Tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN:
Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công
bằng xó hội trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đó bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ mới với những xu hướng, thuận
lợi, khó khăn và thách thức mới. Thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học hiện đại, kỹ thuật
tiên tiến, kinh tế hội nhập... đó làm cho cục diện thế giới có nhiều biến động và phân
hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xó hội, an ninh, quốc phũng. Một số
quốc gia, dân tộc đó cú những thay đổi lớn so với những thập niên cuối thế kỷ XX.
Việt Nam, sau 20 năm thực hiện đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lónh đạo, chúng ta đó thu được những thành tựu to lớn đáng trân trọng, kinh
tế phát triển khá, chính trị tương đối ổn định, an ninh được giữ vững, quốc phũng được
tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đại hội IX của Đảng
(2001) tiếp tục khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành...
97 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công
bằng xó hội trong điều kiện kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đó bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ mới với những xu hướng, thuận
lợi, khó khăn và thách thức mới. Thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học hiện đại, kỹ thuật
tiên tiến, kinh tế hội nhập... đó làm cho cục diện thế giới có nhiều biến động và phân
hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xó hội, an ninh, quốc phũng. Một số
quốc gia, dân tộc đó cú những thay đổi lớn so với những thập niên cuối thế kỷ XX.
Việt Nam, sau 20 năm thực hiện đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lónh đạo, chúng ta đó thu được những thành tựu to lớn đáng trân trọng, kinh
tế phát triển khá, chính trị tương đối ổn định, an ninh được giữ vững, quốc phũng được
tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Đại hội IX của Đảng
(2001) tiếp tục khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, cú sự quản lý của Nhà nước, định hướng xó hội chủ nghĩa,
phấn đấu từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tất
cả vỡ mục tiờu dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X
của Đảng (2006) một lần nữa chỉ rừ: phải thực hiện tiến bộ và cụng bằng xó hội
(CBXH) ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển.
Nền kinh tế thị trường (KTTT) đó đem lại những thành tựu to lớn về kinh tế
sau 20 năm thực hiện đổi mới. Đây là điều kiện quan trọng tạo tiền đề kinh tế vững
chắc cho việc thực hiện CBXH. Tuy nhiên, KTTT cũng bộc lộ những nhược điểm làm
ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện CBXH, sự chênh lệch thu nhập, phân hóa giàu
nghèo cũng như trỡnh độ dân trí,… có chiều hướng ngày càng gia tăng giữa các vùng
miền, tỷ lệ đói nghèo phần lớn tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên
giới và hải đảo, miền núi, dân tộc thiểu số. Điều kiện tập trung đầu tư giáo dục và phát
triển kinh tế lại thuộc về những người có thu nhập cao, cỏc tệ nạn xó hội như buôn lậu,
tham nhũng, trốn thuế, lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý kinh tế để
làm giàu phi pháp đang trở thành điểm nóng được dư luận hết sức quan tâm, bất công,
bất bỡnh đẳng trong xó hội ngày càng trở nờn nghiờm trọng đũi hỏi phải cú cõu trả lợi
thỏa đáng.
Trước tỡnh hỡnh đó, Đảng và Nhà nước ta đó cú nhiều chủ trương chính sách
nhằm phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt CBXH.
Kết hợp chặt chẽ, hợp lý cỏc mục tiờu kinh tế với cỏc mục tiờu xó
hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương; thực hiện tiến
bộ và công bằng xó hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
thực hiện tốt cỏc chớnh sỏch xó hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền
lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho
phát triển kinh tế - xó hội.
Song việc thực hiện ở cỏc cấp cỏc ngành vẫn cũn những vấn đề bất cập chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vấn đề bất công, bất bỡnh đẳng trong xó hội
ngày càng cú nguy cơ trở nên trầm trọng và là lực cản lớn có tính thời sự trong quá trỡnh
thực hiện mục tiờu CBXH ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: "Nhân tố chủ quan với
việc thực hiện công bằng xó hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay " làm đề tài tốt nghiệp.
2.Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài
Xung quanh vấn đề: Nhân tố chủ quan (NTCQ) với việc thực hiện cụng bằng
xó hội trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay đó cú rất nhiều đề tài nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau như:
- "Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xó hội trong quỏ trỡnh
chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta", do TS Hoàng Thị Thành làm chủ nhiệm đề
tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998;
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xó hội ở một số nước châu Á
và Việt Nam", do TS Lê Bộ Lĩnh làm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998;
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xó hội - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn ở một số tỉnh miền Trung", do TS Phạm Hảo, TS Vừ Xuõn Tiến, TS Mai Đức Lộc
đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
- "Vai trũ của phỏp luật trong việc đảm bảo công bằng xó hội ở Việt Nam hiện
nay", Luận án tiến sĩ của Vũ Anh Tuấn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2001;
- "Nhà nước với việc thực hiện công bằng xó hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Vừ Thị Hoa, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002;
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xó hội trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta (Qua thực tế tỉnh Quảng trị)", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân
Phong, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003;
- "Thực hiện cụng bằng xó hội giữa cỏc dõn tộc trong giỏo dục - đào tạo ở các
tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Phạm Văn Dũng, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
- "Phỏt huy vai trũ nhõn tố chủ quan trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết
Đảng ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương)", Luận văn thạc sĩ của Vũ Hữu
Phê, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004);
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xó hội ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới - vấn đề và giải pháp", do TS Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm đề tài, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006;
- "Vai trũ của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng
xó hội ở nước ta hiện nay", của PGS.TS Trần Thành, Tạp chí Triết học, số 2(177),
2006;
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xó hội ở nước ta hiện nay -
những quan điểm cơ bản của Đảng", của TS Nguyễn Thị Nga, Tạp chí Triết học, số
9(184), 2006
...
Ngoài ra, cũn rất nhiều bài viết của cỏc nhà khoa học đăng trên các báo và tạp chí
bàn về vấn đề CBXH ở Việt Nam và trên thế giới trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, vẫn
chưa có tác giả nào đề cập vấn đề một cách trực tiếp dưới góc độ triết học như tên đề tài đó
nờu ra. Những tài liệu nờu trờn chứa đựng những giá trị khoa học rất quý giỏ, được tác giả
tiếp thu, kế thừa và phát triển trong luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rừ vai trũ và thực trạng của việc phỏt huy vai trũ NTCQ đối
với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng xó hội chủ nghĩa (XHCN)
ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trũ
NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rừ nội dung quan niệm CBXH; vai trũ NTCQ với việc thực hiện CBXH
trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Khảo sỏt thực trạng việc phỏt huy vai trũ NTCQ đối với việc thực hiện CBXH
(qua thực tế Vĩnh Phúc), chỉ ra những bất cập của nó, từ đó đề xuất một số phương hướng
và giải pháp nhằm phát huy tốt vai trũ NTCQ trong việc thực hiện CBXH trong điều kiện
KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trũ NTCQ và việc phỏt huy vai trũ NTCQ với việc thực hiện CBXH trong
điều kiện nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Vai trũ NTCQ và việc phỏt huy vai trũ NTCQ với việc thực hiện CBXH trong
điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Vĩnh Phúc),
từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phỏt huy tốt vai trũ
NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mỏc - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng
thời kế thừa và phát huy những giá trị trong cỏc cụng trỡnh khoa học đó nghiờn cứu để
phục vụ cho luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đó dựng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, trừu tượng
và cụ thể... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đó đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trũ của NTCQ đối với việc thực hiện
CBXH ở Việt Nam trong điều kiện KTTT hiện nay (qua thực tế Vĩnh Phúc), từ đó đề
xuất những phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm thực hiện tốt CBXH ở nước ta
nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo trong việc tỡm hiểu, nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn sau này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
CễNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VAI TRề NHÂN TỐ CHỦ QUAN
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CễNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1.1. Quan niệm ngoài mácxớt về cụng bằng xó hội
Ở xó hội cộng sản nguyờn thủy, con người sinh sống, hoạt hoạt động và lao
động đều mang tính cộng đồng, cùng làm cùng hưởng, mọi thành viên trong thị tộc, bộ
lạc đều bỡnh đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cùng săn bắn, hái lượm và
cùng được hưởng những phần của cải như nhau trong số sản phẩm thu được, và tuy
nhiên họ đều phải tuân thủ như nhau về các quy ước chung trong cộng đồng, không có
trường hợp ngoại lệ. Mọi hành vi trái với quy ước chung của cộng đồng thỡ phải chịu
sự trừng phạt theo quy ước đó định. Ở xó hội này, Ph.Ăngghen đó nhận xột: "Với tất
cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết
bao... Tất cả đều bỡnh đẳng và tự do" [47, tr. 147-148]. Tuy nhiên, trong xó hội cộng
sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất cũn thấp kộm nờn sản phẩm lao động cũn ớt ỏi
chỉ đủ để tồn tại, nên cách cùng làm cùng hưởng theo kiểu chia đều là phương thức
duy nhất để xó hội cựng tồn tại.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra đó cú dư thừa tương đối thỡ
xuất hiện tư hữu, giai cấp, nhà nước, xó hội chiếm hữu nụ lệ ra đời cùng với sự bất
bỡnh đẳng, phân chia đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn cũng như địa vị của từng cá nhân
trong xó hội. Như vậy CBXH bắt đầu bị vi phạm.
Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Pla-tôn (427-347 tr.CN) khi bàn về vấn đề
Nhà nước đó cho rằng: một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công
bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không phải lợi ích của mỗi
người cầm quyền. Ari-xtốt (384-322 tr.CN) cho rằng: sự phân chia giai cấp và địa vị
giai cấp là lẽ tự nhiên, công bằng và bỡnh đẳng chỉ áp dụng cho những người cùng giai
cấp, cỏc giai cấp khỏc nhau thỡ cụng bằng và bỡnh đẳng giai cấp khác nhau; sự bất
bỡnh giữa cỏc giai cấp theo ông đó chính là sự công bằng. Ở Trung Quốc cổ đại, Hàn
Phi Tử đó phỏt triển tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng trước thành một học thuyết
pháp trị khá hoàn chỉnh nhằm thiết lập một xó hội cụng bằng.
Trong xó hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp địa chủ và nông dân, đất
đai và tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp địa chủ, quý tộc, nông dân chỉ là người đi cày
thuê cuốc mướn, con người hàng ngày vẫn phải đối mặt với những bất cụng trong xó
hội. Đây cũng chính là nguyên nhân của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân
chống lại bọn địa chủ phong kiến đũi cụng bằng và bỡnh đẳng trong xó hội. Ph.
Ăngghen đó từng nhận xột: "Điều đó lý giải vỡ sao chế độ phong kiến lại có nhiều
cuộc khởi nghĩa chống lại địa chủ, lónh chỳa để đũi cụng bằng xó hội" [42, tr. 243].
Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với chiêu bài: "Tự do, bỡnh đẳng, bác ái", của
giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến, đồng thời khẳng
định các quyền tự do cá nhân, quyền được sống trong xó hội dõn chủ theo mụ hỡnh
nhà nước "tam quyền phân lập" với một nền pháp luật tiến bộ, công bằng. Đây là
những nội dung cơ bản trong tư tưởng CBXH của thời kỳ này.
Tômát Hốpxơ (1588-1679), nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ nghĩa duy
vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: con người là giống nhau mà tạo hóa đó ban cho nờn
con người phải được công bằng và bỡnh đẳng, nhưng con người thỡ lại cú tớnh tham
lam và ớch kỷ nờn khụng thể cú sự bỡnh đẳng và công bằng, ông đó chỉ ra rằng: Để đi
đến sự công bằng giữa con người với con người thỡ phải cú một lực lượng đứng trên
để dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó chính là nhà nước. Tư tưởng này của Tômát Hốpxơ
đó mang tớnh duy vật về xó hội nhưng lại chưa thấy được trong xó hội cú đối kháng
giai cấp thỡ nhà nước mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, nên ông đó cho rằng
không thể thực hiện CBXH chung cho toàn xó hội.
Tiếp tục tư tưởng của Tômát Hốpxơ, Xpinôza (1632-1677) đó đưa ra tư tưởng
giải phóng con người và giải phóng mỡnh đó là nhận thức, chính nhận thức mà làm
cho con người tránh khỏi tệ nạn xó hội, giải phóng mọi áp bức và bất công. Ông cho
rằng, dốt nát là nguyên nhân của áp bức, bất công, không nhận thức được hiện thực thỡ
khụng thể chế ngự được lũng ham muốn của mỡnh. Tuy nhiờn, quan điểm của ông vẫn
chưa duy vật triệt để về xó hội.
Đến Giăng Giắc Rútxô (1712-1778); nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng lỗi
lạc của triết học Khai sáng Pháp, ông cho rằng: xó hội cụng dõn đó tạo ra một xiềng
xớch mới trúi buộc kẻ yếu, thế lực thuộc về kẻ mạnh, luụn kỡm hóm, thủ tiờu bỡnh
đẳng cá nhân và duy trỡ quan hệ bất bỡnh đẳng. Theo ông, muốn xóa bỏ bất công, bất
bỡnh đẳng thỡ phải xõy dựng một nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ, đồng thời
ông cũng phê phán sở hữu tư nhân vỡ sở hữu tư nhân là nguyên nhân làm phân hóa
thành kẻ giàu người nghèo, muốn xóa được sở hữu tư nhân thỡ phải thiết lập khế ước
xó hội thỡ mới đạt được công bằng và bỡnh đẳng. Đây là những lý tưởng nhân đạo
nhưng cũng chưa thoát khỏi hạn chế lịch sự.
Imanuen Cantơ (1724-1804), đại biểu của nền triết học cổ điển Đức, một trong
những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước C.Mác, khi bàn
về vấn đề xó hội ụng đó cho rằng: CBXH bao gồm công bằng và bảo hộ, công bằng
trong trao đổi và phân phối. Đây là tư tưởng tiến bộ của ông mà sau này được nhiều
người thừa kế.
