Tài liệu Luận văn Nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Tâm
NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG VỀ VẤN ĐỀ TƯ VẤN TÂM LÝ
TRONG DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHƯƠNG DUY
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt đề tài này, trong suốt quá trình thực hiện, người
nghiên cứu đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía các cá nhân
và tập thể. Người nghiên cứu xin gửi lời tri ơn chân thành đến Tiến sĩ Đinh
Phương Duy, thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đồng hành cùng người
nghiên cứu suốt quá trình thực hiện đề tài.
Qua đây, người xin gửi lời cảm ơn Ban Giám đốc của quý công ty:
- Công ty TNHH Quảng Cáo Sao Thế Giới
- Công ty TNHH địa ốc Đất Lành
- Công ty in ấn, thiết kế, quảng cáo NewVision
- Công ty điện tử BÁCH KHOA SÀI GÒN
- Công ty TNHH xây dựng - tư vấn - thương mại Huỳnh Nguyễn Phùng
đã tạo điều kiện ch...
93 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Tâm
NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG VỀ VẤN ĐỀ TƯ VẤN TÂM LÝ
TRONG DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHƯƠNG DUY
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt đề tài này, trong suốt quá trình thực hiện, người
nghiên cứu đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ phía các cá nhân
và tập thể. Người nghiên cứu xin gửi lời tri ơn chân thành đến Tiến sĩ Đinh
Phương Duy, thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đồng hành cùng người
nghiên cứu suốt quá trình thực hiện đề tài.
Qua đây, người xin gửi lời cảm ơn Ban Giám đốc của quý công ty:
- Công ty TNHH Quảng Cáo Sao Thế Giới
- Công ty TNHH địa ốc Đất Lành
- Công ty in ấn, thiết kế, quảng cáo NewVision
- Công ty điện tử BÁCH KHOA SÀI GÒN
- Công ty TNHH xây dựng - tư vấn - thương mại Huỳnh Nguyễn Phùng
đã tạo điều kiện cho các nhân viên tham gia thực nghiệm nhằm tìm ra sự
khác biệt về nhận thức và thái độ của người lao động trước và sau khi được
tư vấn tại doanh nghiệp. Xin cảm ơn các anh, chị học viên tham gia chương
trình đào tạo 1000 chuyên viên tâm lý trong doanh nghiệp (PEB) tại công ty
Hồn Việt đã thực hiện phiếu khảo sát.
Chân thành cảm ơn!
Học viên
Nguyễn Thị Tâm
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 02 năm 2008
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về lý luận:
Khi đối diện với những sự vật, hiện tượng, con người luôn tìm cách
trả lời câu hỏi “đó là cái gì”. Bất kỳ một hiện tượng mới nào cũng đều
làm con người quan tâm và lý giải theo một cách thức nào đó. Khi con
người nhận thức rõ ràng về một vấn đề, về một sự kiện nào đó, con người
sẽ có thái độ phù hợp và đúng mực. Từ nhận thức và thái độ đúng đó,
con người sẽ có hành vi tương thích. Nghiên cứu nhận thức và thái độ
của một cá nhân hay của một cộng đồng về một vấn đề nào đó sẽ giúp
chủ thể nghiên cứu có cái nhìn rõ ràng hơn về đối tượng nghiên cứu.
Người công nhân trong giai đoạn mới đang được tiếp cận với nhiều
khuynh hướng tác động khác nhau, nếu nhận thức được hình thành nhanh
chóng dựa trên những yêu cầu khách quan và thái độ của người lao động
được xác lập một cách đúng đắn về các khuynh hướng mới thì người lao
động sẽ tự tin và hăng hái hơn khi đối diện với các khuynh hướng ấy. Tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp là một dạng tương tác mới có thể làm
người lao động đón nhận hoặc phản đối tùy thuộc vào nhận thức của họ
như thế nào. Nhận thức đúng về tư vấn tâm lý sẽ làm người lao động dễ
dàng hình thành thói quen tư vấn tâm lý, xem tư vấn như một dịch vụ
bình thường có thể mang lại cho họ nhiều điều bổ ích.
1.2. Về thực tiễn:
- Nhiều nghiên cứu về tư vấn tâm lý đã được thực hiện trên nhiều
mức độ và qui mô khác nhau, trong đó có công trình “Nghiên cứu thực
trạng tham vấn tâm lý tại TP. HCM” do nhóm của Thạc sĩ Đỗ Văn Bình
và tiến sĩ Trần Thị Giòng thực hiện năm 2003. Kết quả của nghiên cứu
này cho thấy hiện nay nhu cầu tư vấn tâm lý đã có chiều hướng tăng lên,
mỗi trung tâm tư vấn tâm lý bình thường có khoảng 360 đến 650 thân
chủ/tuần.
- Đối với mỗi cá nhân, khi xã hội phát triển, cuộc sống ở các đô thị
lớn càng trở nên sôi động, với các hình thức sinh hoạt đa dạng, trong
những “căn nhà ống” đa chức năng, với sự bùng nổ thông tin và các dịch
vụ ảo hình thành mạnh mẽ, khả năng làm việc của con người được phát
huy tối đa mà có rất ít thời gian bồi dưỡng sức lao động để tái sản xuất
thì nguy cơ bị hội chứng stress, nhiễu tâm, rối loạn tâm thần ngày càng
tăng cao. Cơn lốc của nền kinh tế thị trường “đổ bộ” vào mọi ngõ ngách,
len lỏi trong mỗi gia đình đã tạo ra những cú sốc cho các quan hệ. Riêng
mỗi gia đình, với những giá trị truyền thống bị biến đổi, đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nhân cách, nhận thức, lối sống giữa các thế hệ trong
gia đình. Xung đột nảy sinh, làm tắc nghẽn các giao lưu tình cảm ở gia
đình, tiêu biểu nhất là xung đột vợ - chồng, xung đột cha mẹ - con cái,
làm nảy sinh nhiều vấn đề về mặt tâm lý, xã hội mà quan trọng nhất là
vấn đề hình thành nhân cách con người.
- Đối với các doanh nghiệp, từ khi Nhà nước mở cửa, thu hút đầu tư
nước ngoài, Luật Doanh nghiệp ra đời làm cho nền kinh tế thị trường
phát triển, kéo theo sự phát triển vũ bão của các doanh nghiệp: từ doanh
nghiệp nhà nước, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn và cả
các công ty nước ngoài. Cả nước hiện có hơn 208.000 doanh nghiệp, là
một bức tranh sinh động về sức bật kinh tế của Việt Nam. Nước ta đang
trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Quá trình
chuyển đổi đó đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển
mạnh mẽ, đem lại những thay đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế
thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó, gây nên những khó khăn,
thách thức lớn cho sự phát triển xã hội. Cơ chế thị trường dẫn đến sự
phân hoá xã hội, đặc biệt về mặt thu nhập, tạo ra sự chênh lệch giữa giàu
nghèo, tệ nạn xã hội, thất nghiệp ngày càng gia tăng, sự du nhập các
luồng văn hóa không lành mạnh làm thay đổi không ít những quan niệm,
chuẩn mực trong xã hội và làm lung lay các giá trị đạo đức, truyền thống
tốt đẹp,… Tất cả đều góp phần tạo nên mâu thuẫn, xung đột và tác động
tiêu cực đến đời sống của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Vì vậy, tư vấn
là một loại hình dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội và con người Việt
Nam, với những thói quen sống, đặc điểm tâm lý của một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, đã xây dựng một mối quan hệ hạn hẹp, co cụm sau
lũy tre làng, nền kinh tế bao cấp trì trệ và nặng hành chánh, bệnh thành
tích,… cùng biết bao những lề thói trong hành xử, trong văn hóa, phong
cách sống và cả những kỹ năng làm việc…
Sự khác biệt giữa môi trường làm việc đầy năng động, sáng tạo, luôn
biến ảo và thay đổi với một bên là sự trì trệ, bảo thủ và cục bộ về cơ cấu
tổ chức, thói quen làm việc, đặc tính tâm lý… đã làm cho mỗi cá nhân
trong tổ chức doanh nghiệp phải đối đầu với một thực tế như là “cú sốc
tương lai”.
Người ta chưa quen làm việc dưới áp lực cao, làm việc theo nhóm,
theo dự án, chưa quen làm việc theo những nguyên tắc dây chuyền,
chuyên môn hóa cao. Vì vậy, con người nhanh chóng mệt mỏi, căng
thẳng, vi phạm những nguyên tắc an toàn lao động, tác phong làm việc
không chuyên nghiệp, ứng xử không phù hợp, không có kỹ năng. Con
người cảm thấy bị stress, và như thế, hàng loạt những vấn đề mâu thuẫn
trong đội ngũ nhân sự ở các doanh nghiệp đã xảy ra. Đó là một vấn đề
gây tổn thất lớn cho các doanh nghiệp, cho sự phát triển và hội nhập của
doanh nghiệp Việt Nam với thế giới.
Qua nghiên cứu thực trạng về nhu cầu tư vấn tâm lý và chăm sóc đời
sống tinh thần cho người lao động do Hội Tâm lý Thành phố phối hợp
với Công ty Hồn Việt thực hiện tháng 3-2006, khảo sát trên 531 người
lao động và 28 nhà doanh nghiệp cho thấy:
+ Trong 531 người lao động có 253 người (chiếm 48%) cho rằng vai
trò của nhà tâm lý trong doanh nghiệp là rất cần thiết và 234 người
(chiếm 44%) cho là cần thiết.
+ Trong 28 nhà doanh nghiệp có 9 người (chiếm 32%) cho là rất cần
thiết và 16 người (chiếm 57%) cho là cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nóng bỏng trước thực tế trên, muốn tìm
hiểu người lao động hiện nay có suy nghĩ như thế nào về dịch vụ tư vấn,
họ có sẵn sàng đón nhận dịch vụ tư vấn chưa, người nghiên cứu chọn
hướng nghiên cứu với đề tài: “Nhận thức và thái độ của người lao động
về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp”
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có cơ sở để hình thành các quyết
định, các phương pháp chăm sóc tinh thần cho người lao động.
- Thực hiện áp dụng mở rộng các hình thức tư vấn tâm lý cho người
lao động ở các doanh nghiệp.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề về lý luận nhận thức, thái độ của người lao
động trên những mức độ nhất định.
- Làm rõ khái niệm tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thái độ của người lao động về tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và hình thành
thái độ tích cực để người lao động ủng hộ việc thực hiện tư vấn tâm lý
trong doanh nghiệp, các biện pháp phát triển tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu:
- 239 người lao động làm việc tại các doanh nghiệp (175 nghiên cứu
thực trạng, 64 thực nghiệm)
- 80 nhà quản lý các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh (20
nghiên cứu thực trạng, và 60 thực nghiệm)
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức và thái độ của người lao động về nội dung, hình thức tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống, logic
- Phương pháp tiếp cận lịch sử
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Nghiên cứu tài liệu
- Điều tra bằng An-ket
- Phỏng vấn
- Thử nghiệm tư vấn trong doanh nghiệp để so sánh sự khác biệt giữa
nhận thức, thái độ của người lao động trước và sau khi được thụ hưởng
dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
- Toán thống kê
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn:
Nghiên cứu nhận thức và thái độ của người lao động về công việc tư
vấn tâm lý như một dịch vụ không chuyên tại các doanh nghiệp.
6.2. Phạm vi: Nghiên cứu trên địa bàn TP. HCM.
7. Giả thuyết nghiên cứu
7.1. Người lao động tại các doanh nghiệp có nhận thức và thái độ chưa rõ
ràng về tư vấn tâm lý, họ chỉ mới biết đơn giản, chưa hiểu rõ về dịch vụ
này.
7.2. Sau khi tổ chức dịch vụ tư vấn tâm lý ở doanh nghiệp, nhận thức và
thái độ của người lao động về dịch vụ này có thay đổi theo hướng tích
cực.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận
- Chương 2: Giới thiệu cách thức tổ chức và nghiên cứu nhận thức và
thái độ của người lao động về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
- Chương 3: Thực trạng nhận thức và thái độ của người lao động về tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cùng với sự biến đổi, phát triển vượt bậc của tình hình kinh tế - xã hội ở
nước ta, nhiều vấn đề xã hội cũng đã phát sinh do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trong đó sự biến đổi nhanh các giá trị xã hội đã làm nhiều người không
kịp thích nghi dẫn đến những mâu thuẫn trong quan hệ gia đình, xã hội.
Những mâu thuẫn này đã ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần, tâm lý của con
người. Do đó, nhu cầu tư vấn tâm lý xuất hiện và có xu hướng phát triển ngày
càng cao. Chính vì thế, các trung tâm tư vấn được hình thành ngày càng
nhiều. Tại TP. HCM, có nhiều nghiên cứu, khảo sát về thực trạng tư vấn tâm
lý, như:
- Nghiên cứu thực trạng tham vấn tâm lý tại TP. HCM do nhóm
nghiên cứu của tiến sĩ Trần Thị Giồng và Thạc sĩ Đỗ Văn Bình thực
hiện năm 2003. Từ kết quả nghiên cứu, nhằm nâng cao hiệu quả
tham vấn tâm lý, nhóm nghiên cứu đã khuyến nghị cần phải có kế
hoạch đầu tư đào tạo chuyên viên tham vấn tâm lý dài hạn ở nước
ngoài, khuyến khích các trường đại học mở ngành tham vấn tâm
lý,… Bên cạnh đó, cần phải xây dựng quy chế và xét duyệt việc cho
phép mở các cơ sở tham vấn tâm lý và quy định cơ chế kiểm tra,
giám sát, hỗ trợ từ phía cơ quan chuyên môn.
- Khảo sát nhu cầu tư vấn tâm lý và giáo dục từ góc nhìn của sinh
viên CĐSP Tp. Hồ Chí Minh của Thạc sĩ Nguyễn Việt Bắc. Nội
dung khảo sát tập trung vào những vấn đề mà sinh viên trường
CĐSP Tp. Hồ Chí Minh mong muốn được tư vấn cũng như hình
thức tư vấn nào là sinh viên cảm thấy thích hợp nhất.
- Nghiên cứu nhu cầu tư vấn về tình yêu hôn nhân và những vấn đề
liên quan của Tiến sĩ Đặng Văn Huệ thông qua việc xem xét các câu
hỏi của những người có nhu cầu tư vấn và trả lời của tư vấn viên.
Kết quả nghiên cứu cho thấy người có nhu cầu tư vấn thường thuộc
lứa tuổi trẻ và đa phần là phụ nữ. Đặc biệt, vấn đề cần tư vấn đa
phần thuộc lĩnh vực tình yêu hoặc mối quan hệ giữa hai người khác
phái. Từ kết quả nghiên cứu trên, người nghiên cứu kiến nghị xây
dựng mạng lưới tư vấn tâm lý một cách chủ động và khoa học ở
từng địa phương nhằm khắc phục sự tự phát như hiện tại.
