Tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay: LUẬN VĂN:
Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh
Phú Thọ hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta có 54 thành phần dân tộc cùng cư trú. Mỗi dân tộc đều có bản sắc
riêng của mình được kết tinh với hàng ngàn năm văn hiến. Cùng với dòng chảy của thời
gian và những biến động của lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc cũng vận động, biến đổi
theo những quy luật nhất định, vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa độc lập, vừa kế thừa, vừa
có sự đan xen những yếu tố mới và cũ để làm nên những nét độc đáo rất riêng của mỗi
dân tộc và góp phần tạo nên âm hưởng văn hóa chung của cả cộng đồng người Việt.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa mọi mặt của đời sống xã hội, đã tạo
điều kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao
mức sống và thu nhập, có cơ hội giao lưu và tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới làm
giàu thêm bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thời c...
101 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh
Phú Thọ hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta có 54 thành phần dân tộc cùng cư trú. Mỗi dân tộc đều có bản sắc
riêng của mình được kết tinh với hàng ngàn năm văn hiến. Cùng với dòng chảy của thời
gian và những biến động của lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc cũng vận động, biến đổi
theo những quy luật nhất định, vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa độc lập, vừa kế thừa, vừa
có sự đan xen những yếu tố mới và cũ để làm nên những nét độc đáo rất riêng của mỗi
dân tộc và góp phần tạo nên âm hưởng văn hóa chung của cả cộng đồng người Việt.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa mọi mặt của đời sống xã hội, đã tạo
điều kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao
mức sống và thu nhập, có cơ hội giao lưu và tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới làm
giàu thêm bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, vận
hội của sự phát triển là nguy cơ phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong hưởng
thụ văn hóa. Hơn nữa, các thế lực thù địch vẫn tiến hành âm mưu diễn biến hòa bình,
đặc biệt là trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta. Do vậy, khẳng định hệ giá trị văn hóa dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có
tính thời sự vừa lâu dài đối với đất nước ta. Đây là vấn đề không mới, rất nhiều văn kiện
của Đảng, chính sách của Nhà nước đã đề ra chủ trương, giải pháp cụ thể việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc đặc biệt là vùng văn hóa các dân tộc thiểu
số. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm, (khóa VIII) Đảng chủ
trương: Phải tiếp tục cụ thể bằng hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết
để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Mường chiếm tỷ lệ dân số đông thứ 4 sau các
dân tộc Kinh, Tày, Thái, họ cư trú trên vùng địa bàn đồi núi thấp thuộc các tỉnh Hòa
Bình, Thanh Hóa, Hà Tây... Đặc biệt với kiểu địa bàn trung du và miền núi như tỉnh Phú
Thọ, sự phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống văn hóa
người Mường ở đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá phong phú như lễ hội,
trang phục, thơ, ca, tín ngưỡng... đậm tính triết lý nhân sinh. Trước sự tác động và biến
đổi của thế giới, có không ít những giá trị văn hóa truyền thống của người Mường chỉ
còn tồn tại trong ký ức của những người già. Trong rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự
mai một, biến thái, đứt gãy những giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung,
dân tộc Mường nói riêng có nguyên nhân ở sự nhận thức lệch lạc, quản lý yéu kém của
một bộ phận cán bộ đảng viên; có nguyên nhân nằm trong chính bản thân những con
người, những tầng lớp kế thừa văn hóa của dân tộc ấy... Cho nên, việc bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức và vai trò lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn
thể nhân dân; giáo dục ý thức, tinh thần chủ động giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa
của mỗi tộc người là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay" làm luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số ở nước ta không phải là vấn đề
mới, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu với tầm cỡ, quy mô và khía
cạnh khác nhau.
- Các công trình, bài viết dưới góc độ triết học như: Vũ Thị Kim Dung, Cách tiếp
cận vấn đề văn hóa theo quan điểm triết học Mác, Tạp chí Triết học, số 1/1998; Vũ Đức
Khiển, Văn hóa với tư cách một khái niệm triết học và vấn đề xác định bản sắc văn hóa
dân tộc, Tạp chí Triết học, số 6/2000; Nguyễn Huy Hoàng, Văn hóa trong nhận thức
duy vật lịch sử của Các Mác, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 và Mấy vấn đề triết
học văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội, 2002.
- Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển như: Trần
Ngọc Hiên, "Văn hóa và phát triển - từ góc nhìn Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 1993; Phạm Văn Đồng, "Văn hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994; Phạm Xuân Nam, " Văn hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998
- Các công trình bài viết về vai trò của văn hóa trong nền kinh tế thị trường như:
Hồ Sĩ Vịnh, "Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999; Đặng Hữu Toàn, "Vai trò của văn hóa trong sự phát triển lâu bền theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Triết học, số 2/1999.
- Các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc
thiểu số Việt Nam như: Đỗ Huy - Trường Lưu, "Bản sắc dân tộc của văn hóa", Viện
Văn hóa, 1990; Huy Cận, "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1994; Nguyễn Từ Chi, "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb
Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2003; Trần Văn Bính (chủ biên),
"Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những vấn đề đặt ra", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004; Phan Hữu Dật, "Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
Những bài viết và công trình nghiên cứu về văn hóa Mường ở Phú Thọ có liên
quan trực tiếp đến luận văn như: Nguyễn Dương Bình, “Một vài nét về tình hình xã hội
vùng Mường tỉnh Vĩnh Phú trước cách mạng tháng 8”, Dân tộc học, số 4/ 1974; Lê
Tượng, “Những yếu tố văn hóa cổ Việt Mường trên đất Vĩnh Phú”, Dân tộc học, số 3/
1975; Nguyễn Ngọc Thanh, Gia đình và hôn nhân của người Mường ở Tỉnh Phú Thọ,
Luận án tiến sỹ khoa học lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội, 1999; Hà Văn Linh, Tổ
chức xã hội cổ truyền và những biến đổi của nó ở người Mường Thanh Sơn - Phú Thọ,
Luận án tiến sỹ khoa học lịch sử, Viện dân tộc học, Hà Nội, 2005.
Ngoài ra, trong các văn kiện của Đảng cũng nêu rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của văn
hóa trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào đi sâu nghiên cứu vấn đề: "Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn
hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ hiện nay".
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ tính đặc thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường, những yêu cầu
cấp thiết của việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ít người nói chung và dân
tộc Mường nói riêng, luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của
nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh
Phú Thọ hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ quan điểm mác xít về chủ quan; nhân tố chủ quan; văn hóa; bản sắc văn
hóa; bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số.
- Chỉ ra vai trò của nhân tố chủ quan với việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.
- Trình bày những điều kiện nảy sinh và tồn tại của văn hóa Mường; chỉ rõ nét đặc
thù của giá trị văn hóa dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ.
- Tìm hiểu thực trạng và những yêu cầu cấp bách của việc giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Nêu một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ
quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, bao hàm cả văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần; Phú Thọ là tỉnh có hơn 20 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đa dạng các
sắc thái văn hóa ấy, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, làm rõ vai trò của nhân tố chủ
quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mường tỉnh Phú Thọ trong
giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; các công trình nghiên
cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố, có nội dung liên quan tới vấn đề mà
luận văn đề cập.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn
các phương pháp: Lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch... nhằm
đạt tới mục đích mà luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần điều tra, nghiên cứu những nét đặc thù của văn hóa dân tộc
Mường ở Phú Thọ, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mường ở Phú Thọ hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng phục vụ cho công tác văn hóa tư tưởng của tỉnh Phú Thọ
và làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy chuyên ngành: Triết học, Văn hóa... ở các
trường chính trị tỉnh hoặc các trường đại học, cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương1
Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc
1.1. Nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan và bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Khái niệm: “nhân tố chủ quan”, “điều kiện khách quan”
“Nhân tố chủ quan” và “điều kiện khách quan” là những khái niệm được hỡnh
thành và phỏt triển trong quỏ trỡnh nghiờn cứu hoạt động thực tiễn của con người. Đây
là những khái niệm chủ yếu khái quát mối quan hệ giữa hoạt động nhận thức và hoạt
động cải tạo giới tự nhiên của con người. Trong quá trỡnh hoạt động, tác động và cải
tạo giới tự nhiên; con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Do vậy,
việc xác định cái gỡ là ĐKKQ, cái gỡ là NTCQ chỉ mang tớnh chất tương đối, và nhất
thiết phải tỡm hiểu cỏc khỏi niệm liờn quan tới hoạt động của con người, như khái niệm
“chủ thể”, “khách thể”, “chủ quan”, “khách quan”.
* Về khái niệm: “chủ thể”, “khách thể”:
Trong quỏ trỡnh nghiờn cứu, cỏc nhà khoa học đó đưa rất nhiều cách hiểu và định
nghĩa khác nhau về hai phạm trù này:
Có quan điểm cho rằng: “Chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến hành
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn” [61, tr.92].
Hoặc: “Chủ thể là con người có ý thức, ý chớ, và đối lập với khách thể bên ngoài”
[62, tr.192].
Con người với tư cách là chủ thể, là con người thực tiễn, con người hành động, với
đặc trưng cơ bản là năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (tự nhiên, xó
hội) và chỉ trong quỏ trỡnh nhận thức, cải tạo giới tự nhiờn và cải tạo đời sống xó hội
thỡ con người mới bộc lộ mỡnh với tư cách là chủ thể của lịch sử. Khi nói tới khái niệm
“chủ thể”, V.I.Lênin viết:
“Khái niệm ấy (= con người) là khuynh hướng tự mỡnh thực hiện mỡnh, tự cho
mỡnh, qua bản thõn mỡnh, một tớnh khỏch quan trong thế giới khỏch quan và tự hoàn
thiện (tự thực hiện) mỡnh” [28, tr.288].
Từ các quan niệm đó nờu ở trờn, cú thể hiểu: Chủ thể - đó là con người với những
cấp độ khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đó và đang thực hiện một quá trỡnh hoạt
động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Với cách hiểu khái niệm “chủ thể” như vậy thỡ chỉ cú thể quan niệm: Khách thể là
tất cả những gỡ mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo nó.
Như vậy, không phải tất cả hiện thực khách quan đều là khách thể mà chỉ có
những hiện thực khách quan mà con người hướng tới nhận thức và cải tạo mới trở thành
khách thể; tùy mức độ xác định chủ thể nhận thức, cải tạo thế giới khách quan là ai mới
có thể xác định được khách thể tương ứng. Khách thể có thể là những hiện tượng, quá
trỡnh thuộc giới tự nhiờn, cũng cú thể là những gỡ do con người tạo ra nhờ hoạt động
lao động sản xuất vật chất, là những yếu tố xó hội, những quan hệ kinh tế, quan hệ
chớnh trị - xó hội v.v…
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, mặt
này là tiền đề tương tác của mặt kia, và con người chỉ trở thành chủ thể khi hoạt động
tác động vào thế giới khỏch quan, biến thế giới khỏch quan ấy thành khỏch thể của quỏ
trỡnh hoạt động thực tiễn của mỡnh. Chủ thể nhận thức và cải tạo một cỏch chủ động
sáng tạo khách thể theo mục đích của mỡnh; nhưng chính khách thể bị tác động lại quy
định chủ thể. Bởi lẽ, khách thể tồn tại độc lập với chủ thể và luôn vận động theo những quy
luật vốn có của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận thức, hành động phù hợp với quy luật vận
động của khách thể, khi đó hoạt động của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích cực.
* Về khái niệm: “cái chủ quan”, “cái khách quan”:
Đây là hai khái niệm nói lên những thuộc tính chung của chủ thể và khách thể
được bộc lộ trong quá trỡnh hoạt động thực tiễn của con người. Những thuộc tính, tính
chất, yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể là cái chủ quan; những tính
chất, yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ thể là cái khách quan; nhưng
giữa cái khách quan và cái chủ quan luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng, tác động qua
lại và chuyển hóa lẫn nhau. Vỡ vậy, khi núi về khỏi niệm “cỏi chủ quan” cú học giả cho
rằng: “Chủ quan là ý thức của chủ thể” [43, tr.92]. Hoặc: “Chủ quan là những gỡ thuộc
về chỉ đạo hoạt động của chủ thể” [43, tr.192].
Chúng tôi đồng ý kiến với quan điểm thứ 2. Tuy nhiên, khi xem xét toàn bộ hoạt
động của con người và những sản phẩm của hoạt động đó thỡ thấy rằng: chỳng bao giờ
cũng chứa đựng những dấu ấn của cái chủ quan; nhưng không thể coi tất cả những cái
mang dấu ấn chủ quan (nhất là những dấu ấn thuộc những sản phẩm nằm ngoài chủ thể)
là thuộc về cái chủ quan. Hơn nữa, cái chủ quan cũng không đơn thuần chỉ là ý thức như
một số học giả quan niệm, mà cái chủ quan cũn bao gồm cả yếu tố thể lực, yếu tố tinh
thần như: tri thức, tỡnh cảm, ý chớ v.v…của con người, và chính cả bản thân hoạt động
của họ. Như vậy, có thể nói: cỏi chủ quan là tất cả những gỡ thuộc về chủ thể và phụ
thuộc vào chủ thể.
Trong những hoạt động cụ thể, khi chủ thể tác động lên khách thể và biến đổi nó
theo mục đích của mỡnh, khụng phải lỳc nào chủ thể hoạt động cũng dùng tất cả những
năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn có của mỡnh, mà cú thể chỉ huy động một phần, một bộ
phận các yếu tố tạo thành cái chủ quan trong quá trỡnh tương tác với khách thể, cái đó
gọi là nhân tố chủ quan.
Nói cách khác, nhõn tố chủ quan là những gỡ thuộc về chủ thể, tham gia trực tiếp vào
quỏ trỡnh hoạt động của chủ thể, cũng như bản thân hoạt động đó.
Do vậy, sẽ là sai lầm nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với tất cả các yếu tố tạo
thành cái chủ quan, hoặc đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của chủ thể. Vỡ “yếu
tố” là khái niệm chỉ các bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng, cũn “nhõn tố” là khỏi
niệm chỉ cỏi trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể; NTCQ chỉ là một bộ phận
của cái chủ quan được chủ thể huy động sử dụng trực tiếp trong quá trỡnh tỏc động lên
khách thể cụ thể. Cho nên, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với cái chủ quan, hoặc với ý
thức của chủ thể sẽ là khụng đầy đủ và không làm rừ được đặc trưng của nhân tố chủ
quan như là những gỡ thuộc về hoạt động của chủ thể, NTCQ không phải là ý thức núi
chung của chủ thể, mà là ý thức trực tiếp chỉ đạo hoạt động của chủ thể. Ngoài các yếu
tố của chủ thể như năng lực thể chất, ý thức chỉ đạo và định hướng hoạt động thực tiễn,
thỡ NTCQ cũn bao hàm cả bản thõn hoạt động đó nữa, nếu thiếu hoạt động của con
người thỡ khụng thể thay đổi hiện thực và không thể trở thành NTCQ. Đề cập đến vấn
đề này, C.Mác viết: “Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gỡ hết. Muốn thực hiện
được tư tưởng cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [35, tr.12].
