCH (hay hội nhập quốc tế). Chính sách hội nhập quốc tế từng bước được
hình thành trong quá trình triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hoá và đa dạng hoá của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ III, Ban chấp hành trung ương (khoá VIII)(29-6-1992) về
chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại nêu rõ nhiệm vụ cố gắng khai thông
17
quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế IMF, WB, ADB... mở rộng quan
hệ với các tổ chức hợp tác khu vực trước hết ở Châu Á - Thái Bình Dương. Cũng
như với các nước đang phát triển khác, TCH tạo nhiều cơ hội để phát triển, nhưng
cũng đặt ra không ít thách thức cho Viêt Nam. Đảng ta nhận định: “TCH là xu thế
khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp
tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế”.
Đảng ta chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường”.
1.2.2.1. Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế và lần lượt trở thành thành viên
của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực .
Quá trình tham gia hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam là một quá trình
mang tính chủ động, xuất phát từ việc thừa nhận các lợi ích to lớn do hội nhập
kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế mang lại và những thách thức gay gắt của
xu hướng hội nhập trên toàn thế giới đặt ra.
Sự kiện đánh dấu quá trình chuyển đổi, chủ động hội nhập của nước ta bắt đầu
từ Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, năm 1986 quyết định thi hành chính
sách đổi mới. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 quốc gia
trên thế giới, ký các hiệp định thương mại đa phương và song phương với trên 80
quốc gia thực hiện chế độ tối huệ quốc với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các
dấu mốc đặc biệt quan trọng đáng chú ý trong tiến trình mở cửa hội nhập là: năm
1992 ký các hiệp định hợp tác kinh tế thương mại với EU; năm 1995 gia nhập
ASEAN; năm 1998 gia nhập APEC; năm 2001 ký hiệp định thương mại song
phương Việt- Mỹ; năm 2003 tham gia AFTA của ASEAN và ngày 7-11-2006, trở
thành thành viên chính thức và đầy đủ thứ 150 của WTO đánh dấu sự mở cửa hội
nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu của Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 16-
10-2007 vừa qua Việt Nam đã được Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc bầu làm thành
viên không thường trực nhiệm kỳ 2008-2009 của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp
18
Quốc. Từ năm 1992 đến nay đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền
tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức của
ASEAN, Việt Nam đã tham gia vào một loạt các chương trình hợp tác đầu tư
trong khu vực:
- Ngày 15/12/1995, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5, Việt Nam đã
ký nghị định thư về thực hiện CEPT nhằm hoàn thành AFTA. Theo nghị định thư,
Việt Nam cam kết sẽ cắt giảm thuế quan nhập khẩu hàng hoá trong nội bộ các
nước ASEAN xuống còn 0.5% trong vòng 10 năm từ ngày 1/1/1996 đến 1/1/2006,
đồng thời dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan nhằm thực hiện tự do hoá thương mại
trong khu vực.
- Ngày 15/12/1998, Việt Nam công bố danh sách hàng hóa thực hiện CEPT.
Doanh mục này được xây dựng dựa vào các nguyên tắc riêng của Việt Nam mà:
không gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất
trong nước tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật đổi mới công
nghệ cho nền sản xuất trong nước và cùng hợp tác với ASEAN để thực hiện
CEPT nhằm mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Việt Nam đã thực hiện cam kết ban đầu cho nghị định thư số 1 (ký ngày
15/12/1997 tại Kualalampua- Malaysia) và nghị định thư số 2 (ký ngày 16/2/1998
tại Hà Nội) về vấn đề tự do hoá một số ngành dịch vụ trong ASEAN.
- Tại chương trình hành động Hà Nội (tháng 12 năm 1998), Việt Nam đã cam
kết giảm thuế quan và loại bỏ các rào cản thương mại trong lĩnh vực hải quan với
các nội dung chính là : Tiếp tục loại bỏ các hạn chế trong thương mại, hài hoà hệ
thống hải quan tiêu chuẩn hoá và đánh giá sự hợp chuẩn của sản phẩm trong danh
mục quản lý vào năm 2005, thực hiện hiệp định khung ASEAN về những thoả
thuận công nhận lẫn nhau (MRAs)…
- Việt Nam đã ký hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) vào tháng
10 năm 1998. trước mắt Việt Nam đưa ra danh sách loại trừ tạm thời chưa mở cửa
thực hiện đầu tư đối với một số ngành nghề và danh mục nhạy cảm không giành
19
ưu đãi quốc gia (NT) và không mở cửa tự do đầu tư đối với các nhà đầu tư
ASEAN.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cam kết tham gia kế hoạch hành động phát triển thị
trường vốn (trong chương trình hành động Hà Nội năm 1998), các chương trình
hợp tác về công nghiệp, năng lượng, viễn thông, du lịch, giao thông vận tải…
Nhờ chính sách đổi mới, mở cửa, hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những kết
quả trước nay chưa từng có tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đã tăng từ mức 2,9 tỷ
USD năm 1986 lên 84,7 năm 2006. trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng 57 lần sau
20 năm, từ 789 triệu USD năm 1986 lên 44,9 tỷ năm 2006, bình quân tăng trưởng
20%/ năm. hàng hoá Việt Nam đã có mặt ở hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong
đó các thị trường chủ yếu là Hoa Kỳ (18%), EU (17%) và ASEAN (16,8%)(5) .
Lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng đạt những thành tựu to
lớn, vượt ra khỏi khuôn khổ của lượng vốn được các công ty nước ngoài đem đến
Việt Nam đầu tư kinh doanh. Lượng vốn FDI chiếm khoảng 20% tổng lượng vốn
đầu tư xã hội hằng năm, góp phần nâng cao tổng lượng vốn đầu tư xã hội so với
GDP lên tới 40% trong những năm gần đây, là một trong những nền kinh tế có tỷ
lệ đầu tư / GDP cao nhất thế giới. Đặc biệt là ngay sau khi Việt Nam gia nhập
WTO, xu hướng vốn FDI vào Việt Nam có dấu hiệu gia tăng rõ rệt trong năm
2007. Tổng FDI còn hiệu lực cộng dồn giai đoạn 1998- 2007 là 77.8 tỷ USD.
Nguồn vốn FDI năm 2005 là 4.2 tỷ USD, thì năm 2006 là 10.2 tỷ USD(6) . Hơn
nữa, hiện nay, bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra
nước ngoài.
Với những thành quả trên, một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp đánh dấu bước chuyển
quan trọng của kinh tế Việt Nam là cán cân thanh toán quốc tế có thặng dư khá,
(5) Bùi Tất Thắng, Kinh tế Việt Nam đến năm 2020: tầm nhìn và triển vọng - Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Số 356, tháng 1/2008. Tr4.
(6) Bùi Tất Thắng, Kinh tế Việt Nam đến năm 2020: tầm nhìn và triển vọng - Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Số 356, tháng 1/2008. Tr5.
dự trữ ngoại tệ tăng từ gần 12 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2006 lên gần 20 tuần
nhập khẩu vào cuối năm 2007, đáp ứng được nhu cầu về ngoại tệ và bình ổn thị
20
trường ngoại hối. Nợ của chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia vẫn duy trì ở
mức kiểm soát được.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, mở cửa nền kinh tế
chủ động tham gia hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng mang tính lịch sử. Từ tình trạng trì trệ và khủng hoảng của nền kinh tế, kế
hoạch hoá tập trung, Việt Nam đã chuyển mình để trở thành một trong những nền
kinh tế có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thuộc loại cao trên thế
giới (khoảng 7.5 %/năm) trong suốt hai thập niên qua. Năm 2007, GDP tăng
8.48%, cao nhất trong 10 năm trở lại gần đây. Quy mô GDP của Việt Nam năm
2006 là 60.8tỷ USD, đứng thứ 57 trong số 183 nền kinh tế. Mặc dù vậy, do điểm
xuất phát thấp và dân số đông (84 triệu người - là nước đông dân đứng thứ 13 trên
thế giới và thứ nhì ở Đông Nam Á), nên Việt Nam vẫn thuộc nhóm những nước
nghèo tính theo chỉ tiêu GDP bình quân đầu người. Theo Ngân hàng Thế giới,
nước có thu nhập thấp là nước có mức trung bình bình quân GDP đầu người thấp
hơn 765 USD (năm 2003). Nếu theo thời giá hiện nay, con số này khoảng 875
USD/ người. Năm 2007, GDP/ người tính theo giá thực tế của Việt Nam ước đạt
khoảng 835 USD(7) , tức là chưa ra khỏi tình trạng nước nghèo.
1.2.2.2.Mở rộng quan hệ thương mại song phương với nhiều nước.
Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại song phương với nhiều nước.Năm
2001, đã ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ, bao gồm
nhiều nội dung thương mại hàng hoá: Sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ và phát
triển quan hệ đầu tư. Vấn đề tạo thuận lợi cho kinh doanh tính minh bạch, công
khai và quyền khiếu kiện cũng là những nội dung trong kỳ thoả thuận trong hiệp
định phù hợp với nguyên tắc của WTO.
Đại hội Đảng VII, năm 1991 đã đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã
hội đến năm 2000, đề ra đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa
(7) Bùi Tất Thắng, Kinh tế Việt Nam đến năm 2020: tầm nhìn và triển vọng - Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Số 356, tháng 1/2008. Tr3.
phươnghoá theo chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
21
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” nhằm tham gia
tích cực vào đời sống kinh tế quốc tế. Đại hội cũng nhấn mạnh “Gắn thị trường
trong nước với thị trường thế giới, giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa”.
Tháng 6, năm 1996, Đại hội lần thứ 8 của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng
định chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu những hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị
trường quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương, đa
phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau bình đẳng và cùng có lợi.
Tháng 6, năm 1996, Việt Nam tham gia thành lập ASEM.
Tháng 11, năm 1998,Việt Nam trở thành thành viên của APEC. Đaị hội lần
thứ 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam ( tháng 4/2001 ) đã khẳng định “ phát huy
cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.
Ngày 03/02/2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết số 34-
NQ/TW về một số chủ trương, chính sách giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi
nghị quyết Đai hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, toàn dân ta hiện nay là chủ
động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam
kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký kết và chuẩn bị tốt các điều
kiện để sớm gia nhập WTO; tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh
bạch, ổn định, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực; tăng nhanh
xuất khẩu và thu hút mạnh đầu tư nước ngoài
1.2.2.3. Việt Nam trở thành quan sát viên của GATT từ năm 1994 và nộp đơn
xin gia nhập WTO năm 1995 và chính thức là thành viên thứ 150 của WTO kể
từ 7/11/2006.
