Tài liệu Luận văn Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh trung học phổ thông huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ TRÚC
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC
SINH THPT HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH
BÀRỊA – VŨNG TÀU
Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số: 603180
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Người nghiên cứu đề tài xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Các Thầy (Cô) giáo trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy
trong suốt năm tháng học cao học.
- TS. Trần Thị Quốc Minh - Người hướng dẫn luận văn, đã tận tình chỉ bảo trong quá
trình hoàn thành luận văn.
- Ban giám hiệu và các Thầy (Cô) giáo của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước
Bửu, Hòa Hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Người nghiên cứu cũng xin được cảm ơn các em học sinh của trường THPT Xuyên Mộc,
Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã cộng tác nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Xin trân...
81 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh trung học phổ thông huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ TRÚC
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC
SINH THPT HUYỆN XUYÊN MỘC TỈNH
BÀRỊA – VŨNG TÀU
Chuyên ngành: Tâm lí học
Mã số: 603180
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Người nghiên cứu đề tài xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Các Thầy (Cô) giáo trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy
trong suốt năm tháng học cao học.
- TS. Trần Thị Quốc Minh - Người hướng dẫn luận văn, đã tận tình chỉ bảo trong quá
trình hoàn thành luận văn.
- Ban giám hiệu và các Thầy (Cô) giáo của trường THPT Xuyên Mộc, Hòa Bình, Phước
Bửu, Hòa Hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Người nghiên cứu cũng xin được cảm ơn các em học sinh của trường THPT Xuyên Mộc,
Hòa Bình, Phước Bửu, Hòa Hội đã cộng tác nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu thực trạng.
Xin trân trọng cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Người nghiên cứu xin cam đoan rằng luận văn này do chính bản thân người nghiên cứu thực
hiện, số liệu trong luận văn là có thực do quá trình người nghiên cứu nghiên cứu thực trạng
tại bốn trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Nếu vi phạm
người nghiên cứu xin chịu mọi trách nhiệm theo quy định của phòng Sau đại học - Trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THPT: Trung học phổ thông
THCS: Trung học cơ sở
THCN: Trung học chuyên nghiệp
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
TB: Trung bình
ĐLTC: Độ lệch tiêu chuẩn
X: Chi bình phương
P: Mức ý nghĩa quan sát
N: Số người
RCT: Rất cần thiết
CT: Cần thiết
KCT: Không cần thiết
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem lại những thay
đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người trong xã hội, đặc biệt là ở
những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây
ra không ít những mâu thuẫn, xung đột và tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội. Ở mỗi cá nhân xuất hiện những khó khăn tâm lí mà tự bản thân mỗi cá nhân
không thể giải quyết được, họ đã phải tìm đến sự trợ giúp của tham vấn tâm lí - một loại hình
dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Áp lực lớn từ những vấn đề của xã hội hiện đại cũng làm cho quá trình phát triển của học sinh
THPT - lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách mạnh mẽ nhất - diễn ra
không hoàn toàn phẳng lặng, êm xuôi mà ở mỗi giai đoạn phát triển thường xảy ra những lo âu,
căng thẳng, xung đột riêng. Vì thế, trong quá trình phát triển trẻ em luôn có những sự mất cân
bằng với các hiện tượng bất thường. Trong nhiều trường hợp, những hiện tượng bất thường đó
chỉ là tạm thời, là tự nhiên, thậm chí là cần thiết cho sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên ở một
số trường hợp khác, chúng là biểu hiện của sự nhiễu loạn tâm lí ở trẻ khiến cha mẹ, thầy cô giáo
lo lắng, bực bội và nhiều khi bất lực . Nói như Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: “Bề ngoài trông như
yên lành nhưng cái khổ hàng ngày vẫn bao trùm các em”. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
đã chỉ ra rằng các học sinh, sinh viên ngày nay đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn tâm lí
trong việc lựa chọn những chân giá trị của thời đại, trong định hướng nghề, và sự lựa chọn việc
làm; trong quan hệ giao lưu và những khó khăn nảy sinh trong chính nội tại quá trình phát triển
tâm lí lứa tuổi. Vì vậy nhu cầu cần được trợ giúp và định hướng để giải quyết những khó khăn
tâm lí ở học sinh rất lớn. Nhiều mô hình trợ giúp học sinh được thử nghiệm, trong đó tham vấn
tâm lí là một trong những hình thức đang được phát triển và kỳ vọng.
Như vậy, có thể thấy rằng những năm học ở trường THPT là quãng thời gian quan trọng với
nhiều dấu ấn trong cuộc đời học tập của con người, đây là gian đoạn có nhiều thay đổi trong
tâm lí của mỗi cá nhân. Do đó khi gặp những căng thẳng về tâm lí, nếu học sinh được tham vấn,
giải tỏa kịp thời thì những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến cuộc sống nói chung và đến kết quả
học tập sẽ giảm đi rõ rệt. Ngược lại, các em có thể bị stress, lo âu, trầm cảm hoặc có những
hành vi lệch chuẩn. Việc ra đời của các phòng tham vấn tâm lí ở các trường THPT là điều rất
cần thiết.
Đối với học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu, là địa bàn huyện vùng sâu
nhưng kinh tế cũng đang dần phát triển, văn hoá nơi thành thị du nhập đã tạo ra một số xáo trộn
trong cuộc sống nơi đây, dẫn đến những biến động không nhỏ tới tâm lí của các em. Các em
cũng gặp phải những khó khăn tâm lí cần được tháo gỡ mà không phải thầy cô hay cha mẹ nào
cũng có thể giúp đỡ để các em có được sự thăng bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng
phát triển nhân cách đúng đắn. Đây là một nhu cầu có thực và ngày càng trở nên cấp thiết của
học sinh THPT. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu xem có những nguyên nhân cơ bản nào gây
ra những khó khăn tâm lí của các em? nhu cầu tham vấn tâm lí của các em ở mức độ nào? lĩnh
vực nào các em cần được tham vấn nhiều nhất? để từ đó xác định phương hướng tổ chức các
hoạt động tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của các em học sinh trên phạm vi của huyện cũng
như toàn tỉnh.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “ Nhu cầu tham vấn tâm lí của
học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” làm đề tài nghiên cứu khoa học
nhằm mục đích đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn tâm lí của các em học sinh THPT, từ
đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí trong trường THPT,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng tham vấn trong nhà trường phổ thông để hoạt
động tham vấn tâm lí thực sự trở thành người bạn đồng hành của học sinh THPT.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh
BàRịa-Vũng Tàu. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức công tác tham
vấn trong trường THPT trên địa bàn huyện Xuyên Mộc nói riêng cũng như trên phạm vi toàn
tỉnh Vũng Tàu.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT.
3.2. . Khách thể nghiên cứu :
458 học sinh và 35 giáo viên chủ nhiệm THPT huyện Xuyên Mộc thuộc bốn trường: Hòa Bình,
Xuyên Mộc, Phước Bửu, Hòa Hội.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc biểu hiện ở mức cao, tuy nhiên
có sự khác biệt về nội dung cần được tham vấn ở các trường xét theo khối lớp và giới tính do
nhiều nguyên nhân.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh
BàRịa – Vũng Tàu.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lí cho học sinh
THPT trên địa bàn huyện.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biểu hiện của nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh
THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa-Vũng Tàu năm học 2009 -2010
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Tổng hợp tài liệu có liên quan để hình thành cơ sở lí luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra bằng phiếu hỏi. Đây là phương pháp chính của đề tài. Chúng tôi thiết kế 2 loại bảng
hỏi dành cho học sinh và giáo viên nhằm tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học
sinh THPT ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là khảo sát mức độ cần thiết
của học sinh về tham vấn tâm lí, nhu cầu tham vấn tâm lí ở nội dung và hình thức tham vấn…
- Phỏng vấn. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trên 10 học sinh và 10 giáo viên nhằm tìm hiểu rõ
hơn về thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT, đặc biệt là nguyên nhân của
thực trạng và những giải pháp cần thực hiện. Đồng thời phỏng vấn để kiểm tra, khẳng định lại
kết quả điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu được những kết quả đáng tin cậy.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu:
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lí, tổng kết số liệu điều tra đưa ra các kết luận định lượng làm
cơ sở cho các kết luận định tính.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài đã mô tả được thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc,
tỉnh BàRịa – Vũng Tàu. Cụ thể là: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học
sinh THPT, lí do học sinh THPT cần được tham vấn, mong muốn của học sinh THPT về phòng
tham vấn tâm lí trong trường học… Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm định hướng tổ chức
công tác tham vấn tâm lí cho học sinh THPT trên địa bàn huyện.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu hợp quy luật, đảm bảo cho sử tồn tại và phát triển của cơ thể.
Khi bàn đến nhu cầu, các triết gia kinh điển đã viết: “ Bản thân nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn,
hành động thoả mãn và công cụ đã đạt được để thoả mãn nhu cầu ấy lại đưa tới những nhu cầu
mới, vừa nảy sinh ra những nhu cầu mới này là sự việc lịch sử đầu tiên {19; 76}.
Từ đầu thế kỷ XIX , Small (người Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lí của cá nhân bắt nguồn
từ những nhu cầu của nó ( về của cải, quyền lực, về sự tán thành của người khác…). Vào giữa
thế kỷ XIX, V.Koller, E.Thorndike, N.E.Miller… nghiên cứu các kiểu hành vi động vật được
thúc đẩy bởi nhu cầu và đưa ra thuật ngữ “ luật hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữa kích thích
và đáp ứng của cơ thể. Trên cơ sở này, họ đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành vi.
Cuối thế kỷ XIX, S.Freud đã đưa vấn đề nhu cầu vào Lý thuyết bản năng của con người. Theo
Freud, lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định rằng, tất cả hành
vi của con người đều hướng tới việc mong muốn những nhu cầu của cơ thể.
Vào những năm của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu cầu ở con người.
Chẳng hạn như lý thuyết động cơ hệ của K.Lewin cho rằng, những nhân tố thực của hoạt động
tâm lí của con người không chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội
{32}.
Đại diện tiêu biểu cho trường phái tâm lí học nhân văn là A.Maslow trong công trình nghiên
cứu của mình đã chỉ ra rằng, con người có những nhu cầu chân chính về giao tiếp, về sự lệ
thuộc, về tình yêu, về lòng kính trọng… Những nhu cầu này có bản chất, bản năng đặc trưng
cho giống người. Như vậy, theo ông “tính người” của nhu cầu được hình thành trong quá trình
phát sinh loài người. Mọi nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc đều có liên quan đến cấu trúc cơ thể
của con người và được dựa trên một nền tảng di truyền nhất định. Ông đã hình dung nhu cầu và
sự phát triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc cầu thang gồm năm bậc từ thấp
đến cao: Nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về sự tự trọng và
nhu cầu tự thể hiện. Mỗi bậc nhu cầu của con người đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó,
nếu một nhu cầu ở bậc thấp không được đáp ứng cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước phát
triển tiếp theo. Theo ông, sau khi nhu cầu bậc thấp được thỏa mãn thì nảy sinh đòi hỏi thỏa mãn
nhu cầu bậc cao hơn {32}.
Còn nhà tâm lí học người Mỹ - Herry Murray đã xây dựng bảng phân loại nhu cầu gồm 20 loại
nhu cầu {11, 172}. Ông cho rằng, nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể và sự thỏa mãn
nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ nhằm
mục đích đạt được sự thích ứng. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của S.Freud nhưng theo ông nếu chỉ
giải thích như Freud thì quá đơn giản. Theo thuyết của ông, những nhu cầu tâm lí xác định được
ở con người là những mức độ khác nhau và cường độ mạnh yếu khác nhau ở từng người. Ở
người này có những loại nhu cầu này mãnh liệt nhưng ở người khác lại có những loại nhu cầu
khác. Tuy nhiên ông không hề đả động trực tiếp đến vấn đề nội dung của các nhu cầu, động cơ
của nhân cách, tính quy định xã hội của các nhu cầu và động cơ gây ra hành động.
Đến nửa cuối thế kỷ XX có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của con người được bổ
sung và được trình bày trong các công trình nghiên cứu của Mc.Clelland, Carl Rogers, Rom
Harré… Các tác giả này đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nhu cầu xã hội và khẳng định
đây chính là tác nhân tích cực cho sự phát triển cá nhân.
Trong tâm lí học Xô Viết, khái niệm nhu cầu giữ vai trò nền tảng trong việc nghiên cứu chủ thể,
không có nó thì không có cuộc sống. Nhưng để thỏa mãn các nhu cầu cần phải có hoàn cảnh
thích hợp, phải có những phương tiện cho phép thỏa mãn những nhu cầu. Khi đã có sẵn nhu cầu
và phương tiện thỏa mãn nhu cầu thì chủ thể sẽ sẵn sàng thực hiện hành động đưa đến thỏa mãn
nhu cầu. Đó chính là tâm thế thực hiện hành động, nó là một khâu cần thiết với thực tại và các
chức năng tâm lí. Người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu và ý nghĩa của
nó đối với hoạt động của con người là D.N.Uznadze trong cuốn sách Tâm lí học đại cương xuất
bản năm 1940. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính
tích cực và nó phát triển tương ứng với sự phát triển của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể
nào đó xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn
nhu cầu đó. Ở con người tồn tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu cấp thấp (nhu cầu tồn tại - đói,
khát, tình dục…) và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ…). Trong những hành
vi hàng ngày của mình con người không chỉ mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp thấp mà
còn mong muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp cao và ở mỗi cá nhân khác nhau mức độ mỗi loại
nhu cầu này là khác nhau. Sự chiếm ưu thế của nhu cầu cấp cao hay cấp thấp ở mỗi cá nhân là
do điều kiện sống, điều kiện giáo dục, phụ thuộc vào ấn tượng, sự thể nghiệm mà con người
thấy có ý nghĩa {32}.