Khái niệm NTCQ cũng không đồng nhất với khái niệm nhân tố con người. Nhân
tố con người là tất cả những gỡ thuộc về con người (mọi mặt của con người) trong hoạt
động cải tạo thế giới (tự nhiên, xó hội và cả bản thõn con người). NTCQ có phạm vi
xem xét hẹp hơn nhân tố con người, vỡ nú chỉ thể hiện vai trũ của chủ thể trong một
hoạt động xác định.
Cỏc nguyờn lý triết học mỏc xớt chỉ rừ con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh
nhưng đồng thời cũng là chủ thể của hoàn cảnh. Do đó, khi đặt trong mối quan hệ chung
nhất, đối diện với tự nhiên chúng ta có khái niệm con người. Khi đặt con người trong
trạng thái tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo theo mục
đích nhất định, lúc đó có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khái niệm khách thể.
Về phạm trù cái khách quan, cũng có rất nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau,
có ý kiến quy phạm trự khỏch quan về phạm trự vật chất, cú ý kiến cho rằng cỏi khỏch
quan bao hàm cả hiện tượng ý thức…Trờn thực tế, muốn khẳng định cái gỡ là khỏch
quan phải đặt nó trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Không thể đồng nhất cái
khách quan với hiện thực khách quan hay thế giới vật chất, vỡ chỉ cú những hiện tượng
ý thức tồn tại bờn ngoài ý thức và ý chớ của chủ thể, bị chủ thể tỏc động biến đổi, thỡ ý
thức ấy đóng vai trũ là khỏch thể.
Như vậy, cỏi khỏch quan là tất cả những gỡ tồn tại ngoài chủ thể và khụng phụ
thuộc vào ý thức, ý chớ của chủ thể.
Cái khách quan bao gồm cả những yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần. Nhưng
trong hoạt động thực tiễn của chủ thể không phải toàn bộ cái khách quan đều đóng vai
trũ là khỏch thể, mà chỉ cú một bộ phận của cỏi khỏch quan tham gia vào hoạt động của
chủ thể, trở thành khách thể chịu tác động của chủ thể trong một thời điểm, hoàn cảnh
nhất định. Một bộ phận ấy (có thể là những yếu tố vật chất như: môi trường tự nhiên, là
quan hệ chính trị- xó hội, hoặc là yếu tố tinh thần như: ý thức xó hội lạc hậu cần cải
tạo…). Đó chính là điều kiện khách quan.
Khi nói tới khái niệm ĐKKQ, các học giả cũng đưa ra rất nhiều cách tiếp cận khác
nhau như: “Là những gỡ tạo nờn một hoàn cảnh hiện thực…”, “Là một phần của cỏi
khỏch quan…”, nhưng tất cả những quan điểm đó đều thống nhất cơ bản ở một điểm,
đó là: “tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chớ của chủ thể và chi phối hoạt động của
chủ thể” [56, tr.12].
Có thể nói: ĐKKQ là tổng thể những mặt, những nhân tố tạo nên hoàn cảnh hiện
thực.Trong đó chủ thể sống và thực hiện mọi hoạt động ở những thời điểm nhất định.
ĐKKQ luôn mang tính cụ thể, bao gồm: những yếu tố vật chất, tinh thần, những
quy luật khách quan, những khả năng khách quan (khả năng tiềm ẩn có thể xảy ra trong
tương lai). Những yếu tố ấy sẽ là những điều kiện cụ thể tạo nên hoàn cảnh, môi trường,
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của chủ thể tại một thời điểm lịch sử nhất định, nó
quyết định hoạt động của chủ thể, vỡ những hoạt động của chủ thể chỉ được thực hiện
trong những điều kiện nhất định. Việc lựa chọn nắm bắt hoàn cảnh như thế nào sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn của chủ thể.
* Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan:
Thứ nhất, ĐKKQ quy định vai trũ của NTCQ.
Phương pháp luận mác xít luôn khẳng định: ĐKKQ đóng vai trũ quan trọng và
quy định NTCQ. Tính quy định của ĐKKQ đối với NTCQ được thể hiện ở chỗ: trong hoạt
động thực tiễn, những dự định mà con người đặt ra phải dựa trên cơ sở hiện thực khách
quan, nếu chỉ căn cứ vào ý muốn chủ quan, thoỏt ly cơ sở hiện thực thỡ hoạt động của con
người sẽ không thể thành công.
“Thật ra mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế
giới khách quan làm tiền đề” [28, tr.201].
ĐKKQ quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể, nó là yếu tố chi phối, quy định
phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của chủ thể, mọi hoạt động của chủ thể
phải phù hợp với thực tiễn khách quan.
ĐKKQ quy định sự phát triển của nhân tố khách quan, những phẩm chất, yếu tố
của chủ thể phải tương ứng với ĐKKQ mà trong đó chủ thể hoạt động, khi ĐKKQ
thay đổi thỡ NTCQ cũng phải thay đổi cho phù hợp với ĐKKQ mới.
Thứ hai, NTCQ cú vai trũ tỏc động tích cực đến sự biến đổi của ĐKKQ.
NTCQ là những gỡ thuộc về chủ thể, cho nờn NTCQ tuy bị ĐKKQ quy định
nhưng nó không thụ động hoàn toàn mà có tính tích cực sáng tạo, tính độc lập tương đối
so với ĐKKQ. Vai trũ tớch cực sỏng tạo của NTCQ thể hiện ở chỗ: Trong hoạt động
thực tiễn, chủ thể vận dụng sáng tạo cái chủ quan của mỡnh để tỡm hiểu, nhận thức quy
luật vận động của cái khách quan, khi cả hai tương thích sẽ tạo nên sự chuyển hóa khả
năng thành hiện thực.
Với tư cách là chủ thể hoạt động, con người luôn chủ động lựa chọn những khả
năng tốt nhất, vừa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của mỡnh vừa khụng đi ngược lại tiến
trỡnh phỏt triển của lịch sử. Cỏc quy luật khỏch quan vận động đan xen nhau, nhưng
chủ thể hoạt động có khả năng dựa trên cơ sở những nhận thức đúng, phù hợp của mỡnh
để điều chỉnh hỡnh thức, trật tự tỏc động của quy luật khách quan, có thể tạo ra những
yếu tố làm xuất hiện những quy luật khách quan mới.
Trong quỏ trỡnh tỏc động trở lại quy luật khách quan, NTCQ cũng đồng thời tự
nâng cao khả năng nhận thức của mỡnh trong quỏ trỡnh biến đổi thế giới khách quan.
Tuy nhiên, NTCQ có vai trũ to lớn đến đâu, sức sáng tạo đến thế nào thỡ trong việc xem
xột, giải quyết cỏc vấn đề vẫn phải xuất phát từ thực tế khách quan và phải tuân thủ các
nguyên tắc khách quan. Hơn nữa, bản thân chủ thể hoạt động cũng là sản phẩm của thế
giới khách quan, có nguồn gốc từ thế giới khách quan, toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, lao
động, và phát triển của chủ thể đều phản ánh những điều kiện, quy luật của thế giới
khỏch quan - Mọi sự cố gắng của chủ thể trong quỏ trỡnh phản ỏnh, nhận thức và cải
tạo thế giới cũng là để đáp ứng một cách tốt nhất những mục đích và nhu cầu sống của
chính mỡnh (cả vật chất lẫn tinh thần).
Nói tóm lại, trong mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ thỡ ĐKKQ là
tính thứ nhất, quy định NTCQ cả về nội dung, phương hướng và tổ chức hoạt động thực
tiễn. Nhưng NTCQ không bị động trước hoàn cảnh khách quan mà luôn lấy ĐKKQ là
điểm xuất phát, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phát hiện, nắm bắt
những khả năng khách quan, tạo ra những tiền đề biến khả năng khách quan thành hiện
thực, làm chủ cái khách quan, biến tính tất yếu khách quan thành nội dung hoạt động tự
do sáng tạo của mỡnh. Tớnh biện chứng trong mối quan hệ giữa NTCQ và ĐKKQ cũn
thể hiện ở chỗ: để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn thỡ bắt buộc NTCQ
phải vận động, phát triển, tự hoàn thiện những phẩm chất, nâng cao nhận thức, khả năng
vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn của mỡnh cho phự hợp với những quy luật vốn cú
của thế giới khỏch quan. Bất cứ một sự tựy tiện, chủ quan, duy ý chớ nào cũng sẽ dẫn
tới những hành động vi phạm quy luật khách quan, kỡm hóm sự phỏt triển của tự nhiờn,
xó hội, con người và của chính bản thân chủ thể đang tham gia hoạt động ấy.
Lịch sử xó hội loài người là lịch sử của chính con người. Hành động làm nên lịch
sử đầu tiên của con người, đó là những hoạt động lao động cải tạo tự nhiên để đáp ứng
và thỏa món những nhu cầu tồn tại của mỡnh. Từ hoạt động lao động cải tạo thế giới tự
nhiên đó, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xó hội loài
người được thiết lập, các quan hệ xó hội của loài người được hỡnh thành (tự nhiờn và
khỏch quan). Cựng với tự nhiờn, giống như tự nhiên, xó hội loài người cũng không
ngừng vận động và phát triển theo những quy luật nhất định. Trong quá trỡnh đó, cái
khách quan và cái chủ quan, những ĐKKQ và NTCQ bao giờ cũng tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất, biện chứng; trong đó ĐKKQ bao giờ cũng có vai trũ quy định đối
với NTCQ. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong quỏ trỡnh hoạt động lao động của con
người, chỉ khi nào những quan hệ vật chất cần thiết đó phỏt triển chớn muồi, hoặc ớt ra
cũng đang trong quá trỡnh hỡnh thành, thỡ khi đó NTCQ mới có cơ sở khách quan để
biến những khả năng thành hiện thực, công cuộc cải biến xó hội mới thành cụng.
Khi phõn tớch tỡnh thế cỏch mạng ở Nga năm 1917, so sánh tỡnh hỡnh cỏch mạng
ở Nga khi đó với những tỡnh thế cỏch mạng trước đó cả ở Nga, ở Đức, và tất cả các thời
kỳ cách mạng Phương Tây trước đó. V.I.Lênin đó khẳng định: Cũng là những ĐKKQ
giống như thế, cũng là sự khủng hoảng chính trị của tầng lớp trên cùng, quần chúng
nhân dân bị áp bức nặng nề, cũng là ý thức muốn vựng lờn làm một cuộc cải biến xó
hội… Nhưng các cuộc cách mạng trước đó khụng thể nổ ra là vỡ thiếu đi sự chín muồi
của NTCQ, của giai cấp cách mạng, tức là thiếu đi khả năng phát động, tổ chức, tập hợp
quần chúng nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp của các giai cấp bị trị trong cuộc đấu tranh
cách mạng ấy [27, tr. 268]. Như vậy, theo V.I.Lờnin, nếu khụng xuất hiện cỏc tỡnh thế
cỏch mạng (ĐKKQ), hoặc nếu không có sự biến đổi chủ quan của giai cấp cách mạng
thỡ tỡnh thế cỏch mạng (ĐKKQ) chỉ là khả năng khách quan, mà không thể là hiện
thực.
Trên thực tế, không phải lúc nào các ĐKKQ cũng tự phỏt (tự nú) hỡnh thành, mà
cú lỳc cỏc ĐKKQ cũng phải được xúc tiến, nảy sinh thông qua các hoạt động tích cực
của con người. Sự năng động chủ quan của con người phải được đo bằng hiệu quả vật
chất chứ không chỉ là trong lý luận hay tư duy.
Một vấn đề thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa NTCQ và
ĐKKQ là ở chỗ: phát huy vai trũ NTCQ khụng thể tỏch rời những ĐKKQ đang có,
không thể hoạt động một cách tùy tiện trước quy luật của TN, của XH. Đó phải là sự
biến đổi không ngừng của bản thân chủ thể (từ năng lực, phẩm chất, đạo đức…đến khả
năng thiết kế, tổ chức hoạt động thực tiễn…). Khi đó mới thúc đẩy được kinh tế – xó
hội phỏt triển, mới cải tạo thế giới khỏch quan thành cụng, mới ngày một nõng cao hơn
chất lượng cuộc sống cho con người cả về vật chất lẫn tinh thần, con người (chủ thể
hành động) ngày càng hoàn thiện bản thân mỡnh, trang bị cho mỡnh đầy đủ các điều
kiện để vươn tới cuộc sống đậm chất người hơn.
1.1.2. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Văn hóa - Cho đến nay, không phải tất cả mọi người đó đồng ý với nhau về định
nghĩa. Từ cổ chí kim, trong lịch sử loài người, xuất phát từ cách tiếp cận và nhận thức
khác nhau mà hỡnh thành cỏc định nghĩa về văn hóa. Năm 1952, các nhà dân tộc học
người Mỹ đó thống kờ được hơn 300 định nghĩa mà các tác giả thuộc nhiều nước khác
nhau đó phỏt biểu về văn hóa, các định nghĩa ấy đó khai thỏc vấn đề văn hóa dưới từng
góc độ, từng mặt khác nhau, nhưng ở khía cạnh nào đó cũng có sự thống nhất hoặc bổ
sung cho nhau trong sự nhận thức về văn hóa.
C.Mác và Ph.Ăngghen đó nhỡn nhận văn hóa như là một sản phẩm của lịch sử, là
sản phẩm của quá trỡnh lao động cải tạo tự nhiên của các thế hệ người. Do vậy, trỡnh
độ phát triển của văn hóa phụ thuộc vào trỡnh độ nhận thức và sức sáng tạo của con
người trong quỏ trỡnh hoạt động thực tiễn của họ. Nếu tách văn hóa ra khỏi đời sống
của con người và xó hội loài người thỡ văn hóa chẳng cũn ý nghĩa gỡ cả. C.Mỏc cho
rằng: “con người sản xuất” là một “thực thể song trùng” thống nhất giữa “cái tự nhiên
và cái xó hội”. Trong đó, yếu tố tự nhiên được cấu tạo như một sinh vật và nó vận động
theo quy luật sinh học [35, tr.9]. Nhưng điểm khác biệt giữa con người với động vật là ở
chỗ con người mang bản chất xó hội. Bản chất của con người thể hiện ra trong mối quan
hệ giữa mỗi người với người khác, giữa mỗi người với cộng đồng xó hội và thể hiện
trong kết cấu xó hội hiện thực, ở một khụng gian, thời gian xỏc định. Trong luận cương
về Phơbách, C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hũa
những quan hệ xó hội” [36, tr.11].