22
Việt Nam trở thành quan sát viên của GATT năm 1994 và đầu năm 1995
Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO. Từ đó đến nay, Việt Nam đã
trao cho ban thư ký WTO “ Bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam” và đã
giải đáp gần 2000 câu hỏi của các nước thành viên WTO về các vấn đề có liên
quan đến chế độ, chính sách ngoại thương Việt Nam. Việt Nam phải trải qua
nhiều cuộc đàm phán song phương và đa phương với nhiều nước thành viên, khó
khăn nhất là cuộc đàm phán với Mỹ. Nhưng với sự quyết tâm cao, Việt Nam đã
vượt qua mọi trở ngại khó khăn để dành được sự tán thành của các nước thành
viên. WTO đã thành lập nhóm công tác về việc gia nhập của Việt Nam và đã tổ
chức 3 kỳ họp trao đổi làm sáng tỏ chính sách thương mại hiện hành của Việt
Nam và kết quả là, trong 11 năm 2006 vừa qua Việt Nam đã chứng tỏ cho các
nước thành viên WTO nhận thấy được Việt Nam đủ điều kiện là thành viên chính
thức thứ 150 của WTO vào ngày 7/11/2006 và bên phía Hoa kỳ cũng đã chính
thức trao PNTR ( quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn ) cho Việt Nam đánh
dấu mốc quan trọng trong quan hệ giữa 2 nước Việt- Mỹ.
23
CHƯƠNG 2
NHỮNG MẢNG TỐI CỦA TOÀN CẦU HOÁ
Thực chất mảng tối của toàn cầu hoá chính là những mặt tác động tiêu cực
của quá trình toàn cầu hoá. TCH về mặt bản chất có tính chất hai mặt. Một mặt,
nó là xu thế khách quan như kết quả của sự phát triển cao của lực lượng sản xuất
và các yếu tố vật chất khác. Mặt khác, nó cũng là một quá trình kinh tế- xã hội-
chính trị và văn hoá bị một số thế lực tư bản quốc tế chi phối. Sự đan xen giữa các
khách quan và chủ quan đã làm cho TCH, về bản chất, trở thành quá trình đầy
mâu thuẫn, chứa cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực đối với từng quốc gia, cũng như
toàn nhân loại.
Bản chất khách quan của xu thế TCH được quy định bởi 4 yếu tố chủ yếu
là: Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất trong thời đại cách mạng khoa học-
công nghệ; sự gia tăng phân công lao động quốc tế; sự phát triển sâu rộng của
kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới và sự hiện diện nóng bỏng của những
vấn đề toàn cầu. Nói cách khác, TCH là một xu thế lịch sử xuất hiện trong những
điều kiện của một thời đại cụ thể và được định trước hết bởi các nhân tố vật chất
khách quan của chính thời đại ấy.
Cách mạng khoa học- công nghệ tác động mạnh mẽ đến tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại hoá và xã hội hoá quốc tế cao độ.
Những công cụ thông tin, những phương tiện giao thông vận tải, những thiết bị
lao động nối mạng… đã rút ngắn khoảng cách đáng kể về không gian và thời gian,
làm cho mối quan hệ quốc gia có phạm vi vô cùng rộng mở. Đây là yếu tố vật
chất có tính quyết định sâu xa nhất đối với sự ra đời và phát triển của xu thế TCH.
Sự phân công lao động quốc tế, tuy đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, nhưng chỉ phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu từ một, hai thập kỷ
gần đây trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế so sánh, từng chủ thể sản xuất - kinh
doanh đã chủ động tìm kiếm, xác lập cho mình một chỗ đứng trong quan hệ sản
xuất kinh doanh toàn cầu. Các mối quan hệ kinh tế, quốc tế đa tầng, đa dạng, tồn
24
tại đan xen, chằng chéo và phụ thuộc lẫn nhau hiện nay là bức tranh phản ánh sinh
động của trình độ của phân công lao động quốc tế như yếu tố quan trọng quyết
định bản chất khách quan của xu thế TCH.
Sự phát triển mạnh mẽ và phổ biến của kinh tế thị trường từ hơn thập kỷ
nay trên toàn thế giới cũng là một yếu tố thúc đẩy TCH như một xu thế khách
quan. Không những nó chấm dứt cục diện khu biệt, co cụm của nền kinh tế thế
giới trong những thập kỷ “Chiến tranh lạnh” (1947 – 1989), mà còn làm cho sản
xuất, kinh doanh có quy mô toàn cầu và tạo ra cơ chế quản lý thống nhất: Cơ chế
thị trường. Ngày nay, nền kinh tế thế giới đã được nhất thế hoá về mặt thị trường
và cơ chế vận hành. Giá rẻ của sản phẩm là trọng pháo bắn thủng Vạn Lý Trường
Thành của các quốc gia. Ý kiến này của C.Mác và Ph.Ăngen đến nay đã và đang
được thực tiễn lịch sử khảo nghiệm sinh động. Sự hiện diện của những vấn đề
toàn cầu là yếu tố khách quan thứ tư thúc đẩy ra xu thế TCH hiện nay. Các vấn đề
toàn cầu đó là chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới, bảo vệ môi trường sinh
thái, ngăn chặn nguy cơ bùng nổ dân số; phòng chống các bệnh tật hiểm nghèo…
Đây là những vấn đề thuộc lợi ích toàn nhân loại, liên quan đến tất cả các quốc gia
dân tộc, cần có sự phối hợp trí tụê, nguồn lực và hành động của toàn thể cộng
đồng quốc tế vì nếu không được gải quyết kịp thời, thì hậu quả cuối cùng sẽ xảy
ra như nhau đối với toàn bộ loài người: sự huỷ diệt. Tuy còn nhiều bất đồng, mâu
thuẫn nhưng các nước, các lực lượng chính trị, các chủ thể quyền lực trên thế giới
đã phối hợp với nhau, có sự nỗ lực chung để cùng nhau giữ gìn trái đất như một
ngôi nhà chung. Động lực được tạo gia từ sự cộng hưởng lợi ích, sức mạnh và lực
lượng này đã và sẽ tiếp tục góp phần thúc đẩy xu thế TCH.
Bên cạnh bản chất khách quan, TCH còn có bản chất là hệ quả của các nhân
tố chủ quan. Với ưu thế về vốn, công nghệ, thông tin, thị trường,…, các tập đoàn
tư bản độc quyền, các nước tư bản phát triển, các trung tâm kinh tế, tài chính -
tiền tệ và thương mại quốc tế, chủ động chi phối và áp đặt xu thế TCH vào khuôn
khổ của quá trình tự do hoá tư bản chủ nghĩa. Các nhân tố chủ quan chủ yếu đang
tác động một cách phức tạp đến sự vận động của xu thế TCH hiện nay là: Hệ
25
thống các công ty xuyên quốc gia; các tổ chức tài chính, tiền tệ, thương mại…
quốc tế và chiến lược, chính sách của các nước lớn.
Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) được tổ chức thành một cơ cấu chặt chẽ
bao gồm trên 60.000 công ty mẹ và trên 500.000 công ty con bao quát hầu khắp thị
trường thế giới. Đây là những thực thể sản xuất - kinh doanh phi lãnh thổ quốc gia,
nối kết các tiểu không gian kinh tế thành siêu không gian nhất thể hoá trên nhiều
mặt khâu kinh tế - công nghệ. Với thế lực chiếm 30% GDP thế giới hàng năm,
65% kim ngạch mậu dịch, 70% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài, 90% công nghệ
cao và 70% hoạt động chuyển giao công nghệ, các TNC là lực lượng xung kích lợi
hại triển khai quá trình TCH tư bản chủ nghĩa(8) . Các tổ chức quốc tế hiện nay khá
đông đảo và đa dạng về quy mô (toàn cầu và khu vực ), về nội dung (kinh tế,
thương mại, và tài chính; quân sự, chính trị và an ninh; văn hoá, tôn giáo và khoa
học- kỹ thuật…). Các tổ chức quốc tế lớn nhất và quan trọng nhất hiện đang do các
cường quốc tư bản chi phối (Liên Hợp Quốc, IMF, WB, ADB, G7, WTO, EU,
NATO, NAFTA….). Chương trình nghị sự của của chức này bao gồm nhiều lĩnh
vực trọng yếu của đời sống của thế giới, đặt tất cả các thành viên trong cộng đồng
quốc tế vào sự liên đới chung, phụ thuộc lẫn nhau ngày càng phức tạp.
Chính sách , chiến lược của các nước lớn, trong đó chủ yếu là của các nước
tư bản phát triển hàng đầu (Mỹ, EU, Nhật Bản…) cũng là nhân tố quan trọng khác
góp phần thúc đẩy xu thế TCH vận động thao hướng tự do hoá tư bản hiện nay. Ý
đồ chiến lựợc và các thủ đoạn tinh vi của họ đã từng bước được thể hiện công
khai tại các diễn đàn quốc tế quan trọng, như tại Hội nghị WTO tại Xiatơn (Mỹ)
tháng 11 năm 1999; Hội nghị UNCTAD-10 tại Băng- cốc (Thái Lan) tháng 2 năm
2000; Diễn đàn Đa-vốt (Thụy Sĩ ) tháng 2 năm 2001, tại Giê-noa (Italia); tháng 7
năm 2001, tại Bác-xê-lô-na (Tây Ban Nha) tháng 3 năm 2002…
Bản chất kép và sự tác động thuận - nghịch giữa các yếu tố đan xen với các
nhân tố chủ quan nêu trên làm xuất hiện diện mạo đa dạng, phức tạp của xu
thế TCH . Vơí tính cách một tiến trình lịch sử khách quan, TCH có nhu cầu tự
thân về dân chủ, công bằng, bình đẳng. Nhưng sự tác động, chi phối, lũng đọan
26
của các thế lực tư bản chủ nghĩa, TCH bị vận động một cách méo mó, biến dạng
thành quá trình phương tây hoá, tư bản, Mỹ hoá trên toàn thế giới. Trên thực tế,
(8)Một số vấn đề cần biết về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb lao động, HN- 2004. Tr17.
