Luận văn Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang

Tài liệu Luận văn Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------- Nguyễn Thị Thanh Thảo NHU CẦU TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CỦA HỌC SINH LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH KIÊN GIANG Chuyên ngành : Tâm lý học Mã số : 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG CÔNG THANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Nghề nghiệp là phương tiện để đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Nghề nghiệp vững vàng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Để thành công trong cuộc đời, trong sự nghiệp, con người cần phải biết lựa chọn cho mình một nghề phù hợp nhất. Đặc biệt, nghề nghiệp càng quan trọng đối với thế hệ trẻ, bởi họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhân tố con người luôn đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển, vì vậy một xã hội hiện đại rất cần những con người có nghề nghiệp chuyên môn vững vàng cho sự phát triển của đất nước. Trong bối c...

pdf89 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1102 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------- Nguyễn Thị Thanh Thảo NHU CẦU TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CỦA HỌC SINH LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH KIÊN GIANG Chuyên ngành : Tâm lý học Mã số : 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG CÔNG THANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Nghề nghiệp là phương tiện để đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Nghề nghiệp vững vàng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Để thành công trong cuộc đời, trong sự nghiệp, con người cần phải biết lựa chọn cho mình một nghề phù hợp nhất. Đặc biệt, nghề nghiệp càng quan trọng đối với thế hệ trẻ, bởi họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhân tố con người luôn đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển, vì vậy một xã hội hiện đại rất cần những con người có nghề nghiệp chuyên môn vững vàng cho sự phát triển của đất nước. Trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, để chọn được cho mình một công việc ổn định và phù hợp để sinh sống và phát triển là một việc không dễ. Trên thực tế, hiện tượng có rất nhiều người phải thất nghiệp hay phải làm việc không đúng với chuyên môn là khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong việc đáp ứng những yêu cầu của nghề đặt ra, không cảm thấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệp mà mình đã chọn. Điều này đã gây nên sự lãng phí nhân lực rất lớn và phân bố nhân lực không hợp lý. Tư vấn hướng nghiệp được xem là một vấn đề nóng hiện nay, nhất là trong trường phổ thông. Khi được định hướng đúng đắn về nghề, con người sẽ yên tâm với nghề mình đã lựa chọn, có thái độ chủ động, tích cực học tập, rèn luyện để có thể hoạt động tốt lĩnh vực nghề nghiệp trong tương lai. Nếu chọn được đúng nghề phù hợp, con người càng có nhiều cơ hội để thành đạt sau này. Nói cách khác, tư vấn hướng nghiệp giúp cho thanh thiếu niên chọn nghề một cách có cơ sở, giúp họ có được nhận thức đúng đắn hơn về nghề nghiệp, phát huy tối đa năng lực sáng tạo, nâng cao chất lượng cuộc sống, phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của xã hội, tránh lãng phí về đào tạo và sử dụng lao động hợp lý, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội bền vững của đất nước. Nhìn tổng quát về công tác tư vấn hướng nghiệp hiện nay thì vấn đề này còn nhiều nội dung chưa được quan tâm hoặc chưa làm đến nơi đến chốn. Thường thì chỉ khi gần đến kỳ thi tuyển sinh hàng năm, các trường đại học, cao đẳng và trung cấp mới kết hợp với các cơ quan truyền thông, các tổ chức chính trị-xã hội để tổ chức đi tư vấn tuyển sinh ở các trường trung học phổ thông (THPT). Điều này chỉ mới cung cấp được một số thông tin cơ bản về trường thi, khối thi, điểm chuẩn, nguyện vọng…, chưa đủ cơ sở để giúp các em học sinh có những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Sự hiểu biết về nghề nghiệp mà các em chọn cũng như những yêu cầu của nghề và sự đáp ứng yêu cầu của bản thân đối với nghề còn rất hạn chế. Điều này đã làm cho các em có những suy nghĩ sai lệch trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai. Chính vì vậy học sinh rất cần được sự định hướng đúng, được tư vấn rõ ràng và đầy đủ trong việc hướng nghiệp. Kiên Giang cũng nằm trong thực trạng chung đó; là một tỉnh vùng sâu ven biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, chính vì vậy việc tiếp cận thông tin nghề nghiệp cũng như các hoạt động tư vấn hướng nghiệp dành cho học sinh rất khó khăn. Trong khi đó, nhu cầu cần được tư vấn của học sinh là rất cao, các em luôn tìm đến thầy cô, các đoàn thể cũng như các tổ chức khác có liên quan để được giải đáp mọi thắc mắc về nghề nghiệp mà các em sẽ chọn. Tuy nhiên, hiện tượng học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc chọn trường, chọn nghề luôn xảy ra; đa số các em đều có mong muốn được vào các trường Đại học hoặc Cao đẳng để có một nghề nghiệp nhất định. Thế nhưng sự hiểu biết của các em về nghề nghiệp mà các em chọn thì rất mơ hồ và hạn chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập và nghề nghiệp của các em sau này. Có những em theo đuổi ngành học của mình cho đến khi đi thực tập thì mới phát hiện mình không thích hợp với nghề nghiệp đã chọn; sinh viên ra trường làm việc trái với ngành nghề chuyên môn hoặc không thể xin được việc ngày càng nhiều. Tình hình trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do các em thiếu các thông tin cần thiết nên chọn nghề chưa phù hợp với thị trường lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Về mặt chủ quan, nhìn chung, đa số học sinh có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng nhu cầu này còn phiến diện, học sinh chỉ mới quan tâm chủ yếu đến các nghề có thu nhập cao, chưa quan tâm tìm hiểu các khía cạnh khác như năng lực, hứng thú cá nhân, những yêu cầu của nghề đối với người lao động, triển vọng phát triển của nghề ở địa phương và nhu cầu nhân lực... Đây là những nội dung thật sự cần thiết nhưng học sinh chưa ý thức được để có nhu cầu tư vấn. Mặt khác, trong thực tế hiện nay, các nhà trường phổ thông chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp thông tin tối thiểu về các ngành nghề tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng, mà không hề quan tâm đến những yếu tố có liên quan khác. Một số trường có tổ chức cho học sinh tham quan các trường đại học, hoặc các xí nghiệp, cơ sở sản xuất… nhưng hoạt động này không nhiều, và cũng chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Do đó, khi học sinh muốn tìm hiểu thêm các vấn đề khác có liên quan thì hầu như các nhà trường đều không đáp ứng được, hoặc chưa định hướng được cho học sinh về những nội dung cần được tư vấn giúp các em ý thức được sự cần thiết và có nhu cầu cần phải được tư vấn khi chọn nghề. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang ”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Nêu lên được nhu cầu về những nội dung tư vấn hướng nghiệp và mức độ biểu hiện nhu cầu về những nội dung này ở học sinh lớp 12 THPT. Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh thấy được sự cần thiết của tư vấn hướng nghiệp, định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh khi chọn nghề và thử nghiệm tổ chức các hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của học sinh. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU. 3.1 Đối tượng nghiên cứu: Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT. 3.2 Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 12 THPT. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC. Đa số học sinh lớp 12 THPT có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng chưa xác định rõ ràng những nội dung cần được tư vấn khi chọn nghề, dẫn đến sự sai lệch trong nhận thức về nghề, trong việc chọn nghề và những hệ quả sau đó. Nếu có biện pháp làm thay đổi nhận thức sẽ giúp học sinh hiểu được đầy đủ sự cần thiết phải được tư vấn, từ đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp rõ ràng và đầy đủ khi chọn nghề tương lai. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. 5.1 Nghiên cứu lý luận tâm lý học về nhu cầu và nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12. 5.2 Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 hiện nay; mức độ đáp ứng đối với nhu cầu này. 5.3 Đề xuất biện pháp tác động nhằm định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp cho học sinh; đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của học sinh. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 6.1 Những cơ sở phương pháp luận nghiên cứu. 6.1.1 Quan điểm hoạt động. Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp dựa trên sự phân tích hoạt động sống, học tập của học sinh trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. 6.1.2 Quan điểm hệ thống - cấu trúc. Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp một cách toàn diện nhiều mặt, trong nhiều mối quan hệ với các hiện tượng tâm lý khác. 6.1.3 Quan điểm thực tiễn. Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp xuất phát từ thực tiễn, có ý nghĩa thực tiễn, và giúp giải quyết được những vấn đề của thực tiễn đề ra. 6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể. 6.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Tham khảo các tài liệu lý luận tâm lý học, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, khái quát hoá, hệ thống hóa các vấn đề có liên quan để hình thành cơ sở lý luận của đề tài. 6.2.2 Phương pháp điều tra và thu thập thông tin bằng bảng hỏi. Sử dụng các phiếu điều tra bao gồm một hệ thống câu hỏi với mục đích làm khách thể nghiên cứu bộc lộ rõ mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. Phiếu điều tra nhằm làm sáng tỏ thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT và những nguyên nhân của thực trạng. 6.2.3 Phương pháp trò chuyện. Là phương pháp bổ trợ cho phương pháp điều tra; thông qua phương pháp này nhằm thu thập thêm thông tin để làm rõ thêm những nhận xét trong đề tài. 6.2.4 Phương pháp thực nghiệm: tư vấn cá nhân; tư vấn trực tiếp; tư vấn gián tiếp; tham quan thực tế. 6.3 Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 11.5 để xử lý số liệu thu được. Cách xử lý số liệu theo phương pháp thống kê toán ứng dụng trong giáo dục học và tâm lý học. 7. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI. 7.1 Giới hạn về đối tượng : Mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh. 7.2 Giới hạn về khách thể : Học sinh lớp 12 THPT. 7.3 Giới hạn về địa bàn : Số liệu được thu thập trên 620 học sinh tại 7 trường THPT. Nguyễn Trung Trực, THPT. Huỳnh Mẫn Đạt, THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Nguyễn Hùng Sơn, THPT. Hà Tiên, THPT. Định An huyện Gò Quao, THPT. Châu Thành tỉnh Kiên Giang. 8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI. 8.1 Đưa ra được một thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT. tỉnh Kiên Giang. 8.2 Cung cấp tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT. sống trong những điều kiện khó khăn ở vùng sâu, vùng xa; học sinh dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long. 8.3 Góp phần làm cơ sở cho việc tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp có hiệu quả. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1 Lược sử nghiên cứu vấn đề. Tư vấn hướng nghiệp đang phát triển khá mạnh trong hệ thống giáo dục đương đại của thế giới hiện nay, không chỉ là ở các nước phát triển như Pháp, Mỹ, Anh…. mà ở cả những nước đang phát triển cũng rất quan tâm, trong đó có Việt Nam. Đây được xem như là một công cụ hữu hiệu mang tính chiến lược nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục và tạo ra sự phù hợp giữa hoạt động trong nhà trường và thị trường lao động ngoài xã hội để hướng tới việc tăng cường chức năng xã hội của các cơ sở giáo dục trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh phát triển lành mạnh. Đồng thời, tư vấn hướng nghiệp được coi là điều kiện không thể thiếu cho sự lựa chọn và phát triển đúng đắn nghề nghiệp của thế hệ trẻ. 1.1.1 Nghiên cứu ở nước ngoài Hướng nghiệp xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, bắt đầu từ năm 1850 đến 1940, gắn liền với những cá nhân như Francis Galton, Wilheim Wundt, James Cattell, Alfred Binet, Frank Parsons, Robert Yerkes, và E. K. Strong. Cuối những năm 1800, một hệ thống công nghiệp với quy mô lớn ra đời đã làm thay đổi mạnh mẽ môi trường làm việc và điều kiện sống. Khu vực đô thị phát triển, cùng với tốc độ phát triển và tập trung hoá công nghiệp đã thu hút rất nhiều người dân lao động từ các khu vực nông thôn. Để đáp ứng được các yêu cầu của các nhà máy công nghiệp và điều kiện sống khắc nghiệt, chật chội trong những khu nhà ổ chuột, một nhu cầu đổi mới đã xuất hiện, một vài nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm đến hành vi con người, quan tâm đến các điều kiện sống và làm việc trong xã hội bị thay đổi bởi cuộc cách mạng công nghiệp. Những điều kiện khách quan trên để phôi thai và cho ra đời một ngành khoa học, ngành tham vấn nghề. [15] Nước Mỹ có phòng tư vấn nghề đầu tiên trên thế giới do Frank Parsons thành lập vào năm 1908 ở Boston. Nhiệm vụ của phòng này là tư vấn cho thanh niên có nhu cầu tìm kiếm công ăn việc làm và giúp cho họ chọn được những nghề phù hợp với năng lực, sở trường của mình, nói một cách khác, họ giúp cho học sinh lựa chọn công việc một cách khôn ngoan, và thực hiện việc di chuyển tiếp cận từ trường học đến công việc phù hợp. Hiện nay, ở Mỹ đã kết hợp chặt chẽ việc tư vấn nghề với chương trình công nghệ và dạy nghề, họ cũng đã đưa môn “Hướng dẫn chọn nghề” (Career Guidance) vào giảng dạy trong trường phổ thông. Từ bậc trung học đến đại học đều có các cố vấn tâm lý làm việc trong trường. Công việc của họ xuất phát từ nhu cầu lựa chọn một nghề phù hợp trong tương lai của học sinh, họ đưa ra lời khuyên cho học sinh nên nộp đơn xin vào học trường đại học nào phù hợp với trình độ và năng khiếu học sinh. Chương trình giáo dục THPT được cấu tạo mềm, gồm chương trình A và B. Từ khi vào học lớp 9, người cố vấn đã chỉ cho học sinh nên học theo chương trình nào tuỳ theo nhu cầu, nguyện vọng của em đó sau này muốn học lên đại học ngành gì hay sau khi học xong phổ thông sẽ đi làm. Ở Pháp, năm 1948 đã xuất bản cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” đề cập đến vấn đề hướng nghiệp cho thanh niên. Để phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, nhà trường Pháp đặt giáo dục lao động, thủ công và nghề nghiệp bình đẳng với các loại hình hoạt động khác của nhà trường, đào tạo “tiền nghề nghiệp” là cơ sở cho việc học tập liên tục về sau và chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống lao động. Tháng 3/1991 các nhà tư vấn hướng nghiệp trở thành nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý. Các nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý được phân về trường phổ thông và đại học là công chức nhà nước. Toàn bộ khu vực chuyên môn do các nhà chuyên môn đảm nhiệm. Cùng với giáo viên và phụ huynh học sinh theo thời điểm mong muốn, các nhà tư vấn hướng nghiệp tổ chức thường xuyên, liên tục các kiểm tra hệ thống về sự phát hiện bằng các trắc nghiệm tâm lý, kiến thức để đưa ra các thông tin xác đáng. Từ đó cho học sinh những lời khuyên nhằm tránh những thiên hướng sai lệch, hướng học sinh vào con đường thành công đúng theo nhu cầu và nguyện vọng của học sinh. Theo truyền thống, hệ thống trường phổ thông Đức quán triệt nguyên tắc hướng nghiệp để chuẩn bị cho học sinh đi vào trường đào tạo nghề tuỳ theo trình độ học tập của mỗi em. Khi học sinh có nhu cầu tìm hiểu nghề nghiệp mình muốn học thì giáo viên chủ nhiệm liên hệ với nhiều cơ sở hướng nghiệp, với những trường dạy nghề để tư vấn cho học sinh. Ở các nước trong khu vực Châu Á cũng có sự quan tâm đến vấn đề này. Tại trường trung học phổ thông, dù là trường công lập hay tư thục thì ở các em bắt đầu xuất hiện nhu cầu tìm hiểu và lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Và việc định hướng tương lai cho học sinh đều bắt đầu từ năm lớp 10 thông qua giờ hoạt động câu lạc bộ hoặc hướng dẫn riêng cho từng em của giáo viên chủ nhiệm. Lớp 11 nhà trường mời các giảng viên ở bên ngoài như những sinh viên đã ra trường hay những lãnh đạo các doanh nghiệp đến nói chuyện về kinh nghiệm bản thân hay hoạt động ở doanh nghiệp của họ. Lớp 12 nhà trường tổ chức cho học sinh đi tham quan để định hướng cho tương lai. Ngoài các nội dung giáo dục bắt buộc trong chương trình dạy học, đa số các nước đều có môn tự chọn tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh phát triển các xu hướng học lên (Academic) hoặc học một nghề phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng học sinh.[27] Như vậy, việc điểm qua tình hình của một số nước trên thế giới cho ta thấy việc tư vấn hướng nghiệp cho học sinh phổ thông là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì vậy, hướng nghiệp đòi hỏi sự đánh giá dựa trên kết hợp những tiêu chí về giáo dục và dự báo về nhân cách tương lai. Nhà trường cần phải có những nhà tư vấn hướng nghiệp chuyên môn để giúp học sinh lựa chọn khoá học thích hợp với nhu cầu, hứng thú, năng lực của học sinh (có tính đến nhu cầu của thị trường lao động), dự báo những khó khăn trong học tập và giúp học sinh giải quyết những khó khăn đó. 1.1.2 Nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề hướng nghiệp của học sinh THPT, trong đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. Thực trạng công tác tư vấn hướng nghiệp được nhiều tác giả nghiên cứu như Nguyễn Viết Sự, Hà Thị Đức, Lưu Xuân Mới... Các tác giả này đề cập đến vấn đề nội dung tư vấn hướng nghiệp còn nghèo nàn, chưa thu hút và đáp ứng được nhu cầu cần tư vấn của học sinh THPT, những người làm công tác tư vấn hướng nghiệp tuy nhận thức được rất rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác này đối với học sinh nhưng họ lại thiếu thông tin và điều kiện cần thiết để làm tốt. Bên cạnh đó các tác giả cũng nói đến các nhân tố có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh và họ cho rằng việc lựa chọn nghề nghiệp phần lớn là do cá nhân học sinh quyết định (chiếm 46%), ít chịu sự tác động từ gia đình và các giáo viên. [24] Trong nghiên cứu của tác giả Lê khắc Thìn về vấn đề “Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường THPT” cũng đã nhấn mạnh đến nguyện vọng chọn nghề của học sinh. Do nước ta mở cửa phát triển kinh tế nhiều thành phần, hợp tác kinh tế với nhiều nước trên thế giới, vì vậy các em có xu thế hướng vào các trường thuộc lĩnh vực kinh tế, công nghệ tiên tiến. Như vậy, sự định hướng của học sinh vào các trường cũng phát triển theo xu thế phát triển của xã hội. Tuy nhiên, có nhiều em chọn nghề theo rung cảm từ nhỏ, từ mẫu người lý tưởng, có em chọn nghề theo sự vui thích của cá nhân, theo yêu cầu của cha mẹ... Do đó có thể có sự không phù hợp giữa sở thích và nguyện vọng. Hầu hết các em đều cho rằng nghề các em thích là phù hợp sở thích và khả năng của bản thân, hoặc yêu thích nghề vì phù hợp với nguyện vọng được xã hội coi trọng. Có 7,38% học sinh cho biết là chưa hiểu rõ về nghề nên không biết thích cái gì. Bên cạnh đó, sự hiểu biết của học sinh về nghề định chọn là rất ít, chưa sâu sắc, không rõ ràng, cụ thể. Những nguồn thông tin quan trọng nhất (cha mẹ, thầy cô, các phương tiện thông tin đại chúng) để giúp cho các em có nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp thì chưa phát huy hết tác dụng. Vì vậy, biểu tượng về nghề nghiệp mà học sinh định chọn không rõ ràng, phiến diện cũng là điều dễ hiểu. [31] Tác giả Nguyễn Ngọc Minh trong công trình nghiên cứu “Nhận thức của giáo viên về tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường THPT” đã nêu lên được thực trạng tư vấn hướng nghiệp hiện nay trong nhà trường THPT là hầu hết các trường THPT đều đặc cách các giáo viên kiêm nhiệm thêm công tác này, cho nên quá trình chuẩn bị thông tin, kiến thức cho công tác tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường của các giáo viên còn mang tính tự phát, chưa có hệ thống. Tác giả cũng nêu lên được thái độ của giáo viên đối với vai trò của tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường: đa số các giáo viên đều nhận biết và thông hiểu một cách thấu đáo và sâu sắc tầm quan trọng của công tác này, nhận biết được sự mong mỏi của học sinh về một ban chuyên trách tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường để giúp các em lựa chọn nghề nghiệp, trường thi khi các em ở những năm cuối cấp. Gần như 100% học sinh đều chọn ý kiến mong muốn trong nhà trường có ban chuyên trách về tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong việc chọn nghề.[24] Tác giả Phạm Ngọc Anh và Đỗ Thị Hoà với công trình nghiên cứu “Nguyện vọng nghề của học sinh phổ thông và các yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng đó” - hầu hết học sinh THPT (89,4%) đều có nguyện vọng học tiếp đại học, chỉ có một phần nhỏ các em là có nguyện vọng học nghề (4,7%) và các yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng học nghề chủ yếu phụ thuộc vào phẩm chất tâm lý, sự định hướng của các em hoàn toàn mang tính chất chủ quan cảm tính. Tác giả Nguyễn Ngọc Bích đã nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên học sinh, trong đó động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Nam thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: - Khả năng của bản thân. - Tính chất quan trọng của nghề nghiệp. - Khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nữ thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: do yêu cầu của Nhà nước, vị trí xã hội của nghề nghiệp, thực hiện được khả năng của mình. Theo tác giả thì sự lựa chọn ngành nghề của cả nam và nữ có sự khác nhau. Tác giả chỉ đưa ra một số động cơ tiêu biểu có liên quan đến sự lựa chọn nghề của học sinh và đánh giá động cơ nào là quan trọng với họ, nhưng chưa quan tâm đến vấn đề nhận thức nghề nghiệp.[5] Trong các công trình nghiên cứu của mình về vấn đề hướng nghiệp, tác giả Phạm Tất Dong đã xem xét một cách sâu sắc và có hệ thống về hứng thú nghề nghiệp cũng như những vấn đề cơ bản về nội dung, phương pháp hướng nghiệp cho học sinh. Tác giả có nhận xét sau: hứng thú môn học, hứng thú nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy việc lựa chọn nghề và thực hiện khả năng của mình là động cơ mạnh nhất, quan trọng nhất trong việc lựa chọn nghề của học sinh. Hứng thú nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy con người tìm tòi sáng tạo trong lao động, đi sâu vào mọi hoạt động có liên quan tới nghề nghiệp mà mình yêu thích và hướng tới. [11] Tác giả Nguyễn Quang Uẩn nghiên cứu xu hướng nghề nghiệp của học sinh theo các chỉ số như: Mức độ nhận thức nghề nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp, tính ổn định của thái độ, tác giả đã chỉ ra đặc điểm chung trong xu hướng nghề nghiệp của học sinh THPT và một số vấn đề khác. Tác giả còn cho biết nhận thức về nghề của học sinh biết đến chưa nhiều. Hứng thú nghề nghiệp của học sinh hình thành môn chưa tập trung và chưa rõ nét.[33] Tác giả Chu Văn Thảo với công trình nghiên cứu “Giải pháp quản lý nhằm đẩy mạnh công tác tư vấn hướng nghiệp cho học sinh tại các Trung tâm KTTH-HN ở tỉnh Bắc Ninh” đã nhấn mạnh rằng đa số học sinh trung học trước khi chọn nghề chưa hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chọn nghề có cơ sở khoa học, các em chưa hiểu rõ về nghề nghiệp, chưa đánh giá đúng năng lực bản thân. Sự hiểu biết về nghề của các em còn đơn giản, nghèo nàn so với thế giới nghề nghiệp vô cùng phong phú, đa dạng, thiếu thông tin về thị trường lao động đã làm các em lúng túng, khó khăn khi chọn nghề. Nhìn chung, nhận thức của học sinh về các lĩnh vực của nghề nghiệp còn rất chung chung, đặc biệt đối với nghề mình định chọn các em cũng mơ hồ. Các em rất cần được tư vấn hướng nghiệp trong việc lựa chọn các hướng đi sau khi tốt nghiệp THPT. [30] Tác giả Phan Thị Tố Oanh nghiên cứu đến vấn đề lựa chọn nghề và nhận thức nghề của học sinh THPT, tác giả đã chỉ ra hiệu quả của việc lựa chọn nghề của học sinh phụ thuộc vào 3 yếu tố trên cơ sở “Tam giác hướng nghiệp” đó là: - Nhận thức về thế giới nghề - Nhận thức về nhu cầu nghề của xã hội - Tư vấn nghề. [25] Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng chọn nghề của học sinh THPT (lý do chọn nghề, động cơ chọn nghề, nguyện vọng chọn nghề, các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh, nhận thức về nghề nghiệp của học sinh), nêu lên được thực trạng tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường THPT hiện nay cùng với nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh ở năm học cuối cấp. Đồng thời, các công trình nghiên cứu này cũng tổng hợp được ý kiến của học sinh với mong muốn trong nhà trường có được ban chuyên trách về tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong việc chọn nghề cho tương lai. Tuy nhiên, các tác giả chưa làm rõ những nội dung tư vấn hướng nghiệp nào được học sinh quan tâm nhiều nhất, và mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thể hiện trên từng mặt nội dung cần được tư vấn. Kết quả của các công trình nghiên cứu trên sẽ là cơ sở cho các công trình nghiên cứu tiếp theo, và cũng là cơ sở để giúp chúng tôi giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu do đề tài đặt ra, đó là đưa ra được bức tranh thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên Giang, để từ đó đề ra biện pháp tác động nhằm thay đổi nhận thức của học sinh về nhu cầu tư vấn hướng nghiệp và tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp để đáp ứng được nhu cầu này hiện nay. 1.2 Cơ sở lý luận của đề tài. 1.2.1 Nhu cầu. a. Định nghĩa. Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định cảm thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu thúc đẩy con người tích cực hoạt động nhằm tạo nên những điều kiện, những phương tiện tương ứng để thoả mãn những đòi hỏi của mình. Nếu nhu cầu của con người được thoả mãn đầy đủ sẽ tạo ra điều kiện cần thiết để làm cho nhân cách phát triển toàn diện và làm phát triển toàn bộ xã hội. Nói một cách cụ thể, nhu cầu là thuộc tính cơ bản của cá nhân. Nó có tác dụng xác định xu hướng của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện thực và đối với trách nhiệm của bản thân, xét đến cùng, nó xác định lối sống và hoạt động của cá nhân. Có nhiều định nghĩa về nhu cầu của nhiều tác giả trong và ngoài nước, nhưng trong quá trình nghiên cứu tài liệu, tác giả cho rằng các định nghĩa sau sát và phù hợp với đề tài nghiên cứu hơn. Theo từ điển Tâm lý học “nhu cầu là một trạng thái của cá nhân được tạo ra do cá nhân đó thiếu những đối tượng cần cho sự tồn tại và phát triển và là nguồn gốc hoạt động của cá nhân đó”. [4] Theo A. G. Covaliop, nhu cầu là sự cần thiết mà con người cảm thấy cần phải thoả mãn của những điều kiện nhất định của cuộc sống và sự phát triển. [3] Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn, khái niệm nhu cầu được phát biểu như sau “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”.[34] Trong đề tài này, chúng tôi chọn định nghĩa sau về nhu cầu làm cơ sở cho việc nghiên cứu “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”. b. Các đặc điểm cơ bản và hình thức biểu hiện của nhu cầu. - Các đặc điểm. Nhu cầu của con người có các đặc điểm cơ bản sau: + Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng sự thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng. + Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định. Tuỳ theo phương thức thoả mãn nào nó có thể phát triển lên hoặc thoái hoá đi hoặc thậm chí biến mất đi. Bề rộng của nhu cầu phụ thuộc vào mức độ phát triển của con người và những điều kiện vật chất của cuộc sống + Nhu cầu có tính chu kỳ, có nghĩa là nhu cầu được nảy sinh trong điều kiện nó được lặp đi lặp lại một cách có hệ thống, do đó sẽ hình thành thói quen sử dụng một phương tiện và phương thức nhất định để thoả mãn nhu cầu. + Con người điều chỉnh các nhu cầu của mình một cách có ý thức, vì vậy nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật. Khi điều chỉnh các nhu cầu của mình, con người không chỉ xem xét các điều kiện bên ngoài, mà còn xem xét các chuẩn mực hành vi trong xã hội. Và sự điều chỉnh này phụ thuộc vào cấu trúc tâm lý trọn vẹn của nhân cách, vào sự được giáo dục của nhân cách. + Nhu cầu của con người rất đa dạng so với nhu cầu của con vật (nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể, nhu cầu tinh thần gồm có nhu cầu nhận thức, nhu cầu lao động, nhu cầu thẩm mỹ…). [34] - Hình thức biểu hiện của nhu cầu. Có hai hình thức biểu hiện của nhu cầu: + Hình thức đầu, nhu cầu được phản ánh vào các bán cầu đại não, được ý thức và biểu hiện ra dưới dạng một hành động có lý trí (hành động có ý chí). Đây là trường hợp tiêu biểu nhất cho con người và có đặc điểm là quá trình thoả mãn nhu cầu tiến hành thông qua các hiểu biết và kinh nghiệm sống. Nói cách khác, trong trường hợp này, nhu cầu của con người đã đi qua đầu óc của nó, tức là được ý thức và biểu hiện ra trong ý chí của con người. + Hình thức thứ hai, biểu hiện của nhu cầu chỉ thấy có ở người trong trường hợp ngoại lệ. Nó có đặc điểm là hành động để thực hiện ý hướng mang tính chất bồng bột hay nói đúng hơn là bột phát, ít được ý thức. c. Phân loại nhu cầu và đặc điểm của chúng. Có nhiều cách để phân loại nhu cầu, nhưng thông thường người ta dựa vào đối tượng thoả mãn của nhu cầu để chia thành nhu cầu vật chất (gồm có nhu cầu ăn, mặc, ở) và nhu cầu tinh thần (gồm có nhu cầu nhận thức và nhu cầu thưởng thức cái đẹp). Bên cạnh đó còn có thêm một loạt nhu cầu khác có tính chất xã hội (nhu cầu giao tiếp, lao động, hoạt động xã hội). Theo A.G. Covaliop có các dạng nhu cầu sau: - Nhu cầu vật chất là những nhu cầu có trước nhất, là cơ sở cho hoạt động sinh sống của con người. Nhu cầu này hình thành trong quá trình phát triển giống loài và phát triển xã hội lịch sử của loài người. Thoả mãn nhu cầu vật chất sẽ tạo điều kiện giải phóng nhân cách con người khỏi những thói hư tật xấu như tham lam, ganh tị… Nhu cầu vật chất thường chiếm ưu thế và mang hình thức xấu xa ở những người phát triển phiến diện và thấp kém về trí tuệ, ở những người này thường không có những động cơ đẹp đẽ và cao quí, không nghĩ đến lợi ích chung mà chỉ chú ý đến lợi ích của bản thân. Nếu nhu cầu vật chất được thoả mãn một cách hợp lý, được phát triển một cách bình thường thì con người tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống và thấy mình có ích cho tất cả mọi người. - Nhu cầu tinh thần là những cấu thành đặc biệt, là các nhu cầu đặc trưng cho con người và chỉ con người mới có, và nó chứng tỏ một trình độ phát triển cao của nhân cách. Nhu cầu tinh thần gồm có nhu cầu nhận thức, khoái cảm thẩm mỹ. Nhu cầu nhận thức vừa là một nhu cầu định hướng chung (con người cần hiểu biết cái thế giới trong đó mình sống) vừa là một nhu cầu riêng hay là một niềm say mê hiểu biết các hiện tượng đặc biệt của hiện thức như hiện tượng vật lý, hoá học,…. Trên cơ sở nhu cầu nhận thức sẽ hình thành nhu cầu sáng tạo khoa học với tính cách là một nhu cầu độc lập. Trong trường hợp này nhận thức không phải là mục đích mà trở thành phương tiện để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo. Trong cuộc sống con người nhu cầu khoái cảm thẩm mỹ chiếm vị trí to lớn. Nhờ nó con người hướng đến việc làm cho cuộc sống của mình đẹp lên. Cơ chế biểu hiện của những nhu cầu tinh thần, chẳng hạn như nhu cầu nhận thức thì cơ chế sinh lý trước nhất của nhu cầu nhận thức chính là phản xạ định hướng. Và cơ thể càng phát triển thì trong hoạt động sống của nó, phản xạ định hướng càng ngày càng tăng cường. Tất cả mọi người đều có phản xạ định hướng - tìm tòi không điều kiện, nhưng không phải người nào cũng có hứng thú rõ rệt đối với việc nhận thức các hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Chỉ trong điều kiện dạy học và giáo dục nhất định, phản xạ tìm tòi có điều kiện mới được hình thành và củng cố. Chính phản xạ này thể hiện nhu cầu nhận thức của con người. Khi ta tạm ngừng thoả mãn nhu cầu nhận thức thì điều đó sẽ làm cho nhu cầu này trở nên gay gắt hơn, có thể làm trì trệ và suy yếu nhu cầu đó. Các nhu cầu tinh thần khi được thoả mãn sẽ không tạm thời lắng dịu xuống mà trái lại, càng tăng lên rõ rệt. Nhu cầu nhận thức vừa là một nhu cầu định hướng chung, vừa là một nhu cầu riêng, và trên cơ sở nhu cầu nhận thức sẽ hình thành nhu cầu sáng tạo khoa học với tính cách là một nhu cầu độc lập. - Nhu cầu xã hội : nhu cầu có vị thế xã hội, nhu cầu được xã hội đánh giá, nhu cầu tình bạn, tình đồng chí, tình yêu, nhu cầu hoạt động xã hội… Nhu cầu xã hội thể hiện bản chất xã hội của con người. Một trong những nhu cầu xã hội là nhu cầu giao tiếp, nhu cầu này tạo điều kiện để hình thành những mối liên hệ muôn màu muôn vẻ giữa người với người, đồng thời kích thích sự phát triển của nhân cách. Bên cạnh đó, nhu cầu xã hội chủ đạo của nhân cách con người chính là nhu cầu lao động. Nhu cầu lao động làm con người biết được niềm vui, niềm hạnh phúc khi nào người đó làm việc vì lợi ích chung. Người nào có những nhu cầu xã hội đặc biệt và những nhu cầu tinh thần phát triển thì người đó sẽ thoả mãn những nhu cầu vật chất một cách hợp lý. Người đó sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong hoạt động sáng tạo, làm cho con người cảm thấy hạnh phúc của cuộc sống và cảm thấy mình có ích cho tất cả mọi người. [2] Có một cách phân chia khác, đó là thang nhu cầu của A. Maslow. A. Maslow chia nhu cầu của con người thành 7 nhóm nhu cầu, chúng xuất hiện từ lúc sinh và trong quá trình phát triển nhân cách gồm có : nhu cầu sinh lý; nhu cầu được an toàn; nhu cầu được công nhận và chấp nhận; nhu cầu được tôn trọng; nhu cầu nhận thức; nhu cầu thẩm mỹ; nhu cầu tự bộc lộ (năng lực, tài năng, các tiềm năng sáng tạo, thể hiện bản thân). d. Sự phát triển của nhu cầu. Sự phát triển của nhu cầu có thể được xét ở hai phương diện, đó là phương diện xã hội lịch sử và phương diện phát sinh cá thể. Trong quá trình phát triển lịch sử, bắt buộc phải diễn ra quá trình tăng thêm và ngày càng phân hoá các nhu cầu. Về mặt phát triển cá thể, sự phát triển của nhu cầu bắt đầu từ sự thoả mãn những nhu cầu tự nhiên của đứa trẻ. Ngay từ rất bé, đứa trẻ đã bộc lộ hoạt động định hướng tìm tòi, thể hiện ở nhu cầu muốn nhận thức thế giới xung quanh. Nếu được thoả mãn thì hoạt động này được củng cố và mở rộng thêm. Trái lại nếu không được thoả mãn, nhu cầu này sẽ bị ức chế và tàn lụi đi. Sự hình thành và phát triển các nhu cầu phải tuân theo một số qui tắc sau đây: 1. Nhu cầu chỉ có thể được hình thành và củng cố trong điều kiện được thoả mãn một cách có hệ thống hay là được thực hiện một hoạt động nhất định. Điều đó làm cho cơ thể nói riêng và toàn bộ nhân cách nói chung trở nên quen thuộc với một kiểu hoạt động nhất định. Tất cả mọi nhu cầu mới đều được hình thành theo kiểu thói quen; cơ chế hoạt động của nó cũng vậy. 2. Nhu cầu phát triển trong điều kiện được “tái sản xuất mở rộng”. Điều đó tạo điều kiện để những phương tiện thoả mãn nhu cầu được trở nên phong phú hơn và phát triển hơn. Nhu cầu xuất hiện và phát triển trong quá trình hoạt động. 3. Sự tiến triển của nhu cầu sẽ dễ dàng hơn nếu hoạt động không làm trẻ kiệt quệ đi, đặc biệt là thoạt đầu, mà trái lại tương đối dễ thực hiện vì điều đó làm cho con người có thái độ tích cực đối với hoạt động ấy. Vì vậy, việc chuẩn bị cho trẻ hoạt động và tạo điều kiện cho trẻ có những thành công bước đầu là một vấn đề rất quan trọng. 4. Một điều rất quan trọng để phát triển nhu cầu là sự chuyển tiếp từ hoạt động tái tạo sang hoạt động sáng tạo. Điều đó không những làm cho con người có thái độ xúc cảm tích cực đối với hoạt động mà hơn nữa, còn thấy rằng nó là thiên hướng cơ bản của mình. 5. Nhu cầu sẽ được củng cố khi ta có ý thức về ý nghĩa xã hội của nó và ý nghĩa của nó đối với bản thân ta. Điều đó được sự giáo dục và dư luận tập thể hỗ trợ thêm [2] 1.2.2 Tư vấn hướng nghiệp. 1.2.2.1 Hướng nghiệp. Có nhiều khái niệm khác nhau về hướng nghiệp, nhưng để phù hợp với đề tài, chúng tôi chọn khái niệm sau để làm cơ sở cho việc nghiên cứu: “Hướng nghiệp là những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, y học và nhiều khoa học khác để giúp đỡ học sinh phù hợp với yêu cầu xã hội, đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với những năng lực, sở trường và điều kiện tâm lý cá nhân nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất lực lượng dự trữ sẵn có của đất nước”. [35] Có thể nói, hướng nghiệp là sự kết hợp tương đối hài hoà giữa nhu cầu của mỗi cá nhân và nhu cầu xã hội; đặt nhiệm vụ đào tạo con người cho xã hội làm nhiệm vụ trung tâm trước tiên, đồng thời luôn đảm bảo tính cá thể trong sự phát triển tự do của mỗi nhân cách. Mặt khác hướng nghiệp cũng đề cập tới tính chất phức tạp của công tác hướng nghiệp, đòi hỏi phải có sự tham gia đồng bộ của nhiều bộ phận xã hội, nhằm giải quyết hợp lý lực lượng lao động dự trữ sẵn có của đất nước. Nói một cách cụ thể, hướng nghiệp chính là quá trình hướng dẫn chọn nghề, quá trình chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống lao động sản xuất. Đây là một hệ thống các biện pháp tác động của gia đình, nhà trường và xã hội cùng phối hợp thực hiện, trong đó nhà trường phải nắm giữ vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi mà xã hội đang cần, đồng thời cũng phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân. 1.2.2.2 Tư vấn hướng nghiệp. a. Tư vấn. Theo các chuyên gia hiệp hội tâm lý học Mỹ “Tư vấn tâm lý là quá trình giúp cá nhân khắc phục những trở ngại tâm lý trong quá trình trưởng thành, khiến người ta phát triển một cách lý tưởng”. [29] Tổ chức tư vấn thế giới định nghĩa như sau “Tư vấn là một quá trình trợ giúp dựa trên các kỹ năng, trong đó một người dành thời gian, sự quan tâm và sử dụng thời gian một cách có mục đích để giúp đỡ thân chủ khai thác tình huống, xác định và triển khai các giải pháp khả thi trong thời gian cho phép”. [29] Người tư vấn có thể đóng vai trò như người chịu trách