Tài liệu Luận văn Nhu cầu đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta
trong giai đoạn hiện nay
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao dần đời sống của
nhân dân luôn là vấn đề nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và mọi
thành viên trong xã hội ta.
Nước ta có dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động năm 2000 là gần 40
triệu mà đa số ở nông thôn, trong khi bình quân ruộng đất đầu người thấp, ngành nghề
chưa phát triển, tỷ lệ tăng dân số cao... Do vậy, số người lao động chưa đủ hoặc chưa có
việc làm ngày càng nhiều.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, việc sử dụng máy
móc và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, cải tiến tổ chức sản
xuất tuy có tạo thêm nhiều chỗ làm việc nhưng cầu về lao động vẫn nhỏ hơn cung, đồng
thời xuất hiện tình trạng thừa lao động giản đơn, lao động lành nghề sử dụng chưa phù
hợp.
Để tạo việc làm, nước ta đã có nhi...
69 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhu cầu đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta
trong giai đoạn hiện nay
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao dần đời sống của
nhân dân luôn là vấn đề nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và mọi
thành viên trong xã hội ta.
Nước ta có dân số trẻ, số lượng người trong độ tuổi lao động năm 2000 là gần 40
triệu mà đa số ở nông thôn, trong khi bình quân ruộng đất đầu người thấp, ngành nghề
chưa phát triển, tỷ lệ tăng dân số cao... Do vậy, số người lao động chưa đủ hoặc chưa có
việc làm ngày càng nhiều.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, việc sử dụng máy
móc và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, cải tiến tổ chức sản
xuất tuy có tạo thêm nhiều chỗ làm việc nhưng cầu về lao động vẫn nhỏ hơn cung, đồng
thời xuất hiện tình trạng thừa lao động giản đơn, lao động lành nghề sử dụng chưa phù
hợp.
Để tạo việc làm, nước ta đã có nhiều giải pháp tích cực, trong đó xuất khẩu lao
động là một trong những giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, quá trình hợp tác quốc tế về lao
động (cách gọi trước đây) hay xuất khẩu lao động (cách gọi hiện nay) đang còn nhiều
nhược điểm, thiếu sót như: việc quản lý xuất khẩu lao động chưa tốt; quyền lợi của người
lao động của ta ở nước ngoài chưa được quan tâm đầy đủ (cả về vật chất và tinh thần), chất
lượng lao động kém, trình độ ngoại ngữ thấp, ý thức kỷ luật lao động của người Việt Nam
ở nước ngoài chưa cao...
Chính vì vậy, chỉnh đốn và đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, mở rộng thị
trường lao động, đặc biệt là ở những thị trường có điều kiện lao động tốt, thu nhập cao, là
một trong những vấn đề có tình thời sự nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, thúc
đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong điều kiện phân công lao động
quốc tế và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Vì thế, "Đẩy mạnh
xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay " được chọn làm đề tài luận
văn thạc sĩ.
2. Nhiệm vụ của luận văn
2.1. Làm rõ sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nước ta.
2.2. Tìm hiểu tình hình xuất khẩu lao động của một số nước như Philipin, Thái
Lan, Bănglađét.
2.3. Phân tích tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta qua hai giai đoạn 1980 -
1989 và 1990 đến nay.
2.4. Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động của Việt Nam trong
thời gian tới.
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề này đã có nhiều tác giả nghiên cứu, như:
Phạm Nhật Tân: Sự Hội nhập khu vực về xuất khẩu lao động của Việt Nam.
Trương Quang Oánh: Tạo vị thế để mở rộng xuất khẩu lao động.
Trần Đình Chính: Mở rộng xuất khẩu lao động - một hướng tích cực giải quyết
việc làm.
Nguyễn Quang Hiển: Xu hướng vận động thị trường lao động của nước ta.
Nguyễn Lương Trào: Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở nước ta trong giai
đoạn mới.
Trần Văn Hằng: Thị trường lao động Việt Nam và cơ chế giải quyết việc làm
ngoài nước.
Minh Đức: Đánh giá hợp tác lao động 10 năm 1985 - 1995 và phương hướng
1996 - 2000.
Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ là những bài báo về từng mặt của xuất
khẩu lao động:
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của chương trình hợp tác lao động quốc tế và XKLĐ.
- Phân tích một số thị trường lao động trên thế giới và trong khu vực.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ ở nước ta.
Còn có ít công trình phân tích một cách tương đối toàn diện công tác XKLĐ của
ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, ở nước ta còn có những cách hiểu khác nhau về nội dung của phạm trù
XKLĐ. Luận văn này chỉ sử dụng phạm trù "xuất khẩu lao động" theo nghĩa hẹp, nghĩa là
chỉ xét những người lao động Việt Nam được đưa đi làm việc tại các nước và các vùng
ngoài lãnh thổ Việt Nam.
5. Những đóng góp của luận văn
Tìm hiểu tình hình XKLĐ của một số nước từ đó rút ra những kinh nghiệm có thể
vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Khái quát được những thành tựu, những thiếu sót chủ yếu và nguyên nhân trong
công tác XKLĐ ở nước ta những năm qua.
Đề xuất một số giải pháp khả thi đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên,
các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội trong lĩnh vực hợp tác lao động quốc tế và
những độc giả quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có lời mở đầu, 3 chương và kết luận.
Chương 1: Sự cần thiết phải xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay và kinh
nghiệm XKLĐ của một số nước.
Chương 2: Tình hình XKLĐ của nước ta những thập kỷ qua.
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh XKLĐ của
nước ta trong thời gian tới.
Chương 1
Sự cần thiết xuất khẩu lao động của nước ta và kinh nghiệm xuất khẩu lao động của
một số nước
1.1. Xuất khẩu lao động và thị trường lao động
1.1.1. Xuất khẩu lao động
Bằng Quyết định 46CP ngày 01/02/1980 của Hội đồng Chính phủ, nước ta bắt đầu
thực hiện XKLĐ vào những năm 80. Tuy nhiên, trong giai đoạn đó, một mặt chưa thừa
nhận sự tồn tại của kinh tế thị trường và hàng hóa sức lao động trong CNXH, mặt khác, do
đề cao quan hệ thân thiện giúp đỡ lẫn nhau giữa nước ta với các nước XHCN nên gọi là
Hợp tác quốc tế về lao động.
Sau khi CNXH sụp đổ ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, nền kinh tế
nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường thì thuật
ngữ XKLĐ được sử dụng thay cho thuật ngữ Hợp tác quốc tế về lao động.
Trước khi có Luật Doanh nghiệp thì XKLĐ được hiểu là XKLĐ tại chỗ và XKLĐ
trực tiếp. XKLĐ tại chỗ là người lao động bán sức lao động cho các công ty nước ngoài và
làm việc cho họ ở ngay trên lãnh thổ của mình. Chẳng hạn, người lao động Việt Nam làm
cho các công ty nước ngoài trong các khu chế xuất ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Còn
XKLĐ trực tiếp là người lao động được đưa sang các nước khác làm thuê.
Từ ngày 4/5 đến ngày 12/6 năm 1999, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Doanh nghiệp. Điều 2 Luật Doanh
nghiệp xác định: "Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp trên
lãnh thổ Việt Nam áp dụng theo quy định của luật này và các quy định luật pháp khác có
liên quan.
Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của luật này và quy định của luật
chuyên ngành về cùng một vấn đề, thì áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành" [21,
tr. 7].
Căn cứ vào luật này đã xuất hiện ý kiến cho rằng mọi doanh nghiệp nằm trên lãnh
thổ Việt Nam đều chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, quan
niệm như trên về XKLĐ không còn phù hợp.
XKLĐ hiện nay được hiểu là việc đưa người lao động từ nước xuất khẩu đến làm
việc ở các nước có nhu cầu nhập khẩu lao động. Theo cách hiểu này thì XKLĐ chỉ bao
gồm trường hợp thứ hai của quan niệm trước, và đây cũng là cách hiểu được sử dụng trong
luận văn này.
Theo lý luận trừu tượng thì những người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thể
dưới hình thức bán hàng hóa sức lao động hoặc dưới hình thức làm dịch vụ (như làm việc
nội trợ). Luận văn này không tách biệt mà gộp chung lại khi tính cung cầu trên thị trường
lao động.
1.1.2. Thị trường lao động
Thị trường lao động theo đúng nghĩa chỉ là mua bán hàng hóa sức lao động. ở đây
tính cả việc thuê người làm dịch vụ. Thị trường lao động cũng bị chi phối bởi các quy luật
của kinh tế hàng hóa, nhất là quy luật cung cầu. Việc hình thành thị trường lao động quốc
tế do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do sự mất cân đối về cung cầu lao động nói chung trên thị trường lao động các
nước. Nhiều nước có nhu cầu lớn về lao động như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các
nước thuộc khu vực Trung Đông... mà cung về lao động trong nước không đáp ứng đủ,
trong khi nhiều nước lại thừa lao động như Philipin, ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam,
Bănglađét... Từ đó dẫn đến sự XKLĐ từ các nước thừa sang các nước có nhu cầu sử dụng
lao động ngoài nước.
- Do sự mất cân đối trong từng loại lao động khác nhau: nhiều nước thiếu lao động
có trình độ cao, đặc biệt là những nước đang phát triển, nhưng thừa lao động giản đơn,
trong khi đó, ở các nước phát triển thì những lao động 3D (nặng nhọc, độc hại, bẩn) người
dân bản xứ không thích làm... nên phải nhập khẩu lao động.
- Do giá cả lao động ở các nước có sự chênh lệch nhau. Thái Lan là một điển hình:
vào những năm 90, quá trình công nghiệp hóa đất nước đã mở rộng nhiều ngành nghề sản
xuất thu hút nhiều lao động, cả lao động có trình độ cao và lao động giản đơn. Lao động
của nhiều nước láng giềng với Thái Lan đã đổ xô vào các nhà máy, xí nghiệp mà chính
phủ Thái Lan đã cho di chuyển đến sát biên giới để tìm nguồn lao động rẻ. Nhưng đồng
thời Thái Lan vẫn khuyến khích XKLĐ vì giá của sức lao động trong nước thấp hơn giá
của sức lao động ở nước ngoài và giá nhân công nước ngoài làm việc ở Thái Lan tương đối
rẻ, chỉ bằng một nửa so với lương của công nhân ở địa phương [1, tr. 8]. Bằng chính sách
này, chính phủ Thái Lan đã đem lại những nguồn lợi to lớn cho người lao động và cho đất
nước.
ở nước ta, mức cung lao động lớn nhưng khả năng giải quyết việc làm trong nước
còn hạn chế, đồng thời giá cả của sức lao động trong nước thấp (do nền kinh tế kém phát
triển và thu nhập bình quân đầu người thấp) do vậy XKLĐ là cấp thiết, phù hợp với quy
luật hình thành thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên, lao động của ta chỉ có thể hội nhập
vào thị trường lao động quốc tế khi chất lượng của nó đáp ứng được đòi hỏi của thị trường.
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nước ta
Ngày nay, di chuyển lao động trên phạm vi toàn cầu là một hiện tượng kinh tế - xã
hội phổ biến. Do vậy, thuật ngữ "xuất khẩu lao động" cũng được sử dụng một cách rộng
rãi hơn và được coi như một phương thức thực hiện phân công lao động quốc tế.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ, lực lượng sản xuất đã phát triển tới một trình độ cao chưa từng có. Sự phát
triển của nó đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia. Mỗi một quốc gia đã trở thành một
khâu gắn kết chặt chẽ và không thể tách rời khỏi nền kinh tế thế giới. Muốn phát triển và đạt
hiệu quả về kinh tế phải có sự mở rộng quan hệ và tham gia vào sự phân công lao động
quốc tế.
Mặt khác, cùng với sự phát triển chung là sự phát triển không đều về kinh tế -
chính trị - xã hội cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên và các nguồn lực
khác. Điều đó dẫn đến tình trạng không có quốc gia nào có lợi thế so sánh tuyệt đối và
tương đối trên mọi lĩnh vực, nên tất yếu phải tham gia thị trường quốc tế, trong đó có thị
trường lao động. XKLĐ đã trở thành một hoạt động kinh tế quan trọng trong nhiều thập kỷ
qua và còn có vai trò lớn trong hiện tại cũng như trong tương lai.
1.2.1. Cung về lao động của nước ta hiện nay lớn hơn cầu và việc làm trở
thành vấn đề cấp bách
Nghiên cứu về cộng đồng dân cư tùy theo mục đích nghiên cứu mà các nhà xã hội
học có thể phân chia cộng đồng theo những tiêu thức khác khau (lứa tuổi, giới tính, tôn giáo,
tín ngưỡng...). Dưới góc độ kinh tế và xã hội học lao động thì việc làm là một tiêu chuẩn
quan trọng. Pierre Naville - một trong những chuyên gia xuất sắc về xã hội học lao động
đã nhận định "sự phân biệt đầu tiên trong mọi sự mô tả về dân cư hoạt động là sự phân biệt
giữa những người có việc làm và những người không có việc làm" [36, tr. 8].
Trải qua các giai đoạn của lịch sử xã hội đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau về
thất nghiệp - việc làm. Các nhà kinh tế cổ điển, sống trong thời kỳ khoa học - công nghệ
chưa phát triển, lao động thủ công là chính, mức cầu về lao động rất lớn, nên họ cho rằng
thất nghiệp chỉ là hiện tượng tạm thời, có thất nghiệp là do lười biếng, không chăm chỉ...
các nhà kinh tế thời kỳ này cho rằng thất nghiệp (tức sự lười biếng) tỷ lệ thuận với mức
tiền công. Nếu tiền lương cao sẽ khiến công nhân thích ăn chơi, nhậu nhẹt, không muốn
lao động.
Khi khoa học - kỹ thuật phát triển, sự ra đời của máy móc đã dẫn tới nạn "nhân
khẩu thừa" thì lý thuyết của Thomas Robert Malthus cho rằng thất nghiệp trong xã hội chỉ
do con người sinh đẻ quá nhiều.
Karl Marx (1818 - 1883) không phân tích việc làm nói chung mà tìm hiểu nó trong
phương thức sản xuất TBCN. Trong tác phẩm "Tư bản" (1867), K.Marx đã phát hiện ra
quy luật nhân khẩu thừa tương đối trong CNTB. Marx cho rằng cầu về lao động xã hội
không quan hệ trực tiếp với tổng số tư bản mà nó chỉ liên quan trực tiếp đến bộ phận tư
bản khả biến. Do sự phát triển của khoa học công nghệ và do quy luật tích lũy TBCN đã
làm cho cấu tạo hữu cơ tư bản ngày càng tăng, bộ phận tư bản khả biến có xu hướng giảm
tương đối trong tổng số tư bản là nguyên nhân gây ra hiện tượng thất nghiệp.