Các nhà xó hội khụng tưởng cũng phê phán mạnh mẽ xó hội đương thời được
xây dựng trên nền móng của sự chiếm hữu, đồng thời các ông cũng đề ra một mô hỡnh
xó hội mới mà ở xó hội đó mọi người đều phải lao động và hưởng thụ như nhau, xóa
bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xó hội cụng bằng tạo điều kiện công bằng cho
mọi thành viên trong xó hội, tuy nhiên đây là một mô hỡnh xó hội khụng tưởng cả về
lý luận và thực tiễn, đây là một mơ ước về xó hội lý tưởng mà công bằng là theo chủ
nghĩa bỡnh quõn, cào bằng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tư tưởng về CBXH của
nhân loại đó cú những bước tiến khá dài khác hẳn về chất so với cỏc xó hội trước đó.
Chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay đó trải qua những thăng trầm trong
lịch sử nên có những bài học về việc điều chỉnh CBXH và cũng đạt được một số thành
tựu, đồng thời dưới danh nghĩa "phúc lợi chung", chủ nghĩa tư bản đó làm dịu bớt
được sức nóng trong xó hội tư bản, chủ nghĩa tư bản đó nhận thức được rằng cuộc đấu
tranh giữa công nhân và tư sản về công bằng có thể sẽ là một mất một cũn nếu khụng
thực sự xoa dịu được tỡnh hỡnh, chớnh vỡ vậy mà chủ nghĩa tư bản có những điều
chỉnh tương đối hợp lý, làm giảm bớt sức nóng về CBXH trong xó hội tư bản. Tuy
nhiên, đây chỉ là những biện pháp mang tớnh hỡnh thức, cũn về thực chất và lâu dài
thỡ sự đũi hỏi cụng bằng của giai cấp cụng nhõn và cỏc tầng lớp nhõn dõn lao động
đang chịu bất công với giai cấp tư sản tất yếu sẽ được thực hiện bằng một cuộc cỏch
mạng xó hội.
Như vậy, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản chỉ là phương tiện để
đạt mục đích đó là lợi nhuận cho nhà tư bản chứ không phải là cái đích CBXH mà
nhân loại đang cần vươn tới. Olivier de Solages (nhà kinh tế học người pháp) khẳng
định: "Đông đảo quần chúng không thể hiện được rằng một sự tăng trưởng kinh tế
ngày càng gia tốc lại được thể hiện bằng một sự phân phối bất công đến thế về thu
nhập quốc dân và bằng những bất bỡnh đẳng ngày càng trầm trọng" [74, tr. 92].
Bên cạnh đó cũn xuất hiện nhiều tư tưởng về CBXH theo trào lưu tân cổ điển
và cổ điển, họ đó nhấn mạnh tự do cỏ nhõn theo một chiều trong mối quan hệ với
CBXH, họ cho rằng chính tự do cá nhân mới là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
(TTKT) và tiến bộ xó hội. Vỡ vậy, muốn phỏt triển thỡ phải giảm bớt CBXH, không
thể cùng một lúc vừa có TTKT lại vừa có CBXH được, mà chỉ khi nào kinh tế tăng
trưởng đến một mức độ nhất định nào đó thỡ mới cú đủ điều kiện để thực hiện CBXH.
Quan điểm này đó bị chớnh xó hội tư sản bác bỏ vỡ phủ nhận vai trũ CBXH trong việc
thúc đẩy TTKT. Max - Weber (nhà xó hội học và triết học người Đức) lại giải thích bất
công trong chủ nghĩa tư bản bằng khả năng không ngang nhau trong việc chiếm lĩnh thị
trường của các doanh nghiệp hoặc người lao động, ụng cũn cho rằng cơ may và vận hội
trong cuộc đời không thể chia đều cho mọi người. Đõy cũng là lý do để tồn tại những vị
thế khỏc nhau trong xó hội, những điều như vậy là nguyên nhân dẫn đến bất cụng
trong xó hội tư sản. Học thuyết này có đóng góp lớn đối với sự phân tầng xó hội song
chưa lý giải trọn vẹn bản chất của sự bất cụng trong chủ nghĩa tư bản.
Những người theo quan điểm xó hội dõn chủ trong khi bỏc bỏ tớnh phiến diện
của trào lưu cổ điển và tân cổ điển đó tỡm kiếm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa tự do cỏ nhõn,
CBXH với TTKT, nhưng thực tế lại dẫn đến sai lầm. Đường lối của Đảng xó hội dõn
chủ Thụy Điển một thời lầm tưởng rằng đó thật sự cú CNXH và CBXH, nhưng thực tế
thỡ đó là CBXH mà ở đó đó làm mất động lực TTKT, những kẻ lười lao động nghiễm
nhiên lại được hưởng một phần không nhỏ của hệ thống phúc lợi. Ngôi nhà CBXH của
Đảng xó hội dõn chủ Thụy Điển đó hoàn toàn sụp đổ, đây là tiếng chuông cảnh tỉnh
cho ảo tưởng tỡm kiếm CBXH đích thực trong chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đó chứng
minh rằng chủ nghĩa tư bản không phải là lời giải tốt cho nhân loại về CBXH.
Như vậy, trong tiến trỡnh lịch sử nhõn loại, toàn bộ những quan điểm tư tưởng
trước Mác và ngoài Mác cũng như thực tiễn lịch sử đó đề cập đến rất nhiều về vấn đề
CBXH, đó cú những quan niệm khỏc nhau về nhưng chưa có một quan niệm nào, đầy
đủ, toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về CBXH. Tuy nhiên, đây là những tiền đề
rất quan trọng cho các nhà tư tưởng sau này khi nghiên cứu về vấn đề CBXH.
1.1.2. Quan điểm mácxít về cụng bằng xó hội
Chủ nghĩa Mác với phương pháp nhận thức duy vật biện chứng, đồng thời kế
thừa những yếu tố hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó, trên cơ sở thâm nhập trực tiếp
vào thực tiễn, đó đưa ra những quan điểm rất cơ bản về CBXH: CBXH là một phạm trù
có tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc, nó thay đổi theo cỏc hỡnh thỏi kinh tế - xó hội nhất
định, thậm chớ cũn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hỡnh thỏi
kinh tế - xó hội nhất định.
Theo quan điểm mácxớt thỡ trong cỏc nhà nước bóc lột không thể tồn tại
CBXH theo đúng nghĩa của nó, mà trái lại càng đẩy bất công xó hội lờn tới đỉnh điểm
cho cuộc cách mạng xó hội. Khi phõn tớch chủ nghĩa tư bản, C.Mác đó chỉ ra rằng: sự
TTKT trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trỡnh tăng cường bóc lột giai cấp
công nhân, vỡ vậy sự tăng trưởng đó về bản chất không thể tự dẫn tới CBXH được.
Phương thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản là khụng hợp lý vỡ nú khụng dựa vào
sức lao động mà lại dựa vào tài sản và vốn nên dẫn đến nhà tư bản ngày càng giàu lên
trên sự nghèo khổ của công nhân và người lao động. Đây chính là sự phân phối không
công bằng trong chủ nghĩa tư bản, làm cho mõu thuẫn trong xó hội tư bản ngày càng
gay gắt. C.Mác chỉ ra rằng, phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa chỉ mất đi khi
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xó hội hóa ngày càng cao với quan
hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng
XHCN để mở ra một thời đại mới, thời đại đó tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hóa
và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý hơn, CBXH sẽ được bảo đảm.
Theo các nhà mácxớt thỡ chỉ cú chủ nghĩa cộng sản với tư cách là xó hội phỏt
triển nhất của nhõn loại, ở xó hội này sự phỏt triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của mọi người. Xó hội cú khả năng thực hiện phân phối theo
nhu cầu, và chỉ như vậy thỡ mới cú thể thực hiện CBXH một cách tuyệt đối. Tuy
nhiên, quan điểm mácxít cũng cho thấy rằng: CNXH với tư cách là giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản thỡ chưa có CBXH như người ta mong muốn (công bằng tuyệt
đối), vỡ ở đó vẫn cũn tồn tại nhiều tiền đề kinh tế - xó hội cho bất bỡnh đẳng như tư
hữu và những yếu tố của pháp quyền tư sản trong phân phối. Đây chính là phân phối
theo lao động - một nguyên tắc của việc phân phối chủ yếu trong CNXH và là nét đặc
trưng trong quan niệm về CBXH trong thời kỳ này và cũng chính là "thiếu sót không
thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".
Trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôtha", C.Mác đó đề cập tới phân phối
trong CNXH, ông cho rằng, trong XHCN, sau khi đó khấu trừ đi những khoản cần
thiết để duy trỡ sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trỡ đời sống của cộng đồng,
toàn bộ sản phẩm xó hội cũn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: Mỗi người sản
xuất sẽ được nhận trở lại từ xó hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với
số lượng lao động mà anh ta đó cung cấp cho xó hội (sau khi đó khấu trừ số lao động
của anh ta cho cỏc quỹ xó hội). Đõy là một nguyờn tắc phõn phối cụng bằng vỡ ở đây
tất cả những người sản xuất đều có quyền ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của
xó hội khi làm một cụng việc ngang nhau. Như vậy, theo C.Mác, trong chế độ XHCN
thỡ lao động theo năng lực cá nhân và được nhận lại một phần sản phẩm anh ta làm ra
vừa đúng với cái mà anh ta đóng góp cho xó hội sau khi đó khấu trừ đi số lao động cần
thiết để duy trỡ, phỏt triển sản xuất và cỏc quỹ phỳc lợi xó hội, mọi người sản xuất đều
có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào quỹ tiêu dùng của xó hội khi làm một
cụng việc ngang nhau, nguyên tắc phân phối này được coi là công bằng. Tuy nhiên,
ông cũng chỉ ra rằng, trong điều kiện của CNXH, sự phân phối công bằng đó chẳng
những chưa loại trừ được mà vẫn cũn hàm chứa trong nú sự chấp nhận một tỡnh trạng bất
bỡnh đẳng nhất định giữa các thành viờn trong xó hội vỡ: với một công việc ngang
nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xó hội thỡ trờn
thực tế người này vẫn lĩnh hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia [45, tr.
35]. Do vậy, muốn trỏnh tất cả những thiếu sút ấy thỡ quyền phải lao động không
bỡnh đẳng chứ không phải là bỡnh đẳng [45, tr. 35]. Đây cũng là ưu việt những cũng
là thiết sót của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót không thể tránh
khỏi trong giai đoạn đầu của cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác cũng phân biệt sự khác nhau giữa CBXH với bỡnh đẳng xó hội
(BĐXH), theo ụng thỡ CBXH không đồng nhất với BĐXH, có khi chúng ta đang thực
hiện CBXH nhưng vẫn chưa thực hiện được BĐXH, khi nói tới BĐXH là nói tới sự
ngang bằng nhau giữa người và người trong xó hội về một phương diện nào đấy như
kinh tế, chính trị, văn hóa, xó hội..., BĐXH hoàn toàn là sự ngang bằng nhau giữa
người và người trong xó hội về mọi phương diện. Cũn CBXH là sự ngang bằng nhau
giữa người với người về một phương diện xác định, về phương diện quan hệ giữa
nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ, theo nguyờn tắc cống hiến ngang nhau
thỡ hưởng thụ ngang nhau, và vỡ vậy xét theo khía cạnh này thỡ CBXH là một dạng,
một biểu hiện cụ thể của BĐXH và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần của
BĐXH, là thực hiện CBXH về một phương diện nhất định, phương diện quan hệ giữa
cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt
tới BĐXH hoàn toàn.
V.I.Lênin cho rằng:
Như thế là trong giai đoạn đầu của xó hội cộng sản chủ nghĩa (mà
người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xó hội), pháp quyền tư sản chưa bị xóa
bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần, chỉ bị xóa bỏ với mức độ phù hợp
với cuộc cách mạng kinh tế đó được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi
tư liệu sản xuất thôi. Pháp quyền tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu
riêng của cá nhân. chủ nghĩa xó hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung
[34, tr. 116].
Lờnin cũng rất chỳ ý đến công bằng trong phân phối lao động, ông cho rằng:
"Người nào không làm thỡ khụng cú ăn", nguyên tắc này được thực hiện "số lượng lao
động ngang nhau, thỡ hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau" [34, tr. 116].
Theo quan điểm mácxớt thỡ phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày càng
cao cho việc thực hiện CBXH, không thể có CBXH đích thực trong một xó hội nghốo
khổ kộm phỏt triển, đồng thời quan điểm mácxít cũng đề cập đến một xó hội giàu có, của
cải dư thừa nhưng lại thiếu công bằng trong phân phối, TTKT là yếu tố quan trọng nhưng
không phải là duy nhất để thực hiện CBXH. Đây là quan điểm khác biệt cơ bản giữa
quan điểm mácxít với quan điểm ngoài mácxít, phải biết kết hợp hài hũa, biện chứng
giữa TTKT và CBXH.
Bên cạnh đó quan điểm mácxít cũng chỉ ra điểm khác biệt giữa quan niệm
mácxít với các quan niệm khác về CBXH, đó là con đường đấu tranh với những bất
công xó hội mà trong đó bất công về địa vị kinh tế là lớn nhất, "Những điều công bằng
về mặt luân lý, thậm chí công bằng cả về mặt pháp luật, cú thể cũn xa với cụng bằng
về mặt xó hội" [45, tr. 365]. CBXH không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là sản
phẩm của cuộc đấu tranh giữa con người với những bất công trong xó hội.
Theo quan điểm mácxít, trong CNXH thỡ CBXH trong lĩnh vực kinh tế đóng
vai trũ cơ sở và quyết định các lĩnh vực khác như văn hóa, xó hội v.v..., giữa cống
hiến (thực hiện nghĩa vụ) và quyền lợi (quyền được hưởng quyền lợi), công bằng
theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít. Tuy nhiên, theo cỏc ụng thỡ CBXH cũng chỉ mang tính tương đối, nó chỉ
thích hợp với giai đoạn thấp của xó hội CSCN, lúc đó vừa lọt lũng từ xó hội TBCN
ra sau nhưng cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế
và sự phát triển văn hóa của xó hội do chế độ kinh tế đó quyết định [45, tr. 35-36].