Con người được sinh ra và sống trong giới tự nhiên. Nhưng con người không bị
hũa tan hay lệ thuộc vào giới tự nhiờn mà ngày càng tỏch mỡnh ra khỏi giới tự nhiờn và
rồi quay lại giới tự nhiờn, cải tạo nú, làm cho nú trở thành giới tự nhiờn thứ hai, giới tự
nhiờn của chớnh mỡnh, đồng thời qua đó cải biến chính bản thân mỡnh - Đó chính là
văn hóa. C.Mác viết:
Cố nhiên, con vật cũng sản xuất…Nhưng súc vật sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong
khi con người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vỡ bị chi phối
bởi nhu cầu thể xỏc trực tiếp, cũn con người sản xuất ngay cả khi không bị
nhu cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi không bị nhu cầu đó ràng buộc thỡ con
người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của từ đó; Con vật chỉ tái sản xuất ra
bản thân nó, cũn con người thỡ tỏi sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiờn [37, tr.137].
Con người là một thực thể có ý thức, sống, hoạt động trên cơ sở hiểu rừ bản thõn,
hiểu rừ đối tượng định tác động, từ đó tự chịu trách nhiệm về mục tiêu, thái độ, hành vi,
phương hướng tác động đến đối tượng. Sự tự ý thức của con người được thể hiện rừ nột
trong đời sống tinh thần, trong sáng tạo nghệ thuật, họ sản xuất và xây dựng “theo các
quy luật cái đẹp” [38, tr.137], điều đó thể hiện rừ đầu óc chiến lược, năng lực phân tích,
tổng kết, dự báo, gắn với tầm nhỡn và nhón quan văn hóa của chủ thể hành động.
Trong thế giới tự nhiên chỉ có duy nhất con người sống và hoạt động với tư cách là
chủ thể của bản thõn mỡnh, làm chủ giới tự nhiờn, hũa vào giới tự nhiờn nguyờn sơ, để
tạo nên một “thiên nhiên thứ hai” nhằm thỏa món những nhu cầu, ham muốn chinh
phục tự nhiờn, xó hội …của bản thõn con người - Đó là văn hóa. C.Mác cho rằng, xét
đến cùng, văn hóa có nguồn gốc từ lao động. Bởi lẽ, mọi hoạt động sáng tạo của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xó hội đều bắt đầu từ lao động. Chính lao động đó sỏng
tạo ra con người và xó hội loài người, làm cho con người ngày càng thoát ra khỏi bản
năng động vật, tiến dần đến trỡnh độ trưởng thành về nhân cách, trỡnh độ trưởng thành
về văn hóa của mỗi cá nhân.
Trong quỏ trỡnh lao động, con người đó in dấu mỡnh vào trong từng khõu, từng
yếu tố, từng mặt, từng bộ phận…của thành quả lao động, làm cho tự nhiên tự hiện hỡnh
trong hoạt động của con người.
C.Mác viết: “…Bằng thực tiễn, bằng con đường cách mạng; họ sẽ làm cho “tồn
tại” của mỡnh phự hợp với bản chất của mỡnh” [38, tr.507].
Như vậy, theo C.Mác, văn hóa được hỡnh thành và phỏt triển trờn cơ sở sự hỡnh
thành và phát triển con người. Thước đo của sự tiến bộ và phát triển này chính là mức
độ hỡnh thành và phỏt triển bản chất người trong quá trỡnh con người chinh phục và
biến đổi tự nhiên, trong mối quan hệ giữa con người với cộng đồng, mà bao trùm là
quan hệ giữa đời sống tinh thần và không gian sống vật chất của con người và của xó
hội loài người. Nếu môi trường đầu tiên cho con người sự hỡnh thành và phỏt triển,
quyết định sự tồn tại của con người là sản xuất vật chất, thỡ mụi trường thứ hai cho con
người bộc lộ, phát huy những năng lực và bản chất người trong các hoạt động sống, đó
chính là sản xuất văn hóa.
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hóa khá rộng và bao quát. Từ cách tiếp cận hỡnh
thỏi kinh tế - xó hội, V.I.Lờnin cho rằng: Sự phỏt triển của văn hóa gắn liền với sự phỏt
triển của cỏc hỡnh thỏi kinh tế - xó hội, mỗi một hỡnh thỏi kinh tế - xó hội cú một nền
văn hóa tinh thần đặc trưng (như một giá trị lịch sử), khi hỡnh thỏi kinh tế - xó hội thay
đổi, thỡ nền văn hóa tương ứng với nó cũng có sự thay đổi nhất định. Đây không có
nghĩa là sự đứt đoạn hay đoạn tuyệt với các giá trị văn hóa truyền thống, mà trong quá
trỡnh chuyển húa, nền văn hóa mới luôn kế thừa những di sản, thành tựu của nền văn
hóa trước đó, đồng thời bổ sung những yếu tố mới phù hợp với những đặc điểm và quan
hệ của hỡnh thỏi kinh tế – xó hội mới. V.I.Lờnin khẳng định: Ở đâu có hoạt động của
con người thỡ ở đó có văn hóa và văn hóa không chỉ dừng lại ở văn hóa tinh thần mà
cũn bao hàm cả văn hóa vật chất. Người coi văn hóa là phương tiện quan trọng nhất
trong tất cả cỏc loại hỡnh hoạt động của con người và là kết quả của quá trỡnh hoạt
động đó. Vỡ vậy, trong quỏ trỡnh xõy dựng nền văn hóa mới, V.I.Lênin nhấn mạnh
nguyên tắc tính đảng, tính nhân dân, tính dân tộc, tính nhân loại trong văn hóa, cách
mạng văn hóa, trước hết là cách mạng trong trí tuệ, trong ý thức của quần chỳng. Người
khẳng định: hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa phải là “của” nhân dân, chứ không
phải “cho” nhân dân. Người viết: “Chủ nghĩa xó hội được xây dựng không phải bằng
mệnh lệnh từ trên. Tinh thần của nó xa lạ với bộ máy nhà nước quan liêu; Chủ nghĩa xó
hội sinh động, sáng tạo, tức là sáng tạo của chính quần chúng” [26, tr.464].
Sáng kiến của Người đó khơi dậy tiềm năng, tính chủ động sáng tạo của quần
chúng nhân dân, mở ra hướng đi và nhiệm vụ mới cho cách mạng vô sản - cách mạng
văn hóa. Đó là cuộc cách mạng giải phóng triệt để con người và xó hội loài người khỏi
những áp bức bất công cả trong lao động cũng như trong mọi hoạt động sáng tạo của họ.
Theo V.I. Lênin, muốn xây dựng một nền văn hóa mới, nền văn hóa vô sản có khả
năng phát triển toàn diện năng lực và bản chất người, cần phải kế thừa có phê phán các
giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, đồng thời phát triển nó lên một tầm cao mới,
mang đậm chất liệu văn hóa và bản chất người. Người nói rằng:
Nền văn hóa vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải là
do những người tự cho mỡnh là chuyờn gia về văn hóa vô sản bịa đặt ra…
văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài
người đó tạo ra dưới ách áp bức của xó hội Tư bản, địa chủ và của xó hội
quan liờu [26, tr.402].
Người cũng chỉ ra rằng, chỉ có xây dựng thành công CNXH, CNCS thỡ con người
mới có điều kiện thể hiện đầy đủ năng lực sáng tạo, trỡnh độ làm chủ của mỡnh trước tự
nhiờn, xó hội và ngay cả trước bản thân mỡnh. Từ đó, con người và xó hội loài người
mới có điều kiện xây dựng và phát triển sự công bằng, bỡnh đẳng, tự do cho bản thân,
các tiêu chí: chân, thiện, mỹ…mới được xác lập và hoàn thiện, hoạt động sáng tạo của
con người mới có đầy đủ điều kiện đạt tới trỡnh độ nhân văn đích thực.
Cũng như các bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác, quan niệm về văn hóa của nhà văn
hóa lớn Hồ Chí Minh cũng rất rộng; xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ truyền thống
văn hiến ngàn đời của dõn tộc Việt Nam, với tầm nhỡn bao quỏt, Người đưa ra khái
niệm về văn hóa như sau:
Vỡ lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đó sản sinh ra nhằm thớch ứng những nhu cầu
đời sống và đũi hỏi của sự sinh tồn [39, tr.431].
Quan điểm trên của Người đó khỏi quỏt được nội dung rộng nhất của phạm trù văn
hóa. Chỉ ra văn hóa không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con người mà cũn
bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người cũng chỉ ra nguồn gốc sâu xa của
văn hóa đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư cách là chủ thể hoạt động
của đời sống xó hội. Nú biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiờn, yếu tố xó hội trong
con người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người. Nghĩa văn hóa mà nhà
văn hóa lớn Hồ Chí Minh đề cập được trải rộng trên cả hai lĩnh vực văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần, nhưng việc phân định hai lĩnh vực văn hóa như trên chỉ có tính chất
tương đối, vỡ trờn thực tế mỗi kết quả của hoạt động lao động của con người đều bao
hàm trong đó cả hai giá trị vật chất và tinh thần.
Là người anh hùng giải phóng dân tộc, là Danh nhân văn hóa thế giới. Trong hoạt
động văn hóa Hồ Chí Minh rất chú ý đến con người. Trong hành động cách mạng cũng
như trong đối nhân xử thế Người luôn hết lũng hết sức phục vụ nhõn dõn, yờu kớnh
nhõn dõn, tụn trọng quyền làm chủ của nhõn dõn, Người biến tỡnh cảm đó thành
phương châm sống của chính mỡnh một cỏch rất tự nhiờn, ở mọi lỳc, mọi nơi. Khi cũn
hoạt động ở Pháp người đó kịch liệt lờn ỏn chớnh sỏch ngu dõn của chủ nghĩa thực dõn
đối với nhân dân các nước thuộc địa; để thực hiện mong muốn của mỡnh, ngay sau khi
nước nhà giành được độc lập, Người đó chủ trương và thực hiện đồng thời chiến dịch
chống giặc đói và chiến dịch chống giặc dốt. Người cho rằng: văn hóa là tinh hoa của
dân tộc, văn hóa phải góp phần khẳng định vị thế của dân tộc và một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu. Cho nên: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch
của văn hóa đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân
tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng” [40, tr.173].
Quan điểm coi trọng truyền thống văn hóa dân tộc, giữ gỡn những tinh hoa, những
yếu tố tớch cực trong kho tàng văn hóa của cha ông cũng nói rừ quan điểm bảo tồn bản
sắc văn hóa của Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh; Những điều mà Người nói, Người
viết rất giản dị, mộc mạc, nhưng mang ý nghĩa giỏo dục và nhõn văn sâu sắc: cái gỡ cũ
mà xấu thỡ phải bỏ…cỏi gỡ cũ mà khụng xấu, nhưng phiền phức thỡ phải sửa đổi lại
cho hợp lý…cái gỡ cũ mà tốt, thỡ phải phỏt triển thờm…Người cũng nhấn mạnh
nguyên tắc kế thừa và phát triển trong quan điểm về bảo tồn văn hóa; văn hóa phải thoát
khỏi mọi biểu hiện kỳ thị chủng tộc, tránh xu hướng độc tôn, tránh phục cổ một cách
máy móc, kế thừa phải đi đôi với sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân
loại. Đồng thời, trong quá trỡnh giao lưu quốc tế, đũi hỏi mỗi quốc gia phải nghiờn cứu
kỹ, toàn diện văn hóa của các dân tộc khác, học lấy những gỡ tốt đẹp, làm giàu hơn cho
văn hóa của chính mỡnh, cú như thế văn hóa Việt Nam mới thật có tinh thần thuần túy
Việt Nam, mới đủ sức mạnh “soi đường cho quốc dân đi”.
Hồ Chí Minh đó để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vô cùng to lớn trong
nhiều lĩnh vực, mà văn hóa là một trong những lĩnh vực ấy. Những quan điểm của
Người về văn hóa, về giữ gỡn, bảo tồn văn hóa dân tộc đó trở thành phương châm hành
động của Đảng, của Nhà nước, của Nhân dân ta, đặc biệt là các nhà văn hóa.
Thấm nhuần lý luận Mỏc – Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng và Nhà nước ta
đó cú sự đổi mới nhận thức về văn hóa trên mọi phương diện. Nghị quyết bốn Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VII); và đặc biệt, đến nghị quyết Trung ương năm (khóa
VIII) đó đề cập đến toàn bộ các vấn đề văn hóa liên quan đến quốc tế dân sinh, đến xây
dựng đời sống tinh thần cho con người. Trong năm quan điểm chỉ đạo cơ bản của nghị
quyết, quan điểm thứ nhất đó khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xó hội,
vừa là mục tiờu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội” [16, tr.55], cho
thấy: chớnh sỏch kinh tế trong văn hóa mà Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) đó
đề cập nhằm mục đích gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác các tiềm năng kinh
tế hỗ trợ cho các hoạt động phát triển văn hóa và đồng thời cũng đảm bảo được các yêu
cầu về chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gỡn bản sắc văn hóa dân tộc. Khi
đề cập đến vấn đề “bản sắc văn hóa dân tộc”, Đảng ta khẳng định:
Bản sắc văn hóa dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lũng yờu nước nồng nàn, ý
chớ tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân -
gia đỡnh - làng xó - Tổ quốc; lũng nhõn ỏi, khoan dung, trọng nghĩa tỡnh,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính
giản dị trong lối sống… bản sắc văn hóa cũn đậm nét cả trong các hỡnh thức
biểu hiện mang tớnh dõn tộc độc đáo [16, tr.56].
Kế thừa những quan điểm nêu trên, có thể khái quát về văn hóa và bản sắc văn hóa
dân tộc như sau: Văn hóa là sự phản ánh tổng thể những năng lực bản chất người trong
tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị (cả giá trị vật chất
lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng tạo ra trong quá trỡnh hoạt động thực tiễn lịch
sử xó hội của mỡnh.
Với cách hiểu văn hóa như vậy, chúng ta có thể thấy: Văn hóa là một hệ thống
tổng thể quy định đời sống của một dân tộc, nó gắn với các biểu hiện phương thức tồn
tại người, là sự thể hiện đầy đủ bản chất của con người trong tất cả mọi dạng hoạt động,
bao gồm hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận thức và hoạt động giao tiếp v.v... Hệ
thống này bao gồm toàn bộ những gỡ thuộc về tư duy, tín ngưỡng, phong tục tập
quán…, những gỡ thuộc về cơ tầng xó hội như hôn nhân, gia đỡnh…, những gỡ thuộc
về mụi trường sinh thái, đảm bảo cho cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của một dân
tộc. Điều đó cũng có nghĩa tất cả những yếu tố có liên quan đến con người với tư cách
là con người cá nhân, con người xó hội, liờn quan đến mọi cách thức tồn tại của con
người và cộng đồng người đều liên quan đến văn hóa - Văn hóa chính là sự phát triển, là
sự thể hiện lực lượng vật chất, năng lực tinh thần của con người trong các lĩnh vực sản
xuất vật chất, sản xuất tinh thần. Tuy nhiên, không thể phân chia văn hóa một cách rạch
rũi thành “văn hóa vật chất” hay “văn hóa tinh thần”. Bởi vỡ, cỏi gọi là “văn hóa vật
chất” thực chất chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, bản thân các giá trị tinh
thần cũng hiếm khi tồn tại dưới dạng tinh thần thuần túy, mà nó thường được “vật thể
hóa” trong các dạng tồn tại của vật chất. Ngay cả các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng
phi vật thể nhưng vẫn mang tính vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực
đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán… khi tiếp cận vấn đề văn hóa
cần phải xét văn hóa dưới dạng cấu trúc hoàn chỉnh và các chức năng tương ứng với cấu
trúc ấy, trong đó chức năng vận hành đóng vai trũ quyết định. Trong văn hóa: chức
năng là cơ chế vận hành của cấu trúc, nếu không có chức năng thỡ cấu trỳc khụng vận
hành, nếu cấu trỳc văn hóa có bị phá hủy hay mai một vỡ nguyờn nhõn nào đó nhưng
chức năng vận hành vẫn cũn thỡ cấu trỳc sẽ được phục hồi và vấn đề chỉ là thời gian.