- Nghiên cứu nhu cầu tư vấn tâm lý - giới tính của học sinh một số
trường trung học tại TP. HCM do Tiến sĩ Ngô Đình Qua - NNC
Nguyễn Thượng Chí tiến hành khảo sát trên học sinh lớp 8, lớp 9
trường THCS Nguyễn Gia Thiều và học sinh phổ thông trường
THPT Nguyễn Thượng Hiền. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhu cầu
tư vấn tâm lý - giới tính tăng theo bậc học và các em học sinh rất
mong muốn có được phòng tư vấn tâm lý - giới tính miễn phí.
Riêng lĩnh vực tư vấn và nghiên cứu tâm lý của người lao động trong các
doanh nghiệp, có rất nhiều khảo sát, nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này,
cụ thể:
- Nghiên cứu thực trạng về nhu cầu tư vấn tâm lý và chăm sóc đời
sống tinh thần cho người lao động do Hội Tâm lý Thành phố phối
hợp với Công ty Hồn Việt thực hiện tháng 3-2006, khảo sát trên 531
người lao động và 28 nhà doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho
thấy nhu cầu tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp là rất cần thiết.
- Nghiên cứu tâm lý người lao động trong quá trình lao động trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh và lân cận. Ý nghĩa của bảo hộ lao
động về vấn đề này của sinh viên Huỳnh Thị Ngọc Hân - Khoa môi
trường và bảo hộ lao động - Trường Đại học bán công Tôn Đức
Thắng. Kết quả nghiên cứu cho thấy người lao động đang phải chịu
đựng quá nhiều áp lực, chính điều đó khiến người lao động cảm
thấy căng thẳng, từ đó dẫn đến giảm sút hiệu quả lao động, tai nạn
nghề nghiệp.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện lao động và môi trường đến
sức khỏe và hiệu quả công việc của giáo viên phổ thông của sinh
viên Trần Thị Nguyệt Sương - Khoa môi trường và bảo hộ lao động
- Trường đại học bán công Tôn Đức Thắng. Kết quả cho thấy chính
vì sự bất hợp lý trong cơ chế quản lý và sự thiếu quan tâm đến điều
kiện, môi trường làm việc của giáo viên khiến chất lượng dạy học và
giáo dục ngày càng sút giảm.
Nhiều luận văn tốt nghiệp đại học và một số luận văn thạc sĩ có đề cập
đến công tác tư vấn nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về dịch vụ tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
1.2. Những khái niệm liên quan
1.2.1. Nhận thức
1.2.1.1. Định nghĩa
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhận thức, trong chương
trình tâm lý học đại cương của nhiều tác giả, khái niệm nhận thức đã
được đề cập rất cụ thể với nhiều phương diện khác nhau. Theo từ điển
Tiếng việt – 1999 thì Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và
tái hiện hiện thực vào trong tư duy; quá trình con người nhận biết, hiểu
biết thế giới khách quan hoặc kết quả của quá trình đó. Nâng cao nhận
thức. Có nhận thức đúng và cũng có những nhận thức sai lầm. Nhận
thức có nghĩa là nhận ra và biết được, hiểu được. Nhận thức được vấn
đề tức là biết được vấn đề đó là gì và hiểu được nó như thế nào, nguồn
gốc của vấn đề ra sao… Có tác giả cho rằng “Nhận thức (congnition) là
hoạt động tâm lý nhằm mục đích biết được một sự vật hay một hiện
tượng nào đó là gì, là như thế nào bằng các giác quan (để có những cảm
giác và tri giác hoặc tư duy tưởng tượng)”. (Giáo trình tâm lý học đại
cương - PGS.TS Trần Tuấn Lộ - ĐHVH 2003)
Tác giả Stephen Worchel - Wayne Shebilsue trong tác phẩm Tâm
lý học - Nguyên lý và ứng dụng thì cho rằng : “Nhận thức là quá trình
diễn dịch thông tin mà chúng ta thu nhận được từ môi trường thông qua
quá trình cảm giác. Quá trình cảm giác và nhận thức đan xen lẫn nhau”.
[trang 129]. Với cách đặt vấn đề như vậy, tác giả xem cảm giác là một
giai đoạn sơ lược và khái niệm nhận thức chỉ mức độ hiểu biết rõ ràng
hơn về sự vật, hiện tượng.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng “ Nhận thức là một hoạt
động chủ thể hướng vào đối tượng nhằm mục đích biết và hiểu đối
tượng cũng như biết và hiểu chính mình,” … (tự nhận thức). Nhận thức
là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức,
tình cảm và hành động) nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có
quan hệ chặt chẽ với nhau và với các hiện tượng tâm lý khác. Nhận
thức (perception) tức là tiến trình chọn lọc, diễn dịch, phân tích và hợp
nhất các kích thích gây ra phản ứng ở các giác quan của chúng ta.
Theo Roberts Feldman: Nhận thức là tiến trình nhờ đó cảm giác
được phân tích, diễn dịch và hợp nhất với các thông tin cảm giác khác.
Ngày nay, đa số cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận và
tiến gần đến chân lý nhưng không ngừng ở mức độ nào, vì còn nhiều
điều mà chúng ta chưa hiểu hết được, phải dần loại bỏ cái sai, không
khớp với hiện thực và liên tục đi từ bước này sang bước khác để hoàn
thiện hơn.
Có thể nói nhận thức là hoạt động tích cực của chủ thể phản ánh
hiện thực khách quan để thích ứng với nó hoặc cải tạo nó. Hoạt động
nhận thức đi từ chưa biết đến biết, từ thuộc tính bề ngoài: cảm tính, trực
quan, riêng lẽ đến đối tượng trọn vẹn, ổn định, có ý nghĩa trong các
quan hệ của nó, sau đến các thuộc tính bên trong, có tính quy luật ngày
càng đi sâu vào bản chất của cả một lớp đối tượng, hiện tượng... và cuối
cùng từ đó trở về thực tiễn, thông qua các quá trình tâm lí như cảm
giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ. Ở những giai đoạn
phát triển nhất định thì học tập là hoạt động nhận thức chủ yếu.
1.2.1.2. Các giai đoạn của quá trình nhận thức:
Sống và hoạt động trong thế giới khách quan, con người phải nhận
thức và thể hiện thái độ của mình với những sự vật hiện tượng xung
quanh mình. Trong quá trình hoạt động của con người phải nhận thức
cái bên ngoài và cái bên trong, cái cụ thể, khái quát, quy luật, … của sự
vật hiện tượng. Như vậy, nhận thức là một hoạt động tâm lý hết sức
phức tạp, đa dạng và được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Người
ta chia nhiều hoạt động nhận thức thành hai giai đoạn: Nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính bao gồm hai quá trình
(cảm giác và tri giác), nhận thức lý tính bao gồm (tư duy và tưởng
tượng). Hai quá trình này phân tích, đánh giá, so sánh, … những gì đã
nhận được trong quá trình cảm giác, tri giác và đang được lưu giữ trong
trí nhớ nhằm mục đích tìm ra những thuộc tính bên trong của sự vật
hiện tượng thông qua những tính chất bên ngoài.
- Nhận thức cảm tính: là giai đoạn thấp nhất của hoạt động nhận
thức, nó tương đối đơn giản, mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý
thức. Ơ mức độ nhận thức cảm tính chúng ta chỉ biết được những thuộc
tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng ta trực tiếp tác động vào
các cơ quan cảm giác của chúng ta. Mỗi quá trình nhận thức giúp con
người nhận thức được một mặt, một khía cạnh của thế giới khách quan.
+ Cảm giác giúp con người nhận biết được từng thuộc tính riêng
lẻ và bề ngoài của sự vật. Tri giác đem lại cho con người những tư
liệu, kiến thức đầu tiên về sự vật hiện tượng khách quan, những tính
chất bề ngoài khác nhau của chúng và tạo ra một hình ảnh về sự vật
hiện tượng đó.
Là mức độ nhận thức đầu tiên của con người, cảm giác có vai trò
quan trọng trong hoạt động nhận thức nói riêng và trong toàn bộ đời
sống con người nói chung. Cảm giác là mối quan hệ trực tiếp giữa
cơ thể với môi trường xung quanh. Do có mối quan hệ đó mà con
người có khả năng thích nghi và định hướng với môi trường. Cảm
giác giúp chúng ta thu nhận tư liệu trực quan sinh động, cung cấp tài
liệu cho các hoạt động tâm lý cao hơn.
- Nhận thức lý tính: là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý
thức, đem lại cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát và thực
tại khách quan. Là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bên
trong, bản chất của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Tư duy là một quá trình nhận thức xuất phát từ hoàn cảnh có vấn
đề và diễn ra theo nhiều giai đoạn khác nhau, nhằm làm biến đổi những
dữ liệu để tìm ra những thuộc tính bên trong của sự vật hiện tượng. Tư
duy là quá trình nhận thức ở mức độ cao, nhờ nó con người mới phản
ánh được những cái mà nhận thức cảm giác không thể phản ánh được.
Quá trình tư duy được chia thành 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Nhận thức vấn đề: Thấy vấn đề trong một tình
huống (trong đầu lập tức xuất hiện những câu hỏi).
+ Giai đoạn 2: Xuất hiện các hiện tượng: Từ bé đến giờ trải qua
những hiện tượng gì (ví dụ có thấy người giật dây chuyền) thấy có
người đi theo mình liên tưởng đến chuyện giật dây chuyền hoặc theo
mình vì mình đẹp,…
+ Giai đoạn 3: Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết: Tư
duy xong phải loại bỏ chọn một cái để làm giả thuyết. Sàng lọc liên
tưởng rồi đề xuất một giả thuyết, giả thuyết có thể đúng có thể sai,
phải vận dụng những kinh nghiệm và lý luận, những gì đã biết để
hình thành giả thuyết.
+ Giai đoạn 4: Kiểm tra giả thuyết: Làm những việc để kiểm tra
xem giả thuyết đó là đúng hay sai.
Nhận thức vấn đề
Sàng lọc liên tưởng và
hình thành giả thuyết
Xuất hiện các hiện
tượng
Kiểm tra giả thuyết
Khẳng định
Chính xác hóa
Phủ định
Hành động
tư duy mới Giả thuyết vấn đề
1.2.1.3. Các cấp độ nhận thức:
Theo quan điểm của Bloom, nhận thức được phân loại thành 6 cấp
độ từ thấp đến cao: Biết (knowledge), Thông hiều (Hiểu -
comprehension), Áp dụng (vận dụng -application), phân tích (analysis),
tổng hợp (synthesis) và đánh giá (evaluation). Tuy nhiên do điều kiện
và có những hạn chế nhất định, người nghiên cứu chỉ tập trung vào 3
mức độ đầu tiên : Biết, Hiểu và Vận dụng
- Biết (Knowledge): là khả năng ghi nhớ và nhận lại các thông tin
đã được thu nhận. Biết là mức độ nhận thức ở mức độ chỉ cần con
người vận dụng trí nhớ mà chưa cần phải giải thích điều gì.
- Hiểu (Comprehension): bao gồm cả biết nhưng ở mức độ cao
hơn là khả năng hiểu, diễn dịch, diễn giải, giải thích hoặc suy diễn (dự
đoán được kết quả và ảnh hưởng). Mức độ hiểu đòi hỏi chủ thể phải
biết được ý nghĩa của tri thức, biết liên hệ với những điều đã có trong
kinh nghiệm của họ. Hiểu là mức độ chủ thể nhận được thông tin nào
đó thì có thể biến đổi thông tin đó sang một hình thức khác tương
đương có ý nghĩa nhiều hơn với chính mình, có thể mở rộng sự hiểu
biết vượt ra ngoài những gì được cung cấp trong thông tin đó. Có ba
cách thể hiện mức độ hiểu:
Chuyển dịch, là cách thức truyền đạt lại thông tin thu nhận được
bằng một hình thức khác, thuật ngữ khác
Giải thích, là cách thức sắp xếp lại thông tin theo một dạng mới,
suy nghĩ về mối liên hệ giữa các vấn đề trong thông tin. Sự giải
thích thường được thể hiện qua cách suy diễn khái quát hóa hay tóm
tắt lại
Ngoại suy: là cách đánh giá, dự đoán dựa trên sự hiểu biết về
những gì có liên qua đến thông tin bao gồm cả việc suy diễn ẩn dụ,
các hệ quả…
- Vận dụng (Application): là mức độ phải dựa trên sự thông hiểu
nhưng ở mức cao hơn. Đó là khả năng chủ thể căn cứ vào hoàn cảnh,
điều kiện cụ thể để lựa chọn, sử dụng các tri thức đã biết để giải quyết
một vấn đề nào đó. Vận dụng là khả năng sử dụng thông tin và kiến
thức từ một sự việc này sang sự việc khác (sử dụng những hiểu biết
trong hoàn cảnh mới)
1.2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức:
- Bẩm sinh di truyền: những đặc điểm cấu tạo cơ thể như hệ thần
kinh, giác quan, cấu tạo của võ não,… ảnh hưởng đến khả năng nhận
thức của con người biểu hiện cụ thể ở khả năng nhận thức nhanh hay
chậm.
- Môi trường sống: mỗi một con người đều sống trong một môi
trường tự nhiên và môi trường tâm lý nhất định. Điều đó ảnh hưởng
đến việc hình thành hệ thống định hướng giá trị ở mỗi cá nhân. Chính
định hướng giá trị đó khiến các cá nhân sống trong những môi trường
khác nhau có hiểu, nhìn nhận, đánh giá khác nhau.
- Giới tính: ngay từ khi đứa trẻ chưa ý thức được giới tính của
mình, thông qua cách cư xử, cách dạy dỗ của người lớn, vấn đề “bản
sắc giới” đã tác động nhiều đến nhận thức của trẻ nói riêng và cuộc
sống trẻ nói chung. Trong quá trình phát triển và hoàn thiện về mặt
nhân cách, vấn đề “bản sắc giới” đã tạo nên những khác biệt về suy
nghĩ, đánh giá của nam và nữ trong nhiều vấn đề.
- Lứa tuổi: tương ứng với mỗi giai đoạn lứa tuổi khác nhau nhận
thức của con người cũng có nhiều điểm khác nhau. Chính sự khác biệt
đó tạo nên “khoảng cách giữa khác thế hệ”. Những kinh nghiệm sống
trước đó của người lớn tuổi ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ về một vấn
đề trong cuộc sống. Trong khi đó, những người trẻ tuổi hơn lại nhìn
nhận vấn đề đó theo một chiều hướng khác thậm chí trái ngược.
1.2.2. Thái độ
1.2.2.1. Định nghĩa
Hiện nay có rất nhiều quan điểm về thái độ, người nghiên cứu chỉ
xin đưa ra một số quan điểm tiêu biểu về thái độ.
- Trong từ điển tiếng việt - 1999, thái độ là tổng thể nói chung
những biểu hiện ra bên ngoài (bằng nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động)
của ý nghĩ, tình cảm với ai hoặc đối với sự việc nào đó. Thái độ hống
hách. Có thái độ niềm nở. Tỏ thái độ không bằng lòng. Giữ thái độ im
lặng.