ở nước ta, dân số - lao động - việc làm đang trở thành vấn đề nhức nhối. Giải quyết
sự mất cân đối về cung cầu lao động, tạo việc làm không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế hay
xã hội mà còn là vấn đề chính trị. Trên diện tích 330.991 km2 trải dài theo mảnh đất hình
chữ S là một lượng dân cư 76,3 triệu người. Về dân số, nước ta đứng thứ 13 trên thế giới. Mật
độ dân số cao, năm 1930 là 30 người/km2 năm 1960 là 91 người/km2, đến năm 1975 là 144
người/km2, năm 1997 là 232 người/km2, và năm 1999 là 236 người/km2. Mặt khác, nước ta là
một quốc gia dân số trẻ, tỷ lệ tăng dân số cao, vì vậy số dân trong độ tuổi lao động lớn.
Bảng 1: Tỷ lệ tăng dân số và mức sinh ở Việt Nam
Năm 1960 1989 1996 1999
Tỷ lệ tăng dân số 3,4% 2,29% 1,87% 1,7%
Tỷ lệ sinh con của một phụ nữ trong tuổi
đẻ
6,3 con 3,8 con 2,7 con 2,3 con
Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số và mức sinh con đã giảm dần nhưng số
người đến độ tuổi lao động vẫn tăng nhanh do hậu quả của tỷ lệ sinh cao trong mấy thập
niên trước. Số lượng dân cư mỗi năm tăng lên khoảng 1,5 triệu người, tương đương với
dân số của một tỉnh như Hà Nam hay Vĩnh Phúc. Do vậy, số người trong độ tuổi lao động
vẫn tăng cả về tuyệt đối và tương đối (so với tổng dân số).
Bảng 2: Cơ cấu lực lượng lao động Việt Nam năm 1999
(Chia theo nhóm tuổi)
Đơn vị: ngàn người
Lứa tuổi Số lượng lao động
Tỷ lệ % trọng
lực lượng
15 - 24 8.577,6 22,70
25 - 34 10.600,8 28,06
35 - 44 10.393,9 27,51
45 - 54 5.565,2 14,73
55 - 59 1.267,1 3,35
60 tuổi trở lên 1.379,1 3,65
Tổng cộng 37.783,7 100%
[37, tr. 26]
Năm 2000, ước tính dân số Việt Nam trong độ tuổi lao động đạt
gần 40 triệu và dự báo đến năm 2015 con số này sẽ lên đến 62 triệu. So với năm 1990,
năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người, bổ sung vào lực lượng lao động [5, tr. 43].
Tỷ lệ tăng dân số trong độ tuổi lao động cao vượt quá khả năng tạo ra việc làm
hàng năm.
Thời kỳ 1976 - 1980 tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là 3,25%,
nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,80%. Con số tương ứng của thời kỳ 1981 - 1985 là
2,87% và 2,67%. Thời kỳ 1986 - 1990 là 3,06% và 2,54%. Trong giai đoạn 1991 - 1996 ta
đã giải quyết được trên 6 triệu việc làm. Năm 1997 tạo được 1,2 triệu chỗ làm. Năm 1998
là 1,4 triệu. Tuy nhiên, tốc độ tăng việc làm luôn thấp hơn tốc độ tăng của nguồn lao động,
do vậy tỷ lệ thất nghiệp của ta vẫn cao [11, tr. 43].
Ngày 22-9-1999 Ban chỉ đạo điều tra lao động, việc làm trung ương đã tổ chức
công bố kết quả điều tra lao động, việc làm ở khu vực thành thị. Theo ông Nguyễn Lương
Trào - Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trưởng ban chỉ đạo thì tính chung cả
nước tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động là 7,4% (nữ là 8,2%) tăng 0,55% và vẫn đang
tiếp tục tăng, đã dẫn đến tình trạng thừa cung thiếu cầu trên thị trường lao động, và đang gây
sức ép lớn cho chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia về giải quyết việc làm. Cung lớn hơn
cầu trên thị trường lao động là do những nhân tố sau:
Một là: Lực lượng lao động tăng nhanh do tốc độ tăng dân số cao từ mấy thập kỷ
trước để lại. Mỗi năm dân số của ta tăng khoảng 1,5 triệu và cung cấp vào thị trường một
lực lượng lao động vào khoảng 1,3 triệu người.
Hai là: Do việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực
sản xuất, nhất là trong nông nghiệp, mà "máy móc chèn lấn người" làm cho nhân lực trong
các ngành sản xuất nói chung và ở trong nông nghiệp nói riêng dôi ra đáng kể (thời gian
nhàn rỗi ở nông thôn trung bình khoảng 28%). Lực lượng lao động dôi ra này chủ yếu là
lao động giản đơn.
Ba là: Do cải cách các DNNN, năm 1990 ta có khoảng 12.000 doanh nghiệp nhà
nước thì đầu năm 1996 còn khoảng 6.000 [10, tr. 41] và đến năm 2000 dự kiến sẽ chỉ còn
4.066 DNNN [5, tr. 37]. Theo ông Nguyễn Văn Khang - chuyên viên Vụ Lao động văn
hóa - xã hội - Bộ Kế hoạch và đầu tư thì số lao động không bố trí được việc làm tại các
DNNN đang tăng cao ở hầu hết các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công nghiệp, nông
nghiệp...
Theo báo cáo gần đây của 3.639 DNNN cho thấy: có 1.546 DNNN có số lao động
không bố trí được việc làm là 92.274 người chiếm khoảng 9% tổng số lao động. Tuy
nhiên, con số trên sẽ không dừng lại ở đó bởi theo dự kiến số DNNN sẽ tiếp tục giảm
xuống còn 2.756 và số người cần sắp xếp lại việc làm là 200.000. Số lượng lao động dôi
dư ở đây hầu hết là lao động trẻ và có nghề. Kết quả điều tra cho thấy số lao động dôi ra do
sắp xếp lại doanh nghiệp có độ tuổi dưới 40 và có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tới
2/3 tổng số lao động dôi dư [27, tr. 10].
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (Khu vực thành
thị)
Đơn vị tính: %
Năm
Vùng
1996 1997 1998 1999
Đồng Bằng 7,57 7,56 8,25 9,34
Đông Bắc 6,42 6,34 6,60 8,72
Tây Bắc 4,51 4,73 5,92 6,58
Bắc Trung Bộ 6,96 6,68 7,26 8,62
Duyên Hải Nam
Trung Bộ 5,57 5,42 6,67 7,07
Tây Nguyên 4,24 4,99 5,88 5,95
Đông Nam Bộ 5,43 5,89 6,44 6,52
Đồng bằng sông Cửu Long 4,73 4,72 6,35 6,53
Theo tính toán để giải quyết số lao động dôi ra ở các DNNN do sắp xếp lại đòi hỏi
phải tốn kém khoảng 2.000 tỷ đồng, trong đó Nhà nước phải chịu 1.000 tỷ, 1.000 tỷ còn lại
do các doanh nghiệp trang trải.
Như vậy nước ta không những dôi dư về lao động giản đơn mà trong một chừng
mực cụ thể còn dư thừa cả lao động kỹ thuật, lao động có nghề.
Tìm lời giải bài toán tạo việc làm cho những người lao động nói trên là việc làm
vô cùng khó khăn đối với những nhà hoạch định chính sách. Đây là điểm nút quan trọng
gỡ những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để
tạo được một việc làm tốt trong các ngành công nghiệp nặng đòi hỏi phải đầu tư khoảng
100 triệu đồng. Một việc làm trung bình ở đó phải tốn 30 - 50 triệu, còn trong các ngành
tiểu thủ công nghiệp thì số tiền phải đầu tư từ 10 - 15 triệu [4, tr. 21]. Với lực lượng lao
động hàng năm gia tăng trên 1 triệu người, lượng kinh phí chi cho tạo việc làm là rất lớn
(khoảng 20 - 30 ngàn tỷ). Điều này là một khó khăn lớn trong điều kiện nền kinh tế còn
yếu kém và ngân sách Nhà nước còn eo hẹp.
1.2.2. Vai trò của xuất khẩu lao động trong việc giải quyết việc làm, tăng thu
nhập và cải thiện đời sống của người lao động
Những năm gần đây, bằng sự nỗ lực vượt bậc của Đảng, Nhà nước cũng như các
cơ quan chức năng ở mọi cấp, mọi ngành, nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng
"khủng hoảng trầm trọng kéo dài" và thu được những thắng lợi bước đầu hết sức quan
trọng.
Cùng với phát triển kinh tế, Chính phủ đã đề ra nhiều chương trình về xã hội như:
chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình quốc gia về giải quyết việc làm... Cho đến
nay, những chương trình này đã đưa lại những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, nước
ta về cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, đại bộ phận nhân dân sống ở nông thôn, nông
nghiệp chiếm tỉ trọng lớn. Tốc độ tăng dân số nhanh trong khi diện tích đất nông nghiệp
tăng không đáng kể, nên bình quân ruộng đất trên đầu người thấp. Diện tích đất nông
nghiệp từ 1943 đến 1997 tăng từ 5,6 triệu ha lên 7,7 triệu ha (gấp 1,36 lần) [28, tr. 34],
trong khi đó dân số nước ta tăng từ 22 triệu người lên 76,3 triệu người (gấp 3,5 lần). Tỷ lệ
thất nghiệp và thiếu việc làm cao, hàng năm lại có thêm trên 1 triệu người bước vào độ
tuổi lao động. Bên cạnh đó, quá trình đổi mới đòi hỏi phải sắp xếp lại sản xuất dẫn đến
nhiều lao động bị dôi dư. Vì vậy sức ép về giải quyết việc làm rất gay gắt, Đảng và Nhà
nước đã xác định cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, XKLĐ
và chuyên gia là một chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài. Quan điểm này đã được
thể hiện rõ trong chỉ thị số 41 CT/TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về XKLĐ và
chuyên gia, trong đó nêu rõ: "xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế -
xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao
trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường
quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước". Chủ trương này được cụ thể hóa trong
Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ quy định việc đưa người
lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
ở nước ta, những năm qua xuất khẩu lao động đã có vai trò quan trọng thể hiện cụ
thể trên một số mặt chính như sau:
Xuất khẩu lao động góp phần đắc lực vào giải quyết việc làm, qua đó nâng cao
chất lượng nhân lực, tạo nhân tố quan trọng bền vững cho công cuộc phát triển đất nước.
Thời kỳ bùng nổ dân số đã qua đi. Tốc độ tăng dân số đã chững lại và được kiểm
soát nhưng tốc độ gia tăng nguồn lao động vẫn ở mức độ cao, trung bình từ năm 1981 đến
năm 2000 là 2,75%. Dự kiến từ năm 2005 trở đi tốc độ tăng lao động sẽ là 2,2%. Cầu lao
động trong nước thấp hơn cung, không sử dụng hết lao động trong nước là một khả năng
thực tế. Theo thống kê và dự báo trong 15 năm từ năm 1991 đến 2005, dân số trong độ tuổi
lao động sẽ tăng thêm 15,9 triệu, mỗi năm bình quân tăng thêm trên 1 triệu thanh niên
bước vào tuổi lao động. Đến năm 2005 nước ta có thêm 23,5 triệu lao động cần được giải
quyết việc làm. Số lao động trẻ (từ 16-35 tuổi) tăng từ 25 triệu vào năm 1990 lên 26,8 triệu
vào năm 1995 và 30,4 triệu vào năm 2005. Do khả năng tạo thêm việc làm có hạn nên bộ
phận người lao động chưa có việc làm, hoặc có việc làm không đầy đủ, không những
không giảm mà lại tăng lên. Điều đó đòi hỏi phải có một chương trình quốc gia về việc
làm hoàn chỉnh bao gồm cả tạo việc làm trong nước và đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài.
Trong 10 năm thực hiện các hiệp định về hợp tác lao động (1980 - 1989) Việt
Nam đã đưa đi làm việc ở 9 nước được 277.183 lao động, trong đó có 92.000 nữ (chiếm
33%). Ngoài lợi ích kinh tế thì việc tạo ra một khối lượng lớn việc làm là lợi ích xã hội
quan trọng. Bằng XKLĐ, hàng năm ta đã tạo ra việc làm tạm thời cho 3% số lao động đến
tuổi. Trong đó có 60% lao động chưa có nghề, 4 vạn lao động khi hết nghĩa vụ quân sự...
Từ năm 1990 đến nay XKLĐ của ta được chuyển sang cơ chế thị trường. Thị
trường lao động được mở rộng sang những khu vực mới. Lao động của ta hiện có mặt ở
hơn 30 nước và lãnh thổ khác nhau trên thế giới, theo đánh giá của Bộ Lao động thương
binh và xã hội tính đến năm 1999 đã đưa đi được 89.140 người với nhiều ngành nghề,
trong đó có gần 15.000 sĩ quan thủy thủ và lao động đánh bắt hải sản, 1500 chuyên gia các
lĩnh vực, số còn lại là lao động kỹ thuật và lao động phổ thông, năm 1992: 810 người; 1993:
3.960 người; 1994: 9230 người; 1995: 10.050 người; 1996: 12.661; 1997: 18.470; 1998:
12.240; 1999: 20.700 người. Trong đó lao động có nghề từ 25% năm 1993 tăng lên 40%
năm 1995 và hiện nay đạt 70%.
Khi hết hạn lao động ở nước ngoài hầu hết người lao động Việt Nam có nghề
nghiệp, thông thạo ngoại ngữ và có tác phong sản xuất công nghiệp. Đây là một kết quả,
một thành tựu không nhỏ của công tác XKLĐ, góp phần vào sự phát triển nguồn nhân lực,
một nhân tố quan trọng cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người lao
động. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, gần đây hàng năm người lao
động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài gửi về nước hơn 1 tỷ USD. Đây là một nguồn
thu lớn vì hiện nay nền kinh tế nước ta mới có một số ít ngành sản xuất đạt trên 1 tỷ USD.
Về thu nhập cá nhân: người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao,
mức thu nhập cầm tay bình quân hàng tháng cao hơn từ 4-6 lần thu nhập của người có việc
làm trong nước. Hiện thực cho thấy hầu như gia đình nào có người đi XKLĐ thì mức sống
và điều kiện sinh hoạt của
gia đình đó được nâng lên rõ rệt. Vì vậy XKLĐ đang trở thành một phong trào rộ lên ở
khắp mọi nơi. Bình quân một người lao động ở nước ngoài
có mức thu nhập không ít hơn 300 USD/tháng, sau khi đã trừ đi các khoản chi phí. So với
thu nhập của Việt Nam (GDP bình quân đầu người) khoảng hơn 300 USD một năm thì
mức thu nhập của người lao động xuất khẩu
quả là không nhỏ. Ước tính mỗi năm người lao động sẽ dành dụm được 3.600 USD, sau ba
năm lao động trở về nước họ sẽ có một lưng vốn khoảng 11.000 USD. Quy đổi tỷ giá hối
đoái hiện hành thì khi về nước họ có không ít hơn 160 triệu. Đó là chưa kể tiền làm thêm
giờ và tiền thưởng, có khi bằng số lương của họ. Với những khoản thu nhập trên họ có
điều kiện tích lũy vốn, cải thiện đời sống của gia đình và mua sắm phương tiện sản xuất để
tự tạo việc làm.