Trong các giai đoạn khác nhau thỡ quan niệm về CBXH cũng khác nhau, quan niệm
về CBXH trong CNXH sẽ thay đổi khi CNXH thay đổi sang một hỡnh thức mới cao
hơn.
Theo quan điểm mácxớt thỡ một xó hội cú cụng bằng thực sự chỉ khi con
người không lệ thuộc vào phân công lao động, khoảng cách giữa lao động trí óc và lao
động chân tay được thu hẹp, lúc đó lao động không cũn nhằm mục đích sinh sống mà là
nhu cầu hoạt động và phát triển, cá nhân được phát triển một cách toàn diện, sức sản xuất
xó hội sẽ cú sự tiến bộ vượt bậc chưa từng có trong lịch sử, của cải dư thừa thỡ khi đó
mới là làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Mọi cá nhân có nhu cầu phát huy mọi
tiềm năng để vươn tới ngang nhau về năng lực, điều kiện, cơ hội thỡ khi đó mới đạt tới
công bằng tuyệt đối.
Trên cơ sở nền tảng của quan điểm mácxít, Hồ Chí Minh đó vận dụng sáng
tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người luôn coi CBXH gắn với độc lập dân tộc
và CNXH, theo Hồ chớ Minh thỡ tiến lờn CNXH, CNCS là phương thức duy nhất
đúng hợp lũng người để thực hiện CBXH "chỉ có CNCS mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bỡnh đẳng bác ái, đoàn kết,
ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vỡ mọi người, niềm vui, hũa bỡnh và
hạnh phỳc" [49, tr. 115]. "Mục tiêu của CNXH là gỡ? nói một cách giản đơn và dễ
hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động... "Chủ nghĩa xó hội là gỡ? là mọi người ăn no mặc ấm, tự do"
[52, tr. 22], Người nói: "có khi vật tư hàng hóa không thiếu, mà phân phối không đúng
thỡ gõy ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối có hai điều
quan trọng luôn phải nhớ:
"Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Khụng sợ nghốo chỉ sợ lũng dõn khụng yờn" [51, tr. 185].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh thỡ cụng bằng khụng cú nghĩa là cào bằng, bỡnh
quõn chủ nghĩa. Khụng cú tỡnh trạng người giỏi, người kém, việc khó việc dễ cũng
cùng điểm như nhau" [51, tr. 143].
Từ sự thâm nhập, tổng kết và khái quát thực tiễn Người khẳng định rằng trong
chế độ xó hội thực dõn khụng cú CBXH mà "... Nhân dân chỉ có nghĩa vụ, như nộp sưu
đóng thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi" [53, tr. 219], công nhân, nông dân là
những người chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất cho xó hội, nhờ đó xó hội mới tồn tại
và phỏt triển nhưng lại rất bất công vỡ họ luụn là những người nghèo khổ, trong khi đó
một số người lại "ngồi mát ăn bát vàng", theo Người thỡ nguyờn nhõn của sự bất công
đó là "vỡ một số người đó chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xó hội " [53,
tr. 203]. Người kết luận rằng CBXH chỉ cú trong xó hội mới, dưới chế độ dân chủ
cộng hũa " Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi" [53, tr. 219]; "Nhà nước ta
ngày nay là của tất cả những người lao động...Nhân dân lao động là những người chủ
tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bỡnh đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ" [53, tr. 310].
Như vậy CBXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường được gắn kết với bỡnh
đẳng xó hội tức là mối quan hệ giữa quyền lợi với nghĩa vụ, bỡnh đẳng giữa nghĩa vụ
với quyền lợi. Bỡnh đẳng trước hết là bỡnh đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, bỡnh đẳng
giữa người với người trong việc thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi ấy, đó
chính là thực hiện CBXH. Phân phối công bằng theo Người là: "Làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thỡ khụng được hưởng". Đây là nguyên tắc phân
phối công bằng trong điều kiện nước ta hiện nay; Do đó, sự bỡnh đẳng của những
người lao động trong mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, mà cụ thể là sự ngang
bằng nhau về địa vị làm chủ nước nhà, làm chủ tư liệu sản xuất, bảo đảm cho mỗi
người đều có thể phát huy mọi khả năng của mỡnh để vươn tới một cuộc sống ấm no
hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chớ Minh thỡ CBXH không những chỉ là mục tiêu của
CNXH mà cũn là một động lực thúc đẩy kinh tế - xó hội của đất nước, là một yêu cầu
bức thiết của công cuộc xây dựng CNXH nhất là trong điều kiện nền kinh tế cũn gặp
nhiều khú khăn, Theo Người không nhất thiết là kinh tế phải phỏt triển ở trỡnh độ cao
thỡ mới thực hiện được CBXH "không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng".
Người nhấn mạnh: "CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng v.v... làm của
chung. Ai làm nhiều thỡ ăn nhiều, ai làm ớt thỡ ăn ít, ai không làm thỡ khụng ăn, tất
nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em. Thế ta đó đến đấy chưa? chưa đến.
CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần " [54, tr. 219]. Người kiên quyết
chống lại chủ nghĩa bỡnh quõn, "đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có,
nhưng nếu bỡnh quõn chủ nghĩa thỡ lại khụng đúng. Bỡnh quõn chủ nghĩa là gỡ? là ai
cũng như ai, bằng hết. Bỡnh quõn chủ nghĩa là trỏi với CNXH, thế là không đúng"
[54, tr. 386].
Như vậy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, cụng bằng và bỡnh đẳng là một mục
tiêu của sự nghiệp xây dựng chế độ xó hội mới, nú khụng phải là chủ nghĩa bỡnh quõn
cào bằng trong sự nghốo khổ. Mục tiờu của nghĩa nghĩa xó hội là khụng ngừng nõng
cao đời sống của nhân dân là phấn đấu:
Làm cho người nghèo thỡ đủ ăn
Người đủ ăn thỡ khá giàu
Người khá giàu thỡ giàu thờm [52, tr. 65].
Bên cạnh đó, Người rất chú trọng đến lợi ích cá nhân nhằm động viên mỗi
người không ngừng phấn đấu, cống hiến nhiều nhất cho xó hội, đồng thời đấu tranh
chống lại chủ nghĩa cá nhân, chính chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên gây ra trăm thứ
bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ô, lóng phớ, chủ quan v.v... mang tính
cá nhân, không nghĩ tới lợi ích giai cấp, dân tộc. Tuy nhiên cũng cần phân biệt rằng chủ
nghĩa cá nhân khác lợi ích cá nhân, nếu chống chủ nghĩa cá nhân mà lại vi phạm lợi ích chính
đáng của cá nhân thỡ sẽ dẫn tới sai lầm, Người khẳng định rằng " Lợi ích cá nhân là nằm
trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được
đảm bảo thỡ lợi ớch riờng của cỏ nhõn mới có điều kiện để được thỏa món" [55, tr.
291]. Việc đảm bảo lợi ích chung tức là bảo vệ điều kiện để thực hiện lợi ích của mỗi
cá nhân, (tức là biện pháp nhằm đảm bảo CBXH). Tư tưởng "mỡnh vỡ mọi người, mọi
người vỡ mỡnh" là thể hiện sự công bằng giữa lợi ích cá nhân với cá nhân, cá nhân với
tập thể và cộng đồng.
Như vậy, Hồ Chí Minh đó cú quan điểm về CBXH khá toàn diện và sâu
sắc.Thực chất của CBXH theo Người là không gỡ khỏc ngoài mối quan hệ giữa giữa
cống hiến và hưởng thụ, ai làm nhiều thỡ hưởng nhiều, ai làm ớt thỡ hưởng ít, khụng
làm thỡ khụng hưởng (trừ những người già cả, bệnh tật và trẻ em). Người cũng cho
thấy rừ rằng khụng nhất thiết phải xó hội giàu cú thỡ mới thực hiện được CBXH, mà
ngay khi xó hội cũn chưa thật giàu có vẫn thực hiện được CBXH, tùy điều kiện kinh tế
xó hội khỏc nhau mà việc thực hiện CBXH khác nhau. Người cũng chỉ rừ CBXH khác
với cào bằng, bỡnh quõn chủ nghĩa nếu đồng nhất chúng thỡ sẽ triệt tiờu động lực tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Người chỉ ra rằng thực hiện CBXH là cả một quỏ trỡnh,
phải làm từng bước một, trỏnh sự nụn núng và trỏnh sự trỡ trệ, ỷ lại, trông chờ. Cuối
cùng người khẳng định CBXH là mục tiêu của CNXH mà chúng ta cần phải vươn tới,
chỉ cú xó hội XHCN mới thực sự đem lại CBXH cho nhân dân lao động, phương thức
duy nhất để thực hiện CBXH là đi lên CNXH, CBXH là việc tạo ra điều kiện cho mỗi
người có cơ hội tham gia vào quá trỡnh phỏt triển của xó hội và hưởng thụ những
thành quả của sự phát triển, là đảm bảo quyền tự do của mỗi người trong quan hệ gắn
bó với cộng đồng. CBXH phải được thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết quan hệ giữa
phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xó hội, giải quyết hài hũa giữa quyền lợi
và nghĩa vụ của mỗi người. CBXH là trách nhiệm chung của nhà nước, của toàn xó hội
trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của nhân dân và tạo ra điều kiện thuận lợi để
nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi của mỡnh đối với nhà nước và xó hội.
1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về công bằng xó hội trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN, đây là mô hỡnh kinh tế phự
hợp với Việt nam và là mụ hỡnh kinh tế lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử - mụ hỡnh kinh
tế của thời kỡ quỏ độ lên CNXH. Trong điều kiện đó, CBXH phải được hiểu như thế nào
cho đúng với điều kiện Việt nam hiện nay.
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa về công bằng như sau:
1…Khái niệm công bằng nêu ra sự tương quan giữa một số hiện
tượng theo quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa người với
người. CBXH đũi hỏi sự tương xứng giữa vai trũ của những cỏ nhõn
(những giai cấp) với địa vị của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động và
thù lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ. Không có sự
tương xứng trong những quan hệ ấy là bất công.
2. Cụng bằng xó hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa món
một cỏch hợp lý những nhu cầu của cỏc tầng lớp xó hội, cỏc nhúm xó hội,
cỏc cỏ nhõn xuất phỏt từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế -
xó hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa có sự công bằng nào được coi là
tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẫn giữa nhu cầu con người và khả
năng hiện thực của xó hội cũn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi xó hội cú
sự đũi hỏi riờng về CBXH [28, tr. 580-581].
Trong từ điển Triết học giản yếu do Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp và Lờ Hữu
Tầng biờn soạn thỡ khỏi niệm cụng bằng, cụng lý được trỡnh bày như sau:
Nội dung của công bằng không có tính chất chung chung, bất di, bất
dịch phi thời gian - nó thay đổi theo lịch sử, phán ánh hoàn cảnh kinh tế - xó
hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức của từng giai cấp theo quyền
lợi của mỡnh. Trờn cơ sở quan hệ kinh tế, xó hội và chớnh trị của CNXH,
khỏi niệm cụng bằng mang một nội dung mới: Tất cả mọi người đều có thể
trong thực tế, phát triển như nhau nhân cách, tài năng, khả năng và đều có
nhiệm vụ hoạt động vỡ lợi ớch xó hội. Nguyờn tắc Mỗi người làm theo năng
lực, và hưởng theo lao động được thực hiện, chỉ khi nào tới CSCN thỡ mới
thực hiện được nguyên tắc Mỗi người làm theo khả năng và hưởng theo nhu
cầu [62, tr. 97-98].
Theo PGS,TS Dương Xuân Ngọc:
Cụng bằng xó hội là một phạm trự xó hội dựng để chỉ trỡnh độ phát
triển về phương diện xó hội của con người (cá nhân và cộng đồng), được
thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xó hội: kinh tế, chớnh
trị, xó hội, văn hóa, tinh thần, mà trước hết là lĩnh vực xó hội. Nú phản ỏnh
mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi giữa xó hội và cỏ nhõn, nhằm đảm
bảo sự phát triển hài hũa của con người, của xó hội phự hợp với xu thế và
tiến bộ xó hội. CBXH vừa là khỏt vọng của con người, vừa là động lực, là
mục tiêu của sự phát triển xó hội, của cỏch mạng xó hội chủ nghĩa, của sự
nghiệp đổi mới theo định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta [63, tr. 37-39].
Theo GS,PTS Lê Hữu Tầng: khái niệm CBXH và BĐXH tuy có nội dung rất
gần nhau nhưng dù sao chúng vẫn là những khái niệm khác nhau. Sự khác nhau ấy là ở
chỗ nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người trong xó hội về
một phương diện nào đấy (về kinh tế, chính trị, văn hóa, xó hội.v.v), và nói tới BĐXH
hoàn toàn là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người trong xó hội về mọi
phương diện. Trong khi đó, nói tới CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người
với người không phải về một phương diện nào đấy bất kỳ, mà chính là về một phương
diện hoàn toàn xác định: về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa
cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) ngang nhau
thỡ hưởng thụ (được hưởng quyền lợi) ngang nhau. Theo nghĩa này mà xét thỡ CBXH
là một dạng, một biểu hiện cụ thể của BĐXH và thực hiện CBXH chính là thực hiện
một phần của BĐXH, là thực hiện BĐXH về một phương diện nhất định, phương diện
quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài
nhằm dần dần đạt tới bỡnh đẳng xó hội hoàn toàn chứ chưa phải là đó đạt tới BĐXH
hoàn toàn [78, tr. 27-28].
Theo TS Nguyễn Thị Nga:
Cụng bằng xó hội hiểu theo nghĩa chung nhất là sự ngang bằng nhau
trong mối quan hệ giữa mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên tắc
thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng
thành viên trong xó hội gắn bó với cộng đồng xó hội trên mọi lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xó hội thông qua sự cống hiến theo khả năng trí
tuệ, sức lực của mỡnh cho sự phát triển xó hội và được xó hội bù đắp, chăm
sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là bất công
[61, tr. 3].