Dựa trên quan điểm triết học Mac-Lênin, X.L.Rubinstêin cho rằng, con người có nhu cầu sinh
vật nhưng bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời
các vấn đề cơ bản của con người với nhân cách. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của con người về
một “cái gì đó” nằm ngoài cơ thể. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem
lại sự thỏa mãn nhu cầu thông qua sự hoạt động của chủ thể. Theo ông, nhu cầu là một thành tố
của động cơ, chính là hạt nhân của nhân cách cho nên nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác
nhau của nhân cách, đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú, niềm tin. Vì vậy thực tế nhu cầu
là xuất phát điểm của một loạt các hiện tượng tâm lí, tuy nhiên khi nghiên cứu về nhân cách
chúng ta không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải khám phá ra quá trình nảy sinh và biểu hiện
của nhu cầu, đồng thời phải thống nhất các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố
chủ quan (trạng thái tâm lí của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
Từ quan niệm trên ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực, vừa mang tính chủ
động. Cụ thể: Nhu cầu là sự đòi hỏi cần được thỏa mãn ở chủ thể nhưng được thỏa mãn hay
không thỏa mãn lại phụ thuộc vào hệ thống các đối tượng trong những điều kiện cụ thể (tính thụ
động của nhu cầu); mặt khác nhu cầu sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng, phương
thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu – nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động (tính
tích cực của nhu cầu). Chính từ hai mặt này mà ta thấy được sự hình thành và phát triển của nhu
cầu. Đó là sự vận động bên trong của nhu cầu theo những giai đoạn, cấp độ nhất định.
Khi đề cập đến nhu cầu A.N.Leonchiev đã xác định hai cấp độ của nó: là trạng thái tâm lí bên
trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt động. Nó thể hiện trạng thái thiếu thốn của cơ thể. Nhưng
do chưa có đối tượng để thỏa mãn nên ở cấp độ này nhu cầu chỉ có khả năng phát động sức
mạnh của các chức năng tâm lí và tạo ra sự kích thích chung. Kết quả, dẫn đến các hành vi tìm
tòi vô hướng. Cấp độ thứ hai, cao hơn, nhu cầu gặp gỡ đối tượng. Ở cấp độ này nhu cầu có khả
năng kích thích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng: hướng đến đối
tượng thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, nhu cầu theo đúng nghĩa tâm lí học (ở cấp độ tâm lí) phải
gắn liền với đối tượng của nó. Nói cách khác nhu cầu phải được “vật hoá”, “đối tượng hoá” vào
trong thực thể khách quan, ở bên ngoài chủ thể, hướng dẫn và kích thích chủ thể về phía đó. Sự
phát triển của nhu cầu là sự phát triển nội dung đối tượng của nó{25; 589}.
Leonchiev đi sâu phân tích bản chất tâm lí của nhu cầu và đã khẳng định: “Nhu cầu với tính
chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Nhu cầu không chỉ là
những cái mà chủ thể sinh ra đã có và chi phối hoàn toàn hoạt động của con người mà nó nảy
sinh trong quá trình hoạt động và sau đó quay trở lại chi phối hoạt động của con người theo sơ
đồ:
Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động
Ông cho rằng, nhu cầu của con người không chỉ được sản xuất ra mà còn được cải biến ngay
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ và đó cũng chính là mấu chốt để hiểu được bản chất các nhu
cầu của con người.
Ở nước ta, những đề tài nghiên cứu về vấn đề nhu cầu tham vấn tâm lí của đối tượng học sinh
THPT đã được một số tác giả thực hiện:
Trong đề tài “Khó khăn tâm lí và nhu cầu tham vấn của học sinh phổ thông” nhóm tác giả
Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007) đã chỉ ra các khía cạnh thể hiện khó
khăn tâm lí ở học sinh THPT là khó khăn trong việc xác định lựa chọn nghề nghiệp cho tương
lai, khó khăn trong học tập, băn khoăn về sự phát triển tâm sinh lí của bản thân, khó khăn trong
quan hệ với cha mẹ, thầy cô. Nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết của hoạt động tham vấn trong
nhà trường và những hình thức tham vấn mà học sinh quan tâm như tham vấn trực tiếp tại
trường, qua thư, qua điện thoại {13}.
Các tác giả Trương Bích Nguyệt (2003), Võ Thị Tích (2004) đã tìm hiểu nhu cầu về nội dung
và hình thức tham vấn trong nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất và năng lực của nhà
tham vấn, tác giả đã kết luận thành lập phòng tham vấn trong nhà trường là việc rất cần thiết với
yêu cầu phải có chuyên viên tham vấn có trình độ chuyên môn về tâm lí giáo dục và phải có
một số phẩm chất cần thiết như: dễ gần và thân thiện, biết thông cảm và chia sẻ, tôn trọng và
giữ bí mật…{26},{29}.
Nghiên cứu về nội dung tham vấn giới tính của học sinh nhóm tác giả Ngô Đình Qua, Nguyễn
Thượng Chí (2006) đã đưa ra kết luận là cả học sinh THCS và học sinh THPT đều có nhu cầu
được tư vấn về tâm lí - giới tính, nhưng số học sinh THPT có nhu cầu chiếm tỉ lệ % cao hơn.
Nhu cầu này chưa được người lớn đáp ứng đầy đủ vì vậy cần phải có phòng tư vấn tâm lí giáo
dục đặt tại các trường trung học {28}.
Tác giả Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hoàng (2006) trong nghiên cứu về tham vấn học đường nhìn
từ góc độ giới đã đề cập đến sự khác biệt về nhu cầu tham vấn của học sinh nam và nữ. Theo
nhóm tác giả, nhà tham vấn học đường cần nắm được những mối quan tâm khác nhau giữa học
sinh nam và học sinh nữ, phân tích được các tác động của mối quan hệ tham vấn, hiệu quả giữa
nhà tham vấn học đường là nam hay nữ khi làm việc với học sinh là nam hay nữ… Từ đó đề
xuất việc nâng cao nhận thức về giới của các nhà tham vấn học đường thông qua các khóa học
lấy giới làm trung tâm trong quá trình tham vấn {8}.
Nghiên cứu về “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinhTHPT tác giả Nguyễn
Hà Thành (2009) đã đưa ra kết luận: Tất cả học sinh THPT đều có nhu cầu hiểu biết và được
giáo dục về sức khỏe sinh sản. Học sinh THPT mong muốn chương trình giáo dục sức khỏe
sinh sản được chính thức đưa vào trường học {30}.
Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lí cho học sinh ở các trường
THPT tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho biết hiện nay đã có gần 50 trường phổ thông có
phòng tham vấn tâm lí nhưng chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên mức độ tiếp cận với hoạt động này của học sinh còn khá khiêm tốn (chỉ có 0.3% học
sinh thường xuyên đến phòng tham vấn, số lượng học sinh đến tham vấn ở mức độ thỉnh thoảng
và thường xuyên chiếm chưa đến 7%). Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều nhưng có
ba nhóm yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp xuất phát từ bản thân học sinh, những người làm
công tác tham vấn trong trường THPT và từ phía nhà trường, xã hội {20}.
Ngoài ra còn rất nhiều những bài viết trên tạp chí Tâm lí học, các bài tham luận đăng trong các
kỷ yếu hội thảo khoa học, đề cập đến nhu cầu của tham vấn cũng như sự cần thiết của chuyên
viên tâm lí trong trường học và cách thức tổ chức các hoạt động tham vấn trong trường {14},
{12}, {7}, {16}, {24}… đã phản ánh phần nào về nhu cầu tham vấn tâm lí của thanh thiếu niên,
đặc biệt các vấn đề tâm lí hay gặp phải của họ cũng như các hình thức tham vấn phù hợp.
Như vậy, có thể thấy rằng nhu cầu đòi hỏi về tham vấn trong xã hội hiện nay là rất lớn, nhất là ở
lứa tuổi học sinh phổ thông mà hoạt động tham vấn một cách chuyên nghiệp ở nước ta còn rất
mới mẻ cả về nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là trên địa bàn huyện vùng sâu vùng xa
thì hoạt động tham vấn gần như bị bỏ ngỏ, các công trình nghiên cứu còn rất ít ỏi. Điều đó đang
đặt ra cho chúng ta sự nỗ lực rất nhiều trong nghiên cứu, phát triển tham vấn trên mọi phương
diện. Xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn này chúng tôi triển khai đề tài “Nhu cầu tham vấn tâm lí
của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” nhằm đánh giá chính xác nhu
cầu được tham vấn tâm lí của các em nơi đây và để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
phòng tham vấn trong các trường phổ thông hiện nay.
1.2.Lí luận chung về tham vấn tâm lí:
1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lí:
Tham vấn (Counseling) là một thuật ngữ không còn xa lạ ở Việt Nam trong khoảng 10 – 15
năm trở lại đây, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau liên quan
đến thuật ngữ này.
Không riêng gì ở Việt Nam mà tại các nước Phương tây và Bắc Mỹ thuật ngữ tham vấn cũng
được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi, nó dùng để chỉ những hoạt động của người giúp
đỡ thông thường hoặc của tình nguyện viên, họ được xem như như là người làm công tác trợ
giúp. Hay những người làm công tác tham vấn chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch
vụ xã hội hoặc các trường học với nền tảng kiến thức về tâm lí học, công tác xã hội hoặc các
ngành khác. Dưới đây có thể dẫn ra một số cách hiểu của các tác giả trong và ngoài nước về
khái niệm này:
Theo hiệp hội tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997): Tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lí, sức
khoẻ tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp
một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển
cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lí. Định nghĩa này cũng xác định rằng
quá trình tham vấn được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách
hàng, trong mối quan hệ này nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết vấn đề
của mình.
P.K.Onner cho rằng, tham vấn là một quá trình vì vậy đòi hỏi nhà tham vấn phải dành thời gian
nhất định và sử dụng các kỹ năng một cách thuần thục để giúp đỡ thân chủ tìm hiểu, xác định
vấn đề và triển khai các giải pháp trong điều kiện cho phép.
Richard Nelsson(1997) cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới thay đổi cách thức cảm
nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo nên một cuộc sống tốt đẹp hơn. Theo
ông, tham vấn là một quá trình can thiệp, giải quyết vấn đề với một mối quan hệ, một quá trình
tương tác đặc biệt giữa người làm tham vấn và thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử
dụng ở những cấp độ khác nhau, có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà
tâm lí học, cán sự xã hội hay đơn thuần là một phần công việc của giáo viên, y tá, tình nguyện
viên {9}.
Trong Từ điển Tâm lí học, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hiểu tham vấn là quá trình các chuyên gia
chẩn đoán, tìm hiểu căn nguyên và thiết lập cách xử lí đối với những trẻ em có vấn đề về tâm lí
{36}.
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai: Tham vấn tâm lí là một hoạt động mà nhà chuyên môn bằng
kiến thức, hiểu biết và kỹ năng nghề nghiệp của mình, thấu hiểu những cảm xúc, suy nghĩ, hành
vi của đối tượng (cá nhân, gia đình hay nhóm), giúp họ khai thác nguồn lực, tiềm năng cho quá
trình giải quyết {22}.
TS Trần Thị Giồng thì định nghĩa: “Tham vấn là sự tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ,
trong quá trình này nhà tham vấn sử dụng các kỹ năng chuyên môn giúp thân chủ khơi dậy tiềm
năng để họ có thể tự giải quyết vấn đề đang gặp phải”.
PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, Tham vấn là tham vấn với chính thân chủ đang có vấn đề cần
tìm cách giải quyết phù hợp.
TS. Trần Thị Minh Đức đã đưa ra khái niệm khá toàn diện, phản ánh nhiều góc độ. Theo tác giả,
tham vấn là một tiến trình tương tác giữa người làm tham vấn - người có chuyên môn và kỹ
năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận, với thân
chủ - người đang có vấn đề khó khăn về tâm lí cần được giúp đỡ. Thông qua các kỹ năng trao
đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình, giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy
tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình {9}. Như vậy, quá trình tham vấn nhằm
giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình, tự tìm cách giải quyết các vấn đề của
mình, nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm
gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết
định hộ vấn đề cho thân chủ. Tham vấn là tiến trình giúp đỡ chứ không làm hộ cho thân chủ,
quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, giám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn của
chính mình.
Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của tham vấn như sau:
Tham vấn là một tiến trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc và phải mang tính liên tục. Một
quá trình tham vấn bao gồm các giai đoạn cụ thể khác nhau có thể kéo dài trong một vài
ngày, một tuần, một tháng, thậm chí một vài năm. Thông thường một ca tham vấn có thể
diễn ra với 5 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Thiết lập quan hệ.
Giai đoạn 2: Thu thập, xử lí thông tin, đánh giá vấn đề.
Giai đoạn 3: Tìm kiếm cách giải quyết và giúp thân chủ lựa chọn giải pháp thích
hợp nhất.
Giai đoạn 4: Giám sát và trợ giúp thân chủ thực hiện giải pháp.
Giai đoạn 5: Kết thúc tham vấn.
Tham vấn là một hoạt động diễn ra trong một quá trình với các hoạt động xây dựng mối quan hệ,
khai thác tìm hiểu xác định vấn đề, giải quyết vấn đề.
Tham vấn là sự trợ giúp: Trợ giúp trong quá trình tham vấn là giúp thân chủ những công
cụ, phương tiện tâm lí để họ tự giúp chính bản thân mình, củng cố lại cái tôi của họ từ đó
có đủ tự tin trong việc ứng phó với những khó khăn trong cuộc sống. bản chất của tham
vấn là phương pháp trợ giúp người có vấn đề tự giải quyết vấn đề của chính mình chứ
không phải là đưa ra lời khuyên mà chúng ta thường hiểu. Nhiệm vụ của nhà tham vấn
phải làm là một chỗ dựa tinh thần để thân chủ có cơ hội và có đủ tự tin nhìn lại mình một
cách khách quan.
Tham vấn là trợ giúp, khai thác tiềm năng của thân chủ để thân chủ tự giải quyết vấn đề
của mình. Khả năng thích ứng ở mỗi con người là rất lớn và bản thân thân chủ đến với
nhà tham vấn cũng có khả năng này nhưng chưa ý thức được hoặc cố tình không ý thức
được. Nhiệm vụ của nhà tham vấn là giúp thân chủ nhìn thấy tiềm năng của chính mình,
đánh thức và sử dụng chúng để xử lí tình huống mà họ đang gặp phải. Những khó khăn
của thân chủ là những vấn đề mang tính chất riêng tư và chính họ là người trong cuộc, là
người trực tiếp cảm nhận, trải nghiệm, đánh giá hậu quả của tình huống và trực tiếp
lượng giá những tác động tích cực hoặc tiêu cực do việc giải quyết tình huống mang lại.
Vì vậy chỉ có thân chủ mới là người hợp lí và có đủ điều kiện để thực thi các chiến lược
cải thiện cuộc sống cho chính bản thân họ. Tất nhiên họ không thể làm việc một cách độc
lập mà cần có sự giúp đỡ của nhà tham vấn nhưng quyền quyết định và đứng ra thực hiện
cuối cùng phải là thân chủ. Họ phải tích cực, chủ động giải quyết vấn đề và cải thiện tình
trạng cho chính bản thân mình. Với ý nghĩa này tham vấn có tác dụng là giúp thân chủ
nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong cuộc sống.