- Thái độ là cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một
hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình. Xây dựng thái độ lao
động mới. Thái độ học tập đúng đắn. Thái độ hoài nghi, thiếu tin tưởng,
xác định thái độ.
- Từ điển Tiếng Việt - 2000: Thái độ là cử chỉ, cách thức tỏ ra đối
với việc gì.
- Theo tâm lý học xã hội: Thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá
nhân để phản ứng với một tình huống hay một phức thể tình huống, thái
độ vốn có xu hướng rõ rệt hình thành quy luật nhất quán phương thức
xử thế của mỗi cá nhân.
- Lê - Nin định nghĩa thái độ là một bộ phận của lĩnh vực tình cảm
phản ánh quan hệ của cá nhân đối với hiện thực. Nó được quyết định
bởi thế giới quan của cá nhân cho nên cũng phản ánh tồn tại xã hội,
chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý xã hội, của dư luận và
tập đoàn xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được biểu lộ
một cách rõ ràng hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hoá
thành hành động.
- Theo từ điển tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện – 1991
+ Trước một số đối tượng nhất định, như hàng hoá nào đó, hoặc một
ý tưởng nào đó (chính trị, tôn giáo, triết lý, …), nhiều người có
những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình
hay chống đối, như đã sẵn sàng có những cơ cấu tâm lý tạo ra định
hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri giác về các
đối tượng, cũng như tri thức bị chi phối, về vận động thì thái độ
gắn liền với tưởng tượng thế.
+ Thái độ liên quan với động cơ và các dục vọng bản năng, nhưng
khác với dục vọng, là khi đã tỏ thái độ rồi, vị tất nó đã dịu đi, như
khi thoả mãn dục vọng (ghét ai, có xỉ vả rồi nhiều khi vẫn giữ thái
độ như trước). Thái độ thay đổi trong quá trình hoạt động.
1.2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành thái độ
- Sự hình thành thái độ:
Con người khi sinh ra không có sẵn những thái độ minh bạch đối
với bất kỳ cá nhân hay sự vật hiện tượng nào. Nhưng nếu chúng ta đã
từng nhìn thấy một nụ cười của em bé dành cho cha mẹ chúng thì
chúng ta sẽ thấy rằng ít ra một số thái độ hình thành khá nhanh chóng.
Thái độ được hình thành bởi các thông tin:
Tất cả các thông tin trên báo, tạp chí, truyền hình, radio, trong
đời sống hàng ngày, … có những hình ảnh đáng kể đến việc hình
thành thái độ của con người, bất cứ thông tin nào tác động vào
chúng ta thì chúng ta cũng có những thái độ đối với những thông
tin đó. Hệ thống thông tin được các chủ thể tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau, thông tin làm chủ thể nhận rõ thêm bản chất của
vấn đề và sau đó chủ thể sẽ dễ dàng bày tỏ thái độ một cách rõ
ràng.
- Thái độ được hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu:
Con người thường hình thành thái độ tích cực với những gì có
lợi, và hình thành thái độ tiêu cực với khách thể có hại trong tiến
trình thoả mãn nhu cầu của mình. Quá trình thỏa mãn nhu cầu là
quá trình chủ thể nổ lực bản thân, tìm kiếm các phương pháp phù
hợp để thỏa mãn các nhu cầu, sau đó cảm xúc sẽ xuất hiện và chủ
thể bày tỏ thái độ một cách cụ thể.
Thái độ được hình thành qua giao tiếp nhóm:
Mỗi cá nhân là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, thái độ
của một người thường phản ánh giá trị, chuẩn mực, niềm tin của
nhóm mà họ là thành viên. Thái độ của các nhóm khác nhau là
do mục đích, tiêu chuẩn của các nhóm khác nhau. Chẳng hạn,
nhóm hoạt náo viên khác nhóm thổi kèn đám ma.
Giá trị mà cả nhóm theo đuổi sẽ có ảnh hưởng đến việc hình
thành thái độ của các thành viên trong nhóm đó. Chuẩn mực đó
không chỉ xác định hành vi nào là đúng hành vi nào là sai, hành
vi nào là tốt và hành vi nào là xấu mà còn xác định xem thái độ
nào là đúng và thái độ nào là sai. Thông qua việc thưởng – phạt
và áp lực nhóm, ép cá nhân phải tuân theo. Các nhóm thường
đưa ra quy chế thưởng – phạt, để làm động cơ cho các thành
viên, ai có thái độ và hành vi tốt, đúng thì sẽ được thưởng hoặc
vật chất hoặc tinh thần, còn ai có hành vi thái độ không đúng thì
sẽ bị phạt. Thưởng - phạt tuỳ theo mức độ đề ra của các nhóm.
Trong tâm lý học xã hội đề cao vai trò của nhóm, nhất là các
nhóm như: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, … có vai trò quan
trọng trong việc hình thành ý thức cá nhân. Tuy nhiên cá nhân
tiếp nhận các thái độ trong nhóm một cách có lựa chọn, không
tiếp nhận một cách bị động và tiếp nhận dựa vào nhu cầu của
mình. Mức độ và cách thức tiếp nhận của mỗi thành viên trong
nhóm là khác nhau.
Thái độ được hình thành qua kinh nghiệm sống:
Kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ hình thành nên thái độ.
Người có nhiều kinh nghiệm sẽ có thái độ khác với người ít kinh
nghiệm, mặc dù họ gặp cùng một vấn đề giống nhau.
Nhân cách cá nhân và sự hình thành thái độ:
Cá nhân có xu hướng tiếp nhận các thái độ phù hợp với nhân
cách của mình, nhưng nhân cách của con người thì chưa hẳn là
một hệ thống hoàn toàn thống nhất. Chính vì thế chúng ta có thể
tiếp nhận các thái độ mâu thuẫn nhau, bởi sự giáo dục khác nhau.
1.2.3. Mối tương quan giữa nhận thức và thái độ:
Nhận thức và thái độ đều phản ánh hiện thực khách quan cơ bản nhất
của xã hội và mang tính chủ thể sâu sắc. Mặc dù là thế nhưng hai quá trình
này vẫn có những nét riêng của nó như là: nhận thức thì phản ánh những
thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân thế giới. Còn thái độ thì thể
hiện mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ của con
người.
Nhận thức và thái độ có mối quan hệ rất gắn bó với nhau, hai quá
trình tâm lý cơ bản này tạo nên cấu trúc của hiện tượng ý thức.
- Thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm mà nhận thức và
tình cảm lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhận thức là cơ sở của tình
cảm, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tòi
chân lý. Tình cảm là thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với sự
vật hiện tượng có liên quan đến nhu cầu của họ. Vì vậy nhận thức có mối
liên hệ với thái độ.
- Nhận thức chi phối thái độ, nhận thức là cơ sở là nền tảng để nảy
sinh thái độ. Con người phải có thông tin về đối tượng để có thái độ đúng
mức nhất với đối tượng đó. Trước một sự vật hiện tượng nào đó chúng ta
luôn luôn phải suy nghĩ để biết, hiểu nó là cái gì, nó như thế nào và nó có
ý nghĩa gì trong cuộc sống nơi mà nó đang tồn tại. Biết đối tượng là gì, nó
có quan trọng, có ý nghĩa gì đối với mình hay không để từ đó có thái độ
tích cực hay tiêu cực với đối tượng để tránh xảy ra những thái độ không
như mong muốn.
- Thái độ chịu sự chi phối của nhận thức, nhưng thái độ cũng tác động
ngược lại nhận thức. Khi chúng ta có thái độ tích cực với một vấn đề cụ
thể thì nhu cầu và hứng thú nhận thức của chủ thể sẽ được nâng lên.
Nhưng có nhiều khi con người lại không như vậy, nhiều lúc nhận thức
đúng nhưng không có thái độ tích cực và ngược lại, có thái độ đúng nhưng
lại bị hạn chế về mặt nhận thức
1.2.4. Người lao động:
1.2.4.1. Định nghĩa:
Theo Bộ luật lao động, người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có
khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
1.2.4.2. Phân loại người lao động:
Người lao động được hiểu bao gồm:
Người lao động trực tiếp (người công nhân trực tiếp sản xuất)
Người lao động gián tiếp (người sử dụng lao động: nhà lãnh đạo,
quản lý, những người làm việc tại các phòng, ban của một đơn vị,
không trực tiếp sản xuất)
Người lao động trong doanh nghiệp là những người làm việc trong
các doanh nghiệp bao gồm những người quản lý, người làm công tác
văn phòng và công nhân trực tiếp sản xuất tại các phân xưởng
1.2.5. Tư vấn tâm lý:
1.2.5.1.Định nghĩa:
Bàn về tư vấn tâm lý, có rất nhiều khái niệm được các nhà chuyên
môn đưa ra, cụ thể:
- Theo tác giả Mai Thanh Thế – Cán bộ nghiên cứu – Viện Tâm lý
học thì Tư vấn tâm lý là một quá trình hỗ trợ và tác động của nhân
viên tư vấn tới nhận thức của đối tượng cần được tư vấn để họ có
thể vượt qua được những rào cản về tâm lý, lý trí và tình cảm, thói
quen và định kiến có được những quyết định phù hợp với yêu cầu
chuyển đổi nhận thức thái độ và hành vi, làm cho họ vững tin rằng
nhu cầu và mong muốn của họ sẽ được thỏa mãn khi họ chấp nhận
chuẩn mực mới về giá trị.
- Theo tài liệu “Một số vấn đề cơ bản của tâm lý học tư vấn” của
PGS.TS.Trần Thị Minh Đức thì Tư vấn tâm lý là một quá trình
tương tác thông qua trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình giữa nhà tư
vấn và thân chủ nhằm làm cho thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế
của mình như nó đang tồn tại một cách khách quan, tự phát hiện ra
tiềm năng của bản thân để tự giải quyết vấn đề của chính mình.
- Theo PGS. TS Trần Tuấn Lộ “Tư vấn tâm lý là tư vấn giúp thân chủ
hiểu biết tâm lý của chính bản thân thân chủ hoặc tâm lý của một
người khác, hoặc tâm lý của xã hội, và giúp thân chủ xác định được
thái độ và hành động đúng đắn và cần thiết đối với ai đó, đối với
một nhóm người nào đó, đối với xã hội hoặc đối với bản thân mình,
thậm chí giúp thân chủ biết cách rèn luyện, sửa chữa, hoàn thiện
nhân cách của mình, kể cả việc điều trị tâm bệnh của mình”[trang
86, Kỷ yếu hội nghị khoa học đào tạo cử nhân tham vấn tâm lý,
tháng 12 năm 2006]
Theo chúng tôi thì: Tư vấn tâm lý là một cuộc nói chuyện mang tính
cá nhân giữa một chuyên gia về một lĩnh vực nhất định với một
hoặc nhiều người đang cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn, thách
thức trong cuộc sống. Nhà tư vấn hỗ trợ thân chủ ra quyết định bằng
cách giúp họ xác định và làm sáng tỏ vấn đề, xem xét tất cả các khả
năng và đưa ra lựa chọn tối ưu. Trong quá trình tư vấn, thân chủ làm
chủ cuộc nói chuyện của họ, nhà tư vấn lắng nghe, phản hồi, tổng
kết và đặt câu hỏi.
Trong xã hội hiện đại với sự phát triển của kinh tế thị trường cao, xã
hội dân chủ pháp quyền, công nghiệp hóa, hội nhập quốc tế, và với tốc độ
phát triển nhanh đến chóng mặt của cuộc khoa học công nghệ, sự tác động
nhiều mặt đan xen đa dạng, phức tạp của bối cảnh toàn cầu hóa, là xã hội
khác xa với xã hội cổ truyền, xã hội với nền kinh tế tiểu nông, tự cung tự
cấp, khép kín, yên tĩnh, chậm chạp. Hơn nữa khi các nước phát triển trên
thế giới đã chuyển sang nền kinh tế tri thức, các nước đang phát triển cũng
từng bước hương tới nó, thì lại xuất hiện xã hội hậu hiện đại với nhiều nét
mới vừa tạo thuận lợi vừa thách thức cách thức phát triển, nhịp độ phát
triển kinh tế xã hội và con người.
Dù rằng xã hội theo hướng hiện đại hay vừa mới vào hậu hiện đại đã
mang lại nhiều tiện ích cho con người; hàng hóa phong phú hơn đã đáp
ứng nhu cầu đa dạng của dân cư; những phương tiện khoa học công nghệ
tạo điều kiện cho không gian giao tiếp gần lại. Đó là xã hội mà đời sống
vật chất ngày càng được thỏa mãn ở mức cao, song về mặt tinh thần, tâm
linh, văn hóa của con người và cộng đồng xã hội lại có vấn đề. Ở đây, đời
sống tinh thần, tâm linh không chỉ không phát triển tương xứng với sự phát
triển của kinh tế, khoa học công nghệ mà còn rơi vào tình trạng hụt hẫng,
rối loạn, khủng hoảng từ cá nhân đến cộng đồng, từ dân tộc đến toàn cầu,
từ cục bộ đến tổng thể. Chúng ta không phủ nhận sự tiến bộ, tăng trưởng
về đời sống tinh thần, ở các nước khác nhau phát triển với mức độ này hay
mức độ khác tương đối khác nhau. Tuy nhiên sự hụt hẫng, khủng hoảng về
đời sống tinh thần và tâm linh trong đời sống hiện đại là một thực tế mà
nhiều người nhà tâm lý, nhà nghiên cứu xã hội học đã nêu lên và khẳng
định.
Nguyên nhân của sự khủng hoảng đó của xã hội công nghiệp - hiện đại
không những do tăng trưởng kinh tế nhanh, hoặc sự phát triển khoa học
công nghệ không gắn liền với việc đầu tư phát triển của an sinh xã hội
cũng như đời sống tinh thần, hoặc do rủi ro trong cuộc sống, tác động của
thiên tai mà còn do bản chất của chế độ xã hội đối kháng giai cấp, do chiến
tranh và khủng bố. Nói một cách khác, xã hội hiện đại đã đặt ra những vấn
đề về tâm lý, tư tưởng, tâm linh hết sức phức tạp như những mâu thuẫn
gay gắt cần được nghiên cứu, xem xét giải quyết với nhiều cấp độ và giải
pháp khác nhau. Những giải pháp tháo gỡ, tạo nên sự đồng thuận, hài hòa
của đời sống tinh thần, nội tâm của con người với sự phát triển kinh tế kỹ
thuật và phù hợp với nhu cầu nhân văn và bản tính hướng thiện của con
người, không chỉ là giải pháp về phương diện cải tạo hiện thực, cải tạo
nhận thức, tư tưởng mà cần ở những giải pháp xây dựng tâm lý xã hội,
những giải pháp an thần. Nhu cầu cùng nhau chia sẻ, đoàn kết, đồng thuận,
an ninh và hài hòa toàn diện giữa con người với con người và con người
với tự nhiên, con người với chính mình ngày càng bức thiết và có chiều
sâu cơ bản, bản chất của xã hội đang tiến dần lên hiện đại và nhất là hậu
hiện đại và cũng là hậu tư bản chủ nghĩa. Các nhu cầu đó lại nằm trong
một hệ thống mâu thuẫn xã hội đang đòi hỏi được giải quyết với các hình
thức và cấp độ khác nhau. Đối với đời sống tâm lý - tinh thần xã hội và cá
nhân thì yêu cầu giải quyết lại có tính đặc thù của nó. Một trong những
giải pháp rất được chú ý từ nhiều thế kỷ nay đó là những giải pháp về tư
vấn tâm lý trong cuộc sống hàng ngày.