Tóm lại, văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động sống của con người, là “thiên nhiên
thứ hai” với tư cách là sản phẩm mang tính tộc loại của con người. Văn hóa, về bản chất
thường hướng tới mục tiêu “nhân đạo hóa” con người, hướng tới sự phát triển và giải
phóng những năng lực bản chất của con người, nhằm phát triển toàn diện con người,
hoàn thiện xó hội loài người. Cho nên, trong quá trỡnh phỏt triển của lịch sử, bên cạnh
sự hội nhập, cố gắng phấn đấu để có thể ngang bằng nhau về kinh tế, mức sống, kỹ
thuật, văn minh thỡ vấn đề giữ gỡn, tụn vinh và phỏt huy những tinh hoa văn hóa sẽ làm
nên sự khác biệt, sự độc đáo giữa các dân tộc về lối sống, phương thức sống và giá trị
cuộc sống.
Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc được rất nhiều quốc gia trên thể giới quan tâm
(đặc biệt là các nước đang phát triển). Trong “thập kỷ thế giới văn hóa phát triển” (1988
– 1997) UNESCO ghi rừ: "Mối quan tõm lớn của những xó hội đương thời là việc giữ
gỡn những nột độc đáo trong bản sắc văn hóa của dân tộc mỡnh và ngăn chặn sự sói
mũn những giỏ trị văn hóa do sự biến đổi của thị hiếu, lối sống, ảnh hưởng của nước
ngoài" [57, tr.79].
Văn hóa do con người sáng tạo ra, nhưng văn hóa không mất đi cùng với thế hệ
người tạo ra nó, mà văn hóa tồn tại trong những lớp trầm tích các di sản, được bổ sung
những cái tiên tiến, tạo nên dấu ấn riêng biệt cho mỗi dân tộc, đó chính là bản sắc văn
hóa dân tộc.
Có thể nói: Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
của dân tộc, là những nét độc đáo rất riêng không hề trộn lẫn của dân tộc này với dân
tộc khác.
Đối với mỗi dân tộc, văn hóa là căn cước, là chứng chỉ, nó chỉ rừ anh là ai, thiếu
nú anh khụng tồn tại như một giá trị. Bản sắc dân tộc bao gồm cả hai mặt: Một mặt, nú
là cỏi cốt lừi bờn trong, cỏi sức mạnh tiềm tàng, bền vững, nú chi phối tư tưởng, hành vi
của dân tộc. Mặt khác, nó là biểu hiện ra bên ngoài thành những phong tục, tập quán
trong sinh hoạt, thường được gọi là hỡnh thức, màu sắc, hay sắc thỏi dõn tộc. Về mặt lịch
sử, cỏi “tự nhiờn thứ hai”, cỏi tự nhiờn rất người, hay văn hóa không phải được tạo ra một
lần và tồn tại mói mói, mà ở cỏc cộng đồng người khác nhau, không gian và phương thức
sống khác nhau thỡ văn hóa sẽ mang những diện mạo khác nhau (đó là bản sắc).
Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ giá trị các di sản văn hóa, là những kinh nghiệm
được con người tích lũy trong quá trỡnh thớch ứng với tự nhiờn, với mụi trường mà họ
đang sinh sống; là những chuẩn mực trong ứng xử giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân
với cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Đó là những thói quen trong
nếp nghĩ, là những tri thức đó tớch lũy được, là biểu tượng, là niềm tin trong thế giới
tinh thần…được trải nghiệm trong lịch sử, được chuyển giao một cách rất tự nhiên giữa
các thế hệ người (trong hệ thống cấu trúc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc không ngoại
trừ văn hóa các dân tộc thiểu số - văn hóa tộc người).
Văn hóa dân tộc thiểu số là tổng thể các yếu tố: Tiếng nói, chữ viết, lối sống,
phong cách sống, cách ứng xử với môi trường tự nhiên; các mối quan hệ xó hội, cỏc sắc
thỏi tõm lý, tỡnh cảm, những tập quỏn trong sinh hoạt đời thường, trong phong tục, lễ
nghi, tín ngưỡng; trong chu kỳ sống của đời người, trong quan niệm về vũ trụ nhân
sinh…Những yếu tố này được hỡnh thành trong lịch sử, nú cú tớnh đặc thù, đặc trưng,
bền vững và ổn định, được chuyển giao và phát triển không ngừng từ thế hệ này qua thế
hệ khác, được hoàn thiện dần cùng với sự phát triển của tộc người [9, tr.39].
Nói cách khác: Văn hóa tộc người là tổng thể những giá trị văn hóa vật chất và
tinh thần của một dân tộc - tộc người cụ thể, được hỡnh thành và phỏt triển cựng với
quỏ trỡnh phỏt triển tộc người, trong quan hệ giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa các
dân tộc khác, góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa của cả cộng đồng.
Trong quỏ trỡnh giao lưu văn hóa, những yếu tố đặc trưng cốt lừi của mỗi dõn tộc
vẫn được giữ lại, duy trỡ và phỏt huy, nú làm nờn những sắc thỏi văn hóa độc đáo
không trộn lẫn với dân tộc khác. Trong thực tiễn, ý thức tộc người được nảy sinh từ văn
hóa tộc người, nếu văn hóa tộc người bị mai một thỡ ý thức tộc người đó cũng sẽ mất
dần, bản thân tộc người cũng sẽ tàn lụi và thậm chí không cũn cả tờn gọi; núi cỏch khác,
nếu dân tộc nào tự đánh mất những sắc thái văn hóa mang tính bản sắc thỡ cũng chớnh
là đánh mất mỡnh. Để bảo tồn và phát triển văn hóa tộc người không chỉ nói tới các yếu
tố cụ thể của văn hóa dân tộc đó mà cũn phải chỳ ý tới những con người, chủ thể sáng
tạo ra nền văn hóa ấy; tức là, song hành giữa yếu tố văn hóa cụ thể cần bảo tồn, bảo vệ
và những con người cụ thể đó tạo ra sắc thỏi văn hóa của họ.
1.2. Vai trò nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc
1.2.1. Những điều kiện khách quan tác động đến vai trũ giữ gỡn, phỏt huy bản
sắc văn hóa dân tộc của nhân tố chủ quan trong giai đoạn hiện nay
Mỗi nền văn hóa đều là sản phẩm của một cộng đồng người, trong mối quan hệ
giữa con người với môi trường tự nhiên, môi trường xó hội; trong cỏc mối quan hệ ấy
con người đó sỏng tạo ra cỏc giỏ trị văn hóa, các hệ thống chuẩn mực: Chân, thiện, mỹ
và các quan hệ nhân văn. Chính vỡ thế, mụi trường sống, hoàn cảnh hiện thực mà chủ
thể sáng tạo văn hóa đang sống và hoạt động (ĐKKQ) là yếu tố quy định sự hỡnh thành
cỏc giỏ trị văn hóa, đến quá trỡnh bảo tồn, phỏt huy cỏc giỏ trị văn hóa đó. Khi nói đến
văn hóa là nói đến giá trị, nhưng giá trị văn hóa không tồn tại một cách đơn lẻ, nhất
thời, mà được tập hợp trong một môi trường nhất định, cụ thể, sinh động, với những con
người, những chủ thể sáng tạo, giữ gỡn, phỏt huy cỏc giỏ trị văn hóa đó.
Triết học Mỏc – Lờnin chỉ rừ, trong mối quan hệ giữa mụi trường, hoàn cảnh và
con người, giữa ĐKKQ và NTCQ… thỡ mụi trường hoàn cảnh, hay ĐKKQ giữ vị trí
chi phối chủ yếu đến mọi hoạt động của chủ thể, quyết định vai trũ của NTCQ. Quy luật
hỡnh thành và phỏt triển văn hóa thông qua mối tương quan giữa văn hóa với các
phương diện khác của đời sống xó hội chớnh là sự khẳng định vai trũ của con người
trong quỏ trỡnh chắt lọc những tinh hoa văn hóa tạo nên sự phong phú cho đời sống vật
chất và tinh thần của mỡnh. Những mặt, những nhõn tố (mang tớnh cụ thể) tạo nờn
hoàn cảnh hiện thực (cú tớnh thời điểm) ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con
người, đến sự sỏng tạo, giữ gỡn và phỏt triển văn hóa như: yếu tố kinh tế, yếu tố chính
trị - xó hội, xu hướng biến đổi đạo đức, lối sống và nhu cầu hưởng thụ văn hóa...
Thứ nhất, những tác động của môi trường kinh tế.
Văn hóa và môi trường kinh tế là những phương diện khác nhau của đời sống xó
hội, nhưng giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng; trong mối quan hệ đó, cơ sở
kinh tế sẽ quyết định nội dung, tích chất, hỡnh thức biểu hiện của văn hóa.
Đánh giá về vấn đề này Ph. Ăngghen từng nói: Sự phát triển về chính trị, pháp
luật, triết học, tôn giáo, văn hóa và nghệ thuật đều dựa vào phát triển kinh tế, nhưng tất
cả các lĩnh vực đó cũng ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Cách tiếp
cận văn hóa dưới góc độ kinh tế chính trị học của C.Mác và Ph.Ăngghen đó chỉ rừ
nguồn gốc phỏt sinh của văn hóa là từ cơ sở kinh tế, từ một nền kinh tế nhất định, nền
kinh tế như thế nào sẽ sản sinh và quy định bộ mặt tinh thần, sắc thái văn hóa của xó hội
như thế ấy. Nói về điều này, Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) Đảng cộng sản
Việt Nam viết:
Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh
tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xó hội
trờn mọi phương diện chính trị, kinh tế, xó hội, luật phỏp, kỷ cương…biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển [16, tr.55].
Trong thời đại ngày nay, trước tác động của quốc tế hóa kinh tế, văn hóa và bản
sắc văn hóa dân tộc chắc chắn sẽ có những biến đổi.
Một mặt, về kinh tế, khi hội nhập quốc tế sẽ đem lại những ý nghĩa về hạnh phỳc,
về sự tiến bộ xó hội đích thực cho nhân loại, nó đó trực tiếp thỳc đẩy quá trỡnh phõn
cụng lao động và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh sự chuyên môn hóa trong sản xuất của các
quốc gia và trong các quốc gia. Làm cho nền kinh tế mỗi nước không chỉ gói gọn trong
phạm vi quốc gia thuần túy. Các vấn đề liên quan đến đời sống con người như: nhu cầu
ăn, uống, lao động, thông tin…được đáp ứng trên phạm vi toàn cầu, chất lượng cuộc
sống của người dân, sự thịnh vượng về kinh tế của các quốc gia được nâng cao rừ rệt,
mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa được khẳng định. Sự tiếp thu
khoa học và công nghệ hiện đại đó tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá,
lưu giữ, phát triển những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, tạo cơ hội giao lưu, tỡm
hiểu, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu thêm những giá trị văn
hóa truyền thống.
Mặt khác, khi hội nhập kinh tế quốc tế cũng có thể hướng con người đến lối sống
thực dụng, cá nhân, ích kỷ, mê đắm lợi ích vật chất và xu hướng làm giàu không lành
mạnh…Điều này dẫn tới phân hóa giàu nghèo, suy thoái đạo đức cá nhân và gia đỡnh.
Một số người do kiếm được đồng tiền một cách dễ dàng, phi pháp nên có lối sống trác
táng, góp phần làm tăng các tệ nạn xó hội, súi mũn văn hóa truyền thống. Hơn nữa,
trong quá trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế, một số cỏc quốc gia kộm phỏt triển bị phụ
thuộc vào cỏc nước giàu, dẫn tới nguy cơ bị đồng hóa, đánh mất bản sắc văn hóa dân
tộc, làm suy giảm sức mạnh dân tộc và có thể dẫn đến mất chủ quyền quốc gia. Văn hóa
các dân tộc thiểu số vùng cao cũng bị tác động và ảnh hưởng tương tự: Điện khí hóa
toàn quốc đó làm cho cuộc sống mọi mặt của đồng bào được nâng lên rừ rệt, nhưng
cũng có một thực tế là lưới điện quốc gia phát triển đến đõu thỡ cối xay tay, cối gió gạo
nước, đuống gỗ (một loại cối gió gạo của người Mường)… vắng bóng đến đó. Cơ chế
thị trường, kinh tế hàng hóa, sản xuất công nghiệp phát triển thỡ nhà sàn, khung cửi,
quần ỏo dõn tộc…cũng mai một dần; sự mở rộng của thị trường băng đĩa đó làm cho
nhu cầu thưởng thức các loại hỡnh nghệ thuật dõn gian của giới trẻ giảm đi và đang có
nguy cơ mất hẳn.
Nhưng cho dù nhỡn nhận quỏ trỡnh tỏc động của quốc tế hóa kinh tế dưới góc độ
tích cực hay tiêu cực, thỡ chỳng ta vẫn phải khẳng định: quốc tế hóa kinh tế mà đỉnh
cao của nó là toàn cầu hóa là một xu thế khách quan không thể đảo ngược, nó đó, đang
và sẽ tiếp tục phát triển. Vấn đề là ở chỗ, xu thế khách quan này được diễn ra thông qua
hoạt động có ý thức của con người (chủ thể kinh tế). Nên đối với mỗi quốc gia, để
không bị tụt hậu về kinh tế trên trường quốc tế, cần chuẩn bị tốt nội lực, sáng suốt trong
lựa chọn đường đi nước bước, nhận thức đúng bản chất thời đại, để hạn chế đến mức
thấp nhất những tác động tiêu cực và hội nhập thành công.
Thứ hai, những tác động của lĩnh vực chính trị - tư tưởng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế như
hiện nay, ngoài những tác động tích cực thỡ quốc tế húa kinh tế cũng sẽ tạo cơ hội để
các thế lực thù địch thông qua những tác động của tư tưởng chính trị để tuyên truyền
những quan điểm sai trái, các chiêu bài tự do, dân chủ…nhằm công kích đường lối lónh
đạo của một số quốc gia, lôi kéo quần chúng nhân dân vào những hoạt động chống lại
lợi ích của chính quốc gia mỡnh. Qua đó, nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, xóa
bỏ sự thống nhất trong nền văn hóa của chính quốc gia đó.