Như vậy, có thể nhận thấy hoạt động tham vấn được diễn ra trên cơ sở mối quan hệ giao tiếp
đặc biệt, đòi hỏi sự tương tác tích cực giữa người làm tham vấn và đối tượng. Người làm tham
vấn là người được trang bị các giá trị, thái độ đạo đức nghề nghiệp, những tri thức hiểu biết về
tâm lí con người và các kỹ năng tham vấn để thấu hiểu đối tượng, giúp đối tượng vượt lên chính
mình. Còn đối tượng được tham vấn do nhiều nguyên nhân khác nhau trở nên mất cân bằng về
tâm lí, khó khăn trong thích nghi, hoà nhập xã hội.
Trong đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh
THPT. Từ những phân tích ở trên chúng tôi quan niệm rằng: Tham vấn tâm lí là một tiến trình
trợ giúp đối tượng(người đang có khó khăn về tâm lí cần được giúp đỡ) nâng cao nhận thức,
duy trì sự thăng bằng tâm lí, tăng cường khả năng ứng phó với các vấn đề nảy sinh trong cuộc
sống của bản thân, ra quyết định phù hợp với hoàn cảnh của mình và thực hiện quyết định một
cách hiệu quả.
1.2.2. Tham vấn và các khái niệm liên quan:
1.2.2.1. Tư vấn và tham vấn:
Tư vấn – trong tiếng Anh là consultation - được xem như quá trình tham khảo về lời khuyên
hay sự trao đổi quan điểm về vấn đề nào đó để đi đến một quyết định.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Tư vấn là sự phát biểu ý kiến về những vấn đề được hỏi đến
nhưng không có quyền quyết định. Hoạt động này phần nhiều diễn ra dưới dạng hỏi - đáp.
Cho đến hiện nay ở Việt nam vẫn còn nhiều tranh luận về cách gọi tên tham vấn hay tư vấn.
PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, tham vấn là tham vấn với chính thân chủ đang có vấn đề cần
tìm cách giải quyết phù hợp, còn tư vấn chỉ là sự cung cấp kiến thức, thông tin, hoặc cách giải
quyết đã có sẵn cho thân chủ mà thôi, không đòi hỏi phải tìm hiểu thân chủ, không đòi hỏi phải
cùng thân chủ tìm cách giải quyết phù hợp {4}.
Thực tế cho thấy hoạt động của các trung tâm tư vấn hiện nay phần lớn hoạt động theo phương
thức hỏi - đáp, trao đổi ý tưởng, cung cấp thông tin và có thể là đưa ra lời khuyên để giải quyết
vấn đề. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng chức năng của tham vấn không phải là đưa ra lời khuyên,
do vậy có sự khác biệt giữa tham vấn và tư vấn ở những điểm sau:
- Về mục tiêu: Tư vấn chủ yếu hướng đến giải quyết vấn đề hiện tại còn hoạt động tham
vấn hướng tới mục tiêu lâu dài hơn, đó là giúp cá nhân nâng cao khả năng tự giải quyết
vấn đề sau khi được tham vấn.
- Về tiến trình: Tư vấn thường là cung cấp thông tin hay đưa ra lời khuyên do vậy nó diễn
ra trong một thời gian ngắn, giải quyết vấn đề tức thời. Còn tham vấn diễn ra trong thời
gian có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng, thậm chí hàng năm.
- Về mối quan hệ: Trong tư vấn, có thể là mối quan hệ trên dưới giữa một người được xem
là “uyên bác” với những thông tin chuyên môn, còn bên kia là người “thiếu hiểu biết” về
vấn đề nào đó, bên cạnh mối quan hệ ở đây không đòi hỏi sự tương tác rất tích cực từ
phía đối tượng. Trong khi đó ở tình huống tham vấn, mối quan hệ mang tính ngang bằng,
bình đẳng và đòi hỏi có sự tương tác rất chặt chẽ và hợp tác tích cực giữa hai bên, có thể
nói mối quan hệ này đóng vai trò như một công cụ quan trọng cho sự thành công của ca
tham vấn.
- Về cách thức tương tác: Cách thức can thiệp của tư vấn chính là cung cấp thông tin và lời
khuyên bổ ích từ người tư vấn với đầy đủ kiến thức chuyên sâu về vấn đề cần tư vấn.
Trong tham vấn, sự thành công phụ thuộc vào kỹ năng tương tác của nhà tham vấn để
thân chủ tự nhận thức, hiểu chính mình và hoàn cảnh của mình để chủ động tìm kiếm giải
pháp phù hợp và thực hiện nó.
Xét về phương diện khái niệm, nhiều người đồng tình theo hướng nên dùng thuật ngữ tham vấn
để tránh ngộ nhận về việc chỉ nghe rồi khuyên theo khuynh hướng cả tham vấn viên và thân chủ
cùng tìm cách giải quyết vấn đề {12}.
1.2.2.2. Trị liệu tâm lí và tham vấn:
Trị liệu – tiếng Anh là therapy được lấy từ gốc Hy Lạp là therapia có nghĩa là chữa trị, làm lành.
Trị liệu tâm lí là (psychotherapy) có nghĩa là sự xóa bỏ rắc rối, những bệnh lí mang tính tâm lí.
Cho đến nay cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa hai thuật ngữ này vẫn chưa kết thúc. Hiện có
hai nhóm quan điểm khác nhau trong việc phân biệt tham vấn và trị liệu tâm lí:
- Nhóm quan điểm cho rằng không có sự khác biệt rõ ràng giữa tham vấn và trị liệu tâm lí.
Điển hình như Carl Rogers(1952), C.Btruax và R. Carkhuff (1967), C.H
Patteenson(1974,1986), G.Corey(1991) đều xem tham vấn và trị liệu tâm lí như nhau bởi
theo họ cả hai hoạt động này đều là quá trình tâm lí nhấn mạnh nhu cầu của đối tượng,
cùng sử dụng những kỹ năng giống nhau như lắng nghe tích cực, thấu hiểu những điều
đối tượng nói và thúc đẩy khả năng tự giúp, tính trách nhiệm của cá nhân.{23}
- Nhóm quan điểm cho rằng có sự khác biệt giữa tham vấn và trị liệu tâm lí. Điển hình như:
F.Robinson(1950), C.Thorne(1950), P.Blos(1946), L.Tyler(1958). Các tác giả này cho
rằng, trị liệu tâm lí chú trọng tới thay đổi nhân cách còn tham vấn hướng việc giúp đối
tượng sử dụng nguồn lực sẵn có để đối phó với vấn đề trong cuộc sống tốt hơn. Trong
tham vấn yếu tố được xem như trọng tâm là bản thân đối tượng và mối quan hệ đầy tính
nhân văn giữa nhà tham vấn và đối tượng, còn trong trị liệu tâm lí, yếu tố nổi trội là nhà
trị liệu và những kỹ thuật trị liệu cụ thể. Bên cạnh đó địa điểm thực hiện giữa tham vấn
và trị liệu cũng khác nhau, tham vấn thường được diễn ra trong những cơ sở trường học,
cộng đồng nhiều hơn trong khi đó trị liệu tâm lí thường thấy cả ở các cơ sở y tế mang tính
chữa trị.{23}
Từ nghiên cứu tài liệu và thực tiễn, tác giả Bùi Thị Xuân Mai đã đưa ra một sự so sánh giữa
tham vấn và trị liệu tâm lí rất thuyết phục như sau:
- Đối tượng trợ giúp trong tham vấn thường là những người có vấn đề liên quan đến cuộc
sống hàng ngày còn trong trị liệu, đối tượng gồm cả những người có vấn đề rối nhiễu tâm
lí, hành vi ở mức độ tương đối rõ rệt và mang tính bệnh lí nhiều hơn.
- Công cụ can thiệp của tham vấn chủ yếu là mối quan hệ tương tác nghề nghiệp với sự
tích cực, chủ động của chính đối tượng dưới sự xúc tác gợi mở của nhà tham vấn, còn
công cụ ưu thế của trị liệu là hệ thống các liệu pháp và các trắc nghiệm tâm lí
- Hình thức tham vấn được sử sụng ở phạm vi rộng hơn bởi các chuyên gia tâm lí học, các
cán bộ xã hội chuyên nghiệp, thậm chí các nhà sư phạm, cán bộ ngành y, và một số nhà
trợ giúp không chuyên trên cơ sở nắm vững các kỹ năng căn bản, nguyên tắc đạo đức của
tham vấn. Trong khi đó trị liệu tâm lí thường được sử dụng bởi các nhà tâm lí học, các
nhà tham vấn chuyên nghiệp được phép hành nghề.
1.2.2.3. Tham vấn và cố vấn:
Cố vấn, theo từ điển bách khoa Việt Nam đó là nhà chuyên gia được hỏi ý kiến. Như vậy có
nghĩa cố vấn là hoạt động của một bên là người xin ý kiến (lời khuyên) và một bên là chuyên
gia cho ý kiến (lời khuyên).
Theo Hiệp hội các nhà tham vấn Mỹ, cố vấn là một hoạt động tương tác mang tính tự nguyện
giữa một nhà chuyên môn và một cá nhân hay một nhóm, một tổ chức xã hội mà ở đó nhà
chuyên môn giúp các đối tượng xác định vấn đề và giải quyết vấn đề liên quan tới công việc
hay những vấn đề tiềm ẩn {12}.
Như vậy, về thực chất hoạt động cố vấn là quá trình giúp đỡ cá nhân, tổ chức giải quyết vấn đề.
Bên cạnh có những nét chung với tham vấn như: Việc áp dụng hệ thống lí thuyết (lấy con người
làm trung tâm của C.R.Roger, lí thuyết học tập của B.F.Skinner…), đều là một quá trình đòi hỏi
phải qua các bước cơ bản, từ xây dựng mối quan hệ đến lượng giá hay kết thúc quá trình tương
tác … Cố vấn có những khác biệt so với tham vấn:
- Mối quan hệ trong tham vấn là quan hệ tương tác hai chiều còn trong cố vấn mối quan hệ
tương tác đôi khi mang tính chất 3 bên, bởi vì đối tượng quan tâm chính của nhà cố vấn và
người cần cố vấn nhiều khi là bên thứ ba có thể là cá nhân hay một tổ chức.
- Nhà cố vấn có thể bằng cách gián tiếp hay trực tiếp đưa ra cho người cần cố vấn những thông
tin, hiểu biết mới, những lời khuyên song không nhất thiết mang tính trực tiếp mặt đối mặt một
cách thường xuyên như trong tham vấn {22}.
1.2.2.4. Tham vấn và công tác xã hội:
Tham vấn và công tác xã hội đều là những nghề nghiệp nhằm trợ giúp con người. Tham vấn
chủ yếu tập trung vào các vấn đề tâm lí của cá nhân, nhóm và gia đình. Còn phạm vi công tác
xã hội thì rộng hơn, sự can thiệp của công tác xã hội không chỉ nhằm giúp đỡ cá nhân, gia đình
mà cả cộng đồng ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Pháp luật, kinh tế, điều kiện sinh sống… Trong
công tác xã hội, người ta có thể sử dụng tham vấn như là một công cụ để tăng cường lòng tự
trọng và cải thiện tâm lí cho trạng thái cá nhân còn trong tham vấn người ta có thể kết nối với
các hoạt động xã hội để tăng cường nguồn lực giúp đỡ thân chủ {34}.
1.3. Lí luận chung về nhu cầu và nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:
1.3.1. Nhu cầu:
1.3.1.1. Khái niệm:
Có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu. Tác giả A.V.Daparogiet cho rằng “Nhu cầu là sự
phản ánh vào óc người sự cần thiết mà người đó cảm thấy đối với một vật thể nào đó. Nhu cầu
kích thích con người hành động, buộc con người phải vươn tới một đối tượng nhất định. A.N.
Leonchiev thì cho rằng, nhu cầu là một trạng thái của con người, cần một cái gì đó cho cơ thể
nói riêng, con người nói chung sống và hoạt động. Trong từ điển Tâm lí học Giáo sư Vũ Dũng
đã định nghĩa, nhu cầu là “trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối
tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình, và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá
nhân” {5}.
PGS.TS Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần
được thỏa mãn để tồn tại và phát triển” {35}. Theo tác giả Phạm Minh Hạc, “Nhu cầu là một
thuộc tính của nhân cách, biểu thị mối quan hệ tích cực của cá nhân với hoàn cảnh, là những đòi
hỏi mà cá nhân thấy cần phải được thỏa mãn trong điều kiện nhất định để có thể tồn tại và phát
triển.{11}.
Tóm lại, có nhiều quan điểm khác nhau về nhu cầu nhưng có thể nhận định khái quát về nhu
cầu như sau:
Nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hành động khác nhau của con người, với tư cách là
một hiện tượng tâm lí, nhu cầu chi phối mãnh liệt đến đời sống tâm lí nói chung, đến hoạt động
của con người nói riêng.
Nhu cầu là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Tuỳ theo từng thời kỳ lịch
sử, trình độ nhận thức, môi trường sống, đặc điểm tâm sinh lí, mỗi người có những nhu cầu
khác nhau như người hiện đại có nhu cầu khác với người nguyên thuỷ, trẻ em có nhu cầu khác
với người lớn, nhu cầu ở nam giới khác nữ giới, nhu cầu của người trí thức khác với nông dân
lao động và ở những vùng miền do điều kiện phát triển khác nhau thì mức độ nhu cầu cũng
khác nhau.
Nhu cầu định hướng và quyết định cho mọi hoạt động của con người, nó sẽ tạo ra cảm giác
thoải mái khi được thoả mãn và có thể gây ra những hiệu quả nghiêm trọng khi không được
thoả mãn. Nhu cầu là một cái gì đó mà nếu thiếu nó sẽ gây ra các hạn chế cho sự phát triển nhân
cách của cá nhân.
Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực của cá nhân. Mọi hành vi của con người đều do sự thúc
đẩy của những nhu cầu nào đó. Nhu cầu của con người là biểu hiện của xu hướng và ước muốn,
nguyện vọng đòi hỏi cần được thỏa mãn để sống và hoạt động. Ngoài chức năng định hướng,
nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu còn là yếu tố kích thích bên trong, là nguồn gốc của tính tích
cực và óc sáng tạo, là động cơ thúc đẩy con người hoạt động.
Như vậy có thể hiểu rằng, nhu cầu là thuộc tính tâm lí của cá nhân, là sự đòi hỏi mà cá nhân
thấy cần được thoả mãn trong những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Đồng thời là
nguồn gốc của tính tích cực và óc sáng tạo trong hoạt động của con người.