1.3. Tình hình xuất khẩu lao động của một số nước trong khu vực
1.3.1. Philipin
Vượt lên cả những nước có dân số đông gấp hơn 10 lần là ấn Độ và Trung Quốc,
Philipin nổi lên là một trong những nước cung ứng lao động lớn nhất trên thị trường quốc tế.
Chỉ với dân số 72,9 triệu người, Philipin đã có 980 doanh nghiệp được cấp giấy phép
XKLĐ. Lao động Philipin ở nước ngoài nói chung và XKLĐ nói riêng đã trở thành trụ cột
chống đỡ cho nền kinh tế trong nước. Thành tựu ấy có thể khái quát trên một số mặt chính
như sau:
- Lao động ở nước ngoài của Philipin đã giải quyết được phần lớn lao động dư
thừa trong nước, góp phần quan trọng thực hiện chiến lược giải quyết việc làm của chính
phủ Philipin.
Vào những năm 80, thế giới đã ghi nhận một sự gia tăng lao động mạnh mẽ trên
thị trường lao động quốc tế từ phía Philipin. Năm 1984, Nhà nước Philipin đã chính thức
chuẩn y chương trình xuất khẩu lao động. Sau một số năm hoạt động có tính thử nghiệm,
Philipin đã vươn lên trở thành nước XKLĐ lớn nhất trong khu vực và trên thế giới. Mỗi
năm trong thập kỷ này, Philipin đã đưa đi XKLĐ hơn 40 vạn lao động.
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu lao động của Philipin
từ năm 1986 đến năm 1989
Năm 1986 1987 1988 1989
Số lao động được đưa đi (người) 378.214 449.271 417.030 500.000
Số ngoại tệ lao động gửi về (triệu
USD)
640 791,9 856,8 1.000
[35, tr.19]
Bước sang thập kỷ 90, Philipin đã có bước chuyển mạnh mẽ trong công tác XKLĐ.
Theo POEA (Cục lao động nước ngoài Philipin) trong những năm gần đây mỗi năm Philipin
đưa đi XKLĐ khoảng 700.000 người bao gồm cả lao động trên đất liền và trên biển. Hiện
nay, Philipin có gần 7 triệu lao động làm việc ở 181 nước và các điểm trên thế giới, chiếm
10% số dân cả nước và 20% dân số trong độ tuổi lao động. Trong số đó có 4,2 triệu người
lao động hợp đồng có thời hạn từ 6 tháng đến 2 năm.
Bảng 5: Xuất khẩu lao động của Philipin 1990 - 1998
(Đơn vị tính: người)
Năm 1990 1991 1998
Số lao động được đưa đi 446.095 615.019 756.000
[8, tr.3]
Cũng theo đánh giá của POEA năm 1995, tỷ lệ thiếu việc làm ở Philipin khoảng
69%, đến năm 1998 tỷ lệ này là 75%. Tình hình đó đã làm cho Philipin có tỷ lệ thất nghiệp
tăng từ 3% ở những năm trước lên 5%. Nền kinh tế của Philipin đang phải đối đầu với 4,2
triệu người cần việc làm. Đây là nguyên nhân thôi thúc chính phủ và người lao động đi tìm
việc ở thị trường lao động quốc tế. Thực tế công tác XKLĐ của Philipin đã góp phần đắc
lực thực hiện chính sách giải quyết việc làm của chính phủ.
- Việc làm ngoài nước cứu vãn nền tài chính Philipin
Chỉ tính riêng năm 1997 lao động ở nước ngoài của Philipin đã chuyển về nước 5
tỷ USD. Nếu tính cả lượng tiền được gửi về qua các kênh không chính thức, không qua hệ
thống ngân hàng thì con số này sẽ lên tới 10 tỷ USD. Lao động ở nước ngoài của Philipin
đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Thu nhập từ lĩnh vực này đứng thứ 3 trong nền
kinh tế quốc dân - chỉ sau sản phẩm của cây dừa và ngành điện tử. Con số này chiếm 18%
sản phẩm quốc nội và gần bằng toàn bộ sự đóng góp của khu vực nông nghiệp...
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu to lớn thì chiến lược XKLĐ của Philipin
cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế - xã hội. Sau 20 năm lao vào
chương trình XKLĐ, Philipin đã phải đầu tư vào đây một khoản ngân sách khá lớn. Mặt
khác, do XKLĐ ồ ạt, không quản lý và kiểm soát hết nên điều kiện việc làm không đảm
bảo, người lao động bị lạm dụng và bóc lột, an toàn lao động không tốt, an ninh cho người
lao động bị đe dọa đã làm cho cuộc sống của một bộ phận lớn lao động ở nước ngoài của
Philipin cực kỳ khó khăn, gian khổ. Sức ép về tâm lý, giá trị con người đang biến đổi, sự li
tán kéo dài đã làm cho nhiều gia đình ở Philipin tan vỡ. Tội phạm trong thanh thiếu niên
tăng nhanh. Chính phủ không kiểm soát hết tình hình mà "chỉ còn cách là cung cấp dịch vụ
và bảo đảm làm nhẹ chi phí xã hội của di cư và làm thuận lợi cho việc tái hòa nhập của lao
động di cư trở về" [20, tr. 24].
Sự ra đi ồ ạt và đột ngột của một lực lượng lớn lao động Philipin cho thấy tình
hình kinh tế của đất nước không bền vững. Đặc biệt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính châu á và tốc độ phát triển chậm lại của nền kinh tế toàn cầu đã làm cho người lao
động của Philipin ở nước ngoài thất nghiệp tăng đáng kể. Lực lượng này trở về đã và đang
gây nên những trở ngại không nhỏ cho nền kinh tế vốn đã không mấy bền vững của
Philipin.
1.3.2. Thái Lan
Với hơn 60 triệu dân, Vương quốc Thái Lan có hơn 300 doanh nghiệp được phép
XKLĐ.
Trong thập niên 70, Thái Lan bắt đầu thực hiện chính sách XKLĐ sang các nước,
đầu tiên là sang Anh và lao động Thái Lan làm việc tại các ngành dịch vụ. Khi thế giới
bùng nổ sự thiếu hụt về dầu mỏ thì khu vực Trung đông - nơi sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế
giới đã đầu tư khai thác và thu hút nhiều lao động từ khắp các châu lục. XKLĐ của Thái
Lan cũng tập trung phần lớn lực lượng của mình vào thị trường này.
Bảng 6: Tình hình XKLĐ của Thái Lan qua một số năm trước đây
Năm 1976 1978 1980 1982 1984 1986
Số lao động được đưa
đi
15.000 10.000 30.000 112.000 78.000 85.000
[35, tr.19]
Bước vào thập kỷ 90, là một nước có nền kinh tế mạnh trong ASEAN, Thái Lan đã
phát triển nhiều ngành công nghiệp và các ngành dịch vụ kỹ thuật cao cần sử dụng nhiều lao
động lành nghề nhưng Thái Lan không đào tạo kịp. Các ngành lao động cần sử dụng lao động
giản đơn vẫn gia tăng và thu hút nhiều lao động. Thái Lan đã phải nhập khẩu lao động có
trình độ và thực hiện việc di chuyển nhà máy tới biên giới để thu hút lực lượng lao động
giản đơn từ các nước láng giềng như Miama, Lào, Campuchia... Tuy nhiên, trong điều kiện
thiếu lao động đó Chính phủ Thái Lan vẫn khuyến khích và duy trì chính sách XKLĐ bởi
chính sách này đã đem lại cho cả Nhà nước và người lao động Thái Lan nhiều lợi ích kinh
tế.
Năm 1995, Thái Lan có khoảng 450.000 người lao động đang làm việc ở nước
ngoài. Từ đó đến năm 1997 lực lượng lao động xuất khẩu của Thái Lan có xu hướng giảm
do tình hình kinh tế thế giới, tuy nhiên thu nhập của người lao động từ nước ngoài gửi về
Thái Lan không ngừng gia tăng.
Bảng 7: Tình hình XKLĐ của Thái Lan qua một số năm của thập kỷ 90
Năm 1995 1996 1997
Số lao động được đưa
đi
202.00 185.000 152.000
[9, tr.39]
Năm 1998, số lao động xuất khẩu đã tăng nhanh do tình hình khủng hoảng kinh tế.
Chỉ riêng thị trường Mỹ, Nhật, Ixraen - Thái Lan đã xuất khẩu sang 200.000 lao động.
Bảng 8: Thu nhập do lao động của Thái Lan ở ngoài nước gửi về
Năm 1994 1995 1996
Tiền gửi về (tỷ USD) 1,00 1,15 1,30
[9, tr.39]
Với nhận thức XKLĐ sẽ góp phần làm giảm tình hình thất nghiệp trong nước, tháo
gỡ những khó khăn của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ Thái Lan đã có chính sách khuyết
khích XKLĐ:
- Bộ lao động xã hội Thái Lan đã thành lập các trung tâm tư vấn về pháp lý và thu
xếp việc vay nợ cho những người Thái Lan đi lao động ở nước ngoài.
- Nhà nước đào tạo nghề và ngoại ngữ cho người lao động trước khi đi làm việc ở
các nước.
- Việc tuyển người được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Bộ lao động xã hội. Mặc
dù có tới hơn 300 doanh nghiệp tham gia XKLĐ song Bộ lao động luôn giữ quyền can
thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp để giúp các tổ chức này luôn đi đúng hướng.
1.3.3. Bănglađét
ở Bănglađét, XKLĐ được xác định là một chiến lược và là một lĩnh vực kinh tế
mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Với dân số 136,8 triệu, Chính phủ Bănglađét đã cho
phép khoảng 250 doanh nghiệp được phép tham gia XKLĐ.
Theo tin từ "Thị trường lao động ngoài nước", số lượng XKLĐ của Bănglađét
trong những năm gần đây đã đạt kỷ lục trên 1 triệu lao động/năm. Mỗi năm Bănglađét thu
được khoảng 1,34 tỷ USD.
Thị trường lao động mà Bănglađét xuất khẩu sang chủ yếu là các nước Malaixia,
arậpxêut và Hàn Quốc. Hiện nay, chỉ riêng ở arậpxêut đã có khoảng 1 triệu lao động và
công nhân của Bănglađét đang làm việc trong nhiều ngành và trên nhiều cương vị khác
nhau. Phần lớn tiền từ nước ngoài gửi về Banglađet là tiền của công nhân nước này làm
việc ở arậpxêut.
1.3.4. Một số vấn đề rút ra qua công tác xuất khẩu lao động của các nước
Philippin, Thái Lan và Banglađet
Nghiên cứu chính sách XKLĐ của một số nước trong khu vực có điều kiện hoàn
cảnh tương đối giống và gần gũi với hoàn cảnh Việt Nam, có thể rút ra một số điểm chính
sau:
- Các nước này đều coi XKLĐ là một chiến lược kinh tế - xã hội, và khai thác có
hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào của mình bằng XKLĐ.
- XKLĐ đã đem lại những thành quả đáng kể cả về kinh tế và xã hội.
+ Về kinh tế: Thu nhập từ XKLĐ của các nước này đều đạt trên 1 tỷ USD/năm,
trong những năm cuối của thế kỷ. Đây là khoản tiền mà chỉ có một số ít ngành của họ đạt
được.
+ Về xã hội: Bằng chiến lược XKLĐ các nước này đã giải quyết được một số
lượng lớn việc làm, đồng thời tạo ra một số ngành dịch vụ mới phục vụ công tác XKLĐ.
Để khuyến khích và thúc đẩy XKLĐ, chính phủ các nước ấy đã đề ra những chính
sách đúng đắn: Đầu tư thích đáng; Cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia khai thác thị
trường và XKLĐ; Có chính sách tài chính phù hợp tạo điều kiện cho người lao động vay
vốn tham gia XKLĐ.
Bảng 9: Số lượng doanh nghiệp tham gia XKLĐ ở một số nước
Nước Dân số (triệu) Số DN được cấp phép
XKLĐ
Thái Lan 61,4 300
Philipin 72,9 980
Inđonexia 210,4 70
Bănglađet 136,8 250
Srilanca 18,9 155
ấn Độ 978 120
Pakistan 145,6 285
[30, tr.10]
- Hoạt động XKLĐ được đặt dưới sự quản lý về mặt nhà nước của Bộ lao động.
Bộ lao động có quyền chi phối, điều chỉnh để các doanh nghiệp hoạt động đúng hướng, có
hiệu quả.
- Có các tổ chức đại diện của chính phủ ở những nước có lao động của nước mình
làm việc để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và can thiệp kịp thời khi có mâu thuẫn
xảy ra.
Tuy nhiên việc xuất khẩu lao động ồ ạt không kiểm soát chu đáo cũng phát sinh
nhiều tiêu cực và đem lại những hậu quả xấu. XKLĐ cũng phụ thuộc vào tình hình kinh tế
nước ngoài. Nếu đặt nhiều kỳ vọng vào XKLĐ thì khi nền kinh tế có biến động, việc nhập
lao động của các nước bị chững lại hoặc có sự sa thải hàng loạt lao động nước ngoài sẽ là
một hiểm họa. Do vậy việc nắm chắc thị trường lao động đề ra các giải pháp phù hợp cho
từng giai đoạn khác nhau trong quá trình XKLĐ sẽ là những yếu tố quan trọng trong việc
thực hiện tốt công tácXKLĐ trong hiện tại và tương lai.
Kết luận chương 1
Nước ta có gần 40 triệu lao động, đó là một tiềm năng to lớn. Tuy nhiên nguồn lao
động phân bố không đều và tập trung ở nông thôn là chủ yếu, trong khi diện tích đất nông
nghiệp ngày một giảm... Đất chật người đông, ngành nghề kém phát triển đã làm nảy sinh
mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu lao động, đồng thời việc áp dụng những thành tựu
khoa học công nghệ và tổ chức sắp xếp lại sản xuất càng làm cho lực lượng lao động dôi ra
đáng kể. Thất nghiệp, thiếu việc làm đã và đang gây áp lực mạnh mẽ cho chương trình
quốc gia về việc làm và thực hiện các chính sách kinh tế xã hội khác. Thực tiễn nước ta
những năm qua cũng như kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cho
thấy đẩy mạnh xuất khẩu lao động là một chính sách kinh tế đối ngoại hoàn toàn đúng đắn
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình toàn cầu hóa và sự phân công
lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Xuất khẩu lao động là một trong những giải
pháp hữu hiệu góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải
thiện đời sống của nhân dân. Hoạt động này cũng góp phần quan trọng vào quá trình đào
tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước, và tăng cường tính đoàn kết
hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau giữa nước ta với các nước khác. Chính vì vậy việc nghiên cứu,
đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động trong những năm tới là việc làm cấp thiết góp phần
quan trọng thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế..