Với chiến lược “diễn biến hũa bỡnh”, cỏc thế lực phản cỏch mạng dựng nhiều
hỡnh thức truyền thụng, quảng bỏ và đặc biệt với sự hỗ trợ của hệ thống khoa học công
nghệ cao như: mạng Internét, phát thanh truyền hỡnh bằng vệ tinh toàn cầu cụng xuất
lớn…nhằm tấn cụng vào hệ tư tưởng và văn hóa XHCN từ bên trong, xóa nhũa bản sắc
văn hóa của các dân tộc, nhằm mục đích cuối cùng là đồng hóa văn hóa toàn thế giới.
Quỏ trỡnh hợp tỏc và giao lưu văn hóa thế giới, đó tạo cho chỳng ta cơ hội mở rộng
khả năng tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho đời sống vật chất và tinh thần
của con người được nâng cao. Nhưng vấn đề sàng lọc những yếu tố độc hại, phản cách
mạng là hết sức khó khăn. Cuộc sống công nghiệp hiện đại, năng động vốn rất được giới trẻ
ưa chuộng lại dường như mâu thuẫn với những giá trị văn hóa dân gian mà muốn hưởng
thụ nó đũi hỏi phải cú thời gian và sự thư thái…Những yếu tố tưởng như rất nhỏ đó lại dễ
dẫn tới tỡnh trạng mõu thuẫn thế hệ trong xó hội và phõn húa nội bộ trong cỏc quốc gia.
Tất nhiờn, việc xem xột, nhỡn nhận những tỏc động như đó nờu là tớch cực hay
tiờu cực, để có thể vừa hội nhập thành công, vừa đảm bảo được sự ổn định trong tư
tưởng và chính trị, không bị đồng hóa, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, kết tinh được
tinh hoa văn hóa tiên tiến của thời đại…cũn tựy thuộc vào điều kiện lịch sử, vào chính sách
của mỗi quốc gia, và trong công cuộc cách mạng ấy vấn đề hết sức quan trọng đó là vai trũ
của NTCQ, của con người.
Trong Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) Đảng ta đó khẳng định 5 quan
điểm chỉ đạo của mỡnh trong tiến trỡnh hội nhập văn hóa thế giới và giữ gỡn, phỏt huy
bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó, hai quan điểm 4 và 5 đó khẳng định vai trũ NTCQ
và những điều kiện then chốt để có thể xây dựng thành công nền văn hóa mới, đó là:
Quan điểm 4: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lónh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trũ quan trọng”.
Quan điểm 5: “Văn hóa là một mặt trận; Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đũi hỏi phải cú ý trớ cỏch mạng và sự kiờn trỡ thận trọng”
[16, tr.57,58].
Sau 20 năm đổi mới, và sau 8 năm thực hiện tinh thần của Nghị quyết Trung ương
năm (khóa VIII), chúng ta vẫn khẳng định được bản lĩnh chính trị, hội nhập và phát
triển kinh tế thành công; bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa ngàn năm của dân
tộc. Điều đó khẳng định con đường mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đó chọn là đúng
đắn, phù hợp và đó cũng là con đường duy nhất để tự khẳng định mỡnh, để chiến thắng
âm mưu “diễn biến hũa bỡnh” của cỏc thế lực thự địch.
Thứ ba, những tác động của ý thức xó hội như đạo đức, lối sống, nhu cầu hưởng thụ
văn hóa …đến vấn đề giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Cũng cần núi rừ rằng, những yếu tố như đạo đức, lối sống, nhu cầu hưởng thụ văn hóa
…mà chúng ta đề cập thuộc tầng ý thức xó hội, nú tồn tại trong mụi trường và thời điểm lịch
sử mà con người đang sống, hoạt động; có ý nghĩa là bộ phận, là giỏ trị cốt lừi của văn hóa
dân tộc. Về thực chất, những yếu tố đạo đức, lối sống hay nhu cầu hưởng thụ văn hóa …
cũng là hệ quả của quá trỡnh phỏt triển và tỏc động của kinh tế đến đời sống xó hội và cộng
đồng. Không phải là nguyên nhân trực tiếp, nhưng những yếu tố được coi như là những
chuẩn mực trong ứng xử, là những quy tắc và cam kết không thành văn giữa những con
người với nhau trong xó hội, lại ảnh hưởng rất lớn đến sự hưng thịnh về mọi mặt từ kinh tế,
chính trị, đến văn hóa của các quốc gia. Tuy nhiên, những yếu tố đó phụ thuộc rất nhiều vào
môi trường xó hội, vào nguyờn nhõn kinh tế và điều kiện lịch sử, nên không thể tránh khỏi sự
đan xen, thậm trí đấu tranh giữa hai yếu tố mới và cũ, giữa những biểu hiện tích cực và tiêu
cực trong văn hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, các quốc gia đang phát triển luôn
quan tâm đến chính sách điều chỉnh những biến đổi trong đời sống tinh thần của xó hội,
đó là chiều hướng gia tăng những biểu hiện tiêu cực theo lối sống cá nhân chủ nghĩa,
chạy theo đồng tiền, lợi dụng chức quyền để tham ô tư túi, lối sống sa đọa, sùng ngoại,
bài xích văn hóa truyền thống. Một bộ phận thanh niên từ tư tưởng sùng ngoại, dẫn tới
lối sống gấp, buông thả, coi thường nề nếp gia phong, làm biến dạng những giá trị:
chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, những tập tục lạc hậu phổ biến trong xó hội cũ vẫn tồn tại dai
dẳng trong từng nếp nghĩ của những tầng lớp người trong xó hội. Một số người, một số
địa phương đó biến chớnh sỏch bảo tồn văn hóa thành xu hướng phục cổ tràn lan, mượn
di tích, lễ hội thành nơi hành nghề mê tín v.v…Tất cả những biểu hiện phi thuần phong
mỹ tục đó trở thành sức nặng kỡm nộn, nớu kộo quỏ trỡnh tham gia hội nhập kinh tế,
văn hóa với thế giới của các quốc gia. Bàn về vấn đề này, C.Mác viết: “Truyền thống
của tất cả các thế hệ đó chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống…”
[36, tr. 145].
Những biến động nhiều chiều của đạo đức, tư tưởng, lối sống và nhu cầu hưởng
thụ văn hóa của những tầng lớp người trong xó hội đó ảnh hưởng không nhỏ đến những
giá trị, bản sắc văn hóa lâu đời của dân tộc, làm chậm lại quá trỡnh phỏt triển kinh tế -
xó hội, cản trở sự hợp tỏc quốc tế, đe dọa sự tồn vong của các quốc gia.
Ngoài những yếu tố cơ bản được đề cập trên đây, cũn một số cỏc phương diện xó hội
khỏc như: pháp luật, tôn giáo…cũng tác động không nhỏ đến vấn đề giữ gỡn, phỏt huy bản
sắc văn hóa. Do vậy, để vừa giữ gỡn, phỏt huy được bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đảm bảo
phát triển mọi mặt của đời sống xó hội đũi hỏi sự phỏt huy cao độ tính tích cực, sáng tạo
của NTCQ trong hoạt động thực tiễn.
1.2.2. Vai trũ biến đổi điều kiện khách quan của nhân tố chủ quan trong giữ
gỡn và phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc
1.2.2.1. Vai trũ của nhõn tố chủ quan trong việc phối hợp lónh, chỉ đạo vấn đề
xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện việc giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thứ nhất, vai trũ nhõn tố chủ quan giữ gỡn phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc được
thể hiện trong chủ trương đường lối, chính sách của Đảng.
Trong Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) Đảng cộng sản Việt Nam ghi rừ:
“Cụng nhõn, nụng dõn, trớ thức, là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền
tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lónh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước” [16, tr.57].
Như vậy, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân,
trong đó tổ chức đảng với vai trũ lónh đạo chủ chốt vạch ra phương hướng, chiến lược,
nhiệm vụ và các giải pháp lớn để lónh đạo, thực hiện thành công các nhiệm vụ xây dựng
và phát triển văn hóa theo đúng định hướng xây dựng và phát triển đất nước. Các hoạt
động liên quan tới văn hóa hết sức đa dạng và phức tạp, đũi hỏi sự phối hợp, thống nhất
chặt chẽ của cỏc tổ chức, đũi hỏi chủ thể lónh đạo phải có phẩm chất đạo đức, tâm
huyết, tri thức, trỡnh độ bao quát, hiểu biết sâu rộng mọi mặt của đời sống xó hội, cú
khả năng tuyên truyền, vận động, tổ chức các lực lượng xó hội tạo sức mạnh tổng hợp.
Cỏc quyết sỏch phải đảm bảo sự hài hũa, biện chứng giữa cỏc yếu tố Chớnh trị - Văn
hóa, Kinh tế - Văn hóa, Đạo đức - Văn hóa... Trên thực tế chúng ta thường thấy, một số
những tồn tại như: đường lối, chủ trương, nghị quyết đúng nhưng khâu tổ chức thực
hiện lại yếu kém. Trỡnh độ của các cấp ủy đảng, ban ngành, đoàn thể chưa đáp ứng với
yêu cầu phát triển của văn hóa, cũng như việc giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh giữa
chủ trương và thực tiễn quản lý đời sống văn hóa dân gian ở các địa phương. Do vậy,
vai trũ lónh đạo, chỉ đạo của Đảng và nhà nước được thể hiện trước hết ở sự đồng bộ và
tính khả thi của các thiết chế xó hội. Cỏc chớnh sỏch của nhà nước phải gắn với các cơ
quan công quyền ở địa phương, phải bám sát thực tiễn. Vỡ hơn ai hết họ là những người
am hiểu về hoàn cảnh, con người, phong tục tập quán ở địa phương, từ đó có những
phương pháp và cách giải quyết phù hợp. Bất cứ sự “thương mại hóa văn hóa” hay
“hành chính hóa văn hóa” đều dẫn tới hậu quả không có lợi cho sự sáng tạo văn hóa.
Ngoài vấn đề hoạch định chính sách, chủ thể lónh đạo, chỉ đạo cũn cú vai trũ lựa chọn,
bồi dưỡng năng lực cán bộ, và hỡnh thành cơ chế phối hợp, phân công nhiệm vụ cụ thể
cho các ngành theo quan hệ hàng dọc, hoặc hàng ngang từ trung ương đến địa phương
đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ và hiệu quả.
Thứ hai, vai trũ nhõn tố chủ quan giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc thể
hiện trong quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp.
Hoạt động phối hợp quản lý, điều hành của Nhà nước và các cấp chính quyền từ
Trung ương đến địa phương trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xó hội, đặc biệt là kế
hoạch đầu tư, phát triển kinh tế - xó hội cú ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa. Chủ thể quản lý và năng lực điều hành của họ sử dụng những lực
lượng vật chất và tinh thần sẵn có để tác động biến đổi tự nhiên và xó hội theo mục đích
nhất định có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng một môi trường văn hóa với
hệ thống giá trị chân, thiện, mỹ, đảm bảo tính sáng tạo, tính hiệu quả cao trong tất cả
các quá trỡnh từ quản lý, tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế, hoạt động chính trị,
điều chỉnh quan hệ xó hội, chuẩn mực đạo đức và một số phương diện xó hội khỏc theo
tiờu chuẩn nhõn văn với quy mô từ tổ chức gia đỡnh tới cộng đồng quốc gia dân tộc.
Trong thực tế, tất cả các phương diện của đời sống xó hội đều nảy sinh những yếu
tố văn hóa, đến khi những giá trị văn hóa hỡnh thành và phỏt triển sẽ lại tỏc động
tới những phương diện xó hội theo những mức độ nhất định. Do vậy, vai trũ của
chủ thể sẽ làm cho sự tương tác giữa văn hóa với các phương diện xó hội cú xu
hướng cùng chiều, vừa có tác dụng làm giàu thêm các giá trị văn hóa, vừa từng
bước hoàn thiện các phương diện xó hội ấy theo cỏc tiờu chuẩn tiến bộ cho con
người và vỡ con người. Hơn nữa, trong quá trỡnh phối hợp hoạt động, chủ thể quản
lý điều hành cũng có điều kiện bồi dưỡng năng lực cho bản thõn, nõng cao vai trũ
NTCQ, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của chủ thể trước những đũi hỏi
khỏch quan.
Thứ ba, vai trũ nhõn tố chủ quan giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc thể
hiện trong hoạt động phối hợp của các tổ chức đoàn thể nhân dân.
Các tổ chức đoàn thể nhân dân bao gồm: Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên,
Hội nông dân, đứng đầu là Mặt trận tổ quốc. Chủ thể phối hợp của các tổ chức đoàn thể
nhân dân, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, đa dạng về hỡnh thức, cơ cấu, phạm vi
và đối tượng tác động. Những chủ thể này hoạt động mang tính chất xó hội cao, tổng
hợp nhiều yếu tố từ chớnh trị, tớn ngưỡng, nghề nghiệp, trong phạm vi quốc gia và quốc
tế. Dưới sự lónh đạo của Đảng, các tổ chức đoàn thể phối hợp hoạt động với nhau, với
nhà nước, với tổ chức chính quyền, đặc biệt là với các cơ quan quản lý văn hóa các cấp,
vận động, thu hút quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện các
chương trỡnh kinh tế, chớnh trị, xó hội, làm sống dậy cỏc phong trào giữ gỡn, phỏt triển
các giá trị văn hóa, sáng tạo văn hóa.
Trong hoạt động phối hợp của các tổ chức đoàn thể nhân dân, vai trũ NTCQ thể
hiện trong cơ chế phối hợp khoa học của các tổ chức và khả năng hoạt động thực tiễn
của bản thân mỗi chủ thể. Phát huy vai trũ NTCQ là phát huy khả năng hiểu biết, nắm
bắt các đặc điểm của đối tượng được tác động, đặc điểm của môi trường mà trong đó
đối tượng được tác động đang sống, hoạt động và chịu ảnh hưởng trực tiếp. Gắn những
điều đó với các chủ trương, định hướng của đảng và nhà nước, sử dụng linh hoạt, mềm
dẻo các kỹ năng vận động, thuyết phục và cả đạo đức cách mạng, phong cách, lối sống
của chính mỡnh để thu hút quần chúng nhân dân tham gia trực tiếp vào các hoạt động
kinh tế, chính trị, xó hội, giữ gỡn và phỏt triển văn hóa.
Trong hoạt động thực tiễn vai trũ của cỏc chủ thể được thể hiện đồng thời qua hai
chức năng:
- Nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, phát hiện những
hiện tượng tiêu cực, tư tưởng lệch lạc, và cả những nhân tố mới, tiến bộ; những khả
năng khỏch quan cú lợi cho sự nghiệp phỏt triển của cả xó hội, cú kế hoạch cụ thể để
hạn chế tiêu cực, bồi dưỡng, nhân rộng điển hỡnh tiờn tiến và tạo điều kiện thuận lợi
biến khả năng thành hiện thực.