1.3.1.2. Đặc điểm nhu cầu:
- Tính đối tượng: Nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó, nghĩa là phải nhằm tới một
đối tượng cụ thể. Khi chưa có đối tượng, nhu cầu chưa tồn tại theo đúng nghĩa của nó mà lúc ấy
ở cá nhân chỉ là trạng thái thiếu thốn, mong muốn một cách mơ hồ. Chỉ khi nào nhu cầu gặp đối
tượng có khả năng thoả mãn nó thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt
động nhằm tới đối tượng. Động vật cũng có nhu cầu nhờ vào những đối tượng có sẵn trong tự
nhiên nhưng con người thì khác hẳn, trong hoạt động con người có khả năng tạo ra những đối
tượng có thể làm thỏa mãn nhu cầu của mình và chính ngay ở việc tạo ra đối tượng để thỏa mãn
nhu cầu tự nhiên của con người cũng khác nhu cầu của con vật ở chỗ con người có khả năng
nhận thức đầy đủ được nhu cầu của mình nên không thỏa mãn nhu cầu một cách tùy tiện. Ở mỗi
cá nhân khác nhau đối tượng của nhu cầu cũng khác nhau và chính nhờ sự tồn tại của nhu cầu
trong tâm lí cá nhân mà cá nhân định hướng được hoạt động của mình trong môi trường.
- Phương thức thỏa mãn: Nhu cầu chỉ được thỏa mãn thông qua hoạt động của chủ thể bằng
những phương thức khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển nhận thức, khả năng hoạt động,
trạng thái tâm lí riêng của chủ thể… cũng như phong tục tập quán, truyền thống của mỗi xã hội
mà chủ thể đó đang sống. Như vậy, nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức
thoả mãn nó quy định và được hình thành khi chủ thể ý thức được đối tượng của nhu cầu.
- Tính chu kỳ: Khi một nhu cầu nào đó được thỏa mãn, không có nghĩa là nhu cầu đó đã chấm
dứt mà nhu cầu có thể xuất hiện lặp lại (thông thường ở mức cao hơn) khi sự đòi hỏi gây ra nhu
cầu tái hiện. Nhu cầu và hoạt động thực hiện nhu cầu là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy
con người hành động nhằm tìm phương tiện thỏa mãn nhu cầu. Chính vì vậy mà sự phát triển
con người và xã hội là sự mở rộng, nâng cao chất lượng của các nhu cầu và thực hiện nhu cầu
đó một cách đúng đắn và khoa học.
- Tính ổn định: Nhu cầu là một thuộc tính của nhân cách. Vì vậy cũng giống như thuộc tính
khác của nhân cách nhu cầu cũng tương đối ổn định. Tính ổn định của nhu cầu được thể hiện ở
tần số xuất hiện một cách thường xuyên, liên tục. Khi nhu cầu phát triển ở mức độ cao thì nó trở
nên ổn định và bền vững. Nghĩa là dù trong quá trình hoạt động vươn tới thỏa mãn nhu cầu có
gặp khó khăn, trở ngại thì nhu cầu cũng không mất đi mà trái lại, trong chừng mực nào đó nó lại
thôi thúc con người hoạt động tích cực hơn. Tính ổn định của nhu cầu chỉ có được khi con
người ý thức rõ về đối tượng, nội dung cũng như phương thức thỏa mãn nó.
- Bản chất xã hội - lịch sử: Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật.
C.Mác đã viết: “Đói là đói, song cái đói được thỏa mãn bằng thịt chín với cách dùng dao và dĩa
thì khác hẳn với cái đói buộc phải nuốt bằng thịt sống với dùng tay, móng và răng”. Ở con
người cũng tồn tại những nhu cầu mang tính bản năng nhưng tất cả đều được xã hội hoá và
được chế ước bởi xã hội. Nhờ vào khả năng lao động sáng tạo mà ở con người có sự khác biệt
về điều kiện và phương thức thỏa mãn nhu cầu. Con người không thỏa mãn nhu cầu của mình
một cách tuỳ tiện mà trước khi thỏa mãn bao giờ con người cũng đối chiếu với những tiêu
chuẩn đạo đức xã hội. Có thể nói rằng nhu cầu của con người chính là sản phẩm của sự phát
triển lịch sử xã hội loài người.
1.3.1.3. Các mức độ của nhu cầu:
Mức độ của nhu cầu là độ gay gắt của sự đòi hỏi về một đối tượng nào đó, thể hiện ở việc chủ
thể ý thức được trạng thái thiếu thốn của chủ thể, đối tượng và phương thức thỏa mãn nó.
X.L.Rubinstêin đã chia nhu cầu thành ba mức độ sau:
* Ý hướng: Là bước khởi đầu của nhu cầu. Ở mức độ này nhu cầu chưa được phản ánh đầy đủ,
rõ ràng vào trong ý thức của con người, chủ thể mới ý thức được trạng thái thiếu hụt của bản
thân về một cái gì đó nhưng chưa ý thức được đối tượng và khả năng thỏa mãn nhu cầu. Ở mức
độ này, nhu cầu mới chỉ tồn tại dưới dạng một cảm giác thiếu hụt mơ hồ nào đó, lúc này chủ thể
đang trải nghiệm và ý thức được trạng thái thiếu hụt về một cái gì đó nhưng chưa ý thức được
thiếu hụt cái gì và bằng cách nào để khỏa lấp trạng thái thiếu hụt đó. Nếu đối tượng để thỏa mãn
nhu cầu được chủ thể ý thức, nghĩa là tự trả lời được câu hỏi “thiếu hụt về cái gì” thì lúc đó nhu
cầu chuyển sang mức độ cao hơn, ý muốn.
* Ý muốn: Là mức độ cao hơn của nhu cầu so với ý hướng. Giai đoạn này, chủ thể đã ý thức
được đối tượng để thoả mãn cũng như ý nghĩa của hoạt động thỏa mãn nhu cầu, nhưng chủ thể
lại chưa tìm được phương pháp, phương tiện để thoả mãn nhu cầu và đang có khuynh hướng
tìm kiếm phương thức, điều kiện để thoả mãn nhu cầu. Ý muốn sẽ kết thúc và chuyển sang mức
độ cao hơn khi chủ thể ý thức được đầy đủ về cách thức và các phương tiện nhằm thoả mãn nhu
cầu.
* Ý định: Là mức độ cao nhất của nhu cầu, khi chủ thể ý thức được đầy đủ về mục đích,
phương thức, phương tiện, điều kiện hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu và sẵn sàng hành động
đạt tới mục đích. Ở mức độ này, nhu cầu trở thành sức mạnh nội tại thúc đẩy mạnh mẽ chủ thể
hoạt động nhằm thỏa mãn nó, đồng thời chủ thể có khả năng hình dung về kết quả của hoạt
động.
Ý hướng, ý muốn và ý định biểu hiện mức độ nhu cầu từ thấp đến cao trên cơ sở kế thừa và
phát triển. Ý hướng là cơ sở của ý muốn, ý muốn kế thừa và phát triển ở mức độ cao hơn so với
ý hướng. Ý định là sự chuyển tiếp của ý hướng lên ý muốn và từ ý muốn lên ý định.
1.3.1.4. Sự hình thành nhu cầu:
Theo quan niệm của Tâm lí học Macxit, nhu cầu được hình thành và phát triển trong chính hoạt
động và trong quá trình con người tích cực hoạt động nhằm vươn tới sự thỏa mãn nhu cầu thì
nhu cầu mới cũng được hình thành và phát triển.
A.N.Lêonchiev đã đưa ra sơ đồ giải thích mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động (hoạt động -
nhu cầu - hoạt động) như sau: Thoạt đầu nhu cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề
cho hoạt động. Nhưng ngay khi chủ thể bắt đầu hành động thì ngay lập tức xảy ra sự biến hóa
của nhu cầu và cũng không còn giống như khi nó tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nó” nữa.
Sự phát triển của hoạt động này đi xa bao nhiêu thì cái tiền đề này của hoạt động (tức là nhu cầu)
cũng chuyển hóa bấy nhiêu thành kết quả hành động.
A.N.Lêonchiev cho rằng, bởi vì bản thân thế giới đối tượng hàm chứa tiềm tàng những nhu cầu,
nên trong quá trình chủ thể hoạt động tích cực, tất yếu sẽ nhận thức được những yêu cầu, đòi
hỏi phải được đáp ứng để tồn tại và phát triển, tức là xuất hiện nhu cầu mới. Thông qua hoạt
động lao động sản xuất, một mặt thỏa mãn nhu cầu hiện tại, đồng thời lại xuất hiện nhu cầu mới,
vì thế con người không ngừng tích cực hoạt động lao động sản xuất qua đó thúc đẩy tiến bộ xã
hội.
Như vậy, bản chất của nhu cầu là sự đòi hỏi của chủ thể về một đối tượng nào đó cần được thỏa
mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu có quan hệ mật thiết với động cơ. Động cơ là sự biểu hiện
chủ quan của nhu cầu, là vị trí gián tiếp của nhân cách trong xã hội, ngược lại nhu cầu là cơ sở
của động cơ. Lí thuyết hoạt động khẳng định, con người với tư cách là chủ thể hoạt động luôn
thực hiện các hành vi nhằm đạt những mục đích hoặc những động cơ nhất định. Động cơ trong
tâm lí học, theo nghĩa chung nhất là các thúc đẩy và quy định chiều hướng hoạt động nhằm đạt
mục đích nào đó.
Nói về mối quan hệ giữa nhu cầu và động cơ cả A.N.Leonchiev và B.Ph.Lomov đều khẳng định
rằng không thể tách biệt mà chúng luôn gắn liền với nhau tạo thành lĩnh vực động cơ - nhu cầu:
“Lĩnh vực động cơ của nhân cách có liên quan chặt chẽ với những nhu cầu, chế định hành vi
con người một cách khách quan và có quy luật. Động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu,
là vị trí gián tiếp của nhân cách trong xã hội. Ngược lại, nhu cầu là cơ sở của động cơ. Trên
thực tế động cơ và nhu cầu gắn bó mật thiết với nhau đến mức thường không thể phân tích
chúng ra được. Vì vậy, Leonchiev đã đưa ra kết luận có tính nguyên tắc: “Sự phân tích các nhu
cầu về mặt tâm lí học không thể nào tránh khỏi sự phân tích các động cơ. Và về phía đối tượng,
trước hết ta có động cơ được thể hiện thành nhu cầu”.{10}.
Trong hệ thống thứ bậc động cơ của con người, nhu cầu và hứng thú là hai thứ bậc có quan hệ
trực tiếp với nhau. Hứng thú là sự phát triển cao, mang màu sắc xúc cảm của nhu cầu. Bản thân
hứng thú luôn chứa đựng nhu cầu và nhu cầu là cơ sở để hình thành hứng thú. Chính vì vậy, để
hình thành nhu cầu về một đối tượng nào đó chúng ta phải làm cho chủ thể có cơ hội làm quen
với đối tượng, thực hiện hoạt động với đối tượng. Chính trong quá trình trải nghiệm đó, chủ thể
sẽ có cơ hội và điều kiện để thấy được vai trò ý nghĩa của đối tượng đối với cuộc sống của bản
thân, từ đó mà hình thành mong muốn về đối tượng và nhu cầu sẽ dần xuất hiện.
1.3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:
1.3.2.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh THPT:
Học sinh THPT bắt đầu từ 15 – 16 tuổi đến 17 – 18 tuổi. Đó là giai đoạn đầu của tuổi thanh
niên hay còn gọi là thời kỳ thanh niên mới lớn. Vị trí trung học phổ thông – giai đoạn của cả
một thời kỳ bồi dưỡng kiến thức văn hóa chung đã khiến thanh niên phải nghĩ đến tiền đồ của
mình, nghĩ đến việc chuẩn bị bước vào đời và lo lựa chọn nghề nghiệp mai sau. Ở lứa tuổi này
các em đã có sự trưởng thành về tư tưởng, tâm lí, là thời kỳ tự xác định về mặt xã hội, tích cực
tham gia vào cuộc sống lao động, học tập để chuẩn bị cho tương lai. Đây chính là thời kỳ nhân
cách đang trưởng thành tiến tới ổn định.
Về thể chất: Ở các em đã có một cơ thể phát triển gần ngang bằng với cơ thể trưởng thành,
các chức năng sinh lí cũng đạt được độ phát triển cao. Cơ thể đã dần được hoàn thiện. Thể lực
của các em phát triển mạnh giúp cho việc thực hiện các công việc nặng nhọc, các công việc có
kỹ thuật tốt hơn. Sự phát triển của não, hệ thần kinh trung ương và các giác quan giúp các em
tiếp thu những kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và thông tin mới của xã hội rất nhanh.
Về tâm lí:
- Hoạt động nhận thức của học sinh THPT được đặc trưng bởi sự lĩnh hội và tiếp thu những
kiến thức phổ thông để chuẩn bị cho lao động hướng nghiệp sau này. Sự phong phú về tri thức
và kinh nghiệm mà các em lĩnh hội được qua từng môn học ở trường giúp cho quá trình cảm
giác, tri giác, sự tập trung chú ý phát triển rõ rệt. Trí nhớ của các em đã đạt đến độ ổn định, các
em có khả năng hình thành những phương pháp nhớ có hiệu quả. Tư duy và ngôn ngữ phát triển
mạnh. Tuy nhiên cũng cần đề phòng những thiếu sót về trí nhớ của học sinh THPT mắc phải
như thiên hướng ghi nhớ đại khái, xem thường ghi nhớ máy móc, chỉ ghi nhớ ý nghĩa chung
chung. Ngôn ngữ cũng phát triển mạnh nhờ giao tiếp, đặc biệt là ngôn ngữ nhằm phát triển giúp
cho quá trình trí nhớ và tư duy chính xác. Tư duy phát triển mạnh, bền vững và hiệu quả hơn
thể hiện khả năng tư duy lôgic, tư duy lí luận và tư duy trừu tượng.
- Tự ý thức của học sinh THPT đã phát triển ở mức cao, có liên quan đến nhu cầu tìm hiểu và
đánh giá những thuộc tính tâm lí, đạo đức theo quan điểm sống, ước mơ và hoài bão. Các em
quan tâm sâu sắc đến đời sống tâm lí riêng, đến những phẩm chất nhân cách và năng lực của
mình. Các em thường đặt mình vào tương lai vì vậy các em thường quan tâm đến cuộc sống sau
này, tình yêu, gia đình, và sự lựa chọn bạn đời trong tương lai.