Như vậy:
CBXH là khái niệm chỉ sự tương xứng giữa vai trũ và vị thế của
cỏc thành viờn xó hội (cỏ nhõn, giai cấp, nhúm xó hội), giữa cỏi mà họ tạo
ra được xó hội với cỏi được nhận lại có thể là điều tốt lành hoặc ngược lại)
như cống hiến và hưởng thủ, lao động và sự trả công, quyền và nghĩa vụ, vi
phạm pháp luật và trỏch nhiệm phỏp lý. không có sự tương xứng nói trên là
bất công xó hội [91, tr. 25].
Từ những khái niệm trên có thể hiểu:
Thứ nhất, CBXH là một khỏi niệm mang tớnh lịch sử - xó hội, trong mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau, mỗi hỡnh thỏi kinh tế - xó hội khỏc nhau thỡ nội dung CBXH
cũng khỏc nhau.
Thứ hai, CBXH là đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau
và là sự đối xử khác nhau với những người có đóng góp khác nhau, những khác biệt
bẩm sinh hoặc có những điều kiện xó hội khỏc nhau. CBXH được thực hiện bằng cơ
chế thị trường và sự điều tiết của nhà nước. Chỉ như vậy thỡ mới thực hiện được
CBXH một cách thực sự.
Thứ ba, CBXH không chỉ là ở sự phân phối kết quả sản xuất, tức là sự tương
xứng giữa lao động và thu nhập, cống hiến và hưởng thụ mà cũn phải xột đến việc có
cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn tư liệu sản xuất như vốn, tài nguyên,
thông tin, khoa học kỹ thuật.v.v. Phải có cơ hội ngang nhau để phát huy năng lực cá
nhân.
Thứ tư, CBXH không chỉ đơn thuần là cống hiến về mặt kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế, mà phải tính đến việc cống hiến về tư liệu sản xuất (vốn, tài năng trí
tuệ…) và họ phải được hưởng một phần thành quả lao động từ sự cống hiến ấy. Chỉ
như vậy thỡ mới tạo được động lực phát triển kinh tế - xó hội và mới là CBXH.
Thứ năm, CBXH phải tính đến sự cống hiến trong quá khứ và hiện tại của các
chiến sĩ cách mạng, lực lượng vũ trang, đó là những thương binh, những liệt sĩ, người có
công với cách mạng đó hy sinh xương máu sức lực của bản thân mỡnh trong cỏc cuộc
khỏng chiến vỡ mục tiờu và lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc và họ phải được bù đắp
lại một phần tương xứng. Đó mới là CBXH.
Thứ sáu, Kinh tế thị trường đó tạo động lực cho phát triển và TTKT, đồng thời
tạo nên sự phân hóa giàu nghốo trong xó hội, về mặt tích cực nếu giàu nghèo là do sự
cống hiến về lao động, tài năng, trí tuệ. thỡ đó là CBXH, nhưng giàu nghèo do làm ăn
phi pháp, làm giàu không chính đáng thỡ đó lại là bất công trong xó hội.
Đối lập với CBXH là bất công:
Bất công trong tự nhiên: như về thể chất, điều kiện, hoàn cảnh (ốm yếu, tàn
tật; đồng bằng với miền núi; nông thôn với thành thị; Dân tộc thiểu số với dân tộc đa
số; vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo với thành phố, các trung tâm tỉnh lị v.v...).
Bất cụng phi lý phi phỏp: là loại bất cụng mang tính tiêu cực không chính
đáng như tham ô, hối lộ, tham nhũng lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản
lý để tỡm kiếm lợi ớch, làm giàu khụng chớnh đáng. Bất công này cần phải nhanh
chóng xóa bỏ thỡ mới cú thể thực hiện được CBXH.
Nước ta trong điều kiện hiện nay, CBXH phải được xem xét một cách toàn
diện trong các lĩnh vực trong đó công bằng trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trũ quyết
định. Công bằng trong kinh tế trong điều kiện hiện nay trước hết phải tạo điều kiện
cho mọi thành viên trong xó hội phát triển khả năng, năng lực của mỡnh, đảm bảo môi
trường cạnh tranh bỡnh đẳng cho các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh doanh, coi
kinh tế của họ là một trong những bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, chỉ như
vậy thỡ mới phỏt huy được tính năng động sáng tạo, phát huy được mọi nguồn lực và
thúc đẩy LLSX phát triển. LLSX kộm phỏt triển thỡ việc thực hiện CBXH khú cú thể
thực hiện được.
CBXH phải cân đối giữa các vùng, các miền, giữa các dân tộc, các tầng lớp
trong quá trỡnh phỏt triển. KTTT thường đi đôi với sự phân hóa giàu nghốo vỡ vậy
việc phỏt triển KTTT định hướng XHCN hiện nay, vấn đề thực hiện CBXH là cả một
quá trỡnh lõu dài và phức tạp trong toàn bộ quỏ trỡnh phỏt triển, phải giải quyết dần
dần, gắn CBXH ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển. Tuy nhiên,
trong tỡnh hỡnh đó đũi hỏi phải cú sự lónh đạo, quản lý và điều tiết của NTCQ, tránh
tỡnh trạng phõn hóa quá mức, làm cho mức độ giàu nghèo giảm xuống theo đà TTKT
ngày càng cao, tạo nờn sự hợp lý giữa cỏc vựng, cỏc tầng lớp và các dân tộc.
CBXH phải đảm bảo tính thống nhất và hợp lý giữa quyền lợi và nghĩa vụ,
giữa cống hiến và hưởng thụ của các thành viên trong xó hội. Cống hiến nhiều thỡ
hưởng nhiều, cống hiến ít thỡ hưởng ít, cống hiến khác nhau thỡ hưởng thụ khác nhau,
trỏnh tỡnh trạng cào bằng bỡnh quõn chủ nghĩa. CBXH phải giải quyết hợp lý quan hệ
giữa kinh tế và vấn đề xó hội, đảm bảo mọi tầng lớp xó hội được hưởng các quyền lợi xó
hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đào tạo nghề nghiệp, trợ cấp lúc khó khăn hoạn nạn,
đảm bảo các chính sách ưu tiên, ưu đói của xó hội đối với các gia đỡnh chớnh sỏch như
gia đỡnh liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương bệnh binh, người có công với cách
mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, vùng căn cứ cách mạng, người cơ nhỡ,
người ốm đau tàn tật không nơi nương tựa. CBXH đảm bảo cho mọi thành viên trong
xó hội khụng ngừng nõng cao mức sống và tự khẳng định mỡnh.
CBXH đũi hỏi phải xóa bỏ những bất cụng trong xó hội, chống đặc quyền, đặc
lợi, đặc biệt là phải xóa bỏ những bất công phi phí, đi ngược với lợi ích của sự phát
triển của xó hội, vi phạm nguyờn tắc CBXH.
CBXH là một trong những yờu cầu của sự phỏt triển xó hội vỡ CBXH là cỏi
đảm bảo cho mức hưởng thụ của người lao động tương xứng với cống hiến của họ mà
cũn được nâng cao cùng với sự nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của họ.
Như vậy CBXH phù hợp với nhu cầu bên trong của người lao động nên nó kích thích
tính năng động, sáng tạo, thúc đẩy người lao động đem hết khả năng, lũng nhiệt tỡnh,
sức lực, trớ tuệ của mỡnh để tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho
xó hội. CBXH kớch thớch cỏc nhà kinh doanh bỏ vốn, chấp nhận rủi ro để đầu tư cho
sản xuất, kích thích các nhà quản lý phát huy hết năng lực và sáng kiến để hoàn thiện
tổ chức hợp lý hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là điều kiện quan trọng để đảm
bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu đảm bảo
CBXH càng cấp bách hơn trên các lĩnh vực: phân phối, chính sách đối với các thành
phần kinh tế, điều tiết thu nhập hợp lý, chống buôn lậu, độc quyền, chống cạnh tranh
không lành mạnh, khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống thu nhập không chính đáng,
tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người tiếp cận được cơ hội và mọi người đều bỡnh
đẳng trong nền kinh tế. Giải quyết được vấn đề này chính là thực hiện CBXH và là
động lực mạnh mẽ để thúc đẩy TTKT và ngược lại TTKT lại là động lực để thúc đẩy
việc thực hiện CBXH, TTKT phải gắn liền với CBXH ngay trong từng bước và ngay
trong từng chính sách phát triển.
CBXH cú vai trũ rất quan trọng, mất CBXH cú thể kỡm hóm tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Một nền kinh tế - xó hội ổn định và lành mạnh thỡ phải loại trừ được ngày
càng nhiều những bất cụng trong xó hội. Chủ nghĩa mác-xít đó vạch ra những bất công
trong chủ nghĩa tư bản sẽ làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản. Sự sụp đổ của các nước
Đông Âu và Liên Xô cũ đó chứng minh hựng hồn vai trũ của CBXH trong việc đảm bảo
ổn định chính trị - xó hội. Những đũi hỏi về CBXH trong tương lai không chỉ đơn thuần
là lợi ích kinh tế, mà cũn là CBXH về chớnh trị, xó hội trong cỏc vấn đề về quyền con
người và quyền công dân, về vai trũ vị trớ của cỏc giai cấp và cỏc nhúm xó hội trong
mỗi quốc gia, quan hệ giữa cụng dõn với Nhà nước về bỡnh đẳng sắc tộc, chủng tộc.
CBXH cũn là cơ sở, nguồn gốc của cỏc chớnh sỏch xó hội, chớnh
sỏch xó hội là một bộ phận cấu thành nờn chớnh sỏch chung của toàn xó
hội của một Đảng hay chính quyền nhà nước trong việc giải quyết hay quản
lý các vấn đề xó hội. Chớnh sỏch xó hội bao trựm mọi mặt của đời sống con
người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia
đỡnh, quan hệ giai cấp và quan hệ xó hội [28, tr. 478].
Như vậy có nghĩa là các vấn đề chính sách xó hội cần được giải quyết thỏa
đáng theo hướng đảm bảo CBXH, nếu không lấy CBXH làm nguyên tắc, mục tiêu cơ
bản của mỡnh thỡ chớnh sỏch xó hội sẽ trở thành lực cản của TTKT, tạo ra những bất
ổn định xó hội. Thành cụng của sự nghiệp 20 năm đổi mới ở Việt Nam hiện nay phụ
thuộc rất lớn vào tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân, giai cấp, tầng lớp, nhưng
điều đó chỉ có thể thực hiện được khi có một chính sách xó hội hợp lý và cụng bằng.
Chúng ta đang thực hiện nền KTTT có sự quản lý nhà nước theo định hướng
XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH thỡ CBXH được hiểu là mối quan hệ giữa
cống hiến (nghĩa vụ) và hưởng thụ (quyền lợi), cống hiến ngang nhau thỡ hưởng thụ
ngang nhau, cống hiến khác nhau thỡ hưởng thụ khác nhau (làm theo năng lực, hưởng
theo lao động). CBXH cũn được hiểu ở sự điều tiết của nhà nước, đó là các chính sách
ưu đói đối với những bất công tự nhiên, những cống hiến trong quá khứ (kể cả vật
chất, tinh thần, công sức, xương máu, vốn, chất xám). Đó chính là CBXH trong điều
kiện nước ta hiện nay.
Trong tiến trỡnh phỏt triển của lịch sử dõn tộc ta đó cho thầy vấn đề CBXH
luôn được đặt lên hàng đầu, dân tộc ta đó trải qua gần một nghỡn năm Bắc thuộc; Tư
tưởng nho giáo tác động rất mạnh mẽ, đến đời sống tõm lý xó hội của người dân Việt
Nam, nhưng tư tưởng về CBXH khụng những khụng bị pha trộn mà cũn phỏt triển khỏ
đậm nét thông qua cỏc cõu hũ, vè, ca dao, tục ngữ, dân ca:
Con vua thỡ lại làm vua
Con sói ở chựa thỡ quột là đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
CBXH luôn là khát vọng lớn nhất của toàn dân tộc: Độc lập-Tự do-Hạnh
phúc. Cương lĩnh chính trị năm 1930 của Đảng ta vạch ra con đường đấu tranh đúng
đắn vỡ tiến bộ và CBXH xó hội: làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đi lên
CNXH. Trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I, II, III, IV, V, CBXH được thể
hiện thông qua việc cải cách ruộng đất, cải tạo XHCN, thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lóng phớ. Đặc quyền đặc lợi, các
chính sách thuế, bảo hiểm và trợ cấp xó hội, trong vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động.
Trước khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
thống nhất tổ quốc được đặt lên hàng đầu. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả
nước bước vào thời kỡ quỏ độ lên CNXH, do hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, khó
khăn chồng chất, lại ỏp dụng mụ hỡnh kinh tế theo kiểu Liên Xô cũ, cơ chế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp với hỡnh thức sở hữu quốc doanh và sở hữu hợp tỏc xó, công
hữu về tư liệu sản xuất nên dẫn đến kinh tế phát triển chậm, thu không bù chi, kết hợp
với chế độ phân phối bỡnh quõn bao cấp nên công bằng trong thời kỳ này được hiểu
theo nghĩa bỡnh quõn - sự bỡnh quõn theo kiểu "chia đều sự nghèo khó", theo GS,TS
Lê Hữu Tầng trong thời kỳ này là:
Trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp mà chỳng ta lầm tưởng duy
nhất đúng, là cái duy nhất đảm bảo thành công xây dựng CNXH, khái niệm
công bằng được đồng nhất hoàn toàn với khái niệm bỡnh đẳng, cũn khỏi
niện bỡnh đẳng được hiểu là sự ngang bằng nhau hoàn toàn giữa người và
người về phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xó hội. Kết quả là khỏi
niệm cụng bằng về thực chất bị đem đồng nhất với khái niệm cào bằng một
cách bỡnh quõn chủ nghĩa. Mọi sự đi lệch khỏi trục bỡnh quõn đó đều bị
coi là biểu hiện của không công bằng. Chính quan điểm sai lầm đó làm suy
giảm, thậm chí triệt tiêu mất động lực của sự phát triển kinh tế - xó hội và
việc thực hiện quan điểm đó trong cuộc sống về thực chất là bóc lột người
có công đối với sản xuất và phát triển xó hội [79, tr. 62].
