Tài liệu Luận văn Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Những biện pháp cơ bản để tăng
cường huy động vốn đầu tư trong nước phục
vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai
đoạn hiện nay”
MỤC LỤC
PHẦN I Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn .
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT
NAM .................................................................... 2
II.CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƯỚC. ............. 4
1.Huy động từ ngân sách Nhà nước.................................................. 4
2.Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp Nhà nước. ......................... 6
3.Nguồn vốn huy động từ trong dân cư. ........................................... 7
4.Thu hút từ vốn đầu tư nước ngoài. ................................................ 7
III.VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC. ....... 8
1.Vốn trong nước với vấn đề đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho phát
triển kinh tế. ........................
48 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: “Những biện pháp cơ bản để tăng
cường huy động vốn đầu tư trong nước phục
vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai
đoạn hiện nay”
MỤC LỤC
PHẦN I Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn .
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT
NAM .................................................................... 2
II.CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƯỚC. ............. 4
1.Huy động từ ngân sách Nhà nước.................................................. 4
2.Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp Nhà nước. ......................... 6
3.Nguồn vốn huy động từ trong dân cư. ........................................... 7
4.Thu hút từ vốn đầu tư nước ngoài. ................................................ 7
III.VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC. ....... 8
1.Vốn trong nước với vấn đề đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho phát
triển kinh tế. ................................................................................................. 8
2.Huy động vốn trong nước với vấn đề xã hội ................................ 10
IV.KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ HUY ĐỘNG VỐN
ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC. ......................................................................... 11
1.Kinh nghiệm của Nhật Bản............................................................ 11
2.Kinh nghiệm của Hàn Quốc. ......................................................... 12
3.Kinh nghiệm của Anh. ................................................................... 13
4.Những bàI học vận dụng vào Việt Nam. ....................................... 13
PHẦN II Thực trạng của việc huy động vốn trong nước của Việt Nam
trong thời gian vừa qua.
I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC. ... 14
1.Tình hình chun ..................................................................................... 14
2. Sau cải cách kinh tế. ............................................................................ 15
II. HIỆU QỦA SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA.
...................................................................................... 15
1.Trong lĩnh vực nông nghiệp .......................................................... 15
2.Trong lĩnh vực công nghiệp . ......................................................... 16
3.Trong lĩnh vực dịch vụ................................................................... 16
4.Các chính sách được sử dụng để huy động nguồn vốn trong nước
thời gian qua...................................................................................... 16
III.KẾT LUẬN.................................................................................. 17
PHẦN III Định hướng và giảI pháp huy động vốn trong nước ở Việt
Nam trong thời gian tới.
I.MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI. ..... 20
II.NHU CẦU PHÁT TRIỂN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC Ở NƯỚC
TA TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................................... 21
III.PHƯƠNG HƯỚNG HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
TRONG THỜI GIAN TỚI. ..................................................................... 23
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ ĐỂ HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN
TRONG NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI. ......................................... 25
KẾT LUẬN………………………………………………….27
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng
cho mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một
vấn đề cấp bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng
trưởng kinh tế, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế- xã hội luôn là vấn đề quan trọng và cấp
bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đương nhiên để
duy trì những thành quả đã đạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới
vừa qua, giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi
vào tình trạng lạc “tụt hậu” so với nhiều nước láng giềng trong khu vực và
trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay nước ta đang tìm mọi cách khơi dậy
mọi nguồn vốn trong nước từ bản thân nhân dân và việc sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn đã có tại các cơ sở quốc doanh. Nguồn nước ngoài từ ODA,
NGO và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Tuy nhiên cần thấy rõ nguồn
vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn trong nước vừa phong phú vừa chủ
động nằm trong tầm tay. Nguồn trong nước vừa là tiền đề vừa là điều kiện
để “ đón” các nguồn vốn từ nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài sẽ không
huy động được nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu nguồn vốn “bạn
hàng” trong nước.
Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lợi đã mở ra những khả năng to lớn để
huy động nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng nguồn vốn ở trong nước được
xem là quyết định cho sự phát triển bền vững và độc lập của nền kịnh tế.
Qua nghiên cứu thực tế, và với cơ sở kiến thức đã tích luỹ được trong
thời gian qua em nhận thấy tầm quan trọng của việc huy động nguồn vốn
đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn
hiện nay. Cũng như xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề này, em chọn đề
tài: “Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư
trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn
hiện nay”.
Nội dung của đề tài này bao gồm các nội dung sau:
PHẦN I: Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn.
PHẦN II: Thực trạng huy động vốn trong nước trong thời gian qua ở
Việt nam.
PHẦN III: Định hướng và giải pháp huy động vốn trong nước ở Việt
nam trong thời gian tới.
Em xin chân thành cảm ơn cô PGS.TS. Lưu Thị Hương đã tận tình
hướng dẫn em và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Vì
thời gian cũng như khả năng có hạn, cho nên bài viết này không tránh khỏi
những thiếu xót . Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cô và của các
bạn.
Hà nội, ngày 10/ 2/2003
Sinh viên thực hiện.
Đinh Thị Thu Huyền
PHẦN I:
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỂ HUY ĐỘNG NGUỒN
VỐN
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VIỆT NAM.
Trước hết, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất,
đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu qủa các hoạt
động kinh tế, nó bao gồm những nguồn vật tư và tài sản trong các doanh
nghiệp, nguồn tiền mặt hoặc các tài sản khác dự trữ trong dân. Vì vậy,
chính sách tạo vốn cơ bản phải tuân thủ nguyên tắc lợi ích của người có
vốn và do đó, việc sử dụng vốn nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc hiệu quả
kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tạo vốn trước hết và chủ yếu là tạo ra môi
trường kinh tế và tiền đề pháp lý đẻe biến mọi nguồn tiền tệ thành tư bản
sinh lợi và tăng trưởng trong quá trình tái sản xuất xã hôị. Các nguồn chủ
yếu bao gồm :vốn đầu tư kinh tế của nhà nước, vốn tự có của các doanh
nghiệp, vốn bằng tiền và tiền nhàn rỗi của dân cư và vốn của các doanh
nghiệp và tổ choc tài chính quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay vốn là yếu tố vật chất quan trọng nhất cho
tăng trưởng. Để tao ra tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7-8% thì cần tích luỹ
một lượng vốn từ 20- 25% GDP. Nếu trong những năm tới mục tiêu tăng
trưởng kinh tế là hai con số trong vài thập niên tới thì cần thì tỷ lệ tích luỹ
vốn phải lên tới trên 30% GDP. Đây là một nhu cầu lớn cần phải giải
quyết để khai thác nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nước.
Vốn ngân sách nhà nước một thời gian giảm xuống nay đã bắt đầu
tăng lên. năm 1990 là 20% thì tới năm 1994 đã tăng lên là 44% ngân sách.
Để đạt được kết quả đó thì nguyên nhân cơ bản là chính sách thuế đã được
cải cách một cách toàn diện và thu được nhiều kết quả cho ngân sách.
Năm1990 thu ngân sách từ thuế phí chiếm 73,69%, năm 1993 phần thu đó
là 93,8%. Nếu so với GDP thì các tỷ trọng tương tự là 17,3% và 17,06%
vốn huy động từ các nguồn khác cũng có xu hướng tăng do chính sách
khuyến khích đầu tư, tư nhân và tạo dựng được môi trường đầu tư cho mọi
thành phần kinh tế phát triển. Điều mà ai cũng có thể đồng ý với nhau là
một nền kinh tế kém phát triển có thể cất cánh được nếu không có sự tham
gia của các nguồn vốn từ nước ngoài. Vai trò của nguồn vốn bên ngoài có ý
nghĩa quan trọng nhằm hỗ trợ khai thông những cản ngại, tạo sức bật cho
nền kinh tế phát triển. Vì vậy chúng ta nên nỗ lực huy động nguồn vốn từ
bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không nên
trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn từ bên ngoài. Trong việc huy động vốn để
đầu tư phát triển, chúng ta cần phải khẳng định vai trò của nguồn vốn
trong nước đóng vai trò quan trọng hay quyết định. Mặc dù nguồn vốn này
còn thấp so với vốn dài hạn ( cho thời kỳ 1996- 2000) vẫn còn khó huy
động trong hiện tại. Theo ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước ,
cùng với kinh nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy: Nguồn vốn
trong nước vẫn là nguồn vốn có tính chất quyết định, người dân trong nước
vẫn chưa dám bỏ vốn ra đầu tư thì người nước ngoài cũng chưa mạnh dạn
bỏ vốn dầu tư vào Việt nam.
Vấn đề đặt ra là không phải tìm mọi cách để huy động cho được các
nguồn vốn, mà phải coi trọng việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ấy cho
đầu tư phát triển sao cho có hiệu quả để nguồn vốn ấy sinh sôi nảy nở và
đạt được chiến lược hiệu quả kinh tế - xã hội đề ra.
Đầu tư phát triển phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
Phải được tính bền vững trong đầu tư phát triển, tức là tự bản thân nó
phải có mầm mống cho tăng trưởng trong tương lai, nhằm sử dụng tài
nguyên một cách hợp lý để không ngừng khai thác lợi thế so sánh của tiềm
năng đất nước.
- Sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển phải có hiệu quả để tái tạo và
phát triển các nguồn vốn, tạo tiền đề cho việc huy động vốn ở giai đoạn
tiếp theo.
- Nền kinh tế Việt nam có xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân
đầu người khoảng 300 đô la/ năm, lại nằm trong khu vực ASEAN có tốc độ
tăng trưởng cao, nên Việt nam phảt duy trì tốc độ tăng trưởng cao để đuổi
kịp các nước trong khu vực trong vài thập niên, mặc dù chịu tác đông nhất
định của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực .
Vì vậy Chính phủ phải có kế hoạch,huy động vốn phù hợp với khả
năng phát triển của nền kinh tế, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân
dân.
trong việc duy trì và phát triển nền kinh tế, nếu không có vốn thì mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh không thể thực hiện được.
. Vốn đầu tư:
- Khái niệm: Vốn đầu tư là những chi phí để tái sản xuất tài sản cố
định bao gồm các chi phí để thay thế những tài sản cố định bị thải loại để
tăng mới các tài sản cố định và để gia tăng các tài sản cố định tồn kho.
- Các hình thức đầu tư:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
. Cơ cấu vốn đầu tư:
a. Nguồn vốn trong nước bao gồm các loại vốn chủ yếu sau:
- Vốn huy động từ ngân sách nhà nước.
- Vốn huy động trong dân cư.
- Vốn huy động từ tiết kiệm của các doanh nghiệp.
b. Nguồn vốn ngoài nước bao gồm:
- Vốn đầu tư trực tiếp
- Vốn đầu tư gián tiếp
- Vốn hỗ trợ và phát triển chính thức.