Chương 2
Tình hình xuất khẩu lao động
của nước ta những thập kỷ qua
2.1. Tình hình xuất khẩu lao động của nước ta thời kỳ 1980 - 1990
Sau năm 1975, nước ta hoàn toàn độc lập bước sang một kỷ nguyên mới - Kỷ
nguyên khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc thành quả
cách mạng.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực kinh tế, xã hội nhưng
chúng ta cũng vấp phải không ít khó khăn mà một trong những khó khăn gay gắt nhất là sự
mất cân đối về cung cầu lao động, lực lượng lao động dư thừa lớn, số người chưa đủ việc làm
hoặc chưa có việc làm rất đông. Để giải quyết vấn đề trên "đưa công nhân và cán bộ đi bồi
dưỡng nâng cao trình độ và làm việc ở các nước XHCN" lúc này được coi là một trong những
giải pháp quan trọng và có tính thời sự. Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 46CP ngày
01/02/1980 chỉ rõ: "Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta, đòi hỏi phải nhanh
chóng xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ, quản lý giỏi
phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Để thực hiện
nhiệm vụ quan trọng này đi đôi với việc tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng trong
nước, Hội đồng Chính phủ chủ trương đưa một bộ phận công nhân và cán bộ đang công tác ở
các xí nghiệp, cơ quan nhà nước sang các nước XHCN nhằm mục đích bồi dưỡng, nâng cao
tay nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý đồng thời làm việc có thời hạn trong
các cơ sở kinh tế của các nước đó nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đào tạo lao động của nước ta,
vừa giúp các nước anh em khắc phục một phần khó khăn về lao động, trên tinh thần hợp
tác XHCN giữa các thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế".
Việc mở rộng hợp tác sử dụng lao động với Liên Xô và các nước anh em khác dựa
trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi, với nhiều hình thức và nhằm mục đích sau:
"...1. Giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận thanh niên nước ta.
2. Thông qua hợp tác sử dụng lao động, nhờ các nước anh em đào tạo giúp ta một
đội ngũ lao động có tay nghề vững, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nước ta sau
này" [19, tr.8].
Thực hiện quyết định 46-CT ngày 01/02/1980 nước ta đã tiến hành đàm phán ký kết
hiệp định về hợp tác lao động với các nước: Cộng hòa dân chủ Đức (ngày 14/4/1980), Bungari
(ngày 3/10/1980), Tiệp Khắc (ngày 7/11/1980) và Liên Xô (ngày 2/4/1981). Sau các hiệp định
này, hàng năm nước ta đều có nghị định thư bổ sung để giải quyết có hiệu quả các hiệp định
đã ký kết.
2.1.1. Những thành tựu của công tác XKLĐ thời kỳ 1980-1990
Sau 10 năm thực hiện quyết định 46-CP ngày 01/02/1980, hợp tác quốc tế về lao
động của ta đã thu được những kết quả đáng kể, thể hiện trên những điểm sau:
a) Số lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài thời kỳ 1980 - 1990
Bảng 10: Số lao động và chuyên gia đi làm việc
ở nước ngoài thời kỳ 1980-1990
Lao động phân chia theo khu vực và ngành nghề Số lượng (người)
Tổng số 288.106
Bao gồm: - Chuyên gia 7.200
- Lao động 280.906
Chia theo khu vực: - Đi các nước XHCN 261.605
- Đi các nước ngoài XHCN 19.301
Chia theo ngành nghề: - Cơ khí 71.077
- Công nghiệp nhẹ 117.432
- Hóa chất 8.329
- Công nghiệp thực phẩm 3.542
- Xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng 64.247
- Nông, lâm nghiệp 6.160
- Các ngành khác 10.119
[6, tr.6]
Thời kỳ này, nước ta chủ yếu đưa người đi hợp tác lao động ở 4 nước đã kể trên.
Bảng 11: Số người đi hợp tác lao động tại Liên Xô, Bungari,
CHDC Đức, Tiệp Khắc từ 1980 đến 1989
(chưa kể số học nghề chuyển sang hợp tác lao động)
Nước Tổng số Nữ
Liên Xô 103.610 52.916
Tiệp Khắc 37.028 9.472
Bungari 27.239 3.595
CHDC Đức 69.016 25.613
[6, tr. 7-13].
Giai đoạn 1980 - 1984 số lượng còn ít: khoảng hơn 6 vạn, nhưng đến giai doạn
1985 - 1990: Số lượng lên tới 20 vạn, trong đó 4 nước XHCN cũ là hơn 18 vạn. ở các nước
khác khoảng 2 vạn, chủ yếu là ở I-Rắc và Angiêri, còn lại là ở Angola, Cônggô, Li-bi,
Madagascar, Campuchia và Lào.
Trong tổng số trên lao động nữ chiếm 33%, tuổi từ 18-40.
b) Số ngoại tệ và hàng hóa mà người lao động và Nhà nước thu được
Theo đánh giá của Bộ Lao động thương binh và xã hội, sau 10 năm XKLĐ, Nhà
nước và người lao động đã có một nguồn thu không nhỏ. Về phía Nhà nước đã thu được
khoảng 800 tỷ đồng (theo tỷ giá năm 1990)
và trên 330 triệu USD đưa vào ngân sách để cân đổi thanh toán chung. Khoảng 30 vạn
người lao động ở nước ngoài đã gửi về nước một lượng
hàng hóa và tiền tiết kiệm trị giá hàng ngàn tỷ đồng. Khoản thu nhập này đã góp phần tích
cực vào việc cải thiện đời sống và tạo nguồn vốn để phát triển sản xuất.
Bảng 12: Thu nhập do lao động nước ngoài gửi về so với thu nhập quốc dân
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm TNQD TN do LĐ gửi về % so với TNQD
80 2.577 %
81 6.040 0,955 0,01
82 13.379 8,5 0,06
83 18.053 25,1 0,13
84 28.304 32,1 0,11
85 75.538 76,9 0,10
86 394.883 433,5 0,10
87 1.899.260 1.426,18 0,07
88 9.751.321 23.027,9 0,23
89 17.413.921 108.432 0,62
[32, tr. 2]
c) Cơ cấu ngành nghề trước và sau khi đi XKLĐ
Theo đánh giá chung, số lao động đi hợp tác có 42% là lao động có nghề và tập
trung chủ yếu vào các ngành: Công nghiệp nhẹ 45%; xây dựng 26%; cơ khí 20%. Lực
lượng lao động phổ thông tập trung phần lớn ở Liên Xô và CHDC Đức (chiếm 60%)
Bảng 13: Cơ cấu ngành nghề lao động Việt Nam
ở các nước XHCN từ 1980 - 1989
(Không kể số học nghề chuyển sang hợp tác lao động)
Đơn vị tính: Người
Nước Tổng số lao
động
Số lao động có
nghề
Số lao động không
nghề
CHDC Đức 69.016 26,795 42.221
Bungari 27.239 24.590 2.649
Tiệp Khắc 37.028 28.157 8.871
Liên Xô 103.610 20.311 83.299
Tổng số 236.893 99.853 137.040
[6, tr. 7-13].
Sau khi hết thời hạn làm việc theo hợp đồng, đội ngũ lao động Việt Nam đều có
nghề nghiệp, rèn luyện được tác phong sản xuất công nghiệp, trình độ tay nghề được nâng
cao. Đặc biệt, sau khi trở về họ có vốn đầu tư cho sản xuất, nhiều người đã thành lập các
doanh nghiệp. Theo điều tra của Bộ Lao động thương binh và xã hội số người lao động ở
Tiệp Khắc khi về đã có 482/5000 đối tượng điều tra, chiếm 9,6%, trở thành chủ doanh
nghiệp.
Những thành tựu mà chúng ta đạt được trong quá trình hợp tác quốc tế về lao động
là to lớn. Trong thời kỳ này, bình quân mỗi năm nước ta đưa đi lao động khoảng 30.000
người - bằng 3% số lao động gia tăng hàng năm. Nếu lấy thời giá năm 1990, để tạo ra một
chỗ làm trung bình phải đầu tư 5 triệu đồng thì chỉ trên lĩnh vực tạo việc làm, nhờ XKLĐ
ta đã tiết kiệm được hàng ngàn tỷ để đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
khác. Đối với người lao động và gia đình họ, đi XKLĐ là điều kiện tốt cho việc nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống. Người lao động ở nước ngoài còn góp phần tăng cường tình
đoàn kết hữu nghị giữa nước ta với các nước anh em, làm cho các dân tộc vốn đã hiểu Việt
Nam trong chiến tranh càng biết thêm về con người và dân tộc Việt Nam trong hòa bình
xây dựng kinh tế, góp phần quan trọng mở rộng quan hệ đối ngoại của nước ta trong suốt
thập kỷ 1980 - 1990.
2.1.2. Những hạn chế thiếu sót của công tác XKLĐ thời kỳ 1980 - 1990 và
nguyên nhân của nó
Đi cùng với những thành tựu đã đạt được, XKLĐ trong thập niên này còn bộc lộ
nhiều hạn chế - thiếu sót. Những hạn chế thiếu sót chủ yếu là:
a) Chưa coi trọng hiệu quả kinh tế của Hợp tác lao động quốc tế Chúng ta còn
nặng về hợp tác hữu nghị, tương trợ lẫn nhau với các nước XHCN (cho rằng ta giúp bạn
giải quyết vấn đề thiếu lao động, bạn giúp ta về đào tạo tay nghề, kỹ thuật...).
Chính vì vậy mục tiêu đặt ra chưa thật xác đáng, việc ký kết các điều khoản trong
hiệp định còn nhiều sơ hở; lợi ích của Nhà nước và người lao động chưa tương xứng với lực
lượng lao động xuất khẩu của ta; hiệu quả kinh tế còn thấp; số hàng hóa và ngoại tệ thu được
ít; trong khi lao động của ta gửi đi đông, thời hạn làm việc kéo dài... Khoảng 30 vạn người lao
động trong 10 năm tiết kiệm được khoảng 720 tỷ đồng và 7 triệu USD, Nhà nước thu được
482 triệu rúp phi mậu dịch và 330 triệu USD (tính cả 300 triệu USD mà CHLB Đức trả cho
người lao động về trước thời hạn khi thống nhất nước Đức).
b) Việc quản lý đội ngũ lao động còn lỏng lẻo, đội ngũ lao động chưa được
chuẩn bị tốt, nhiều người vi phạm kỷ luật:
Công tác quản lý giữ vai trò hết sức quan trọng đối với kết quả của hoạt động xuất
khẩu lao động. ở giai đoạn đầu (1980 - 1984). Công tác quản lý hoạt động này của ta tương
đối tốt, nhưng sang giai đoạn 1985 - 1990 do có sự biến động lớn về tình hình kinh tế,
chính trị xã hội ở các nước XHCN Đông Âu và số lượng lao động ở những nước này của ta
quá lớn nên công tác quản lý chưa kiểm soát hết. Nhiều người lao động Việt Nam bỏ việc,
đi buôn bán, tham gia vào các băng đảng thực hiện các hành vi phạm pháp... Các cơ quan
quản lý chưa tìm ra được những giải pháp thiết thực để giải quyết sống "trôi nổi" không có
tổ chức làm ảnh hưởng lớn tới đời sống của người lao động và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Công tác tuyển chọn lao động còn nặng về chính sách và phân bổ chỉ tiêu, không
đảm bảo chất lượng. Đối tượng đưa đi XKLĐ được ưu tiên nhiều cho con thương binh liệt
sĩ, những gia đình có công với cách mạng, bộ đội xuất ngũ, phục viên... mà ít chú ý đến
những tiêu chuẩn khác về người lao động như: trình độ học vấn, nghề nghiệp, sức khỏe...
Do vậy sau năm 1984 lao động của ta đưa đi một cách ồ ạt, không có sự tuyển lựa kỹ càng,
chất lượng kém. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu cả về
năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ.
"XKLĐ" thời kỳ này được thực hiện trong cơ chế tập trung quan liêu nên chưa có
sự phân định chức năng quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh của hoạt động cung
ứng lao động do vậy hoạt động XKLĐ thiếu tính linh hoạt kém hiệu quả...
Những hạn chế - thiếu sót trên một mặt do nguyên nhân khách quan là bối cảnh
lịch sử lúc đó chi phối. Sau khi thống nhất, Việt Nam trở thành một nước XHCN. Thế giới
có sự phân chia, các nước có cùng một chế độ chính trị liên kết với nhau, tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau... Nước ta là một thành viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), do vậy
việc giúp đỡ nhau trên tinh thần hữu nghị hợp tác giữa các nước anh em là quan điểm
xuyên suốt trong đường lối đối ngoại của nước ta cũng như các nước thành viên, hơn nữa
sự giúp đỡ của các nước XHCN với nước ta là to lớn, do vậy nó cũng là nhân tố tác động
đến tư duy kinh tế của ta.
Ngoài ra, việc không chấp nhận một nền kinh tế hàng hóa trong thời kỳ quá độ và
đặc biệt là sự không thừa nhận sức lao động là hàng hóa đã ảnh hưởng lớn tới chủ trương
chính sách và nội dung ký kết các hiệp định về hợp tác lao động. Đây là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến hiệu quả kinh tế của chương trình Hợp tác lao động không cao.
Mặt khác là do nguyên nhân chủ quan, vì hợp tác quốc tế về lao động là một công
việc mới mẻ đối với nước ta, chúng ta còn thiếu kinh nghiệm về tổ chức quản lý, bộ máy
tổ chức quản lý chưa chặt chẽ, chưa phát huy được tính năng động của các tổ chức trong
việc tìm kiếm việc làm và ký kết hợp đồng. Sự phân bố chỉ tiêu của ủy ban kế hoạch Nhà
nước cho các bộ, ngành, các cơ quan Trung ương và địa phương có tính chủ quan, do vậy
quá trình hoạt động không thể tránh khỏi những hạn chế thiếu sót.
2.2. Tình hình XKLĐ của nước ta từ 1991 đến nay
Bước sang thập kỷ 90 tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trên thế giới có nhiều
biến động phức tạp. Hệ thống XHCN ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, thị trường truyền thống,
trong đó có thị trường lao động, của ta hoặc không còn hoặc bị thu hẹp. Lực lượng lao
động Việt Nam ở các nước này phải trở về đông, khiến cho vấn đề giải quyết việc làm
càng trở nên phức tạp. Bên cạnh đó chiến tranh vùng Vịnh xảy ra đã làm giảm số người lao
động của nước ta đến làm việc ở các nước trong vùng này (năm 1991: 1020 người; năm
1992: 810 người). Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có chỉ thị 73CT ngày 13/03/1990 về
việc tạm ngừng đưa người lao động đi để củng cố, chấn chỉnh hoạt động XKLĐ.
Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 370/HĐBT ngày 9/11/1991
về quy chế đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và Bộ Lao động thương binh
và xã hội đã ra thông tư hướng dẫn số 08/LĐTB-XH-TT. Theo cơ chế mới này các tổ chức
dịch vụ Hợp tác lao động được thành lập. Tuy nhiên do còn nhiều bỡ ngỡ nên số lượng lao
động xuất khẩu thời kỳ đầu của ta rất thấp (tính đến năm 1995 số lượng lao động xuất khẩu
của ta mới đạt 23.230 người). Để thúc đẩy phát triển xuất khẩu lao động, ngày 20/01/1995
Chính phủ ra nghị định số 07-CP quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động về đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Trong nghị định nêu rõ:
"Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải
quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất
nước và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa - khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam
với nước ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng pháp luật và phong tục
tập quán của nhau". Những chủ trương này được tiếp tục hoàn thiện trong chỉ thị 41-
CT/TW ngày 22/09/1998 của Bộ chính trị và Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày
20/09/1999 của Chính phủ.
Bằng các chỉ thị và nghị định này, cơ chế XKLĐ của nước ta đã được đổi mới một
cách cơ bản. Chính phủ chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp đủ
điều kiện quy định hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ được phép trực tiếp ký kết các hợp
đồng cung ứng lao động. Các doanh nghiệp cũng được phép tuyển chọn, tổ chức XKLĐ và
bảo đảm quyền lợi cho người lao động và cho doanh nghiệp theo quy định của Pháp luật
Việt Nam.
Đến nay, theo tổng kết của bộ Lao động thương binh và xã hội, cả nước đã có 127
doanh nghiệp được phép XKLĐ. Bước đầu chưa quen, hoạt động của các doanh nghiệp
còn nhiều thiếu sót, hạn chế, nhưng thông qua quá trình vừa hoạt động, vừa tìm hiểu
nghiên cứu thị trường, học tập kinh nghiệm các nước và học tập lẫn nhau, các doanh
nghiệp đã từng bước tiếp cận những thị trường mới và mở ra khả năng to lớn cho việc đưa
người lao động đi làm việc ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau trên toàn thế giới.
2.2.1. Những thành tựu của công tác XKLĐ từ 1991 đến nay
a) Về số lượng lao động
Từ năm 1991 đến hết năm 1999 ta đã có 89.140 lao động và chuyên gia đi làm
việc tại hơn 30 nước và vùng lãnh thổ.
Theo số liệu của Cục quản lý lao động với nước ngoài và theo Tạp chí việc làm
ngoài nước số 6/1999 số lượng của ta đi xuất khẩu hàng năm như sau:
Bảng 14: Số lượng lao động xuất khẩu từ năm 1991 - 1999
Năm
Số lao động xuất khẩu (người)
Tổng số lao động Lao động nữ
1991 1.020
1992 810 100 (chiếm 12,34%)
1993 3.960 358 (chiếm 9,04%)
1994 9.230 986 (chiếm 10,68%)
1995 10.050 1.723 (chiếm 17,14%)
1996 12.660 2.065 (chiếm 16,31%)
1997 18.470 1.974 (chiếm 10,69%)
1998 12.240
1999 20.700
[6, tr. 13]
Trong những năm qua, năm 1997 và năm 1999 là 2 năm ta có số lượng lao động đi
làm việc ở nước ngoài đông nhất. Năm 1998: 12.240 người bằng 69% năm 1997 và bằng
59% năm 1999. Tuy nhiên, trong điều kiện cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra ở
châu á, các nước vốn nhận nhiều lao động, trong đó có Hàn Quốc, đã hạn chế hoặc cấm
nhập khẩu lao động để giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế - thì số lượng XKLĐ của ta như
vậy là một sự nỗ lực lớn.
b) Về ngành nghề lao động: Từ năm 1991 đến nay, ngành nghề của người lao
động của ta đi làm việc ở nước ngoài đã phong phú đa dạng hơn. Nhiều nghề đòi hỏi trình
độ chuyên môn cao và có mức thu nhập cao đã được ta tiếp cận, như thuyền viên tàu cá và
tàu vận tải. Từ tháng 11/1999 chúng ta đã đưa người sang làm giúp việc gia đình tại Đài
Loan. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, hiện đang còn có những ý kiến khác nhau trên cả các
phương tiện thông tin và dư luận xã hội, nhưng đã mở ra một thị trường mới cho công tác
XKLĐ của ta. Tuy nhiên việc thực hiện đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan chức năng phải
có sự chỉ đạo cụ thể sát sao, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để vừa có thể tăng số lượng lao
động xuất khẩu trên lĩnh vực này đồng thời bảo vệ được quyền lợi của người phụ nữ Việt
Nam.
Bảng 15: Số lượng lao động chia theo ngành nghề tiếp nhận
làm việc ở các nước
Ngành nghề Số lượng (người)
Xây dựng 23.000
Cơ khí 8.000
Mộc 1.500
Dệt may 11.000
Thuyền viên vận tải 5.500
Thuyền viên tàu cá 9.000
Chuyên gia giáo dục, y tế Nhà nước 1.500
Các ngành nghề lao động phổ thông 29.640
[6, tr.13]
c) Thị trường XKLĐ: Trước đây thị trường lao động của ta chỉ bó hẹp trong 4
nước XHCN và một vài nước ở châu Phi, Irắc. Bước sang giai đoạn 1991 - 2000, thị
trường lao động của ta đã được mở rộng đáng kể. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương
binh - xã hội đầu tháng 6/2000, lao động Việt Nam đang làm việc ở 33 nước trên thế giới.
Thị trường lao động của ta lúc này tập trung chủ yếu ở các nước mà giai đoạn trước đây họ
chưa từng nhận lao động Việt Nam.
- Khu vực Đông Bắc á: được tập trung chủ yếu ở 3 nước: Hàn Quốc, Nhật Bản và
Đài Loan.
- Khu vực Đông Nam á: tập trung chủ yếu ở Lào.
- ở Trung Đông và Bắc Phi: lao động của ta tập trung ở Kuwait, các Tiểu vương
quốc ả Rập thống nhất và ở Libya.
- Châu Phi: Lao động Việt Nam ở đó chủ yếu là các chuyên gia giáo dục, y tế,
nông nghiệp được tập trung ở Mozambique, Benanh và Senegal.
Thuyền viên Việt Nam làm việc ở nhiều hãng tàu thuộc nhiều quốc tịch khác nhau.
ở một số thị trường khác, lao động Việt Nam đã thâm nhập vào nhưng với số
lượng nhỏ, như một số khu vực thuộc Hoa Kỳ: Saipan Samoa và Cộng hòa Palau. Đây là
thị trường đang hứa hẹn nhiều triển vọng cho lao động Việt Nam với số lượng ngày một
lớn hơn.
Một số thị trường chính đang nhận lao động Việt Nam
- Nhật Bản: Nước được coi là có chính sách đóng cửa đối với lao động nước
ngoài. Tuy nhiên đến năm 1990, Nhật Bản đã cho phép tiếp nhận lao động từ các nước
đang phát triển. Việt Nam bắt đầu đưa người sang tu nghiệp tại Nhật Bản vào năm 1992.
Từ đó đến nay, số lượng tu nghiệp sinh tại Nhật có quy mô ngày một lớn.
Bảng 16: Quy mô lao động Việt Nam ở Nhật
(Riêng năm 1999, chỉ tính số lao động đi theo giấy phép
của Cục quản lý lao động Nhà nước)
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Lao 17 292 266 1.007 1.313 2.009 2.136 2.004
động
[29, tr.6]
- Hàn Quốc: Giống như Nhật, Hàn Quốc chỉ nhận lao động nước ngoài là tu
nghiệp sinh từ năm 1992. Trong giai đoạn đầu, Hàn Quốc quy định mức lương cho tu
nghiệp sinh nước ngoài theo quốc tịch. Về sau, do có nhiều vấn đề phát sinh nên Hàn Quốc
quy định cho tu nghiệp sinh hưởng mức lương tối thiểu.
Bảng 17: Quy mô lao động Việt Nam ở Hàn Quốc
(Tính cả thuyền viên tàu đánh cá)
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Lao
động
56 1.352 4.378 5.674 6.275 4.880 1.322 4.600
[29, tr. 7]
- Đài Loan: Đây là thị trường có nhu cầu lao động nước ngoài cao (300.000). Từ
đầu những năm 90, Đài Loan nhận lao động từ Thái Lan, Philipin, Malaysia, Indonexia.
Cuối năm 1999, Đài Loan bắt đầu nhận lao động Việt Nam.
Hiện nay lao động Thái Lan và Philipin chiếm phần lớn trong thị trường này.
(Thái Lan có 133.000 lao động chiếm 49,28%; Philipin có 114.000 lao động chiếm
42,22%).
- CHDCND Lào: là một nước có dân số ít, lại ở bên cạnh Việt Nam và có tình hữu
nghị đặc biệt giữa hai dân tộc, Lào được xác định là một thị trường lao động trọng điểm
của Việt Nam. Vì Lào là một nước kinh tế chưa phát triển, việc cung ứng lao động cho
nước này chiếm tỷ trọng không lớn. Hình thức chủ yếu là đưa lao động Việt Nam sang
nhận thầu khoán công trình hoặc thực hiện liên doanh liên kết giữa Chính phủ 2 nước hoặc
các bộ ngành địa phương của hai bên. Thời kỳ 1991 - 1999, ta đưa sang Lào 28.000 lao
động.
- Các nước Trung đông: Do sự phát triển của các ngành công nghiệp dẫn đến nhu
cầu về dầu mỏ trên thế giới tăng cao. Là nơi tập trung phần lớn trữ lượng dầu mỏ của thế
giới, khu vực Trung Đông đã tiếp nhận nhiều lao động từ các nước phục vụ cho công
nghiệp dầu và các ngành kinh tế khác.
Trước đây ta đã đưa lao động sang Irắc, Libya,... Khi cuộc chiến tranh vùng Vịnh
nổ ra, hầu hết lao động của ta ở Irắc đã về nước. ở Lybya, ta đã đưa sang được 10.000 lao
động. Gần đây ta mở thêm một số thị trường lao động mới ở Kuwait, các Tiểu vương quốc
ả Rập thống nhất (UAE). Tuy nhiên do đặc điểm khí hậu - thời tiết, phong tục tập quán và
tôn giáo của các nước Trung Đông có sự khác biệt tương đối lớn so với nước ta, hơn nữa
nhu cầu chủ yếu của các nước này là lao động có nghề, mức lương lại thấp không bằng các
nước Đông Bắc á nên việc thâm nhập các thị trường ở khu vực Trung Đông rất khó khăn.
d) Hiệu quả kinh tế - xã hội của công tác XKLĐ thời kỳ 1991 - 1999
Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót, XKLĐ đã đóng góp một phần không
nhỏ vào những thành tựu chung của nền kinh tế, đặc biệt là trong việc thực hiện chương
trình quốc gia về việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống và tháo gỡ nhiều khó khăn
cho cả gia đình người lao động và cho nền kinh tế đất nước. Hiệu quả của công tác XKLĐ
trong những năm qua có thể xem xét trên hai phương diện sau:
Về kinh tế: Trong 9 năm 1991 - 1999 chúng ta đã đưa đi xuất khẩu 89.140 người lao
động và chuyên gia so với 10 năm 1980 - 1990 thì số lao động này chỉ bằng 30%. Tuy nhiên
hiệu quả kinh tế trong giai đoạn này lớn hơn: Chỉ riêng 4 năm 1991 - 1994 với số lượng 14
nghìn lao động được các tổ chức dịch vụ hợp tác lao động đưa đi đã thu về cho Nhà nước
khoảng 300 triệu USD. Hai năm 1996 - 1997, Việt Nam có khoảng 50.000 lao động làm việc ở
nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của ta đi theo các hình
thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao động vào khoảng 250.000 và thu
nhập hàng năm lên tới khoảng 1 tỷ USD [11, tr. 3]. Đây là doanh số mà chỉ một số ít ngành
sản xuất trong nước đạt được.
Mặt khác, nhờ XKLĐ thời gian qua đã giảm được đáng kể khoản đầu tư trong
nước cho việc đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc. Theo báo cáo của Bộ lao động thương
binh và xã hội, để có một chỗ làm việc cho người có tay nghề cao trong ngành công nghiệp
nặng Nhà nước phải tốn khoảng 100 triệu đồng, với người có tay nghề trung bình, con số
đó là 30 - 35 triệu còn trong tiểu thủ công nghiệp phải đầu tư từ 10 - 15 triệu đồng [4, tr.
21].
Ngoài ra với chương trình hợp tác lao động, chúng ta đã tranh thủ được nguồn tài
trợ của nhiều nước để tạo việc làm cho số người lao động của ta về nước sau khi hợp đồng
hết hạn góp phần ổn địnhh và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có mức thu nhập cao
hơn từ 4 - 6 lần thu nhập của người có việc làm trong nước [4, tr. 21]. Chẳng hạn lao động
giúp việc gia đình ở Đài Loan có mức thu nhập khoảng 300 USD/tháng [31, tr. 16] đã bằng
thu nhập bình quân đầu người của ta trong cả năm. Với các loại hình lao động có nghề như
cơ khí, mộc, may mặc đặc biệt là những lao động có trình độ cao như kỹ sư, chuyên gia,
thợ lành nghề... mức lương của họ cao hơn gấp nhiều lần. Ngoài ra với bản chất cần cù
chịu khó, người lao động Việt Nam ở nước ngoài luôn tìm được việc làm thêm ngoài giờ
nên còn được thêm tiền thưởng và các thu nhập khác. Do vậy XKLĐ là một cơ hội tốt để
người lao động tích lũy vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia
đình họ.
Mặc dù số lượng lao động xuất khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu và tiềm năng của
đất nước, nhưng có xu hướng tăng: Năm 1991 là 1020 người; năm 1992 là 810 người; năm
1993 là 3.960 người; năm 1994 là 9.230 người; năm 1995 là 10.050 người; năm 1996 là
12.660 người; năm 1997 là 18.420 người; năm 1998 là 12.240 và năm 1999 là 20.700
người.
"Đến hết năm 2000, chúng ta đang phấn đấu đưa đi khoảng 150.000 lao động và
sau năm 2000 con số này là 200.000 hoặc 250.000 hàng năm, để chúng ta có thường xuyên
khoảng 400.000 đến 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài" [4, tr. 4].
Như vậy, XKLĐ là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện chương
trình Quốc gia về việc làm trong những năm qua và trong thời gian tới.
Thông qua làm việc ở nước ngoài, người lao động thực sự đã nâng cao trình độ
chuyên môn, kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu và mang về nước tác phong sản xuất công
nghiệp tiên tiến, góp phần từng bước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và phát triển nguồn nhân lực của quốc gia trong tương lai.
2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót của công tác XKLĐ từ năm 1991 đến nay và
nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó
Khi nền kinh tế của ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường, các chính sách về XKLĐ cũng được ban hành phù hợp với cơ chế mới. Tuy nhiên
trong lĩnh vực này vẫn còn những nhược điểm sau:
a) Việc cụ thể hóa chủ trương XKLĐ ở các cấp ngành trong thời gian đầu còn
chậm chạp và thiếu đồng bộ, chưa mạnh dạn đột phá mở rộng thị trường XKLĐ do vậy số
lượng lao động xuất khẩu trong thời gian này còn ít. (năm 1991: 1020 người; năm 1992: 810
người; năm 1993: 3.960 người; năm 1994: 9.230 người).