Như vậy, trong thời kỳ này đó nhầm lẫn CBXH và BĐXH, CBXH được xem
như là sự ngang bằng nhau về mọi phương diện giữa mọi thành viên trong xó hội;
quan niệm sai lầm này đó triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xó hội; Ph. Ăngghen
từng nói: "cho rằng luận điểm là một nguyờn tắc tối cao
và là một chõn lý cuối cựng thỡ thật là ngu xuẩn. Bỡnh đẳng chỉ tồn tại trong khuôn
khổ đối lập với bất bỡnh đẳng, công bằng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối lập với
không công bằng" [46, tr. 840].
Như vậy trong một thời gian khá dài chúng ta đó nhầm lẫn giữa cụng bằng với
bỡnh đẳng, với chủ nghĩa bỡnh quõn cào bằng, dẫn đến triệt tiêu động lực phát triển
kinh tế, nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng, có nguy cơ bị đẩy lùi tới
bên bờ vực thẳm. Trước tỡnh hỡnh đó, với phương châm "nhỡn thẳng vào sự thật"
Đảng ta quyết định thực hiện đường lối đổi mới.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) với chủ trương và quyết tâm làm
cho sản xuất "bung ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trỡnh đổi mới ở nước ta. Đến
hội nghị trung ương 8 khóa V (6/1985) đánh đấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương
dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xóa bỏ
chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh
sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN, chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh
doanh, thừa nhận sản xuất hàng hóa và quy luật sản xuất hàng hóa. Tháng 8/1986,
trong quỏ trỡnh chuẩn bị Dự thảo Bỏo cỏo chớnh trị trỡnh Đại hội VI, Bộ Chính trị đó
xem xột kỹ cỏc vấn đề lớn trên lĩnh vực kinh tế và đưa ra kết luận thuộc lĩnh vực kinh
tế: Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công
nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc, đồng thời xác định cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần là một đặc trưng thời kỡ quỏ độ lên CNXH ở nước ta. trong cơ chế quản lí
kinh tế lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ,
chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là
bước đột phá thứ ba có ý nghĩa lớn trong quỏ trỡnh đổi mới tư duy lý luận.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đó đưa ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Đại hội khẳng
định dứt khoát chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, cú sự quản lý của Nhà nước
định hướng xó hội chủ nghĩa. Đại hội VI là bước đột phá lớn và toàn diện, làm xoay
chuyển tỡnh hỡnh đưa nước ta tiến lên, Đại hội xác định: đảm bảo CBXH là một trong
5 mục tiêu kinh tế - xó hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới, giải quyết việc làm và
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là những vấn đề trọng tâm của chính
sách CBXH; Thực hiện CBXH phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước, chống thu
nhập bất hợp pháp và đặc quyền đặc lợi.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) với cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thỡ vấn đề CBXH được Đảng ta xác định đây
là một nội dung của chính sách xó hội và là điều kiện và động lực của TTKT và tiến
bộ xó hội trong thời kỳ đổi mới. Đại hội cũng xác định thực hiện CBXH không chỉ
trong lĩnh vực kinh tế, xó hội mà cũn cả trong chớnh trị, văn hóa, giáo dục đặc biệt là
khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu chính đáng là bước đột phá trong quan điểm
CBXH của Đảng, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục khẳng định phát triển, cụ thể hóa
những chủ trương chính sách của Đảng về CBXH mà đại hội VII đó nờu ra, CBXH
được Đảng ta xác định là một động lực, nội dung, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới.
Dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng và văn minh. Đạị hội cũng chỉ rừ:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ xó hội và cụng bằng xó
hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trỡnh phỏt triển, CBXH phải
được thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn cả khâu phân
phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội
phát triển và sử dụng tốt năng lực của mỡnh. với nhiều hỡnh thức, tạo ra
cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng hợp lý năng lực của mỡnh
[12, tr. 113].
Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: phát triển
kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện công bằng xó hội, thu hẹp khoảng cỏch giữa
thành thị và nụng thụn, giữa nụng thụn với nụng thụn, giữa thành thị với thành thị,
giữa cỏc tầng lớp xó hội. Đây là những bước phát triển quan trọng có tính chất đột phá
của Đảng ta trong giai đoạn mới.
Đại hội Đại IX (4/2001) của Đảng tiếp tục khẳng định "…phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải
thiện vật chất và tinh thần của nhõn dõn, thực hiện tiến bộ và cụng bằng xó hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường" [12, tr. 88-89].
Đại hội X (4/2006) Đảng ta một lần nữa khẳng định: "Thực hiện tiến bộ và
CBXH ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng gúp vốn
cựng cỏc nguồn lực khỏc và thụng qua phỳc lợi xó hội" [13, tr. 26].
Kết hợp các mục tiờu kinh tế với cỏc mục tiờu xó hội trong phạm vi
cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xó hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính
sách xó hội trờn cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống
hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển
kinh tế-xó hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xó hội bức xỳc [13, tr.
101].
Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn
diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xó hội, tạo nhiều
việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa
đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng
[13, tr. 178-179].
Thứ nhất, TTKT luôn luôn gắn liền với tiến bộ và CBXH trong từng bước,
từng chính sách và trong suốt quá trỡnh phỏt triển đất nước. TTKT là điều kiện, tiền đề
để thực hiện CBXH và ngược lại thực hiện CBXH là động lực thúc đẩy TTKT - xó hội
một cỏch bền vững. Chỳng ta khụng chấp nhận TTKT cao sau đó mới thực hiện
CBXH và cũng không đơn thuần thực hiện CBXH một cách giản đơn thuần túy, cũng
không phải thực hiện TTKT một cách độc lập tách rời CBXH. Mỗi chính sách về phát
triển kinh tế - xó hội nước ta đều nhằm mục tiêu vỡ sự tiến bộ và CBXH, mỗi chớnh
sỏch xó hội đều chứa đựng nội dung và ý nghĩa thúc đẩy kinh tế phát triển. TTKT phải
gắn với CBXH trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, ở mọi địa phương ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển, Đảng khuyến khích, tạo điều kiện mọi người
dân làm giàu theo pháp luật, tạo mọi điều kiện để không có hộ nghèo đói. Khắc phục
tư tưởng ỷ lại, bao cấp, đồng thời thực hiện cải cách tiền lương, tích cực tạo điều kiện
trong việc chăm lo và bảo vệ sức khỏe cho người dân. Hoàn thiện các chính sách trợ
cấp cho các đối tượng chính sách, đa dạng hóa cỏc hỡnh thức cứu trợ xó hội, dịch vụ y
tế cho phự hợp với từng lĩnh vực, từng địa phương.
Thứ hai, CBXH là động lực để phát triển kinh tế, cần phải gắn quyền lợi với
nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, cống hiến ngang nhau thỡ hưởng thụ ngang nhau,
cống hiến khác nhau thỡ hưởng thụ khác nhau, tránh bỡnh quõn chủ nghĩa, cào bằng
nhằm tạo động lực phát triển kinh tế- xó hội. Thực hiện phõn phối trong kinh tế chủ
yếu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác.
Thứ ba, CBXH trong quá trỡnh phỏt triển KTTT định hướng xó hội chủ
nghĩa khụng đơn thuần là điều hũa lợi ớch, phõn phối và thu nhập của cỏc giai cấp và
tầng lớp trong xó hội cho hợp lý mà cũn phải đảm bảo cho mọi tầng lớp trong xó hội
được hưởng các quyền lợi xó hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đào tạo nghề
nghiệp, được tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, có điều kiện
và cơ hội phát triển, thể hiện năng lực cá nhân.
Thứ tư, CBXH là công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất và trong phấn
phối sản phẩm lao động, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người phát huy hết năng lực
cá nhân để cống hiến cho xó hội. CBXH khụng phải là sự cào bằng, chủ nghĩa bỡnh
quõn. Cụng bằng trong cơ hội làm việc, cơ hội phát triển và được hưởng thành quả lao
động tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ, chỉ như vậy thỡ mới tạo ra
được sự công bằng trong phát triển.
Thứ năm, CBXH ở nước ta là một trong những đặc trưng cơ bản trong các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích xóa bỏ mọi bất công, mọi
áp bức, đem lại tự do hành phúc cho con người. Đây là sự CBXH to lớn và triệt để
nhất mà toàn Đảng toàn dân ta phấn đấu đạt tới. Mục tiêu lâu dài này được thể hiện cụ
thể hóa trong giai đoạn đầu là khuyến khích mọi người dân tham gia làm giàu chính
đáng, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, người nghèo thỡ đủ ăn, người
đủ ăn thỡ trở nờn khỏ giả, người khá giả thỡ trở nờn giàu cú. Chỳng ta cũng thầy rằng
cú một bộ phận dõn cư, một số vùng giàu lên trước, từ đó làm bàn đạp thúc đẩy xó hội
phỏt triển, đồng thời phải có những chính sách kinh tế - xó hội đặc biệt để trợ giúp
người nghèo, tạo tiền đề phát triển. Về nguyên tắc không có công bằng tuyệt đối khi
mà xó hội vẫn cũn tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu của con người với khả năng hiện
thực của điều kiện kinh tế - xó hội. Vỡ vậy, công bằng là làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít, không làm thỡ khụng được hưởng, đó mới là công bằng.
Thứ sáu, CBXH phải tính đến hoàn cảnh lịch sử. Những thành quả mà nhân
dân ta có được hôm nay là kết quả của cuộc đấu tranh liên tục, lâu dài trong gần nửa
thế kỷ để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo về quyền độc lập,
tự do, tự chủ của dân tộc, đó biết bao nhiờu anh hựng, thương binh, liệt sĩ, bao nhiêu
người "tiền khởi nghĩa","có công với cách mạng" đó khụng tiếc mỏu xương, công sức
vỡ lý tưởng cao cả cho toàn dân tộc, thỡ đương nhiên CBXH là những chính sách ưu
đói đối với họ.
1.2. NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ VAI TRề CỦA Nể ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN CễNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.2.1. NTCQ đối với việc thực hiện cụng bằng xó hội trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Cùng với quỏ trỡnh hoạt động thực tiễn của con người, khái niệm " NTCQ" và
điều kiện khách quan (ĐKKQ) từng bước được hỡnh thành và phỏt triển. Để hiểu được
nội dung của khái niệm này thỡ nhất thiết phải tỡm hiểu đến những khái niệm có liên
quan như khái niệm "chủ thể", "khách thể", chỉ khi nào hiểu được cái khái niệm này
thỡ mới hiểu được khái niệm NTCQ và ĐKKQ. "Chủ thể", "khách thể" là những khái
niệm rất quan trọng, trong mối quan hệ với khái niệm "NTCQ" và "ĐKKQ", nếu
không hiểu được các khái niệm này thỡ cũng không thể hiểu được khái niệm "NTCQ"
và "ĐKKQ" hoặc hiểu không đúng, dễ bị nhầm lẫn đồng nhất giữa các khái niệm.
Trong quỏ trỡnh hoạt động của mỡnh, con người đó tỏc động vào thế giới
khách quan, cải tạo thế giới khách quan nhằm phục vụ lợi ích con người. Vỡ vậy, con
người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời vừa là chủ thể của hoạt động cải tạo
hoàn cảnh, từ đó đó hỡnh thành nờn khỏi niệm chủ thể. Khỏi niệm chủ thể đó được rất
nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu và đó đưa ra nhiều định nghĩa và cách hiểu
khác nhau. Có quan niệm cho rằng "Chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm.) tiến
hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn" [90, tr. 92]. Quan điểm khác
thỡ lại hiểu "Chủ thể là con người có ý thức và ý chớ, và đối lập với khách thể bên
ngoài" [89, tr. 192].
Từ những khái niệm trên cho thấy: Tùy từng đối tượng được xem xét mà xác
định chủ thể tương ứng, chủ thể có thể là cả loài người, một nhóm người, một giai cấp,
một đảng phái hay một tổ chức chính trị - xó hội nào đó, bằng những hoạt động của
mỡnh nhằm cải tạo đối tượng khách thể, làm cho đối tượng ấy (khách thể) biến đổi cho
phù hợp với lợi ớch của mỡnh.
Như vậy, có thể hiểu: chủ thể là con người có ý chớ, cú ý thức, mang tính sáng
tạo với những cấp độ tồn tại khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) bằng hoạt động thực
tiễn của mỡnh đó và đang tác động đến khách thể.
Con người ở đây với tư cách là chủ thể có ý thức và ý chớ, bằng hoạt động
mang tính sáng tạo của mỡnh tỏc động vào đối tượng (khách thể) nhằm cải tạo đối
tượng (tự nhiên và xó hội) cho phù hợp với mục đích của chủ thể và phục vụ chủ thể.
Năng lực sáng tạo của chủ thể được thể hiện bằng phương pháp, cách thức tác động
vào đối tượng nhằm đạt được mục đích đề ra. V.I. Lênin nói: "Khái niệm ấy (=con
người) là khuynh hướng tự mỡnh thực hiện mỡnh, tự cho mỡnh, qua bản quõn mỡnh,
một tính khách quan trong thế giới quan và tự hoàn thiện (tự thực hiện) mỡnh" [33, tr.
228].
Khách thể là tất cả những đối tượng mà chủ thể bằng ý thức và hoạt động thực
tiễn của mỡnh tỏc động vào chúng nhằm nhận thức và cải tạo chúng cho phù hợp với
mục đích con người.