II/ CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƯỚC.
1/ Vốn huy động từ ngân sách nhà nước
Là bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất
quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy
mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế
hoạch. Chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất
của một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định
hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ
sung từ bên ngoài, chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít là vay
nợ của tư nhân nước ngoài. Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách
nhà nước cần có những sửa đổi trong chính sách đầu tư.
Nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước:là các nguồn tàI
chính có khả nămg tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước mang lại.
-Nguồn thu được hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất.
-Nguồn thu được thực hiện trong khâu lưu thông-phân phối.
-Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ.
Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản:
-Thuế ,phí và lệ phí.
-Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
-Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
-Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không
chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm
mà còn là công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước không ngừng tăng lên
qua các năm, bình quân từ 13,1% GDP (thời kỳ1986- 1990) lên 20,5% (
thời kỳ 1991- 1995) ngân sách nhà nước từ chỗ thu không đủ chi đến nay
đã có một phần tích luỹ dành cho đầu tư phát triển từ 2,3% GDP năm 1991
tăng lên 6,1% GDP vào năm 1996 ( nếu cả do khấu hao cơ bản).
Nguyên nhân chủ yếu của nó là:
- Ngân sách nhà nước đã điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư nhằm tạo ra các
tiền đề thu hút vốn đầu tư.
- Chi của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển chủ yếu tập
trung vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xã hội.
- Ngân sách nhà nước không còn bao cấp cho các xí nghiệp nhà nước
thông qua cổ phần hoá và tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp- lâm nghiệp.
Mục tiêu của huy động vốn ngân sách nhà nước phải dành khoảng từ
20- 25% tổng số chi ngân sách cho đầu tư phát triển hàng năm. Khai thác
có hiệu quả tín dụng nhà nước đầu tư phát triển, đồng thời phải đẩy mạnh
hình thức vay vốn trong nhân dân, cho đầu tư phát triển kinh tế là quốc
sách hàng đầu. Muốn đạt được các hiệu quả trên cần phải thực các biện
pháp sau:
Hình thành nguồn vốn đầu tư trong ngân sách: Các biện pháp quan
trọng nhất để tăng thu là thu đúng, thu đủ các khoản vay trong nước.
Thu ngân sách nhà nước trong sự phát triển bền vững, tức là thu
nhưng không làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bổi dưỡng
phát triển và mở rộng các nguồn thu một cách vững chắc, lâu bền. Điều đó
nghĩa là cần xác định mức thu hợp lý vừa đảm bảo NSNN có nguồn thu
cao, vừa đảm bảo để các đối tượng NSNN có đủ điều kiện tài chính tiếp tục
phát triển. Xác định mức thu tại diểm “giới hạn tối ưu”này không đơn giản
mà cần phân tích, cân nhắc nhiều nhân tố khác nhau. Những nguồn thu
thuộc khu vực kinh tế quốc doanh và có ý nghĩa đặc biệt thì cần chú ý bồi
dưỡng thông qua các biện pháp hỗ trợ đầu tư, trợ giúp về khoa học kỹ
thuật, công nghệ và nhân lực... trong một chừng mực không bao cấp.
Không tận thu NSNN quá mức để bao cấp trong cấp phát mà chỉ thu
trong chừng mực tốt nhất để đáp ứng các nhu cầu chi của Nhà nước. Đối
với những ngành , những địa phương có thất thu lớn thì cần tăng cường thu
và tận thu, nhưng quan điểm bao trùm thì không phải là tận thu-Vì điều đó
sẽ ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
+ Cải tiến các hệ thống thuế, làm cho diện thu thuế tăng lên, nhưng
thuế xuất đơn giản hoá. Kết quả là: giảm được tỷ lệ trốn lậu thuế, tăng
nguồn thu cho ngân sách, đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên và chi
cho đầu tư phát triển, đồng thời tránh được các khoản lạm thu, gây khó
khăn phiền hà đến sinh hoạt và các hoạt động khác của đời sống dân cư.
+ Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo đúng đối tượng trả nợ và tính kỹ các
điều kiện trả trước khi ký hợp định khung vay vốn, và hiệp định vay cho
từng công trình, chương trình dự án đầu tư.
Các chính sách về ngân sách nhằm huy động vốn dàI hạn cho phát triển
kinh tế -xã hội cần thường xuyên đổi mới cảI tiến các hình thức huy động,
đặc biệt là hệ thống thuế.
- Phân bổ và sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
+ Tăng quy mô đầu tư từ ngân sách nhà nước và sử dụng đúng hướng
nguồn vốn này với biện pháp bao chùm là chống thất thu và tiết kiệm chi
thường xuyên để tăng quy mô nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
+ Từng bước xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp trong lĩnh vực cấp phát
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn của nhà nước.
+ Tăng cường công tác quản lý sau dự án. Những dự án này dùng nguồn
vốn nhà nước thường có quy mô vốn rất lớn, hiện nay việc thẩm định các
dự án là tương đối chặt chẽ thì trái lại việc quản lý sau dự án lại bị buông
lỏng dẫn đến tình trạng chi tiết trên danh nghĩa nhưng lại lãng phí trên thực
tế. Sử dụng nhiều cơ chế khác nhau để quản lý vốn, với nguồn vốn nhà
nước được thông qua vay nước ngoài với điều kiện ưu đãi thì tiến hành cho
vay lại để tạo điều kiện bình đẳng trong sản xuất kinh doanh và tái tạo
nguồn vốn. Tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách hiện vẫn là một khả năng rất
lớn cần tận dụng, bởi lẽ so với các nước tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân
vào ngân sách nhà nước là tương đối cao. Tỷ lệ thuế ở các nước so với
GDP là tương đối cao ( thường đạt mức dưới 20% ).
2/ Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp nhà nước.
Trong chiến lược ổn định kinh tế Việt nam đến năm 2000, Đảng ta đã
chỉ rõ “ chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc huy động vốn và sử
dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân” . Tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một vấn
đề mà Đảng và các doanh nghiệp nhà nước luôn quan tâm. Bởi có huy động
được vốn mới tiến hành được quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất
nước.
Đối với doanh nghiệp, chính sách tài chính hướng vào các việc mở
rộng khả năng hoạt động mạnh mẽ có hiệu quả cao của các đơn vị sản xuất
kinh doanh, đó là những tế bào tài chính; làm cho các nguồn vốn chu
chuyển nhanh và linh hoạt, đồng thời tạo ra cơ sở để nhà nước có khả năng
kiểm soát được nền tài chính quốc gia.
Trong lĩnh vực đầu tư cho khu vực doanh nghiệp nhà nước cần phải
thực hiện một số giải pháp và chính sách sau:
-Các doanh nghiệp nhà nước thuần tuý kinh doanh tự huy động nguồn
vốn trong xã hội hoặc tín dụng ngân hàng để đảm bảo được điều kiện đầu
tư bình đẳng với các thành phần kinh tế của doanh nghiệp.
-Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại một số doanh
nghiệp thật cần thiết, còn cho phép chuyển đổi hình thức sở hữu, với sở
hữu đan xen, cổ phần hoá" Đồng thời trong cơ chế chính sách cần đảm bảo
sự bình đẳng tối đa, cùng loại hình hoạt động, nếu như không có các quy
chế đặc biệt thì đều có cơ chế về thuế, tín dụng và lãnh thổ.
- Cùng với quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế, cần xây dựng cơ
chế chính sách đồng bộ để tránh tình trạng thêm tầng lớp trung gian, gây
khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các bộ
chuyển nhanh sang các chức năng quản lý nhà nước và chuyển nhanh về cơ
chế Bộ chủ quản để các doanh nghiệp tự chủ trong bảo bảo toàn và phát
triển nguồn vốn.
- Hiện nay nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Bởi
lẽ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp, công nghệ
chưa được đổi mới, chất lượng của sản phẩm chưa cao, nên khả năng tiết
kiệm cho đầu tư chưa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao chưa được quản lý
nghiêm ngặt và khấu hao đủ. Vì vậy để huy động được nguồn vốn lớn
trong doand nghiệp nhà nước thì đòi hỏi nhà nước phải tiến hành sửa đổi và
ban hành các chính sách để khuyến khích doanh nghiệp làm ăn có hiệu , để
có thể đầu tư phát triên sản xuất.
- Trong giai đoan 1996- 2000 vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu
tư khoảng14-15% tổng số của toàn xã hội. Mở rộng quyến tự chủ của các
doanh nghiệp theo hướng cơ cấu lại vốn sản xuất và tài sản của doanh
nghiệp một cách hợp lý, tính đầy đủ giá trị quyền sử đất vào vốn vào tài
sản tại doanh nghiệp.
3/ Nguồn vốn huy động từ trong dân cư:
Theo ước tính của các chuyên gia về kinh tế tài chính nguồn vốn trong
dân cư có khoảng 6 tỷ USD được sử dụng qua điều tra của bộ kế hoach kế
hoạch đầu tư và tổng cục thống kê như sau:
- 44% để dành của dân là dùng để mua vàng và ngoại tệ
- 20% để dành của dân được dùng để mua nhà đất và cải thiện đời
sống sinh hoạt.
- Tuy nhà nước cho phép các doanh nghiệp nhà nước huy động vốn từ
trong dân với nhiều chính sách khác nhau, khi thực tế áp dụng còn nhiều
ràng buộc. Để tăng cường sử dụng nguồn vốn của nhân dân hay vốn ngoài
vùng ngân sách thì cần phải có chính sách khuyến khích phát triển sản
xuất, thực hành tiết kiệm, làm giàu chính đáng tạo lòng tin cho nhân dân
yên tâm bỏ vốn ra đầu tư, tiềm lực trong nhân dân còn rất rất lớn, muốn vậy
nhà nước phải ổn dịnh tiền tệ.
Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc phát triển nông nghiệp, mở mang ngành nghề ở nông thôn phát triển
công nghiệp thủ công, thương mại , dịch vụ, vận tải…Vì vậy chúng ta cần
phải thực hiện các chính sách sau:
- Đa dạng hoá các công cụ, huy động vốn để cho mọi ngườ dân ở bất
cứ nơI nào cũng có đIều kiện sản xuất kinh doanh.
- Tăng lãi xuất tiết kiệm đảm bảo lãi xuất dương.
- Khuyến khích sử dụng tài sản cá nhân, thực hiện chế độ thanh toán
tiền gửi ở một nơi và rút ra bất cứ lúc nào, có vậy chúng ta mới đưa được
nguồn vốn dưới dạng cất giấu vào lưu thông.
- Tao môi trường đầu tư thông thoáng và thực hiện theo quy định của
luật pháp để người dân dễ dàng bỏ vốn đầu tư.
- Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích các hộ gia đình ở
các vùng nông thôn, vốn vào sản xuất trên cơ sơ khai thác thế mạnh của
từng vùng, phát huy truyền thống hiện có của địa phương.
- Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích tư nhân trong nước
như tự đầu tư
- Thực hiện chính sách xã hội hoá dần đầu tư phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của nhân dân.
4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài .
Nó có tầm quan trọng đặc biệt cho việc phát triển kinh tế với phần lớn
các nước đang phát triển và là điều kiện để nhang chóng thiết lập cacad
quan hệ kinh tế quốc tế, gắn thị trường nội dịa với thị trường thế giới trên
cả bốn mặt :thị trường hàng hoá, thị trường tàI chính, thị trường lao động
và thị trường thông tin. Vì vậy, phảI xây dung một chiến lược kinh tế đối
ngoại đúng đắn, phù hợp voí những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị
-xã hội và khoa học hiện nay. Cần có chính sách tàI chính thích hợp để
khuyến khích đầu te nước ngoàI dưới hình thức vay nợ, đầu tư tàI chinh,
đầu tư trực tiếp, mở chi nhánh kinh doanh, thuê chuyên gia… Thực hiện
chế độ tàI chính ưu tiên như thuế nhập khẩu vật tư kỹ thuật , dịch vụ thông
tin, thuế xuất nhập khẩu thành phẩm, thuế thu nhập , quyền được đảm bảo
tàI sản, đIều kiện chuyển lợi nhuận và vốn về nước và các dịch vụ đầu tư
ưu đãI khác. Khuyến khích đặc biệt đôi với đầu tư nước ngoàI cho các công
trình cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, công nghệ mũi nhọn, các ngành sử
dụng nhiều lao độngvà những dự án khai thác tài nguyên có số vốn khổng
lồ. Mở rộng thị trường hối đoái bằng cách cho phép nhiều ngân hàng
thương mại có đủ điều kiện về vốn và nghiệp vụ, được kinh doanh ngoại
hối và thực hiện dịch vụ thanh toán ngoại thươong nhanh chóng, thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước .
Tóm lại, việc kết hợp giữa “khơi trong “ và “hút ngoài”;giữa vốn tập
trung của Nhà nước và vốn doanh nghiệp (có được từ mọi nguồn )theo một
định hướng đầu tư đúng đắn trong một cơ chế hoạt động tài chính thích hợp
với tong giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta là
yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc củng cố và làm lành mạnh nền tài
chính quốc gia, đồng thời cũng là nhân tố tạo nên bước chuyển biến có ý
nghĩa cơ bản của công cuộc đổi mới cơ chế kinh tế.
II/ VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG
NƯỚC.
1/ Vốn trong nước với vấn đề đáp ứng nhu cầu của đẩu tư cho phát
triển kinh tế.
- Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá có tính kế hoạch nhiều
thành phần , định hướng XHCX nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất
của xã hội, khai thác và sử dụng có tiềm năng vốn của đất nước đã đặt nền
kinh tế nước ta đến một loạt các mâu thuẫn lớn cần giải quyết cấp bách.
Trong đó có mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn đáp ứng cho nhu
cầu ấy. Việc đánh giá đúng nguồn vốn và việc sử dụng nó trong thời gan
vừa qua nó cho chúng ta những cơ sở để tạo ra chiến lược tạo vốn nhằm
khai thác mọi tiềm năng về vốn và định hướng chính sách sử dụng nguồn
vốn có hiệu
- Đối với việc huy động vồn trong nước thì đây chính là nguồn vốn
đóng vai trò quan trọng, quyết định. Trong khi đất nước nghèo nàn, khả
năng tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những phần chi tiêu không mang lạI
hiệu quả thì nó không những là quốc sách mà chúng ta cần có các giảI pháp
để hoàn thiện dần; Nhà nước , các doanh nghiệp, hộ gia dình, các tổ chứ
tài chính…Phải gắn tiết kiệm với tích luỹ trong sự tác động của các các
nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế đã huy động tối đa các nguồn vốn trong
nước.
- Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn trong các
khu vực: Như ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà
nước và các tổ chức tín dụng tư nhân.
- Vốn đầu tư từ khu vực nhà giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư
vào khu vực doanh nghiệp nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã
hội, các công trình công cộng, hỗ trợ các vùng chậm phát triển, vùng sâu,
vùng xa, hải đảo...
Vốn đầu tư của tư nhân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát
triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn,mở mang các ngành nghề ở nông hôn
phát triển, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, dịch vụ và thương nghiệp.
Nguồn vốn trong nước tiếp tục tăng cả về tốc độ tuyệt đối và tốc độ
tương đối trong GDP từ 10,1% năm 1991 lên tới 19% năm 1995, sau đó ổn
định ở mức 16-17% GDP và là động lực chủ yếu gia tăng tổng nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội mà kết quả cuả nó là sự phát triển của nền kinh tế. Tổng
sản phẩm trong nước thời kỳ 1991- 1995 tăng lên với tốc độ 8,5% trong đó
nông nghiệp và thuỷ sản tăng 4,4% , công nghiệp và dịch vụ tăng 13,2%,
dịch vụ tăng 8,6%. Trong tương lai cần tiến hành làm thông thoáng thị
trường vốn, tích cực hình thành thị trường chứng khoán để đầu tư. Nguồn
vốn trong dân cư còn rất bé, vốn nhàn rỗi trong dân cư không huy động
được, theo kết quả đIều tra mức sống gần đây của uỷ ban nhà nước và tổng
cục thống kê cho thấy số tiền của người dân được tích luỹ dưới nhiều hình
thức.
Vì vậy việc bán tín phiếu với lãi xuất thích hợp đang thu hút nhanh
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Và gần đây chính phủ cho phép thành lập
quỹ tín dụng nhân nhân, cũng như ngân hàng dành cho người nghèo để hỗ
trợ cho các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn.
2/ Huy động vốn trong nước với vấn đề phát triển kinh tế.
Trong năm năm 1991- 1995 vốn đầu tư xã hội khoảng 18 tỷ USD,
trong đó đó đầu tư nhà nước chiếm khoảng 43%. Đầu tư của khu vực tư
nhân chiếm khoang 1/3 tổng số vốn đầu tư.Tổng mức tiết kiệm mà các tổ
chức huy động dược tăng từ 5300 tỷ đồng năm 1990 lên trên 24000 tỷ
đồng, chiếm 35,5% tổng đầu tư xã hội . Sang kế hoạch 1996- 2000 lượng
vốn dự báo cần cho đầu tư phát triển khoảng 41- 43 tỷ USD trong đó thì
50% từ nguồn vốn trong nước. Phần vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước dự
kiến chỉ chiếm 12,6%, do đó phải đẩy mạnh việc huy động nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân cư, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước và các doanh
nghiệp khác tự bỏ vốn ra hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước yêu cầu
mới, vấn đề huy động và sử dụng vốn vẫn đang gặp nhiều khó khăn phức
tạp cần phải khắc phục. Ngân sách nhà nước luôn ở trong tình trạng căng
thẳng, không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư phát triển. Đầu tư của nhà
nước bị phân tán do phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ, các nguồn thu từ thuế,
các khoản lệ phí, dịch vụ công cộng còn nhiều thất thoát và lãng phí. Số
vốn huy động được thông qua tín dụng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn không
đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn
đầu tư trực tiếp từ khu vực tư nhân hãy còn chiếm tỷ lệ nhỏ tập trung chủ
yếu (80%) vào các lĩnh vực thương mại dịch vụ, phục vụ tiêu dùng. Một bộ
phận không nhỏ nguồn vốn huy động ở trong nước còn đang nằm ở ngân
hàng thương mại đang bị ứ đọng không trở thành nguồn vốn đầu tư được.
Theo các ý kiến dự báo thì khoảng 50- 70 nghìn tỷ đồng của nhân dân
đang cất giữ dưới dạng tiền mặt, ngoạI tệ, tàI sản có giá trị cao…Chưa
chuyển được thành nguồn vốn đầu tư và kinh doanh. Khoản tiền kiều hối
hàng năm gửi về nước khoảng từ 0,6- 1 tỷ USD chưa được khai thác và sử
dụng hợp lý.
Nguyên nhân của các yếu kém trên là do:
- Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn thấp, mức độ tiền tệ
hoá nền kinh tế và các quan hệ tài chính tiền tệ mới ở giai đoạn đầu của sự
phát triển, mức độ phân tán ở trong nước vừa nhỏ vừa phân tán.
- Cơ cấu sản xuất nói chung kém hiệu quả, sau hơn 10 năm đổi mới
cầu về những sản phẩm truyền thống gần như đã bão hoà cần phải thay
bằng những sản phẩm mới có chất lượng và hình thức cao hơn.
- Chính sách quản lý vĩ mô chưa hoàn thiện và đồng bộ, chưa khuyến
khích mọi người bỏ vốn ra mở rộng sản xuất, môi trường đầu tư chưa ổn
định còn nhiều rủi ro cho các nhà đâù tư.
- Khả năng kinh doanh sinh lợi cao hơn lãi trả ngân hàng của nhiều
doanh nghiệp còn hạn chế. Điều đó cũng kéo theo các ngân hàng cũng gặp
rủi ro khi cho vay, khó thu hồi vốn, phải sử dụng thế chấp như một công cụ
chủ yếu. Đây chính là yếu tố hạn chế phân bổ có hiệu quả nguồn vốn
Để huy động nguồn vốn một cách có hiệu quả thì chúng ta nên áp
dụng một số biện pháp sau:
- Đẩy mạnh thu hút vốn trực tiếp từ dân cư và doanh nghiệp, thúc đẩy
đa dạng hoá các hình thức đầu tư.
- Ủng hộ chủ trương của nhà nước đang dự thảo về cơ chế” Đổi quyền
sử dụng đất lấy công trình”. Biện pháp có thể là nhà nước giao quyền sử
dụng đất (có thời hạn) cho chủ đầu tư để lấy công trình do chủ đầu tư xây
dựng theo yêu cầu của nhà nước.
- Củng cố các ngân hàng thương mại và tín dụng theo hướng bảo đảm
mục tiêu an toàn vốn cho gửi tiết kiệm. Mở thêm các điểm gửi thuận lợi
cho người gửi và rút tiền linh hoạt khi xử lý các mức thời hạn
- Quán triệt chủ trương của Đảng nguồn vốn trong nước là quyết định
cuối cùng với việc tích cực tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài, nhân dân ta
góp tiền của và sẽ tiếp tục bỏ tiền của để xây dựng đất nước nhanh chóng
thiết lập các cơ chế chính sách thích hợp đồng bộ hoá các thủ tục hành
chính và các giải pháp vi mô để lập môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn,
hiệu quả.
3/ Huy động vốn trong nước với các vấn đề xã hội.