Nước ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội vào các thị trường có nhu cầu sử dụng lực lượng lao
động nước ngoài lớn như thị trường Trung Đông, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông,...
b) Chưa có các văn bản pháp lệnh về công tác XKLĐ, việc quản lý người lao động
chưa chặt chẽ. Nhiều người lao động đã tự ý phá bỏ hợp đồng gây mất lòng tin cho phía
đối tác và làm tổn hại trên nhiều phương diện cho các công ty cung ứng lao động Việt
Nam.
Tại thị trường Hàn Quốc năm 1994 có 3 Công ty Việt Nam ký hợp đồng đưa lao
động của ta sang Hàn Quốc. Ba Công ty này đã đưa đi được 3.748 người, trong số này có
55,3% số người bỏ hợp đồng.
Năm 1996 có 8 Công ty cung ứng lao động Việt Nam đưa 4.595 người sang Hàn
Quốc. Mặc dù có sự cải tiến về cả tuyển chọn và giáo dục đào tạo nhưng con số phá bỏ
hợp đồng vẫn còn 7,26%.
Tại thời điểm tháng 6/1999, Việt Nam có khoảng 9.600 người lao động tại Hàn
Quốc, trong đó có tới 3.500 người vi phạm, tự phá bỏ hợp đồng và có 600 người đi du lịch
ở lại bất hợp pháp [4, tr.7].
Để đi sang Nhật, người lao động Việt Nam phải trải qua nhiều giai đoạn phức tạp
về thủ tục hành chính và cả yêu cầu đào tạo, nhưng mức thu nhập cao. Tuy nhiên, số lượng
người lao động bỏ hợp đồng đi tìm chỗ khác lương cao hơn chiếm tới 9,75%, một tỷ lệ cao
nhất so với lao động của các nước khác ở Nhật (tỷ lệ này của Trung Quốc là 1,04%; của
Thái Lan là 0,91%; của Philipin là 2,07%; của Inđonexia là 2,54%) [29, tr.7].
Công tác quản lý vi mô còn lỏng lẻo, việc phổ cập thông tin đến người lao động
còn ít. Do vậy, nhiều người lao động khi đi phải qua nhiều khâu trung gian, nộp nhiều tiền
có nơi đi Nhật phải nộp tới 5.000 USD, đi Hàn Quốc là 4.000 USD và đi Đài Loan gần
3.000 USD.
Do chủ trương cho phép các thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, nhiều công ty,
doanh nghiệp được cấp giấy phép làm dịch vụ XKLĐ. Điều này một mặt khuyến khích
khai thác tốt các thị trường XKLĐ, tăng số lượng XKLĐ trên mọi địa bàn, mặt khác đã tạo
ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Một số công ty do trình độ kém, không nắm chắc thị
trường và công ty môi giới của phía đối tác nên còn nhiều sơ hở trong làm hợp đồng cung
ứng lao động gây thiệt hại nghiêm trọng cho cả người lao động lẫn uy tín của các công ty
dịch vụ XKLĐ Việt Nam.
c) Thủ tục hành chính còn rườm rà nhất là thủ tục về nhân sự. Mặc dù đã có quy
định là thời gian làm thủ tục không quá 2 tuần nhưng ở hầu hết các công ty thời gian này
thường kéo dài cả tháng và lâu hơn nữa. Điều đó làm cho tâm lý của người đi bị căng
thẳng do chờ đợi, đồng thời đây cũng là nguyên nhân phát sinh các tiêu cực khác.
Công tác xét duyệt, tuyển chọn, đào tạo đội ngũ lao động phục vụ cho chương
trình XKLĐ trong thời gian qua còn nhiều nhược điểm. Hệ thống cơ sở đào tạo cho lao
động đi làm việc ở nước ngoài chưa được hình thành. Nội dung chương trình đào tạo cho
lao động chưa thống nhất. Đặc biệt là ta chưa xây dựng được một kế hoạch đào tạo nguồn
lao động đáp ứng với đề án XKLĐ cho thời kỳ 2000 - 2020. Quá trình xuất khẩu lao động
của ta chủ yếu dựa vào sự lựa chọn lao động từ nguồn có sẵn trong xã hội. Kế hoạch của
các cơ sở đào tạo nghề mới chỉ nhằm phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong nước mà chưa
tính đến nhu cầu XKLĐ. Cũng do tuyển chọn đào tạo chưa tốt nên chất lượng lao động
chưa cao. Hầu hết các chủ nước ngoài đều cho rằng điểm hạn chế của lao động nước ta là
trình độ ngoại ngữ kém và thể lực chưa tốt. Một số chuyên gia nước ngoài nhận xét lao
động Việt Nam ngại chịu trách nhiệm, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm trong tổ chức quản
lý, chưa quen với kỷ luật chuẩn mực và thông lệ quốc tế làm việc thiếu tính khoa học...
Một số người xấu đi ra nước ngoài không vì mục đích lao động gây nên tình trạng lộn xộn,
buôn bán trái phép, tham gia vào các băng đảng, gây rối...
d) Chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều hiện tượng tiêu cực như
khai man lý lịch, chạy chọt để qua các vòng khám tuyển,... và khi đi không đủ tiêu chuẩn
về ngoại ngữ và trình độ nghề nghiệp, sau khi bàn giao lao động, phía đối tác kiểm tra và
trả về, đã gây ảnh hưởng tới uy tín của tổ chức đưa đi và thiệt hại về kinh tế cho người lao
động.
Các cơ quan chức năng của nước ta và nước hữu quan chưa có sự phối hợp chặt
chẽ với nhau, chưa có sự phân loại theo trình độ lành nghề để trả lương nên những công
nhân có tay nghề cao thường tự ý phá bỏ hợp đồng để tìm đến những nơi có thu nhập và
điều kiện làm việc tốt hơn.
e) XKLĐ là một chính sách kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đối với tầng lớp người
nghèo, nhưng trong hiện thực XKLĐ ở nước ta dường như vẫn chỉ là chính sách cho người
giàu, chưa có những giải pháp thiết thực để người nghèo cũng có thể tham gia xuất khẩu lao
động. Vì thế chính sách XKLĐ chưa thực sự đi vào đời sống của quảng đại quần chúng
nhân dân.
g) Các doanh nghiệp được phép XKLĐ còn chạy theo lợi ích riêng trước mắt,
chưa kết hợp lợi ích của công ty với lợi ích của quốc gia và người lao động. Do vậy ký kết
hợp đồng để trả lương người lao động chưa thỏa đáng. Mặt khác, chi phí để làm thủ tục đi
lao động quá lớn khiến nhiều người lao động phải mang gánh nặng nợ nần. Đây là nguyên
nhân chính dẫn đến người lao động tự phá bỏ hợp đồng để đi tìm việc làm khác có mức thu
nhập cao hơn nhằm sớm trả được nợ.
2.3. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra từ công tác xuất khẩu lao
động
Tìm ra những bài học kinh nghiệm là điều cần thiết giúp cho công tác XKLĐ của
ta đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao. Từ thực tiễn 20 năm hợp tác và XKLĐ có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:
2.3.1. Phải coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội của công tác XKLĐ
Trong giai đoạn trước quan niệm rằng bạn giúp ta, ta giúp bạn, lấy hợp tác hữu
nghị làm nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt cho quá trình hợp tác lao động, nên hiệu quả kinh
tế chưa được coi trọng đúng mức. Chính vì vậy lợi ích kinh tế mang lại trong chương trình
hợp tác lao động không tương xứng với lực lượng mà chúng ta cử đi.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường lại thiên về lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi
ích trước mắt. Lợi ích xã hội, lợi ích lâu dài bị xem nhẹ. Do vậy thị trường lao động truyền
thống bị bỏ rơi, các hành vi tiêu cực trong XKLĐ chưa được kiểm soát chặt chẽ và xử lý
nghiêm minh.
Để XKLĐ trong thời gian tới đạt hiệu quả tổng hợp cao phải coi XKLĐ vừa là
chính sách kinh tế vừa là chính sách xã hội và là một trong những giải pháp quan trọng
góp phần tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong cả hiện tại và
tương lai. Trong XKLĐ phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm đầu đồng thời phải coi trọng
những ảnh hưởng khác của nó. Quan điểm này phải được thấu suốt ở mọi cấp mọi ngành,
ở mọi doanh nghiệp và ở từng người lao động.
2.3.2. Phải có một bộ máy tổ chức quản lý phù hợp đủ khả năng đáp ứng yêu
cầu của công tác XKLĐ
Hiệu quả của công tác XKLĐ phụ thuộc vào hai nhân tố chính:
Một là, đội ngũ các doanh nghiệp tham gia XKLĐ. Đây là nơi tuyển chọn, đào tạo,
bàn giao lao động cho phía đối tác theo hợp đồng. Nếu việc tuyển chọn kỹ kàng, công tác
đào tạo đáp ứng được yêu cầu công việc thì lao động của ta càng ngày càng có uy tín trên
thị trường quốc tế. Do vậy, việc chấn chỉnh lại các doanh nghiệp, kiên quyết thu lại giấy
phép XKLĐ của những đơn vị làm ăn kém hiệu quả, vi phạm pháp luật là điều cần thiết.
Có như vậy mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động bình đẳng và ngày càng
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động.
Hai là, các tổ chức đại diện của người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Trong
thời gian qua, trên nhiều thị trường lao động ta chưa có tổ chức đại diện quyền lợi của
người lao động hoặc có nhưng hoạt động hiệu quả chưa cao. Việc bảo vệ quyền lợi hoặc
can thiệp khi có tranh chấp hợp đồng lao động chủ yếu do cơ quan ngoại giao của ta đảm
nhận, nên nhiều mâu thuẫn bức xúc xảy ra mà chưa được giải quyết kịp thời, đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng. Do vậy việc xây dựng bộ máy quản lý lao động ở nước
ngoài với một đội ngũ cán bộ có trình độ, biết cách tiếp cận, mở rộng thị trường, cung cấp
thông tin chính xác cho các doanh nghiệp và người lao động, đồng thời xử lý tốt các tình
huống xảy ra là điều kiện căn bản để người lao động của ta được đối xử công bằng và đúng
theo hợp đồng đã ký kết.
2.3.3. Phải nhanh nhạy trong nghiên cứu, tiếp cận, mở rộng thị trường
mới, đồng thời duy trì, củng cố và giữ vững thị trường truyền thống
Việc mở rộng thị trường có quan hệ trực tiếp đến sự gia tăng về số lượng lao động
trong quá trình xuất khẩu. Hội nghị triển khai nghị quyết Trung ương IV khóa VIII của bộ
lao động Thương binh và xã hội đã thừa nhận: Chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đưa lao
động vào các thị trường có nhu cầu sử dụng một lực lượng lớn lao động của ta như thị
trường Trung Đông, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản... Việc nghiên cứu, tiếp cận và sự
am hiểu về thị trường lao động của ta còn hạn chế. Do vậy, việc chuẩn bị về mọi mặt cho
người lao động và các tổ chức quản lý chưa thật chu đáo...
Bên cạnh đó, theo trào lưu chung, các tổ chức XKLĐ cũng như các cơ quan quản
lý và lao động đều tập trung chú trọng vào các thị trường lao động mới. Các thị trường
truyền thống bị xem nhẹ. Quá trình đào tạo ngoại ngữ cũng chỉ tập trung cho tiếng Anh,
tiếng Nhật, tiếng Trung. Tiếng Nga trước đây đã từng một thời gắn bó với nhiều thế hệ
người lao động, học sinh, sinh viên Việt Nam đã có chiều hướng mai một và quên lãng.
Trong một tương lai không xa, nước Nga và các nước Đông Âu hồi phục, nhu cầu sử dụng
lao động nước ngoài tăng cao, cùng với chiến lược nghiêng về châu á của các nước này, thì
nguồn lao động Việt Nam sẽ không đáp ứng kịp mà trước hết là trình độ ngoại ngữ kém.
Chính vì vậy cần duy trì, củng cố và giữ vững các thị trường này bằng việc nghiên cứu,
tiếp cận lại và chuẩn bị nguồn nhân lực ngay từ bây giờ để cung ứng kịp thời khi các thị
trường này đòi hỏi.
kết luận chương 2
Trải qua hai giai đoạn, tương ứng với hai cơ chế quản lý kinh tế khác nhau, xuất
khẩu lao động cũng mang những tên gọi khác nhau.
Trong thập niên 80 - 90 XKLĐ theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và quan hệ
tương trợ, giúp đõ lẫn nhau giữa các nước XHCN. 10 năm thực hiện Hợp tác quốc tế về
lao động gần 30 vạn lượt người đã có việc làm, có thu nhập và đem lại những hiệu quả
kinh tế xã hội không nhỏ cho Nhà nước và bản thân gia đình người lao động.
Bước sang thập kỷ 90 do sự biến động to lớn của tình hình kinh tế, chính trị của
các nước trong hệ thống XHCN và do nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, xuất khẩu
lao động cũng có sự thay đổi theo. Khác với giai đoạn 1980 - 1990, xuất khẩu lao động của
ta không còn tập trung vào các thị trường truyền thống là Liên Xô (cũ), các nước XHCN
Đông Âu và Irắc mà chuyển hướng vào các nước có chế độ kinh tế chính trị khác với ta.
Tính đến hết năm 1999, 127 doanh nghiệp XKLĐ đã đưa 89.140 người lao động và
chuyên gia đi làm việc tại hơn 30 nước và vùng lãnh thổ. Với "doanh thu" trên 1 tỷ
USD/một năm, XKLĐ đã trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng đem lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên công tác XKLĐ cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế:
- Việc cụ thể hóa chủ trương xuất khẩu lao động ở các cấp trong thời gian đầu còn
chậm và thiếu đồng bộ, chưa mạnh dạn đột phá, mở rộng thị trường tăng lượng lao động
xuất khẩu.
- Chưa có các văn bản pháp lệnh về công tác xuất khẩu lao động nên việc quản lý
người lao động chưa chặt chẽ.
- Thủ tục hành chính còn rườm rà đặc biệt là thủ tục về nhân sự, công tác tuyển
chọn, đào tạo người lao động không kỹ càng, còn nhiều sơ hở và tiêu cực, do vậy đã ảnh
hưởng tới chất lượng công tác XKLĐ của ta...
Vì vậy, cần phải có những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những thiếu sót, giải
quyết tốt và xử lý nghiêm những hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh hoạt động XKLĐ để
chương trình XKLĐ của ta đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những năm tiếp
theo.