Sự xuất hiện phương pháp tư vấn tâm lý với những chuyên gia, và các
tổ chức tư vấn tâm lý chính là nhằm đáp ứng những nhu cầu về an ninh
tâm thần con người, giải tỏa tâm lý giúp cho mỗi người và cộng động biết
phát huy nội lực tâm linh của mình trong ứng xử với người khác cũng như
đối với bản thân mình. Giải thoát những mâu thuẫn tâm lý mà thường
người trong cuộc không còn đủ sức tỉnh táo, rất cần sự hỗ trợ của tác nhân
bên ngoài - đó là các cá nhân và tổ chức chuyên tư vấn tâm lý với những
phương pháp, thủ thuật, quá trình tác động hợp quy luật và tinh tế, từ đó
tạo sự đồng cảm, khơi dậy những mặt tích cực ở những người gặp khó
khăn trong tâm lý, giúp họ từng bước tự giải quyết được vấn đề.
Đất nước ta, mà đặc biệt là những thành phố lớn, tuy mới bước vào
kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ,
xây dựng xã hội pháp quyền thông qua con đường đổi mới đã mang lại
những thành tựu rất đáng tự hào về mặt kinh tế - văn hóa - xã hội nhưng
cũng đã và đang đối mặt với vấn đề hụt hẫng rối loạn của những bệnh tâm
lý, khủng hoảng tâm lý ở mức độ nặng nhẹ, ở từng cộng đồng hay từng cá
thể. Chính vì vậy, đối với chúng ta, việc xây dựng những chuyên gia, tổ
chức tư vấn tâm lý đông đảo, có lương tâm, nghiệp vụ là cần thiết, bức
thiết. Việc này ở các nước tiên tiến đã có nhiều kinh nghiệm và lực lượng
hùng hậu, còn ở nước ta thì mới bắt đầu chú ý và trong thời gian vừa qua
hình thành một cách vừa tự phát, vừa tự giác, kể cả ở những đơn vị nhà
nước và tư nhân đang hoạt động đã có hiệu quả nhất định nhưng vẫn chưa
đáp ứng và chưa ngang tầm với những đòi hỏi của hoạt động tư vấn tâm lý
hiện nay trong thời ký đất nước đang phát triển nhanh hơn, đa dạng hơn,
đồng thời cũng nhiều vấn đề về tâm lý, tinh thần đặt ra hơn.
Để có định hướng xây dựng nguồn nhân lực thực hiện chức năng tư vấn
tâm lý - giáo dục, trước hết, phải hiểu tổng quát và sâu sắc những vấn đề
tâm lý và nhu cầu tư vấn tâm lý ở những đô thị lớn.
Có thể kể ra rất nhiều nhu cầu cần tư vấn tâm lý, chẳng hạn như:
- Nhu cầu trong chữa bệnh tâm thần, hoặc nhẹ hơn là stress
- Nhu cầu tư vấn tâm lý đối với đối tượng nghiện và đang cai nghiện
ma túy, cả đối với bản thân họ và gia đình.
- Nhu cầu tư vấn tâm lý trong lĩnh vực xét xử của tòa án liên quan đến
tội phạm, gia đình tội phạm, các luật sư, các thẩm phán và cán bộ tòa
án.
- Tư vấn tâm lý trong lĩnh vực dân vận, vận động tầng lớp dân cư thực
hiện nhiệm vụ của đất nước, tư vấn trong những vụ việc mang tính
“điểm nóng”, hoặc trong các cuộc tranh chấp dân sự
- Tư vấn trong lĩnh vực tâm lý lãnh đạo, nhất là khi giải quyết các vấn
đề nội bộ, mất đoàn kết, xung đột, cũng như tư vấn trong việc đưa ra
quyết định quản lý, kiểm tra thực hiện các quyết định ấy.
- Tư vấn trong hoạt động kinh doanh đối với các đối tác trong và ngoài
nước, khi mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường
Việt Nam, với những đặc điểm văn hóa, và tâm lý khác nhau.
- Tư vấn tâm lý trong lĩnh vực giới tính, xây dựng nhân cách giới trẻ,
nuôi dạy con cái, hay lĩnh vực tình yêu - hôn nhân và gia đình.
- Tư vấn nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên, cho người tìm việc trong
phỏng vấn; tư vấn cho cán bộ tổ chức, quản trị nhân sự.
- Tư vấn tâm lý trong lĩnh vực tín ngưỡng, bao gồm tín ngưỡng dân
gian và tín ngưỡng tôn giáo.
- Tư vấn tâm lý học đường
- Tư vấn tâm lý - giáo dục xã hội
Trong nhiều lĩnh vực và loại hình tư vấn ấy thì những hình thức,
những lĩnh vực và nhu cầu tâm lý - giáo dục cần được tư vấn trên đây
hết sức cụ thể và đang đặt ra nhu cầu mà giới tư vấn tâm lý không
những hiểu biết những vấn đề tâm lý chung mà còn phải là tâm lý cụ
thể và tâm lý chuyên môn nghề nghiệp.
Có một số lĩnh vực quen thuộc, như tư vấn và chữa bệnh tâm thần
thông qua liệu pháp tâm lý, hoặc tư vấn đối với người nghiện, cai
nghiện ma túy, tư vấn đối với vấn đề tình yêu - hôn nhân - gia đình.
Còn nhiều lĩnh vực cũng như nhu cầu tâm lý chúng ta chưa chú ý
nghiên cứu và có lực lượng để thực thi nhiệm vụ tư vấn tâm lý cần
thiết.
Có thể có người cho rằng, trong lĩnh vực dân vận, công tác chính trị,
công tác lãnh đạo quản lý không cần tư vấn tâm lý. Thực ra thông
thường ta thấy việc này hình như giới lãnh đạo là tài ba có kinh
nghiệm có thể giải quyết tốt không cần tư vấn. Không, ở họ cần tư
vấn tâm lý không chỉ khi họ bị stress do áp lực công việc, hay do sự
cố mà cả trong nhiều trường hợp họ ra quyết định một cách khó khăn,
họ có những khó xử thì vẫn cần tư vấn tâm lý. Và ở đây tất nhiên cần
các chuyên gia tầm cở, có nhiều kinh nghiệm và tài năng gắn với loại
hoạt động này.
Rõ ràng trong họat động không chỉ cần tư vấn khoa học công nghệ, tư
vấn pháp lý, tư vấn quản lý và nhiều tư vấn mang tính nghề nghiệp khác,
mà rất cần cả tư vấn tâm lý ngay trong các loại hoạt động đó. Quân sư
ngày xưa, nhiều loại quan bên cạnh ông vua trong triều đình, họ kiêm
nhiều loại tư vấn, trong đó có cả tư vấn lãnh đạo, quản lý, tuy lúc này
không gọi như thuật ngữ nghề nghiệp này nay.
Hoạt động giao tiếp của con người đối với người khác hay với chính
bản thân, không những bị tác nhân môi trường những tác nhân về thể chế
mà trực tiếp là những tác nhân về mặt tư tưởng tâm lý những tác nhân về
đời sống tinh thần nội tâm kể cả hữu thức và vô thức, kể cả ý chí và tình
cảm, ý chí và thái độ trong một tổng thể đầy mâu thuẫn và khá phức tạp.
Do đó, không phải khi nào con người cũng có thể hành động một cách tự
giác, sáng suốt, đúng đắn, hợp thời và có hiệu quả. Nhân tố nội tâm có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến thành công và thất bại trong cuộc sống cũng
như nghề nghiệp của mỗi người. Hơn nữa, đời sống nội tâm, tinh thần
tâm lý tâm linh không phải khi nào cũng chảy xuôi, trong lành và đồng
thuận mà có những lúc nổi sóng, bão tố, hoặc ngưng đọng, đã tạo nên sự
bất lực, hay những cú sốc tâm lý, khó xử. Chính những lúc đó là khi cá
thể gặp những vấn đề về tâm lý, bài toán tâm lý cần tư vấn. Có thể bản
thân tự mình điều chỉnh thông qua chế độ nghỉ ngơi, thông qua tâm sự
với bạn bè, với kiểu tư vấn dân gian, không chuyên nghiệp. Nhưng cũng
có thể đó là lúc cần bác sĩ tâm lý với những chuyên khoa tâm lý bệnh học
cao và lành nghề điều trị; hay cần những kỹ sư tâm hồn, những chuyên
gia với tư cách vừa là bạn bè vừa là chuyên gia biết chia sẽ những khổ
đau, vui sướng hay bất lực, bối rối của đối tượng được tư vấn tâm lý.
Đồng thời, họ là người ngoài cuộc, nên họ bình tĩnh, biết cách gỡ rối,
biết phân tích đúng sai, khơi dậy những khía cạnh tâm lý sâu kín lành
mạnh, những niềm tin còn ẩn dấu, biết khơi dòng trong, giảm thiểu
những dòng đục, những mặt không tích cực, bất lợi trong đời sống tâm lý
của đối tượng. Với xã hội kết hợp các quy định điều chỉnh hành vi bằng
luật pháp là chính ở mặt tổng thể xã hội thì chiều sâu vẫn là điều chỉnh
bằng hành vi đạo lý, một xã hội pháp quyền dân chủ, nhân văn và lại
được biến đổi đa chiều, đa cấp với tốc độ rất nhanh như thế thì việc hiểu
và thực hiện các giải pháp tâm lý nói chung và tâm lý - giáo dục nói
riêng là có ý nghĩa ngày càng to lớn.
Ở đây, chúng tôi không đi sâu vào kỹ thuật nghề nghiệp tư vấn tâm lý
mà muốn đặt ra vấn đề là cần phải nghiên cứu, phải khái quát, những
nhu cầu tâm lý cần tư vấn những nhu cầu tư vấn tâm lý đa dạng trong xã
hội chúng ta đang phát triển như thế nào; nó đang phát triển như thế nào
trong nền kinh tế hiện nay và chuẩn bị gì để đối mặt, từ đó dự báo tình
huống, và nêu lên những yêu cầu phải phát triển lực lượng tư vấn, tổ
chức tư vấn tâm lý cần thiết, thích hợp nhằm giải quyết những vấn đề
tâm lý xã hội bất ổn đang nảy sinh như nói ở trên.
1.2.5.2. Các hình thức tư vấn
- Tư vấn trực tiếp: đây là hình thức tư vấn phổ biến và xuất hiện từ
rất sớm. Người muốn được tư vấn (thân chủ, khách hàng) sẽ bày tỏ
trực tiếp vấn đề của mình với chuyên viên tư vấn tại văn phòng của
trung tâm tư vấn hoặc cơ sở tư vấn.
- Tư vấn qua thư từ trên đài, báo chí: đây là hình thức tư vấn xuất
hiện sớm nhất trong các hình thức tư vấn có ở nước ta. Người muốn
được tư vấn bày tỏ vấn đề của mình dưới dạng một bức thư (thường
được trình bày cô đọng, nặng về mô tả sự kiện “nan giải” hơn là
nói về những tâm trạng, cảm xúc của mình) để các nhà tư vấn
khuyên giải. Thông qua hình thức tư vấn này, nhiều bạn đọc, khán
giả nghe đài đặc biệt là những người từng gặp rắc rối trong chuyện
tình cảm có thể tìm được sự cảm thông, chia sẻ, và lấy lại thăng
bằng trong cuộc sống.
- Tư vấn đối thoại trực tiếp qua sóng phát thanh: là một hình thức
tư vấn khá đặc biệt và chỉ mới xuất hiện rồi trở thành phố biến trong
khoảng vài năm gần đây. Với hình thức tư vấn này, người muốn
được tư vấn sẽ trình bày vấn đề mình đang gặp phải và đối thoại
trực tiếp với chuyên gia tư vấn thông qua qua đường dây điện thoại
của đài. Để đạt hiệu quả trong hình thức tư vấn này, đòi hỏi tất cả
các giác quan của chuyên gia tư vấn phải hoạt động với cường độ rất
cao.
- Tư vấn qua đài truyền hình: đây là loại hình tư vấn đặc biệt nhất
trong tất cả các loại hình tư vấn đã được đề cập. Người được tư vấn
sẽ trình bày vấn đề của mình dưới dạng một bức thư gửi về đài
truyền hình. Chuyên gia tư vấn sẽ phân tích, trao đổi, chia sẻ về vấn
đề này. Điều đặc biệt, sự chia sẻ, trao đổi này được ghi hình và phát
sóng trực tiếp cho tất cả mọi người cùng theo dõi.
- Tư vấn qua mạng Internet : đối với hình thức tư vấn khá mới mẻ
này thì người được tư vấn sẽ gửi thư nhưng không phải thư tay mà
là thư điện tử đến hộp thư điện tử của các báo, các trung tâm, cơ sở
tư vấn,…Trong thư, người được tư vấn sẽ trình bày vấn đề gặp phải
của mình. Chuyên viên tư vấn sẽ phân tích, chia sẻ, trao đổi về vấn
đề đó và phản hồi trên diễn đàn trực tuyến hoặc theo địa chỉ mail
của người được tư vấn (nếu người được tư vấn mong muốn). Bên
cạnh đó, đối với hình thức tư vấn qua mạng Internet, trong một số
trường hợp, người được tư vấn và chuyên viên tư vấn còn có thể
phân tích, chia sẻ, trao đổi trực tuyến về vấn đề cần được tư vấn.
1.2.5.3. Chuyên viên tư vấn:
- Định nghĩa:
Tư vấn trong những năm gần đây đã thực sự trở thành một nhu cầu
đích thực và bản thân người làm công tác tư vấn - chuyên viên tư vấn
cũng chuyên nghiệp dần trong năng lực và phẩm chất. Tuy nhiên, trong
xã hội Việt Nam có sự lẫn lộn giữa hai khái niệm : tham vấn và tư vấn từ
đó dẫn đến sự lẫn lộn giữa chuyên viên tư vấn và chuyên viên tham vấn.
Ngoài ra, đa phần chuyên viên tư vấn ở nước ta đều chưa được đào tạo
một cách chuyên nghiệp. Chính vì thế, trong phạm vi đề tài này, chuyên
viên tư vấn được hiểu như là một chuyên viên, một người đó có thể giúp
những người cần được tư vấn (về một lĩnh vực nào đó) giải quyết vấn đề
gặp phải trên cơ sở tác động vào nhận thức, điều chỉnh nhận thức và phát
huy tiềm năng của bản thân người được tư vấn.