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ khăng khít với nhau, tồn tại song song
với nhau, khách thể là khách thể của chủ thể xác định và ngược lại, chủ thể là chủ thể
của khách thể tương ứng, không có khách thể và chủ thể chung chung trừu tượng tồn
tại một cách độc lập tách rời bất biến.
Khách thể không phải là toàn bộ hiện thực khách quan mà chỉ là một bộ phận
của hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan vô cùng phong phú nên khách thể
(với tư cách là bộ phận của thế giới khách quan) cũng vô cùng phong phú, khách thể
có thể là những sự vật, hiện tượng hay quá trỡnh trong tự nhiờn cũng như trong đời
sống xó hội, những quan hệ kinh tế, những quan hệ chính trị - xó hội, kể cả những
quan hệ tư tưởng cũng là những khách thể của những chủ thể tương ứng.
Như vậy, có thể nói khách thể và chủ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau,
chúng lấy nhau làm tiền đề cùng tồn tại, khỏch thể tồn tại khỏch quan khụng phụ thuộc
vào ý thức con người, song con người có thể tác động vào chúng, làm biến đổi chúng,
cải tạo chúng cho phù hợp với mục đích của con người.
Khái niệm chủ quan không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm chủ thể, xung
quanh khái niệm nhân tố chủ quan đó cú rất nhiều quan niệm khỏc nhau, có quan điểm
cho rằng: "Nhõn tố chủ quan trong sự phỏt triển xó hội là hoạt động có ý thức của
những con người, những giai cấp, những chính đáng sáng tạo ra lịch sử" [57, tr. 20].
Quan niệm này đồng nhất NTCQ với hoạt động có ý thức của con người. Bên cạnh đó
lại có những quan niệm đồng nhất NTCQ với hoạt động tự giác của con người hoặc
đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của chủ thể. A.K.Uleđốp thỡ cho rằng:
Nhiều phẩm chất tư tưởng, tõm lý xó hội, đạo đức của các tập đoàn xó hội,
của các giai cấp và các tổ chức của nó, của các dân tộc là nằm trong nội dung của
NTCQ nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng toàn bộ ý thức xó hội cũng nằm trong đó.
NTCQ khụng phải là ý thức núi chung (cũng hệt như là sự hoạt động), mà là cỏc ý
thức đó trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và phương châm của hoạt động. Nói cách
khác là ý thức đó biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ
thể [93, tr. 69].
Theo A.K.Uleđốp thỡ nhõn tố chủ quan chỉ bao gồm những bộ phận ý thức
của chủ thể tham gia vào quỏ trỡnh tỏc động giữa chủ thể và khách thể.
Khi nói tới NTCQ trước hết là nói tới tính tích cực sáng tạo của chủ thể hoạt
động vỡ con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh đồng thời vừa là chủ thể của hoàn
cảnh đó. Vỡ vậy trong mối quan hệ với tự nhiờn thỡ chỳng ta cú khỏi niệm con người.
Trong mối quan hệ giữa con người và đối tượng nhận thức thỡ hỡnh thành nờn khỏi
niệm chủ thể và khỏch thể, cũn khi xem xét chủ thể đang tích cực hoạt động trong một
hoạt động xác định với đầy đủ các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ.Tức là xem xét
chủ thể - con người với tất cả các nhân tố tạo thành tính tích cực của chủ thể, các nhân
tố vừa là nguyên nhân vừa là điều kiện của mọi hoạt động tích cực, sỏng tạo của chủ
thể thỡ chỳng ta sẽ cú khỏi niệm NTCQ và đối lập với NTCQ là điều kiện khách quan.
Tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng chủ thể khác chủ quan và chủ thể không đóng vai
trũ chủ quan mà những trạng thỏi của chủ thể biểu hiện trong hoạt động đóng vai trũ
NTCQ, những thuộc tính, phẩm chất của chủ thể là NTCQ, là những yếu tố cần thiết
để tạo ra khả năng tích cực sáng tạo của chủ thể được thể hiện thông qua hoạt động
thực tiễn cải tạo các khách thể xác định, tổng hợp toàn bộ những nội dung đó tạo thành
khái niệm NTCQ.Theo V.N.Lavrineko thỡ: NTCQ trong quỏ trỡnh lịch sử là những
khả năng khác nhau của con người mà bằng sự tác động của mỡnh, đó đem lại sự biến
đổi trong những mặt nhất định của đời sống xó hội. Điều quan trọng nhất cấu thành
NTCQ là ý thức và núi chung là đời sống tinh thần của con người, những kỹ năng, kỹ
xảo và thói quen của họ trong hoạt động sản xuất, kinh nghiệm xó hội, trỡnh độ văn
hóa và đồng thời là những phẩm chất ý chớ của họ: Tính tổ chức trong hoạt động của
con người có ý nghĩa to lớn [57, tr. 20].
Như vậy, NTCQ và chủ thể là có sự thống nhất với nhau, nhưng không đồng
nhất, NTCQ thuộc về chủ thể, tuy nhiên NTCQ có tính độc lập tương đối. NTCQ là
khái niệm chỉ những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của chủ thể nhằm tác động
vào khách thể, làm biến đổi khách thể.
Từ quan niệm trên có thể hiểu: NTCQ là những yếu tố ý thức của chủ thể tham
gia trực tiếp vào hoạt động của chủ thể nhằm tác động cải tạo
khách thể.
NTCQ bao gồm:
Thứ nhất, ý thức của chủ thể là nội dung cấu thành NTCQ nhưng không phải
là toàn bộ ý thức của chủ thể, mà chỉ những bộ phận của chủ thể trực tiếp tham gia vào
hoạt động tác động đến khách thể, khi ấy ý thức với tư cách là NTCQ trở thành sự chỉ
đạo, kích thích, là phương châm định hướng cho hành động, ý thức trở thành hành
động của chủ thể.
Thứ hai, đề cập tới NTCQ là đề cấp đến ý thức của chủ thể (con người cụ thể,
nhóm người, giai cấp, đảng phái), đó là những hoạt động thực tiễn của họ nhằm giải
quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định. NTCQ không đơn thuần chỉ là ý thức mà cũn
bao gồm cả những hoạt động cụ thể trong quá trỡnh cải tạo thế giới. C.Mỏc chỉ ra
rằng: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được gỡ hết, muốn thực hiện tư tưởng thỡ
cần cú những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [41, tr. 187].
Thứ ba, sức mạnh hoạt động thực tiễn của chủ thể là sự kết hợp biện chứng
giữa sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần. Như vậy, NTCQ cũn bao gồm cả những
phẩm chất, những trạng thái thuộc về năng lực thể chất của chủ thể. Tuy nhiên, cũng
cần phân biệt NTCQ với cái chủ quan, NTCQ chỉ là một bộ phận của cái chủ quan
được huy động, sử dụng vào quỏ trỡnh cải tạo khách thể.
NTCQ cũng không đồng nhất với hoạt động tự giác vỡ hoạt động tự giác của
con người là hoạt động nhận thức quy luật và tác động phù hợp với quy luật khách
quan, biến tự phát thành tự giác. NTCQ tham gia vào cả hoạt động tự phát và tự giác.
Khái niệm NTCQ có quan hệ mật thiết với khái niệm ĐKKQ, bất cứ một chủ
thể lịch sử - xó hội nào để tồn tại đều phải gắn liền với ĐKKQ xác định, cụ thể. Trong
hoạt động của chủ thể thỡ điều kiện khách quan rất đa dạng và phong phú, gồm các
mặt, các yếu tố, các kết cấu vật chất tồn tại dưới dạng có sẵn trong tự nhiên, các yếu tố
tồn tại dưới dạng xó hội. Những yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần (tư tưởng,
tõm lý, tập quán) đang tồn tại hiện thực trong xó hội hợp thành một hoàn cảnh trong
đó chủ thể tồn tại và hoạt động, đó là ĐKKQ.
Khái niệm ĐKKQ quan đó được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với nhiều
cách tiếp cận khác nhau nhưng tựu chung lại thỡ về cơ bản là giống nhau trong khái
niệm này. Có quan điểm cho rằng: Những quan điểm khách quan là cả những gỡ tạo
nên một hoàn cảnh hiện thực quy định và tác động lên mọi hoạt động của chủ thể, tồn
tại khụng phụ thuộc vào ý chớ của chủ thể hoạt động [3, tr. 19].
Quan điểm khác lại khẳng định: ĐKKQ là tổng thể các mặt, các nhân tố tạo
nên một hoàn cảnh thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể và tác động vào hoạt
động của chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể đó [35, tr. 12]. Hoặc: ĐKKQ là những yếu tố
tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể đang hoạt động
ở những thời điểm cụ thể nhất định và có tham gia vào việc quy định kết quả hoạt
động của chủ thể [57, tr. 16].
Từ những quan niệm trên có thể hiểu: ĐKKQlà tổng thể các yếu tố, các
mặt, các mối quan hệ tồn tại bên ngoài và độc lập với chủ thể tạo thành một hoàn
cảnh hiện thực luôn luôn tác động và quy định hoạt động của
chủ thể.
Như vậy, ĐKKQ là hoàn cảnh mà trong đó chủ thể tồn tại và hoạt động, nó
quy định hoạt động của chủ thể. Bất kỳ một hoạt động nào của chủ thể cũng có thể
được thực hiện khi có những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó đóng vai những
tiền đề của hoạt động [93, tr. 71-72].
Nói đến ĐKKQ thỡ trước hết phải nói đến những điều kiện vật chất tạo nên
một hoàn cảnh hiện thực và độc lập với chủ thể xác định và quy định hoạt động của
chủ thể đó. Nếu các điều kiện vật chất luôn là ĐKKQ (xột trong mối quan hệ với ý
thức), song ĐKKQ được xác định cụ thể lại không đơn thuần là điều kiện vật chất mà
cũn bao gồm cả những yếu tố thuộc ý thức, tư tưởng, những ý thức, tư tưởng này tồn
tại khách quan với chủ thể xác định và ảnh hưởng đến hoạt động của chủ thể, đó cũng
là ĐKKQ.
Như vậy, ĐKKQ là toàn bộ những yếu tố vật chất và tinh thần tồn tại độc lập
và không phụ thuộc vào chủ thể cấu thành hoàn cảnh và tác động đến hoạt động của
chủ thể.
NTCQ và ĐKKQ có mối quan hệ biện chứng với nhau, ĐKKQ là tính thứ nhất
quy định NTCQ, và NTCQ có tác động tích cực, mạnh mẽ đến ĐKKQ làm biến đổi
ĐKKQ cho phù hợp với mục đích của NTCQ. Sự quy định của ĐKKQ với NTCQ
được thể hiện:
Thứ nhất, hoạt động của chủ thể là nhằm mục đích thỏa món nhu cầu của chủ
thể. Mục đích, mục tiêu mà chủ thể đặt ra đều xuất phát từ điều kiện và khả năng của
hiện thực, nếu mục đích mục tiêu mà không xuất phát từ hiện thực khách quan thỡ
khụng thể thành cụng được. Điều đó được Lên nin khẳng định: "Thật ra, mục đích của
con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm tiền đề"
[33, tr. 201].
Thứ hai, hoạt động thực tiễn của chủ thể là do ĐKKQ quy định. C.Mác viết:
"Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mỡnh những nhiệm vụ mà cú thể giải thớch
được, vỡ khi xột kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ
nảy sinh khi những điều kiện vật chất của nhiệm vụ đó đó cú rồi, hay ít ra cũng đang ở
quá trỡnh hỡnh thành" [43, tr. 16].
Như vậy, ĐKKQ là yếu tố quy định chủ thể, quy định phương tiện, phương
pháp, cách thức hành động của chủ thể.
Thứ ba, sự phát triển của NTCQ do ĐKKQ quy định, tùy từng ĐKKQ cụ thể
mà chủ thể hoạt động cải tạo điều kiện đó phải có những phẩm chất tương ứng, ĐKKQ
thay đổi thỡ NTCQ cũng phải thay đổi cho thích ứng với ĐKKQ mới. Tuy nhiên
NTCQ không phải thụ động mà có tính độc lập tương đối tác động tích cực trở lại
ĐKKQ một cách năng động và sáng tạo, bằng nhận thức của mỡnh, NTCQ phân tích,
nhận xét, đánh giá ĐKKQ từ đó đề ra phương hướng, cách thức để thực hiện nhiệm vụ
đặt ra, đồng thời bằng hoạt động thực tiễn của mỡnh NTCQ có thể cải tạo điều kiện,
hoàn cảnh khách quan thuận lợi cho hoạt động của mỡnh.
Thực chất vai trũ của NTCQ là phát hiện ra những khả năng khách quan trên
cơ sở điều kiện phương tiện vật chất vốn có của hoàn cảnh khách quan để biến đổi
hoàn cảnh theo quy luật vốn có của nó.
Hiện nay Việt Nam đang xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, nền KTTT đó đem lại những thành tựu quan trọng, nền kinh tế đó vượt
qua thời kỡ suy giảm, tốc độ TTKT khá cao và toàn diện, tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm sau cao hơn năm trước, bỡnh quõn trong 5 năm 2001-2005 là 7,51%. Kinh
tế vĩ mô tương đối ổn định, tích lũy, tiêu dùng, thu chi ngân sách…được cải thiện rừ
dệt, nội lực được huy động cho phát triển có chuyển biến tích cực, GDP huy động vào
ngân sách nhà nước vượt so với dự kiến. Tổng vốn đầu tư vào nền kinh tế tăng nhanh
làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh, nhiều kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế-xó hội
được xây dựng và hoàn thiện đưa vào sử dụng, cơ sở vầt chất-kỹ thuật được tăng
cường cho nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng CNH, HĐH. Đến năm 2005 tỉ
trọng nông-lâm-ngư nghiệp trong GDP giảm xuống cũn 20,9%, cụng nghiệp và xõy
dựng là 41%, dịch vụ là 38,1%. Cỏc thành phần kinh tế đều phát triển. Kinh tế đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có những bước tiến mới rất quan trọng. Xuất nhập
khẩu có tốc độ tăng trưởng khá, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 50% GDP.Vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng liên tục qua
các năm. đó cú một số dự ỏn đầu tư ra nước ngoài.