TCH không chỉ là một quá trình kinh tế - kỹ thuật, chủ yếu là một quá trình kinh
tế - xã hội chứa đựng những bất công và nghịch lý lớn. Bởi vậy TCH chính là một
cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay gắt vì những mục tiêu vừa cấp bách
trước mắt vừa cơ bản lâu dài (9) Mặc dù TCH làm tăng tiến quan hệ giữa các quốc
gia về kinh tế, kỹ thuật, văn hoá và quản lý, nhưng nó cũng có thể chia cắt quá
trình sản xuất, thị trường lao động, thực thể chính trị xã hội. Do vậy, hậu quả tiền
tàng của TCH có tính hai mặt tích cực và tiêu cực. Kết quả tiềm tàng tích cực của
TCH biểu hiện như: nâng cao năng xuất lao động lên nhiều lần; giảm chi phí, hạ
giá thành; triệt để lợi dụng được tài nguyên thông tin; giảm sự chia cắt địa lý liên
ngành; nâng cao tố chất con người; thúc đẩy loài người tiến bộ …. Bên cạnh đó là
những hậu quả tiêu cực tiềm tàng như: làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng (sự
bất bình đẳng nói ở đây chủ yếu là sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển và giữa các tầng lớp, các nhóm người trong các
nước). Đây là tác động tiêu cực nhất của TCH ; tác động của khủng hoảng kinh tế
tiền tệ đối với nền kinh tế các nước ; Đe dọa môi trường; Đe dọa quan niệm giá
trị văn hoá trong nước và khu vực; vấn đề tội phạm quốc tế; truyền nhiễm bệnh
tật…Điều đáng chú ý là TCH nói ở đây không chỉ là TCH theo ý nghĩa kinh tế và
tiền tệ, mà còn là TCH theo ý nghĩa xuyên quốc gia về kỹ thuật, văn hoá và quản
lý. Để quản lý thị trường toàn cầu và đối phó với những ảnh hưởng tiêu cực mà
TCH gay ra đối với con người cần phải áp dụng những biện pháp cần thiết.
Nhưng, tới nay, công việc mở rộng hệ thống quản lý toàn cầu hầu như tập trung
toàn bộ ở mặt kinh tế, bỏ qua với mức độ rất lớn sự quan tâm về mặt nhân văn. Do
đó, khi đặt ra hệ thống quản lý toàn cầu, cần phải đặt gia sự quan tâm về mặt nhân
văn trung tâm của công tác này. Mọi quốc gia phải nắm lấy cơ hội do toàn cầu
hoá tạo ra, tìm cách tránh rủi ro và phải trả giá về mặt nhân văn.
27
Hiện nay đang có một luồng dư luận ái ngại đối với tiến trình TCH . Đó là
dư luận cho rằng tiến trình nhất thể hoá kinh tế càng được đẩy mạnh thì vấn đề lợi
ích kinh tế dân tộc càng thành vấn đề. Trong quá trình TCH kinh tế các nước đang
phát triển thu hút đầu tư nước ngoài, nhập kỹ thuật tiên tiến, đổi mới kết cấu
(9)Tạp chí thông tin- Những vấn đề lý luận, số 6 năm 2000. Tr7-8.
ngành, nhờ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước mình phát triển. Còn các nước phát
triển thì mở mang thị trường mới tại các nước đang phát triển, sử dụng nguồn
nhân lực giá rẻ và nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú để hạ chi phí sản xuất,
làm dịu mâu thuẫn đang đặt ra trước mắt họ là sản xuất thừa tương đối nhưng nhu
cầu trong nước đã bão hòa tương đối. Giữa các nước phát triển và các nước đang
phát triển tuy có bổ trợ cho nhau và cùng có lợi, nhưng cũng có xung đột gay gắt
về lợi ích kinh tế. Hiện tượng được lợi không ngang bằng nhau trong quá trình
TCH kinh tế giữa nước mạnh và nước yếu diễn ra rất nghiêm trọng.
TCH kinh tế quá trình hội nhập trong đa dạng. TCH kinh tế không có nghĩa
là nền kinh tế toàn cầu sẽ trở thành một hệ thống ngang bằng nhau, mà là một hệ
thống trong đó các nước tự chủ phát triển theo quy tắc nhất thể hoá kinh tế toàn
cầu. TCH có nghĩa là sự nương tựa, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của
các nước trên thế giới tăng lên, nhưng nó có hai mặt, nó không đặt ngang hàng các
nước phát triển. Khi các nước phát triển dựa vào lợi thế của họ về vốn, kỹ thuật,
quản lý và thực lực kinh tế giàu mạnh để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thế
giới thì đồng thời họ cũng giữ vai trò chi phối trong tiến trình TCH. Về cơ bản các
“luật chơi” trong quan hệ kinh tế thế giới đều do các nước phát triển đặt ra, hoặc
chủ yếu thể hiện ý chí của các nước phát triển. Do vậy, đối với các nước phát
triển,TCH cũng là phương tiện quan trọng nhất để chi phối kinh tế toàn cầu.
Nhưng đối với các nước đang phát triển, do ở vào vị trí yếu thế trong cạnh tranh
quốc tế nên không thể giao nộp ngày càng nhiều “cống vật” cho các nước phát
triển. Từ những năm 80 trở đi, điều kiện thương mại của các nước đang phát triển
xấu đi rất nhiều, tới sau những năm 90, tình trạng này vẫn không tốt hơn, tính chất
không công bằng, không bình đẳng này thể hiện chủ yếu ở những mặt sau :
28
- Tiền vốn chảy theo hướng không ngay thẳng, không công bằng. Hướng chảy
của tiền vốn chịu tác động của đòn bẩy lãi suất và hối xuất bị ràng buộc bởi đẳng
cấp tín dụng. Do các nước phát triển có thực lực kinh tế mạnh, họ thao túng đòn
bảy lãi suất và hối suất; do các tổ chức tín dụng có quyền uy của các nước phát
triển cho việc định cấp tín dụng dựa vào “thị hiếu” của họ để tuỳ tiện định cấp các
tổ chức tài chính tiền tệ của các nước đang phát triển, khiến các nước đang phát
triển ở vào thế bất lợi ngay trong việc gọi vốn quốc tế, tiền vốn chảy theo hướng
không ngay thẳng không công bằng (10)Chuyển nhượng kỹ thuật không ngay
thẳng, không công bằng. Một số nước phát triển chuyển nhượng cho những nước
đang phát triển các thiết bị kỹ thuật lỗi thời, lạc hậu, khiến họ mãi ở vào thế lạc
hậu.
- Buôn bán không ngay thẳng không công bằng ngoài về giá cả, các nước
phát triển còn đòi các nước đang phát triển tiêu thụ “sản phẩm dư thừa” của họ,
còn các nước đang phát tiển thì cung cấp cho họ “sản phẩm sơ chế” và hàng tiêu
dùng hàng ngày. Điều đó cho thấy, chủ yếu là các nước đang phát triển cung cấp
cho các nước phát triển nguyên liệu và dịch vụ đời sống, nhưng không có được kỹ
thuật tiên tiến của các nước đang phát triển.
- Không công bằng về bảo vệ môi trường. Để bảo vệ môi trường của mình, các
nước phát triển có nguồn tài nguyên năng lượng phong phú nhưng không khai
thác mà nhập từ nước khác, nhằm bảo vệ môi trường của họ, không bị phá hoại
không bị ô nhiễm. Có thể nói gán đổ nguy cơ về môi trường cho nước khác.
Nguyên nhân chủ yếu của sự không bình đẳng là do sự lũng đoạn của các công ty
xuyên quốc gia và không có quy chuẩn chung để làm theo. Thực tế thì TCH kinh
tế có nghĩa là TCH sự lũng đoạn của các công ty xuyên quốc gia (11). Những mâu
thuẫn những vấn đề nảy sinh trong tiến trình TCH không được giải quyết theo một
tiêu chuẩn đạo đức thống nhất, không có toà án phán xét một cách công bằng.
Trong xu thế TCH, các nước phát triển được lợi hơn rất nhiều so với các nước
đang phát triển. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề TCH, đặc biệt là vấn đề ảnh hưởng
của TCH đối với các nước đang phát triển luôn luôn là giới hạn trọng điểm nghiên
29
cứu của giới học thuật, của các nhà hoạt động chính trị và được tranh luận rất sôi
nôi. Tiêu chuẩn được chú ý của vấn đề này là: TCH có làm cho kinh tế tăng
trưởng nhanh không? Vấn đề này càng đặc biệt quan trọng đối với các nước đang
phát triển, chiếm 4/5 dân số thế giới; TCH nâng cao hay phá hoại tính ổn định của
kinh tế vĩ mô? Sự đổ vỡ kinh tế bất ngờ không lường trước được mà các nước mới
áp dụng mô hình kinh tế thị trường đã trải qua (như khủng hoảng kinh tế tiền tệ ở
(10) Bạch Thụ Cường. Bàn về cạnh tranh toàn cầu_ NXB Thông Tấn HN_ 2002, tr49.
(11) Bạch Thụ Cường – như đã dẫn tr 49.
Mêhicô năm 1994 và ở Châu Á năm 1997) phải chăng là khiếm khuyết thuộc
nguyên nhân sâu xa của tiến trình TCH? Trong tiến trình TCH có kìm chế được,
thậm chí có tránh đựơc khiếm khuyết ấy không? ; TCH có ngày càng làm tăng
nhanh sự bất bình đẳng về thu nhập hay không? Nếu có thì phải chăng vấn đề này
chỉ xảy ra đối với những công nhân kỹ năng thấp kém ở các nước phát triển hay
không? hoặc phải chăng sự bất bình đẳng này do lực lượng thị trường ngày càng
tăng cường trên thế giới gây ra? Tổ chức chính phủ các cấp có thể căn cứ vào thị
trường toàn cầu mới xuất hiện để điều chỉnh quyền hạn và chức trách của họ hay
không? Tất nhiên, những vấn đề vừa có tính chất thách thức, vừa sẽ gây ra tranh
luận về học thuật và trong thực tiễn. Đi sâu nghiên cứu những vấn đề này sẽ giúp
mọi người nhận thức và lý giải sâu sắc hơn về vấn đề TCH.