nhiệm tìm ra những giải pháp (R. Schein, 1969); hay thu thập thông tin, chẩn đoán vấn đề và đề xuất giải pháp (D.J. Kurpius & J.C. Brukbaker, 1976); hoặc là người định hướng, điều phối tiến trình giải quyết vấn đề (R. Blake & J.S. Mouton, 1976)… Với tác giả Trần Thị Giồng thì “Tư vấn là sự tương tác giữa nhà tư vấn và thân chủ, trong quá trình này, nhà tư vấn sử dụng các kỹ năng chuyên môn giúp thân chủ khơi dậy tiềm năng để họ tự giải quyết vấn đề đang gặp phải”. [26] Nhìn chung, theo định nghĩa của các tác giả về tư vấn thì tư vấn chính là quá trình thu thập thông tin, chẩn đoán vấn đề thân chủ đang vướng mắc, sau đó bằng những kỹ năng và kiến thức chuyên môn giúp thân chủ tìm ra hướng giải quyết tốt nhất. Tóm lại, tư vấn là quá trình trợ giúp của nhà tư vấn đối với thân chủ bằng cách sử dụng tối đa những kiến thức chuyên môn và kỹ năng mà nhà tư vấn có để giúp thân chủ giải quyết những vấn đề khó khăn đang vướng mắc. Tư vấn vừa phải có tính chuyên nghiệp, vừa phải có tính hệ thống. b. Tư vấn hướng nghiệp. Theo tác giả Phan Thị Tố Oanh (tr.20): Tư vấn hướng nghiệp là hệ thống biện pháp tâm lý giáo dục nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu những năng lực đó với những yêu cầu do nghề đặt ra với người lao động, có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của địa phương, xã hội, trên cơ sở đó cho họ những lời khuyên về chọn nghề, có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn khi chọn nghề nhằm mục đích giúp thanh thiếu niên nhận ra chính mình, tạo điều kiện cho họ phát huy cao độ sở trường cũng như trong bước đường hoạt động nghề nghiệp tương lai. [27] Theo P.A Savin “Tư vấn nghề thực hiện chức năng liên kết giúp cho học sinh đối chiếu hứng thú, sở thích và khả năng vốn có của mình với nhu cầu của nền kinh tế quốc dân” [26] Theo K.K Platonov “Tư vấn nghề là hệ thống những hình thức y học và những hình thức tác động đa dạng khác nhằm phát hiện, nhằm khám phá những khả năng tinh thần và thể lực của học sinh trong lựa chọn nghề” [26] Trong từ điển Tâm lý học Đức (55tr-63) “Tư vấn nghề là hoạt động tư vấn giúp các cá nhân đặc biệt là thanh niên trong quá trình định hướng tìm chọn cũng như thay đổi nghề” Như vậy, theo nhận định của phần đông các tác giả (trong và ngoài nước) thì mục đích của tư vấn hướng nghiệp chính là giúp học sinh nhận biết được những đặc điểm tâm sinh lý vốn có của bản thân và những nhu cầu của xã hội trong lựa chọn nghề. Tư vấn hướng nghiệp rất có ích cho học sinh vì nó không chỉ đề cập đến nhân cách, mơ ước, sở thích, nguyện vọng của học sinh mà còn đề cập đến những yếu tố khác trong bức tranh nghề nghiệp rộng lớn, từ đó giúp học sinh có thể lựa chọn được cho mình một nghề phù hợp cho tương lai. Tư vấn hướng nghiệp giúp cho học sinh có một cái nhìn từ “bên trong” và học sinh có cơ hội lựa chọn, an tâm, dành hết năng lực và công sức của bản thân một khi đã chọn được một nghề thích hợp cho mình. Trên cơ sở cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản của các môn học, những hiểu biết về các ngành nghề trong xã hội, tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh nhận thức đúng đắn hơn về nghề nghiệp mà mình định chọn. Đồng thời giúp cho các em tự đánh giá những đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân. Từ đó giúp cho các em có thể tự đối chiếu những đặc điểm tâm sinh lý của mình với những yêu cầu của nghề nghiệp đòi hỏi, để các em tự xác định được nghề nghiệp tương lai phù hợp của mình. Từ sự phân tích nội hàm của khái niệm tư vấn hướng nghiệp nói trên; trong luận văn của mình, chúng tôi sử dụng khái niệm sau đây làm công cụ để tiến hành việc nghiên cứu: “Tư vấn hướng nghiệp là một hệ thống những biện pháp thích hợp nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu những năng lực đó với những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, bên cạnh có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Trên cơ sở đó cho họ những lời khuyên đúng đắn về chọn nghề, có căn cứ khoa học, và loại bỏ những trường hợp thiếu chín chắn khi chọn nghề”. 1.2.3 Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT. 1.2.3.1 Khái niệm nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. a. Khái niệm. Chúng ta biết rằng, ý thức chọn nghề của học sinh THPT có một ý nghĩa nghiêm túc, trực tiếp, và cấp bách. Chính ý thức này sẽ làm nảy sinh ở học sinh nhu cầu cần được tư vấn hướng nghiệp để các em có cơ sở khoa học cho việc chọn cho mình một nghề phù hợp trong tương lai. Nếu nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của sự tồn tại và phát triển của con người nói chung thì nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu cầu thiết yếu đối với mỗi cá nhân khi đứng trước quyết định chọn cho mình một nghề phù hợp và hoạt động tốt ở lĩnh vực nghề đó. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thuộc nhu cầu về nhận thức của con người, nhu cầu nhận thức một lĩnh vực riêng, như vậy nhu cầu này sẽ có đầy đủ các đặc điểm chung của một nhu cầu nhận thức nói chung, đồng thời có thêm những đặc điểm riêng của tư vấn hướng nghiệp. Từ cơ sở lý luận về nhu cầu nói chung, nhu cầu nhận thức nói riêng, chúng tôi cho rằng “Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu cầu cần được tư vấn về các nội dung có liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp và trên cơ sở đó mỗi cá nhân có sự đối chiếu với năng lực bản thân để chọn cho mình một nghề phù hợp”. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp với tư cách là nhu cầu nhận thức, ngoài những đặc điểm của nhu cầu nói chung, có những đặc điểm riêng của mình. Đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là những thông tin về nghề nghiệp (đặc điểm của nghề, yêu cầu của nghề đối với người lao động, chống chỉ định trong nghề), hệ thống trường đào tạo nghề, nhu cầu của thị trường lao động… Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp được nảy sinh trong quá trình cá nhân tìm kiếm thông tin liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp và trước khi quyết định chọn nghề, từ đó cá nhân sẽ tìm phương thức để thoả mãn nhu cầu này, đó là cá nhân tìm đến các tổ chức hoặc các chuyên gia tư vấn. Đồng thời, cá nhân có xem xét những điều kiện bên ngoài cũng như điều kiện của bản thân (sở thích, năng lực, điều kiện sức khoẻ, điều kiện kinh tế gia đình…) để biết cách điều chỉnh nhu cầu cho phù hợp và đạt được mục đích. Tương tự như vậy, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT cũng mang đầy đủ những đặc điểm của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp nhưng lại kết hợp thêm những đặc điểm riêng của lứa tuổi học sinh lớp 12 THPT. Đây là một nhu cầu cơ bản và mang tính thiết yếu của học sinh nhằm để nhận biết được sự phù hợp giữa các đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện riêng của cá nhân với hệ thống nghề nghiệp, có tính đến nhu cầu của thị trường lao động, từ đó giúp các em có quyết định lựa chọn nghề nghiệp tương lai đúng đắn và khoa học có dựa trên sự hỗ trợ của những nhà tư vấn hướng nghiệp. b. Các đặc điểm: Cũng như các loại nhu cầu về nhận thức khác, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT cũng có những đặc điểm về đối tượng, về điều kiện và phương thức thoả mãn nhu cầu, về tính chu kỳ, và mang đậm bản chất xã hội-lịch sử. Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, và đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT chính là những tri thức về nghề nghiệp học sinh định chọn trong tương lai mà học sinh muốn có khi tham gia hoạt động tư vấn hướng nghiệp. Nói một cách cụ thể, đó chính là nhận thức đúng đắn của học sinh về thế giới nghề nghiệp, về những đặc điểm tâm sinh lý của bản thân, về những điều kiện riêng của bản thân, cũng như về nhu cầu của thị trường lao động. Từ sự nhận thức đó sẽ giúp cho học sinh tạo lập được kỹ năng tìm kiếm và chọn lọc thông tin cần thiết, kỹ năng phân tích, đánh giá và tự đánh giá bản thân trong mối tương quan với nghề nghiệp mà các em định chọn. Để có được sự nhận thức đúng đắn đó, các em cần đến sự hỗ trợ của những người làm công tác tư vấn hướng nghiệp. Điều kiện và phương thức để thoả mãn nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT thì bản thân hoạt động tư vấn hướng nghiệp phải được tổ chức dưới nhiều hình thức tư vấn đa dạng, phong phú và nội dung tư vấn phải đầy đủ, sâu và rộng, giải quyết được những băn khoăn, thắc mắc của các em. Thông qua các hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm giúp các em khám phá hứng thú, năng lực bản thân, xây dựng kế hoạch nghề nghiệp, rèn luyện cho mình những kỹ năng tương ứng với nghề nghiệp tương lai. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT cũng mang tính chu kỳ, có nghĩa là nhu cầu này chỉ được hình thành và củng cố trong điều kiện được thoả mãn một cách có hệ thống. Nói một cách khác, nhu cầu này được thể hiện ở các mức độ khác nhau theo các khối học khác nhau của học sinh, và đòi hỏi sự thoả mãn ngày một cao hơn. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp được củng cố tốt khi mà học sinh có ý thức về ý nghĩa xã hội của nó, đồng thời con người ý thức được ý nghĩa của nó đối với bản thân con người, muốn được vậy cần phải có sự hỗ trợ thêm của giáo dục và của dư luận tập thể. Ở mức độ cao nhất để thoả mãn nhu cầu, học sinh sẽ chủ động tìm kiếm thông tin và tham gia các hoạt động tư vấn hướng nghiệp để tự tin ra quyết định chọn lựa nghề nghiệp tương lai. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp mang bản chất lịch sử - xã hội bởi nó gắn liền với sự phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội đã đẩy nhanh quá trình mở rộng hệ thống ngành nghề cùng với những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động đã làm cho đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ngày càng phong phú hơn, và phương thức để thoả mãn được nhu cầu cũng ngày càng đa dạng hơn. 1.2.3.2 Đặc điểm chọn nghề của học sinh THPT. a. Đặc điểm lứa tuổi. Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn đầu tuổi thanh niên (14, 15 đến 17, 18 tuổi). Tuổi đầu thanh niên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể, bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý: Sự phát triển của hệ xương đã hoàn thiện. Những cơ bắp tiếp tục phát triển. Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Điều này tạo nên tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp… của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập và lao động. Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp, nên vai trò xã hội và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi, mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở thanh niên ngày càng xuất hiện nhiều các vai trò của người lớn, và họ thực hiện các vai trò đó ngày càng có tính độc lập và có tinh thần trách nhiệm hơn. Nhiệm vụ xã hội chủ yếu của lứa tuổi này là chọn nghề. Lứa tuổi học sinh THPT đã có những nét của người lớn, nhưng chưa phải là người lớn. Người lớn bắt đầu đòi hỏi ở các em phải có tính độc lập, ý thức trách nhiệm và thái độ hợp lý… đồng thời lại đòi hỏi ở các em phải thích ứng và phục tùng cha mẹ và giáo viên. Vị trí của thanh niên có tính chất không xác định (ở mặt này các em được coi là người lớn, nhưng ở mặt khác lại không). Tính chất đó và những yêu cầu đề ra cho thanh niên ở lứa tuổi này được phản ánh một cách độc đáo vào tâm lý thanh niên. Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở thanh niên học sinh khác rất nhiều so với hoạt động học tập của thiếu niên; hoạt động học tập của thanh niên học sinh đi sâu vào những tri thức cơ bản, những qui luật của các bộ môn khoa học. Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng phong phú, các em càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy, thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Các em hiểu được rằng, vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo là điều kiện cần thiết để các em bước vào cuộc sống tương lai. Từ đó, nhu cầu tri thức của các em tăng lên. Thái độ của thanh niên học sinh đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn. Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Cuối bậc THPT, các em đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng thú này thường liên quan với việc chọn một nghề nhất định của học sinh. Thái độ học tập của thanh niên học sinh được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với động cơ học tập ở tuổi trước. Đối với học sinh THPT thì có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến các động cơ cụ thể khác… Nhưng thái độ học tập ở không ít học sinh còn có nhược điểm là, các em rất tích cực học học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, nhưng lại xao nhãng các môn học khác, hoặc chỉ học để đạt điểm trung bình; hoặc một số học sinh cho rằng, mình không đủ khả năng vào được đại học nên chỉ cần học đạt yêu cầu là được… Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của thanh niên học sinh trong hoạt động học tập. Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển các năng lực trí tuệ; tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tuy nhiên, thiếu sót cơ bản trong hoạt động tư duy của nhiều em là thiếu tính độc lập; chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, kết luận vội vàng theo cảm tính, hoặc thiên về việc tái hiện tư tưởng của người khác, cách luận chứng của người khác… [15,53] Học sinh THPT đã trưởng thành như một người lớn nhưng các em chưa phải là người lớn. Mặc dù trong nhận thức của các em đã có tính chủ định nhưng các em chưa hoàn toàn độc lập suy nghĩ mà còn lệ thuộc vào người lớn rất nhiều. Chính vì vậy, nhận thức của các em về chọn nghề cũng như xu hướng chọn nghề mang những nét đặc trưng riêng của lứa tuổi. b. Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề. Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn nghề. - Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề. Ở lứa tuổi học sinh THPT, nhu cầu tự ý thức được phát triển mạnh mẽ, khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng, và sự tự ý thức này xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội, trong tương lai; và các em coi trọng những phẩm chất bên trong. Ở lứa tuổi này, các em có thể xây dựng được thế giới quan hoàn chỉnh với tư cách là một hệ thống quan điểm; và sự hình thành thế giới quan này được thể hiện ở tính tích cực nhận thức. Một vấn đề quan trọng cần được nhắc đến trong thế giới quan của các em đó là việc chọn vị trí xã hội tương lai cho bản thân và các phương thức đạt đến vị trí xã hội ấy - trước hết là việc lựa chọn nghề một cách có ý thức, đây là công việc khẩn thiết đối với các em; các em hiểu được rằng: cuộc sống tương lai phụ thuộc vào chỗ các em có biết lựa chọn nghề một cách đúng đắn hay không. Dù vô tâm đến đâu thì các em cũng phải quan tâm, suy nghĩ đến việc chọn nghề. Việc quyết định chọn một nghề nào đó ở nhiều em đã có căn cứ. Nhiều em biết so sánh đặc điểm riêng về thể chất, tâm lý, khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp, mặc dù sự hiểu biết của các em về yêu cầu của nghề còn phiến diện, chưa đầy đủ. Học sinh khi bắt đầu định hướng chọn nghề thì điều trước tiên đòi hỏi các em phải hiểu biết về nghề định chọn. Tuy nhiên, hiện nay, đa số các em còn định hướng một cách phiến diện, đó là việc học tập ở đại học, các em hướng vào các trường đại học nhiều hơn là học nghề; tâm thế này sẽ dễ có ảnh hưởng tiêu cực đối với các em, nếu như dự định bước vào đại học của các em không thực hiện được. Điều này cho thấy các em (vô tình hoặc cố ý) đã không chú ý đến nhu cầu của xã hội đối với các ngành nghề khác nhau và mức độ đào tạo của các nghề trong khi quyết định đường đời cho mình. [15,68] Xu hướng nghề nghiệp là thiên hướng chọn một nghề ổn định, và xu hướng nghề nghiệp này sẽ thúc đẩy toàn bộ hoạt động của cá nhân để đạt kết quả như mong muốn. Thế nhưng xu hướng chọn nghề hiện nay của học sinh thường là theo những suy nghĩ chủ quan mà không căn cứ vào năng lực, sở trường của bản thân, cũng như nhu cầu của địa phương và xã hội. Các em lại thành kiến với một số nghề trong xã hội, chọn nghề dựa vào dư luận xã hội và ý kiến của người khác. Chính vì không đánh giá đúng năng lực bản thân nên lúng túng khi chọn nghề, đồng thời thiếu hiểu biết về sức khoẻ của bản thân, không có đầy đủ thông tin chống chỉ định y học trong nghề từ đó gây nên nhiều cản trở cho các em trong hoạt động nghề nghiệp. - Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn nghề. Học sinh THPT chưa có sự hiểu biết đầy đủ, chính xác về thế giới nghề nghiệp nên không thể định hướng đúng đắn về nghề mà bản thân chọn, ít nhiều bị ảnh hưởng từ một số yếu tố khách quan. Trên thực tế, nhiều học sinh lựa chọn, định hướng nghề theo cảm tính cá nhân, bị ảnh hưởng của cha mẹ, người thân trong gia đình, hay của thầy cô và bạn bè; sự lựa chọn thường mang tính chủ quan, phiến diện, thiếu thực tiễn, không phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, xã hội. Hầu hết các em học sinh và các bậc cha mẹ đều không chú ý điều kiện phát triển của địa phương, đất nước; điều kiện kinh tế gia đình; không đánh giá đúng năng lực bản thân, cũng như khả năng tìm việc làm sau khi ra trường. Đồng thời, nhiều học sinh đã chọn nghề khi thấy nghề đó được xã hội ưa chuộng hay bạn bè chọn nhiều. Cũng không ít học sinh đã chọn nghề và thi vào những trường khó trong khi năng lực bản thân không có với suy nghĩ đơn giản là nghề đó có vẻ trí thức, được mọi người tôn trọng và có thu nhập cao. Chính sự ảnh hưởng của những yếu tố đó đã làm nhận thức của học sinh đối với việc chọn nghề có sự sai lệch, đồng nghĩa với việc các em không chọn được cho mình một nghề phù hợp. 1.2.3.3 Biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT được nảy sinh khi mà các em bắt đầu nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội, các em đã ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, khi đó ở các em hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Biểu hiện cụ thể và rõ nét nhất nhu cầu này của học sinh THPT chính là: - Các em bắt đầu tìm hiểu về năng lực, sở trường của bản thân, chọn chương trình học theo phân ban phù hợp, tập trung đầu tư cho những môn học có liên quan đến ngành nghề mà các em dự định chọn, và tìm kiếm cho mình phương pháp học thích hợp, đặt ra những kế hoạch học tập nhằm đạt hiệu quả cao nhất. - Có khuynh hướng mở rộng các mối quan hệ bạn bè, người thân, quen để tìm hiểu về nghề nghiệp tương lai mà các em định chọn. - Chủ động tìm kiếm và chọn lọc những thông tin có liên quan đến nghề nghiệp định chọn, và tham gia vào các hoạt động tư vấn hướng nghiệp của nhà trường và các tổ chức đoàn thể. Khi đứng trước yêu cầu lựa chọn nghề tương lai cho bản thân, mỗi học sinh sẽ có nhận thức khác nhau về lĩnh vực nghề nghiệp, khi đó các em sẽ có sự quan tâm khác nhau đối với từng nội dung tư vấn khác nhau có liên quan đến nghề nghiệp định chọn, đồng thời mức độ biểu hiện nhu cầu cần tư vấn cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, thế giới nghề nghiệp thật rộng lớn, và con đường dẫn tới nghề nghiệp tương lai của mỗi người là rất khác nhau. Học sinh sẽ không tránh khỏi sự hoang mang, ngỡ ngàng trước thế giới nghề nghiệp phức tạp và đa dạng, các em không đủ tri thức và kinh nghiệm để có cái nhìn thực tế và chính xác về tình hình xã hội cũng như trong đánh giá các điều kiện của bản thân, khi đó các em rất dễ bị “nhiễu” bởi những dư luận xã hội. Vì vậy, các em rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ gia đình, nhà trường và xã hội để các em có được nhận thức đúng đắn chọn cho mình một nghề phù hợp. Nói một cách khác, các em rất cần được tư vấn hướng nghiệp. Nếu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp được thoả mãn sẽ càng làm cho nhu cầu này được phát triển mạnh mẽ hơn, đòi hỏi của nhu cầu ngày càng cao hơn và chất lượng hơn. 1.2.3.4 Các tiêu chí đánh giá về mức độ biểu hiện của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT, chúng tôi đưa ra một số các tiêu chí đánh giá nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của đề tài này. Các tiêu chí này được chia thành hai nhóm tiêu chí: a. Nhóm các tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về nghề nghiệp nói chung. + Tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về các nội dung tư vấn (Hiểu biết về thế giới nghề nghiệp cũng như hệ thống các trường đào tạo nghề; hiểu biết về thị trường lao động, nội dung và điều kiện lao động; hiểu biết về những yêu cầu của nghề đối với người lao động và mức độ đáp ứng của bản thân; hiểu biết về khả năng phát triển của nghề trong tương lai…) + Tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về nghề nghiệp định chọn. + Tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng theo từng yếu tố của thị trường lao động. + Tiêu chí đánh giá mức độ cần thiết của việc chuẩn bị những phẩm chất và kỹ năng chung nhất định của nghề định chọn. b. Nhóm các tiêu chí đánh giá mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. - Tiêu chí đánh giá mức độ quan tâm đến hoạt động tư vấn hướng nghiệp. - Tiêu chí đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số nhân tố đến lựa chọn nghề của học sinh. - Tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng của từng nội dung tư vấn. - Tiêu chí đánh giá mức độ cần thiết của sự hiểu biết về thị trường lao động khi quyết định chọn nghề. - Tiêu chí đánh giá mức độ hài lòng đối với các tổ chức tư vấn trong việc đáp ứng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh. 1.3 Một số nội dung của hoạt động tư vấn hướng nghiệp. 1.3.1 Các hình thức tư vấn hướng nghiệp. 1) Tư vấn thông tin hướng dẫn: nhằm giới thiệu nghề, nhóm nghề mà thanh thiếu niên định chọn qua các bản mô tả nghề. Ở đây, người cán bộ tư vấn sẽ giới thiệu về những yêu cầu do nhóm nghề đề ra đối với những phẩm chất cá nhân của con người, đồng thời chỉ ra con đường để đạt được nghề nghiệp và triển vọng nâng cao tay nghề. 2) Tư vấn chẩn đoán trên cơ sở nghiên cứu và đo đạc nhân cách con người một cách toàn diện được thực hiện bằng các test như: tìm hiểu hứng thú xu hướng nghề; tìm hiểu kiểu thần kinh khí chất; trắc nghiệm tư duy; trắc nghiệm trí nhớ; trắc nghiệm trí tưởng tượng không gian; trắc nghiệm chú ý; trắc nghiệm khả năng giao tiếp; trắc nghiệm khả năng kinh doanh... để tìm hiểu hứng thú, thiên hướng, năng lực và những phẩm chất nghề chuyên biệt của con người. Mục đích của tư vấn chẩn đoán là xác định trong những lĩnh vực hoạt động nào con người có thể lao động thành công nhất, tức là đem lại lợi ích tối đa cho xã hội, đồng thời cũng đem lại niềm vui và sự hài lòng cho bản thân người lao động. 3) Tư vấn y học: người làm tư vấn đo đạc các chỉ số tâm sinh lý như thị giác, thính giác, xúc giác, sự phối hợp cảm giác vận động, sự phối hợp hành động. Nếu như người được tư vấn mắc một trong những bệnh thuộc loại chống chỉ định của nghề thì người cán bộ tư vấn sẽ khuyên nên chọn một nghề khác gần gũi với thiên hướng và hứng thú, đồng thời phù hợp với trạng thái sức khoẻ của người đó. Chẳng hạn, những người rối loạn sắc giác sẽ không được chọn những ngành nghề giao thông vận tải, thông tin tín hiệu... 4) Tư vấn hiệu chỉnh: được tiến hành trong trường hợp ý định nghề nghiệp của con người không phù hợp với khả năng và năng lực thực tế của họ. Trong trường hợp này, kế hoạch nghề nghiệp của cá nhân cần được xem xét và uốn nắn lại cho phù hợp với tình hình. Ví dụ: trên cơ sở những cứ liệu thu được khi nghiên cứu nhân cách con người, cán bộ tư vấn sẽ khuyên thanh thiếu niên nên chọn một nghề khác, phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý của mình hơn. Ngoài ra, người ta có thể chia tư vấn hướng nghiệp thành 2 loại: tư vấn sơ bộ và tư vấn chuyên sâu 1) Tư vấn sơ bộ: loại này đơn giản có thể thực hiện ở nhiều trường vì không đòi hỏi phải có thiết bị, các phương tiện kỹ thuật. Chẩn đoán những phẩm chất nhân cách của học sinh không cần đòi hỏi phải có đội ngũ chuyên gia tư vấn hướng nghiệp có tay nghề cao, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực tâm sinh lý, giáo dục học, y học, kinh tế học. Ở đây, giáo viên (chủ nhiệm hoặc bộ môn) đóng vai trò “nhà tư vấn” cần có những hiểu biết về yêu cầu của một số ngành nghề ở một số trường hoặc ở địa phương, về nhu cầu nhân lực, về năng lực của học sinh. Từ đó cho học sinh lời khuyên nên học nghề gì và học ở đâu. Hoặc là qua những điều giảng giải của giáo viên để học sinh tự trả lời được 3 câu hỏi: Em có muốn (thích) học nghề đó không? Em có khả năng làm nghề đó không? Xã hội, địa phương có cần nghề đó không? 2) Tư vấn chuyên sâu: loại này phức tạp vì việc tư vấn được tiến hành trên cơ sở khoa học thực sự, đảm bảo độ chính xác cao nhờ một số máy móc hiện đại (ví dụ máy đo độ chính xác của các cử động, sự khéo léo vận động của 2 tay...). Điều kiện để tư vấn hướng nghiệp chuyên sâu là phải có đội ngũ chuyên gia tư vấn hướng nghiệp được đào tạo có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao gồm các nhà tâm lý học, giáo dục học, kinh tế học, bác sĩ có kinh nghiệm thực tế. Họ phải được huấn luyện nghiêm chỉnh để có kiến thức về thế giới nghề nghiệp, về yêu cầu của nghề, về nhân cách, trước hết về động cơ, hứng thú, khuynh hướng và năng lực nghề nghiệp của học sinh, về kinh tế, về nhu cầu phát triển nhân lực của các ngành nghề kinh tế quốc dân và địa phương. Đặc biệt phải có kiến thức sâu sắc về hướng nghiệp, tư vấn hướng nghiệp chọn nghề, kỹ thuật tư vấn hướng nghiệp, biết sử dụng thành thạo các phương pháp test chẩn đoán khả năng trí tuệ, khả năng vận động và nhân cách của học sinh. Đương nhiên, kèm theo các phương pháp này là những máy móc, thiết bị, những phương tiện kỹ thuật. 