Trong 5 năm (1991- 1995) vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội là 193,537
tỷ đồng ( tính theo giá hiện hành) tương đương 18,6 tỷ USD. Trong đó vốn
đầu tư trong nước là 137,305 tỷ đồng chiếm 29%. Vốn đầu tư trong nước
thuộc khu vực nhà nước là: 70.011 tỷ đồng ( bao gồm vốn ngân sách, tín
dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đầu tư ), chiếm 31,6%, bình quân
hàng năm tăng 16%. Khu vực ngoàI nhà nước đã đầu tư 67,294 tỷ đồng
chiếm 37,7% so với vốn đầu tư trong nước.
Trong 3 năm (1996- 1998) tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội thực
hiện là253,614 tỷ đồng tương đương khoảng 20- 21 tỷ USD. So với mục
tiêu toàn xã hội của kế hoạch 5 năm 1996- 2000 là 41- 42 tỷ USD thì 3
năm1996- 1998 đã thực hiện được khoảng 40- 50%.
Nguồn vốn đầu tư huy động toàn xã hội ngày càng tăng so với
GDP. Naawm 1989 chỉ đạt 8-9% GDP, thì đến năm 1991 đạt 15,22%, năm
1993 đạt 21%, năm 1995 đạt 26,3%, năm 1996 đạt 26,9% , nawm 1997 đạt
27,5% và năm 1998 đạt28,2%.
Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ngày càng đa dạng hoá, hình thức huy
động được huy động qua nhiều kênh như vốn ngân sách nhà nước, phát
hành tráI phiếu công trình. Hiện nay hình thức cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước để tái đầu tư hoặc đầu tư xây dựng mới đang được mở
rộng. Hình thức doanh nghiệp tự vay vốn của nước ngoào để đầu tư có sự
bảo lãnh của nhà nước cũng đã được mở rộng và hoàn thiện dần. Những
năm gần đay đã triển khai nhiều dự án đầu tư theo hình thức BOT ( xây
dựng- chuyển giao- kinh doanh), BTO ( xây dựng – kinh doanh- chuyển
giao). Đối tượng sử dụng vốn đầu tư đã có sự thay đổi căn bản, theo hướng
xoá bỏ dần bao cấp.
Vốn đầu tư từ nguồn ngoài quốc doanh cos tốc độ tăng trưởng rõ rệt
và ngày càng chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nguồn vốn này chủi yếu tập trung trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, nhà
đất, khách sạn nhà hàng...
VỐN ĐẦU TƯ THỰC HIỆN TOÀN XÃ HỘI 1996- 1998
Nguồn vốn huy
động
1996 1997 1998 1996- 1998
Tỷ
đồng
% Tỷ
đồng
% Tỷ
đồng
% Tỷ đồng %
Tổng vốn đầu tư.
Vốn nhà nước
Vốn ngoài QD
Vốn dân cư
Vốn FDI
Hệ số icor
778,14
30614
21773
15600
26400
-
100
39,4
28,0
20,1
33,9
3,04
90800
38000
22000
14743
30800
-
100
41,9
24,2
16,2
33,9
3,49
85000
39000
20000
13500
26000
-
100
45,9
23,5
15,9
30,6
3,6
253614
107614
63733
43843
83200
-
100
42,43
25,19
17,28
32,80
-
Để đảm bảo đầu tư đúng định hướng, phù hợp với quy hoạch phát
triển kinh tế của vùng, lãnh thổ, nâng cao sử dụng vốn tín dụng đầu tư ưu
đãi, cần đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đầu tư theo chương trình dự
án. Tất cả các công trình dự án đều phải tân thủ một cách nghiêm ngặt các
trình tự đầu tư xây dựng cơ bản.
IV/ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ HUY ĐỘNG VỐN
ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC.
Nguồn vốn luôn là một vấn đề đặt ra hàng đầu cho mọi nền kinh tế
công nghiệp hoá. Tuy nhiên do lợi thế của mỗi một quốc gia là khác nhau
và do sự khác nhau về lợi thế so sánh nên con đường để kiến tạo nguồn vốn
sản xuất là hết sức đa dạng.
1/ Kinh nghiệm của Nhật Bản.
Nhật bản là một cường quốc kinh tế ở Châu á với cách tạo nguồn vốn
cho phát triển kinh tế khác với nhiều nước khác. Những năm cuối thế kỷ
XIX dưới thời Minh Trị, Nhật còn là một nước rất nghèo, nền kinh tế mới
đi vào công cuộc cải cách. Để có khoản tích luỹ vốn đầu tư ban đầu cho
công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nhật đã dựa vào cơ cấu chính quyền rất
mạnh cộng với thu thuế rất lớn từ nhân dân. Thông qua biện pháp này Nhật
đã huy động được nguồn vốn rất lớn cho phát triển kinh tế
Các nhà kinh tế đã tổng kết và đưa ra các nhân tố tác động đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật là:
- Sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất,
đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong
sản xuất, tăng cường điều tiết và vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
quốc dân, mở rộng thị trường.
- Bước đàu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá Nhật đã có tỷ lệ tích luỹ
vốn hàng năm là 21,8% đến năm 1968 là 29,2% lớn hơn hai lần so với Mỹ
và gần bằng 2 lần của Anh.
Năm 1959 GDP của Nhật bằng 81% của Đức nhưng tổng đầu tư vào
tư bản cố định của Nhật đã vượt Đức.
- Nhật duy trì được mức tích luỹ cao là nhờ mức lương thấp trong khi
năng xuất lao động thì rất cao và có xu hướng ngày càng tăng nhanh. Huy
động được khối lượng lớn nguồn vốn từ người dân vào trong kinh doanh,
chi phí cho quan sự thấp, chi phí sử dụng nguồn vốn thấp và khống chế
được mức chi tiêu công cộng ở mức thấp.
2/ Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cách từ thập kỷ 60, kể từ kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ nhất ra đời năm 1962, nền kinh tế đã duy
trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Bình quân tốc độ tăng GDP hàng
năm là 9% cao hơn rất nhiều so tốc độ tăng bình quân của thế giới. Trong
cùng thời gian công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến có tốc độ tăng
trên 20% năm, dịch vụ tăng trên 14%/ năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh đã giúp cho Hàn Quốc giải quyết được nhiều vấn đề như giảm thất
nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo đói, giảm mức chênh lệch về thu nhập giữa nông
thôn và thành thị.
- Tài trợ cho các nhu cầu đầu tư trước tình hình kinh tế trong nước
kém phất triển, nguồn tích luỹ từ nội bộ ít, nguồn tài trợ bên ngoài giảm sút
chính phủ đã khuyến khích đầu tư làm tăng việc sử dụng nguyên liệu trong
công nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích du nhập công
nghệ kỹ thuật mới.
- Sử dụng công cụ thuế và tăng cường tiết kiệm của chính phủ, sử
dụng công cụ thuế như một công cụ kích thích đầu tư, tăng cường sử dụng
chính sách lãi suất thấp, chính phủ đưa ra các điều kiện để hoàn lại vốn và
trả lãi cho các nhà đầu tư. Để tập trung vốn cho phát triển các ngành mũi
nhọn.
3/ Kinh nghiệm ở Anh.
Học thuyết Mác đã nhận định là sự tích luỹ tư bản nguyên thuỷ nhất
thiết phải diễn ra trước khi có sự phát triển kinh tế. Cơ sở thực tiễn của học
thuyết này bắt nguồn từ thực tiễn kinh nghiệm phát triển kinh tế của nước
Anh, nơi mà buôn bán, bóc lột thuộc địa và một số hình thức khác đã tạo
cho nước Anh có được nguồn vốn tích luỹ khổng lồ. Đến cuối thế kỷ XIIX
nguồn vốn tích luỹ của nước Anh biến thành tư bản đầu tư vào công
nghiệp. Từ thực tiễn đó cho thấy, trước cách mạng công nghiệp nước Anh
đã trải qua chủ nghĩa tư bản thương mại hàng thế kỷ. Như vậy thì con
đường và giải pháp cơ bản để tạo dựng vốn đầu tư vào công nghiệp hoá và
phát triển kinh tế là phát triển mạnh tự do thương mại nhằm tạo ra từ tích
luỹ nội bộ nền kinh tế kết hợp với sự cướp bóc từ các nước thuộc địa.
4/ Những bài học vận dụng vào Việt nam.
Kinh nghiệm huy động vốn từ các nước rất đa dạng không theo một
khuôn mẫu định trước nào. Điểm chung có thể rút ra là các nước thành
công trong chính sách này đều tân thủ những quy luật kinh tế cơ bản, tận
dụng tối đa các lợi thế so sánh của nước mình và tính đến một cách cặn kẽ
đIều kiện tự nhiên, địa lý, các nguồn lực tự nhiên cũng như các phong tục
tập quán, tâm lý người dân, đặc đIểm riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên có
những điểm riêng đáng chú ý của từng nước được nghiên cứu có thể mang
lại nhiều lợi ích cho quá trình phát triển kinh tế ở nước ta.
Kinh nghiệm ở một số nước còn cho thấy quỹ đầu tư còn là một định
chế tài chính trung gian tương đối thích hợp để huy động và sử dụng nguồn
vốn lớn. Đây là một mô hình kinh tế bổ ích cho quá trình phát triển kinh tế
ở Việt nam vì vậy chúng ta phải tiến hành công tác nghiên cứu nó một cách
tỉ mỷ xem cái gì có thể vận dụng được và cái gì không áp dụng được.
Nó góp phần vào giải quyết bài toán khó về huy động vốn đầu tư trong
nước, tích luỹ trong nước chỉ được cải thiện nhờ chính sách lãi suất mà
còn nhờ tiết kiệm chi tiêu của chính phủ. Việc hạn chế phần chi tiêu này
góp phần tích cực trở lại với vấn đề huy động vốn trong nước. Một chính
phủ gọn nhẹ với những nguyên tác chi tiêu một cách hợp lý có ý nghiã thực
sự đối với tích luỹ cho nội bộ nền kinh tế quốc dân.
PHẦN II.
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC CỦA VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN VỪA QUA.
I /TTHỰC TRẠNG CỦA VIỆC HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC.
1. Tình hình chung
Nền kinh tế nước ta mới bước ra khỏi cuộc chiến tranh trên mình còn
mang đầy thương tích, khủng hoảng trầm trọng. Vì thế nền kinh tế nước ta
mang nặng tính tập trung , quan liêu, bao cấp cho nên chưa tạo ra động lực
kinh doanh phát triển. Chính Phủ tiến hành đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền
cũ lấy một đồng tiền mới, mỗi người dân chỉ được đổi ở một mức độ giới
hạn, nếu vượt qua giới hạn thì bị giữ lại ở ngân hàng một thời gian khá dài
sau đó mới được rút ra. Bằng việc đổi tiền sẽ hy vọng sớm cải thiện được
cán cân tiền tệ trong nền kinh tế. Tuy nhiên biện pháp này chỉ cắt giảm
được lượng tiền tích trữ ngoài sổ sách của các doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế quốc doanh còn trong khu vực tư nhân và trong nhân dân kết quả
thu được rất hạn chế vì phần lớn tiền tồn tại dưới dạng vàng và đô la Mỹ.