- Phát hiện những bất cập trong cơ chế, chính sách, những yếu tố cản trở tính tích
cực sáng tạo của quần chúng nhân dân. Từ đó, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách
và hành lang pháp lý cần thiết để có thể vừa đảm bảo sự tự do hưởng thụ, bảo tồn, sáng
tạo văn hóa của các cá nhân, của cộng đồng dân tộc, vừa đảm bảo tính định hướng, mục
tiêu phát triển của đất nước.
Thứ tư, vai trũ nhõn tố chủ quan giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện
trong sự quản lý, hướng dẫn hoạt động của ngành văn hóa thông tin.
Là cơ quan hoạt động chuyên trách về văn hóa, nờn vai trũ của cỏc chủ thể hoạt
động trong ngành văn hóa thông tin đối với việc giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân
tộc là rất quan trọng - Vai trũ ấy thể hiện trong nhiệm vụ tham mưu với các cấp ủy
Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân về những định hướng, giải pháp thực hiện có
hiệu quả công tác văn hóa thông tin cấp mỡnh phụ trỏch. Trong việc tổ chức hướng dẫn
và triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách về văn hóa của cấp trên đến từng địa
bàn cơ sở, nhất là các chính sách về đại đoàn kết dân tộc, chính sách phát triển kinh tế,
xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng. Tổ chức tuyên truyền và duy trỡ thường
xuyên các hoạt động của thiết chế văn hóa, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia sáng
tạo, phổ biến và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Tổ chức hội nghị sơ, tổng kết và thi đua
khen thưởng trong phạm vi địa bàn một cách kịp thời. Lên kế hoạch trang bị những
phương tiện phục vụ cho các phong trào hoạt động, xây dựng đội ngũ cán bộ là người
dân tộc. Khuyến khích các cá nhân chủ động thâm nhập cộng đồng, tỡm hiểu phong tục,
tập quỏn và tõm lý địa phương, gây dựng, tạo nền móng cho phong trào từ cơ sở, từ bản
thân những người chủ di sản.
Núi một cỏch tổng quỏt, vai trũ NTCQ trong cụng tỏc lónh chỉ đạo việc giữ gỡn,
phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện qua sự tổ chức, hoạt động một cách đồng bộ
của các thiết chế văn hóa. Qua sự phân công, phân nhiệm, liên kết, phối hợp chặt chẽ
giữa vai trũ “tập thể lónh đạo” và “cá nhân phụ trách”. Qua sự điều chỉnh các xu hướng
lệch lạc, loại bỏ những hủ tục, đảm bảo sự hài hũa giữa truyền thống với hiện đại trong
xây dựng và phát triển văn hóa của các chủ thể.
1.2.2.2. Vai trũ nhõn tố chủ quan thể hiện trong tớnh chủ động, sáng tạo của
quần chúng nhân dân giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, chúng ta đó khẳng định vai trũ
lónh đạo của Đảng, vai trũ quản lý điều hành của nhà nước và các đoàn thể nhân dân
xây dựng môi trường văn hóa, hỗ trợ, tổ chức các lực lượng vật chất và tinh thần cần
thiết, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân phát huy vai trũ chủ động sáng tạo của
mỡnh trong cỏc lĩnh vực văn hóa - xó hội. Nhưng chủ nhân thực sự của nền văn hóa
dân tộc trong mọi thời đại là quần chúng nhân dân, họ vừa là người sáng tạo ra các
giá trị văn hóa, vừa là người hưởng thụ, lưu truyền, gỡn giữ những giỏ trị văn hóa
đó. Tính tích cực sáng tạo của quần chúng nhân dân gắn bó chặt chẽ với quá trỡnh
lao động sản xuất, với những nhu cầu và lợi ích vật chất của họ. Do vậy, sự sáng tạo
của quần chúng nhân dân chính là nhân tố cơ bản của sự tồn tại và phát triển của xó
hội. Đề cập đến vấn đề này Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh đó núi:
Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo.
Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xó hội.
Quần chỳng cũn là những người sáng tác nữa…Những câu tục ngữ, những câu vè,
ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng [41, tr.250].
Quần chúng nhân dân sáng tạo văn hóa bằng chính cuộc sống của mỡnh. Cỏc giỏ
trị văn hóa được hỡnh thành trong lao động sản xuất, trong văn học nghệ thuật, trong tín
ngưỡng, trong phong tục tập quán (ăn, ở, mặc, ngôn ngữ…) và được lưu truyền từ đời
này qua đời khác. Mỗi con người, mỗi gia đỡnh đều có thể là nơi chứa đựng những giá
trị nhân văn của xó hội, là nơi bảo vệ, lưu truyền những giá trị nhân bản của con người.
Nhưng tính tích cực của quần chúng nhân dân trong các hoạt động văn hóa tinh thần
không phải lúc nào cũng hàm chứa những yếu tố tiến bộ; cùng với quá trỡnh sỏng tạo,
gỡn giữ, lưu truyền những giá trị văn hóa mang ý nghĩa nhân văn thỡ những tư tưởng
phong kiến, những yếu tố phi văn hóa, phản tiến bộ, những hủ tục cũng len lỏi đâu đó
trong đời sống cộng đồng. Do vậy, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của
xó hội, trở thành mục tiờu và động lực để phát triển kinh tế xó hội thỡ vai trũ của đội
ngũ trí thức đặc biệt quan trọng. Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) khẳng định:
“Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trũ quan trọng trong sự nghiệp xõy dựng
và phỏt triển văn hóa” [16, tr.57].
Sự hiện diện của đội ngũ trí thức trong sáng tạo văn hóa như là một biểu hiện của
chất lượng cuộc sống. Những phát minh khoa học, những công trỡnh nghệ thuật, những
sỏng tỏc văn học, những sản phẩm lao động của đội ngũ trí thức thực sự quan trọng
trong diện mạo tinh thần của mỗi quốc gia. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế tri thức
như hiện nay, với những thiên chức riêng của mỡnh, đội ngũ trí thức có vai trũ đặc biệt
quan trọng giữ vững nền tảng tinh thần của xó hội, giữ gỡn và phỏt huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Xuất thân từ nhân dân, và là người hoạt động trí
tuệ, có chức năng chủ yếu là sáng tạo những giá trị tinh thần cho xó hội, nờn ảnh hưởng
của lực lượng trí thức đến quần chúng nhân dân là rất lớn. Bằng những sáng tạo văn
hóa, người trí thức có thể chuyển tải trong đó những tư tưởng, đạo đức, lối sống, những
quan niệm tín ngưỡng, những triết lý nhân sinh đến quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng nũng cốt, là chủ thể trong toàn bộ quỏ trỡnh tớch hợp sức mạnh nội sinh, tiếp
nhận, phát huy những tinh hoa văn hóa nhân loại, giữ gỡn và phỏt triển văn hóa, có thể
hướng công chúng đến cách nhỡn tốt đẹp, nhân bản trong cuộc sống tinh thần. Nhưng
dù quan trọng như thế nào thỡ đội ngũ trí thức cũng từ nhân dân mà ra, và họ khụng
thuần nhất về trỡnh độ và cảm quan nên khi tác động đến đời sống tinh thần họ bộc lộ
cả mặt tích cực và tiêu cực.
Nhỡn chung, những yếu tố tớch cực của quần chỳng nhõn dõn biểu hiện trong quỏ
trỡnh phỏt triển kinh tế, ổn định chính trị và đặc biệt trong sáng tạo văn hóa. Họ lao
động, sáng tạo vỡ chớnh nhu cầu vật chất và mong muốn được thỏa món đời sống tinh
thần của chính mỡnh; nhu cầu hưởng thụ văn hóa càng cao, càng kích thích nhu cầu
sáng tác, tăng sức sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động. Nhưng để phát huy vai
trũ và tớnh sỏng tạo của trớ thức, của quần chỳng nhõn dõn trong phỏt triển xó hội,
trong sỏng tạo, giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đũi hỏi Đảng, nhà nước và
các đoàn thể nhân dân phải nâng cao trỡnh độ lý luận, bám sát thực tiễn, xây dựng môi
trường kinh tế, chính trị, văn hóa do con người và vỡ con người. Quan tâm đúng mức,
thỏa đáng đến đội ngũ trí thức, có chính sách thu hút, đói ngộ hiền tài, bồi dưỡng lý
tưởng cách mạng cho đội ngũ cán bộ. Phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, đường lối,
chỉ thị, nghị quyết của Đảng và nhà nước đến quần chúng nhân dân, đảm bảo cho họ có
đủ năng lực, trỡnh độ, đạo đức và tinh thần tự tôn dân tộc, đảm bảo vai trũ chủ động
trong sáng tạo nghệ thuật, giữ gỡn và phỏt huy những giỏ trị văn hóa truyền thống, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Chương 2
Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mường ở phú thọ
hiện nay - thực trạng và vấn đề đặt ra
2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội và lịch sử hình thành nên bản sắc văn hóa dân
tộc mường ở phú thọ
2.1.1. Đặc điểm kinh tế và đời sống vật chất
- Về nguồn gốc, lịch sử:
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, được thành lập ngày 5/5/1903; năm
1968 sát nhập với Vĩnh Phúc gọi là Tỉnh Vĩnh Phú; đến ngày 1/1/1997 tỉnh Phú Thọ
được tái lập, dân số là 1.216.500 người, có 24 dân tộc anh em, trong đó có 171.620
người là dân tộc thiểu số, người Mường chiếm tỷ lệ đông nhất là 157.545 người (chiếm
91%) [9, tr.732]
Tộc người Mường (thổ tù họ Hà và phụ đạo họ Đinh) làm ăn sinh sống ở hai châu
Thanh Sơn và Yên lập của Phú Thọ đó rất lõu và việc di cư từ tỉnh Hũa Bỡnh đến đó
diễn ra từ nhiều thế kỷ trước[21, tr.269]. Sự biến đổi về môi sinh, quá trỡnh lịch sử và
dõn số… đó tỏc động mạnh đến nếp sống và phong tục tập quán của người Mường ở
Phú Thọ, khiến cho sắc thái văn hóa của họ vừa có những nét chung của văn hóa
Mường, và những nét riêng, độc đáo.
- Về vị trí định canh, định cư:
Người dân tộc Mường ở Phú Thọ cư trú tập trung ở vùng thung lũng chân núi, nơi
có độ cao không lớn, đặc điểm nổi bật trong phân bố dân cư của người Mường trong
Tỉnh Phú Thọ là tính tập trung, cư dân Mường chiếm tới trên 90% dân số cả xó. Sự xen
kẽ giữa người Mường và người Việt trong các địa phương này cũng diễn ra theo nhiều
cấp độ khác nhau, những xó gần huyện lỵ thỡ người Mường và người Việt sống xen kẽ
nhưng thành từng làng hoặc chũm xúm riờng biệt, ở những nơi vùng sâu, vùng xa thỡ
mức độ xen kẽ là ngay trong cùng một làng nhưng tỷ lệ người Việt rất ít, có những nơi
như xó Trung sơn, huyện Yên Lập; xó Lai đồng, xó Tõn Sơn, huyện Thanh Sơn tỷ lệ
người Việt cư trú là dưới 100 người trong một xó (phụ lục).
- Tính đặc thù trong kinh tế:
Người Mường sống định canh, định cư nên trong sản xuất nông nghiệp, chủ yếu
canh tác lúa nước, sản xuất nhỏ theo kiểu tự túc, tự cấp; ngoài việc cấy lúa nước họ cũn
phỏt nương trồng lúa. Sau năm 1999, với dự án 135 hỗ trợ phát triển kinh tế cho các xó
miền nỳi đặc biệt khó khăn, đó tạo ra những bức đột phá trong chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông nghiệp của đồng bào Mường, nhờ đó mà mức sống và thu nhập của người
dân được cải thiện.
Cơ chế thị trường đó tỏc động rất lớn đến tập quán canh tác và chăn nuôi của cư
dân Mường, việc trao đổi, mua bán hàng hóa trong vùng Mường cũng diễn ra phong
phú và nhộn nhịp khụng khỏc gỡ cỏc chợ miền xuụi, đây là điều kiện thuận lợi để người
dân thoát dần ra khỏi tập quán canh tác cũ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào.
Nghề thủ công truyền thống của người Mường chủ yếu là nghề mộc, đan lát, dệt
vải. Trước đây, gia đỡnh người Mường nào cũng có khung cửi, họ tự trồng bông, trồng
dâu, nuôi tằm và dệt vải, người phụ nữ làm ra những vuông vải cho mỡnh, cho những
người trong gia đỡnh và làm của hồi mụn đem đến nhà chồng. Sự khéo léo thể hiện
trong những vuông vải trở thành một trong những tiêu chuẩn về giá trị của người phụ nữ
Mường. Hiện nay, huyện Thanh Sơn phục hồi được 3 làng nghề dệt vải ở Tân Phú, Lai
Đồng, Xuân Đài nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn (người biết dệt vải theo cách cổ
truyền không nhiều, vốn và đầu ra cho sản phẩm rất khó khăn). Mặc dù rất khéo léo
nhưng nghề mộc của người Mường chỉ dừng lại ở phạm vi tương trợ, giúp nhau dựng
nhà, làm khung cửi, làm đuống, cối gió gạo hoặc phục vụ cho sản xuất vui chơi chứ
không chuyên mộc, không làm hàng hóa; việc đóng các đồ gia dụng, làm gạch, xây
nhà…chỉ phổ biến trong thời gian gần đây.
Chính những nét đặc thù trong hoàn cảnh sống và kinh tế đó gúp phần làm nờn
những giỏ trị văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo của người Mường ở Phú thọ. Tuy
nhiên, nhỡn từ gúc độ bảo tồn, phát huy những tinh hoa văn hóa cổ truyền thỡ tốc độ
phát triển nhanh và mạnh của kinh tế cũng làm cho các giá trị văn hóa Mường truyền
thống bị lóng quờn, đặc biệt là các giá trị văn hóa tinh thần; những câu hát ví, những
điệu múa dân gian, những lễ hội cổ truyền của người Mường đang mai một dần, trong
số ít các thể loại văn hóa cũn tồn tại và được phục hồi hiện nay cũng bị Kinh hóa khá
cao.
2.1.2. Đặc điểm xó hội và lịch sử
- Về thiết chế xó hội và cộng đồng:
Thiết chế xó hội của người Mường ở Phú Thọ trước đây được chia thành mường
và xóm, đây là loại hỡnh tổ chức cú từ rất lõu đời, không chỉ có ở người Mường mà
người Thái cũng có cách phân chia như vậy.