Chương 3
Những phương hướng và giải pháp
chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu lao động
của nước ta trong thời gian tới
3.1. Phương hướng xuất khẩu lao động của nước ta
XKLĐ đã trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài
đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và đối với chương trình
quốc gia về giải quyết việc làm nói riêng. Nước ta có lực lượng dân cư trong độ tuổi lao
động dồi dào (năm 1999 có 37,8 triệu; năm 2000 là gần 40 triệu; và đến năm 2015 theo dự
báo con số này sẽ lên đến 62 triệu), quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là điều
kiện thuận lợi vừa là những thách thức to lớn cho chương trình tạo việc làm, giải quyết thất
nghiệp. Trong Hội nghị triển khai nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội đã xác định: Chúng ta phấn đấu đến năm 2000 đưa khoảng
150.000 lao động làm việc ở các nước, và sau năm 2000 con số này lên đến 200.000 hoặc
250.000 hàng năm, thường xuyên có khoảng 400.000 - 500.000 lao động Việt Nam làm
việc ở nước ngoài. Để thực hiện được mục tiêu trên, XKLĐ của ta trong thời gian tới cần
theo các phương hướng sau:
3.1.1. Đa phương hóa thị trường XKLĐ
Trước đây do hạn chế của tư duy và bối cảnh lịch sử chương trình hợp tác quốc tế
về lao động của ta chỉ bó hẹp trong một số nước XHCN, Irắc và một vài nước Châu Phi.
Sau khi có những biến động lớn về kinh tế - chính trị xã hội trên thế giới và trong nước,
chúng ta chuyển hướng thị trường lao động vào những nước mà trước đây ta chưa từng
hợp tác. Tuy nhiên, đã có những biểu hiện buông lơi thị trường lao động cũ trong cả tư duy
của người lao động và những nhà chức trách. Vì vậy cần phải:
a) Giữ vững địa bàn lao động truyền thống, đưa lao động sang các nước SNG
và Đông Âu với các hình thức thích hợp. Nên thấy rằng sự khủng hoảng về kinh tế, chính
trị ở các nước SNG và Đông Âu chỉ là tạm thời. Các nước này vẫn là những nước có trình
độ kinh tế khá phát triển, có điều kiện làm việc tốt và đặc biệt là có mối quan hệ hữu nghị
lâu dài với dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam qua nhiều thế hệ đã tiếp xúc, gắn bó và còn
lưu giữ nhiều ấn tượng tốt đẹp về Liên Xô, Tiệp Khắc, Bungari,... và các nước XHCN
trước đây. Sau những "cơn sóng gió" các nước này đang đi dần vào thế ổn định và phát
triển. Đây cũng là những nước đất đai rộng lớn, tài nguyên phong phú và có mật độ dân cư
thưa. Sự phát triển của các quốc gia này tất yếu đòi hỏi một lượng cầu lao động lớn, cả lao
động giản đơn và lao động có trình độ kỹ thuật cao. Vừa qua, ta đã ký kết các nghị định
thư với Nga, Cộng hòa Séc để nhằm giữ vững các thị trường truyền thống. Trong tương
lai, ta tiếp tục ký kết các nghị định thư với các nước Đông Âu khác. Tuy nhiên, trong điều
kiện kinh tế thị trường và sự thay đổi thể chế kinh tế - chính trị ở các nước này chúng ta
phải tìm ra các hình thức hợp tác phù hợp với luật pháp của hai bên để chương trình hợp
tác đạt hiệu quả kinh tế xã hội ngày một cao hơn, chủ yếu tập trung cho cơ sở, Bộ ngành,
các địa phương, doanh nghiệp tự ký kết thỏa thuận.
b) Tăng cường XKLĐ sang các nước trong khu vực (mà chủ yếu là Hàn Quốc,
Lào, Nhật Bản, Đài Loan) và các nước ở Trung Đông
Nhu cầu lao động của Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... rất lớn, Tuy nhiên đây là
những thị trường khó tính, đặc biệt là thị trường Nhật Bản. Nhưng nếu có biện pháp khắc
phục những nhược điểm thiếu sót trong công tác XKLĐ của nước ta thời gian qua thì vẫn
có thể mở rộng thị phần của nước ta trên thị trường này.
Trung Đông là khu vực tiếp giáp giữa châu á, châu Âu và Bắc Phi. Đây là khu vực
chiếm gần 40% sản lượng dầu mỏ của thế giới. Sự phát triển công nghiệp dầu mỏ đã kéo
theo sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác như: xây dựng, giao thông vận tải và
quá trình đô thị hóa... Nên nhu cầu về lao động ở khu vực này đã tăng nhanh trong những
thập niên gần đây.
Chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong khu vực này. Năm 1986,
Việt Nam đã cung ứng hơn 10.000 lao động cho Irắc. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm
1991 đã làm cho quá trình này bị gián đoạn. Đến năm 1994 một số công ty đã đưa thí điểm
lao động nữ sang Li Băng làm công việc nội trợ. Từ năm 1996, một số công ty xây dựng
Việt Nam đã cung cấp lao động sang nhận thầu khoán công trình tại Cô Oet và UAE...
Gần đây Thái Lan, Philipin, Indonexia, Băng-La đét, Trung Quốc cũng đã đưa
người lao động vào thị trường này. Dòng người ả rập theo đạo Hồi nhập cư vào đây lớn
dẫn đến việc tìm kiếm công ăn việc làm tại thị trường Trung Đông không còn dễ dàng như
trước. Trước sức ép của cư dân bản xứ, Chính phủ các nước Trung Đông chỉ cho phép
nhập cư đối với lao động có trình độ lành nghề: kỹ sư, công nhân bậc cao hoặc những lao
động giành cho công việc nặng nhọc, nhàm chán như tạp vụ, quét dọn vệ sinh, nội trợ gia
đình. Tuy nhiên, đây vẫn là một thị trường lao động lớn nhất thế giới với mức thu nhập:
Kỹ sư là 600 - 800 USD/tháng, công nhân lành nghề là 300 - 500 USD/tháng. Do vậy,
trong những năm tới đây ta cần nghiên cứu và khai thác có hiệu quả thị trường lao động to
lớn này.
c) Mạnh dạn đột phá, mở rộng thị trường sang các châu lục khác như châu Mỹ,
châu Phi và thị trường Tây Âu
Nước ta đã từng đưa chuyên gia về giáo dục, y tế và nông nghiệp sang làm việc tại
châu Phi từ những năm 80. Trong thời gian tới những thành tựu về nông nghiệp, giáo dục
mà ta đạt được sẽ là những nhân tố quan trọng để các nước này tiếp tục yêu cầu ta giúp đỡ
chuyên gia.
Với Châu Mỹ: Tập trung chủ yếu là thị trường thuộc Hoa Kỳ. Ta đã đưa lao động
sang Saipan, Samoa... Tuy nhiên lực lượng của ta còn ít và có nhiều vấn đề nảy sinh ở đây.
Mặc dù vậy, đây vẫn là một cơ hội lớn cho lao động của ta thâm nhập vào những thị
trường khó tính và mở ra một triển vọng lớn cho ta có thể tiếp cận các thị trường lao động
khác với dung lượng lớn hơn.
- Thị trường Tây Âu: Đối với nước ta còn hoàn toàn mới. Theo đánh giá của các
chuyên gia, trong 20 năm tới do tỷ lệ sinh thấp nên số người già (trên 60) sẽ tăng lên gấp
đôi (khoảng 113,5 triệu) chiếm 1/3 dân số của liên minh Châu Âu (EU). Lực lượng dân cư
trong độ tuổi lao động không ngừng giảm sút, nhất là lực lượng thanh niên. Để cân bằng
cung - cầu lao động, Tây Âu sẽ phải nhập 70 triệu lao động. Tuy vậy, đây là thị trường đòi
hỏi lực lượng lao động có trình độ cao là chủ yếu, vì thế cần phải chuẩn bị tốt cho lao động
Việt Nam có đủ điều kiện thâm nhập vào thị trường này.
3.1.2. Đa dạng hóa hình thức XKLĐ
Trong những năm của thập kỷ 80, hơn 20 vạn lao động, chuyên gia của ta đã từng
làm việc nhiều năm ở các nước XHCN ở Đông Âu. Tuy nhiên, các hình thức hợp tác lao
động còn nghèo, chủ yếu là lao động xen ghép với công nhân bạn trong dây chuyền sản
xuất (từ năm 1980 đến 1987).
Từ năm 1988 trở đi có thêm các hình thức hợp tác giữa ngành với ngành, xí
nghiệp với xí nghiệp như hợp tác giữa Bộ Công nghiệp nhẹ Việt Nam với Bộ Công nghiệp
nhẹ Đức; Bộ Giao thông vận tải Việt Nam với Bộ Cơ khí tổng hợp Tiệp Khắc,... Hợp tác
giữa các địa phương kết nghĩa: Hà Nội - Matxcơva; Nghệ Tĩnh - Ulianop... và nhận thầu
công trình: Bộ Xây dựng Việt Nam ở Bungari, Tiệp Khắc, Liên Xô; Bộ Thủy lợi Việt Nam
với Irắc.
Bước đột phá lớn vào giữa những năm 90 là nước ta đã đào tạo và xuất khẩu
thuyền viên cho tàu cá và tàu vận tải sang nhiều châu lục khác nhau. Nhưng đây là lĩnh
vực đòi hỏi người lao động phải vừa có sức khỏe, vừa có trình độ nghề nghiệp và trình độ
ngoại ngữ cao. Chính vì vậy, số sĩ quan, thuyền viên của ta xuất sang các hãng tàu tuy có
tăng nhưng số lượng không đáng kể.
Hiện tại có một số đơn vị được phép xuất khẩu thuyền viên là: Trường Đại học
Hàng Hải, Công ty Inlaco Sài Gòn, Inlaco Hải Phòng, Lod, Vitranchart, Vosco,...
Thuyền viên của ta làm việc chủ yếu ở Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore,
Pháp và một số nước châu Âu với số lượng khoảng trên 1.000 và đảm nhiệm các chức
danh thấp. Số lượng thuyền viên Việt Nam làm việc cho các chủ tàu nước ngoài rất ít, so
với các nước khác trong khu vực như: Băng-la-đét là 50.000; Philipin là 220.000;
Indonexia là 40.000; Srilanka trên 30.000. Tuy vậy, tiềm năng về xuất khẩu thuyền viên
của ta là lớn, nhưng cần chú ý đến sức khỏe, ngoại ngữ, tác phong công tác và trình độ
thực hành của thuyền viên.
Từ năm 1994, ta đã đưa sang Li-Băng một số lao động nữ thí điểm làm công việc
nội trợ. Đến tháng 11 năm 1999, các công ty của ta bắt đầu đưa lao động nữ sang giúp việc
gia đình ở Đài Loan. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, hiện đang còn nhiều ý kiến khác nhau.
Tuy nhiên, phải nhận thức rằng, đây cũng là một nghề nghiệp chân chính để tạo ra việc
làm, tạo ra thu nhập. Do vậy, vấn đề là có giải pháp bảo vệ được quyền lợi phụ nữ của ta ở
nước ngoài làm nghề giúp việc gia đình.
Ngoài những hình thức trên, nên nghiên cứu, thử nghiệm để tìm ra các hình thức
XKLĐ khác cho phù hợp với yêu cầu của đối tác nhằm không ngừng tăng số lượng lao
động xuất khẩu của ta.
Đa dạng hóa các hình thức hợp tác lao động vừa là phương hướng, vừa là biện
pháp hữu hiệu để đưa số lượng lao động của ta đi các nước ngày một tăng lên. Cần thoát ra
khỏi những định kiến ngặt nghèo của những quan niệm phong kiến lỗi thời để tạo điều
kiện cho nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ, nông dân và những người nghèo có
cơ hội tìm kiếm việc làm ngoài nước, từng bước xóa đi những cảnh nghèo cơ cực và góp
phần thực hiện thắng lợi chương trình XKLĐ của quốc gia trong những năm tới.
3.1.3. Coi trọng chất lượng, hiệu quả trong XKLĐ, không chạy theo số lượng
đơn thuần
Chất lượng - hiệu quả luôn là vấn đề phải được quan tâm hàng đầu trong mọi hoạt
động kinh tế - xã hội. Đối với XKLĐ, hàng hóa được đưa tới thị trường ngoài nước không
phải là những loại hàng hóa thông thường mà là hàng hóa đặc biệt. Chính vì vậy, chất
lượng - hiệu quả của nó có tác động nhiều chiều trên nhiều phương diện cả về chính trị,
kinh tế và xã hội.
Hiện nay ta đã có một đội ngũ các doanh nghiệp tham gia XKLĐ hết sức đông
đảo: 127 doanh nghiệp. Số lượng lao động được đưa sang các nước ngày một gia tăng.
Chưa bao giờ vấn đề XKLĐ lại được mọi cấp mọi ngành quan tâm nhiều đến vậy. Điều đó
khẳng định rằng đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh XKLĐ là hoàn
toàn đúng đắn. Nhưng những hiện tượng tiêu cực, như đưa lao động đi một cách ồ ạt vô
nguyên tắc, chất lượng lao động thấp, số lượng lao động phải trả về cao, có những doanh
nghiệp tuyển người đi lao động để lợi dụng chiếm đoạt tài sản công dân... đã đánh những
hồi chuông cảnh báo về tình hình XKLĐ hiện nay. Chính vì vậy, một mặt bằng nhiều cách,
chúng ta phải tăng cường XKLĐ để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu
nhập cho người lao động, góp phần tích cực vào chủ trương xóa đói giảm nghèo, mặt khác,
chúng ta phải chống lại những hiện tượng xem thường chất lượng - hiệu quả, chỉ chạy theo
số lượng đơn thuần. Quán triệt phương hướng này, hoạt động XKLĐ cần thực hiện tốt các
nội dung sau:
Một là, nâng cao chất lượng của đội ngũ các doanh nghiệp tham
gia XKLĐ.
127 doanh nghiệp được tham gia XKLĐ là một lực lượng hùng hậu để hoàn thành
mục tiêu trong những năm tới, đưa được vài triệu lao động Việt Nam ra làm việc ở nước
ngoài. Tuy nhiên, hiện có nhiều doanh nghiệp có giấy phép XKLĐ nhưng không thể đi vào
hoạt động, hoặc hoạt động nhưng chất lượng hiệu quả không cao. Có những doanh nghiệp
như công ty TNHH Phát triển Công nghệ mới - Thương mại - Du lịch và Xây dựng (tên
giao dịch là DTC) đã chiếm đoạt của người lao động hàng tỷ đồng trong dịch vụ XKLĐ.
Nhiều nơi, nhiều chỗ thu tiền với mức quá cao hoặc đặt ra những quy định riêng cho mình,
không tuân thủ các quy định chung cũng như các nguyên tắc pháp lý, như:
- Không chấp hành nguyên tắc trực tiếp tuyển chọn lao động, rõ nét nhất là vụ
tuyển chọn lao động trong 2 đợt đầu đi làm việc ở Samoa thuộc Hoa Kỳ.
- Có nhiều sai sót trong ký kết hợp đồng: Chưa ghi rõ công việc người lao động sẽ
làm, không xác định rõ phương thức trả lương, đề ra những quy định trái với quy định của
pháp luật Việt Nam hoặc không có lợi cho người lao động.
- Vi phạm chế độ tài chính: Như thu một số khoản tiền ngoài quy định, thu tiền đặt
cọc quá mức cho phép, thu phí dịch vụ cao hơn, thu tiền của người chưa chính thức được
tuyển chọn...