Thể chế KTTT định hướng XHCN đang từng bước dược xây dựng và phát
triển, thị trường hàng hóa phát triển tương đối nhanh, một số mặt hàng chất lượng cao,
có sức cạnh tranh lớn đối với thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Văn hóa xó
hội cú những bước tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát triển và TTKT với giải quyết
các vấn đề xó hội cú chuyển biến tốt, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Chớnh trị-xó hội ổn định, an ninh quốc phũng được tăng cường, quan hệ đối ngoại có
những bước phát triển mới. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN có những
bước tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt được một số kết quả
tích cực…Đây chính là những điều kiện khách quan của việc thực hiện CBXH trong
điều kiện nước ta hiện nay.
NTCQ trong việc thực hiện CBXH trong điều kiện nước ta hiện nay trước hết
được xác định là:
- Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng lónh đạo toàn thể xó hội thực hiện CBXH thông qua việc hoạch định các
chủ trương đường lối, định hướng nhằm tạo ra các điều kiện vật chất và tinh thần như
phát triển, TTKT, dùng kinh tế làm "giá đỡ vật chất", làm bàn đạp để thực hiện
CBXH, Đảng xác định: TTKT phải đi đôi với việc thực hiện tiến bộ và CBXH, phải
gắn TTKT với CBXH ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trỡnh
phỏt triển. Như vậy Đảng ta xác định rất rừ điều kiện và cách thức thực hiện CBXH.
Muốn thực hiện được CBXH thỡ trước hết phải phát triển kinh tế-một đũi hỏi hết sức
quan trọng làm tiền đề cho việc thực hiện CBXH. Kinh tế kém phát triển, TTKT chậm
thỡ khụng thể thực hiện được CBXH. Tuy nhiên chỉ thuần túy TTKT thỡ khụng thể
đưa đến CBXH được mà đũi hỏi phải có sự can thiệp của" bàn tay hữu hỡnh", đó
chính là vai trũ lónh đạo của Đảng bằng các chủ trương, đường lối, quyết sách nhằm
vừa phát triển kinh tế, vừa thực hiện CBXH theo định hướng XHCN trong điều kiện
nước ta hiện nay.
- Nhà nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước có vai trũ cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng bằng các
chính sách cụ thể của mỡnh, đồng thời tổ chức triển khai thực hiện và quản lý giỏm sỏt
việc thực hiện CBXH trờn mọi lĩnh vực của đời sống xó hội, đồng thời Nhà nước bằng
cụng cụ của mỡnh để hạn chế những bất công, BBĐ trong xó hội, trỏnh tỡnh trạng
TTKT hoặc thực hiện CBXH một cỏch đơn phương, tự phát, mà vừa TTKT kết hợp
với thực hiện CBXH ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trỡnh
phỏt triển, đồng thời ra sức hạn chế những bất cụng, bất bỡnh đẳng trên mọi lĩnh vực
của đời sống xó hội, đó mới là CBXH. Để làm được điều đó đũi hỏi phải cú sự can
thiệp tớch cực " bàn tay hữu hỡnh" của nhà nước thỡ mới cú thể thực hiện được
CBXH.
- Việc thực hiện CBXH không đơn thuần là công việc, trách nhiệm của Đảng
và Nhà nước mà đũi hỏi phải cú sự đồng thuận của toàn xó hội, sự phối hợp nhịp
nhàng chặt chẽ của Các tổ chức chính trị -xó hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sản
xuất kinh doanh, các cá nhân, người lao động…Đó là sự xó hội hóa trong việc thực
hiện CBXH, chỉ như vậy thỡ mới cú thể thực hiện được CBXH.
1.2.2. Vai trũ nhõn tố chủ quan đối với việc thực hiện công bằng xó hội
trong điều kiện kinh tế trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Thực tế lịch sử đó chứng minh rằng hầu hết cỏc nước phát triển trên thế giới
đều phải trải qua quỏ trỡnh phỏt triển nền KTTT, đó là một tất yếu khỏch quan của sự
phỏt triển kinh tế-xó hội.Việt Nam muốn phát triển, thỡ tất yếu phải thực hiện KTTT.
Ngay tại Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đó khẳng định: "Sản xuất hàng hóa không
đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đó được xây
dựng" [10, tr. 97].
Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị nhiều cuộc chiến
tranh tàn phỏ nặng nề. Vỡ vậy, việc thực hiện phát triển kinh tế là mục tiêu và nhiệm
vụ hàng đầu, nhằm tạo ra cơ sở vật chất để giải quyết các vấn đề xó hội. Muốn phỏt
triển kinh tế thỡ con đường duy nhất là phải phát triển nền KTTT, khắc phục tỡnh
trạng kinh tế tự cấp tự tỳc, thúc đẩy phân công lao động xó hội, phát triển mọi ngành
nghề, giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng khoa học
công nghệ, kỹ thuật hiện đại nhằm tăng năng suất lao động, mở rộng giao lưu kinh tế
giữa các địa phương, cỏc vựng lónh thổ, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đồng
thời phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi chủ thể kinh doanh
và mỗi đơn vị kinh tế đồng thời tạo ra cơ chế phân bố và sử dụng các nguồn lực của xó
hội một cỏch hợp lý. Phỏt triển KTTT là điều kiện tiên quyết nhằm tạo cơ sở và động
lực cho việc thực hiện CBXH.
Tuy nhiên, nền KTTT ở nước ta có những điểm khác biệt với nền KTTT nói
chung, sự khác biệt đó được thể hiện ở chỗ có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng XHCN, đảm bảo sự thống nhất giữa sự TTKT với CBXH. Trong quỏ trỡnh xây
dựng và hoàn thiện KTTT, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hóa
cỏc hỡnh thức sở hữu và cỏc hỡnh thức tổ chức sản xuất kinh doanh với nhiều hỡnh
thức liờn kết đa phương, đa dạng, kinh tế nhà nước đóng vai trũ chủ đạo, phải chủ
động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Đó là nền kinh tế có nhiệm vụ
trung tâm là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến và hiện đại, từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, kinh tế cũn kộm phỏt triển, nhằm nhanh chóng đưa kinh tế nước ta
thoỏt khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển, phấn đấu thực hiện mục tiêu Dân giàu, nước
mạnh, xó hội cụng bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng ta đó đề ra.
Nền KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế cùng tồn tại với nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hỡnh thức sở hữu, và bỡnh đẳng trước pháp luật, có quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trũ chủ đạo. Nền KTTT định
hướng XHCN phải dựa trên nguyên tắc, quy luật của nền kinh tế hàng hóa cũng như
những nguyên tắc và bản chất của CNXH, xây dựng trên cơ sở LLSX phỏt triển ở
trỡnh độ cao, thúc đẩy TTKT luôn gắn với thực hiện CBXH ngay trong từng bước và
trong từng chính sách phát triển.
Nền KTTT định hướng XHCN là mụ hỡnh kinh tế mở, nhằm nhanh chóng tận
dụng các cơ hội phát triển kinh tế và thực hiện CBXH. Tính chất mở đó được thể hiện
ở chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản
phẩm mà trong nước sản xuất. Kinh tế mở cũng là đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ kinh tế đối ngoại. Phát huy nội lực là chính đi đôi với tranh thủ tối đa các
nguồn lực từ bên ngoài để tiến hành CNH, HĐH, chủ động tham gia phân công lao
động và hợp tác quốc tế, từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế, giữ vững độc lập,
chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dõn tộc trong quỏ trỡnh toàn cầu hóa đang tăng
lên. Nền KTTT mà nước đang xây dựng là nền kinh tế dưới sự lónh đạo của Đảng và
quản lý của nhà nước Việt Nam, là nền kinh tế của dân, do dõn và vỡ dõn, nó có tính
hai mặt, một mặt tạo điều kiện cho các thành viên tự do sản xuất kinh doanh, tự do làm
việc theo năng lực của mỡnh và sử dụng tốt cỏc điều kiện khác để mang lại thu nhập
cho bản thân và từ đó đóng góp cho xó hội. Cơ chế thị trường huy động mọi nguồn lực
trong xó hội một cỏch nhanh chúng, hiệu quả thông qua cơ chế cạnh tranh, tạo ra của
cải vật chất cho xó hội, góp phần thúc đẩy quá trỡnh sản xuất và TTKT tạo cơ sở cho
sự phát triển xó hội. Trong cơ chế thị trường thỡ cỏc chủ thể kinh tế cú quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, không phân biệt đối xử. Quyền bỡnh đẳng, tự do đó tồn tại
trong nền sản xuất hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, nó tiến bộ hơn hẳn nền
sản xuất tự nhiên, cơ chế thị trường là cạnh tranh gắn với động lực phát triển là lợi
nhuận, nên các chủ thể kinh tế trở nên rất năng động trong sản xuất kinh doanh, có
quyền lựa chọn lao động, cũng như sản xuất, mở rộng thị trường, huy động và khai
thác hiệu quả mọi nguồn lực, tài nguyờn của xó hội vào phục vụ quỏ trỡnh sản xuất.
Do đó vai trũ của cỏc doanh nghiệp, doanh nhân ngày càng được đề cao.
Dưới sự tác động của quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị, các chủ thể
kinh tế đều có quyền như nhau phát triển hết khả năng của mỡnh để sản xuất kinh
doanh và có quyền được hưởng thụ kết quả sản xuất từ sự sản xuất kinh doanh đó. Đây
chính là cơ sở để thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ
của các thành viên trong xó hội.
Như vậy KTTT có thể khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh các lĩnh vực, các
vùng, thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần nâng cao đời sống xó hội. Mặt khỏc,
KTTT cũng đặt ra những vấn đề làm ảnh hưởng đến CBXH, sự phân hóa giàu nghèo
giữa các vùng, các tầng lớp, xu hướng đó sẽ tạo nên khoảng cách phân hóa giàu nghèo.
Bên cạnh đó sự hỡnh thành và phỏt triển của cỏc khu cụng nghiệp, khu đô thị cũng là
nguyên nhân làm mất cân đối về thu nhập, lao động, việc làm, văn hóa giữa các vùng
nông thôn và thành thị, đồng bằng và miền núi, dân tộc thiểu số và dân tộc đa số.
Những vấn đề đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến mất CBXH.
Trong kinh tế thị trường, xuất phát từ vấn đề lợi nhuận nên cạnh tranh diễn ra
gay gắt, dẫn đến nhiều xí nghiệp, chủ thể kinh doanh làm ăn thua lỗ kéo dài dẫn tới
phá sản, người lao động thất nghiệp, mất việc làm. Bên cạnh đó một bộ phận khác lại
chạy theo lợi nhuận, tất cả vỡ lợi nhuận nờn sẵn sàng làm tất cả vỡ lợi nhuận (buôn
lậu, chốn thuế, làm hàng giả, tham nhũng,thu nhập không chính đáng…) dẫn tới vi
phạm đến CBXH.
Kinh tế thị trường đó đem lại những thành tựu rất to lớn, nhưng bên cạnh đó
cũng có những mặt cũn hạn chế ảnh hưởng đến việc thực hiện CBXH như sự phân hóa
giàu nghèo một cách quá mức, tỡnh trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở một bộ phận
dân cư dẫn đến có thu nhập thấp, đời sống trở nên khó khăn, nghèo khổ, khoảng cách
giàu nghèo trong nội bộ dân cư có chiều hướng ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến
việc thực hiện CBXH.
Việt Nam muốn phỏt triển thỡ phải thực hiện nền KTTT là tất yếu hợp với quy
luật khách quan, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Bản chất của KTTT là cạnh
tranh, từ sự cạnh tranh đó làm cho nhiều chủ thể kinh tế có năng lực làm ăn phát đạt,
nhưng cũng không ít các đơn vị kinh doanh làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản, hàng loạt
công nhân mất việc làm, không có thu nhập, đời sống bấp bênh làm ảnh hưởng đến
việc thực hiện CBXH.
Mục đích chính của KTTT là tỡm kiếm lợi nhuận, vỡ lợi nhuận mà cỏc chủ
thể kinh tế sẵn sàng làm tất cả để thu lợi nhiều nhất về cho chính bản thân mỡnh, như
hối lộ, trốn thuế, buôn lậu, lợi dụng kẽ hở trong quản lí kinh tế, cạnh tranh không lành
mạnh… để thu được lợi nhuận một cách tối đa nhất, làm mất sự công bằng, cản trở đến
việc thực hiện CBXH.
Muốn phỏt triển kinh tế tốt thỡ phải cú điều kiện phát triển kinh tế tốt, điều
kiện đó lại thường ở những nơi gần các trung tâm đô thị, thành phố, thị xó, thị trấn, các
trung tâm tỉnh lị, nơi có giao thông thuận tiện, thuận lợi cho việc tiêu thụ, chuyên trở
trao đổi nguyên vật liệu và hàng hóa. vỡ vậy việc tạo cơ hội thực hiện CBXH giữa các
vùng miền gặp rất nhiều khó khăn. Đây là những vấn đế hết sức phức tạp trong điều
kiện KTTT ở nước ta hiện nay, đũi hỏi NTCQ phải có những chủ trương chính sách
hợp lý nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho việc thực hiện CBXH.
Hiện nay Việt Nam đang thực hiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN,
đây là một mô hỡnh kinh tế đầu tiên trong lịch sử chưa có tiền lệ, mụ hỡnh kinh tế đó
sau một thời gian được áp dụng đó đem lại những thành quả to lớn về kinh tế trong
thời gian vừa qua. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện
cả về vật chất lẫn tinh thần, CBXH từng bước được bảo đảm tạo ra động lực mạnh mẽ
cho việc phát triển và TTKT. Để đạt được thành tựu to lớn đó trước hết phải nói đến
vai trũ lónh đạo của Đảng và sự quản lý, định hướng của nhà nước đối với việc thực
hiện CBXH trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay.