Mường là tổ chức xó hội trờn xúm và là tổ chức xó hội lớn nhất của người Mường,
dùng để chỉ một địa vực cư trú, một thái ấp, một vùng dân cư, hay để chỉ địa vực cai
quản của một lang cun, lang đạo hay thổ tù nào đó. Cũng giống như các vùng Mường
khác, tổ chức Mường của người Mường tỉnh Phú Thọ không quy định phạm vi lớn, bé
và có bao nhiêu xóm hợp thành. Nhưng điểm khác biệt ở tổ chức mường của người
Mường ở Phú Thọ đó là không có mường lớn bao chùm lên các mường khác nhỏ hơn
như ở Thanh Hóa hay Hũa Bỡnh mà chỉ cú cỏc mường do nhà lang quản lý trực tiếp đến
các xóm [31, tr.88].
Xóm là tổ chức xó hội dưới mường, là tập hợp dân cư thành cộng đồng theo một
địa vực lónh thổ nhất định. Xóm được hỡnh thành ở cỏc bói, gũ cao hoặc chạy dọc theo
thung lũng, sụng suối, nơi diễn ra các hoạt động lao động sản xuất hàng ngày. Mỗi xóm
chỉ có khoảng vài chục nóc nhà và đều có một con đường đất chạy thẳng qua giữa làng,
nhà của người Mường đều quay lưng vào núi, quay mặt trước nhà ra suối hoặc cánh đồng,
trong xóm thường có nhiều dũng họ sinh sống, nhưng bao giờ cũng có một dũng họ là hạt
nhõn, dũng họ ấy cú thể chiếm tới một nửa hoặc quỏ nửa số núc nhà trong xúm [31, tr.87].
Về tổ chức làng xóm, người Mường sống dưới chế độ dường như là tiền
phong kiến, mỗi làng có một Thổ Tù, mỗi xóm có một Thổ Lang. Những
người này có thể coi như những chúa đất địa phương. Họ được gọi là quan
lang. Quyền hành của họ cha truyền con nối [8, tr.35].
Một số người trong tầng lớp thứ dân chuyên lo việc cúng tế và các nghi lễ tôn giáo
là các ông mo và thầy cúng cũng được nhân dân tin cậy và nể trọng [31, tr.106] Ngoài
ra, trong xó hội Mường cổ truyền có các mối quan hệ láng giềng, dũng họ; uy tớn, và vị
trớ của cỏc dũng họ trong mỗi mường phụ thuộc vào nề nếp, gia phong của dũng họ đó,
quan hệ hôn nhân cũng phụ thuộc vào yếu tố này rất nhiều.
Qua tỡm hiểu và so sỏnh thỡ thấy rằng thiết chế xó hội của người Mường ở Phú
Thọ và người Mường ở những nơi khác có những điểm tương đồng, cũng là thiết chế xó
hội theo kiểu xúm, mường, nhưng mường của người Mường ở Phú Thọ không có các
mường nhỏ dưới quyền mường lớn. Quan hệ giữa tầng lớp quý tộc thống trị với tầng lớp
bị trị cũng rất rừ ràng, bộ mỏy cai trị của Thổ tự trong cỏc Mường ở Phú Thọ được tổ
chức đơn giản hơn, họ không có nhiều người giúp việc (các Ậu) như ở Hũa Bỡnh và
Thanh Húa, khụng trực tiếp quản lý cỏc làng, việc phân định dũng họ nhà Lang khụng
khắt khe như những mường ở nơi khác.
Dưới thời phong kiến và thực dân, năm 1883 triều đỡnh nhà Nguyễn đầu hàng và
trở thành tay sai cho thực dân. Thực dân Pháp đó tiến hành một số cải cỏch hành chớnh,
sắp đặt lại bộ máy cai trị từ Trung ương đến địa phương. Một hệ thống hành chính mới
được hỡnh thành và bao trựm lờn cơ cấu tổ chức xó hội cũ, nhưng các chức việc vẫn do
các nhà lang đảm nhiệm nên hầu như các hoạt động truyền thống, đặc biệt là các lễ hội
vẫn được duy trỡ, cỏc Thổ lang, Thổ tự vẫn được dân làng lo phục dịch, biếu xén như
xưa.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng hũa quyết định xóa bỏ cơ cấu chính quyền cũ, thay vào đó là một
bộ máy hành chính mới và hệ thống các tổ chức đoàn thể chính trị xó hội. Hệ thống tổ
chức hành chớnh mới được áp dụng đồng bộ trong cả nước đó làm cho tổ chức xó hội
cổ truyền của người Mường thay đổi cơ bản. Dù vậy, cơ cấu tổ chức hành chính mới
vẫn được xây dựng trên cơ sở là các làng và xóm trước đây, nên không có sự xáo trộn
về địa bàn quản lý hành chớnh, những mối quan hệ làng xúm, những tập tục, lễ nghi
truyền thống vẫn được duy trỡ, kế tục và phỏt huy với nhiều mức độ khác nhau.
- Về đặc điểm gia đỡnh và hụn nhõn:
Gia đỡnh là một tế bào xó hội, là tổ chức phức tạp bao gồm nhiều yếu tố hợp
thành như: sinh học, tâm lý, kinh tế, văn hóa …Do vậy, tổ chức gia đỡnh khụng giống
như bất cứ một tổ chức xó hội nào khỏc, nú được hỡnh thành bởi quan hệ tỡnh yờu và
hụn nhõn. Cựng với những biến động của lịch sử, gia đỡnh núi chung, gia đỡnh người
Mường nói riêng cũng có những thay đổi cơ bản.
Khi tỡm hiểu gia đỡnh và hụn nhõn của người Mường ở Phú Thọ, chúng tôi thấy:
Người Mường nói chung thuộc tộc người phụ hệ, gia đỡnh Mường cổ truyền thường tồn
tại hai loại cơ bản là gia đỡnh lớn và gia đỡnh nhỏ.
Gia đỡnh lớn: Đây là dạng gia đỡnh rất phức tạp về thành phần và cỏch tổ chức
sinh hoạt. Thường trong các gia đỡnh này cú nhiều thế hệ như: ông bà, bố mẹ, các con
và các cháu, số lượng người trong kiểu gia đỡnh này rất nhiều, cú thể lờn tới 15, 18
người, họ cùng sống, làm và ăn chung [51, tr.49-50].
Trong các gia đỡnh lớn, mọi quan hệ mang tớnh phụ hệ, gia trưởng. Người đàn
ông lớn tuổi nhất có vai trũ chỉ đạo mọi công việc trong gia đỡnh từ phân công nhân
lực, kế hoạch lao động sản xuất, đến nghi lễ cưới hỏi, tang ma và thay mặt gia đỡnh
trong cỏc quan hệ xó hội khỏc. Vai trũ chỉ đạo này chỉ được chuyển cho người con trai
cả (của thế hệ sau) khi người đứng đầu đó già cả, ốm yếu hoặc đó chết. Khi cha, mẹ qua
đời thỡ người anh trai cả phải có trách nhiệm thay cha (mẹ) dựng vợ, gả chồng cho các
em, người em út cũng được coi như con nuôi của anh mỡnh, người phụ nữ vẫn có thể
được tham gia bàn luận các công việc cùng mọi người, nhưng tính quyết định cuối cùng
vẫn thuộc về người nam giới.
Sự hỡnh thành và tồn tại cỏc gia đỡnh lớn trong xó hội Mường có nhiều nguyên
nhân, trong đó rừ nhất là nguyờn nhõn kinh tế - xó hội. Trước đây, kinh tế của người
Mường là tự cấp, tự túc, ruộng đất và tài sản không nhiều, công cụ lao động thô sơ và
lạc hậu, năng suất lao động thấp… nên đũi hỏi tớnh tập trung trong từng khõu của quỏ
trỡnh sản xuất. Hơn nữa, trong các gia đỡnh người Mường, các thủ tục cúng tế, cưới
hỏi, tang ma rất nhiêu khê phức tạp, các gia đỡnh ớt thành viờn khú cú thể làm trũn
trỏch nhiệm với họ hàng, làng xúm. Cỏc quy định khắt khe của “nề nếp gia phong”
trong các gia đỡnh lớn được thực hiện bởi các thế hệ người trong gia đỡnh, đây chính là
điều kiện quan trọng làm cho các đặc trưng của văn hóa Mường cổ truyền tồn tại cố kết
và lâu bền.
Gia đỡnh nhỏ: Đây là dạng gia đỡnh chỉ gồm cú vợ, chồng và con cỏi của họ; họ
sống, sản xuất và chi tiờu độc lập. Tuy vậy, vị trí của người vợ trong gia đỡnh vẫn
khụng được cải thiện, họ vẫn phải phụ thuộc vào người cha, người chồng, sự phân công
lao động trong gia đỡnh vẫn theo giới tớnh và độ tuổi như đó nờu.
Theo luật tục cổ truyền của người Mường, người anh cả có trách nhiệm nuôi
dưỡng cha mẹ già và thờ cúng tổ tiên nên có nhiều đặc quyền hơn các em như: được
phân chia tài sản nhiều hơn, được các em và mọi người trong dũng họ hỗ trợ khi cú
cụng việc lớn, giỗ tết v.v… Người Mường cũn nặng quan niệm “trọng nam hơn trọng
nữ”, “con gái là con người ta, con dâu mới là con nhà mỡnh”, nên em gái không được
chia bất cứ tài sản gỡ của bố mẹ để lại, khi đi lấy chồng chỉ được mang theo tư trang cá
nhân và những tài sản tự mỡnh lao động mà có. Tư tưởng trọng nam hơn trọng nữ của
người Mường xuất phát từ những hủ tục nặng nề, tốn kém tiền của trong các khâu:
thách cưới, hỏi và tổ chức đám cưới. Do vậy, tự nhiên người phụ nữ bị biến thành một
thứ hàng hóa trao đổi. Quan niệm phổ biến của người Mường khi lấy vợ cho con là lấy
người về lao động và sinh con nối dừi tụng đường… cho nên tỡnh trạng lấy chồng, lấy
vợ sớm và sinh nhiều con trong các gia đỡnh người Mường cổ truyền cũng bắt đầu từ
nguyên nhân này.
Trong giai đoạn hiện nay, các gia đỡnh lớn của người Mường có xu thế tách thành
các tiểu gia đỡnh và gia đỡnh hạt nhõn, xu thế ấy trở nờn khỏ phổ biến trong thời kỳ
phỏt triển kinh tế thị trường hiện nay. Quan hệ nam - nữ trong mỗi gia đỡnh được bỡnh
đẳng hơn, vị trí, vai trũ của người phụ nữ trong gia đỡnh được khẳng định, quan hệ hôn
nhân dựa trên cơ sở tỡnh yờu được chú trọng, các tiêu chuẩn kết hôn môn đăng hộ đối
không quá khắt khe như trong quan niệm cổ truyền. Cùng với đó các chức năng của gia
đỡnh kết hợp với nhau hài hũa hơn, và được điều chỉnh theo tiêu chí của gia đỡnh hiện
đại. Vấn đề thực hiện kế hoạch hóa gia đỡnh đó phần nào làm cho quan niệm “đông con
nhiều cháu mới là có phúc” trong chức năng tái sản xuất ra con người của các cư dân
Mường mờ dần (nhưng chưa hẳn đó hết). Chức năng kinh tế được chú ý phỏt triển, việc
làm chủ đồi rừng, phát triển diện tích trồng chè, vườn cây ăn quả và cả sự trao đổi buôn
bán hàng hóa với các vùng đó làm cho cuộc sống vốn khộp kớn của người Mường xưa
được mở rộng. Vấn đề nuôi dạy con, hướng dẫn con cách cư xử và phân công công việc
theo giới tính vẫn được duy trỡ. Việc đầu tư cho con cái học hành, tạo mọi điều kiện
cho con phát triển những năng lực cá nhân (không phân biệt trai, gái) đó phần nào xúa
bỏ quan niệm lạc hậu trọng nam khinh nữ vốn rất nặng nề trong xó hội Mường cổ
truyền.
Có thể nói, xu thế độc lập của các tiểu gia đỡnh đó đem lại những tiến bộ nhất
định về kinh tế, về nhận thức, về quan hệ đối xử…trong các gia đỡnh Mường. Nhưng
cùng với đó các yếu tố văn hóa cổ truyền vốn rất được coi trọng trong các gia đỡnh lớn
trước đây cũng mờ dần. Vỡ mục tiờu xõy dựng một nền văn hóa mới thỡ sự đơn giản
các thủ tục trong nghi lễ gia đỡnh, trong lễ hội là hết sức cần thiết. Nhưng do khả năng
và trỡnh độ của người dân không giống nhau nên ngoài sự tinh giản các yếu tố phi văn
hóa, các hủ tục đó phần nào làm cho cỏc giỏ trị văn hóa độc đáo trong cộng đồng người
Mường cũng mai một theo.
2.1.3. Nét đặc thù trong văn hóa dân gian của người Mường ở Phú thọ
Khi nói đến sắc thái văn hóa nói chung, văn hóa của tộc người Mường nói riêng
khó có thể phân định một cách rạch rũi đâu là văn hóa vật thể và đâu là văn hóa phi vật
thể, bởi đằng sau những hiện tượng, những vật thể cụ thể bao giờ cũng ẩn chứa những
yếu tố tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng. Những nét văn hóa độc đáo của người Mường
được thể hiện một cách tinh tế trong những vật dụng hàng ngày, trong lao động sản
xuất, trang phục, kiến trúc, thơ ca, lễ hội, trong sự sinh thành và các mối quan hệ của
con người. Do vậy, khi đề cập đến những sắc thái văn hóa của dân tộc Mường, chúng
tôi chỉ đề cập vấn đề ở những nét cơ bản mang tính liệt kê.
- Văn hóa văn nghệ dân gian qua các lễ hội, phong tục, tập quán:
Tỉnh Phú Thọ được người dân cả nước đều biết đến như là một mảnh đất “địa linh
nhân kiệt”. Nơi hợp lưu của các con sông lớn như: sông Hồng, sông Đà, sông Lô. Nơi
truyền rằng có kinh đô Văn Lang và hiện nay cũn cú đền thờ các Vua Hùng trên núi
Nghĩa Lĩnh… Những di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng
Đậu, Gũ Mun, Đông Sơn, đó gắn truyền thuyết vào với hiện thực đời thường, minh
chứng cho sự xuất hiện của cư dân Việt Mường (người Việt cổ) trên đất Phú Thọ từ hơn
mười ngàn năm trước [25, tr.30 - 35].
Văn hóa trống đồng: Việc tỡm thấy trống đồng trong quá trỡnh khảo cổ là một
trong những phỏt hiện rất quan trọng. Từ 4 chiếc trống đồng đầu tiên được đưa về bảo
tàng của Tỉnh (năm 1961) cả 4 chiếc trống này đều được phát hiện ở vùng đồng bào
Mường sinh sống là Thu Ngạc, Lai Đồng, Khả Cửu và Sơn Hùng (huyện Thanh Sơn).