Do vậy cần rà soát lại các doanh nghiệp được phép XKLĐ, đưa ra những yêu cầu
cụ thể, nếu không đáp ứng được kiên quyết không cấp giấy phép hoặc thu hồi lại giấy phép
khi thấy cần thiết.
Hai là, lấy hiệu quả làm đầu trong công tác XKLĐ.
Cần phải tính đến cả hiệu quả về kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội do hoạt động
XKLĐ đưa lại. Đồng thời đảm bảo lợi ích người lao động, lợi ích của doanh nghiệp và lợi
ích quốc gia. Hiện tại đã có những biểu hiện tiêu cực chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần
hoặc chỉ vì lợi ích trước mắt, lợi ích riêng của doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng "đem con
bỏ chợ", lấy tiền xong đưa người lao động ra nước ngoài là coi như hết trách nhiệm, đã để
lại những hậu quả nghiêm trọng.
Ba là, nâng cao chất lượng lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế.
Chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu là một trong những nhân tố quan trọng
quyết định hiệu quả của công tác XKLĐ. Do vậy, tuyển chọn, đào tạo một đội ngũ lao
động có chất lượng cao vừa là phương hướng, vừa là biện pháp trước mắt và lâu dài.
Để có được vài triệu lao động làm việc ở nước ngoài trong những năm tới là
nhiệm vụ khó khăn cho mọi cấp, mọi ngành. Tuy vậy chúng ta không thể chạy theo số
lượng mà xem nhẹ chất lượng và hiệu quả. Chất lượng và hiệu quả chính là một trong
những giải pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để thúc đẩy sự gia tăng về số lượng lao động
Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế.
3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh XKLĐ của nước ta thời gian tới
3.2.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động quốc tế
Tiếp thị - nghiên cứu thị trường là khâu cực kỳ quan trọng đối với mọi hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Nắm chắc thị trường là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của
công tác xuất khẩu lao động. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công tác nghiên cứu thị
trường lao động của ta thời gian qua còn nhiều thiếu sót, do đó chưa nắm chắc đối tác,
chưa hiểu rõ thị trường. Thông tin về thị trường lao động còn nghèo nàn hoặc chưa chuẩn
xác... đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác XKLĐ của ta.
Những hạn chế trên là do trong một thời gian dài, đất nước bị phong tỏa bởi chính
sách cấm vận nên sự hiểu biết của chúng ta về tình hình các nước trong hệ thống TBCN
còn nhiều hạn chế. XKLĐ theo cơ chế thị trường đối với nước ta lại là hoạt động mới mẻ.
Lực lượng của các doanh nghiệp XKLĐ mỏng, thiếu kinh nghiệm, cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời đại cách mạng khoa học công
nghệ và cách mạng thông tin còn thiếu thốn... Do đó các doanh nghiệp XKLĐ của ta vừa
yếu lại vừa thiếu, chưa đủ sức vươn ra nắm bắt và khai thác thị trường một cách hiệu quả
và cạnh tranh với các đối thủ khác trong khu vực. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến
số lượng lao động của ta đưa đi trong thời gian qua chưa cao, nhiều cơ hội trong XKLĐ bị
bỏ lỡ.
Trong thời gian tới, việc nghiên cứu, tiếp cận và mở rộng thị trường phải được các
doanh nghiệp quan tâm đầy đủ và Nhà nước cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt. Để thực
hiện tốt giải pháp này cần tập trung vào một số vấn đề chính sau:
a) Về phía Nhà nước:
- Mở rộng và củng cố vững chắc quan hệ ngoại giao với các nước. Quan hệ về
kinh tế luôn gắn liền với quan hệ ngoại giao của mỗi quốc gia. Quan hệ ngoại giao là sự
mở đường và đặt nền móng cho những quan hệ về kinh tế. Chính vì vậy, việc mở rộng,
củng cố vững chắc quan hệ ngoại giao của Nhà nước sẽ là cơ sở quan trọng cho việc
nghiên cứu, mở rộng quan hệ về kinh tế nói chung và mở rộng thị trường lao động nói
riêng.
- Có chính sách khuyến khích những doanh nghiệp dám mạnh dạn nghiên cứu, tiếp
cận và xâm nhập vào các thị trường lao động mới mẻ bằng những ưu đãi về tài chính, kể
cả hỗ trợ một phần kinh phí.
- Thành lập các trung tâm nghiên cứu thị trường lao động quốc tế để cung cấp
thông tin cho các doanh nghiệp XKLĐ và đưa ra những dự báo về thị trường lao động thế
giới làm căn cứ cho các doanh nghiệp xây dựng phương hướng, kế hoạch XKLĐ của
mình.
b) Về phía các doanh nghiệp XKLĐ: Doanh nghiệp phải là người chủ động khám
phá, tìm tòi, mạnh dạn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu mở rộng thị trường, để nắm chắc
nhu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại lao động mà thị trường đó cần, thu thập thông
tin đầy đủ về đặc điểm môi trường lao động, phong tục tập quán và tín ngưỡng của địa
phương mà người lao động của nước ta sẽ đến làm việc. Cũng cần phải nắm được tiền
công và tình hình lao động của các nước khác đang làm việc trên cùng địa bàn để rút kinh
nghiệm và có đối sách thích hợp... Phải tìm hiểu cả những điểm thuận lợi và những khó
khăn, những yêu cầu khắt khe của thị trường để có những giải pháp cụ thể, nhất là giải
pháp về tuyển chọn và đào tạo, làm cho cung về lao động của ta thích ứng với cầu của thị
trường.
Hoạt động này có thể tiến hành bằng nhiều cách như: thông tin, quảng cáo, thông
qua hoạt động của các tổ chức ngoại giao, kinh tế,... thông qua khảo sát, đàm phám, khai
thác thông tin và các đại diện của các tổ chức kinh tế của ta ở nước ngoài và của nước
ngoài hoạt động trên đất nước ta. Mạnh dạn chia phần trăm hoa hồng cho các công ty môi
giới mở đường dẫn dắt và dưa lao động của ta vào thị trường lao động các nước.
3.2.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn và đào tạo bồi dưỡng
nguồn lao động phục vụ cho chương trình XKLĐ
Chất lượng là nhân tố quyết định số lượng cung ứng lao động và duy trì, mở rộng
thị trường lao động quốc tế của ta. Trong chỉ thị số 41/CT-TW ngày 22/09/1998 của Bộ
Chính trị về XKLĐ và chuyên gia đã chỉ rõ: "Phải đẩy mạnh đào tạo nghề, nhất là về kỹ
thuật và công nghệ cao, ngoại ngữ, giáo dục ý thức kỷ luật và pháp luật cho người lao
động, đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng bộ máy cán bộ XKLĐ và chuyên gia". Trong
đề án đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia giai đoạn 1998 - 2020 cũng khẳng định: "Tổ chức
tốt việc đào tạo chuẩn bị nguồn lao động đáp ứng được yêu cầu của nước ngoài. Đây là
một công tác trọng tâm, không những để phát triển thị trường XKLĐ mà còn để nâng cao
uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế".
Chất lượng nguồn lao động của chúng ta còn một số hạn chế, chủ yếu là:
- Nguồn lao động dồi dào nhưng tỷ trọng lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật thấp (chỉ chiếm khoảng 12%). Trong khi đó, tỷ lệ này của các nước trong khu vực
đạt đến 40 - 50%. ở các nước phát triển, tỷ lệ lao động qua đào tạo có trình độ chuyên môn
kỹ thuật còn cao hơn rất nhiều. Không những thế số công nhân lành nghề của ta rất ít. Việc
phân bố và sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật chưa hợp lý - khu vực phi sản xuất,
chiếm đến 70%, khu vực Nhà nước chiếm 80%. Điều đó có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả và
sự năng động của sức lao động lành nghề.
- Thể lực của người lao động Việt Nam yếu: Mặc dù những năm qua tình trạng thể
lực của người Việt Nam nói chung và của nguồn lao động nước ta nói riêng đã có những
cải thiện đáng kể, nhưng nhìn chung tình trạng thể lực của ta còn kém xa so với một số
nước khác trong khu vực. Theo khảo sát của các chuyên gia lao động học thì trọng lượng
trung bình của lao động chúng ta đạt 43 - 51,9 kg trong khi các nước ASEAN và một số
nước châu á khác, trọng lượng nặng gấp 1,2 - 1,3 lần và chiều cao gấp 1,04 - 1,12 lần lao
động của ta.
Trước tình hình trên và yêu cầu mới đặt ra của thị trường lao động quốc tế đòi hỏi
công tác tuyển chọn và đào tạo nguồn phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu.
- Công tác tuyển chọn: Cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn tuyển chọn lao
động. Mọi ngành mọi lĩnh vực đều dựa trên những yêu cầu chung nhất về học vấn, sức
khỏe, trình độ tay nghề, đạo đức và ý thức tổ chức kỷ luật. Đồng thời, tùy thuộc từng nghề,
từng nước và từng chủ sử dụng khác nhau mà đặt ra những tiêu chuẩn riêng phù hợp.
Mặt khác, để giúp cho các doanh nghiệp tuyển lựa được những lao động theo đúng
nhu cầu của đối tác, tránh được những chi phí không cần thiết cho người lao động khi họ
mong muốn tham gia XKLĐ, việc tuyển chọn lao động phải gồm các bước sau:
- Thông tin công khai các tiêu chuẩn đã được xác định trên các phương tiện thông
tin đại chúng để các tầng lớp nhân dân nắm được.
- Tiếp nhận lao động và tiến hành kiểm tra hay thi tuyển ban đầu. Nội dung cụ thể:
+ Kiểm tra bằng cấp, trình độ học vấn. Nên lấy những người đã tốt nghiệp phổ
thông trung học hoặc ra một đề thi phù hợp với yêu cầu về trình độ học vấn mà doanh
nghiệp cần tuyển.
+ Nếu là lao động có nghề, kiểm tra tay nghề lao động bằng một công việc thực tế.
+ Tiến hành kiểm tra sức khỏe tại các điểm có đủ trình độ chuyên môn và các
phương tiện kỹ thuật theo quy định.
+ Thẩm tra đạo đức thông qua lý lịch và tại địa phương nơi người lao động sinh
sống, làm việc.
+ Đào tạo hoặc bổ túc tay nghề trước khi đi.
Thực tiễn công tác tuyển chọn ban đầu vừa qua ở một số doanh nghiệp chưa tiến
hành theo đúng trình tự nói trên. Có doanh nghiệp khám sức khỏe hoặc kiểm tra bằng cấp
(kể cả bằng tốt nghiệp PTTH hay bằng chuyên môn) sau khi đào tạo khiến cho những
người lao động không đáp ứng đủ các yêu cầu trên phải chịu phí tổn vô ích.
- Về địa điểm tuyển chọn: Có thể doanh nghiệp tiến hành tuyển chọn tại địa
phương nơi người lao động sinh sống và làm việc, hoặc tuyển chọn tại cơ quan doanh
nghiệp hoặc kết hợp cả hai. Mỗi cách thức đều có những ưu điểm và lợi thế riêng. Tùy
theo tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp và yêu cầu tiêu chuẩn của nguồn lao động cần
sử dụng mà lựa chọn cách thức tuyển chọn cho phù hợp. Đối với những người lao động
sống ở nông thôn, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, thì tiến hành tuyển chọn tại địa
phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người lao động.
- Công tác đào tạo: Vừa qua chúng ta đã thí điểm đưa một số trường và trung tâm
dạy nghề đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài. Tuy nhiên đây mới là thí điểm và vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu và
hoàn thiện. Để hình thành một hệ thống cơ sở đào tạo thống nhất phục vụ cho công tác
XKLĐ. Hiện đang còn nhiều ý kiến khác nhau như: xây dựng các trung tâm đào tạo riêng
biệt trực thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; thành lập các trung tâm, cơ sở đào
tạo phục vụ công tác XKLĐ trên địa bàn các địa phương... Nhưng trong điều kiện hiện nay
thì giải pháp về sự kết hợp giữa đào tạo phục vụ cho nhu cầu trong nước với phục vụ cho
chương trình xuất khẩu tại các nhà trường, các trung tâm đào tạo nghề sẵn có trên địa bàn
cả nước được xem như là giải pháp có hiệu quả nhất.
- Về nội dung đào tạo: Trước khi đi lao động người lao động cần được đào tạo
toàn diện cả ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến thức về pháp luật và sự hiểu biết
khác... phục vụ cho quá trình làm việc và sinh sống tại các nước. Kinh nghiệm thế giới đã
chỉ rõ rằng, ở đâu chuẩn bị được lực lượng lao động tốt, có chất lượng cao phù hợp sẽ
nhanh chóng chiếm giữ được thị trường, dành thắng lợi trong cạnh tranh với các đối thủ
khác.
Nếu đủ vốn ngoại ngữ người lao động sẽ nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống sở
tại, tiếp thu những kiến thức mới trong quá trình làm việc. Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội nên nghiên cứu và xuất bản các giáo trình về ngoại ngữ chuyên dùng cho người lao
động đi xuất khẩu. Nội dung phải sát với điều kiện thực tế của quá trình làm việc. Sau đào
tạo phải có sự kiểm tra, kiên quyết không đưa những người chưa đủ trình độ đi XKLĐ.
Việc dạy nghề và bổ túc trình độ chuyên môn theo hợp đồng lao động là cần thiết.
Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh cần cù, chịu khó, nhanh nhẹn trong công
việc... Nhưng chưa được đào tạo chu đáo nên trình độ chưa cao, như sĩ quan thuyền viên
của ta thường giữ các cương vị thấp hoặc lao động giúp việc gia đình không đủ vốn ngôn
ngữ để giao tiếp, không biết sử dụng một cách thành thạo các phương tiện, dụng cụ dùng
trong gia đình, cuọc sống sinh hoạt bừa bộn không ngăn nắp, thiếu ý thức "chủ" "thợ"...
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác XKLĐ. Chính vì vậy nâng
cao tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ là bước đột phá quan trọng để nâng cao uy
tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, từng bước mở rộng thị phần,
tạo uy tín và sức mạnh cho các doanh nghiệp XKLĐ cạnh tranh với các đối thủ khác trong
khu vực và trên thế giới.
Ngoài ra còn phải giáo dục về kiến thức pháp luật, sự hiểu biết về đất nước, con
người, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo tại nước tiếp nhận, giáo dục về quan hệ chủ
- thợ, ý thức tổ chức kỷ luật cùng những quy định về vệ sinh an toàn lao động. Đây là
những nội dung cần thiết trang bị cho người lao động, giúp người lao động nhanh chóng
làm quen với môi trường mới và tránh được những rủi ro không đáng có.
Tất cả các nội dung trên cần được thống nhất cho mọi cơ sở đào tạo và chuẩn hóa
trong việc xây dựng giáo trình và đánh giá chất lượng khi kết thúc khóa đào tạo. Có như
vậy chất lượng lao động xuất khẩu của ta mớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay.pdf