Những yêu cầu đối với chuyên viên tư vấn tâm lý :
- Những yêu cầu về phẩm chất , lối sống:
Trong tư vấn tâm lý, những tác động từ chuyên viên tư vấn tâm lý
có thể giúp khách hàng trưởng thành vượt bậc nhưng cũng có thể
khiến họ khủng hoảng và suy thoái. Giới hạn cho các chiều hướng
khác nhau là rất mong manh. Chính vì vậy, chuyên viên tư vấn cần
phải tuân thủ một số nguyên tắc về mặt đạo đức. Cụ thể:
+ Lối sống: Lối sống được xem là cách thức tổ chức và điều khiển
cuộc sống của mỗi cá nhân trên cơ sở tuân thủ những quy tắc,
chuẩn mực của xã hội. Biểu hiện cụ thể của lối sống chính là thói
quen. Bản thân chuyên viên tư vấn tâm lý cần có nhận thức sâu sắc
về pháp luật, về đạo đức nói chung, đạo đức nghề nghiệp nói
riêng. Đặc biệt, chuyên viên tư vấn tâm lý phải có những thói quen
sống tích cực để có thể nâng đỡ tinh thần khách hàng và bảo vệ
quyền lợi của người được tư vấn (thân chủ).
+ Tư tưởng: cách nhìn nhận, quan điểm của chuyên viên tư vấn có
ảnh hưởng đến khả năng nhận diện vấn đề và cách thức nâng đỡ
tinh thần cho thân chủ trong quá trình tư vấn. Chính vì vậy, về mặt
tư tưởng, chuyên viên tư vấn tâm lý cần có tư tưởng rõ ràng, nhất
quán và phù hợp với các chuẩn mực của xã hội.
+ Phẩm chất nghề nghiệp: tư vấn tâm lý là một nghề khá nhạy
cảm, chính vì vậy, dưới góc độ nghề nghiệp, chuyên viên tư vấn
tâm lý cần tuân thủ những qui tắc mang tính nghề nghiệp. Cụ thể:
+ Mục đích tư vấn: nâng đỡ tinh thần qua đó khơi dậy tiềm năng
của người được tư vấn (thân chủ) nhằm giải quyết vấn đề mà thân
chủ đang gặp phải.
+ Đạo đức của nhà tư vấn :
+) Không phân biệt đối xử đối với thân chủ: chuyên viên tư vấn
không được bỏ qua hay khuyến khích các hành vi mang tính
phân biệt chủng tộc, văn hóa, địa vị kinh tế, trình độ học vấn,...
+) Tôn trọng sự khác biệt của thân chủ:
Mỗi một thân chủ tìm đến chuyên viên tư vấn tâm lý đều là
những người có giá trị rất riêng. Chuyên viên tư vấn không
được áp đặt giá trị của mình lên thân chủ. Bản thân chuyên viên
tư vấn tâm lý càng phải tôn trọng và tìm hiểu về những yếu tố
đã ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ, hành vi của thân chủ để
có sự tác động phù hợp trong suốt tiến trình tư vấn.
+) Mối quan hệ giữa chuyên gia tư vấn tâm lý và thân chủ:
Chuyên viên tư vấn tâm lý phải nhận thức rõ vị trí và sự ảnh
hưởng của mình đối với khách hàng để từ đó tránh lợi dụng và
khai thác lòng tin, sự phụ thuộc của thân chủ. Chuyên viên tư
vấn không được có bất cứ mối quan hệ tình cảm hay quan hệ
tình dục nào đối với thân chủ.
Những yêu cầu về năng lực :
+ Tri thức:
Để đảm bảo hiệu quả của quá trình tư vấn, đòi hỏi chuyên viên tư
vấn phải có tri thức về tâm lý và tâm lý học. Những tri thức đó sẽ
giúp chuyên viên tư vấn xác định được các vấn đề của thân chủ dễ
dàng và vạch ra phương hướng để giúp người được tư vấn có được
những quyết định phù hợp. Bên cạnh đó, chuyên viên tư vấn còn cần
phải có những hiểu biết nhất định về kinh tế – xã hội – văn hóa –
pháp luật,...để hỗ trợ cho việc cùng thân chủ hướng tới những quyết
định sáng suốt.
+ Kỹ năng :
Quá trình tư vấn đạt được hiệu quả đòi hỏi bản thân chuyên viên
tư vấn tâm lý phải tự trang bị cho mình nhiều kỹ năng, trong phạm
vi đề tài người nghiên cứu xin giới thiệu một số kỹ năng cơ bản, cần
thiết như:
+) Kỹ năng lắng nghe: Lắng nghe giúp chuyên viên tư vấn nắm
bắt vấn đề và bản thân người được tư vấn có cảm giác vấn đề
của mình được nhà tư vấn quan tâm và chính vì thế người
được tư vấn sẽ cởi mở hơn. Lắng nghe không phải là im lặng
thụ động mà tập trung vào câu chuyện của người được tư vấn
để không chỉ nghe thấy những gì họ nói mà còn cảm nhận
được những gì họ chưa nói hoặc không dám nói. Sự tập trung
cùng với thái độ cảm thông trước vấn đề của thân chủ được
bộc lộ qua ánh mắt, nét mặt, cử chỉ của chuyên viên tư vấn sẽ
càng củng cố thêm mối thiện cảm giữa chuyên viên tư vấn và
người được tư vấn.
+) Kỹ năng đặt câu hỏi : đây là kỹ năng rất cơ bản và quan trọng
của chuyên viên tư vấn nhằm thu thập những thông tin liên
quan đến vấn đề mà người được tư vấn đang gặp phải. Bằng
cách đặt những câu hỏi dễ hiểu, đi đúng trọng tâm và không
mang tính lên án để người được tư vấn trả lời, chuyên viên tư
vấn đã giúp họ thấu hiểu hoàn cảnh, tình huống của mình
(những sự kiện, những mâu thuẫn, cảm nghĩ, cảm xúc của
người trong cuộc). Trong quá trình tư vấn, những câu hỏi mở
thuận lợi hơn để người được tư vấn giải bày vấn đề. Riêng
những câu hỏi đóng thì phù hợp để kiểm tra thông tin và mang
tính dẫn dắt.
+) Kỹ năng phản hồi: là kỹ năng diễn đạt lại suy nghĩ và tâm
trạng của người được tư vấn để họ biết chuyên viên tư vấn đã
nghe đúng, hiểu đúng đồng thời qua đó người được tư vấn cũng
kiểm tra lại suy nghĩ và tình cảm của mình. Kỹ năng này còn là
việc chuyên viên tư vấn bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của mình
trước những tình huống của người được tư vấn. Có hai dạng
phản hồi: phản hồi nội dung và phản hồi cảm xúc. Trong quá
trình tư vấn, người được tư vấn rất mong nhận được những ý
kiến đánh giá của người có chuyên môn. Do đó, việc đưa ra
phản hồi của chuyên viên tư vấn cần phải là những nhận xét
khách quan, chính xác và cố gắng đề cập đến những điểm
mạnh, những cái đúng của người được tư vấn.
+) Kỹ năng tóm tắt vấn đề : thông thường người được tư vấn đến
gặp chuyên viên tư vấn trong trạng thái cảm xúc không ổn
định, chính vì sự không ổn định này mà họ không nhận diện
được vấn đề chính khiến họ bức xúc, căng thẳng. Kỹ năng tóm
tắt vấn đề là một kỹ năng quan trọng vì sau quá trình tư vấn,
người được tư vấn rất mong xác định được vấn đề mình đang
gặp phải và cách thức để giải quyết vấn đề đó.
+) Kỹ năng bình thường hóa vấn đề: đó là sự động viên, an ủi
khi người được tư vấn có những lo lắng thái quá. Bình thường
hóa vấn đề giúp người được tư vấn bình ổn tâm trạng để tiếp
tục nói chuyện. Tuy nhiên, bình thường hóa không có nghĩa là
coi nhẹ vấn đề mà là có cách nhìn khách quan mức độ của sự
việc.
+) Kỹ năng quan sát: qua quá trình quan sát về cử chỉ, điệu bộ,
cảm xúc, các vấn đề của người được tư vấn được xâu chuỗi,
gắn kết tạo thành một bức tranh sống động về toàn bộ vấn đề để
người được tư vấn xác định được khái niệm về bản thân họ để
tự quyết định phù hợp.
+ Kinh nghiệm: Kinh nghiệm cuộc sống và kinh nghiệm tư vấn sẽ
giúp cho chuyên viên tư vấn rất nhiều trong việc xử lý các tình
huống bất ngờ. Tư vấn tâm lý là dạng tư vấn rất cần kinh nghiệm,
nhất là kinh nghiệm sống, kinh nghiệm trong lĩnh vực nhà tư vấn
đang thực hiện trong quá trình hoạt động.
1.2.6. Nhận thức và thái độ của người lao động về tư vấn tâm lý
1.2.6.1. Nhận thức của người lao động về tư vấn tâm lý
Trong quá trình sinh hoạt, làm việc tại các doanh nghiệp, người lao
động thường quan tâm đến vấn đề tăng thu nhập của mình, đến các vấn
đề dân sinh và các hoạt động tinh thần khác. Tư vấn tâm lý là một hoạt
động mới mẻ, người lao động chưa hiểu biết một cách cụ thể về vấn đề
tư vấn, do đó nhận thức của người lao động về tư vấn tâm lý tương đối
đơn giản, họ không quan tâm nhiều đến các kỹ thuật tư vấn tâm lý mà
chỉ quan tâm đến công việc, đến những điều chuyên viên tư vấn sẽ thực
hiện với họ như thế nào, sau đây là một số nội dung người lao động
quan tâm về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp :
- Tư vấn tâm lý là gì ?
- Chuyên viên tư vấn sẽ làm những việc gì ?
- Chuyên viên tư vấn là ai ?
- Khi nào người lao động được tư vấn
- Mục tiêu của tư vấn tâm lý là gì ?
1.2.6.2. Thái độ của người lao động về tư vấn tâm lý
Người lao động bày tỏ thái độ của mình đối với hoạt động tư vấn tâm
lý trong doanh nghiệp thông qua cách thức họ tham gia tư vấn như thế
nào, tuy nhiên có thể khái quát rằng người lao động bày tỏ thái độ cụ
thể qua mấy vấn đề sau đây:
- Sự ủng hộ hay không ủng hộ họat động tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp
- Họ có mong đợi được hưởng các dịch vụ tư vấn trong doanh
nghiệp của mình hay không ?
- Họ nhận định như thế nào về đội ngũ chuyên viên tư vấn
- Mức độ tin cậy của họ vào các dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp…
Chương 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được thực hiện với quan điểm tiếp cận hệ thống - logic và
tiếp cận lịch sử. Quan điểm hệ thống - logic giúp người nghiên cứu tổ chức
khảo sát một cách có hệ thống từ nhận thức đến thái độ của người lao động và
nhìn vấn đề một cách tổng thể từ nhà tham vấn đến các họat động tham vấn
và người lao động. Quan điểm tiếp cận lịch sử giúp người nghiên cứu xem xét
vấn đề không tách rời môi trường văn hóa ổn định của các doanh nghiệp từ
nhiều năm tồn tại và phát triển của họ.
2.1. Nghiên cứu tài liệu
2.1.1. Mục đích của nghiên cứu tài liệu
Mục đích của nghiên cứu tài liệu là để tổng quan lịch sử nghiên cứu
vấn đề, xác lập cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ
thể, định hướng qui trình nghiên cứu và dự kiến tiến độ nghiên cứu cho
phù hợp. Thực chất của việc nghiên cứu tài liệu là để tham khảo các công
trình nghiên cứu có liên quan đến tên đề tài đã được thực hiện trước đó
nhằm tìm kiếm các thông tin hỗ trợ và làm cơ sở lý luận cho đề tài.
2.1.2. Nội dung của phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu lý luận tập trung vào
một số nội dung sau đây :
- Xác định cơ sở khoa học và các khái niệm công cụ trong nghiên cứu
thực trạng và nghiên cứu thử nghiệm, tìm mối liện hệ giữa những vấn đề lý
thuyết và thực tiễn.
- Phân tích, tổng hợp và đánh giá những công trình nghiên cứu đã có
để có thể phát hiện những vấn đề cần được tiếp tục khảo sát và tiến hành
nghiên cứu.
- Xác định những nội dung nghiên cứu thực tiễn, lựa chọn các yếu tố
khảo sát trong nghiên cứu thực tiễn dựa vào kết quả tổng hợp của phần lý
thuyết chung
- Xác định cơ sở lý luận cho việc lựa chọn các phương pháp nghiên
cứu, công cụ nghiên cứu và đề xuất nội dung thử nghiệm.
Có thể tóm tắt rằng phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp
nghiên cứu lý luận, được thực hiện theo các giai đoạn phân tích, tổng hợp,
hệ thống hóa và khái quát hóa những lý thuyết và các công trình đã nghiên
cứu và đăng tãi trên các sách và tạp chí về các vấn đề có liên quan đến đề
tài.
2.2. Phương pháp điều tra bằng Anket
2.2.1. Khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ
2.2.1.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về các mức độ biết và hiểu của người lao động, kể cả các
nhà quản lý về tư vấn và hoạt động tư vấn trong doanh nghiệp ở thành
phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nhận thức về tư vấn tâm lý, tìm hiểu thái
độ của người lao động về dịch vụ này, họ nghĩ gì về dịch vụ tư vấn, họ
biểu lộ sự đồng tình hay không đồng tình về dịch vụ tư vấn tâm lý.
2.2.1.2. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu các mức độ nhận thức và thái độ được biểu lộ qua ý kiến
riêng của từng người và qua ý kiến của những người có liến quan đến
dịch vụ tư vấn trong doanh nghiệp.
2.2.1.3. Khách thể nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu được chọn ở 5 Công ty kinh doanh các mặt hàng
khác nhau gồm 175 người lao động trực tiếp và 20 nhà quản lý doanh
nghiệp. Các nhà quản lý là những người giữ chức vụ từ quản đốc,
trưởng, phó trưởng phòng đến giám đốc, phó giám đốc Công ty.
2.2.1.4. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Dựa trên cơ sở lý luận về tư vấn tâm lý và so sánh với hoạt động tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp để phác thảo bảng câu hỏi điều tra về
nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề này. Sau khi có bảng
câu hỏi, người nghiên cứu tiến hành khảo sát thử trên một số người lao
động tại một xưởng sản xuất của Công ty nước hoa Sài Gòn. Sau khi xử
lý số liệu thô và trao đổi trực tiếp với các công nhân, người nghiên cứu
chỉnh sữa các câu hỏi chưa phù hợp hoặc khó trả lời để hoàn chỉnh
bảng câu hỏi chính thức. Bảng câu hỏi chính thức được hình thành và
sau đó được gởi đến người lao động để họ trả lời.
- Người nghiên cứu đã gởi phiếu câu hỏi đến 240 công nhân và 28
nhà quản lý nhưng chỉ nhận lại được 189 phiếu của công nhân và 20
phiếu của nhà quản lý. Trong 189 phiếu của công nhân chỉ có 175
phiếu sử dụng được với những câu trả lời hoàn chỉnh, 20 phiếu của nhà
quản lý đều đạt yêu cầu về kỹ thuật.