Tình hình thế giới những năm gần đây cho thấy rõ ràng là, lực lượng hoà
bình trên thế giới đang tiếp tục phát triển, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế chung của thời đại. Song những nhân tố gây mất ổn định và xung đột chưa bị
loại trừ, chủ nghĩa bá quyền, chính trị cường quyền, những vụ xâm phạm chủ
quyền của nước khác, can thiệp vào nội bộ của nứơc khác,... vẫn đang được đe
doạ thậm chí nguy hại tới nền an ninh của nhân loại. Nói một cách sơ lược, biểu
hiện của chủ nghĩa bá quyền về mặt kinh tế, tài chính tiền tệ gồm có: cho phép
mình thực hiện chủ nghĩa bảo hộ, không cho người khác thực hiện chủ nghĩa bảo
hộ; các thoả thuận và quy tắc chung chỉ có hiệu lực ràng buộc người khác không
ràng buộc đựơc mình; đặt “giá” cao, đựng vật cản không cho vào các tổ chức
30
quốc tế, đòi người khác phải khuất phục mình; đơn phương thực hiện trừng phạt
kinh tế; gắn những vấn đề không liên quan đến kinh tế, mậu dịch (như vấn đề
“nhân quyền”) để gây sức ép chíng trị; khống chế tổ chức tiền tệ quốc tế để đặt ra
những pháp quy quốc tế có lợi cho mình, sửa đổi luật chơi không có lợi cho mình;
cậy có lợi thế tư bản, thông qua người đại diện để ép nước nhận viện trợ cải cách,
mở cửa theo ý đồ của mình, dung túng một số tổ chức tiền tệ đầu cơ chuộc lợi đổ
tháo khủng hoảng tài chính tiền tệ để tước đoạt của cải của nước khác. Rõ ràng là
chủ nghĩa bá quyền, nền chính trị cường quyền không tạo môi trường hòa bình an
ninh thế giới lâu dài, chắc chắn. Chúng có thể đắc ý một thời nhưng về căn bản,
do không thuận theo trào lưu lịch sử đa cực hoá, và TCH, không phù hợp với lợi
ích chung của nhân dân thế giới, không đại biểu cho hướng phát triển của nền văn
minh nhân loại. Ảnh hưởng của những xáo động kinh tế toàn cầu và tự do lưu
động xuyên quốc gia của tư bản đối với nước đang phát triển mạnh nhiều hơn so
với nuớc phát triển. Do vậy đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, việc tăng
cường quản lý để tránh rủi ro trong thời đại TCH là một nhiêm vụ hết sức quan
trọng.
Đặc trưng của tính chất nương tựa lẫn nhau về kinh tế là sự lưu động vượt
biên giới quốc gia của hàng hoá, dịch vụ, tư bản ngày càng tăng lên. Đặc trưng
nảy sinh trên cơ sở khác nhau về nguồn tài nguyên (như tư bản, lao động, và tài
nguyên thiên nhiên) giữa các nước và do các nước đang ở vào giai đoạn khác
nhau của tiến trình công nghiệp hoá đất nước... Những nhân tố đó đã khiến cho sự
chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế giữa các nền kinh tế dân tộc diễn
ra sâu rộng hơn, tác động tới tình hình và kết cấu thương mại, tài chính tiền tệ
quốc tế. Song, mặc dù sự lưu động hàng hoá, dịch vụ, tư bản vượt ra biên giới
quốc gia ngày càng tăng lên, nhưng những quyết sách quốc gia trong điều kiện
kinh tế các nước nương tựa lẫn nhau ấy về cơ bản là tách rời vũ đài quốc tế. Nói
cách khác, do phân công chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng làm cho sự tác động
lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc tăng lên, nên sự nương tựa lẫn nhau giữa các
nền kinh tế ấy tăng lên. Nhưng chính phủ các nứoc vẫn là trung tâm quyền lực và
31
đưa ra quyết sách chính trị, kinh tế. Những sự kiện kinh tế xảy ra ở nước này
không có ảnh hưởng lập tức, trực tiếp đối với nền kinh tế nước khác, nhưng những
ảnh hưởng ấy sẽ xâm nhập qua các kẽ hở chính sách (a set of policy boundaries)
tác động vào nền kinh tế nước khác. Sự nương tựa lẫn nhau có hai ảnh hưởng tới
chủ quyền:
Thứ nhất, thách thức đối với chủ quyền trong thực tế (defacto) hoặc khi thực
thi (operational). Nói cách khác, không phải là thách thức với chủ quyền theo khái
niệm pháp lý. Nó động chạm tới cốt lõi của phái chính trong quan hệ quốc tế: chủ
nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do.
Thứ hai, thách thức đối với chủ quyền đối nội. Theo lý luận về quan hệ quốc
tế, chủ quyền gồm có chủ quyền đối nội và chủ quyền đối ngoại, bất cứ sự đe doạ
nào đối với chủ quyền đối ngoại đều có ảnh hưởng tới chủ quyền đối nội và ngược
lại. Nếu nhất thể hoá kinh tế thế giới tiếp tục diễn ra một cách sâu sắc thì hợp tác
là con đường duy nhất bảo vệ chủ quyền đối nội. Cũng như các nước có sứ mệnh
cạnh tranh theo thể chế quốc tế trong điều kiện các nền kinh tế nương tựa vào
nhau trong điều kiện TCH, nhu cầu hợp tác cũng sẽ thúc đẩy các nước hành động.
Hiện thực về TCH gắn bó chặt chẽ với lợi ích giữa các quốc gia không thể làm
thay đổi tính chất phi pháp của việc can thiệp vào chủ quyền, vào công việc nội bộ
của nước khác. Đứng trước thực tế so sánh lực lượng trên thế giới mất cân bằng
nghiêm trọng, cần phải giữ vững nguyên tắc chủ quyền. Nhất là đối với các nước
đang phát triển và những nước vừa và nhỏ, chủ quyền và độc lập tồn tại cùng với
tiền đề là phát triển. Tranh chấp giữa các nước chỉ có thể giải quyết thông qua đối
thoại, đàm phán trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau. Đó phải là một nguyên
tắc quan trọng của trật tự thế giới mới.
Nền hoà bình thế giới cũng phụ thuộc vào trật tự kinh tế quốc tế mới. Hiện
nay, nền kinh tế thế giới vẫn đang dao động, chưa ổn định, hiện tượng không công
bằng, không hợp lý trong quan hệ kinh tế quốc tế vẫn chưa được xoá bỏ, chủ
nghĩa bảo hộ mậu dịch ở các nước phát triển chỉ tăng không giảm, mức viện trợ và
chuyển nhượng kỹ thuật cho các nước đang phát triển rất ngặt nghèo, phương án
32
cải cách tiền tệ quốc tế chưa phản ánh đầy đủ lợi ích của các nước đang phát triển,
khoảng cách Nam - Bắc vẫn tiếp tục rộng ra.
Trong xu thế TCH, về cơ bản các nước đang phát triển có đáp án thống nhất
với nhau đối với vấn đề làm thế nào để đối phó với thách thức toàn cầu và xây
dựng trật tự kinh tế toàn cầu công bằng, hợp lý tức là hợp tác kinh tế khu vực, dựa
vào hợp tác kinh tế khu vực để ứng phó với thách thức của TCH kinh tế, dựa vào
hợp tác kinh tế khu vực để thực hiện TCH một cách công bằng hợp lý, có lợi cho
sự phát triển lâu dài của nền kinh tế toàn cầu.
Ngoài những mặt tích cực hiển nhiên dễ nhận thấy thì quá trình TCH, tự
bản than nó luôn chứa đựng những “mảng tối” mà chúng ta không thể không nhận
biết hay cố tình lảng tránh nó. Xu thế TCH có thể gây ra những tác động tiêu cực
sau đây đối với các quốc gia dân tộc, nhất là các nước đang phát triển.
2.1. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ.
2.1.1. Cạnh tranh bất bình đẳng.
TCH không đem lại cho các nước vận hội như nhau, không đem lại thách
thức rủi ro ngang nhau. TCH và hội nhập quốc tế khi sự bình đẳng và bất công
vốn đã tồn tại ngay ở vạch xuất phát, khi “sân chơi” không cùng mặt bằng, khi
“luật chơi” do kẻ mạnh định trước, khi đấu thủ do lịch sử để lại không ngang sức
ngang tài, trong điều kiện đó mà nói đến “các bên cùng thắng”, “tất cả đều thắng”,
nếu không là lừa bịp thì cũng là ảo tưởng ngây thơ. Sự bất bình đẳng và bất công
lớn nhất là giữa một nhóm nhỏ các nước tư bản phát triển với đông đảo các nước
đang phát triển, giữa trung tâm với ngoại vi, giữa bắc và nam. Các nước phát
triển, đặc biệt là các nước lớn phương tây, với Mỹ đứng đầu là lực lượng chủ đạo,
động cơ thúc đẩy và là người thu lợi chủ yếu từ TCH. Các nước đang phát triển
thì đứng trước sự lựa chọn đầy khó khăn, có cả thách thức lẫn cơ may, nhưng nói
chung thách thức lớn hơn, nhiều nước không thể nói gì về cơ may, có nước bị
cuốn hút không cưỡng được dưới bánh xe TCH, thậm chí có nước bị gạt ra rìa lịch
sử. Tất nhiên, trừ khi thế và lực quá yếu, mà số này chiếm đa phần các nước trong
thế giới đang phát triển, có một số ít nước không thể gọi là lớn, tương đối lớn,
33
nhưng cũng không quá nhỏ, nhờ có những điều kiện nhất định về khách quan và
chủ quan, có sách lược đủ tỉnh táo, sáng suốt và khôn ngoan, không chịu khuất
phục bất cứ áp lực, bất cứ đe doạ, cám dỗ nào ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia
dân tộc và sự lựa chọn con đường đi của mình.
Đông đảo các nước trên thế giới phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh
tế, thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư… chủ yếu do các nước phương Tây áp
đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của
các nước tư bản phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp
vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, Mỹ và các
nước khác trong nhóm G7 đang đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế
giới khi tham gia IMF, WB, WTO… Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế,
đáng lẽ phải là cái đích vươn tới, thì đã bị các cường quốc phương tây xác định
như xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các quốc gia đang phát triển
trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư
bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự
điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý cao độ.
Hệ quả của những tác động tiêu cực nêu trên đang hiện diện một cách nhức
nhối trước toàn thể nhân loại. Chênh lệch giàu - nghèo và khoảng cách về trình độ
phát triển đạt tới con số vực thẳm và diễn ra ở mọi cấp độ. Giữa các quốc gia,
trong từng quốc gia, cũng như trong từng cộng đồng xã hội. Các nước công
nghiệp phát triển, tuy chỉ chiếm 20% dân số thế giới, nhưng lại chiếm 86% GDP,
hơn 80% kim ngạch xuất khẩu và 70% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
hàng năm (12) . khoảng cách Bắc - Nam ngày càng nới rộng một cách đáng lo ngại
: Thu nhập bình quân đầu người của nước cao nhất so với nước thấp nhất năm
1970 là 11 lần, năm 1980 là 335 lần và năm 1993 là 397 lần(13). Theo báo cáo của
UNDP năm 1999, toàn thế giới có 85 quốc gia có mức Theo báo cáo của UNDP
năm 1999, toàn thế giới có 85 quốc gia có mức sống thấp hơn cách đây 10 năm
(tức là từ 1989 đến 1999). Số lượng các nước kém phát triển nhất (LDC) tăng từ
25 nước năm 1971 lên 48 nước năm 1999 và 49 nước năm 2000. Hiện nay những
34
nước này chiếm 13% dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 1%GDP, 0,6% kim ngạch
nhập khẩu và 0,4% kim ngạch xuất khẩu. Đã nhiều thập kỷ nay chính các học giả
phương tây đã cảnh báo rằng cái thế giới đầy bất công và nghịch lý này là “một
thế giới không thể chấp nhận được” (René Dumond), sẽ đẩy tới một “cuộc khủng
hoảng chủ nghĩa tư bản toàn cầu” ( G.Sorros) và đặt ra nhu cầu bức bách về một
“xã hội hậu tư bản” (Peter Drucker).