Lứa tuổi này có hai loại ý thức nổi bật đó là: Tự ý thức về hình ảnh bản thân sẽ làm cho các em
tự hào hay khổ tâm về diện mạo. Còn tự ý thức về thế giới nội tâm làm cho đời sống của thanh
niên trở nên sâu sắc, tăng cường khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình. Học
sinh THPT có thể tự ý thức được mặt mạnh mặt yếu của mình, luôn khao khát tự hoàn thiện
mình. Ngược lại, nếu sự tự ý thức có sai lầm họ sẽ khăng khăng bảo vệ quan điểm đó. Do đó
với đặc điểm này giáo dục phải tác động đến yếu tố tự ý thức, tự giác ngộ, tự điều chỉnh bản
thân.
- Ở lứa tuổi này, yếu tố đạo đức, tình cảm cũng hình thành mạnh mẽ. Thế giới tình cảm của các
em đa dạng, nổi bật là quan hệ tình cảm gia đình, tình bạn và tình yêu nam nữ:
Gia đình có ảnh hưởng đến sự phấn đấu và sự phát triển nhân cách của các em học
sinh THPT. Do ảnh hưởng giáo dục và sự trợ giúp của gia đình về các mặt, cuộc
sống tình cảm của các em phát triển đến mức độ cao.
Quan hệ bạn bè giữ vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của các em. Đối với
các em, bạn bè trở thành chỗ dựa tinh thần, là chỗ tâm tình thổ lộ những vướng
mắc thầm kín. Lời khuyên của bạn nhiều khi có ý nghĩa quyết định đối với việc
giải quyết những vấn đề quan trọng của các em.
Quan hệ với bạn khác giới: Tình yêu nam nữ xuất hiện, phát triển từ quan hệ thân
thiết trong tình bạn. Tình cảm lúc này thường lãng mạn, thơ mộng. Đa số các em
cũng đã nhận thức đúng đắn về tình yêu “yêu là quan trọng phải tìm hiểu cẩn thận”.
Trong giáo dục nhà trường cần quan tâm cung cấp cho các em những kiến thức
giới tính, gia đình, tình bạn và tình yêu.
- Ở học sinh THPT có một số nét ý chí và tính cách nổi bật đó là: Tính độc lập, nghĩa là
luôn muốn thể hiện lập trường, quan điểm của mình, muốn tự phán đoán các hiện tượng,
các tình huống quyết định hành động của mình; Tính kiên quyết, dám nghĩ dám làm
nhưng đôi khi là sự hung hăng, liều lĩnh bất chấp hậu quả; Có lòng tự trọng cao, rất quan
tâm và nhạy cảm với sự đánh giá của người khác; Tích cực tham gia hoạt động tập thể và
nhờ những hoạt động này mà họ được thử thách lớn lên, phát triển phong phú thêm nhân
cách của mình.
- Sự phát triển ý thức nghề nghiệp và sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai: Ở lứa tuổi này,
do đang học những lớp cuối cấp của hệ thống giáo dục phổ thông nên trong các em luôn
bận tâm với những câu hỏi: Học đại học hay học nghề?, học trường đại học nào? chọn
nghề nào?... Lựa chọn nghề nghiệp sẽ liên quan đến toàn bộ kế hoạch đường đời của các
em nên khác với thiếu niên, công việc này ở các em đã mang ý nghĩa nghiêm túc, trực
tiếp và cấp bách.
Ý thức nghề nghiệp và sự lựa chọn kế hoạch sống tương lai của học sinh THPT cũng bị
quy định và chi phối bởi xu hướng của nền kinh tế, xã hội của từng thời kỳ và sự phát
triển của đất nước.
Những đặc điểm tâm lí của học sinh THPT nêu trên chứng tỏ thanh niên mới lớn là
những người đã đạt tới trình độ có thể tự quyết định mọi công việc của mình và nhất là có
thể trực tiếp tham gia lao động. Lao động và học tập là hai hoạt động chủ yếu của học
sinh THPT. Song vui chơi vẫn có tác dụng rất lớn đối với các em khi cần thư giãn tâm
hồn và rèn luyện các phẩm chất cần thiết. Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng, do thể
lực và trí lực dồi dào, do đã có được một số kinh nghiệm xác đáng, do trình độ hiểu biết
đã được nâng cao… học sinh THPT có thể đi đến chỗ chủ quan, tự mãn, tự đánh giá quá
cao bản thân mình. Các em giàu ước mơ, giàu lòng quả cảm nhưng nhiều khi vì nôn nóng
đối với công việc, muốn đốt cháy giai đoạn rồi do hấp tấp, thiếu suy tính cặn kẽ mà có
thể vấp váp, bị thực tế khách quan dội nước lạnh vào nhiệt tình của mình sinh ra bi quan,
dễ chán nản. Do vậy trong quá trình giáo dục các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ học
sinh phải kiên trì bền bỉ giáo dục bằng phương pháp cơ bản là thuyết phục và rèn luyện
thực tế. Và nếu trong tâm lí của các em có vấn đề thì phải tính đến vai trò của chuyên gia
tâm lí một cách kịp thời để giúp đỡ các em để không xảy ra những suy nghĩ và hành
động tiêu cực ở các em.
1.3.2.2. Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT:
Tham vấn tâm lí là quá trình tương tác giữa nhà tham vấn với thân chủ. Thông qua sự
trao đổi, chia sẻ, tâm tình, nhà tham vấn giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của
mình, tìm những tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình.
Nhu cầu nói chung chỉ xuất hiện khi cơ thể có những đòi hỏi của nó đối với thế giới bên
ngoài, cần đáp ứng một điều gì đó để tồn tại và phát triển. Nằm trong hệ thống nhu cầu,
nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT thuộc loại nhu cầu tinh thần ngày càng trở
nên cấp thiết trong xu thế xã hội hiện nay. Đó là những đòi hỏi tất yếu nhằm giải tỏa
những bức xúc, vướng mắc trong học tập, sinh hoạt, hướng nghiệp…, có được sự thăng
bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng phát triển nhân cách đúng đắn.
Như vậy, khi ở học sinh THPT có nhu cầu tham vấn tâm lí có nghĩa là trước đó ở các em
thường có tâm trạng băn khoăn, lo lắng, vướng mắc trong tâm tư, tình cảm… Từ đó thúc
đẩy các em tích cực tìm kiếm cách thức giải tỏa. Học sinh càng ở trong trạng thái tâm lí
tiêu cực bao nhiêu thì càng cần phải có sự trợ giúp để vượt qua trạng thái đó bấy nhiêu,
để từ đó các em có được niềm tin và sự vững vàng khi bước vào đời.
Hoạt động tham vấn ở Việt Nam cũng đang trên đường phát triển bằng nhiều loại hình
khác nhau như qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình, các trung tâm tham vấn và các
kênh thông tin khác mà đối tượng tham vấn là học sinh THPT chiếm một tỉ lệ không nhỏ.
Tuy nhiên hoạt động tham vấn tâm lí cho học sinh ở các trường THPT ở nước ta chưa
thực sự phát triển, chưa được quan tâm đúng mức. Các hoạt động tham vấn cho lứa tuổi
học sinh chủ yếu diễn ra trong các lĩnh vực sức khoẻ, tình yêu, hôn nhân và gia đình,
pháp luật… Năm 1984, trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻ em và tâm bệnh lí NT do bác sĩ
Nguyễn Khắc Viện thành lập và là nơi đầu tiên thực hành mở rộng tham vấn, trong đó có
lĩnh vực tâm lí trẻ em và gia đình. Đến mãi cuối những năm 90 của thế kỷ XX mới xuất
hiện nhiều trung tâm, chương trình tư vấn tâm lí. Năm 1998, trường THPT dân lập Đinh
Tiên Hoàng (Hà Nội) đã thành lập phòng tư vấn giáo dục, hướng nghiệp đánh dấu một
mô hình đặc biệt và đầu tiên về tham vấn trong trường THPT ở nước ta. Năm 2000 tại Tp
Hồ Chí Minh cũng thí điểm tổ chức mô hình tham vấn ở trường trung học Hà Huy Tập và
Trương Công Định. Cho đến hiện nay các trường THPT có thành lập phòng tham vấn
tâm lí cho học sinh chủ yếu là ở các thành phố lớn còn ở những huyện vùng sâu, vùng xa
thì gần như không có. Trong các trường THPT có phòng tham vấn tâm lí mức độ tiếp cận
của học sinh còn khá khiêm tốn, chỉ có 0.3% học sinh thường xuyên đến phòng tham vấn
còn tới 93.5% các em chưa bao giờ đến. Số lượng học sinh đến tham vấn ở mức độ
thường xuyên chiếm chưa đến 7% {18}. Chính vì vậy cần phải có những nghiên cứu cụ
thể từ đó hoạch định, tổ chức và thực hiện hoạt động tham vấn như thế nào để có thể đáp
ứng được những nhu cầu cấp thiết đó của các em, đồng thời thực hiện chiến lược xã hội
giáo dục của đất nước.
Tiểu kết chương 1:
Nằm trong hệ thống nhu cầu, nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT thuộc loại nhu
cầu tinh thần ngày càng trở nên cấp thiết trong xu thế xã hội hiện nay. Đó là những đòi
hỏi tất yếu nhằm giải tỏa những bức xúc, vướng mắc trong học tập, sinh hoạt, hướng
nghiệp…, có được sự thăng bằng về tâm lí, sự hiểu biết và phương hướng phát triển nhân
cách đúng đắn. Nhu cầu này ngày càng trở nên cấp bách trước thực trạng hiện nay khi các
em học sinh đang gặp nhiều khó khăn cần hỗ trợ và giúp đỡ. Trong quá trình tìm hiểu tài
liệu chúng tôi nhận thấy, đã có nhiều nghiên cứu, bài viết nói về nhu cầu tham vấn tâm lí
của học sinh THPT, tuy nhiên đa phần những nghiên cứu đó được thực hiện trên đối
tượng là học sinh THPT tại các thành phố lớn còn tại những huyện vùng sâu thì rất ít.
Đặc biệt trên địa bàn huyện Xuyên Mộc của tỉnh BàRịa – Vũng Tàu thì chưa hề có
nghiên cứu nào tìm hiều về nhu cầu tham vấn tâm lí của các em. Đây chính là cơ sở định
hướng cho người nghiên cứu tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn của học sinh THPT
nơi đây.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÍ CỦA HỌC SINH
THPT HUYỆN XUYÊN MỘC
TỈNH BÀRỊA - VŨNG TÀU
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT ở một số nội dung:
- Mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT trong các lĩnh vực: học tập, quan hệ với
bạn bè, quan hệ với thầy cô, quan hệ với cha mẹ và về bản thân.
- Lí do cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT trong các lĩnh vực.
- Mong muốn của học sinh THPT về hoạt động tham vấn tâm lí ở trường phổ thông.
Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp định hướng cho công tác tham vấn trong các trường phổ
thông của huyện Xuyên Mộc cũng như tỉnh BàRịa-Vũng Tàu.
2.2. Cách thức nghiên cứu:
2.2.1. Mẫu nghiên cứu:
- 35 giáo viên chủ nhiệm và 458 học sinh thuộc các trường: THPT Hòa Bình, Xuyên Mộc,
Phước Bửu và Hòa Hội.
- Học sinh được chọn ngẫu nhiên mỗi trường ba lớp ở ba khối 10, 11, 12.
Bảng 2.1. Cơ cấu học sinh được điều tra:
Nhóm N %
Trường
Xuyên Mộc 114 24.9
Hòa Hội 114 24.9
Phước Bửu 115 25.1
Hòa Bình 115 25.1
Lớp
10 159 34.7
11 159 34.7
12 140 30.6
Giới
Nam 196 42.8
Nữ 262 57.2
Tổng 458
2.2.2. Dụng cụ nghiên cứu và cách tiến hành:
- Người nghiên cứu xây dựng 2 loại bảng hỏi có sẵn những phương án trả lời dành cho học sinh
và giáo viên, bảng hỏi phỏng vấn học sinh và giáo viên với những nội dung được xác định trên
cơ sở của mục đích nghiên cứu. (Phụ lục 1 và 2)
- Với học sinh, việc thu thập số liệu được tiến hành trên từng lớp. Sau khi phát phiếu, người
nghiên cứu trực tiếp hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi trên các phiếu và thu ngay sau khi học
sinh hoàn thành. Thời gian thực hiện khoảng 35 – 45 phút.
- Với giáo viên, việc thu thập dữ liệu được tiến hành trên từng cá nhân. Phiếu cũng được thu
ngay sau khi hoàn thành.Thời gian thực hiện khoảng 30 phút.
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng:
Hiện nay hoạt động tham vấn trong nhà trường đã được xem là một phương pháp tác động
mang tính định hướng giáo dục cho học sinh. Tuy không phải là công cụ vạn năng để có thể giải
quyết hoàn toàn mọi vướng mắc, khó khăn, tổn thương tâm lí của học sinh nhưng nó đã góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lí, giáo dục và mang ý nghĩa nhân văn
cao cả. Chính vì nhận thức được vai trò quan trọng và thiết thực của hoạt động tham vấn, hoạt
động tham vấn trong nhà trường đã được phát triển với tốc độ khá nhanh. Tuy nhiên hoạt động
này mới được diễn ra trong nhà trường tại các thành phố lớn còn đối với những trường trên địa
bàn huyện vùng sâu thì chưa được quan tâm và gần như bị bỏ ngỏ. Điển hình như trên địa bàn
huyện Xuyên Mộc - tỉnh BàRịa Vũng Tàu, mặc dù ở huyện có tới bốn trường THPT và rất
nhiều trường tiểu học và THCS, TNCN với số lượng học sinh khá đông, nhưng lại không có
một trung tâm hay một phòng tham vấn nào. Phải chăng học sinh ở đây không gặp khó khăn,
vướng mắc hay tổn thương tâm lí? Học sinh ở đây không có nhu cầu về tham vấn tâm lí? Xuất
phát từ hoàn cảnh thực tiễn này chúng tôi đã triển khai đề tài khoa học: “Nhu cầu tham vấn tâm
lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu” (do điều kiện thời gian nên
người nghiên cứu chưa thực hiện nghiên cứu trên các cấp học khác). Kết quả thu được như sau:
2.3.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT:
Để tìm hiểu về mức độ cần được tham vấn tâm lí về những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong
các lĩnh vực: Trong học tập, trong các mối quan hệ và về bản thân của các em học sinh THPT
huyện Xuyên Mộc, chúng tôi đưa ra 4 mức lựa chọn: Rất CT, Cần thiết, Ít CT và Không CT để
học sinh lựa chọn.