- Người nghiên cứu đã sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 12.0 để
tiến hành phân tích số liệu. Cách xử lý số liệu theo phương pháp thống
kê ứng dụng trong tâm lý học và giáo dục học.
- Người nghiên cứu không so sánh các số liệu của hai nhóm khách
thể : người lao động và nhà quản lý bằng toán thống kê vì số lượng quá
chênh lệch nhau nhưng có những số liệu về tần số và trung bình để
minh họa. Ý kiến của các nhóm khách thể được xếp thứ hạng để xem
xét mức độ quan tâm của người lao động đến vấn đề như thế nào, điều
gì làm họ để tâm đến nhiều hơn, nội dung nào họ ít chú ý, qua đó phát
hiện những vấn đề nổi bật trong nhận thức và thái độ của họ đối với nội
dung tư vấn, phương pháp tư vấn, đặc điểm của nhà tư vấn
- Người nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 3 người lao động và 1 nhà
quản lý là phó giám đốc của một công ty kinh doanh thực phẩm. Các ý
kiến trả lời phỏng vấn được trình bày lồng ghép vào các kết quả nghiên
cứu thực trạng
2.3. Phương pháp thử nghiệm
2.3.1. Mục tiêu thử nghiệm
Trên cơ sở các kết quả của nghiên cứu thực trạng về nhận thức và thái
độ của người lao động đối với hoạt động tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp,
người nghiên cứu tiếp tục sử dụng phương pháp thử nghiệm để khẳng định
việc người lao động có hay không có sự thay đổi về nhận thức và thái độ
đối với hoạt động tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp khi họ được tiếp cận
với hoạt động này một cách trực tiếp. Mục đích của thử nghiệm là để so
sánh sự khác biệt giữa nhận thức, thái độ của người lao động trước và sau
khi được thụ hưởng dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp. Phương
pháp thử nghiệm được tiến hành cho hai đối tượng riêng biệt với 2 cách
khác nhau. Công Ty Hồn Việt đã tổ chức tư vấn tâm lý miễn phí cho 5
Công ty kinh doanh và tiến hành việc thực nghiệm cho 64 người lao động
tham gia thử nghiệm (nhóm thực nghiệm 30 người và nhóm đối chứng 34
người).
Cả nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm đều được khảo sát mức độ
nhận thức và thái độ trước khi thực nghiệm để chắc chắn rằng cả hai nhóm
đều có nhận thức và thái độ không khác nhau. Trong 6 buổi tổ chức tư vấn
tại 5 công ty, nhóm thực nghiệm được tư vấn kỹ hơn, sâu sắc hơn như
yêu cầu của các trường hợp được tư vấn thông thường ở các trung tâm tư
vấn. Sau khi được tư vấn trực tiếp, nhóm thực nghiệm được phát phiếu
(thang đo) để họ trả lời. Các kết quả thu được được so sánh, đối chiếu với
kết quả của nhóm đối chứng trước khi thực nghiệm và sau khi thực nghiệm
Ở nhóm đối tượng thứ hai là nhóm các nhà quản lý, chúng tôi tiến
hành thử nghiệm trên 40 người, gồm 20 người thuộc nhóm thực nghiệm và
20 người thuộc nhóm đối chứng.
2.3.2. Phác thảo câu hỏi thực nghiệm
Trên cơ sở khái niệm về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp, về đặc
điểm và yêu cầu của chuyên viên tư vấn tâm lý,… người nghiên cứu đưa
ra một số tiêu chí xác định nhận thức và thái độ để thiết kế thang đánh giá
như sau:
- Tư vấn tâm lý là gì ?
- Chuyên viên tư vấn sẽ làm những việc gì?
- Khi nào người lao động được tư vấn
- Mục tiêu của tư vấn tâm lý là gì?
- Sự ủng hộ hay không ủng hộ hoạt động tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp
- Họ có mong đợi được hưởng các dịch vụ tư vấn trong doanh nghiệp
của mình hay không?
- Họ nhận định như thế nào về đội ngũ chuyên viên tư vấn ?
Các tiêu chí trên đây được phân tích trên nhiều biểu hiện khác nhau,
người nghiên cứu đã khảo sát những biểu hiện đó để chọn lọc các
biểu hiện có tính chất phổ biến nhất. Để có những câu thực nghiệm tốt
và có tính đại diện, chúng tôi tạo ra 32 câu thực nghiệm trong thang
đánh giá.
2.3.3. Hiệu lực hóa các câu thực nghiệm
Sau khi đã có các câu hỏi thực nghiệm, chúng tôi tiến hành chọn những
câu hỏi có đủ đặc tính đo lường, thể hiện được nội dung và mục tiêu của
thực nghiệm là xác định mức độ nhận thức và thái độ đối với tư vấn tâm
lý. Các bước hiệu lực hóa được tiến hành như sau:
- Đánh giá bản chất, nội dung của từng item, mỗi item chỉ tập trung vào
một nội dung thật cụ thể và chỉ có những item đáp ứng được tiêu chuẩn
xác định mức độ nhận thức và thái độ thật sự mới được giữ lại.
- So sánh các biểu hiện của từng tiêu chí để loại bỏ những biểu hiện
không phù hợp, khó trả lời, giống hoặc trùng nhau về nội dung giữa hai
đối tượng.
- Trau chuốt cách diễn đạt một cách có hệ thống, hợp logic và dễ hiểu
để nghiệm thể có thể trả lời chính xác.
- Xin ý kiến các chuyên gia là các nhà nghiên cứu và hoạt động thực
tiễn. Ý kiến của các chuyên gia giúp người nghiên cứu tổng hợp các biểu
hiện mang tính chất cô đọng hơn.
- Tiến hành đo thử trên một số đối tượng, cụ thể đã thử nghiệm với 26
người lao động theo học khóa học đào tạo chuyên viên tư vấn tâm lý
(PEB) tại Công Ty Hồn Việt để tìm hiểu độ khó và độ tin cậy của 32 items
bằng phép toán thống kê đồng thời phát hiện những items không phù hợp
qua cách trả lời của các đối tượng.
Cuối cùng chúng tôi xác định được thang đánh giá mức độ nhận thức
và thái độ của người lao động về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp gồm 20
câu hỏi thực nghiệm như sau:
Nhận thức về tư vấn tâm lý
1. Tư vấn tâm lý là đưa ra lời khuyên bổ ích
2. Tư vấn tâm lý là sự can thiệp của chuyên viên vào những vấn đề cá
nhân
3. Trong quá trình tư vấn tâm lý, chuyên viên và người được tư vấn
cần phải thân mật để nói chuyện có kết quả
4. Chuyên viên tư vấn là người có uy tín tuyệt đối đối với người được
tư vấn
5. Tư vấn tâm lý là người giải đáp thắc mắc cho mọi người về mọi
vấn đề
6. Chỉ cần có kinh nghiệm là đã có thể làm công tác tư vấn tâm lý tốt
7. Đại diện công đoàn làm công tác tư vấn thì kết quả sẽ cao hơn
nhiều so với người ngoài công ty
8. Chuyên viên tư vấn cần nói nhiều để người được tư vấn lắng nghe
kinh nghiệm trong cuộc sống vì chuyên viên tư vấn hiểu biết mọi thứ
9. Tư vấn tâm lý là tìm hiểu nguyện vọng của công nhân để trình bày
với nhà quản lý
10. Tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp là để hạn chế tình trạng bỏ việc
của nhân viên
Thái độ đối với tư vấn tâm lý
1. Tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho
công ty và người lao động
2. Tư vấn tâm lý rất cần thiết cho tất cả các công ty
3. Tư vấn tâm lý vừa mang lại sự ổn định đời sống tinh thần, vừa góp
phần cải thiện bầu không khí trong công ty
4. Tư vấn tâm lý sẽ là xu hướng tích cực trong tương lai
5. Tư vấn tâm lý là hình thức hoạt động hợp qui luật xã hội
6. Năng suất lao động của doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng khi dịch
vụ tư vấn tâm lý được tăng cường
7. Chuyên viên tư vấn tâm lý sẽ hỗ trợ tích cực cho tinh thần của công
nhân
8. Dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp cần được nhân rộng cho
các mô hình sản xuất kinh doanh
9. Nếu dịch vụ tư vấn tâm lý được tổ chức sớm trong công ty thì đời
sống tinh thần đã được cải thiện nhiều hơn nữa
10. Mọi người đều ủng hộ dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
2.3.4. Xác định cách thức cho điểm và đánh giá
2.3.4.1 Về mức độ nhận thức
Kết quả thực nghiệm sẽ phản ánh sự chuyển biến mức độ nhận thức
và thái độ của người lao động đối với tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
Sự chuyển biến đó được đo lường qua 3 loại điểm số tương ứng với 3
mức độ nhận thức
- 0 điểm nếu hoàn toàn không đồng ý
- 1 điểm nếu có đồng ý
- 2 điểm nếu rất đồng ý
2.3.4.2. Về thái độ
Tương tự như việc nhận thức về tư vấn tâm lý, sự thể hiện thái độ
được đo qua 3 mức độ
- 0 điểm nếu hoàn toàn không đồng ý
- 1 điểm nếu có đồng ý
- 2 điểm nếu rất đồng ý
2.3.5. Phương pháp đánh giá kết quả
Để đánh giá kết quả thực nghiệm về mức độ nhận thức và thái độ giữa
các nhóm thực nghiệm và đối chứng, chúng tôi sử dụng phương pháp
thống kê với kiểm nghiệm T (T-test). Sau đây là trình tự tính toán và kiểm
định mức ý nghĩa về sự khác nhau về điểm trung bình của các nhóm thực
nghiệm, nhóm đối chứng:
- Xác định giả thuyết Ho: Không có sự khác nhau giữa điểm của các
nhóm.
- Xác định giả thuyết thay thế Ha: Có sự khác nhau giữa điểm của các
nhóm
- Chọn mức ý nghĩa = 0.05
- Chọn thống kê kiểm định: kiểm định T cho hai mẫu độc lập
- Tính trị số P - value, nếu P - value > 0.05 thì sự khác nhau về điểm
trung bình giữa hai nhóm không có ý nghĩa, nếu P-value < 0.05 thì có sự
khác biệt ý nghĩa về điểm trung bình giữa hai nhóm.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nhu cầu tư vấn tâm lý của người lao động:
3.1.1. Nhu cầu được chăm sóc về đời sống tinh thần :
Bảng 3.1: Nhu cầu được chăm sóc về đời sống tinh thần
Công nhân Nhà quản lý
Mức độ cần thiết
F % F %
Rất cần thiết 117 70.90 13 65.00
Cần thiết 41 24.80 02 10.00
Có cũng được, không có cũng được 07 04.20 05 25.00
Không cần thiết 00 00.00 00 00.00
Hoàn toàn không cần thiết 00 00.00 00 00.00
Khảo sát 175 công nhân về nhu cầu chăm sóc về đời sống tinh thần,
theo kết quả ở bảng 3.1, với tỉ lệ khá cao 70.9% người lao động trực tiếp cho
rằng rất cần được chăm sóc về đời sống tinh thần. Kế đến, có 24.8% người lao
động đánh giá là cần được chăm sóc về đời sống tinh thần. Không có người
lao động được khảo sát nào cho rằng không cần được chăm sóc về đời sống
tinh thần. Tuy nhiên, cũng có một số ít người lao động (4.2%) lại phân vân
trong câu hỏi này. Tương tự như vậy có 65% nhà quản lý cho rằng việc chăm
sóc đời sống tinh thần cho công nhân là rất cần thiết, điều này phản ánh một
thực tế là cả nhà quản lý và công nhân đều nhận thức rõ ràng về nhu cầu được
tham gia các hoạt động nhằm cải thiện đời sống tinh thần cho người lao động.
3.1.2. Người lao động đánh giá về kiến thức tâm lý của cán bộ công
đoàn, cán bộ nhân sự, lãnh đạo doanh nghiệp :
Bảng 3.2. : Ý kiến đánh giá của người lao động về kiến thức tâm lý của
cán bộ công đoàn, cán bộ nhân sự, lãnh đạo doanh nghiệp :
Lãnh Đạo Cán Bộ Nhân
Sự
Cán Bộ Công
Đoàn Mức Độ Am Hiểu
f (%) f (%) f (%)
Rất am hiểu 39 23.6 11 6.7 17 10.3
Am hiểu 39 23.6 41 24.8 23 13.9
Tạm được 61 37.0 61 37.0 55 33.3
Không am hiểu 18 10.9 35 21.2 45 27.3
Hoàn toàn không am hiểu 08 4.8 17 10.3 25 15.2
Theo kết quả ở bảng 3.2, có đến 47.2 % người lao động cho rằng sự am
hiểu kiến thức tâm lý của lãnh đạo doanh nghiệp ở mức độ rất am hiểu và am
hiểu. Tương ứng với cán bộ nhân sự của công ty là 31.5% và cán bộ công
đoàn là 24.2%. Tuy nhiên, có đến 42.5% người lao động cho rằng cán bộ
công đoàn không am hiểu và hoàn toàn không am hiểu về kiến thức tâm lý.
Với tỉ lệ thấp hơn - 31.5% người lao động cho rằng cán bộ nhân sự không am
hiểu và hoàn toàn không am hiểu về kiến thức tâm lý. Riêng đối với lãnh đạo
doanh nghiệp, tỉ lệ đó là 15.7%. Kết quả trên cho thấy sự hạn chế trong việc
am hiểu kiến thức tâm lý – một trong những yếu tố quan trọng để chăm sóc
hiệu quả đời sống tinh thần người lao động - của cán bộ nhân sự và cán bộ
công đoàn trong các doanh nghiệp.
3.1.3. Sự chia sẻ tâm tư, nguyện vọng của người lao động :
Bảng 3.3. : Đối tượng được người lao động tin cậy chia sẻ tâm tư, nguyện
vọng
Đối tượng được tin cậy Tần số
(f)
Tỉ lệ % Xếp
Hạng
Đồng nghiệp 114 69.1 1
Chuyên gia tâm lý trong doanh nghiệp 24 14.5 3
Cán bộ công đoàn trong công ty 07 4.2 5
Cán bộ nhân sự trong công ty 18 10.9 4
Không chia sẻ với ai 37 22.4 2
Bạn bè thân bên ngoài công ty 01 0.61 7
Người thân trong gia đình 04 2.42 6
Do hạn chế trong sự am hiểu về kiến thức tâm lý của cán bộ công đoàn
và cán bộ nhân sự trong công ty và cách thức tổ chức bộ máy của nhiều doanh
nghiệp nên chỉ có 10.9% người lao động lựa chọn chia sẻ với cán bộ nhân sự
khi gặp bức xúc trong đời sống tinh thần. Tương ứng với cán bộ công đoàn
công ty là 4.2%. Một tỉ lệ dù không cao – 22.4% người lao động lựa chọn
không chia sẻ với bất kỳ ai nếu có bức xúc trong đời sống tinh thần. Tuy
nhiên, có đến 69.1% người lao động lựa chọn chia sẻ với đồng nghiệp thân
thiết – đồng nghiệp làm cùng bộ phận khi gặp bức xúc. Với tỉ lệ 14.5%. Kết
quả trên cho thấy, sự giải tỏa bức xúc trong đđời sống tinh thần của người lao
động mang tính cảm tính và chưa thực sự được đầu tư.