1.3.2 Các nội dung tư vấn hướng nghiệp. 1) Giúp học sinh tìm hiểu thế giới nghề nghiệp : các em biết được tính đa dạng phong phú của nghề, xu hướng phát triển của nghề, các yêu cầu của nghề, đặc biệt là các yêu cầu về tâm sinh lý, những điều kiện học nghề và vào nghề… Đồng thời, qua quá trình tìm hiểu nghề, ở học sinh sẽ xuất hiện và phát triển hứng thú nghề nghiệp. Từ đó hình thành ở học sinh những biểu tượng đúng đắn về những nghề cần phát triển; hình thành và rèn luyện cho các em phương pháp tìm thông tin. Một số thông tin cụ thể như: thông tin về ngành, nhóm nghề và nghề cụ thể; thông tin về cơ sở đào tạo; thông tin về nghề nghiệp và cơ sở đào tạo mà bản thân học sinh thích. 2) Giúp học sinh tìm hiểu thông tin về định hướng phát triển kinh tế - xã hội, về thị trường lao động ở địa phương, cả nước và xa hơn nữa là trong khu vực và thế giới; giúp học sinh tiếp cận dần về hệ thống thông tin về đào tạo nhân lực và việc làm, giúp các em quen dần với những tính chất, quy luật của thị trường lao động; giúp các em thấy được đòi hỏi mới về nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để các em có trình độ tự chủ cao hơn, có kỹ năng giao tiếp, tinh thần trách nhiệm và sáng kiến trong lao động. Do tính biến động của thị trường lao động, người lao động cũng cần thể hiện tính năng động, thích ứng qua việc không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn hoá. Và những nội dung này cũng có tính đến đặc điểm nhận thức, tâm sinh lý lứa tuổi. Các nội dung cụ thể: thông tin về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội; thông tin về thị trường lao động. 3) Giúp học sinh tự đánh giá hứng thú và năng lực nghề nghiệp của bản thân: Hứng thú là một động lực hết sức quan trọng để con người gắn bó với nghề; hứng thú được coi như một chỉ số quan trọng hàng đầu đ ể xét sự phù hợp người của con người. Bên cạnh đó, để có thể gắn bó với nghề, đạt năng suất lao động cao, người lao động cần phải có năng lực chuyên môn thật sự, đóng góp được sức lực, trí tuệ một cách hữu hiệu với nghề mình yêu thích. Hơn nữa, nghề nghiệp cũng không chấp nhận những người thiếu năng lực, do đó giúp học sinh tự đánh giá và phát triển hứng thú, năng lực nghề nghiệp tương lai của các em trên cơ sở phân tích những đặc điểm, những điều kiện, những hoàn cảnh riêng của từng em một. 1.3.3 Các phẩm chất đạo đức của nhà tư vấn hướng nghiệp. Mỗi nghề đều có những yêu cầu, đòi hỏi nhất định về phẩm chất và năng lực của người lao động. Để thích ứng được với nghề và đạt năng suất lao động cao nhất, người lao động cần có những phẩm chất năng lực tương ứng đáp ứng đòi hỏi của nghề. Tư vấn là một nghề mang tính chuyên nghiệp cao. Vì vậy nghề này cũng đòi hỏi các chuyên gia phải có những phẩm chất nhất định. Trong nghề tham vấn, các chuyên gia tham vấn thông thường phải có các phẩm chất đặc trưng sau: - Sự thông minh, nhanh nhạy. - Chân thật. - Khát vọng giúp đỡ người khác. - Tính cởi mở, nhạy cảm, nhân ái với mọi người. - Có tấm lòng khoan dung, độ lượng và khả năng giao tiếp hoàn hảo. Đặc biệt đối với quá trình tư vấn hướng nghiệp thì yêu cầu trong phẩm chất “Sự thông minh, nhanh nhạy” bao hàm thêm rất nhiều các phẩm chất khác như: - Sự hiểu biết về nghề, trường thi (chỉ tiêu), loại hình đào tạo, hình thức đào tạo, yêu cầu đặc điểm của nghề, trường. - Hiểu biết về sự thay đổi yêu cầu của xã hội đối với nghề nghiệp. - Các kỹ năng để đánh giá các đặc điểm tâm sinh lý, xu hướng, khí chất riêng của từng cá nhân. 1.3.4 Một số nguyên tắc tư vấn hướng nghiệp cơ bản. Nguyên tắc tư vấn là những quy định mang tính chỉ đạo hoạt động của nhà tư vấn trong suốt quá trình tư vấn, các nguyên tắc tư vấn chính là yếu tố phân biệt với tư cách là hoạt động nghề nghiệp của họ. Những nguyên tắc này được xây dựng dựa trên cơ sở triết lý. Mục đích của nghề và những kinh nghiệm của các tổ chức, cá nhân được đúc kết trong lịch sử phát triển của nghề tư vấn. Thực hiện đúng theo tư vấn, hoạt động tư vấn sẽ diễn ra với hiệu quả trợ giúp cao, và ngược lại, thậm chí sẽ làm hại đến thân chủ. Vì vậy, nhà tư vấn cần nắm vững và quán triệt tốt các nguyên tắc này. Hiện nay, ở Việt Nam, các trung tâm tư vấn, các tổ chức giáo dục đào tạo đều có tiến hành hoạt động tư vấn hướng nghiệp, các nhà giáo dục, khoa học cũng đưa ra rất nhiều quan điểm về cơ sở lý luận của tư vấn hướng nghiệp. Tuy nhiên, đây là một mô hình mới được phát triển ở Việt Nam vài năm trở lại đây, bên cạnh đó là có sự tiếp nhận các quan điểm về tư vấn hướng nghiệp của Pháp, Mỹ… và các nước phát triển khác. Vì vậy, hệ thống cơ sở lý luận về tư vấn hướng nghiệp mà được Bộ Giáo dục – Đào tạo công nhận và đưa vào làm kim chỉ nam trong hoạt động công tác tư vấn hướng nghiệp thì hiện nay mới đang được xây dựng, thông qua các ý kiến chuyên gia. Tạm thời tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường được coi là một mảng của tư vấn học đường, các nguyên tắc trong tư vấn hướng nghiệp được lấy và vận dụng một cách linh hoạt trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tư vấn. Một số nguyên tắc tư vấn cơ bản nhất: - Nguyên tắc tôn trọng thân chủ trong quá trình tư vấn. Dành quyền tự quyết cho thân chủ. Tất cả vì lợi ích của thân chủ. - Nguyên tắc chấp nhận, không phán xét mọi hành vi, xúc cảm của thân chủ. - Nguyên tắc thấu cảm. - Nguyên tắc đảm bảo tính bí mật thông tin cho thân chủ Tuy nhiên, đối với tư vấn hướng nghiệp, mỗi nguyên tắc này thể hiện bằng những biểu hiện khác nhau, cụ thể là: - Nguyên tắc tôn trọng thân chủ (học sinh) trong quá trình tư vấn – nhà tư vấn cần tôn trọng học sinh như một nhân cách độc lập, tin vào khả năng của học sinh. Mức độ thông hiểu nguyên tắc này được thể hiện bằng dấu hiệu nhà tư vấn chỉ ra được các lý do hợp lý của việc cần phải tôn trọng học sinh, cần phải tin tưởng học sinh trong quá trình tư vấn. Và ý thức được tác dụng cũng như hậu quả khi thực hiện tốt hay không tốt về nguyên tắc này trong quá trình tư vấn. - Với nguyên tắc dành quyền tự quyết cho thân chủ, thể hiện sự thông hiểu trong nguyên tắc này của nhà tư vấn đó chính là chỉ ra được bản chất tư vấn không áp đặt đối tượng, mà tin tưởng ở đối tượng trên cơ sở phân tích một cách khách quan, khoa học vấn đề mà đối tượng vướng mắc, đưa ra gợi ý. Cuối cùng để đối tượng tự cân nhắc và đưa ra cách giải quyết vấn đề của mình vì lợi ích của bản thân. - Nguyên tắc thấu cảm: Sự nhận biết của nhà tư vấn về nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: nhà tư vấn cần đặt vị trí của mình vào vị trí của học sinh để đồng cảm và hiểu những cảm xúc của các em. Nhà tư vấn cần tránh sự đồng nhất giữa “thấu cảm” và “đồng cảm”, cũng như ý tưởng tạo lập một khoảng cách giữa nhà tư vấn và học sinh nhằm để giữ “uy” với mục đích “giáo dục” học sinh. - Nguyên tắc chấp nhận, không phê phán học sinh: nhà tư vấn không nên phê phán, uốn nắn, giáo dục học sinh một cách cứng nhắc như trong hoạt động giáo dục - hoạt động mà họ đang thực hiện; cần phải biết lắng nghe và chấp nhận học sinh, chấp nhận vô điều kiện. Tóm lại, tư vấn hướng nghiệp không chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho học sinh những thông tin liên quan đến nghề, yêu cầu của nghề đối với người lao động, nhu cầu xã hội, hay hệ thống trường đào tạo…mà còn phải giải đáp được các thắc mắc của học sinh, giúp học sinh hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai, gợi ý và định hướng cho học sinh tìm hiểu những thông tin nào là quan trọng và cần thiết cho quá trình chọn nghề, giúp học sinh có được kỹ năng tự đánh giá được năng lực bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp, biết cách tìm kiếm được những thông tin nghề và thông tin cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề, biết cách định hướng và lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Bên cạnh đó, tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh có thái độ chủ động và tự tin trong việc chọn nghề phù hợp, có hứng thú và khuynh hướng chọn nghề đúng đắn. Tuy nhiên, tư vấn hướng nghiệp cần phải được hiểu một cách rộng hơn, là không chỉ tác động và làm thay đổi nhận thức của cá nhân đối với nghề định chọn, mà còn phải biết làm cho cá nhân đó hiểu được giá trị của nghề, hình thành hứng thú với nghề và tận tâm cống hiến với nghề đã chọn. Nói cách khác, tư vấn hướng nghiệp phải làm cho cá nhân thấy được hạnh phúc khi cống hiến toàn bộ tinh thần và sức lực cho nghề mình chọn, coi việc hoạt động trong lĩnh vực nghề là một lẽ sống chứ không chỉ là phương tiện kiếm sống. Tiểu kết chương 1 Từ những nội dung trình bày trên, chúng tôi cho rằng: 1) Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của con người cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người có nhiều loại: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần (trong đó có nhu cầu nhận thức), và nhu cầu xã hội. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thuộc nhu cầu nhận thức về một lĩnh vực riêng, đó là nhu cầu cần được tư vấn về các nội dung có liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp, trên cơ sở đó mỗi cá nhân có sự đối chiếu với năng lực, điều kiện bản thân (có tính đến nhu cầu lao động của xã hội) để chọn cho mình một nghề phù hợp. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp có đối tượng, đặc điểm, biểu hiện, điều kiện và phương thức thoả mãn như một nhu cầu nhận thức, đồng thời có những đặc trưng riêng của mình. 2) Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT cũng là nhu cầu tư vấn hướng nghiệp nhưng có những nét riêng của đặc điểm lứa tuổi. Học sinh THPT bắt đầu nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội, đã đến lúc các em thấy cần phải chuẩn bị bước vào cuộc sống và chọn nghề nghiệp tương lai cho mình. Trong quá trình tìm hiểu về thế giới nghề nghiệp và trước khi quyết định chọn nghề, ở học sinh nảy sinh nhu cầu cần được tư vấn hướng nghiệp. Biểu hiện rõ nét của nhu cầu này là việc học sinh bắt đầu tìm hiểu về năng lực, sở trường của bản thân, biết đối chiếu năng lực để đầu tư việc học phù hợp, tìm kiếm phương pháp học thích hợp đối với những môn học có liên quan đến ngành nghề mà cá nhân dự định chọn. Đồng thời, cá nhân có sự chủ động tìm kiếm, chọn lọc các thông tin liên quan đến nghề định chọn, chủ động tìm kiếm sự tư vấn với mong muốn để có quyết định chọn nghề đúng đắn. Tuy nhiên, thế giới nghề nghiệp đa dạng và phức tạp, học sinh chưa đủ tri thức và kinh nghiệm để có cái nhìn chính xác, mặt khác không phải lúc nào các em cũng được tiếp nhận sự tư vấn đúng đắn, chính vì vậy mà các em dễ bị “nhiễu” và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau của cuộc sống xã hội. Sự ảnh hưởng này đã phần nào làm cho nhận thức của học sinh đối với việc chọn nghề có sự sai lệch, và điều này đồng nghĩa với việc các em sẽ không chọn được cho mình một nghề phù hợp. 3) Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp có thể được đánh giá thông qua hai nhóm tiêu chí, đó là nhóm tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết của học sinh đối với nghề nghiệp (hiểu biết về nghề định chọn, hiểu biết về thị trường lao động, hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý bản thân), và nhóm tiêu chí đánh giá mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh (mức độ quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp, mức độ cần thiết phải hiểu biết về thị trường lao động, mức độ hài lòng của học sinh đối với các tổ chức tư vấn hướng nghiệp …). Chương 2 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Tổ chức nghiên cứu. Để thực hiện nội dung nghiên cứu đã nêu trên, chúng tôi tiến hành theo 4 giai đoạn sau: * Giai đoạn 1 (từ tháng 9/2009 đến tháng 12/2009) Xây dựng đề cương cho vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu lý luận của đề tài, soạn thảo công cụ nghiên cứu, xây dựng khung chương trình thực nghiệm. * Giai đoạn 2 (từ tháng 01/2010 đến tháng 02/2010) Tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang. * Giai đoạn 3 (từ tháng 3/2010 đến tháng 4/2010) Tiến hành triển khai thực nghiệm chính thức theo mục đích và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu đề ra. * Giai đoạn 4 (từ tháng 5/2010 đến tháng 8/2010) Hoàn chỉnh đề tài và viết báo cáo khoa học. 2.2. Các phương pháp nghiên cứu. 2.2.1. Nghiên cứu lý luận. - Mục đích: Khái quát một số vấn đề liên quan để hình thành cơ sở lý luận của đề tài nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra. - Nội dung: Lý luận tâm lý học về nhu cầu, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, đặc điểm chọn nghề và nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT, mức độ biểu hiện nhu cầu và các tiêu chí đánh giá. Xây dựng giả thuyết khoa học, xác định các khái niệm của đề tài và lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp. - Phương pháp: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu. 2.2.2. Nghiên cứu thực trạng. - Mục đích: Đưa ra được bức tranh tổng thể về thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang. - Nội dung: Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông về các mặt: thông tin chung về nhu cầu của thị trường lao động tại địa phương và toàn tỉnh ở hiện tại và trong tương lai; những khả năng đào tạo; những điều kiện và yêu cầu tuyển dụng; những đặc điểm của nghề cụ thể (nội dung và điều kiện lao động; những yêu cầu, đòi hỏi của nghề đối với người lao động; những lĩnh vực sử dụng; khả năng phát triển của nghề; điều kiện tiền lương...) - Mẫu nghiên cứu: Chọn mẫu theo công thức tính mẫu nghiên cứu đơn giản của Yamane (1967-1986): n = N\1 + N(e)2 Trong đó: n : Số lượng mẫu cần xác định cho nghiên cứu điều tra. N : Tổng số mẫu e : Mức độ chính xác mong muốn. Tổng số học sinh lớp 12 toàn tỉnh Kiên Giang là 10.633 học sinh (N = 10.633), nếu ta cho phép nghiên cứu sai số là 5% và độ tin cậy là 95%. Với công thức trên ta có: n = 10.633\1 + 10.633(0,05)2 = 385 Do chúng tôi cần nghiên cứu chính xác hơn nên cho phép sai số là 4%, như vậy số mẫu mà chúng tôi nghiên cứu là: n = 10.633\1 + 10.633(0,04)2 = 590 Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 7 trường THPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang gồm có: trường THPT Định An (huyện Gò Quao); trường THPT Châu Thành (huyện Châu Thành); trường THPT Hà Tiên (thị xã Hà Tiên); và 4 trường THPT Nguyễn Trung Trực; THPT Chuyên Huỳnh Mẫn Đạt; THPT Nguyễn Hùng Sơn; THPT Dân tộc Nội trú tỉnh (thành phố Rạch Giá). Đồng thời, chúng tôi cũng chọn ngẫu nhiên một số lớp 12 đại diện tại các trường đã chọn trên để tiến hành phát phiếu điều tra thực trạng. Phiếu phát ra, sau khi thu về và loại bỏ những phiếu không hợp lệ (thiếu thông tin cá nhân; trả lời không đầy đủ các câu hỏi) thì chúng tôi còn lại là 620 phiếu hợp lệ và được chọn làm mẫu nghiên cứu của đề tài. Trước khi cho học sinh trả lời các câu hỏi của phiếu khảo sát thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT. tỉnh Kiên Giang, chúng tôi đã yêu cầu học sinh cung cấp một số thông tin cá nhân có liên quan như giới tính, dân tộc, học lực, trình độ học vấn của cha mẹ, và nghề nghiệp của cha mẹ. Đồng thời, chúng tôi cũng phân vùng địa bàn nghiên cứu. Từ những thông tin trên, chúng tôi có thể xác định mối tương quan giữa các thông tin đó với nhu cầu và nhận thức của học sinh đối với công tác tư vấn hướng nghiệp nhằm làm rõ nét hơn thực trạng. Các thông tin trên thu về được tổng hợp và xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả. Bảng 2.1: Mẫu nghiên cứu phân theo địa bàn Tên huyện Số lượng Tỉ lệ % Gò Quao 95 15,3% Hà Tiên 74 11,9% Châu Thành 34 5,5% Rạch Giá 417 67,3% Tổng cộng 620 100% Địa bàn nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên trong tổng số 14 huyện, thị, thành của tỉnh Kiên Giang gồm có 2 huyện Gò Quao và Châu Thành, 1 thị xã Hà Tiên và 1 thành phố Rạch Giá. Số lượng của mẫu nghiên cứu là 620 học sinh lớp 12, trong đó huyện Gò Quao (THPT. Định An) chiếm 15,3%, thị xã Hà Tiên (THPT. Hà Tiên) chiếm 11,9%, huyện Châu Thành (THPT. Châu Thành) chiếm 5,5%, và thành phố Rạch Giá (THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Nguyễn Hùng Sơn, THPT. Nguyễn Trung Trực, THPT. Chuyên Huỳnh Mẫn Đạt) chiếm 67,3%. Bảng 2.2: Mẫu nghiên cứu phân theo giới tính Giới tính Số lượng Tỉ lệ % Nam 243 39,2% Nữ 377 60,8% Tổng cộng 620 100% Học sinh nam chiếm 39,2%, học sinh nữ chiếm 60,8%. Bảng 2.3: Mẫu nghiên cứu phân theo thành phần dân tộc Dân tộc Số lượng Tỉ lệ % Kinh 478 77,1% Khơme 105 16,9% Hoa 37 6% Tổng cộng 620 100% Về thành phần dân tộc của khách thể nghiên cứu thì dân tộc Kinh chiếm 77,1%, dân tộc Khơme chiếm 16,9%, và dân tộc Hoa chiếm 6%. Bảng 2.4: Mẫu nghiên cứu phân theo học lực Học lực Số lượng Tỉ lệ % Yếu 137 22,1% Trung Bình 313 50,5% Khá Giỏi 170 27,4% Tổng cộng 620 100% Học lực của khách thể nghiên cứu được chia thành 3 mức là Yếu, Trung Bình, và Khá Giỏi. Trong đó, học lực Yếu chiếm 22,1%, học lực Trung Bình chiếm 50,5%, và học lực Khá Giỏi chiếm 27,4%. Như vậy, số học sinh có học lực trung bình chiếm đa số. Các số liệu về học lực này sẽ giúp chúng tôi tìm mối tương quan giữa học lực với nhóm ngành nghề mà học sinh định chọn. Bảng 2.5: Trình độ học vấn của cha mẹ Trình độ học vấn của cha Trình độ học vấn của mẹ Trình độ học vấn của cha mẹ được chia thành 5 mức: Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Đại học, và Cao học. Có 36,3% tổng số học sinh trả lời không biết trình độ học vấn của cha, trình độ học vấn của cha chiếm tỉ lệ cao nhất ở bậc học THPT là 27,8%, kế đến là ở bậc học THCS chiếm 19,4%, trình độ Đại học là 7,9%, và trình độ Cao học chỉ có 0,2%. Như vậy trình độ học vấn của cha chỉ ở mức trung bình, ở bậc Đại học là thấp, và ở bậc Cao học là rất thấp, không đáng kể. Có 37,7% tổng số học sinh trả lời không biết trình độ học vấn của mẹ, trình độ học vấn của mẹ ở bậc học THCS chiếm tỉ lệ cao nhất là 24,7%, kế đến là ở bậc học THPT chiếm 21,1%, trình độ Đại học là 4%, và trình độ Cao học chỉ có 0,2%. Bảng 2.6: Nghề nghiệp của cha mẹ Nghề nghiệp của cha Nghề nghiệp của mẹ Nhóm nghề Số lượng Tỉ lệ % Nhóm nghề Số lượng Tỉ lệ % Nông nghiệp 199 32,1% Nông nghiệp 163 26,4% Ngư nghiệp 49 7,9% Ngư nghiệp 1 0,2% Tự kinh doanh 120 19,4% Tự kinh doanh 113 18,3% Cán bộ, CNVC 146 23,6% Cán bộ, CNVC 82 13,3% Nghề Khác 105 17% Nghề Khác 259 41,9% Tổng cộng 620 100% Tổng cộng 620 100% Có nhiều cách phân chia nghề nghiệp trong xã hội, nhưng căn cứ vào thực tế các ngành nghề chủ yếu của tỉnh Kiên Giang thì nghề nghiệp của cha mẹ học sinh được chia thành 5 nhóm nghề nghiệp như sau: Nông nghiệp, Ngư nghiệp, Tự kinh doanh, Cán bộ Công nhân viên chức, Nghề khác (Nội trợ, Làm thuê, May vá,...) Ở nghề nghiệp của cha, nhóm nghề Nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất là 32,1%, kế đến là Cán bộ, CNVC chiếm 23,6%, nhóm nghề Tự kinh doanh là 19,4%, nghề Khác là 17% và Ngư nghiệp là 7,9%. Như vậy nghề nghiệp của cha chủ yếu là nông nghiệp, cũng phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Trình độ Số lượng Tỉ lệ % Trình độ Số lượng Tỉ lệ % Tiểu học 52 8,4% Tiểu học 76 12,3% THCS 120 19,4% THCS 153 24,7% THPT 173 27,8% THPT 131 21,1% Đại học 49 7,9% Đại học 25 4% Cao học 1 0,2% Cao học 1 0,2% Không biết 225 36,3% Không biết 234 37,7% Tổng cộng 620 100% Tổng cộng 620 100% Ở nghề nghiệp của mẹ, nhóm nghề Khác chiếm tỉ lệ cao nhất là 41,9%, chủ yếu là nội trợ và đi làm thuê. Kế đến là nhóm nghề Nông nghiệp chiếm tỉ lệ 26,4%, Tự kinh doanh là 18,3%, Cán bộ CNVC là 13,3% và cuối cùng là Ngư nghiệp là 0,2%. Như vậy, nông nghiệp vẫn là nghề nghiệp chủ yếu của cha mẹ học sinh. Các thông tin về trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ được thu thập nhằm để tìm hiểu có hay không mối tương quan giữa trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ với nhóm ngành nghề mà học sinh định chọn. - Phương pháp: + Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu khảo sát ý kiến lần 1 để điều tra thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT (Phụ lục1). Cấu trúc của phiếu khảo sát ý kiến lần 1 được phân bố như sau: 1) Thông tin cá nhân của học sinh (giới tính, dân tộc, học lực trung bình, trình độ học vấn và nghề nghiệp của cha mẹ). 2) Đặc điểm chọn nghề của học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên Giang, gồm có các câu hỏi 1,2,3,4. 3) Hiểu biết của học sinh về nghề nghiệp nói chung (hiểu biết về nghề, về thị trường lao động, hiểu biết về yêu cầu của nghề đối với người lao động, những khó khăn của học sinh khi chọn nghề...) gồm có các câu hỏi 5,6,9,12,14,16,17,18,19,20. 4) Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT (mức độ quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp, mức độ quan trọng của từng nội dung tư vấn, mức độ ảnh hưởng của một số đối tượng đến việc chọn nghề của học sinh...) gồm có các câu hỏi 7,8,10,11,13,15,21. + Phương pháp trò chuyện (phương pháp bổ trợ cho phương pháp điều tra): thông qua trò chuyện, trao đổi với Ban Giám hiệu, các giáo viên và các em học sinh về các vấn đề có liên quan đến đề tài nhằm thu thập thêm thông tin để làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu. - Quy trình thực hiện: bao gồm các bước: xây dựng bảng hỏi; điều tra thử; bổ sung và hoàn chỉnh bảng hỏi; tiến hành phát phiếu và thu thập số liệu chính thức. - Cách đánh giá: Sử dụng thang đánh giá mức độ biểu hiện 5 bậc. 2.2.3. Nghiên cứu thực nghiệm. - Mục đích: Bước đầu thay đổi nhận thức của học sinh về sự cần thiết được tư vấn trước khi chọn nghề. - Nội dung: 1) Định hướng phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh giai đoạn 2010-2015. 2) Định hướng phát triển giáo dục & đào tạo của tỉnh giai đoạn 2010-2015. 3) Danh mục ngành nghề ưu tiên đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang. 4) Thông tin chung về nhu cầu của thị trường lao động trên toàn tỉnh ở hiện tại và trong tương lai. 5) Thông tin tuyển sinh của các trường Đại học ở phía Nam. 6) Những nội dung về yêu cầu và đòi hỏi của nghề đối với năng lực của người lao động; khả năng đáp ứng của người lao động (các tài liệu về hướng nghiệp). 7) Một số nội dung về tâm lý có liên quan đến đề tài nghiên cứu: đặc điểm lứa tuổi học sinh THPT; xu hướng chọn nghề; mối quan hệ giữa hứng thú, năng lực, đặc điểm tâm sinh lý và việc chọn lựa nghề nghiệp của học sinh... - Các tài liệu đã được sử dụng trong thực nghiệm: Phụ lục 4. - Khách thể: Mẫu nghiên cứu thực nghiệm được chia thành 2 nhóm: + Nhóm đối chứng (không tác động) gồm có 392 học sinh lớp 12 của 6 trường THPT (THPT. Định An, THPT. Châu Thành, THPT Hà Tiên, THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Chuyên Huỳnh Mẫn Đạt, và THPT. Nguyễn Trung Trực). + Nhóm thực nghiệm (dùng một số biện pháp tác động nhằm thay đổi nhận thức) gồm có 134 học sinh lớp 12 của trường THPT. Nguyễn Hùng Sơn. Bảng 2.7: Mẫu nghiên cứu phân theo giới tính: Giới tính Số lượng Tỉ lệ % Nam 56 41,8% Nữ 78 58,2% Tổng 134 100% Nam chiếm 41,8%, nữ chiếm 58,2%. Bảng 2.8: Mẫu nghiên cứu phân theo học lực Học lực Số lượng Tỉ lệ % Yếu 18 13,4% Trung bình 78 58,2% Khá Giỏi 38 28,4% Tổng cộng 134 100% Học lực Yếu chiếm 13,4%, học lực Trung Bình chiếm 58,2%, học lực Khá Giỏi chiếm 28,4%. Như vậy học lực Trung Bình chiếm đa số. - Phương pháp và các bước tiến hành thực nghiệm: + Tư vấn cá nhân: Trưng dụng văn phòng Đoàn trường làm văn phòng trực tư vấn hướng nghiệp trong giai đoạn tiến hành thực nghiệm (thời gian thực nghiệm từ tháng 03/2010 đến tháng giữa 04/2010 (kết thúc thời gian nhận hồ sơ đăng ký dự thi Đại học), thời gian trực tư vấn là mỗi ngày từ 7h30-11h và 13h30-17h, trừ chủ nhật); các thầy cô là cán bộ Đoàn trường đã được trao đổi công việc và tập huấn trước để hỗ trợ thêm cho quá trình làm thực nghiệm. Trường THPT. Nguyễn Hùng Sơn có tổng học sinh lớp 12 là 585 học sinh, mẫu nghiên cứu thực nghiệm là 134 em học sinh. Tiến hành tư vấn cá nhân đối với tất cả các em học sinh đến với văn phòng tư vấn và có sổ nhật ký công việc để theo dõi tiến triển quá trình thực nghiệm đối với những em học sinh thuộc nhóm thực nghiệm, đảm bảo tính chính xác và khách quan của kết quả quả nghiên cứu, thống nhất trên mỗi đối tượng nghiên cứu. + Tư vấn gián tiếp (điện thoại, email, hộp thư): Cung cấp cho các em học sinh số điện thoại tư vấn, địa chỉ email, và hộp thư riêng của văn phòng để các em học sinh có thể gửi về đó những câu hỏi mà các em cần tư vấn. + Tư vấn trực tiếp: Cùng Đoàn trường phối hợp với Trường Đại học An Giang, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Hoa Sen (TP.HCM), 4 trường Cao đẳng trong tỉnh và Tỉnh đoàn Kiên Giang tổ chức 2 buổi tư vấn tuyển sinh cho tất cả các em học sinh khối lớp 12 vào các ngày chủ nhật trong tuần. + Tham quan thực tế: Tổ chức cho các em học sinh 2 ngày đi tham quan thực tế tại các trường Đại học Cần Thơ, Đại học Tây Đô (thành phố Cần Thơ), Đại học An Giang, Đại học Võ Trường Toản (tỉnh Hậu Giang) và 4 trường Cao đẳng trong tỉnh. - Kiểm tra tính khả thi của quá trình thực nghiệm: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi gồm có 6 câu hỏi thể hiện bằng Phiếu khảo sát ý kiến lần 2. Cấu trúc bảng hỏi (phụ lục 2) được phân bố như sau: 1) Các thông tin cá nhân của học sinh (giới tính, dân tộc, học lực trung bình, ngành học đã đăng ký trong hồ sơ dự thi Đại học). 2) Căn cứ chọn nghề của học sinh: câu số 1 (sử dụng lại câu số 1 của Phiếu khảo sát ý kiến lần 1). 