Sau khi tiến hành đổi tiền mặt thì các doanh nghiệp quốc doanh gàn như bị
tê liệt, gây nên tình trạng thiếu tiền mặt nghiêm trọng. Để giải quyết vấn đề
này buộc Chính phủ phải phát hành tiền để duy trì sự hoạt động cho các
doanh nghiệp quốc doanh và vì vậy làm tăng thêm mức độ lạm phát. Trong
khi đó:
- Công suất sử dụng thực tế máy móc thiết bị thấp, chỉ đạt 30%, riêng
ngành cơ khí đạt 20% công suất thiết kế.
- Chi phí năng lượng để làm ra một sản phẩm cao hơn so với tiêu
chuẩn tiên tiến của thế giới từ 1,5- 2 lần.
- Chất lượng sản phẩm thấp, so với tiêu chuẩn xuất khẩu chỉ đạt 15%.
Sản phẩm sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
- Tình trạng thua lỗ của các xí nghiệp khá phổ biến, gần 30% trong số
1695 xí nghiệp quốc doanh trung ương và 40% trong số 10389 xí nghiệp
quốc doanh địa phương hoạt động bị lỗ vốn.
Nguyên nhân của việc sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả là do quản lý
và sử dụng vốn theo cơ chế quan niêu bao cấp, thể hiện:
- Lãng phí vốn do bao cấp và bao cấp tín dụng thể hiện:
+Tỷ trọng vốn đầu tư cho thiết bị quá thấp, công nghệ lạc hậu và
không đồng bộ.
+ Chi phí quá lớn, 1 đồng vốn bỏ ra chỉ có 0,54 đồng chuyển thành tài
sản cố định.
- Đầu tư tràn lan thiếu trọng điểm, không tính toán rõ hiệu quả đầu tư.
Còn nguyên nhân khác quan là do các nguồn vốn vay và các khoản viện
trợ, ta không có toàn quyền lựa chọn và quyết định các dự án có hiệu quả,
thậm trí nhiều trường hợp phải nhận các thiết bị lạc hậu.
Nguồn vốn trong nước trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, một
phàn là do tích luỹ nội bộ là chưa lớn, nhưng nguyên nhân quan trọng là
chưa có các chính sách thích hợp để khuyến khích đầu tư của mọi thành
phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình.
2/ Sau cả cách kinh tế (từ 1996- 1999).
Chính sách đổi mới nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã bước
đầu khơi đậy những tiềm năng, động lực to lớn còn tiềm tàng trong dân cư.
Tuy nhiên, kết quả quan trọng nó cũng còn có nhiều hạn chế và thaaps xa
so với tiềm năng và khả năng khaio thác của nước ta, cũng như chưa tương
xứng với công cuộc đổi mới ở nước ta đang trong giai đoạn thực hiện quá
trình công nghiệp hoá nền kinh tế. Trong quá trình công nghiệp hoá nó đòi
hỏi phải phát triển nền kinh tế với tốc độ cao, ổn định và bền vững, đồng
thời phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo hướng các
nước công nghiệp phát triển. Bên cạnh nguồn vồn nước ngoài, nguồn vốn
trong nước phaior được huy động một cách tối đa, đảm bảo vai trò có ý
nghĩa to lớn cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước .
Nhìn vào bảng cơ cấu tốc độ nguồn vốn trong nước ta thấy cơ cấu vốn
trong nước tăng dần qua các năm, còn vốn ngoài quốc doanh và các vốn
khác thì giảm dần cả về tỷ trọng và tốc độ. Qua đó cho ta thấy được tầm
quan trọng của vốn đầu tư trong nước ngày càng quan trọng và quyết định
mọi hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh tế. Giai đoạn 1991- 1997 các
chính sách về đầu tư đã thực sự phát huy tác dụng thu hút mọi tầng lớp dân
cư và mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh bằng tất cả các nguồn lực của mình, nhiều người đã bỏ cả
phần của cải tích luỹ vào đầu tư phát triển sản xuất. Tổng cộng trong 7 năm
từ năm 1991- 1997 cả nước đã huy động được 386 nghìn tỷ đồng ( tính
theo mặt bằng giá cả năm 1995) tương đương với khoảng 35 tỷ đô la.
Trong đó vốn bình quân trong nước chiếm trung bình từ 52- 53%. Năm
1998 tổng vốn đầu tư phát triển đạt 9200 tỷ đồng, kế hoạch năm 1999 là
120.000 tỷ đồng. Muốn đạt được kế hoạch đã đề ra thì nhà nước nên ấn
định mức lãi suất cao để hấp dãn người gửi. Trên thực tế việc áp dụng biện
pháp này bước đầu đã mang lại một số kết quả khả quan đặc biệt là số
người gửi tiết kiệm ngày càng gia tăng cả về quy mô và khối lượng.
II/ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC TRONG
THỜI GIAN QUA .
1/ Trong lĩnh vực nông nghiệp.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế có được như trên là do hầu hết các
ngành và các lĩnh vực kinh tế chủ yếu đã đạt được những thành tựu rõ nét
và tương đối đồng bộ. Nông nghiệp là một trong những ngành đạt được
thành tựu nhất trong những năm đổi mới nền kinh tế nói chung và trong
những năm 1991- 1997 nói riêng. Sự phát triển của ngành nông nghiệp là
tương đối ổn định và vững chắc đặc biệt là ngành sản xuất lương thực. Mức
độ huy động và sử dụng vốn nông nghiệp hãy còn phụ thuộc vào các chính
sách của Nhà nước đối với nông nghiệp. Khu vực nông nghiệp là khu vực ít
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á nên sản xuất
gia tăng, quy mô gia tăng đồng đều qua các năm. Nguyên nhân chủ yếu làm
cho ngành nông nghiệp tiếp tục gia tăng là do các chính sách của Chính
phủ khuyến khích phát triển nông nghiệp nên sản lương thực tăng đều qua
các năm như sau: Năm 1995 đạt 27,4 triệu tấn, năm 1996 đạt 29,2 triệu tấn,
năm 1997 đạt 30,6 triệu tấn, năm 1998 đạt 31,5 triệu tấn ước đến năm 1999
đạt 33,8 triệu tấn.
2/ Trong lĩnh vực công nghiệp.
Trong những năm gần đây sản xuất công nghiệp đã dần thích ứng với
cơ chế quản lý mới và đang đi vào thế phát triển ổn định. Sự phát triển giữa
các ngành các khu vực và các loại sản phẩm công nghiệp tuy ở mức độ
khác nhau nhưng nhìn chung xu hướng tăng tương đối rõ nét. Công nghiệp
ngoài quốc doanh tuy có chậm phát triển hơn do chậm thích ứng với cơ chế
quản lý mới và phải khắc phục sự tan vỡ của công nghiệp tập thể nhưng
đến nay vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Sự phát triển của ngành công
nghiệp trong những năm qua bắt nguồn từ sự đầu tư lớn và có kế hoạch của
nhà nước của nhiều năm trước đây cho một số ngành công nghiệp quan
trọng như: Dầu khí, điện, xi măng. Việc đẩy mạnh khai thác dầu thô và
nâng cao hiệu suất sử dụng của các nhà máy lớn như xi măng Bỉm sơn, xi
măng Hoàng Thạch, thuỷ điện Trị An, Hoà Bình.
3/ Trong lĩnh vực dịch vụ.
Mở rộng nhiều hoạt động dịch vụ trong nông thôn nhất là hoạt động
cung ứng vật tư kỹ thuật, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính tín
dụng, dịch vụ du lịch, dịch vụ y tế, giáo dục…Đã đạt được mức tăng
trưởng cao qua các năm là do phát triển hàng hoá và dịch vụ đa dạng phong
phú, lưu thông lại thông thoáng nên quan hệ giữa cung và cầu về hàng hoá
dịch vụ ngày càng được cải thiện dần ổn định giá cả do cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ gây ra.
4/ Các chính sách được sử dụng đẻ huy động nguồn vốn trong nước
thời gian qua.
Xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 với
trọng tâm cua đổi mới nền kinh tế là công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền
kinh tế quốc dân, nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển của toàn xã hội thời
kỳ 1996- 2000 sẽ vào khoảng 45- 50 tỷ USD. Để nhìn nhận và đánh giá
việc sử dụng các công cụ vĩ mô nói chung và các công cụ của chính sách
tài chính tiền tệ nói riêng cần phải dưạ vào các mục tiêu chủ chốt mà các
công cụ và chính sách nhằm đạt tới. Trong thời gan qua nhà nước ta đã sử
dụng một số chính sách sau:
- Chính sách huy động tiết kiệm:
+Ảnh hưởng của công cụ lãi suất đến tiết kiệm: Khi lãi suất tiền gửi
của hộ gia đình tăng lên điều này sẽ làm cho nhu cầu về tiết kiệm giảm đi.
Điều này trái ngược với lý thuyết kinh tế là khi lãi xuất tiền gửi tăng lên thì
chi phí cơ hội của việc giữ tiền tăng nhưng nó lại phản ánh đúng thực tế ở
việt nam trong thời gian qua. Như vậy có thể nói trong mấy năm qua tỷ lệ
tiết kiệm của nước ta tăng nhanh nhờ chủ yếu vào tốc độ tăng trưởng cao
của nền kinh tế và cả sự ổn định của nền kinh tế và phần nào vào chính
chính sách lãi suất thực dương hợp lý của Nhà nước ta. Mặc dù tiết kiệm
tăng nhanh nhưng nó vẫn không đủ khả năng cung cấp đủ nguồn vốn cho
đầu tư vào sản xuất.
+ Giá cả tác động đến tiết kiệm. Về mặt lý thuyết khi giá cả tăng thì
tiết kiệm sẽ giảm, thì việc ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát có tác động
to lớn đến khả năng huy động nguồn vốn nội địa.
+ Tác động của bản thân cầu về đầu tư tới tiết kiệm.
- Các biện pháp kích thích đầu tư.
+ Quan hệ giữa công cụ lãi suất và đầu tư: Thông thường các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường, thường vay vốn từ thị trường vốn để
mua hàng hoá đầu tư, lãi suất cho các khoản vay đó càng cao, thì lợi nhuận
dự kiến của doanh nghiệp thu được từ các khoản vay đó càng giảm.
+ Quan hệ giữa thu nhập và đầu tư: Khi tăng nhu cầu về đầu tư thì thu
nhập cũng sẽ tăng lên.
+ Hàm xác định đầu tư tư nhân: Đầu tư tư nhân được tính bằng hiệu
số của tổng đầu tư và đầu tư Nhà nước.