3.2. Thực trạng nhận thức của người lao động về tư vấn tâm lý trong
doanh nghiệp :
3.2.1. Hiểu biết về đời sống tinh thần :
Để có cái nhìn rõ hơn về người lao động, về nhận thức của người lao
động về các vấn đề liên quan đến đời sống tinh thần qua đó đánh giá sơ bộ về
sự quan tâm và hiểu biết của họ về các vấn đề tâm lý - xã hội, chúng tôi khảo
sát tìm hiểu nhận định của họ về đời sống tinh thần theo bảng sau đây:
Bảng 3.4. : Khái niệm đời sống tinh thần
Ý nghĩa của đời sông tinh thần Tần số Tỉ lệ
(f) %
Là đời sống nội tâm của mỗi người 28 17.0
Là đời sống tâm lý của mỗi người 65 39.4
Là những gì không mang tính vật chất 41 24.8
Là vui chơi, giải trí, hưởng thụ những giá trị văn hóa 39 23.6
Là xây dựng được nhiều mối quan hệ xã hội 17 10.3
Theo kết quả ở bảng 3.4, với tỉ lệ cao nhất nhưng chỉ có 39.4% người lao
động cho rằng đời sống tinh thần là đời sống tâm lý của mỗi người. Tiếp theo,
có 24.8% người lao động cho rằng đời sống tinh thần là những gì không mang
tính vật chất. Tương ứng với quan niệm đời sống tinh thần là vui chơi, giải
trí, hưởng thụ những giá trị văn hoá có 23.6% người lao động lựa chọn. Bên
cạnh đó, có 17% người lao động cho rằng đời sống tinh thần là đời sống nội
tâm của mỗi người. Và có 10.3% người lao động lại cho rằng đời sống tinh
thần là xây dựng được nhiều mối quan hệ xã hội. Dù tỉ lệ % lựa chọn của
người lao động là không cao nhưng kết quả thu được ở bảng 3.4 cho thấy,
nhận thức của người lao động về đời sống tinh thần có sự lẫn lộn giữa khái
niệm đời sống tinh thần với cách thức và hiệu quả của việc chăm sóc đời sống
tinh thần
Bảng 3.5: Nhận thức chung về thực trạng tư vấn trong xã hội hiện nay
Thực trạng tư vấn tâm lý Tần Số
(f)
Tỉ Lệ % Xếp
Hạng
Tư vấn như trăm hoa đua nở. Người
người tư vấn, nhà nhà tư vấn 14 8.5 4
Nhu cầu tư vấn rất lớn, nhưng chuyên
gia tư vấn còn quá ít 62 37.6 2
Chuyên gia tư vấn giỏi quá ít, nên khó 76 46.1 1
có thể gặp được họ
Nhiều người bức xúc về tâm lý mà
không biết tìm gặp nhà tư vấn ở đâu 39 23.6 3
Theo kết quả ở bảng 3.5. 46.1% người lao động cho rằng chuyên gia tư
vấn giỏi quá ít nên khó có thể gặp được họ. Bên cạnh đó, có 37.6% người
lao động cho rằng nhu cầu tư vấn rất lớn nhưng chuyên viên tư vấn còn quá ít.
Một tỉ lệ dù khá nhỏ – 23.6% người lao động cho rằng nhiều người bức xúc
về tâm lý mà không biết tìm gặp nhà tư vấn ở đâu. Kết quả trên cho thấy, nhu
cầu được tư vấn của người lao động là rất lớn nhưng khả năng đáp ứng từ
phía chuyên gia tư vấn là không tương xứng (ít về số lượng và yếu về chất
lượng)
Bảng 3.6. Nhận thức chung về thực trạng chuyên viên tư vấn trong xã
hội hiện nay
Thực trạng chuyên viên tư vấn tâm lý Tần Số Tỉ Lệ % Xếp
Hạng
Chuyên viên tư vấn thường ít được đào
tạo chuyên nghiệp 70 42.4 1
Chuyên viên tư vấn giỏi, nhiều kinh
nghiệm, đáp ứng nhu cầu của mọi người 46 27.9 2
Chuyên viên tư vấn chưa đủ phẩm chất
về các yêu cầu nghề nghiệp 35 22.1 3
Chuyên viên tư vấn chỉ đưa ra lời
khuyên vơ vẩn 19 11.5 4
Mỗi chuyên viên tư vấn đều có giới hạn
riêng không thể đánh giá được 03 1.8 5
Tiếp theo đánh giá về thực trạng tư vấn tâm lý của người lao động ở
bảng 3.5 khi được hỏi về thực trạng chuyên viên tư vấn tâm lý, người lao
động cho rằng chuyên viên tư vấn tâm lý chưa thực sự đảm bảo về mặt đạo
đức và năng lực, cụ thể:
Về đạo đức: 22.1% người lao động cho rằng chuyên viên tư vấn chưa
đủ phẩm chất và yêu cầu nghề nghiep, tương ứng với chuyên viên tư vấn chỉ
đưa ra lời khuyên vớ vẩn 11.5%
Về mặt năng lực: 42.4% người lao động cho rằng chuyên viên tư vấn
thường ít được đào tạo chuyên nghiệp.
Tuy nhiên cũng một tỉ lệ nhỏ người lao động hài lòng với năng lực và
phẩm chất của chuyên viên tư vấn: 27.9% người lao động cho rằng chuyên
viên tư vấn giỏi, nhiều kinh nghiệm, đáp ứng nhu cầu của mọi người và 1.8%
người lao động có quan điểm mỗi chuyên viên tư vấn đều có giới hạn riêng
không thể đánh giá được.
Nhìn chung, người lao động đánh giá không cao về năng lực và phẩm
chất của chuyên viên tư vấn (42.4% và 22.1%)
3.2.2. Hiểu về tư vấn tâm lý:
Bảng 3.7: Nhận thức của người lao động về tư vấn tâm lý
Khái Niệm Tư Vấn Tâm Lý Tần số
(f)
Tỉ lệ
%
Xếp Hạng
Là cuộc nói chuyện giữa chuyên gia
tâm lý với 1 cá nhân 50 30.3 2
Là sự trao đổi nhằm tìm ra giải pháp
cho nhân sự 24 14.5 3
Là nơi lắng nghe mọi tâm sự của
nhân sự và cho lời khuyên 77 46.7 1
Là quá trình tác động của chuyên gia
tâm lý đến nhận thức của nhân sự,
làm thay đổi nhận thức sai lệch và
thay đổi hành vi của nhân sự
14 08.5 4
Tư vấn tâm lý là một cách thức rất hiệu quả trong chăm sóc đời sống
tinh thần người lao động. Tuy nhiên, để có một định nghĩa chính xác, hoàn
toàn đầy đủ về tư vấn tâm lý là một câu trả lời không đơn giản. Theo kết quả
khảo sát ở bảng 3.7, có 46.7% người lao động nhận thức rằng, tư vấn tâm lý
là một cuộc trò chuyện và lắng nghe mọi tâm sự của con người và sau đó cho
những lời khuyên cụ thể và có đến 30.3% người lao động cho rằng tư vấn tâm
lý là cuộc trò chuyện giữa chuyên gia và con người cụ thể như những cuộc trò
chuyện thông thường. Tương tự như vậy với quan niệm cho rằng tư vấn tâm
lý là sự trao đổi, nhằm tìm ra giải pháp cho nhân sự có đến 14.5% người lao
động lựa chọn. Cá biệt, chỉ có 8.5% người lao động cho rằng tư vấn tâm lý là
một quá trình tác động của chuyên gia tâm lý đến nhận thức của nhân sự, làm
thay đổi nhận thức sai lệch và thay đổi hành vi của nhân sự .
Như vậy có thể nhận xét rằng, người lao động ở các Công ty chưa thật
sự hiểu biết cặn kẻ về hoạt động tư vấn tâm lý, họ vẫn có suy nghĩ rằng tư vấn
nghĩa là đưa ra giải pháp, là cho những lời khuyên bổ ích hoặc chỉ là cuộc trò
chuyện để giải trí mà thôi.
Bảng 3.8.: Nhận thức của người lao động về mục đích tư vấn tâm lý
Mục Đích Tư Vấn Tâm Lý Tần số (f) Tỉ lệ
%
Xếp Hạng
Giúp con người có định hướng sống
tốt hơn 3 1.82 6
Giúp can thiệp khủng hoang, lấy lại
thăng bằng trong đời sống tâm lý. 32 19.4 2
Giúp giảm stress trong cuộc sống 20 12.1 3
Giúp con người không có những
hành động, quyết định sai lầm 14 8.5 4
Giúp con người luôn có những quyết
định hợp lý 9 5.45 5
Giúp mọi người hiểu nhau hơn 87 52.7 1
Theo kết quả ở bảng 3.8, với tỉ lệ cao nhất - 52.7% người lao động
cho rằng tư vấn tâm lý nhằm giúp cho mọi người hiểu biết nhau hơn. Bên
cạnh đó, tư vấn tâm lý còn giúp can thiệp khủng hoảng, lấy lại thăng bằng
trong đời sống tâm lý (19.4%), giảm stress trong cuộc sống (12.1%). Ngoài
ra tư vấn tâm lý còn giúp con người không có những hành động, quyết định
sai lầm, giúp con người có những quyết định hợp lý, giúp con người có định
hướng sống tốt nhưng tỉ lệ lựa chọn không cao. Kết quả ở bảng 3.8 cho thấy,
người lao động cho rằng tư vấn tâm lý mang lại rất nhiều những giá trị cho
con người trong cuộc sống nhưng đó chỉ là những hiểu biết có tính chất kinh
nghiệm và chưa chính xác
3.2.3. Hiểu về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp:
Bảng 3.9: Nhận thức về mục tiêu của tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
Mục Tiêu Của Tư Vấn Tâm Lý Trong
Doanh Nghiệp Tần số (f) Tỉ lệ %
Xếp
Hạng
Giúp nhân viên có nơi giải tỏa tâm trạng
âu lo trong công việc ở công ty 16 9.7 4
Giúp lãnh đạo hiểu những lo lắng trong
công việc của nhân viên 53 32.1 1
Giúp nhân viên có nơi chia sẻ những khó
khăn trong đời sống tình cảm 48 29.1 2
Giúp lãnh đạo hiểu hoàn cảnh cá nhân của
nhân viên để thông cảm cho họ 39 23.6 3
Nâng cao hiệu quả lao động của nhân
viên
5 3.03 5
Gắn kết mối quan hệ giữa mọi người
trong công ty
4 2.42 6
Nhiều người lao động cho rằng rất cần được chăm sóc đời sống tinh
thần. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về mục tiêu của tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp thì nhận thức của người lao động hết sức đơn giản và theo khuôn mẫu
có sẵn vì có đến 32.1% người lao động cho rằng tư vấn tâm lý giúp lãnh đạo
hiểu những bức xúc trong công việc của nhân viên, 29.1% người lao động
thừa nhận tư vấn tâm lý giúp nhân viên có nơi chia sẻ những khó khăn trong
đời sống tình cảm, 23.6% người lao động cho rằng tư vấn tâm lý giúp lãnh
đạo hiểu hoàn cảnh cá nhân của nhân viên để thông cảm cho họ. Riêng, nhu
cầu giải tỏa bức xúc trong công việc của nhân viên thông qua tư vấn tâm lý
chỉ có 9.7% người lao động lựa chọn. Dù tỉ lệ ở các lựa chọn là không cao
nhưng nhìn một cách tổng thể, thông qua tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp,
người lao động mong muốn lãnh đạo hiểu hoàn cảnh và những bức xúc của
nhân viên trong công việc (32.1% và 23.6%) đồng thời bản thân người lao
động cũng có thể giải tỏa những bức xúc trong công việc và trong đời sống cá
nhân. Như vậy, có thể nói nhận thức của người lao động về mục đích tư vấn
trong doanh nghiệp cũng chưa thực rõ nét mà chỉ là những nhận định chủ
quan .
3.2.4. Chuyên viên tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp:
Bảng 3.10: Hình ảnh chuyên viên tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
Hình Ảnh Chuyên Viên Tâm lý
Trong Doanh Nghiệp Tần số (f) Tỉ lệ %
Xếp
Hạng
Luôn lắng nghe, chia sẻ, gợi mở cho
mọi người 17 10.3 5
Luôn động viên tinh thần làm việc
của mọi người theo yêu cầu 92 55.8 2
Có nhiều hiểu biết nhưng chẳng giai
quyết được việc gì cho ai 16 10.9 4
Có thể giúp hóa giải mọi xung đột,
rắc rối trong công ty 73 44.2 3
Người làm theo yêu cầu của giới chủ
để tăng thêm lợi nhuận cho công ty. 134 81.2 1
Gắn kết các thành viên trong công ty 1 0.6 6
Theo kết quả ở bảng 3.10, 81,2% người lao động cho rằng chuyên viên
tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp là người làm theo yêu cầu của giới chủ để
giới chủ có thể thực hiện công việc quản lý dể dàng hơn. Kế đến, 55.8%
người lao động đồng ý chuyên viên tư vấn tâm lý phải luôn động viên tinh
thần làm việc của mọi người và đặc biệt 44. 2% người lao động hình dung
chuyên viên tư vấn tâm lý trong vai trò người hóa giải khi có xung đột xảy ra
trong công ty. Với tỉ lệ rất thấp, 10.9% và 10.3% người lao động cho rằng
chuyên viên tư vấn tâm lý là người có nhiều hiểu biết nhưng không làm được
gì và là người luôn biết lắng nghe, gợi mở vấn đề để người lao động bộc bạch
và tìm kiếm giải pháp. Kết quả trên cho thấy, người lao động tuy đánh giá
cao vai trò của chuyên viên tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp nhưng lại chưa
hiểu rõ công việc của chuyên viên tư vấn và có sự nhầm lẫn giữa việc hỗ trợ
và việc định hướng tư tưởng.
Bảng 3.11: Đức tính và năng lực của chuyên viên tư vấn tâm lý
trong doanh nghiệp
Đức Tính, Năng Lực Của Chuyên Viên
Tâm lý Trong Doanh Nghiệp Tần số (f)
Tỉ lệ
%
Xếp
hang
Là người hiểu biết rộng, có trình độ cao 111 67.3 1
Có sự cảm thông với nhân viên trong
công ty
97 58.8
3
Là người nổi tiếng 110 66.7 2
Biết chấp nhận người khác 92 55.8 4
Chân thành quan tâm đến người khác 91 55.2 5
Sẵn lòng giúp đỡ người khác 90 54.5 6
Tôn trọng những tâm sự, giữ bí mật tuyệt
đối cho nhân viên 58 35.2
7
Gương mẫu trong lối sống 24 14.5 8
Có khả năng làm chủ cảm xúc tốt 03 1.8 9
Tương ứng với những ý kiến trong kết quả thu được ở bảng 3.11, người
lao động đã thể hiện nhận thức của mình đối với những đức tính và năng lực
cần phải có ở một chuyên viên tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp, cụ thể:
Về đức tính: có sự cảm thông trọn vẹn với nhân viên trong công ty
(58.8%), biết chấp nhận người khác (55.8%), sẵn lòng giúp đỡ người khác
(54.5%)
Về năng lực: là người hiểu biết rộng, có kỹ thuật tư vấn tốt (67.3%).