2.1.2. Tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng.
Toàn cầu hoá tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn khó lường về kinh tế mang
tính chất toàn cầu, đặc biệt trên một số lĩnh vực nhạy cảm như : tài chính - tiền tệ,
khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á (1997) là một ví dụ. Việc tự do hoá các thị
(12) Một số vấn đề cần biết về TCH …. NXBLĐ - HN, tr.23
(13) Nguyễn Cơ Thạch: TG trong 50 năm qua (1945 - 1995) và TG trong 25 năm (1996 - 2020) NXB
Chính trị Quốc Gia, HN 1998, tr.104.
trường tài chính và vốn đã gây cho các nước đang phát triển nhiều bất trắc, biến
các nước này thành những con mồi cho đồng tiền nóng ồ ạt tuồn vào đất nước,
một triều cường kích hoạt làm bùng phát đầu cơ bất động sản; để rồi cũng đột
ngột như thế, người đầu tư rút vội tiền ra để lại sau lưng một nền kinh tế bị tàn
phá dữ dội. Thoạt đầu IMF nói rằng các nước đó đáng bị trừng phạt bởi đã theo
đuổi những chính sách kém cỏi. Nhưng rồi cuộc khủng hoảng lan rộng, hết nước
này đến nước khác, kể cả những nước được IMF xếp trên thang điểm cao (14).
2.1.3. Sản xuất kinh doanh bên trong mỗi nước luôn chịu sức ép
nặng nề của các dòng hàng hoá - dịch vụ, công nghệ nhập khẩu và
những chấn động khu vực và toàn cầu.
Bởi lẽ, toàn cầu hoá vào hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các nước phải phá
vỡ các hàng rào bảo hộ quốc gia, dỡ bỏ các biện pháp thuế quan và phi thuế quan
cũng như các rào cản khác về đầu tư, tài chính, kỹ thuật, thể chế…Trong đó nguy
cơ lớn nhất là những chấn động về tài chính- tiền tệ, một lĩnh vực hiện đã kết nối
thành mạng hết sức tinh vi và phức tạp, thường sẽ ngay lập tức có tác động mạnh
mẽ đến nền kinh tế của mọi nước.
35
Những chấn động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á là một
ví dụ, nó không loại trừ tác động đến bất kỳ nước nào kể cả những nước ở xa và ít
quan hệ kinh tế với các nền kinh tế Châu Á. Sự rung chuyển của bất kỳ thị trường
chứng khoán nào từ Hồng Kông,Tokyo, New York… đều tạo ra hiệu ứng tác
động đến nền kinh tế của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở đây, nếu hiểu sức ép
và các chấn động quốc tế là tiền đề để các nền kinh tế phải cải cách, thích ứng và
giảm thiểu rủi ro thì các tác động này cũng là tích cực song xét theo hệ quả của nó
và sự chưa sẵn sàng đầy đủ mọi điều kiện cho sự tham gia TCH kinh tế, các nước
đang phát triển, nhất là các nước đi sau, cần cho đây là một thách thức lớn mà họ
phải đối mặt. Có hai khía cạnh được các nước đang phát triển đặc biệt chú ý:
Thứ nhất, Các cú sốc từ bên ngoài luôn có hiệu ứng “lan truyền” một khi
các nước, khu vực đã tuỳ thuộc chặt chẽ với nhau. Những thay đổi về tỷ giá hối
đoái với các đồng tiền mạnh, sự suy thoái kinh tế hoặc lạm phát ở các nền kinh tế
(14) Những mảng tối của TCH - NXB chính trị Quốc gia, HN 2003, Tr.43.
mới như Mỹ, Nhật, EU… đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mỗi nước.
Thứ hai, Khó khăn trong kiểm soát các dòng vốn ngắn hạn - một yếu tố liên
quan đến khía cạnh tăng trưởng bền vững bởi vì do đặc trưng của nó, đây là dòng
vốn mang tính bền vững không cao và thường được ưu tiên đầu tư vào các công
cụ tài chính có thể thanh toán dễ dàng. Lợi ích của nhà đầu tư vốn ngắn hạn cũng
đồng thời chứa đựng mối nguy hiểm cho nước tiếp nhận đầu tư một khi nó có thể
bị rút đi bất cứ thời gian nào. Chính tính “ bất đối xứng” về thông tin giữa nhà đầu
tư và nơi tiếp nhận đầu tư được coi là nguyên nhân đẫn tới đổ vỡ diễn ra trong các
nền kinh tế Mỹ Latinh ở thập kỷ 90. Sự không chắc chắn về phía các nước nhận
đầu tư gắn liền với tính “bất cân đối” thông tin cũng đã dẫn tới khủng hoảng tài
chính ở các nước Châu Á trong những năm 90. Mặc dù những nền tảng phát triển
tương đối vững chắc (tỷ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ lạm phát thấp, tỷ lệ tiết kiệm cá
nhân cao, dư thừa ngân sách quốc gia đáng kể…), cuộc khủng hoảng tài chính đã
diễn ra ở Châu Á và rung chuyển tới toàn bộ hệ thống tài chính toàn cầu. Từ sự
lầm tưởng xu hướng tỷ giá gia tăng, kỳ vọng đầu tư được kích thích đến sự rút
vốn ồ ạt của các nhà đầu tư xuất phát từ nỗi hoang mang lo sợ về tài chính đã đẩy
36
nền kinh tế Đông và Đông Nam Á và trạng thái thua lỗ, giảm sụt phá sản hàng
loạt trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ và ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ Châu Á đã dẫn tới tổn thất sản xuất của các nền kinh tế và khu vực từ 4-
8% giá trị sản phẩm quốc nội .
2.1.4. TCH kinh tế sẽ làm nóng lên bầu không khí cạnh tranh quốc
tế.
Hợp tác được coi là xu thế chính nhưng điều đó không có nghĩa là loại trừ
cạnh tranh. Trái lại, trong giới hạn của không gian kinh tế toàn cầu, sự nhận diện
của nhiều đối thủ cạnh tranh sẽ làm cho sự cạnh tranh quyết liệt hơn. Tất nhiên,
điều đó cũng có nghĩa là kéo theo cuộc chiến đào thải lẫn nhau giữa các quốc gia.
Trong sự cạnh tranh quốc tế đã đạt tới đỉnh điểm mức độ gay gắt, các ngành nghề
và doanh nghiệp thiếu khả năng cạnh tranh ở bất kỳ quốc gia nào cuối cùng phải
chịu chung số phận - bị đào thải. Đối với kẻ thất bại thì TCH có nghĩa là sự tổn
thương và đau đớn. Do đó, họ quan niệm sức ép cạnh tranh mạnh, lớn là tác động
tiêu cực của TCH kinh tế. Vì vậy, một số nước, nhất là các nước kém phát triển đã
lên tiếng phản đối gay gắt TCH kinh tế. Tuy nhiên, đó là những phản ứng nhất
thời. Nếu xét một cách toàn diện thì những ngành nghề và doanh nghiệp yếu kém,
lạc hậu là hiện tượng tất yếu, nó phản ánh khánh quan toàn bộ quá trình phát triển
nền kinh tế thế giới là việc phân bổ hợp lý nhất các nguồn lực. Do đó, sức ép cạnh
tranh cũng cần được hiểu là có ý nghĩa tích cực nếu mỗi nước thực sự muốn nâng
cao thế thương lượng cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong điều kiện TCH kinh
tế.
2.1.5. Bất bình đẳng trong việc tiếp cận công nghệ mới, và chuyển
giao công nghệ.
Quyền lực và tầm quan trọng của công nghệ thông tin và truyền thông là rất
rõ ràng. Cách mạng thông tin chỉ mới bắt đầu hiện diện trên quy mô toàn cầu và
hệ thống của nó mau chóng được trải rộng. Tuy nhiên, thực chất chỉ đến với một
số quốc gia giàu có mà thôi, sự chênh lệch về tốc độ phát triển viễn thông là quá
lớn ở một số khu vực một số quốc gia.
37
Chuyển giao công nghệ hiện tại được hiểu thông qua một số hình thức
chính như viện trợ, đầu tư trực tiếp và mua bán công nghệ, bản quyền phát minh
sáng chế. Nhờ tiếp thu công nghệ và có năng lực làm chủ công nghệ hiện đại mà
các quốc gia Đông Á đã đạt được những thành tựu kỳ diệu. Thành công của khu
vực này là trường hợp hiếm thấy vì trong quá trình chuyển giao, tiếp nhận công
nghệ, các nước đang phát triển gặp phải không ít khó khăn và phải chịu những tổn
thất lớn. Có thể thấy những khó khăn và thiệt hại ở một số khía cạnh sau. Thứ
nhất, công nghệ chuyển giao theo đường viện trợ là chủ yếu đầu tư vào phát triển
hệ thống hạ tầng cơ sở kinh tế. Gía trị của thiết bị máy móc rất lớn. Nếu viện trợ
không hoàn lại, trong hoàn cảnh khó khăn các nước đang phát triển không có con
đường nào khác phải tiếp nhận công nghệ lạc hậu. Nếu như phải hoàn lại thì ngoài
gánh nặng nợ phải trả, mối lo lâu dài là làm sao có đủ nguồn kinh phí để bảo trì và
duy trì hệ thống máy móc đó hoạt động sản xuất mà không gây hại đến môi
trường sinh thái. Thứ hai, công nghệ hiện đại do các công ty xuyên quốc gia độc
quyền nắm giữ. Qua đường đầu tư trực tiếp giá công nghệ, máy móc, thiết bị rất
đắt và chiếm tới 2/3 tổng giá trị của dự án đầu tư. Đối với những nước nghèo, do
không đủ khả năng đánh giá năng lực công nghệ, do sự đòi hỏi quá đáng từ các
TNC cho nên phải chịu thiệt thòi lớn. Đã có không ít quốc gia đang phát triển phải
mua công nghệ thải loại với giá cao, thường cao hơn mức chung của thị trường tới
25%. Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ đang thắt chặt làm hạn chế khả năng tiếp cận
tới công nghệ mới của các nước đang phát triển. Hiệp định TRIPS kiểm soát chặt
chẽ đã khép lại các cơ hội tiếp cận công nghệ mới như thời kỳ trước đây. Bây giờ
muốn tiếp cận công nghệ mới thì phải tăng chi phí, đặc biệt các nước tiếp nhận
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.2. TRÊN LĨNH VỰC XÃ HỘI
2.2.1. TCH làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn
cách giầu nghèo giữa các nước và trong từng quốc gia, tình trạng
thất nghiệp có tính toàn cầu.