+ ảnh hưởng của công cụ tỷ giá: Tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến cán
cân thương mại. Về lý thuyết khi đồng tiền trong nước mất giá tương đối so
với tiền nước ngoài thì xuất khẩu có lợi và ngược lại.
- Chính sách khơi thông, chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư.
+ Tự đầu tư: Người tiết kiệm đồng thời là chủ đầu tư hoặc có quan hệ
gắn bó, thân thuộc với chủ đầu tư. Việc tiết kiệm chuyển thành đầu tư theo
kênh này chủ yếu do tác động của cầu kéo, cầu về đầu tư gia tăng sẽ kích
thích người đầu tư gia tăng tiết kiệm, hoặc tìm cách huy động vốn đầu tư
của bạn bè , gia đình để đầu tư sản xuất.
+ Qua ngân sách: Là một kênh hết sức quan trọng đối với nền kinh tế
chuyển đổi, là một bộ phận trong toàn bộ kế hoạch đầu tư, nó có vị trí hàng
đầu trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy quá trình
đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế
theo đúng định hướng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
+ Đầu tư qua hệ thốnh tài chính: Các hoạt động chủ yếu của nó như
phát hành trái phiếu, cổ phần.
III/ KẾT LUẬN.
Trong những năm vừa qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra còn
chậm chạp nhất là cơ cấu vùng kinh tế. Để khắc phục tình trạng này trong
thời gian qua Đảng và nhà nước ta đã và đang xúc tiến các kế hoạch thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, giả quyết các vấn đề xã hội nói chung và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nói riêng, trên cơ sở phát huy tiềm năng và lợi thế so
sánh của các ngành các thành phần kinh tế và các vùng kinh tế. Việt nam
cũng đã phát động chuyển dần nền kinh tế sang thời kỳ phát triển mới-
Thời kỳ nền kinh tế bước sang giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá
theo tinh thần nghị quyết hội nghị đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
Đảng cộng sản Việt nam tháng 1-1994. Đây cũng là một nguồn lực và môi
trường trong hành trang kinh tế việt nam tiến vào thế kỷ 21. Vì thế trong
những năm tới đây, cơ chế quản lý kinh tế sẽ tiếp tục hoàn thiện theo
hướng đồng bộ các yếu tố của thị trường như: Thị trường hàng hoá, thị
trường lao động, thị trường nhà cửa, thị trường chứng khoán…Đồng thời
hoàn thiện chính sách kinh tế, đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, đổi
mới các chính sách tài chính tiền tệ, giá cả và nâng cao hơn nữa năng lực
và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. Việc tạo ra cơ chế như vậy sẽ tạo
môi trường thuận lợi để tiếp tục mở rộng quá trình dân chủ hoá nền kinh tế,
giải phóng sức sản xuất, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Vì
vậy, chiến lược huy động và sử dụng vốn đầu tư cho trung hạn và dài hạn
cũng đang được khẩn trương soạn thảo . Theo dự kiến ban đầu chỉ riêng
vốn đầu tư cho 5 năm 1996- 2000 đã tăng lên 41- 42 tỷ USD gấp 2,2 lần
tổng mức đầu tư trong giai đoạn 1991- 1995. Trong đó năm 1996 là 6,0 tỷ
USD, năm 1997 là7,0 tỷ USD, năm1998 là 8,25 tỷ USD , năm 1999 là
9,25- 9,75 tỷ USD , năm 2000 dự đoán là 10,5- 11 tỷ USD. Trong tổng số
vốn đầu tư đó thì 50% được lấy từ nguồn vốn trong nước còn lại là nguồn
vốn ngoài nước, so với nhu cầu phát triển vốn đầu tư thì số vốn trên còn
hạn hẹp, do vậy hướng sử dụng vốn trong thời gian tới: Chính phủ sẽ tập
trung vào lĩnh vực mà tư nhân không làm được, đặc biệt là các hạng mục
đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư các
hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp chủ yếu là các hoạt động của các
doanh nghiệp.
Vốn đầu tư trong 5 năm 1996- 2000 sẽ được tập trung với mức độ
tương đối lớn vào ba vùng kinh tế trọng điểm: Bắc- Trung- Nam. Nhằm tạo
ra các động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, đồng
thời đặc biệt coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội miền núi và dành
một phần lớn để giải quyết các vấn đề bức xúc của vùng kinh tế khác.
Trong mỗi vùng mỗi địa phương cũng sẽ đầu tư cho ccác vùng kinh tế
trọng điểm nhằm tạo ra các cực tăng trưởng kinh tế cho các vùng, từng địa
phương.
Những khó khăn về xây dựng kinh tế xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch
vụ, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất có thể khắc phục nhanh các hạn
chế nếu có đủ vốn đầu tư. ở nước ta hiện nay đang gặp phải một số khó
khăn trong công tác huy động nguồn vốn trong nước. Trong những năm
trước đây nguồn vốn cho xây dựng cơ bản được lấy từ nguồn ngân sách
nhà nước và một phần khấu hao cơ bản để lại cho các doanh nghiệp, các
nguồn vốn khác hầu như không đáng kể. Trong những năm gần đây việc
huy động nguồn vốn cho xây dựng cơ bản không phải chỉ có nhà nước đầu
tư mà nó được huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Đây là sự chuyển
biến nổi bật trong tạo nguồn vốn. Tuy nhiên, theo tính toán sơ bộ thì vốn
đầu tư trong nước mới chỉ chiếm trên 20% GDP. Nếu so với một số nước
NICs thì tỷ lệ đầu tư này là rất thấp.
Hiện nay cũng như một vài năm tới việc huy động vốn đầu tư cao hơn
so với giai đoạn hiện nay là rất khó khăn vì nguồn tích luỹ ở trong nước
còn nhỏ bé, năng suất lao động xã hội thấp.
Nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài cũng gặp những khó khăn vì hầu hết
các nước đang đầu tư vào Việt nam lại là những nước đang có chiến lược
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, việc tranh giành nguồn vốn đầu
tư nước ngoài trên thế giới gặp rất nhiều vấn đề về cạnh tranh. Việt nam
tuy là một môi trường mới nhưng không phải là thật hấp dẫn vì cơ sở hạ
tầng còn thấp kém , lạm phát vẫn còn ở mức cao, cơ chế chính sách chưa
hoàn chỉnh. Sau nữa vốn nước ngoài chỉ có thể huy động dược khi vốn
trong nước tăng. Qua đó chúng ta thấy được việc huy động vốn trong nước
bền vững, vay vốn bên ngoài khó khăn. Chúng ta cần thấy được một số lợi
ích sau:
- Huy động vốn trong nước là tiền đề vật chất cho việc vay vốn nước
ngoài, thể hiện sức mạnh của nền kinh tế các nước đang phát triển đảm bảo
khả năng thanh toán bền vững trong quan hệ tín dụng đối với các nước, là
động lực thúc đẩy các nước đầu tư mà không sợ mất vốn.
- Biện pháp hữu hiệu nhất cho việc quản lý và điều hành lưu thông
tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát dưới
10% là khả năng có thể thực hiện được.
- Cơ sở để Nhà nước hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội
và cân đối vốn vay trong nước và vốn vay nước ngoài, bảo đảm sự ổn định
nền tài chính quốc gia. Sự tăng trưởng nguồn vốn nội lực là pháo đài chống
đỡ những rủi ro của nền kinh tế và khủng hoảng tài chính trong nước như
một số nứơc trong khu vực.
- Huy động vốn bằng lãi xuất cao là động lực thúc đẩy người có tiền
tiết kiệm, chi tiêu, mua sắm xây dựng chưa cần thiết dành tiền gửi vào nhà
nước để sinh lời như một hoạt động dòng chảy theo thời gian tự nguyện
đưa tiền đến gửi nhà nước mà không phải băn khoăn lo sợ.
- Muốn huy động được nhiều phải có lãi suất cao tức là “ đầu vào cao”
dẫn đến “đầu ra cao” đó là nguyên tắc trong kinh doanh tiền tệ. Tuy nhiên
đó chỉ là bề nổi còn bề sâu cũng cần phải suy ngẫm một cách nghiêm túc là
lãi suất có cao nhưng nhà nước tập trung và tích tụ được vốn , giảm dần
vốn đi vay nước ngoài, nhân dân tăng thêm thu nhập là cái gốc để huy dể
huy động không ngừng tăng lên làm cho nước mạnh dân giàu
- Nguồn vốn huy động trong nước ngày càng tăng, tỷ lệ vay nước
ngoài giảm đi một cách hợp lý, là biện pháp tiết kiệm ngoại tệ cho nước
nhà.
PHẦN III
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN TRONG
NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
I/ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI.
Đất nước ta đang thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời
gian tới là: tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, tạo ra nhiều công ăn việc
làm cho người lao động, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết
các vấn đề xã hội... Trong đó mục tiêu quan trọng nhất là phải thực hiện
được mục tiêu kinh tế xã hội giai đoạn 1996- 2000. Với nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm là từ 9- 10%/ năm, và GDP bình quân
trên đầu người hàng năm tăng gấp đôi so với những năm 90. Để đạt được
đIều đó thì đòi hỏi Nhà nước ta phải đầu tư một lượng vốn tương ứng là
42,0 tỷ USD.
Để có nguồn vốn cho đầu tư phát triển trên thì một mặt chúng ta phải
huy động một cách tối đa các nguồn lực trong nước hiện có. Một mặt phải
huy động các nguồn vốn từ bên ngoài của các tổ chức chính phủ và phi
Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là nguồn vốn trong
nước, nó mang tính chất quyết định như các nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước, vốn của các doanh nghiệp, vốn của dân cư,.
Đối với nguồn vốn từ nước ngoài chúng ta chủ yếu huy động các
nguồn vốn chủ yếu sau: Vốn và công nghệ mới tranh thủ các nguồn vốn tín
dụng của các tổ chức tài chính quốc tế như: IMF, ADB, WB…, các nguồn
vốn tài trợ mang tính chất song phương và đa phương, và nguồn vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài. Vì vậy việc huy động vốn trong thời gian tới phải
đạt được các mục tiêu chủ yếu sau:
- Tính đồng bộ của chính sách huy động vốn với chính sách kinh tế và
chính sách tài
- chính để tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền
vững.
- Đa dạng hoá các hình thức và công cụ huy động vốn, nhằm thu hút
và khơi dậy tiềm năng về vốn để đầu tư phát triển nền kinh tế, và năng cao
hiệu quả của việc sử dụng vốn nhằm bảo toàn và phát triển nguồn nội lực.
- Thực hiện chiến lược huy động vốn của Đảng trong giai đoạn hiện
nay: “Huy động vốn trong nước là quyết định, huy động vốn ngoài nước là
quan trọng”, đòi hỏi chúng ta phải xử lý một cách linh hoạt các tình huống
với đIều kiện của đất nước trong từng giai đoạn phát triển
Do đó Nhà nước phải có cơ chế , chính sách và các giải pháp thích
hợp cho đầu tư phát triển đất nước.