Bảng 2.2: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT
Lĩnh vực
Mức độ
Trong
học tập
Trong
QH với
bạn bè
Trong
QH với
cha mẹ
Trong
QH với
thầy cô
Về bản
thân
N % N % N % N % N %
RCT 345 75.3 129 28.3 171 37.6 123 27.1 208 46.1
CT 99 21.7 241 52.7 194 42.6 239 52.6 148 32.8
Ít CT 9 1.9 76 16.6 66 15.5 78 17.1 66 14.6
KCT 3 1.1 11 2.4 24 5.2 14 3 29 6.4
Từ bảng 2.1 cho thấy, đa số học sinh THPT huyện Xuyên Mộc đều cần được tham vấn tâm lí
về những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực học tập, trong các mối quan hệ, cũng như
về bản thân mình. Đặc biệt là lĩnh vực học tập có tỉ lệ học sinh lựa chọn mức rất cần thiết khá
cao (chiếm 75.3% ở mức rất cần thiết và 21.7% ở mức cần thiết. Mức không cần thiết chỉ có
3/458 học sinh lựa chọn, chiếm 1.1%). Điều này cho thấy thể hiện rõ đặc điểm của học sinh
THPT, hoạt động chủ đạo của các em ở lứa tuổi này là hoạt động học tập. Mặt khác, lí do mà
học sinh cần được tham vấn tâm lí trong lĩnh vực học tập là do sức ép học tập từ cha mẹ, nhà
trường và xã hội đã làm các em luôn cảm thấy học tập là một nhiệm vụ nặng nề, căng thẳng.
Chính vì vậy lĩnh vực này luôn là mối quan tâm hàng đầu của các em, các em có rất nhiều
những trăn trở, vướng mắc cần được tháo gỡ trong quá trình học tập.
Tiếp theo số học sinh lựa chọn mức rất cần thiết được tham vấn tâm lí về những khó khăn,
vướng mắc trong lĩnh vực về bản thân cũng nhiều hơn trong các mối quan hệ. Lĩnh vực về bản
thân có tỉ lệ học sinh lựa chọn ở mức rất cần thiết chiếm 46.1%, còn trong quan hệ với bạn bè
chiếm 28.3%, trong quan hệ với cha mẹ chiếm 37.6% và 27.1% là tỉ lệ học sinh lựa chọn trong
quan hệ với thầy cô. Điều này cho thấy ở học sinh THPT các em đã quan tâm đến sự phát triển
của bản thân nhiều hơn nhưng khả năng hiểu biết của các em còn hạn chế vì vậy mà trong suy
nghĩ của các em có nhiều vướng mắc cần được giải đáp cũng là điều dễ hiểu. Trong mối quan
hệ: với bạn bè, cha mẹ và thầy cô thì tỉ lệ học sinh lựa chọn mức rất cần thiết thấp hơn so với
lĩnh vực học tập và về bản thân. Tuy nhiên trong lĩnh vực này đa số các em lựa chọn mức cần
thiết được tham vấn tâm lí khá cao, chiếm 52.7% trong mối quan hệ với bạn bè, 42.6% trong
mối quan hệ với cha mẹ và 52.6% trong mối quan hệ với thầy cô.
Kết quả được thể hiện cụ thể trên biểu đồ 2.2a
Biểu đồ 2.2a: Mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT trong các lĩnh vực:
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Học tập QH với
bạn bè
QH với
cha mẹ
QH với
thầy cô
Về bản
thân
Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết
Nhìn chung, từ kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ cần được tham vấn tâm lí về những khó
khăn, vướng mắc nảy sinh trong lĩnh vực học tập, trong các mối quan hệ và về bản thân đều ở
mức cao. Chiếm tỉ lệ cao nhất là trong lĩnh vực học tập. Trong nghiên cứu của Lê Thị Ngọc
Dung về thực trạng tham vấn tại thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy: Những nguyên nhân
học sinh tìm đến văn phòng tư vấn là vấn đề học tập (chiếm 85%), tình cảm (55.3%), hành vi
lệch chuẩn (49%), chọn trường (36%), giao tiếp (25%) {6}.
Trong bài viết của tác giả Nguyễn Thị Nhân Ái về tham vấn nhìn từ góc độ giáo dục gia đình
cũng cho biết: Bên cạnh những vấn đề về tình bạn, tình yêu thì học tập, hướng nghiệp và gia
đình luôn là những nội dung học sinh có băn khoăn nhiều nhất (chiếm 57.5%) {1}.
Như vậy có thể thấy rằng, học tập là lĩnh vực mà học sinh THPT gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc cho nên các em rất cần được tham vấn tâm lí. Khi tìm hiểu nguyên nhân thì chúng tôi được
biết là do các em cảm thấy chương trình học hiện nay quá sức các em cộng với sự kỳ vọng lớn
của gia đình và nhà trường đã làm cho “chiếc cặp” của các em trở nên nặng nề hơn. Với lịch
học chính khóa và lịch học thêm dày đặc các em không còn thời gian để nghỉ ngơi, thư giãn và
tham gia những hoạt động ngoại khóa mà các em yêu thích.
Khi so sánh tỉ lệ về mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh giữa các trường, các lớp và
giới tính chúng tôi thu được kết quả như sau:
2.3.1.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT xét theo trường:
Bảng 2.3: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực của học sinh THPT xét theo
trường
Trường
Lĩnh vực
Xuyên
Mộc
Phước
Bửu
Hòa
Bình
Hoà Hội
X2
N % N % N % N %
Trong
học
tập
RCT 81 70.4 95 82.6 88 76.5 81 70.0
Sig=0.108
CT 26 23.0 18 15.6 24 20.9 31 27.2
Ít CT 3 2.0 2 1.7 2 1.7 2 1.7
KCT 3 2.6 0 0 0 0 0 0
Trong
QH
với
bạn
bè
RCT 32 28.3 19 16.5 42 36.5 36 31.6
Sig=0.039
CT 60 53.1 66 57.4 57 49.6 58 50.9
Ít CT 19 16.7 25 21.7 16 13.9 16 14.0
KCT 2 1.7 5 4.3 0 0 4 3.5
Trong RCT 27 23.9 52 45.2 48 41.7 44 38.6 Sig=0.054
QH
với
cha
mẹ
CT 56 49.5 40 34.8 47 40.9 51 44.7
Ít CT 23 20.1 18 15.6 13 11.3 12 12.3
KCT 7 6.1 5 4.3 5 4.3 7 6.1
Trong
QH
với
thầy
cô
RCT 21 18.6 29 25.2 44 38.3 29 25.4
Sig=0.004
CT 56 49.5 65 56.5 54 46.9 64 56.1
Ít CT 32 28.1 19 16.5 11 9.6 16 14.0
KCT 4 3.5 2 1.7 3 2.6 5 4.3
Với
bản
thân
RCT 46 40.7 28 24.3 66 57.4 68 60.0
Sig=0.000
CT 39 34.5 51 44.3 34 29.6 24 21.0
Ít CT 17 14.9 28 24.3 11 9.6 10 8.8
KCT 10 8.8 8 6.9 2 1.7 9 7.9
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức độ rất cần thiết và cần thiết được tham
vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên.
Bảng 2.3 cho thấy, học sinh của cả bốn trường đều mong muốn được tham vấn tâm lí về những
khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực học tập. Đa số các em đều lựa chọn mức độ cần được tham
vấn tâm lí trong lĩnh vực này ở mức rất cần thiết: Trường Xuyên Mộc chiếm 70.4%, Phước Bửu
82.6%, Hòa Bình 75.5%, Hòa Hội 70%.
Với Sig = 0.108 cho thấy không có sự khác biệt giữa các trường về tỉ lệ % ở lĩnh vực học tập.
Học sinh của bốn trường đều mong muốn được tham vấn tâm lí về những khó khăn, vướng mắc
trong lĩnh vực học tập. Đây là lĩnh vực được các em quan tâm hàng đầu và cũng là lĩnh vực các
em cảm thấy có nhiều những khó khăn, vướng mắc cần được “trợ giúp”. Khi trao đổi với một số
em học sinh thì được các em cho biết rằng, các em có rất nhiều điều vướng mắc trong học tập
mà chưa thể giải quyết hết được dù có em đã tìm tới sự trợ giúp của thầy cô hay cha mẹ, bạn bè.
Các em thường hay bị căng thẳng ở mỗi đợt thi, đặc biệt là đối với học sinh lớp 12, năm cuối
cấp khi chuẩn bị thi tốt nghiệp.
Có sự khác biệt về tỉ lệ % giữa các trường trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè, thầy cô và bản
thân :
- Trong quan hệ với bạn bè: Trường Hòa Bình, Hòa Hội và Xuyên Mộc có tỉ lệ học sinh chọn
mức rất cần thiết cao hơn (chiếm trên 28%) trong khi đó học sinh trường Phước Bửu chọn mức
rất cần thiết được tham vấn chiếm 16.5% (Sig = 0.039).
- Trong quan hệ với thầy cô: Trường Hòa Bình, Hòa Hội và Phước Bửu số học sinh lựa chọn
mức rất cần thiết cao hơn chiếm tỉ lệ trên 25% còn ở mức thấp hơn là trường Xuyên Mộc chiếm
18.6% (Sig = 0.004).
- Trong lĩnh vực về bản thân học sinh bốn trường đều lựa chọn mức độ cần được tham vấn tâm
lí ở mức rất cần thiết cao và cũng có sự khác biệt về tỉ lệ giữa các trường (Sig = 0.000). Trường
Xuyên Mộc, Hòa Bình và Hòa Hội có số học sinh lựa chọn mức rất cần thiết được tham vấn
chiếm tỉ lệ trrên 40%, Trường Phước Bửu chỉ chiếm 24.3%. (Xem thêm phụ lục 3).
Sự khác biệt ý nghĩa này sẽ là một căn cứ để xây dựng nội dung tham vấn phù hợp với đặc điểm
của học sinh từng trường.
2.3.1.2.Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp:
Bảng 2.4: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp
Khối lớp
Lĩnh vực
Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12
X2
N % N % N %
Trong học tập
RCT 110 69.2 127 79.9 108 78.3
0.082
CT 43 27.0 30 18.9 26 18.8
Ít CT 6 3.8 1 0.6 2 1.4
KCT 0 0 1 0.6 2 1.4
Trong quan
hệ với bạn bè
RCT 29 18.2 63 39.6 37 26.8
0.000
CT 89 60.0 74 46.5 78 56.5
Ít CT 39 24.5 15 9.4 22 15.7
Tổng 2 1.2 7 4.4 2 1.2
Trong quan
hệ với cha mẹ
RCT 58 36.5 67 42.1 46 33.3
0.033
CT 69 43.3 53 33.3 72 52.2
Ít CT 23 14.4 26 16.3 17 12.1
KCT 8 5.0 13 8.2 12 8.6
Trong quan
hệ với thầy
cô
RCT 46 29.0 38 23.9 39 28.3
0.864
CT 80 50.3 85 53.4 74 53.5
Ít CT 28 17.6 30 18.9 20 14.3
KCT 5 3.1 6 3.8 3 2.1
Với bản thân
mình
RCT 68 42.8 79 49.7 61 44.2
0.418
CT 57 35.9 46 28.9 45 32.6
Ít CT 18 11.3 23 14.5 25 17.8
KCT 13 8.2 10 6.3 6 4.3
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức độ rất cần thiết và cần thiết được tham
vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên
Bảng 2.4 cho thấy, ở học sinh cả ba lớp chọn mức rất cần thiết được tham vấn tâm lí trong lĩnh
vực học tập đều ở mức cao (trên 69%). Tuy nhiên, có sự khác biệt ý nghĩa giữa học sinh khối 10,
khối 11 và 12 trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè và cha mẹ về mức độ cần được tham vấn tâm lí.
Trong lĩnh vực quan hệ với bạn bè lớp 10 cần được tham vấn tâm lí ở mức rất cần thiết chỉ
chiếm 18.2%, còn ở lớp 11 là 39.6%, lớp 12 là 26.8% (Sig = 0.000), trong quan hệ với cha mẹ.
Trong các lĩnh vực: Học tập, quan hệ với thầy cô và bản thân đều không có sự khác biệt về tỉ lệ
lựa chọn mức độ rất cần thiết và cần thiết được tham vấn tâm lí.
2.3.1.3. Mức độ cần được tham vấn tâm lí ở các lĩnh vực xét theo giới tính
Bảng 2.5: Mức độ cần được tham vấn tâm lí ở các lĩnh vực xét theo giới tính
Giới tính
Lĩnh vực
Nam Nữ
X2
N % N %
Trong học tập
RCT 149 76.8 196 75.1
Sig = 0.516
CT 42 21.5 57 21.8
Ít CT 4 2.0 5 1.9
KCT 0 0 3 1.5
RCT 54 27.5 75 28.7 Sig = 0.545
Trong quan hệ với
bạn bè
CT 104 53.1 137 52.5
Ít CT 31 15.8 45 17.2
KCT 7 3.6 4 1.5
Trong quan hệ với
cha mẹ
RCT 75 38.3 96 36.8
Sig = 0.262
CT 75 38.3 119 45.6
Ít CT 30 15.3 36 13.7
KCT 14 7.1 10 3.8
Trong quan hệ với
thầy cô
RCT 55 28.1 68 26.1
Sig = 0.225
CT 94 47.9 145 55.5
Ít CT 36 18.3 42 16.0
KCT 9 4.5 5 1.9
Với bản thân mình
RCT 83 42.3 125 47.9
Sig = 0.475
CT 69 35.2 79 30.3
Ít CT 28 14.2 38 14.5
KCT 15 7.6 14 5.3
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức độ rất cần thiết và cần thiết được tham
vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên.
Xét theo giới tính cho thấy, tỉ lệ lựa chọn mức độ cần được tham vấn trong lĩnh vực học tập ở
nam và nữ đều khá cao (Mức rất cần thiết ở nam chiếm 76.8% và nữ là 75.1%) còn trong các
mối quan hệ với bạn bè, cha mẹ và thầy cô tỉ lệ chọn mức rất cần thiết thấp hơn. Không có sự
khác biệt về sự lựa chọn mức độ cần được tham vấn trong các lĩnh vực giữa nam và nữ.
Khi trưng cầu ý kiến của 35 giáo viên chủ nhiệm của bốn trường về mức độ cần được tham
vấn tâm lí của học sinh THPT kết quả cũng cho thấy không có sự khác biệt giữa giáo viên và
học sinh về sự lựa chọn mức độ cần thiết được tham vấn tâm lí của học sinh THPT trong các
lĩnh vực. Đa số giáo viên cũng cho rằng học tập là lĩnh vực học sinh THPT cần được tham vấn
nhiều nhất (chiếm tỉ lệ trên 86%).