38
Cơ hội mà TCH đem lại cho các nước là như nhau song do một mặt, TCH
được khởi xướng và dẫn dắt từ các nước phát triển nhất (tức là TCH hình thành và
thúc đẩy bởi nền tảng phát triển kinh tế thị trường và công nghệ) nên hầu như các
nước phát triển, nhất là Mỹ, EU, Nhật Bản là những nước hưởng lợi nhiều hơn và
mặt khác, cùng một điều kiện như nhau, do “hiệu ứng” của quy luật phát triển
không đều, những nước kém phát triển, những tầng lớp dễ “tổn thương” trong
mỗi nước có thể là bất lợi trong TCH. Báo cáo năm 2000 của UNDP đã chỉ rõ
“các thế lực chi phối quá trình TCH đã mang lại sự giàu có vô độ cho những
người biết tận dụng lợi thế của các luồng hàng hoá, dịch vụ đang tràn qua các
đường biên giới quốc gia, trong khi đa số dân chúng bị đẩy ra ngoài xã hội”. Hiện
tại, dân chúng ở 85 quốc gia có mức sống, xét theo tương quan giàu nghèo, thấp
hơn so với cách đây mười năm. Các nước công nghiệp phát triển (với khoảng 1/2
tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới) hiện đang chiếm tới 86%GDP toàn cầu, 4/5
thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp nước ngoài và 74%số máy điện thoại
trên toàn thế giới, trong khi đó các nước nghèo (thường ra nhập toàn cầu hoá ít và
không đầy đủ) chiếm 4/5 dân số thế giới nhưng chỉ tạo ra 1%GDP toàn cầu. Năm
1985, thu nhập bình quân tính trên đầu người ở các nước giàu gấp 46 lần so với
nước nghèo thì tới năm 1997 sự chênh lệch này tăng lên 288 lần. Tuy nhiên, cũng
nên lưu ý các quan điểm cho rằng, cần coi những bất bình đẳng này cho một sức
ép lớn để các nước nghèo, bằng những nỗ lực cải cách của mình nắm lấy các cơ
hội của toàn cầu hoá đẩy mạnh hội nhập nền kinh tế quốc tế không nên vì lẽ này
để quay lưng chỉ trích, trống lại toàn cầu hoá như một số nước đã làm trong thời
gian qua.
Cơn lốc TCH đang và có thể tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng loại trừ
xã hội (Social exclusion). Đó là hàng tỷ con người không được hưởng một chút
thành quả gì của TCH ngoài sự bần cùng hoá, nghèo đói, thất nghiệp, không được
giáo dục - đào tạo, không được chăm sóc sức khoẻ, thiếu thông tin, nước sạch, an
sinh xã hội… Vẫn theo báo cáo năm 1999 của UNDP, các thế lực của quá trình
TCH đã mang lại sự giàu có vô độ cho những người biết tận dụng lợi thế của các
39
luồng hàng hoá, dịch vụ đang tràn qua những đường biên giới quốc gia, trong khi
đó đa số dân chúng bị đẩy ra ngoài lề xã hội (15). Cơ cấu xã hội của mỗi quốc gia
trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể có những biến động phức tạp, tiêu cực và khó
lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối
với bản thân sự phát triển của đất nước.
Chưa một cuộc chiến tranh hay một thảm hoạ thiên nhiên nào trong lịch sử
gây đau khổ và đe doạ huỷ hoại những tiềm năng của con người bằng nạn nghèo
khổ kéo dài một cách thầm lặng. Ngày nay có khoảng 1/4 dân số thế giới (tương
đương 1,5 tỷ người) đang sống trong điều kiện cùng cực của nghèo khổ, không đủ
những khả năng đáp ứng được nhu cầu cơ bản. Hàng trăm triệu người đang sống
trong giới tính nghèo khổ. Một nửa số dân trên thế giới bị phân biệt đối xử, khước
từ cơ hội chỉ vì khác màu da.
Mặc dầu trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến 1993 thu nhập đầu người
ở các nước đang phát triển hàng năm tăng 3,5% .Gần 1/4 dân số của thế giới sống
ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, đáng mừng là có tỷ lệ tăng thu nhập bình
quân đầu người hàng năm suốt thập kỷ 80 là 7% . Khoảng 3/4 dân số của các
nước kém phát triển có mức tăng thu nhập bình quân đầu người âm (cụ thể là
giảm 229 USD năm 1980 xuống 210 USD năm 1993). Các nước OECD có thu
nhập bình
(15) Quan hệ hợp tác Nam - Nam và vấn đề TCH. Tài liệu tham khảo số 3/2000 của TTX Việt Nam,
Tr.20.
quân đầu người khoảng 20.000 USD nhưng có khoảng 100 triệu người sống trong
tình trạng nghèo khổ. Số người nghèo khổ đang tăng lên ở Anh, Hoa Kỳ, Pháp và
một số nước khác. Theo thống kê của OECD khoảng 30 triệu người không có việc
làm và 5 triệu người không có nhà cửa. Hiện tại tổng sản phẩm quốc dân của các
nước công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn. Năm 1993, thu nhập quốc dân của thế
giới đạt hơn 23 ngàn tỷ USD thì tổng sản phẩm quốc dân của các nước công
nghiệp chiếm tới 18 ngàn tỷ USD.
Còn khoảng hơn 5 ngàn tỷ nữa thuộc phần các nước đang phát triển nhưng họ lại
chiếm tới 80% dân số thế giới . Trong hơn 3 thập kỷ qua mức tăng thu nhập bình
40
quân thực tế trên phạm vi toàn cầu là không đồng đều. Xu hướng mất bình đẳng
về thu nhập ngày càng rõ nét. Trong từng thời kỳ đó, tỷ lệ những người giàu có
trên thế giới tăng từ 20% đến 70% và chiếm 80% thu nhập của toàn thế giới. Tỷ lệ
của những người nghèo đói nhất giảm từ 23% xuống 11,4%. Chênh lệch giàu
nghèo của các nước rất khác nhau, chênh lệch mức thu nhập bình quân so với mức
thu nhập của người nghèo nhất ở Hoa Kỳ hơn 4 lần, ở Nhật hơn 2 lần , ở Anh
khoảng 2,6 lần thì các nước đang phát triển lại rất cao, ở Braxin gấp 10 lần,
Indonexia và Ấn Độ gấp 8 lần. Trên thế giới có 358 tỷ phú đôla mà thu nhập của
họ bằng thu nhập của 2,3 tỷ người nghèo nhất trên hành tinh.
Xu hướng nghèo khổ và bất công ngày càng tăng không chỉ diễn ra ở các
nước đang phát triển mà còn tăng ở các nước công nghiệp. Ngày nay, có khoảng
12 triệu người đang sống dưới mức thu nhập trung bình, số người nghèo khổ đã
tăng lên từ 5 triệu năm 1977 đến 14 triệu vào thập kỷ 90. Nghèo khổ và bất công
ở nông thôn còn gay gắt hơn. Ở nông thôn tài sản quý giá nhất là đất đai. Sự bất
công trong sở hữu đất đai tại nhiều nước là cản trở đối với việc đảm bảo an ninh
cho con người và tiến bộ của khu vực nông thôn.
Nhiều nước trên thế giới, tình trạng lao động không có việc làm vẫn còn
cao, đời sống của người làm công ăn lương sụt giảm đang là vấn đề nhức nhối.
Hoa kỳ là vùng kinh tế hùng mạnh nhất thế giới, nhưng tỷ lệ thất nghiệp còn cao,
năm 1992 tỷ lệ đó là 7,5% năm 1993 là 6,9%. Nhật bản là nước duy nhất duy trì
tỷ lệ thất nghiệp thấp năm 1998 tỷ lệ thấp nghiệp đạt mức kỷ lục là 4,9% so với
những năm trước đây chỉ là 2,5%. Hậu quả khủng hoảng Châu Á xảy ra những
năm 1997 là rất nặng nề đối với một số nước Đông Á và ASEAN. Khủng hoảng
đã làm cho nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng. Thị trường chứng khoán chao đảo.
Các nhà đầu tư nước ngoài phải rút vốn gây tâm lý hoang mang cho dân
chúng.Hàng loạt các công ty phá sản trước tình hình đó tỷ lệ thất nghiệp ở Hàn
Quốc lên đến 7% năm 1998, ở Thái Lan là 10% và ở Indonexia là hơn 15%. Hậu
quả rất nặng nề đã xảy ra ở indonexia . Khu vực Mỹ Latinh tỷ lệ thất nghiệp cũng
41
tăng nhanh năm 1998 là 4,8% nhưng năm 1999 là 10,9%. Thất nghiệp trở thành
thách thức rất lớn có tính toàn cầu.
Việc giao lưu, di chuyển đi lại dễ dàng hơn của hàng hoá, dịch vụ cũng như
con người từ quốc gia này sang quốc gia khác, khu vực này sang quốc gia khác,
khu vực này sang khu vực khác, cũng là nguyên nhân của việc một số dịch bệnh
có thể lây lan nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu.
2.2.2. TCH gây ra những tổn thất về tài nguyên môi trường.
Người dân ở hầu hết các nước trên thế giới đều thấy rõ những hiểm hoạ đang
rình rập con người do môi trường bị tàn phá nặng nề trong quá trình công nghiệp
hoá và việc khai thác tài nguyên bừa bãi. Nhưng còn hiểm hoạ nữa mà con người
ít thấy là trái đất đang nóng dần lên. Việc sử dụng các nguồn nguyên liệu tự nhiên,
nạn phá rừng, khai thác khí mêtan bừa bãi và dioxit cacbon thoát ra gây hiệu ứng
nhà kính đang làm nhiệt độ trái đất tăng lên. Ban nghiên cứu sự thay đổi khí hậu
liên chính phủ (IPCC), một cơ quan bao gồm khoảng 300 chuyên gia của Liên
hợp quốc được thành lập mới đây, đã dự báo rằng nhiệt độ trái đất sẽ nóng lên so
với hiện tại 1 đến 2 độ vào năm 2030 và nóng thêm 3 độ vào năm 2100.