Văn kiện đai hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ ra rằng đến năm 2020 Việt
nam phải hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng đói nghèo lạc hậu và trở thành một nước công nghiệp với các chỉ tiêu
cụ thể như sau:
- Dịch vụ tăng hàng năm từ 12- 13%.
- Nông nghiệp tăng hàng năm từ 4- 5% và gắn nó với ngành công
nghiệp chế biến.
- Công nghiệp nặng tăng hàng năm từ 14- 15%, chú trọng công nghiệp
chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xây dựng
và có chọn lọc một số ngành như dầu khí, xi măng, than, cơ khí, điện tử
Huy động mọi nguồn lực trong nước, đồng thời thu hút các nguồn vốn
từ bên ngoài để đưa tỷ lệ đầu tư phát triển xã hội lên khoảng 30% GDP.
Xuất phát từ kinh nghiệp của nước ta và các nước đang phát triển các nhà
kgoa học đã tính toán ra rằng để đạt tốc độ tăng trưởng trung bình GDP
hàng năm là từ8- 10% thì tổng mức đầu tư trong nước của việt nam phải
đạt được từ mức 20- 35% GDP từ nay đến năm 2020. Để đạt được tốc độ
tăng trưởng
kinh tế cao như vậy, chúng ta phải đẩy nhanh quá trinh quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân làm cho nền kinh tế nước
ta có nhiều sự đột biến trong cơ cấu GDP, theo hướng giảm dần tỷ trọng
nông nghiệp tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ xã hội. Điều
này nó càng đòi hỏi nhu cầu lớn về vốn để năng cao quắ trình tích tụ tập
trung vốn.
Vì vậy để cho chiến lược này được thực hiện một cách có hiệu quả thì
nhà nước ta phải tiến hành:
+ Tiếp tục hoàn thiện chính sách luật pháp nhằm tạo ra hành lang an
toàn cho các chủ đầu tư hoạt động một cách hữu hiệu.
+ Đẩy nhanh lại quá trình cấu chúc lại hệ thống các doanh nghiệp nhà
nước
+ Xác định mục tiêu, hướng tích tụ và tập trung các nguồn vốn saqo
cho thích hợp với tình hình mới.
+ Hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh với
các tập đoàn kinh tế khác trên thị trường thế giới nói chung và trên thị
trường nước ta nói riêng.
+ Hoàn thiện hệ thống ngân hàng
+ Đa dạng hoá các định chế tài chính
+ Thiết lập và củng cố các điều kiện cần thiết để thị trường chứng
khoán ra đời và hoạt động trên thị trường.
+ Đa dạng hoá các loại hình huy động vốn trong nước.
+ Thực hiện tốt chính sách khuyến khích tiết kiệm và bảo vệ tiết kiệm
của dân chúng
II/ NHU CẦU PHÁT TRIỂN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC Ở
NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
- Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đề ra các mục tiêu
tăng tổng sản phẩm xã hội lên gáp hai lần vào năm 2000. Khát vọng chung
của Đảng, Nhà nước và nhan dân ta là thoát khỏi cảnh đói nghèo, để có thể
trong một thời gian ngắn có thể sánh vai với các nước khác trong từng cảnh
ngộ với nước ta. Tiếc thay sự phồn vinh không thể tự nhiên mà có, nó đòi
hỏi phải lao tam, khổ trí và đòi hỏi những đIều kiện hết sức ngặt nghèo.
Trong tất cả các đIều kiện tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế thì
có 3 điều kiện tiên quyết là lao động, vốn và công nghệ. ở nước ta nguồn
lao động thì dồi dào, trình độ tay nghề vững vàng và có khả năng tiếp thu
nhanh những kiến thức mới. Ngược lại vốn và công nghệ laio đang trong
tình trạng khó khăn. Hơn nữa muốn đổi mới công nghệ thì lại rất cần đến
nguồn vốn. Do đó vốn là vấn đề gay cấn nhất và mấu chốt nhất.
Với nhu cầu về vốn trong thời gian tới là bao nhiêu? Để trả lời chính
xác cho câu hỏi này là công việc của giới chuyên môn- Những nhà kế
hoạch. Người ta thường tính theo hai phương pháp chủ yếu sau:
- Tính nhu cầu về vốn theo tiêu thức giải quyết vấn đề việc làm theo
công thức:
Δk = Δw*k
Trong đó: Δk là hệ số vốn cần thiết phải tăng thêm.
Δw: là hệ số lao động tăng thêm cơ cấu lao động
Hệ số k ở mỗi nước một khác nhau. ở Mỹ mỗi chỗ làm việc được trang bị
trong ngành công nghiệp là: 11000 USD , trong ngành nông nghiệp là
23.000 USD. ở các nước phát triển khác như Nhật bản thì mức vốn trang bị
cũng rất cao.
Ở nước ta do giá cả phản ánh chưa chính xác giá trị vốn và giá trị tàI
sản cho lên hệ số k cũng không được chính xác. Tuy nhiên nếu lấy hệ số
bình quân đã được đúc kết ở các nước đang phát triển là khoảng 3000
USD, thì với yêu cầu tạo ra chỗ làm việc cho gần 20 triệu người từ nay đến
năm 2000, chúng ta cần có số vốn là 60 tỷ USD. Nếu chỉ giảI quyết cho 2/3
số người đến tuổi lao động và số người trong độ tuổi lao động thì nhu cầu
về vốn cũng khoaangr 40 tỷ đô la.
- Tính theo mô hình HAROTDOMA.
Δ k= ΔG*k.
Mô hình này cho biết khối lượng vốn cần thiết để đạt mục tiêu tăng
trưởng kinh tế là:
Với k là hệ số vốn- sản lượng. Hệ số này chỉ ra số lượng cần thiết để
có một khối lượng sản phẩm tăng lên.
Theo tổng kết của các nhà kinh tế thế giới, hệ số k ở các nước đang
phát triển nó giao động từ 3,3- 7,1% tức là để cóp một đồng giá trị tăng
thêm phảI đầu tư từ 3,3- 7,1 tỷ đồng. Hiện nay tổng sản phẩm xã hội của
nước ta vào khoảng 50 nghàn tỷ đồng.
Với phác hoạ trên, có thể thấy rằng tuy mục tiêu tăng trưởng kịnh tế
đến năm 2000 chưa thực sự thoả mãn nhu cầu vượt qua đói nghèo, tức là
nước ta vẫn chưa thoát ra khỏi các nước có mức thu nhập thấp hơn 500
USD. Nhưng chỉ với mục tiêu đó thì nhu cấu về vốn cũng ở mức 250- 300
ngàn tỷ đồng. Đây là một vấn đè nan giải của chính sách tài chính quốc gia
và đây cũng là một bài toán hóc búa trong chiến lược vốn của chính phủ.
Bởi lẽ trong suốt 35 năm qua, nền kinh tế chúng ta mới đầu tư và tái tạo
khoảng trên dưới 100 ngàn tỷ đồng vốn, trong đó khu vực kinh tế quốc
doanh chiếm trên dưới 80 tỷ ngàn đồng.
Để giải bài toán về vốn phải coi trọng cả hai hình thức tạo vốn từ
trong nước và ngoài nước. Đối với nguồn vốn trong nước phải thực hiện
phương châm vừa kích thích quá trình khai thác sử dụng vốn có hiệu quả
vừa nuôidưỡng và tăng trưởng các nguồn vốn.
Sự phát triển các thành phần kinh tế cùng với cơ chế tự chủ tài chính
trong khu vực kinh tế quốc doanh đã tạo môi trường cạnh tranh cho tất cả
các doanh nghiệp. Chín sách phân phối mới đã làm biến đổi hoàn toàn vấn
đề tiền lương thu nhập và dự trữ tiền vốn trong các doanh nghiệp, hộ gia
đình và các tổ chức kinh tế xã hội. ở đây nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất
hiện với đúng nghĩa của nó, nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: phía những
người cần vốn và phía những người có vốn. Người cần vốn trước tiên là
nhà đầu tư, cơ chế mới cho phép mọi pháp nhân và thế nhân được hoạt
động kinh doanh, nhưng luật pháp bắt buộc mỗi hoạt động phải có số vốn
nhất định. Hơn nữa bản thân quá trình đầu tư cho xây dựng và mua sắm
thiết bị công nghệ đã bắt buộc các nhà đầu tư phải tính đến hiệu quả lâu
dài, nghĩa là không thể đầu tư vào công nghệ lạc hậu mà phải có được các
loại máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến hiện đại đủ sức cạnh tranh trên
thị trường. Tuy nhiên tham vọng thường vượt quá khả năng và các nhà đầu
tư thường lâm vào tình trạng thiếu vốn, thậm chí toàn bộ số vốn của bản
thân mỗi nhà đầu tư chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ của dự án đã vạch
ra. Nhu cầu tập trung vốn là rất cần thiết cho các nhà đầu tư và rất có lợi
cho nền kinh tế. Do mỗi nhà đầu tư đều sẵn sàng tiếp nhận sự đóng góp
nguồn vốn của dân cư nhàn rỗi.
Còn các nhà sản xuất kinh doanh trong quá trình hoạt động của mình
cũng cần thiết phải mở rộng sản xuất đổi mới thiết bị và công nghệ để có
thể đứng vững trong cạnh tranh. Mỗi dự án mở rộng và cải tạo đều cần đến
nguồn vốn. Ngoài nguồn vốn tự có do tích tụ trong quá trình sản xuất kinh
doanh họ cũng cần huy động thêm nguồn vốn từ bên ngoài.
Nói tóm lại, toàn bộ hoạt động của quá trình tái sản xuất mở rộng đều
thể hiện yêu cầu về nguồn vốn các ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Tiếp theo đó một lực lượng quan trọng cũng cần đến nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư đó là ngân sách nhà nước. Do nguồn thu ngày càng eo hẹp và
tăng chậm, trong đó nhu cầu về chi tiêu dùng và chi cho đầu tư kinh tế ngày
càng tăng, ngân sách nhà nước ngày càng thâm hụt Nhà nước rất cần vốn
để đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội .
III/ PHƯƠNG HƯỚNG HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG
NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI.
Hiện nay việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước còn nhiều
hạn chế, nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc phân bổ lại nguồn
vốn đầu tư trong toàn xã hội theo hướng thu hẹp khoảng cách giữa các
vùng. Vốn đầu tư trong nước (chủ yếu là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
và một phần vốn huy động từ trong dân cư ). Trong các nguồn vốn đầu tư
thì chỉ có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước mới đầu tư cho phát triển kinh
tế nông nghiệp- nông thôn và những vùng khó khăn vùng sâu, vùng xa, để
thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo...