Từ đó cho đến nay, tỉnh Phú Thọ đó sưu tầm được 69 chiếc trống đồng các loại, và 6
chiếc bị thất lạc trong những hoàn cảnh khác nhau, nếu tính cả số trống đồng bị thất lạc
thỡ Phỳ Thọ cú tới 75 chiếc (74 chiếc cú nguồn gốc trong tỉnh, một chiếc do nước bạn
Lào tặng). Một con số minh chứng cho sự giàu có về trống đồng của tỉnh. Tuy nhiên, sự
phân bố trống đồng ở Phú Thọ không đồng đều giữa các huyện, thị, thành mà tập trung
chủ yếu ở vùng Mường. Theo thống kê của tác giả Nguyễn Anh Tuấn thỡ huyện Thanh
Sơn có 58 trống đồng, trong đó có 6 chiếc bị thất lạc (không rừ địa chỉ), 20 chiếc bị thất lạc
vỡ nhiều lý do (chỏy nhà, giặc Phỏp đốt, Mỹ ném bom, bán cho đồng nát…), vùng Mường
Yên lập tỡm thấy 10 trống, số cũn lại rải rỏc ở cỏc vựng Tam nụng, Thanh Thủy, Việt
Trỡ …[59, tr.33 - 118]. Trong số trống đồng tỡm được có 7 trống đồng loại I (trống
Đông Sơn), cũn đại đa số là trống đồng loại II theo sự phân loại của Heger (học giả người
Áo). Khi đề cập đến trống đồng, có người gọi loại trống này là trống Mường. Có nhiều lý
do để gọi đó là trống Mường, nhưng có lẽ thuyết phục hơn cả đó là loại trống này gắn với
trường ca “Đẻ đất Đẻ nước” của người Mường [43, tr.40]. Người Mường tổ chức đánh
trống đồng (chàm thau) vào các dịp hội xuân, lễ hội cầu mưa, cầu mùa, đám cưới, đón
khách… Tại nơi tổ chức lễ hội, người ta làm giá treo trống bằng một cây sào đặt nằm
ngang trên 4 cây tre buộc chéo ở hai đầu, dưới đáy trống đào một hố nông vừa bằng
đường kính đáy trống để tạo âm thanh cộng hưởng. Quy định khi “chàm thau” là phải
có người “cái” hai tay cầm hai dùi trống đánh vào núm trống, người “con” cầm một dùi
đánh vào các hoa văn vũng ngoài hoặc vào thõn con cúc trờn mặt trống. Như vậy sẽ tạo
ra các âm thanh trầm hùng (tiếng tung) và thánh thót (tiếng chinh) khác nhau, phù hợp
với tiết tấu và không khí của lễ hội đó. Khi đánh trống, các cặp “con” phải là số chẵn
(có thể toàn nữ hoặc cặp nam-nữ), điều đó thể hiện sự hũa hợp õm dương và mong
muốn phồn thực, đa đinh, thịnh vượng cho cả Mường [43, tr. 116-117].
Chàm đuống: hay cũn gọi là đâm đuống, được tổ chức vào lễ động thổ đầu năm.
Đuống là một máng được làm bằng gỗ khoét từ một thân cây lớn (dài 1.50m, rộng
0.40m, sâu 0.30m), chày gió đuống được làm bằng gỗ dài 1.30m. Tục đâm đuống được
bắt đầu từ công việc gió lỳa hàng ngày và sau đó trở thành một hỡnh thức sinh hoạt văn
hóa, tín ngưỡng độc đáo của cư dân Mường. Ở vùng mường Át (Thanh Sơn), sáng 29
tết (có nơi là 25 tết - ngày đóng cửa rừng) cả Mường úp đuống lại, chọn 4 cum lúa (tọm
ló) treo vào 4 góc của gác bếp, sáng mùng 2 tết (có nơi là mùng 7 tết), con gái nhà Lang
lật đuống lại, cho lúa vào đó gió, Lang Đạo sẽ đánh 3 hồi chiêng để xua đi ác quỷ, ma
tà… sau đó cả Mường mới được phép gió đuống theo, lúa đó gió đem cho gà, lợn ăn để
cầu một năm mùa màng bội thu, sung túc và không ốm đau, bệnh tật. Thông thường, khi
chơi người ta sử dụng 3 đến 4 đuống xếp liền kề nhau, 3 đến 4 đôi giữ một đuống, đôi
đứng đầu tiên sẽ làm “cái”, cứ 2 nhịp đâm xuống lũng cối, xen 1 nhịp vào thành cối, tạo
thành những õm thanh rộn ràng, mong muốn một năm sung túc, tươi vui [43, tr.122-
123].
Hội séc bùa (xách cồng): Nếu như trống đồng gắn với vị trí tôn quý của Nhà Lang,
của đỡnh làng thỡ cồng và chiờng lại gắn với cuộc sống của dân cư nơi thôn dó. Bộ
cồng chiờng 12 chiếc với những kớch cỡ khỏc nhau, tượng trưng cho 12 tháng trong
một năm, chiếc cồng lớn nhất gọi là cồng “đàm” dùng để đánh âm trầm, cồng “khệ” (có
nơi gọi là cồng vặn) dùng để đánh trùng âm, loại trung bỡnh được gọi là cồng “đúm”,
nhỏ nhất trong bộ cồng và có âm thanh cao nhất, thánh thót nhất là cồng boũng beng.
Hội sộc bựa được tổ chức vào nhiều dịp trong năm, nhưng phổ biến là trong dịp tết
nguyên đán. Đầu năm phường bùa (bao gồm cả nam và nữ) từ 15 đến 20 người, đi thành
hàng một, dẫn đầu là người mang cồng boũng beng, rồi đến cồng đúm, cồng khệ, cồng
đàm. Đầu tiên phường bùa đến những nhà có hẹn trước để hát sắc bùa, theo tục lệ thỡ
chủ nhà sẽ tập trung anh, em để đón nhưng cổng nhà vẫn đóng, phường bùa sẽ phải
đánh cồng và hát bài hát mở cổng:
“Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào cũn đèn cũn lửa
Mở cửa cho chúng tôi vào…”.
Chủ nhà mở cổng đón, phường bùa đi vào sân, vừa đi vừa đánh cồng và hát bài hát
chúc tụng, ngợi ca:
“…Chúc tết nhà ông
Vườn trước có cau, vườn sau có mít
Vựa lỳa nếp cũn đến tháng năm
Gạo tẻ tháng mười chưa hết…” [73, tr. 146-147].
Sau cuộc hát, chủ nhà mang thóc gạo tặng phường bùa, nắm thóc trên tay chủ nhà
được vói nhẹ vào chiếc cồng đàm, người cầm cồng sẽ ngửa cồng đỡ lấy; thóc, gạo rơi
vào lũng chiếc cồng giống như gieo mạ, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, tốt tươi của
mùa màng trong năm. Nhận thóc gạo từ chủ nhà, phường bùa hát bài tạ ơn rồi tiếp tục đi
sang nhà khác [52, tr.31].
Múa trống đu: Đây là một trong những hỡnh thức mỳa trống độc đáo của tất cả
các làng người Mường ở Phú Thọ, nhưng nay chỉ cũn được tổ chức ở xó Tất Thắng,
huyện Thanh Sơn. Khi múa trống, người ta đặt một chiếc trống cơm lên trên mặt một
chiếc trống cái, người đánh trống là một ông già và 6 đến 8 cặp trai, gái tay cầm kèm
kẹp (hai thanh tre dài 40cm, rộng 4cm) xếp thành vũng xung quanh. ễng già tay cầm
trống cơm, tay kia gừ vào trống cỏi theo nhịp, mỗi lần di chuyển ụng thường gừ một tiếng
vào mặt trống cỏi và dứ trống cơm về phớa cỏc cặp trai gỏi cho họ gừ cựng. Điệu múa vui
vẻ, rộn ràng, giống như người cha và đàn con đang vui đùa với nhau, mừng mùa màng bội
thu và gia đỡnh hạnh phỳc. Cú người cho rằng: có thể xuất xứ của điệu múa là “múa trống
đùa” và vỡ một lý do nào đó được gọi chệch thành múa trống đu [43, tr.32].
Hội đu quay (tu xe): đây là trũ chơi ngày xuân, cho đến nay vẫn cũn khỏ phổ biến
ở cỏc vựng Mường trong tỉnh. Hỡnh thức chiếc đu quay gần giống với chiếc cọn nước,
bốn cột gỗ lớn được chôn chắc chắn xuống đất, trên đỉnh cột bắc một trục xoay với các
nan bằng gỗ, đầu mỗi đôi nan treo một ghế. Thường thỡ mỗi cõy đu có 12 ghế ngồi (ghế
đơn) dành cho 6 cặp nam, nữ. Chiều 29 tết, ông mo của làng sẽ làm lễ “cúng đu”, cỗ
cúng sẽ do một gia đỡnh trong làng đảm nhiệm (nhiệm vụ này được các gia đỡnh luõn
phiờn qua cỏc năm). Khi chơi đu quay, người đạp đà sẽ trèo lên đỉnh cột, dùng chân đạp
vào các nan cho đu quay trũn, cỏc cặp chơi ngồi trên các ghế quay mặt vào nhau và hát
những câu hát xuân, ví giao duyên, kết bạn. Hội đu kéo dài suốt nhiều ngày trong dịp
tết, không chỉ thu hút các cặp trai, gái Mường đến tỡm nhau trong hội đu, mà cũn là dịp
vui gặp gỡ của cỏc ụng, bà (ụụng, mế) trong ngày xuõn. Đu quay là một trũ chơi đũi hỏi
đôi bàn tay khéo léo và cả sức khỏe của các chàng trai mường từ khi dựng đu đến hết
hội. Người Mường quan niệm, nếu khi cúng đu mà đổ vỡ bát đĩa, không cắt được tiết
gà, cỗ cúng xong không mời mọi người ăn mà đem về nhà… thỡ chơi đu sẽ có người
ngó. Do vậy, cho đến nay đĩa để bày cỗ cúng người ta vẫn dùng đĩa cắt từ lá chuối tươi,
cúng xong sẽ mời tất cả mọi người có mặt lúc đó ăn cỗ tại gốc đu. Hội đu bắt đầu vào
sáng mùng một tết, nhưng thường thỡ hỏt vớ đu chỉ nhộn nhịp về đêm; hội đu quay kéo
dài đến hết tháng giêng, sau đó người ta tháo rời cây đu, đem gỗ ngâm xuống ao làng,
đợi mùa xuân năm sau.
Hát ghẹo: Đây là một hỡnh thức ca hỏt điển hỡnh thể hiện tỡnh kết nghĩa “nước
anh, nước em” giữa cư dân mường Thục Luyện, Hùng Nhĩ (huyện Thanh Sơn) với cư
dân Kinh ở xó Nam Cường (huyện Tam Thanh). Tục truyền, một năm đỡnh làng Nam
Cường bị cháy, nhờ có sự giúp đỡ của hai xó Thục Luyện, Hựng Nhĩ lấy gỗ, Nam
Cường mới dựng lại được đền, từ đó họ kết nghĩa anh em. Do vậy, cứ đến ngày lễ thần
Tản Viên 13/3 âm lịch và ngày hội đỡnh Nam Cường 9/9 âm lịch họ lại gặp nhau. Hỏt
ghẹo là hỡnh thức hỏt chay, khụng mỳa, khụng cú nhạc đệm, âm điệu của hát ghẹo vừa
mang âm hưởng hát Ví của người Kinh, hát Rang của người Mường. Không khí cuộc
hát vui vẻ, tự nhiên, không chịu ảnh hưởng của các loại nhạc lễ. Trong cuộc hát, mỗi
lượt hai nam hát đối đáp với hai nữ, vừa hát vừa nhỡn nhau, đối hợp câu, hợp giọng,
phản ánh được tỡnh kết nghĩa anh em và cảnh quan của miền trung du cũng như cuộc
sống sinh hoạt của nhân dân trong vùng [73, tr.90].
Ngoài cỏc hỡnh thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian nêu trên, người Mường
ở Phú Thọ cũn cú nhiều hỡnh thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng khác như: ném cũn,
mỳa mỡi, mỳa đâm ống…
Trong tục cưới: Cũng giống như một số các dân tộc khác, việc cưới xin là một
trong những sự kiện quan trọng của một đời người, kiếp người, đây không chỉ là dịp vui
cho riêng đôi trai gái, mà là ngày hội cho cả hai họ và cả mường. Trước khi tiến tới hôn
nhân, đôi trai gái có quyền được gặp gỡ hẹn hũ trong cỏc lễ hội, trong cỏc phiờn chợ,
trong cỏc buổi cựng nhau đi làm đồng; họ có thể gặp gỡ, có thể tặng nhau những kỷ vật
làm tin như chằm bạc (vũng bạc), chiếc tỳi vải tự dệt…nhưng quan trọng hơn cả vẫn là
những quyết định của cha mẹ. Người Mường nặng quan niệm “môn đăng hộ đối”, quan
niệm hôn nhân ngoại tộc (chín đời vẫn góp giỗ nên không được lấy nhau); từ đó việc
kén vợ, chọn chồng cho con rất khắt khe, nhiều khi những quy định ấy lại trở thành tai
họa, trở thành nguyên nhân cho sự đổ vỡ những quan hệ tỡnh cảm của đôi trai gái. Hôn
nhân của người Mường xưa có rất nhiều thủ tục, có nơi từ lúc nhà trai đem miếng trầu
đầu tiên đến xin nhà gái cho đôi trẻ qua lại tỡm hiểu đến lúc tổ chức đám cưới (thường
là 3 năm) phải có đủ 12 “cái lễ”, hỡnh thức rất nhiờu khờ và phức tạp, gõy tốn kộm tiền
của khụng ớt; trong thời gian 3 năm đó chàng trai phải mang đến nhà gái (đôi gà, yến gạo
nếp, chục lít rượu) và các loại bánh phù hợp với các ngày lễ; đặc biệt là dịp tết nguyên đán,
rằm tháng giêng, tết nguyên tiêu (3/3), tết 5/5, lễ xá tội vong nhân (rằm tháng 7), tết cơm
mới (10/10)…là không thể thiếu. Hiện nay, ở một số vùng mường hẻo lánh ở Phú Thọ
vẫn cũn những nghi thức này, tuy việc sắm lễ cú nhẹ hơn so với trước. Trong đám cưới
của người Mường, thách cưới là do nhà gái đưa ra, họ quan niệm nuôi con khôn lớn để
nhà trai lấy về nên cha mẹ cô dâu cần được nhà trai trả công xứng đáng; lễ vật thách
cưới chủ yếu là đồ ăn, thức uống để tiếp đói họ hàng (xưa cũn cú thờm bạc trắng). Do
vậy, cú nhiều đám cưới bị biến thành các cuộc mua bán nàng dâu, nhà trai phải chấp
nhận lời thách mà không được phép nài bớt thứ gỡ. Vỡ lý do nào đó cuộc hôn nhân
không được tiếp tục; mà nhà gái chủ động thỡ phải hoàn trả lại mọi lễ vật và những ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18_6134.pdf