Ô nhiễm môi trường, mất cân bằng hệ sinh thái toàn cầu do ba nguyên nhân chủ
yếu. Thứ nhất, do quá trình công nghiệp hoá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, dân số thế giới tăng nhanh dẫn đến khai thác tài nguyên bừa bãi, đồng
thời làm cho dòng người di cư từ nông thôn vào thành thị tăng nhanh. Thứ ba, do
chính sách thương mại áp đặt của các nước công nghiệp đối với các nước đang
phát triển nhằm vào mục đích thu lợi nhuận cao và thói quen tiêu dùng mà không
hề nghĩ đến hậu quả môi trường.
2.2.2.1. Phá huỷ môi trường.
Thế giới các nước công nghiệp phải chịu trách nhiệm về lượng dioxit
cacbon thoát ra trong khai thác tài nguyên năng lượng, rừng nhiệt đới và sử dụng
nhiều thiết bị tiêu tốn năng lượng. Theo tính toán của hội đồng năng lượng thế
giới (WEC) hàng năm lượng dioxit cacbon thoát ra trong bầu khí quyển toàn cầu
là 6,5 triệu tấn. Trong những năm qua kể từ năn 1970, hoạt động sản xuất công
42
nghiệp đã làm tăng 33%lượng dioxit cacbon thoát ra. Cacbon thoát ra trong khai
thác tài nguyên năng lượng, rừng nhiệt đới và sử dụng nhiều thiết bị tiêu tốn năng
lượng. Mỹ là nước chiếm tỷ trọng lớn nhất (22%), Trung Quốc (11,9%), Nga
(9,4%), Nhật Bản (5%), các nước EU (13%) và các nước đang phát triển chiếm tỷ
trọng (44,7%).
Rừng nhiệt đới bị tàn phá nhanh chóng. Theo ước tính của Tổ chức lương
thực thế giới (FAO), mỗi năm trên thế giới có khoảng 10 triệu ha rừng bị tàn phá.
Theo số liệu thống kê ở ba thời kỳ khác nhau:1960-1970, 1970-1980, 1980-1980,
Châu Á là khu vực có tốc độ phá rừng cao nhất thế giới, mỗi năm mất khoảng 1,8
triệu ha rừng. Ngoài tốc độ phá rừng cao trong những năm cuối thập kỷ 90 nạn
cháy rừng đã xuất hiện ở một số nước, năm 1998 Indonexia là nước có diện tích
cháy rừng cao nhất.
Ô nhiễm và mất cân bằng sinh thái không chỉ do công nghiệp hoá gây nên
mà còn do dân số tăng nhanh. Tốc độ đô thị hoá tăng cùng chiều với công nghiệp
hoá đã làm cho ô nhiễm môi trường ở đô thị trở nên gay gắt.
2.2.2.2. Gây ô nhiễm môi trường.
Thế giới đang ở thời kỳ chuyển đổi ồ ạt chưa từng thấy trong suốt cả giai
đoạn lịch sử trước đây. Trong thập kỷ của thiên nhiên kỷ mới có hơn 1/2 số dân
của cả thế giới sẽ sống ở đô thị, đến năm 2020 tỷ lệ đó là 2/3 so với tổng số dân
của cả thế giới (ước tính lên tới gần 7 tỷ người). Trong quá trình lịch sử các thành
phố đã từng là những động lực phát triển kinh tế - xã hội phát triển .Thành phố là
các trung tâm công nghiệp và thương mại, trung tâm của quyền lực chính trị và
của cải vật chất. Các thành phố đã đóng góp tỷ trọng lớn cho nền kinh tế của mỗi
quốc gia và nền kinh tế thế giới. Theo tính toán của WB thì đến 80% mức tăng
trưởng kinh tế của các nước đang phát triển là do các thành phố và đô thị đóng
góp vào. Đô thị hóa không chỉ mang lợi ích riêng về tăng trưởng kinh tế mà còn
có ý nghĩa xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí và cải thiện
các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, cùng với lợi ích này thì đô thị hoá lại
đưa đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng như ô nhiễm môi trường đô thị, tội
43
phạm và các tệ nạn xã hội phát triển. Ô nhiễm môi trường đô thị là rất khó phân
loại tính đa dạng của nó, cho nên tạm phân ra hai nhân tố chính: thứ nhất, do tăng
trưởng kinh tế tại khu vực đô thị, thứ hai, do dòng người di cư từ nông thôn vào
các thành phố trong quá trình công nghiệp hoá tạo ra.
Phải thừa nhận rằng nguyên nhân chính của sự suy thái môi trường là do
các nước công nghiệp gây nên. Các nhà nghiên cứu môi trường của Ấn Độ tuyên
bố người nghèo không được quyền công bằng đối với môi trường không chỉ vì họ
nghèo mà còn vì phương thức tiêu thụ của các nước giàu. Chiếm 1/5 dân số thế
giới các nước OECD đã tiêu thụ gần 1/2 lượng nhiên liệu tự nhiên tổng cộng lại
họ gây ra 1/3 ảnh hưởng làm cho trái đất nóng lên do khí thải gây hiệu ứng ngà
kính .
Chính sách thương mại của các nước công nghiệp khuyến khích các nước
nghèo xuất khẩu sang thị trường của họ những sản phẩm mà họ cần cũng là một
nguyên nhân gây suy thoái môi trường. Nhiều khu vực sản xuất hàng hoá theo lối
tự cung tự cấp đã bị đẩy lùi đi xa ở những vùng đất cằn, dành chỗ những điền chủ
lớn sản xuất hàng xuất khẩu. Giá hàng hoá xuất khẩu của các nước đang phát triển
luôn bị giảm (theo tiêu chuẩn chất lượng lao động và chất lượng về môi trường)
đã gây thiệt hại cho các nước nghèo. Sản xuất vì mục đích xuất khẩu đồng nghĩa
với việc đẩy nhanh chu kỳ huỷ hoại môi trường, kích thích khai thác tài nguyên
vô tổ chức ở các nước đang phát triển. Xuất khẩu thu được ngoại tệ, nhưng khoản
chi trả giá cho môi trường và xã hội tại các nước nghèo là quá lớn.
2.3. TRÊN LĨNH VỰC VĂN HOÁ.
Xu thế TCH đặt các quốc gia vào nguy cơ bị các giá trị phương Tây nhất là
các giá trị văn hoá Mỹ xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Lợi
dụng ưu thế về công nghệ truyền thông, Mỹ và các nước tư bản phát triển ráo riết
triển khai áp đặt các giá trị văn hoá của mình trên toàn thế giới. Chưa bao giờ văn
hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu
hoá hiện nay : vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn
hoá rất nghiêm trọng. Mưu đồ dùng văn hoá Mỹ, văn hoá phương Tây thống trị
44
toàn thế giới đã được nhiều chính sách quốc tế xác định là biểu hiện của chủ nghĩa
đế quốc về văn hoá. Thế lực này, cũng như các loại chủ nghĩa đế quốc về kinh tế
và chính trị, đang là nguy cơ đe doạ sự sống còn và phát triển của mọi cộng đồng,
quốc gia, dân tộc trên thế giới.
2.4. TRÊN LĨNH VỰC AN NINH QUỐC GIA.
Xu thế TCH đặt ra cho mỗi nước hàng loạt vấn đề và đòi hỏi mới. Nội dung
khái niệm "an ninh quốc gia" được mở rộng; các nguy cơ đe doạ an ninh ngày
càng phức tạp hơn, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống, cục diện an ninh đã
thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh đã đổi mới.
Vấn đề gắn an ninh với quốc phòng; an ninh, quốc phòng với kinh tế và an
ninh quốc phòng với đối ngoại trở thành phương châm, nhiệm vụ vừa cơ bản vừa
cấp bách hiện nay của các quốc gia trên thế giới không riêng gì Việt Nam.
2.5. TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ.
Xu thế TCH đang tạo ra một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, vai trò của Nhà nước… Đã xuất hiện những mưu đồ
lấy cái làng toàn cầu thay thế các quốc gia dân tộc; lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để
phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế
quốc tế làm mô hình siêu Nhà nước đứng trên các Nhà nước quốc gia… Đây là
những biểu hiện lợi hại của chủ nghĩa đế quốc trong bối cảnh TCH nhằm nhất thể
hoá nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trên toàn thế giới và thiết lập một trật tự thế giới
do Mỹ độc quyền chi phối.
2.6. CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ QUỐC TẾ, CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ NGẦM, TỘI
PHẠM MA TUÝ... GIA TĂNG.
Quá trình TCH phát triển mạnh mẽ không chỉ có các lực lượng tiến bộ tham
gia vào mà còn có sự tham gia của các thế lực phản động, maphia, khủng
bố…Các vấn đề toàn cầu như : Dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, chủ nghĩa khủng
bố quốc tế, tội phạm ma tuý, hoạt động kinh tế ngầm… gia tăng.
45
Nét đặc trưng của tội phạm hiện nay là tính chất có tổ chức. Các nhóm tội
phạm có tổ chức tương đối, có hệ thống vũ khí, các phương tiện thông tin liên lạc
mới nhất, các chương trình được nghiên cứu trước để thực hiện hoạt động tội ác
trên lãnh thổ hai hay nhiều nước, tổ chức gây tội ác phá huỷ các cam kết quốc tế
và các tiêu chuẩn công pháp quốc tế.
2.6.1. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế.
Một trong những tội ác nguy hiểm và phổ biến là chủ nghĩa khủng bố quốc
tế. Những điểm mới của chủ nghĩa khủng bố ngày nay so với trước kia nằm trong
hình thức và cách thức khủng bố chứ không còn nằm trong ý nghĩa, động cơ của
hành động khủng bố như trước đây mà Bil Laden là hiện thân. Vụ khủng bố 11
tháng 9 là một hình thức khủng bố mới nhất, một dạng “siêu khủng bố” đang
trong quá trình “toàn cầu hoá”.
Khủng bố quốc tế hiện nay mang tính chất toàn cầu, mạng lưới phủ khắp
toàn cầu vượt ra khỏi khuôn khổ quốc gia dân tộc, mục tiêu mang tính chất toàn
cầu. Khủng bố quốc tế mang tính chất có tổ chức, vũ khí, phương tiện hiện đại.
Kho "vũ khí" được sử dụng là rất lớn. Lợi dụng thành tựu khoa học kỹ thuật để
thực hiện hoạt động khủng bố kỹ thuật cao như: tấn công bằng vũ khí sinh học, vũ
khí hoá học, chất nổ, phổ biến hơn cả là xâm nhập đánh cắp thông tin bí mật, phá
hoại mạng vi tính. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế biết sử dụng, điều chỉnh công
nghệ hiện đại thích ứng với tình hình thế giới ngày nay.