Có thể thấy rằng, mức độ cần được tham vấn tâm lí về những khó khăn, vướng mắc trong lĩnh
vực học tập, trong các mối quan hệ và về bản thân của học sinh THPT là khá cao. Đặc biệt là ở
mức rất cần thiết trong lĩnh vực học tập và về bản thân đều có tỉ lệ học sinh lựa chọn khá cao.
Điều đó cho thấy rằng trong lĩnh vực học tập và về bản thân, học sinh THPT gặp rất nhiều khó
khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ. Các nhà giáo dục và các chuyên gia tâm lí cần nhận biết để
có những trợ giúp kịp thời cho các em để quá trình phát triển tâm lí của các em được diễn ra
một cách tốt hơn.
Khi trao đổi với Thầy Hồ Sĩ N.N - Hiệu phó trường THPT Hòa Bình, Thầy đã cho biết: “ Nhu
cầu cần được tham vấn tâm lí của học sinh hiện nay là rất lớn mà các thầy cô trong trường
không thể đáp ứng được vì thiếu kỹ năng tham vấn. Chúng tôi rất muốn trong trường có một
phòng tham vấn tâm lí để giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc của học sinh. Nhưng
hoạt động của nhà trường còn phụ thuộc nhiều vào sự chỉ đạo của Sở Giáo Dục, vì thế chúng
tôi chưa thể thành lập phòng tham vấn khi Sở chưa có chủ trương về vấn đề này”.
Cô Nguyễn Thị T, một giáo viên lâu năm đã nói: “Tôi cảm thấy rất day dứt khi nhìn thấy học
trò của mình cứ vào cuối lớp 12 là tinh thần không ổn định, căng thẳng do sức ép học tập, do
quá lo lắng cho việc chọn trường chọn nghề mà không thể giúp đỡ các em giải quyết một cách
hiệu quả”. Trong quá trình trao đổi cô T cũng cho biết: “Do tâm lí “sợ” giáo viên nên đa số
học sinh thường ít tâm sự với thầy cô về vấn đề của mình, còn với cha mẹ thì càng ít hơn vì đa
phần phụ huynh ở đây làm rẫy, trình độ rất thấp nên thường không biết cách giải quyết vấn đề
cho con mình thế nào. Tôi nghĩ rằng với sự phát triển của học sinh hiện nay cần phải có các
chuyên viên tâm lí trong trường học ”.
Kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học: “Stress học đường và ảnh hưởng của nó đến tâm lí học
sinh cuối cấp THPT” của Trung tâm nghiên cứu Phụ nữ, Đại học Quốc gia Hà Nội (2008) cũng
cho thấy, Tỉ lệ học sinh THPT gặp khó khăn hay các áp lực khác nhau là khá lớn: 49.2% liên
quan tới áp lực học tập, thi cử, 30.8% liên quan đến những kỳ vọng của gia đình với các em,
12.3% liên quan đến quan hệ bạn bè, 27.7% - đến quan hệ với thầy cô giáo, 43.1% - đến những
căng thẳng trong nhận thức về bản thân {33}.
Như vậy có thể kết luận, học tập và về bản thân là hai lĩnh vực học sinh THPT gặp khó
khăn và áp lực nhiều nhất nên các em rất cần được tham vấn để giải tỏa kịp thời, tạo tâm trạng
tốt, có niềm tin tiếp tục học tập và phát triển bản thân.
2.3.2. Lí do học sinh THPT cần được tham vấn trong các lĩnh vực:
Dựa vào các mức ý kiến ghi trên phiếu người nghiên cứu đã chuyển thành điểm và tính trung
bình để việc so sánh thuận lợi hơn. Kết quả được thể hiện như sau:
Bảng 2.6: Lí do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực
Nội dung TB Thứ Bậc
Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai 2.57 1
Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt 2.55 2
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô 2.46 3
Căng thẳng, mệt mỏi trước sức ép học tập 2.37 4
Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt 2.34 5
Khó diễn đạt điều mình muốn nói 2.33 6
Nội dung các môn học quá nhiều 2.32 7
Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít 2.29 8
Cảm thấy khó hiểu về cảm xúc của mình 2.25 9
Thiếu tự tin về khả năng của bản thân 2.24 10
Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái 2.23 11
Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt 2.21 12
Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó 2.19 13
Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò chuyện với học sinh 2.16 14
Thầy cô không hiểu tâm lí của học sinh 2.11 15
Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ 2.10 16
Không biết cách sắp xếp thời gian học 2.07 17
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ 2.07 18
Không biết cách tự học 2.05 19
Thất vọng vì thấy bạn là người ích kỷ và lợi dụng 1.99 20
Không biết cách bày tỏ cảm xúc với bạn 1.96 21
Thầy cô đưa ra nhiều yêu cầu cao so với khả năng của học sinh 1.96 22
Cha mẹ không có thời gian để gần gũi, chuyện trò 1.92 23
Thầy cô quá nghiêm khắc 1.79 24
Cha mẹ quá nghiêm khắc 1.69 25
Kết quả bảng 2.6 cho thấy, “ Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai” là vấn đề có
rất nhiều học sinh THPT cần được tham vấn ( Xếp thứ bậc 1). Điều này cho thấy ý thức nghề
nghiệp ở học sinh THPT đã hình thành khá rõ nét, với những câu hỏi: Học đại học hay học nghề
gì? Vào trường nào? Vì sao chọn nghề này nghề kia?... là những câu hỏi luôn làm các em bận
tâm. Chính vì vậy mà vấn đề hướng nghiệp ở bậc THPT cần phải được chú trọng bởi vì việc lựa
chọn nghề sẽ liên quan đến toàn bộ kế hoạch đường đời của các em. Qua tìm hiểu cho thấy,
hướng nghiệp chưa được các trường ở huyện Xuyên Mộc chú trọng và quan tâm đúng mức,
nhất là đối với học sinh lớp 12. Các em học sinh chọn nghề chủ yếu dựa trên sự áp đặt của gia
đình và chọn theo theo bạn bè, vai trò của nhà trường không được thể hiện trong sự lựa chọn
nghề của các em. Đây cũng chính là nỗi băn khoăn, lo lắng lớn nhất của các em khi chuẩn bị rời
ghế nhà trường.
Khi trao đổi với một số em “Vấn đề gì khiến em lo lắng nhất hiện nay?” thì được các em trả lời:
“ Điều em lo lắng nhất bây giờ là sau khi tốt nghiệp liệu em có tìm được ngành học nào để sau
này có công ăn việc làm thích hợp hay không!Đã có chị gần nhà em mặc dù học xong đại học
Sư Phạm mà vẫn phải ở nhà phụ giúp bố mẹ buôn bán.Em rất lo sau này mình bị thất nhiệp.
( Nguyễn Thị H. A- Lớp 12A1-Trường Xuyên Mộc).
“Em không biết với khả năng của mình phải học như thế nào để sau khi học song THPT em có
thể đậu vào Trường Công Nghệ Thông Tin, đó là mơ ước lớn nhất của em” ( Vũ Trường G-Lớp
10A5 - Trường Hòa Bình)
Cũng từ kết quả ở bảng 2.6 cho thấy, lí do mà nhiều học sinh muốn cần được tham vấn tâm lí
trong các lĩnh vực là do các em luôn cảm thấy “Khó diễn đạt điều mình muốn nói” (TB = 2.33);
“ Không biết cách bày tỏ cảm xúc với bạn ” ( TB=1.96); “ Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện
vọng với cha mẹ” ( TB=2.07); “Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô ( TB=2.46).
Điều này cho thấy mức độ đáp ứng nhu cầu ứng xử trong giao tiếp xã hội ở nhà trường phổ
thông cũng như cách phân phối chương trình dạy và học hiện nay là chưa hợp lí làm cho học
sinh có quá ít thời gian để nói ra những điều mình nghĩ và cơ hội tranh luận với bạn bè, thầy cô.
“Em cảm thấy rất khó khăn khi nói lên suy nghĩ của mình trước mọi người và không biết phải
làm thế nào cho mọi người hiểu được em, nhất là đối với cha mẹ và thầy cô” (Hoàng Thu T-
11A3 - Trường Hòa Hội).
“Em rất sợ mỗi khi thầy cô gọi lên bảng kiểm tra bài, mặc dù ở nhà em đã chuẩn bị bài nhưng
không hiểu sao cứ khi bị gọi lên là em quên hết, không thể nói được gì. Vì vậy mà em luôn bị
điểm kém . Em rất buồn vì điều đó mà không biết phải làm sao” (Nguyễn Thị O-10A9 - Trường
Phước Bửu).
Ngoài ra vấn đề “Nội dung môn học qua nhiều”, “Căng thẳng mệt mỏi trước sức ép học tập”,
“Lo lắng về tình bạn khác giới” cũng là những lí do nhiều học sinh cần được tham vấn tâm lí.
2.3.2.1. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo trường:
Bảng 2.7: Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo trường
Lí do
Trường THPH
X2
(Sig = )
Xuyên
Mộc
Hòa
Hội
Phước
Bửu
Hòa
Bình
Nội dung các môn học quá nhiều 2.44 2.27 2,33 2.22 0.06
Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít 2.41 2.21 2.39 2.16 0.00
Khó diễn đạt điều mình muốn nói 2.28 2.42 2.31 2.34 0.39
Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt 2.18 2.46 2.39 2.32 0.02
Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó 2.08 2.32 2.15 2.22 0.05
Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn
cho tốt
2.03 2.24 2.33 2.25 0.01
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô 2.51 2.42 2.59 2.33 0.00
Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò
chuyện với học sinh
2.24 2.24 2.15 2.01 0.03
Thầy cô không hiểu tâm lí của học sinh 2.07 2.14 2.13 2.11 0.86
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ 1.92 2.21 2.08 2.07 0.05
Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái 2.21 2.25 2.13 2.32 0.16
Cha mẹ không có thời gian để gần gũi, chuyện trò 1.86 2.09 1.87 1.85 0.02
Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai 2.50 2.64 2.54 2.57 0.28
Căng thẳng, mệt mỏi trước sức ép học tập 2.40 2.38 2.31 2.37 0.68
Lo lắng về tình bạn khác giới 1.83 1.99 1.74 2.01 0.01
Phương pháp dạy của giáo viên khó hiểu 1.71 1.92 1.73 1.99 0.00
Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít. 2.41 2.21 2.39 2.16 0.00
Thời gian học thêm quá nhiều 1.95 2.20 2.06 1.94 0.03
Không biết cách tự học 1.92 2.22 2.08 2.00 0.01
Thầy cô quá nghiêm khắc 1.67 1.93 1.75 1.79 0.03
Thầy cô giảng dạy chưa nhiệt tình 1.50 1.69 1.55 1.78 0.00
Không hài lòng với cách cư xử của thầy cô 1.69 1.94 1.62 1.77 0.00
Thường làm cho thầy cô không hài lòng 1.64 1.90 1.80 1.82 0.02
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức độ rất cần thiết và cần thiết được tham
vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên.
Khi so sánh lí do học sinh cần được tham vấn trong các lĩnh vực xét theo trường, kết quả đã cho
thấy:
Vấn đề “Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai” “Không biết làm thế nào để tìm
được người bạn tốt”, “Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt”, “Khó diễn
đạt điều mình muốn nói”, “Căng thẳng mệt mỏi trước sức ép học tập” đều là những lí do có
nhiều học sinh ở các trường cần được tham vấn. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa các trường ở
một số lí do như:
Ở lí do “Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt”, “Không biết làm gì để giúp đỡ bạn
và đối xử với bạn cho tốt”, “Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ”, “Cha mẹ
không có thời gian để gần gũi, chuyện trò”, học sinh trường THPT Hòa Hội và Phước Bửu lựa
chọn cần tham vấn nhiều hơn so với trường THPT Xuyên Mộc và Hòa Bình. Còn ở lí do “Lo
lắng về tình bạn khác giới”, “Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó” học sinh trường THPT Hoà
Bình và Hòa Hội lựa chọn cần được tham vấn nhiều hơn so với trường THPT Xuyên Mộc và
Phước Bửu.
Ngoài ra sự khác biệt giữa các trường còn được thể hiện ở một số lí do “Không biết cách tự
học”, “Thầy cô quá nghiêm khắc”, “Không hài lòng với cách cư xử của thầy cô” . (xem thêm
phụ lục 3).
Khi trao đổi với Thầy Phan Hồng D. L, giáo viên môn văn kiêm phụ trách đoàn cho biết: Trong
quá trình sinh hoạt đoàn cũng đã có nhiều em học sinh đưa ra những vướng mắc của mình và
của bạn để nhờ giải quyết như: “làm thế nào để học tốt hơn”?, “khi nào nên yêu để không bị
cho là yêu quá sớm”?, “chọn nghề gì để sau này dễ kiếm việc?”…. Và rất nhiều thắc mắc liên
quan đến bản thân các em. Tôi thường giải đáp cho các em theo kinh nghiệm của mình là chủ
yếu. Nếu như tôi được trang bị kiến thức cũng như kỹ năng tham vấn thì hiệu quả sẽ tốt hơn.
Một vấn đề cũng đáng lưu tâm trong những lí do các em học sinh lựa chọn cần được tham vấn
trong mối quan hệ với cha mẹ là “Cha mẹ không có thời gian để gần gũi, trò chuyện” (thứ bậc
2), trong mối quan hệ với thầy cô là “Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò chuyện với
học sinh” (thứ bậc 2). (Xem phụ lục 3). Đây chính là hệ quả của xã hội hiện đại, do quá bận với
công việc mà cha mẹ không còn nhiều thời gian trò chuyện với con cái, giao hết trách nhiệm
giáo dục cho nhà trường. Trong khi đó cũng vì mải lo cuộc sống gia đình mà thầy cô ít có thời
gian gần gũi học sinh. Do vậy thực tế đã có nhiều trường hợp do người lớn không phát hiện kịp
những “vấn đề” của các em nên xảy ra những sự việc đáng tiếc như bị rối loạn hành vi, tự tử…
2.3.2.2. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp:
Bảng 2.8: Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp
Lí do
Lớp X2
(Sig = ) 10 11 12
Khó diễn đạt điều mình muốn nói 2.32 2.37 2.31 0.73
Nội dung các môn học quá nhiều 2.24 2.32 2.39 0.14
Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít 2.15 2.38 2.35 0.00
Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt 2.38 2.28 2.36 0.35
Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt 2.23 2.22 2.18 0.82
Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó 2.15 2.28 2.14 0.15
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô 2.42 2.50 2.48 0.45
Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò chuyện với
học sinh
2.17 2.18 2.13 0.74
Thầy cô không hiểu tâm lí của học sinh 2.01 2.14 2.18 0.08
Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái 2.25 2.28 2.13 0.11
Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ 2.11 2.24 1.94 0.00
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ 2.01 2.06 2.14 0.39
Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt 2.56 2.55 2.54 0.94
Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai 2.47 2.67 2.56 0.00
Thiếu tự tin về khả năng của bản thân 2.24 2.22 2.25 0.93
Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ 2.11 2.24 1.94 0.00
Không biết cách tự học 1.94 2.16 2.07 0.02
Không hài lòng về cách cư xử của cha mẹ 1.72 1.69 1.50 0.01
Không hài lòng với cách cư xử của thầy cô 1.65 1.86 1.76 0.02
Cảm thấy không được cha mẹ quan tâm 1.53 1.64 1.43 0.04
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức.độ rất cần thiết và cần thiết được tham
vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên.