CBXH luôn gắn với phát triển và TTKT, thực hiện CBXH phải dựa trên nền
tảng kinh tế và không thể tách rời vai trũ lónh đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước
trong việc thực hiện CBXH. Đảng và Nhà nước bằng các chủ trương, đường lối, và
bằng công cụ của mỡnh như luật pháp, chính sách tác động điều tiết nền kinh tế phát
triển theo đúng hướng mà Đảng và Nhà nước đó đề ra, vỡ vậy việc thực hiện CBXH
phụ thuộc rất lớn vào vai trũ lónh đạo của Đảng và Nhà nước.
Việt Nam hiện nay đang phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ và văn minh,
Đảng ta đó xỏc định: TTKT phải gắn liền với cụng bằng xó hội ngay trong từng bước
và trong suốt quỏ trỡnh phỏt triển. CBXH là đảm bảo cho nhân dân không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. CBXH phải gắn với TTKT và phải thực
hiện bởi cơ chế kinh tế, sự lónh đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chính sách
điều tiết của Chính phủ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII đó chỉ rừ: "Thụng qua cỏc cụng cụ quản lý kinh tế vĩ mụ và vai trũ
kinh tế của Nhà nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hũa giữa
tăng trưởng kinh tế và thực hiện CBXH, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng
và các tầng lớp dân cư" [11, tr. 50].
Như vậy, Đảng ta đó khẳng định vai trũ to lớn của Nhà nước trong việc thực
hiện kinh tế thị trường và vấn đề CBXH, vai trũ đó được thông qua hướng dẫn, điều
tiết và quản lý nền kinh tế theo định hướng XHCN, là sự quản lý của Nhà nước dưới
sự lónh đạo của Đảng, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng hướng, đảm bảo cho
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là nền tảng kinh tế quốc dân, chăm lo lợi ích nhân
dân, thực hiện CBXH, tất cả vỡ mục tiờu và lợi ớch của con người. Nhà nước tạo điều
kiện và môi trường thuận lợi trong lao động sản xuất kinh doanh, phát triển và kiểm
soát chặt chẽ, xử lý nghiờm minh cỏc hành vi vi phạm phỏp luật để thực hiện CBXH.
Đảng và Nhà nước phải định hướng xây dựng được các kết cấu hạ tầng, mở
rộng giao lưu hàng hóa, hỡnh thành cỏc loại thị trường để bảo vệ sản xuất trong nước,
thu hút vốn đầu tư nước ngoài … Đây là những điều kiện và môi trường thuận lợi để
nền kinh tế phát triển đúng hướng. Những định hướng đó phải gắn liền với thực hiện
CBXH bằng các chính sách và công cụ điều tiết tiền tệ, thuế, pháp luật, chính sách xó
hội … Đảm bảo quyền bỡnh đẳng cho các thành viên tham gia vào cơ chế thị trường,
cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh, chống độc quyền, buôn lậu, chốn thuế, hàng
giả, thấp nghiệp, phân hóa xó hội, tệ nạn xó hội…Đó chính là những yếu tố dẫn đến
mất CBXH.
Vai trũ của Đảng và Nhà nước đối với thực hiện CBXH có thể khái quát ở các
nội dung sau:
Thứ nhất, định hướng phát triển kinh tế và phân bổ các nguồn lực đảm bảo
CBXH.
Định hướng là chức năng quan trọng hàng đầu của Nhà nước trong quản lý
kinh tế vĩ mô. Thông qua việc định hướng mà Đảng lónh đạo nhà nước xác định
phương hướng phát triển kinh tế - xó hội cho toàn bộ nền kinh tế và cho từng vựng,
từng địa phương, trên cơ sở đó phân bố nguồn lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý.
Vỡ vậy, định hướng đúng thỡ đầu tư có hiệu quả và ngược lại. Định hướng bằng các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trỡnh dự ỏn… Việc phát triển không đều
giữa các vùng là tất yếu của KTTT bởi nú mang tớnh chất lịch sử xó hội, từ lợi thế so
sỏch của cỏc vựng khỏc nhau, vỡ vậy cỏc vựng cú điều kiện thuận lợi, các vùng kinh
tế trọng điểm cần được ưu tiên để tiến tới TTKT và là trung tõm kinh tế - xó hội nhằm
kớch thớch thỳc đẩy các vùng kinh tế lõn cận cựng phỏt triển. Xong cũng chớnh vỡ
vậy làm cho sự phỏt triển cú sự chờnh lệch giữa cỏc vựng, những nơi không có điều
kiện phát triển sản xuất thường là nơi có tốc độ TTKT chậm, kinh tế - xó hội lạc hậu,
thu nhập thấp, chớnh vỡ những điều kiện như trên nên làm mất cân đối giữa các vùng
miền trong cùng một lónh thổ. Vỡ vậy Đảng và Nhà nước cần phải cân đối tư liệu sản
xuất trên toàn xó hội, đồng thời phải đưa ra được các chớnh sỏch kinh tế - xó hội thớch
hợp nhằm đảm bảo phân phối hợp lý các nguồn lực và cân đối đầu tư, có như vậy mới
tạo ra cái góc của sự công bằng, tức là phải công bằng từ cái tạo ra thu nhập chứ không
đơn giản chỉ là các chính sách điều tiết thu nhập thực tế để thực hiện CBXH.
Thứ hai, tạo lập hành lang phỏp lý, mụi trường ổn định để phát triển kinh tế và
thực hiện CBXH.
Đây là vấn đề quan trọng đối với phát triển kinh tế và thực hiện CBXH. Một
mặt Đảng và Nhà nước đề ra các quy tắc hợp lý để tất cả các đối tượng như doanh
nghiệp, người tiêu dùng, Chính phủ đều phải tuân thủ và tôn trọng. Nó bao gồm các
quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm
tương hỗ của các liên đoàn lao động và ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi
trường kinh tế. Mặt khác đảm bảo sự bỡnh đẳng giữa các thành phần kinh tế, quyền tự
do lựa chọn loại hỡnh và quy mụ kinh doanh của cỏc chủ thể kinh tế, đảm bảo cạnh
tranh lành mạnh, chống các hỡnh thức và biểu hiện độc quyền, tạo sự bỡnh đẳng cho
người lao động tỡm việc làm và bảo vệ quyền lợi cho người lao động, người tiêu dùng.
Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập của các tầng lớp dân cư.
Quỏ trỡnh phõn phối trong cơ chế thị trường diễn ra khá phức tạp trong kinh tế
thị trường. Thị trường có chức năng phân phối thu nhập thông qua quan hệ sở hữu và
quan hệ cung cầu. Theo nguyên tắc của thị trường thỡ cỏc yếu tố sản xuất như vốn, tài
sản, sức lao động phải được trả giá hợp lý, cụng bằng theo thỏa thuận, nhưng cũng
chính từ đó làm nảy sinh ra bất bỡnh đẳng trong thu nhập và hưởng thụ, gây mâu
thuẫn, thậm chí xung đột giữa các tầng lớp, các giai cấp khác nhau trong xó hội. Vỡ
vậy thị trường không phải là cán cân phân phối thực sự công bằng và hợp lý đối với
mọi trường hợp mà cần thiết phải có sự điều tiết của Nhà nước. Nhà nước điều tiết và
phân phối thu nhập trong nền KTTT khụng phải là bỡnh quõn, cào bằng làm thui chột
động lực phát triển kinh tế, mà ngược lại chức năng điều tiết của Nhà nước phải thúc
đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống cỏc thành viờn trong xó hội để mọi người đều
được hưởng thành quả của TTKT nhưng không làm mất động lực của các quan hệ thị
trường trong phân phối lợi nhuận. Quan hệ phân phối đảm bảo hiệu quả và công bằng
ở nước ta được thực hiện thông qua ba hỡnh thức chủ yếu:
- Phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế;
- Phân phối theo tài sản hay theo vốn;
- Phõn phối thụng qua quỹ phỳc lợi xó hội;
Thứ tư, Nhà nước đề ra, lónh đạo thực hiện cỏc chớnh sỏch xó hội, thực hiện
CBXH như xóa đói giảm nghèo, ưu đói cỏc gia đỡnh thương binh liệt sĩ, gia đỡnh cú
cụng với cỏch mạng…đảm bảo cho họ có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng
mức sống trung bỡnh của người dân ở cùng khu vực cư trú. Các chính sách thu hút, tạo
việc làm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu và điều kiện làm
việc, đều có cơ hội có việc làm…nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho xó
hội, hạn chế những bất cụng và chờnh lệch trong quá trỡnh phỏt triển kinh tế.
Cỏc chớnh sỏch cứu trợ xó hội đối với những người rủi ro trong cuộc sống,
nhằm tạo cơ hội bỡnh đẳng cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng.
Việc thực hiện tốt chớnh sỏch này thể hiện sự quan tõm của xó hội đối với
từng cá nhân, vừa là thể hiện tỡnh cảm cao đẹp của dân tộc ta, tương thân tương ái, lá
lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân.
Cỏc chớnh sỏch về bảo hiểm xó hội nhằm đảm bảo một phần thu nhập cho
người lao động khi họ mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm.
Nước ta hiện nay đang thực hiện nền KTTT, từng bước TTKT đều gắn với các
chính sách xó hội nhằm thực hiện CBXH, chỉ như vậy mới thực sự đảm bảo được thực
chất của vấn đề CBXH mang tính thực tế và tương đối ổn định. Đây chính là đảm bảo
xó hội trờn cơ sở phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, thúc đẩy sự sáng tạo và
cạnh tranh lành mạnh trong các hoạt động kinh tế, đảm bảo sự bỡnh đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật, đồng thời hạn chế mặt tiêu
cực và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, bần cùng hóa người lao động. Chính sách xó
hội của Nhà nước phải tạo ra được điều kiện, những cơ hội như nhau để mọi người
cùng có cơ hội phát triển.
Để đảm bảo được CBXH thỡ Đảng và nhà nước giữ vai trũ hết sức quan trọng,
đó chính là sự lónh đạo, định hướng, quản lý và điều tiết. một nền kinh tế phát triển có
đúng hướng và hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào vai trũ của Đảng và Nhà
nước. Tuy nhiên, thực hiện CBXH cũn phụ thuộc vào sự hợp tỏc phối kết hợp nhịp
nhàng của cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội, các tổ chức kinh tế, cá nhân và sự đồng thuận
của toàn xó hội toàn xó hội.
Các tổ chức chính trị -xó hội cú vai trũ triển khai và thực hiện, thực thi cụ thể
hóa các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực, cụ thể. Việc
thực hiện CBXH có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của các tổ
chức chính trị -xó hội.
Các tổ chức kinh tế, đơn vị kinh doanh có vai trũ rất lớn trong việc thực hiện
CBXH, bằng cỏc hỡnh thức như tài trợ, đóng góp kinh phí để hỗ trợ cho các gia đỡnh
chớnh sỏch gặp khó khăn như Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các người già cả neo đơn
không nơi nương tựa, trẻ mồ côi cơ nhỡ, các người lầm đường lạc lối giúp họ có điều
kiện hũa nhập cộng đồng và có điều kiện phát triển kinh tế, hỗ trợ các vùng đặc biệt
khó khăn, thiên tai lũ lụt…Đây là một việc làm tỡnh nghĩa hết sức cao đẹp, vừa mang
tính truyền thống dân tộc, vừa góp phần tích cực vào việc xóa bỏ bất công, thực hiện
CBXH mà Đảng và Nhà nước ta đó đề ra.
Thực hiện CBXH đũi hỏi phải cú sự nỗ lực và tự giỏc của toàn thể cỏ nhõn và
xó hội, thực hiện tinh thần mỗi người vỡ mọi người và mọi người vỡ mỗi người, tinh
thần tương thân tương ái, "lá lành đùm lá rách", "thương người như thể thương thân",
hỗ trợ cùng nhau phát triển. CBXH đũi hỏi phải cú sự đồng thuận của toàn xó hội, tất
cả mọi cá nhân, mọi tổ chức, mọi lực lượng xó hội phải nỗ lực phấn đấu, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, toàn dân đoàn kết kiên quyết xóa bỏ bất công, thực hiện CBXH.
Chỉ có như vậy thỡ CBXH mới được bảo đảm.
Như vậy, thực hiện CBXH không đơn giản là công việc của một tổ chức, một
cá nhân, mà là sự phối kết hợp đồng thuận của toàn xó hội, công việc đó là của toàn
Đảng toàn quân toàn dân ta, đó là sức mạnh tổng hợp của tinh thần đoàn kết toàn dân
tộc kiên quyết đấu tranh chống những bất công, bất bỡnh đẳng, thực hiện CBXH.
Chương 2
VAI TRề NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY- THỰC TRẠNG, PHƯƠNG
HƯỚNGVÀ GIẢI PHÁP (QUA THỰC TẾ VĨNH PHÚC)
2.1. THỰC TRẠNG VIỆC PHÁT HUY VAI TRề NHÂN TỐ CHỦ QUAN
TRONG VIỆC THỰC HIỆN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (QUA THỰC TẾ VĨNH
PHÚC)
2.1.1. Thực trạng việc thực hiện công bằng xó hội ở Vĩnh Phúc hiện nay
Vĩnh Phúc được thành lập từ năm 1950 trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc
và Phúc Yên, đến tháng 3/1968 Vĩnh Phúc sát nhập với tỉnh Phú Thọ lấy tên là tỉnh
Vĩnh Phú. Sau gần 30 năm hợp nhất, ngày 01/01/1997 Vĩnh Phúc được tái lập trên cơ
sở tách tỉnh Vĩnh Phú thành hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
Về vị trí địa lý: Vĩnh Phúc nằm ở Trung tâm phía Bắc của tổ quốc, thuộc vùng
đồng bằng châu thổ sông hồng, cửa ngừ phớa Bắc của Thủ đô Hà Nội, là một trong 8 tỉnh
thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 50 Km về phía Tây Bắc, tiếp
giáp với 5 tỉnh thành: phía Tây Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái
Nguyên, phía Đông Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hà Tây, phía Tây
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.pdf