2.6.2. Các hoạt động kinh tế ngầm.
Cùng với hoạt động tội phạm tăng lên, hoạt động kinh tế ngầm với các
"trung tâm rửa tiền quốc tế" cũng gia tăng gây ra khủng hoảng kinh tế - tiền tệ
nghiêm trọng trên thế giới như ở Mêhicô, Thái Lan, Nhật Bản, Nga … cung cấp
nguồn tài chính to lớn cho các tổ chức khủng bố quốc tế - một mối đe doạ đối với
hoà bình và ổn định trên thế giới. Thực tế thời gian qua chứng minh rằng hoạt
động kinh tế ngầm gắn liền với hoạt động khủng bố quốc tế. Tổ chức khủng bố Al
- Qaeda có mạng lưới tổ chức ở hơn 60 quốc gia trên thế giới và có nguồn tài
46
chính hùng hậu chủ yếu từ hoạt động kinh tế phi pháp. Lợi nhuận hàng năm thu
được của Al Qaeda là hơn 10 triệu USD (16).
2.6.3. Tội phạm ma tuý.
Bên cạnh chủ nghĩa khủng bố quốc tế và hoạt động kinh tế ngầm là những
tội phạm liên quan đến vận chuyển, sử dụng phi pháp ma tuý đang gây lo lắng lớn
cho cộng đồng thế giới. Quá trình này phát triển nhanh chóng đến mức mà có thể
so sánh với một dịch bệnh. Mức độ nguy hiểm của hoạt động kinh doanh ma tuý
là rất lớn. Cùng với sản xuất ma tuý gia tăng, chủng loại cung cấp cho thị trường
cũng được đa dạng hoá và cường độ độc hại cũng mạnh hơn nhiều. Tiêu thụ ma
tuý tăng vọt, lan rộng gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội: thiệt hại cho sức
khoẻ, giảm hoạt động xã hội, ảnh hưởng xấu tới giống nòi… Sở hữu khối lượng
tiền lớn các nhóm tội phạm ma tuý gây áp lực đến hệ thống chính trị, các cơ quan
bảo vệ pháp luật, các phương tiện thông tin đại chúng, làm giảm sự ổn định xã hội
và tăng nguy cơ mất an ninh trong xã hội (17). Cuộc chiến chống khủng bố, tội
phạm ma tuý … là cuộc chiến đầy cam go, một thách thức cho toàn thể cộng đồng
thế giới. Bên cạnh đó ô nhiễm môi trường cũng là một vấn đề không nhỏ, đòi hỏi
sự hợp tác của tất cả các quốc gia nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ trái đất - nơi
sinh sống của toàn thể cộng đồng thế giới.
2.7. TCH CÓ THỂ LÀM CHO HOẠT ĐỘNG ĐỜI SỐNG CỦA CON NGƯỜI TRỞ NÊN
KÉM AN TOÀN.
TCH có thể làm cho hoạt động đời sống của con người thêm kém an toàn từ
an toàn kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội đến môi trường; từ an toàn của từng con
người, từng gia đình đến an toàn quốc gia và an toàn của hệ thống thương mại và
hệ thống tài chính toàn cầu. Điều đó có thể thấy là TCH kinh tế nới rộng thị
trường hàng hoá- dịch vụ tài chính của các quốc gia giúp cho các dòng hàng
hoá,vốn, công nghệ… dễ lưu thông trên bình diện thế giới song cũng chính vì thế,
sự đổ vỡ hay “khủng hoảng” một khâu hoặc một nước nào đó, theo “hiệu ứng làn
truyền” có thể làm lay chuyển các nước và khu vực khác. Đó là chưa kể đến việc
(16) PGS - TS Kim Ngọc - triển vọng KTTG 2020 - NXB Lý luận chính trị - HN, 2005. Tr241.
47
(17) PGS - TS Kim Ngọc - triển vọng KTTG 2020 - NXB Lý luận chính trị - HN, 2005. Tr242.
nền tài chính của nhiều nước rất dễ bị các tay đầu cơ quốc tế lũng đoạn. Một số
những nhà phân tích quốc tế có lý do để chỉ trích vai trò và trách nhiệm của tập
đoàn Soros trong khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á. Cuộc khủng hoảng tiền tệ
nổ ra đầu tiên ở Thái Lan và Hàn Quốc năm 1997 đã làm tổn đến thu nhập việc
làm ở các nước châu Á.
Mặt khác, trong nền kinh tế TCH không một quốc gia nào nằm ngoài quỹ
đạo chung, sân chơi chung. Mọi dân tộc đều bị ảnh hưởng và có trách nhiệm trước
những quan hệ toàn cầu và nẩy sinh hiệu ứng lớn đến tất cả các nước. Ví dụ chấn
động của chủ nghĩa khủng bố (những sự kiện 11/9); đại dịch HIV, SARS; hiện
tượng Enino, bão Cachina ở Mỹ… đặc biệt, gần đây người ta đã bàn nhiều đến
vấn đề bảo vệ môi trường như một điều kiện của tăng trưởng bền vững. Bởi lẽ
tăng trưởng kinh tế nhưng bảo vệ môi trường kém, thương mại trong TCH đã làm
tăng quy mô và tốc độ tiêu thụ của các nguồn lực; thúc đẩy lối sống tiêu dùng
nhiều và gây ô nhiễm cao. Đây có thể là sức ép mà mỗi nước đang phát triển phải
tính đến sự lựa chọn các dòng nhập khẩu hàng hoá và vốn đầu tư, nhất là công
nghệ từ các nước phát triển ...
Mặt tích cực và tiêu cực do xu thế TCH tạo ra đối với các quốc gia dân tộc
tồn tại đan xen nhau. Tuy nhiên, mức độ và tính chất tác động của chúng đến đâu
phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có ý
nghĩa quyết định. Mặt tích cực và mặt tiêu cực cùng tồn tại một cách hữu cơ trong
một xu thế, có thể tạo ra thuận lợi hay khó khăn, cơ hội hay thách thức; thời cơ
hay nguy cơ. Điều đó phụ thuộc vào tình hình cụ thể và hiệu quả hoạt động thực
tiễn của nhân tố chủ quan. Nhìn từ chiều sâu này, TCH tự nó hàm chứa một cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.
48
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
Đại hội IX của Đảng xác định đúng đắn rằng phải "chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường" (18). Đây là con đường, biện pháp tốt nhất để chúng ta góp phần đấu
tranh chống lại những mặt trái của TCH mang tính chất tư bản chủ nghĩa và đấu
tranh thực hiện một TCH dân chủ, công bằng, bình đẳng hưóng tới xã hội chủ
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Trong những điều kiện cụ thể, đối với nước ta, hội nhập quốc tế không chỉ là
quá trình diễn ra dưới sức ép của xu hướng tất yếu mà còn là một quá trình mang
tính chủ động. Sự chủ động này xuất phát không chỉ từ việc nhận rõ lợi ích to lớn
do quá trình này mang lại mà còn từ ý nghĩa gay gắt đặt ra từ quá trình đó.
Tuy nhiên, phải nói rằng không thể nhận thức đầy đủ những cơ hội cũng như
thách thức đó ngay lập tức. Vì thế không dễ dàng gì khi đưa ra chính sách xử lý có
hiệu quả các tác động của TCH. Tính phức tạp của vấn đề, như đã nói, không chỉ
ở số lượng lớn hay sự đa dạng của các tác động mà chủ yếu ở mỗi quá trình, mỗi
sự tác động mang tính hai mặt (tích cực và tiêu cực) và tất cả lại tác động trong sự
ước chế lẫn nhau. Bản chất của vấn đề ở đây là tồn tại mối quan hệ hữu cơ giữa
lợi thế và thách thức của những nước đi sau khi giải quyết vấn đề của mình trong
bối cảnh hiện đại.
3.1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI
NHẬP QUỐC TẾ.
Công cuộc đổi mới đất nước trong thời gian qua đã khẳng định vấn đề TCH và
hội nhập quốc tế là sự tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Quan điểm của Đảng ta về đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân chủ, công bằng, văn minh đã
49
(18) Báo cáo chính trị Đại hội IX - VKĐHIX - tr.3
đặt ra việc nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế có thể đánh giá:
cùng với sự phát triển nội lực mang ý nghĩa quyết định, vấn đề TCH, hội nhập
kinh tế quốc tế là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nước ta.
Quá trình TCH và hội nhập đưa lại những thời cơ và vận hội đối với các quốc gia
trong đó có nước ta, song cũng tồn tại những khó khăn thách thức.
3.1.1.Những cơ hội.
- Có cơ hội tiếp nhận nhanh chóng công nghệ - kỹ thuật trên một dải đất
rộng. Điều đó có nghĩa là Việt Nam cũng có điều kiện thuận lợi để lựa chọn kỹ
thuật - công nghệ thích hợp cũng như khả năng tiếp nhận những loại công nghệ
cao nhằm tạo ra bước nhảy vọt và trình độ kinh tế trong nỗ lực vượt đuổi các
nước đi trước.
- Có điều kiện tham ra nhanh vào hệ thống phân công lao động quốc tế
hiện đại. Đối với nước ta, ngoài sự thuận lợi về công nghệ - kỹ thuật nêu trên, cơ
hội nay còn được nhân lên bởi nước ta nằm trong khu vực có tiềm năng tăng
trưởng và biến đổi cơ cấu rất lớn, vị trí điạ lý thuận lợi cho giao lưu quốc tế.
- Có cơ hội thị trường thế giới lớn để phát triển đất nứơc. Vai trò quyết định
của thị trường nói chung đối với phát triển kinh tế khi lựa chọn kinh tế thị trường
là mô thức phát triển của thị trường thế giới nói riêng khi theo đuổi định hướng
tăng trưởng xuất khẩu, xác nhận tầm quan trọng chiến lược của lợi thế này. Cơ hội
thị trường được hiểu theo hai nghĩa cụ thể:
Thứ nhất, Qúa trình di chuyển công nghệ - kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra rất
nhanh, nó tạo ra những khoảng trống thị trường cho các nước đi sau (thị trường
trong khuôn khổ chuyển dịch cơ cấu kiểu “làn sóng”).
Thứ hai, Tiềm năng thị trường trên thế giới nói chung có tốc độ ra tăng cao, đặc
biệt là thị trường cho các sản phẩm hiện đại, có nghĩa là có sự chuẩn bị sẵn sàng
về thị trường để tất cả các nước có cơ hội tiếp cận. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng
cơ hội thực tế là không ngang nhau giữa các nước.
50
- Cơ hội tiếp cận các nguồn vốn quốc tế đang mở ra rất lớn cho tất cả các
nước, với các nước nghèo và có xuất phát điểm thấp như nước ta, rõ ràng đây là
một lợi thế tiềm năng rất lớn. Ngoài ra như đã nói vị thế địa - kinh tế của nước ta
cũng góp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Những mảng tối của TCH và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.pdf