Vì thế chính sách huy động trong thời gian tới phải tác động tích cực
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các quan điểm định hướng sau:
- Thứ nhất là: ưu tiên đầu tư vào các ngành có lợi thế tài nguyên, vị trí
địa lý và tài nguyên tự nhiên nhằm khai thác các loại hàng hoá có chất
lượng, giá rẻ để cạnh tranh với các loại hàng hoá của nước ngoài như: cà
phê, cao su, hạt điều, nuôi trồng thuỷ sản...
- Thứ hai là: Đầu tư phát triển nền nông nghiệp một cách toàn diện
kèm theo các ngành công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản. Trước mắt
cũng như lâu dài cần tập trung vào phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
như: vùng đồng bằng sông hồng, vùng đồng bằng sông cửu long để phục
vụ sản xuất hàng hoá trong nước cũng như phục vụ cho xuất khẩu.
- Thứ ba là: Về vấn đề dân số , đây là vấn đề lớn gây áp lực cho nước
ta phải giải quyết công ăn việc làm cho những người đến độ tuổi lao động
và những người chưa có công ăn việc làm ổn định.
- Thứ tư: Phát triển ngành nghề tạo công ăn việc làm tại chỗ, chú trọng
đầu tư thâm canh trong nông nghiệp, phát triển lâm nghiệp theo chương
trình 5 triệu ha rừng, phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề
truyền thống tại các vùng đông dân nhằm tạo ra khối lượng hàng hoá lớn,
hạn chế di dân tự do gây nên nạn tàn phá tài nguyên như thời gian gần đây
như ở tây nguyên.
- Thứ năm là: Đầu tư vào những ngành có suất đầu tư thấp, khả năng
canh tác còn thấp, thu hút nhiều lao động, lại có hiệu quả cao như: ngành
điện khoảng 123.000 USD, ngành hoá chất 30.000 USD, ngành luyện kim
đen: 375.000 USD, ngành công nghiệp thực phẩm: 9.900 USD, ngành công
nghiệp nhẹ: 9.350 USD.... có suất đầu tư thấp lại thu hút được nhiều công
ăn việc làm phù hợp với nguồn tài nguyên của nước ta. Nên trong giai đoạn
hiện nay và trướcmắt nhà nước cần tập trung vốn cho các ngành then chốt,
những ngành có tính chất đột phá cao.
- Thứ sáu là: Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước thì nhà nước ta
bố trí khoảng 20% tổng chi ngân sách cho nhu cầu đầu tư, nguồn gốc của
số vốn này là đi vay và thu từ các khoản thu của chính phủ như: thuế, các
loại phí... các nguồn thu này mới chỉ đủ tiêu dùng thường xuyên. Nguồn
thu này chỉ có thể khai thác nhiều hơn trên cơ sở phát triển mạnh sản xuất
trong nước kết hợp với sử dụng có hiệu quả hình thức tín dụng nhà nước.
- Bảy là: Đối với các nguồn vốn tịch luỹ của doanh nghiệp: Hiện nay
nguồn này rất hạn chế bởi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh làm ăn
không có hiệu quả, công nghệ sản xuất còn lạc hậu dẫn đến chất lượng
hàng hoá không cao, nguồn vốn khấu hao thì lớn vì vậy nhà nước cần có
các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn.
- Tám là: Đối với nguồn tiết kiệm trong dân cư được hình thành từ
nhiều lý do khác nhau ( tài sản thừa kế, thân nhân gửi về từ nước ngoài, tài
sản tự tích luỹ được....). Nhà nước đã có chính sách khuyến khích làm giàu
chính đáng, do vậy hhiện nay đã có nhiều hộ có mức thu nhập cao, đầu tư
lớn vào nền kinh tế. Theo ước tính của các nhà kinh tế hiện nay nước ta có
khoảng vài trăm nghìn tỷ đồng nguồn vốn nhàn rỗi, nhhưng trong những
năm vừa qua việc đầu tư vào sản xuất kinh doanh mới đạt khoảng 1% của
nguồn vốn này.
Như vậy nguồn vốn trong dân cư của nước ta là rất lớn. Vì vậy nó cần
phải được quan tâm một cách đúng mức để giải quyết một cách kịp thời các
nhu cầu cấp bách về vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, không gây xáo trộn thị trường tiền tệ, đảm bảo giữ vững giá của
đồng nội tệ và là biện pháp thúc đẩy việc nhanh chóng hình thành thị
trường vốn đặc biệt là thị trường chứng khoán. Đó là chưa kể đến sự bất lợi
do vay nợ nước ngoài, vì vậy chúng ta cần phải có định hướngcho việc huy
động vốn đầu tư trong nước như sau:
- Nhà nước cần sớm ban hành luật đầu tư trong nước tạo môi trường
thuận lợi cho những người có vốn đầu tư vào sản xuất.
- Vốn đầu tư của nhà nước cần tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng,
đầu tư vào các ngành then chốt để tạo điều kiện cho sự ra đời của các
doanh nghiệp.
- Hệ thống thuế của nhà nước vừa phải bảo đảm tập trung nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, vừa bảo đảm khuyến khích các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Ổn định tiền tệ là yếu tố cốt yếu của chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy
nhà nước cần phải tập trung duy trì áp dụng nhanh nhạy hợp lý, đồng bộ
các hệ thống giải pháp nhằm phục vụ cho vấn đề này.
- Nhà nước cần khẩn trương hoàn thành các bộ luật nói chung và kinh
tế nói riêng.
IV/ NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ ĐỂ HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN
TRONG NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI.
- Một là: Cần nhanh chóng nghiên cứu để giảm bớt thủ tục phiền hà
đối với khu vực kinh tế quốc doanh, như nghị định 42/cp và nghị định
92/cp quy định về đầu tư, xây dựng theo xu hướng giảm bớt các yêu cầu
phải có quyết định đầu tư và giâý phép đầu tư đối với các nhà đầu tư
không sử dụng tiền. Nhà nước bỏ khâu phê duyệt dự án thay bằng giải
trình các phương án kinh doanh, thực hiện việc phân cấp xem xét ưu
đãi đầu tư đến cấp quận huyện để các nhà đầu tư sẵn sàng tiếp cận được
với các chính sách ưu tiên đầu tư.
- Hai là: Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước và tài sản công.
+ Ngân sách nhà nước phải để dành từ 10- 20% GDP để đầu tư cho cơ
sở hạ tầng, y tế, giáo dục
+ Sử dụng các tài khoản công để tăng thu cho ngân sách nhà nước.
+ Phát hành trái phiếu chính phủ trung hạn và dài hạn.
- Ba là: Đối với các doanh nghiệp nhà nước:
+ Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp theo hướng
cơ cấu lại cơ cấu vốn sản xuất và tài sản doanh nghiệp một cách hợp lý tính
đủ giá trị sử dụng đất vào vốn và tài sản của doanh nghiệp.
+ Cho phép khấu hao nhanh để tái đầu tư sản xuất.
+ Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, để tăng thêm
vốn đầu tư cho doanh nghiệp, cũng là để nhà nước tăng các khoản thu cho
đầu tư phát triển kinh tế.
+ Hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện phát triển cho các nhà
đấu tư.
- Bốn là: Đối với khu vực dân cư
+ Đa dạng hoá các hình thức và công cụ huy động vốn để cho mọi
người dân ở bất cứ nơi đâu, thời điểm nào, cũng có những cơ hội thuận tiện
để đưa đồng vốn vào phát triển kinh tế.
+ Tăng lãi suất tiết kiệm đảm bảo lãi suất dương.
+ Khuyến khích sử dụng tài sản cá nhân, thực hiện chế độ thanh toán
gửi tiền ở một nơi và rút ra ở bất cứ nơi nào, có vậy chúng ta mới đưa
được nguồn vốn dưới dạng cất giữ vào lưu thông.
+ Tạo môi trường đầu tư thông thoáng và thực hiện theo luật pháp để
người dân dễ dàng bỏ vốn đầu tư.
+ Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích tư nhân trong
nước tự đầu tư hoặc góp với chính phủ xây dựng và kinh doanh các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội.
+ Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích các hộ gia đình ở
các vùng nông thôn, vốn vào sản xuất kinh doanh, trên cơ sở khai thác thế
mạnh của từng vùng.
+ Thực hiện chính sách xã hội hoá đầu tư phát triển kinh tế, sự nghiệp
giáo dục, y tế nhằm huy động thêm nguồn lực của nhhân dân.
KẾT LUẬN.
Như vậy sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế. Nước ta đã được nhiều
thành tựu kinh tế đáng kể, tốc độ tăng trưởng GDP đã có lúc tăng lên hơn
13%.
Để đạt được các thành tựu đó Đảng và nhà nước ta đã rất nhiều lần
ban hành và sửa đổi thường xuyên các chính sách kinh tế một cách nói
chung và của các chính sách về huy động nguồn vốn trong nước một cách
nói riêng để từ đó chính phủ có các điều chỉnh kịp thời đối với việc huy
động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Trong những năm qua nguồn vốn huy động trong nước thường xuyên
tăng dâng lên. Điều đó nó càng thể hiện sự đúng hướng trong công tác huy
động và sử dụng nguồn vốn trong dân cư. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh và trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên trong quá trình huy động nó cũng vấp phải nhiều khó khăn
cần phải khắc phục . Nhưng không phải vì điều đó mà việc huy động nguồn
vốn trong nước kém hiệu quả mà nó còn tăng qua các năm, nhưng có xu
hướng giảm dần. Vì vậy, để duy trì sự ổn định cũng như sự tăng lên một
cách vững chắc thì Đảng và nhà nước ta phải luôn đề ra các chính sách và
giải pháp thích hợp với tình hình của từng thời kỳ, cũng như thường xuyên
phải tiếp xúc với các tầng lớp dân cư để nắm bắt tình hình chung của việc
huy động nguồn vốn trong dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Các giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
(tập I+ II).
2. Sử dụng công cụ tài chính để huy động vốn cho đầu tư phát
triển.
3. Giáo trình lý thuyết tàI chính -tiền tệ
4. Thị trường vốn ở Việt nam.
5. Kinh tế phát triển tập II.
6. Tạp chí phát triển kinh tế .
7. Tạp chí ngân hàng .
8. Tạp chí tài chính.
9. Kinh tế và dự báo.
10. Thị trường tài chính tiền tệ
11. Kinh tế và phát triển.
12. Công nghiệp nhẹ .
13. Nghiên cứu kinh tế:
14. Thông tin tài chính: .
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường đại học kinh tế quốc dân
Khoa Tài chính - Doanh nghiệp.
--------------oOo---------------
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn
đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay
Sinh viên thực hiện : Đinh thị thu Huyền
Lớp : Tài chính B
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Lưu Thị Hương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay.pdf