Bảng 2.8 cho thấy, lí do “Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt”, “Khó tâm sự hoặc trình
bày nguyện vọng với thầy cô”, “Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt”, “Khó diễn
đạt điều mình muốn nói” là lí do nổi trội có nhiều học sinh ở cả ba khối lớp lựa chọn cần được
tham vấn. Tuy nhiên vấn đề mà học sinh khối 10 quan tâm và cần được tham vấn nhất là
“Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt” trong khi đó ở khối lớp 11 và 12 là lí do “Lo lắng
về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai”. Điều này cho thấy đối với học sinh cuối cấp các
em phải đưa ra quyết định “học hay làm nghề gì?”, vì vậy vấn đề nghề nghiệp tương lai cần
phải được tham vấn tốt để các em có sự lựa chọn một cách đúng đắn.
Lí do “Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ”, “Không hài lòng về cách cư
xử của cha mẹ”, “Cảm thấy không được cha mẹ quan tâm” có số học sinh lớp 10 và 11 lựa chọn
để được tham vấn tâm lí nhiều hơn so với học sinh lớp 12. Như vậy, phải chăng trong mối quan
hệ với cha mẹ ở học sinh lớp 10 và lớp 11 gặp nhiều khó khăn hơn? Điều này cho thấy, nhà
tham vấn cần phải tìm hiểu kỹ sự khác biệt ở các lí do cần được tham vấn giữa các khối lớp và
nguyên nhân của nó khi xây dựng nội dung tham vấn cho học sinh.
2.3.2.3. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo giới:
Bảng 2.9: Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo giới tính
Lí do
Giới X2
(Sig = ) Nam Nữ
Khó diễn đạt điều mình muốn nói 2.31 2.35 0.52
Nội dung các môn học quá nhiều 2.27 2.35 0.21
Điều kiện thực hành và vận dụng thực tiễn ít 2.28 2.30 0.66
Không biết làm thế nào để tìm được người bạn tốt 2.31 2.36 0.52
Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt 2.30 2.14 0.01
Muốn hòa đồng với bạn nhưng khó 2.13 2.24 0.12
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô 2.42 2.49 0.21
Thầy cô không có nhiều thời gian tiếp xúc, trò chuyện với học sinh 2.15 2.18 0.64
Thầy cô không hiểu tâm lí của học sinh 2.10 2.12 0.76
Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái 2.31 2.16 0.01
Cha mẹ không hiểu tâm lí con cái nên thường áp đặt vô cớ 2.06 2.14 0.25
Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với cha mẹ 2.03 2.10 0.30
Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai 2.58 2.55 0.62
Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt 2.56 2.54 0.68
Căng thẳng, mệt mỏi trước sức ép học tập 2.34 2.38 0.50
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức độ rất cần thiết và cần thiết được tham
vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên.
Xét theo giới tính cho thấy: Học sinh nam và nữ lựa chọn cần được tham vấn tâm lí tập trung
nhiều ở những lí do: “Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai”, “Muốn tìm ra cách
học để đem lại kết quả tốt”, “Khó diễn đạt điều mình muốn nói”, “Căng thẳng, mệt mỏi trước
sức ép học tập”, “Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy”, “Cha mẹ thường kỳ vọng
lớn ở con cái”
Chỉ có sự khác biệt giữa nam và nữ ở lí do “Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn
cho tốt” và “Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con cái”. Tỉ lệ học sinh nam lựa chọn lí do cần được
tham vấn tâm lí “ Không biết làm gì để giúp đỡ bạn và đối xử với bạn cho tốt” và “Cha mẹ
thường kỳ vọng lớn ở con cái” nhiều hơn so với nữ giới. (Xem thêm phụ lục 3).
Tóm lại, lí do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực tập trung ở
những lí do: “ Khó diễn đạt điều mình muốn nói”, “Không biết làm thế nào để tìm người bạn
tốt”, “Khó tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô”, “Cha mẹ thường kỳ vọng lớn ở con
cái:, “Lo lắng về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai”, “Căng thẳng, mệt mỏi trước sức
ép học tập”, “Muốn tìm ra cách học để đem lại kết quả tốt”. Đây là những vấn đề khiến cho rất
nhiều học sinh lo lắng, gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra còn có một số lí do cũng nhiều học sinh
lựa chọn cần được tham vấn nhưng có sự khác biệt ý nghĩa xét theo trường, khối lớp và giới
tính. Kết quả này sẽ là cơ sở để các nhà giáo dục và chuyên gia tâm lí xây dựng nội dung tham
vấn cho phù hợp và đáp ứng được nguyện vọng của các em.
2.3.3. Cách thức học sinh giải quyết khó khăn, vướng mắc trong các lĩnh vực:
Bảng 2.10: Cách thức giải quyết khó khăn vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực
Các cách giải quyết N % Thứ bậc
Tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè 393 85.8 1
Tìm đến sự giúp đỡ của thầy cô 247 53.9 4
Tìm đến sự giúp đỡ của cha mẹ 299 65.3 2
Tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí 146 31.9 5
Tự khắc phục 290 63.3 3
Không làm gì cả 31 6.8 6
Từ bảng 2.10 cho thấy, khi gặp những khó khăn, vướng mắc trên các lĩnh vực đa số học sinh
THPT đều lựa chọn cách giải quyết là “Tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè” (393 lượt lựa chọn,
53.9
65.3
31.9
63.3
6.8
85.8
A
B
C
D
E
F
chiếm 85.8%), tiếp theo là “Tìm đến sự giúp đỡ của cha mẹ” (299 lượt lựa chọn, chiếm 65.3%),
“Tự khắc phục” (290 lượt lựa chọn chiếm 63.3%).
Qua tìm hiểu, một số học sinh đã cho biết, các em chỉ tìm đến sự trợ giúp của cha mẹ khi các
em gặp khó khăn trong học tập, còn những khó khăn khác các em tìm đến sự trợ giúp của bạn
bè hoặc tự mình khắc phục. Mặc dù lựa chọn những cách giải quyết trên nhưng các em cho biết
những cách thức này không làm cho các em thoả mãn vì các em nhận thấy hiệu quả không cao.
“Em rất ít khi tâm sự chuyện của em với ba mẹ vì ba mẹ em rất nghiêm khắc. Nếu có chuyện gì
thì em tâm sự với bạn thân nhất của em và nhờ bạn cho lời khuyên” (Nguyễn Thị Hiếu G-
11A5 - Trường Hòa Bình). Khi được hỏi “Với sự giúp đỡ của bạn thì em thấy khó khăn, vướng
mắc của mình có `được giải quyết hết không?” H.G trả lời: “Khi tìm đến bạn em chỉ muốn là
tâm sự, chia sẻ với bạn cho thoải mái hơn một chút thôi còn thực sự thì vẫn cảm thấy vướng
mắc trong lòng.”
“Những chuyện của em thì em luôn tự tìm cách giải quyết, em rất ngại cho mọi người biết
chuyện riêng của mình nhưng em cũng muốn có một người thực sự tin tưởng để chia sẻ ”
(Nguyễn Hoàng A-12A1 - Trường Hòa Hội).
Bảng 2.10 cũng cho thấy, cách giải quyết “Tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí” được rất
ít học sinh lựa chọn mặc dù đa số học sinh đều rất cần được tham vần tâm lí. Nguyên nhân của
thực trạng này là do ở trường cũng như trên địa bàn huyện hiện chưa có một phòng tham vấn
nào và bản thân các em lại biết rất ít các địa chỉ phòng tham vấn ở nơi khác vì thế mặc dù có
nhu cầu tham vấn rất cao nhưng các em lại không có điều kiện để thỏa mãn.
Cách thức giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong các lĩnh vực của học sinh được thể hiện
cụ thể ở biểu đồ 2.2b.
Biểu đồ 2.2b: Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh THPT:
Chú thích: A:Tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè.
B:Tìm đến sự giúp đỡ của thầy cô
C:Tìm đến sự giúp đỡ của cha mẹ
D:Tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí
E: Tự khắc phục
F: Không làm gì cả
2.3.3.1.Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo
trường:
Bảng 2.11: Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét
theo trường
Nơi trợ giúp
Trường X2
(Sig = )
Xuyên
Mộc
Hòa
Hội
Phước
Bửu
Hòa
Bình
Tìm đến sự giúp đỡ
của bạn bè
90.3% 92.9% 80.9% 79.1% 0.32
Tìm đến sự giúp đỡ
của thầy cô
48.2% 56.0% 54.8% 60.0% 0.00
Tìm đến sự giúp đỡ
của cha mẹ
71.9% 63.2% 66.0% 60.0% 0.89
Tìm đến sự giúp đỡ
của chuyên gia tâm lí
39.4% 38.6% 24.3% 25.2% 0.001
Tự khắc phục 78.0% 55.3% 63.5% 56.5% 0.05
Không làm gì cả 9.6% 7.0% 8.7% 1.7% 0.34
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức độ rất cần thiết và cần thiết được
tham vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên.
Từ bảng 2.11 cho thấy, đa số học sinh của cả bốn trường đều lựa chọn cách thức “Tìm đến sự
giúp đỡ của bạn bè” khi gặp khó khăn, vướng mắc trong học tập và cuộc sống (chiếm trên 80%).
“Tự khắc phục” cũng là cách giải quyết của học sinh ở cả bốn trường (chiếm trên 55%).
Có sự khác biệt ý nghĩa về cách giải quyết khó khăn, vướng mắc là tìm đến sự giúp đỡ của thầy
cô và chuyên gia tâm lí: Học sinh trường THPT Hòa Bình và Hòa Hội có tỉ lệ học sinh “Tìm
đến sự giúp đỡ của thầy cô” cao hơn so với trường THPT Xuyên Mộc và Phước Bửu (Sig =
0.000).
Đối với cách “Tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí” thì trường THPT Xuyên Mộc và Hòa
Hội có tỉ lệ học sinh lựa chọn nhiều hơn trường THPT Phước Bửu và Hòa Bình (Sig = 0.001).
2.3.3.2. Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét theo
lớp và giới tính:
Bảng2.12: Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh vực xét
theo lớp và giới tính
Cách thức
Nhóm
Tìm đến
sự giúp
đỡ của
bạn bè
Tìm đến
sự giúp
đỡ của
thầy cô
Tìm
đến sự
giúp đỡ
của cha
mẹ
Tìm
đến sự
giúp đỡ
của
chuyên
gia tâm
lí
Tự
khắc
phục
Không
làm gì
cả
Lớp
10 83.6% 54.1% 62.9% 37.1% 58.5% 6.2%
11 86.2% 53.4% 67.3% 32.1% 63.5% 7.5%
12 87.8% 54.2% 65.7% 27.8% 68.6% 6.4%
X2 0.14 0.99 0.89 0.03 0.18 0.99
Giới
Nam 86.7% 59.2% 64.3% 30.6% 65.3% 7.1%
Nữ 85.1% 50.0% 55% 32.8% 61.8% 6.4%
X2 0.76 0.04 0.78 0.25 0.84 0.93
Chú thích: Kiểm nghiệm X2 để so sánh tỉ lệ % giữa các trường về mức độ rất cần thiết và cần thiết được tham
vấn tâm lí ở học sinh trong các lĩnh vực.
Mức xác suất sai lầm P = 0.05, nếu Sig < 0.05 thì có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tỉ lệ % trên
Xét theo khối lớp và giới tính đều cho thấy, dù là học sinh lớp 10,11 hay 12, là nam hay nữ thì
khi các em gặp bất kỳ khó khăn, vướng mắc nào trước các em cũng đều tâm sự, tìm lời khuyên
từ bạn bè (chiếm trên 83%). Khi được hỏi: “Nếu gặp khó khăn, vướng mắc trong học tập hoặc
cuộc sống các em có tìm đến sự trợ giúp của thầy cô hoặc cha mẹ không?” rất nhiều học sinh trả
lời là “không” vì các em cảm thấy rất khó có thể tâm sự hoặc trình bày nguyện vọng với thầy cô
và cha mẹ.
Bảng 2.12 cũng cho thấy, có một số học sinh đã tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí dù số
lượng không nhiều, tuy nhiên có sự khác biệt giữa học sinh lớp 10, lớp 11 và lớp 12 về sự lựa
chọn này. Số học sinh lớp 10 và lớp 11 “Tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí” nhiều hơn
học sinh lớp 12 (Sig = 0.03). Khi tìm hiểu chúng tôi được biết có sự khác biệt này là do đa phần
các em tìm đến sự giúp đỡ của chuyên gia tâm lí chủ yếu thông qua phương tiện điện thoại và
qua mạng, vì vậy mà học sinh lớp 12 do phải tập trung cho ôn thi tốt nghiệp nên ít có thời gian
trao đổi với chuyên gia hơn học sinh lớp 10 và lớp 11. Đây cũng là một điều đáng lưu tâm bởi
chính vào thời điểm cuối cấp các em càng cần phải được trợ giúp nhiều hơn để các em có được
sự vững tin khi bước vào các kỳ thi quan trọng cũng như sự lựa chọn nghề đúng đắn.
Nhìn chung, so sánh về cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc trong các lĩnh vực xét theo
khối lớp và giới tính chúng tôi nhận thấy hầu như không có sự khác biệt giữa các nhóm học sinh
về cách thức giải quyết khó khăn. Cách thức giải quyết khó khăn chủ yếu của các em là “Tìm
đến sự giúp đỡ của bạn bè” và “Tự khắc phục”. Điều này các nhà giáo cần phải dục lưu tâm
nhiều hơn vì với cách giải quy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTLH033.pdf