3) Mức độ quan tâm của học sinh đối với tư vấn hướng nghiệp: câu số 2 (sử dụng lại câu số 7 của Phiếu khảo sát ý kiến lần 1). 4) Nhận định của học sinh về mức độ đáp ứng của các chương trình tư vấn: câu số 3. 5) Mức độ hài lòng của học sinh về kết quả tư vấn: câu số 4. 6) Sự cần thiết của việc thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT: câu số 5. 7) Ý kiến đóng góp của học sinh về hình thức, nội dung tư vấn hướng nghiệp trong thời gian tới (câu hỏi mở): câu số 6. 2.2.4. Phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu điều tra thực trạng và sau thực nghiệm bằng phần mềm SPSS 11.5. Các số liệu được xử lý chủ yếu bằng thống kê mô tả và kiểm nghiệm Chi bình phương. Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT. tỉnh Kiên Giang. 3.1.1. Đặc điểm chọn nghề của học sinh lớp 12 THPT. Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc với diện tích tự nhiên là 6.222 km2, rộng nhất trong các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đứng thứ 18 so với 64 tỉnh thành trong cả nước. Kiên Giang có 14 huyện, thị, thành với tổng dân số năm 2003 là 1,611,746 triệu người; toàn tỉnh có tổng cộng 49 trường THPT, với tổng số học sinh là 38.935, trong đó riêng khối 12 là 10.633 học sinh (bao gồm 10.359 học sinh công lập và 274 học sinh ngoài công lập); riêng tại thành phố Rạch Giá có 7 trường THPT với số học sinh lớp 12 là 2.256 học sinh. Do Kiên Giang là tỉnh ven biển, lại nằm sát biên giới nên việc tiếp cận được các nguồn thông tin là rất khó khăn, và học sinh càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận thông tin về nghề nghiệp cũng như được tiếp cận các hoạt động tư vấn hướng nghiệp. Trong những năm gần đây Sở Giáo dục & Đào tạo cũng đã dành rất nhiều sự quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi đến công tác này tại các trường THPT trong toàn tỉnh, cũng đã có nhiều chuyển biến đáng kể nhưng hiệu quả chưa cao. Hàng năm, khi gần đến kỳ thi tuyển sinh Đại học, các trường THPT mới bắt đầu liên hệ với một số trường Đại học, Cao đẳng về làm tư vấn tuyển sinh cho học sinh trường mình (chủ yếu là các trường Đại học gần như Đại học An Giang, Đại học Cần Thơ, Đại học Tây Đô, Đại học Võ Trường Toản và 4 trường Cao đẳng trong tỉnh). Khi tư vấn tuyển sinh như vậy thì các trường chỉ tổ chức gói gọn trong một buổi, chủ yếu các em học sinh chỉ được nghe thông tin về chỉ tiêu tuyển sinh, về điểm chuẩn, về các ngành đào tạo, về mức học phí của trường đến làm tư vấn tuyển sinh. Khi các em có những băn khoăn khác như về sự phù hợp nghề, về thị trường lao động, khả năng phát triển của nghề đã chọn trong tương lai... thì hầu như không có thời gian để hỏi, hoặc không được giải thích một cách thoả đáng. Do đó, các em tuy đã chọn cho mình một nghề cụ thể nhưng lại rất mơ hồ với sự lựa chọn của mình. Chính vì vậy, hàng năm có rất nhiều sinh viên tốt nghiệp ở nhiều ngành nghề khác nhau nhưng các em rất khó tham gia vào thị trường lao động trong tỉnh, một phần do các em không đáp ứng được yêu cầu của nghề nghiệp, một phần do ngành nghề của các em chọn không có trong nhu cầu của thị trường lao động. Chọn nghề là một nhiệm vụ quan trọng, chi phối phần lớn suy nghĩ và hoạt động của các em học sinh cuối cấp THPT. Thông qua việc lựa chọn nghề nghiệp, các em học sinh tỏ rõ sự trưởng thành về năng lực lựa chọn của mình. Điều này được các em thể hiện trước nhất qua những dự định cho tương lai. - Dự định tương lai: Hầu hết học sinh lớp 12 THPT. đều có những dự định trước cho tương lai, và những dự định này của các em cũng khá đa dạng. Bảng 3.1: Dự định tương lai của học sinh (n=620) Dự định Số lượng chọn Tỉ lệ % Học ĐH, CĐ, THCN 551 88,9% Học nghề 14 2,3% Đi làm ngay 5 0,8% Vừa học vừa làm 27 4,4% Làm kinh tế tại GĐ 1 0,2% Chưa có dự định 17 2,7% Lựa chọn khác 5 0,8% Tổng cộng 620 100% Có 97,3% tổng số học sinh đã có dự định tương lai cho mình, chỉ có 2,7% học sinh là chưa có dự định gì cho tương lai. Trong đó, có đến 88,9% học sinh lớp 12 đã chọn sẽ tiếp tục học Đại học, Cao đẳng sau khi tốt nghiệp THPT. Có 4,4% học sinh chọn sẽ vừa học vừa làm. Chỉ có 2,3% học sinh chọn con đường đi học nghề. Những dự định khác chiếm tỉ lệ không đáng kể. Như vậy, đi học tiếp Đại học, Cao đẳng được các em chọn chủ yếu, chiếm tỉ lệ phần trăm cao nhất. Một thực tế để chúng ta cần quan tâm trong công tác tư vấn hướng nghiệp là hầu hết học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông đều đổ xô đi thi đại học, chỉ có những học sinh trượt tốt nghiệp hay đại học mới tính đến chuyện học trung cấp, tuy nhiên trong những em học sinh này có rất nhiều em vẫn cố thi lại đại học vào năm sau. Tâm lý chuộng bằng cấp, thích làm thầy không thích làm thợ đã ăn sâu vào suy nghĩ của các em học sinh và cả phụ huynh, chính vì vậy mà các em phải thi vào đại học mà không cần quan tâm đến năng lực bản thân có hay không. Các em xem nhẹ việc học nghề, trong khi đó học Đại học không phải là yếu tố duy nhất quyết định hay đảm bảo sự thành công của các em trong công việc hay trong cuộc sống, mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác, và nhất là trong tình trạng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay. Và đa số học sinh lớp 12 đã chọn được một nghề cụ thể cho bản thân. - Nhóm nghề định chọn của học sinh: Tương tự như cách phân loại nghề nghiệp của cha mẹ học sinh, sau khi nghiên cứu các cách phân loại hệ thống ngành nghề đào tạo trong xã hội hiện nay, cùng với việc căn cứ vào lựa chọn cụ thể của học sinh, nghề nghiệp lựa chọn của học sinh được chia thành 5 nhóm nghề như sau: 1) Sư phạm; 2) Y tế; 3) Kỹ thuật; 4) Kinh tế; 5) Ngành Khác (Luật, Báo chí, Thiết kế thời trang, Du lịch, Diễn viên,...). Bảng 3.2: Nhóm nghề định chọn (n=620) Nhóm nghề Số lượng chọn Tỉ lệ % Sư phạm 61 9,8% Y tế 58 9,4% Kỹ thuật 60 9,7% Kinh tế 191 30,8% Ngành khác 101 16,3% Tổng 471 76% Chưa lựa chọn 149 24% Tổng cộng 620 100% Có 76% học sinh nêu rõ được nghề nghiệp định chọn và 24% học sinh là chưa biết phải chọn nghề gì cho phù hợp với bản thân. Trong đó có 30,8% học sinh chọn nhóm ngành Kinh tế (chiếm tỉ lệ cao nhất), kế đó là nhóm ngành Khác (Luật, Báo chí, Thiết kế thời trang, Diễn viên,...) là 16,3%. Nhóm ngành Sư phạm là 9,8%, nhóm ngành Y tế là 9,4%, và nhóm ngành Kỹ thuật là 9,7%. - Tương quan giữa học lực và ngành nghề lựa chọn: Để tìm hiểu mối tương quan giữa học lực và ngành nghề lựa chọn của học sinh, chúng tôi phân tích số liệu bằng kiểm định Chi bình phương và được kết quả χ2 = 28.874 (với Sig = 0.000 < 0.04). Như vậy kết quả kiểm định cho thấy có mối tương quan giữa học lực trung bình và ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.1). Đa số học sinh có học lực Yếu chọn nhóm ngành là nhóm Khác và nhóm Kinh tế. Đối với nhóm học sinh có học lực Trung Bình thì tỉ lệ chọn nhóm ngành Kinh tế là chiếm đa số trong tổng số học sinh có học lực trung bình (36,3%). Nhóm học sinh Khá Giỏi cũng tương tự, tỉ lệ chọn nhóm ngành Kinh tế cũng rất cao (54,5%). Như vậy ta nhận thấy rõ xu hướng chọn nghề của học sinh hiện nay đa phần ngiêng về nhóm ngành khối Kinh tế. Tuy nhiên vẫn nhận rõ sự không phù hợp lắm trong việc lựa chọn của các em vì tỉ lệ chọn nhóm ngành Kinh tế của học sinh trung bình và học sinh yếu còn chiếm khá nhiều và chưa phù hợp với học lực hiện tại. - Tương quan giữa giới tính và ngành nghề lựa chọn : Tương tự, chúng tôi được kết quả χ2 = 86.324 (với Sig = 0.000 < 0.04), như vậy kết quả kiểm định cho thấy có mối tương quan giữa giới tính với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.2). Học sinh nam chọn nhiều nhất nhóm ngành Kỹ thuật (88,3%), học sinh nữ thì lại ngiêng về nhóm ngành Kinh tế nhiều hơn, đặc biệt là ở chuyên ngành Tài chính kế toán (74,3%). Ở hai nhóm ngành Sư phạm và Y tế thì tỉ lệ nữ chọn nhiều hơn nam. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của nam và nữ vì đây là hai nhóm ngành nghề rất cần sự tỉ mỉ và chịu khó. Riêng ở nhóm ngành Khác (Luật, Báo chí, Thiết kế thời trang, Du lịch, Diễn viên,...) thì tỉ lệ chọn của nam và nữ gần như ngang bằng nhau. - Tương quan giữa địa bàn sinh sống và ngành nghề lựa chọn: Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 54.684 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa địa bàn sinh sống với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.3). Nếu xét tỉ lệ học sinh giữa thành phố Rạch Giá và các huyện, thị thì tỉ lệ học sinh tại thành phố Rạch Giá chiếm tỉ lệ đông nhất, vì vậy tỉ lệ chọn lựa các nhóm ngành của học sinh tại RG cũng cao hơn là cũng phù hợp. Nhưng ngay tại thành phố Rạch Giá thì sự sự chọn lựa các nhóm ngành cũng khá chênh lệch, nhóm ngành Kinh tế vẫn chiếm đa số tỉ lệ phần trăm học sinh chọn (78%), kế đến là nhóm ngành Khác (71,3%), và nhóm ngành Kỹ thuật (70%). Hai nhóm ngành còn lại là Y tế (55,2%) và Sư phạm (41%) được chọn ít hơn. - Tương quan giữa thành phần dân tộc và ngành nghề lựa chọn: Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 39.410 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa thành phần dân tộc với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.4) Xét giữa các thành phần dân tộc của học sinh thì dân tộc Kinh chiếm đa số, kế đến là dân tộc Khơme, và ít nhất là dân tộc Hoa. Vì vậy sự lựa chọn ở học sinh dân tộc người Kinh chiếm tỉ lệ nhiều nhất ở các ngành so với hai dân tộc còn lại là cũng hợp lý. Tuy nhiên, ở học sinh dân tộc Khơme, sự lựa chọn nhiều nhất của các em là ở hai nhóm ngành Sư phạm (29,5%) và Y tế (27,6%), kế đến là nhóm ngành Khác (14,9%) và nhóm ngành Kỹ thuật (10%). Nhóm ngành Kinh tế có tỉ lệ chọn thấp nhất (7,3%). Ở học sinh dân tộc Hoa, hai nhóm ngành được chọn nhiều là Y tế (12,1%) và Kinh tế (7,9%), nhóm ngành Kỹ thuật là không có học sinh nào chọn (0%). - Tương quan giữa trình độ học vấn của cha mẹ và ngành nghề lựa chọn: Chỉ có 50,2% học sinh biết được trình độ học vấn của cha, có tới 49,8% học sinh không biết trình độ học vấn của cha (bỏ trống không trả lời). Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 33.447 (với Sig = 0.001 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa trình độ học vấn của cha với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.5). Đa số các lựa chọn nghề nghiệp của học sinh chủ yếu ở những học sinh có cha có trình độ học vấn THCS (31,8%) và THPT (41,8%), kế đến là trình độ Đại học (13,5%) và thấp nhất và trình độ Tiểu học (12,9%). Và ở mỗi nhóm ngành nghề thì sự lựa chọn của học sinh vẫn cao nhất đều là những học sinh có cha có trình độ học vấn là THPT. Tương tự như vậy, có 49,4% học sinh biết được trình độ học vấn của mẹ, có tới 50,6% học sinh không biết được trình độ học vấn của mẹ. Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 30.332 (với Sig = 0.002 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa trình độ học vấn của mẹ với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.6). Chiếm tỉ lệ lựa chọn cao nhất vẫn là những học sinh có mẹ có trình độ học vấn THCS (40,5%) và THPT (34,6%). Tuy nhiên, trình độ học vấn của mẹ tương đối thấp hơn so với trình độ học vấn của cha, và nhìn chung thì trình độ học vấn của cha mẹ cũng có một ảnh hưởng nhất định đến việc quyết định chọn nghề của học sinh. - Tương quan giữa nghề nghiệp của cha mẹ với ngành nghề lựa chọn: Có 76% học sinh cho biết nghề nghiệp của cha. Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 66.477 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa nghề nghiệp của cha với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.7). Ở nhóm ngành Kinh tế, tỉ lệ học sinh chọn cao nhất (27,7%) là những học sinh có cha có nghề nghiệp là Tự kinh doanh. Điều này cho thấy nếu cha làm nghề Tự kinh doanh thì học sinh có khuynh hướng chọn nhóm ngành Kinh tế nhiều hơn. Ở nhóm ngành Kỹ thuật, tỉ lệ học sinh chọn cao nhất (30%) có cha là CB,CNVC. Ở ba nhóm ngành còn lại là Sư phạm (50,8%), Y tế (51,7%), và ngành Khác (36,6%) có cha làm nghề Nông nghiệp. Tương tự như vậy, có 76% học sinh cho biết nghề nghiệp của mẹ. Kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 69.234 (với Sig = 0.000 < 0.04) cho thấy có mối tương quan giữa nghề nghiệp của mẹ với ngành nghề lựa chọn của học sinh (phụ lục 3.8). Những học sinh có mẹ làm ở nhóm nghề Khác (chủ yếu là nội trợ, may vá, hoặc làm thuê) có sự chọn lựa cao ở 3 nhóm ngành Kỹ thuật (58,3%), Kinh tế (48,7%) và ngành Khác (40,6%). Những học sinh có mẹ làm nghề nông lựa chọn nhiều nhóm ngành Sư phạm (47,5%) và Y tế (43,1%). Nhìn chung, nghề nghiệp của cha mẹ không ảnh hưởng nhiều đến lựa chọn ngành nghề của học sinh, phần lớn cha mẹ học sinh đều làm nghề nông là do đặc thù nền kinh tế chủ yếu của tỉnh là nông

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVTLH036.pdf
Tài liệu liên quan