Riêng vấn đề tôn trọng những tâm sự, giữ bí mật tuyệt đối cho nhân viên dù tỉ
lệ không cao nhưng cũng có 35.2% người lao động lựa chọn. Đặc biết có đến
67.3% và đây cũng là tỉ lệ lựa chọn cao nhất cho rằng chuyên viên tư vấn tâm
lý phải là những người hiểu biết rộng, có trình độ cao, và cũng có đến 66.7%
cho rằng chuyên viên tư vấn tâm lý là những người nổi tiếng. Như vậy có thể
nói nhận thức của người lao động về đội ngũ chuyên viên tư vấn vẫn chưa
thật sự rõ nét, nhận thức của họ chỉ dựa vào sự quan sát và kinh nghiệm của
mình mà thôi, do đó chưa hoàn toàn chính xác.
Bảng 3.12: Vai trò của chuyên viên tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp
Vai Trò Của Chuyên Viên Tâm Lý
Trong Doanh Nghiệp Tần số (f)
Tỉ lệ
%
Xếp
Hạng
Làm sứ giả hòa bình trong các cuộc
xung đột phe nhóm ở công ty 82 49.7 3
Giải đáp thắc mắc về tình yêu – hôn
nhân – gia đình 71 43.0 5
Xây dựng những tiêu chuẩn về công
ty để hỗ trợ cho Ban Giám đốc 115 69.7 1
Giúp chủ doanh nghiệp và người lao
động tìm được tiếng nói chung 111 67.3 2
Giúp chủ doanh nghiệp hiểu những
bức xúc của người lao động 73 44.2 4
Báo cáo chuyên đề thú vị 24 14.5 6
Thay mặt công đoàn quan tâm đến
đời sống tinh thần của nhân viên 11 6.6 7
Theo kết quả ở bảng 3.7, hai mục tiêu cơ bản mà người lao động xác
định khi triển khai tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp là giúp lãnh đạo hiểu
những khó khăn của người lao động và bản thân người lao động có thể giải
tỏa những bức xúc của mình trong công việc và trong đời sống cá nhân thì
tương ứng ở bảng 3.12, có 67.3% người lao động cho rằng chuyên viên tư vấn
tâm lý trong doanh nghiệp giúp cho chủ doanh nghiệp và người lao động tìm
được tiếng nói chung, 44.2% người lao động cho rằng chuyên viên tư vấn tâm
lý trong doanh nghiệp giúp cho chủ doanh nghiệp hiểu những bức xúc của
người lao động. Tuy nhiên, với tỉ lệ cao nhất, 69.7% người lao động xác định
chuyên viên tư vấn tâm lý đóng vai trò là người có trách nhiệm xây dựng các
qui tắc, các tiêu chuẩn nhằm hỗ trợ Ban Giám đốc điều hành công ty tốt hơn.
Kết quả trên cho thấy mặc dù rất quan tâm đến lĩnh vực tư vấn tâm lý nhưng
người lao động lại vẫn nghi ngại chuyên viên tư vấn sẽ là “người tay trong “
của Ban giám đốc.
3.2.5. Nội dung cần được tư vấn trong doanh nghiệp:
Bảng 3.13: Nội dung cần được tư vấn trong doanh nghiệp
Những vấn đề cần được tư vấn
trong doanh nghiệp Tần Số
Tỉ Lệ
Phần
Trăm (%)
Xếp Hạng
Vấn đề xung đột, mất đoàn kết nội bộ 85 51.5 2
Vấn đề stress nơi công sở 82 49.7 3
Vấn đề mất cân bằng tâm lý trong đời
sống cá nhân 86 52.1 1
Vấn đề về mối quan hệ không thuận
lợi giữa Sếp – Nhân viên 71 43.0 4
Vấn đề tăng doanh thu của công ty 02 1.2 5
Tương ứng với kết quả thu thập ở trên, đối với những vấn đề cần được
tư vấn trong doanh nghiệp, 52,1% người lao động cần được tư vấn về vấn đề
mất căn bằng tâm lý trong đời sống cá nhân, 51.5% người lao động có nhu
cầu tư vấn về vấn đề xung đột, mất đoàn kết nội bộ và 49.7% người lao động
cho rằng stress nơi công sở là một vấn đề cần được tư vấn, riêng mối quan hệ
không thuận lợi giữa sếp và nhân viên thì có 43.0% người lao động lựa chọn.
Cá biệt, có 1.2% người lao động nghĩ rằng cần được tư vấn để tăng doanh thu
của công ty. Dù tỉ lệ lựa chọn không cao (đa phần dưới 50%) nhưng những
nội dung cần được tư vấn của người lao động theo kết quả ở bảng 3.13 đã
phản ánh phần nào những vấn đề mà người lao động đang gặp phải như:
stress, quan hệ đồng nghiệp không thuận lợi, mất cân bằng tâm lý,…
3.2.6. Hình thức tư vấn trong doanh nghiệp:
Bảng 3. 14: Nhận thức về hinh thức tư vấn trong doanh nghiệp
Hình Thức Tư Vấn Tâm Lý Tần Số Tỉ Lệ
%
Xếp
Hạng
Tư vấn qua điện thoại 34 20.6 2
Tư vấn trực tiếp tại phòng tư vấn ở
công ty (hoặc đến phòng tư vấn) 114 69.1 1
Tư vấn qua báo, đài 5 3.0 4
Tư vấn qua hộp thư 8 4.8 3
Tại một nơi yên tĩnh vừa có thể tư
vấn vừa có thể thư giãn 4 2.4 5
Theo kết quả ở bảng 3.14, tư vấn trực tiếp tại phòng tư vấn ở công ty
(hoặc đến phòng tư vấn) là hình thức tư vấn được đa số người lao động lựa
chọn (69.1%), kế đến là hình thức tư vấn qua điện thoại (20.6%). Điểm đặc
biệt là có 2.4% người lao động lựa chọn một nơi yên tĩnh vừa có thể tư vấn
vừa có thể thư giãn. Các hình thức tư vấn khác như qua báo, đài, qua hộp thư
không được nhiều người lao động lựa chọn. Như vậy qua ý kiến ở bảng 3.14,
người lao động nghĩ rằng công việc tư vấn nếu được thực hiện ở phòng tư vấn
sẽ thuận lợi hơn, điều này chứng tỏ họ có nhu cầu được tư vấn trực tiếp tại
công ty hơn là bằng các hình thức tư vấn khác.
3.3. THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI
VẤN ĐỀ TƯ VẤN TÂM LÝ TRONG DOANH NGHIỆP
Bảng 3.15: Quan niệm chung của người lao động về tư vấn tâm lý
trong doanh nghiệp
Quan Niệm Về Nghề Tư Vấn Tâm Lý
Trong Doanh Nghiệp Tần Số
Tỉ Lệ
Phần
Trăm (%)
Xếp
Hạng
Sẽ là một nghề mới được xem như một
vị trí công việc độc lập trong công ty 11 6.7 4
Không thể phát triển vì ở Việt Nam
chưa ai biết đến nghề này 75 45.5 2
Tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp chưa
là thói quen phố biến ở Việt Nam 26 15.8 3
Sẽ phát triển mạnh mẽ trong các doanh
nghiệp Việt Nam những năm tới 02 1.2 6
Tư vấn tâm lý không phải là một nghề 8 4.8 5
Tư vấn tâm lý rất khó phát triển trong
các doanh nghiệp tại Việt Nam 88 53.3 1
Nhu cầu được chăm sóc tinh thần của người lao động thông qua tư vấn
tâm lý trong doanh nghiệp là một nhu cầu rất lớn và rất bức thiết. Tuy nhiên
khi trả lời về tương lai của họat động này thì đa số lớn người lao động lại
không tin cậy lắm khi có đến 53.3% không tin tưởng vào sự phát triển của
hoạt động tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp, đây cũng là lựa chọn nhiều nhất
của người lao động về vấn đề này. Và cũng có đến 45.5% người lao động băn
khoăn về nghề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp khi cho rằng nghề này khó
phát triển trong doanh nghiệp vì ít ai biết đến trong hoạt động tư vấn trong
doanh nghiệp . Mặt khác cũng có 15.8% người lao động cho rằng hoạt động
tư vấn tâm lý trong các doanh nghiệp ở Việt Nam chưa phải là thói quen của
người lao động, người lao động có thể tới các trung tâm tư vấn ngoài xã hội
để thực hiện việc tư vấn theo nhu cầu của mình.
Kết quả trên cho thấy, một phần khá lớn người lao động chưa hoàn toàn
tin tưởng thật sự vào hoạt động tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
Bảng 3.16: Thái độ của người lao động về việc thiết lập phòng tư vấn
tâm lý tại doanh nghiệp
Thiết Lập Phòng Tư Vấn Tâm Lý
Tại Doanh Nghiệp Tần Số
Tỉ Lệ
Phần Trăm
(%)
Xếp
Hạng
Rất hoan nghênh vì đây là nhu cầu rất
lớn của mọi người 13 7.9 4
Nếu được chăm sóc đời sống tinh
thần mọi người sẽ làm việc hiệu quả 13 7.9 4
Có chuyên gia tâm lý giúp đỡ, mọi
người sẽ thông hiểu, gắn bó nhau hơn 63 38.2 3
Không thể tin được, trong quan hệ
công việc ở công ty không nên tin ai 91 55.2 2
Chia sẻ những bí mật cá nhân sợ bị
sếp biết, ảnh hưởng không tốt 120 72.7 1
Không thể làm được vì chủ doanh
nghiệp không đầu tư vị trí này trong
công ty
03 1.8 6
Theo kết quả ở bảng 3.16, có đến 72.7% người lao động lo lắng về tính
an toàn và độ tin cậy về bảo mật khi được tư vấn, họ sợ rằng những thông tin
và bí mật cá nhân sẽ bị tiết lộ, qua đó ban giám đốc có thể gây khó khăn cho
họ sau này. Có đến 55.2% người lao động cho rằng những mối quan hệ trong
công ty không thể chia sẻ được với ai kể cả với chuyên viên tư vấn, điều này
cho thấy, họ vẫn còn thái dộ hoài nghi về hoạt động tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp. Tuy vậy cũng có 38.2% người lao động nhận thấy có chuyên gia tâm
lý giúp đỡ, mọi người sẽ thông hiểu, gắn bó nhau hơn. Những ý kiến này có
thể cho nhận định rằng, người lao động có nhu cầu tư vấn tâm lý nhưng việc
tổ chức tư vấn trực tiếp trong công ty đối với họ còn quá mới mẽ, do đó họ
vẫn còn băn khoăn về vấn đề này.
3.3.1. Ý kiến của người lao động về việc đào tạo chuyên viên tư vấn
tâm lý trong doanh nghiệp:
Bảng 3.17: Ý kiến của người lao động về việc đào tạo chuyên viên tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp
Đào Tạo Chuyên Viên Tư Vấn Tần Số Tỉ Lệ
%
Xếp
Hạng
Rất thích học tâm lý và sẽ tham gia
nếu có cơ hội và được tài trợ kinh phí 121 73.3 1
Không có điều kiện về thời gian, kinh
phí nhưng rất thích được đào tạo 28 17.0 3
Biết mình thiếu kiến thức, kỹ năng
tâm lý mà không biết học ở đâu 29 17.6 2
Không biết học xong có tìm được vị
trí làm việc trong công ty để ứng
dụng
21 12.7 4
Không tin mình có khả năng làm 10 6.1 5
chuyên viên tâm lý sau khi học xong
Không học, vì không tin chất lượng
giảng dạy của chương trình 01 0.6 6
Việc trang bị kiến thức, kỹ năng tâm lý cho người lao động là một
trong những cách chăm sóc tinh thần cho người lao động và nâng cao năng
lực cho chuyên viên tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp (nếu có), chính vì vậy,
có đến 73.3% người lao động cho rằng rất thích học tâm lý và sẽ tham gia nếu
có cơ hội và được tài trợ kinh phí. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận nhỏ người
lao động vẫn dao động về tương lai của mình sau khi tham gia đào tạo, cụ thể:
không biết học xong có tìm được vị trí làm việc trong công ty để ứng dụng
(12.7%), không tin mình có khả năng làm chuyên viên tâm lý sau khi học
xong (6.1%). Kết quả này cho thấy người lao động thích được làm chuyên
viên tư vấn tâm lý nhưng họ vẫn chưa hình dung được chuyên viên tư vấn sẽ
làm gì do họ có quan niệm rất đơn giản về tư vấn tâm lý.
3.3.2. Ý kiến của người lao động về người phù hợp nhất đảm nhiệm
vai trò chuyên viên tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp:
Bảng 3.18: Người đảm nhiệm vai trò chuyên viên tư vấn tâm lý trong
doanh nghiệp
Người Đảm Nhiệm Vai Trò Chuyên
Viên Tâm Lý Trong Doanh Nghiệp Tần Số
Tỉ Lệ
Phần Trăm
(%)
Xếp
Hạng
Chuyên viên tâm lý làm việc dộc lập
từ bên ngoài vào công ty 63 38.2 2
Cán bộ công đoàn trong công ty 21 12.7 3
Cán bộ nhân sự trong công ty 66 40.0 1
Lãnh đạo trong công ty 13 7.9 4
Đồng nghiệp cùng bộ phận 02 1.2 5
Kết quả ở bảng 3.18 cho thấy, đối với người đảm nhiệm vai trò chuyên
viên tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp, với tỉ lệ lựa chọn dưới 50%, bản thân
người lao động vẫn chưa thật sự tìm ra. Cụ thể, đối với cán bộ nhân sự trong
công ty, có 40% người lao động lựa chọn, đối với chuyên viên tâm lý làm
việc độc lập từ bên ngoài vào công ty, có 38.2% đồng ý. Tương tự, đối với
cán bộ công đoàn tỉ lệ là 12.7% và đối với lãnh đạo, tỉ lệ là 7.9%.
Bảng số liệu cũng cho thấy thái độ của người lao động có lúc không
nhất quán với nhận thức về công việc tư vấn trong doanh nghiệp. Về nhận
thức họ cho rằng việc tổ chức các dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp là
nhằm mục đích tạo thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp và họ có vẻ mơ hồ về
điều này, nhưng về thái độ người lao động lại tỏ chấp nhận cán bộ công đoàn
làm nhà tư vấn hơn người ở ngoài. Điều này cho thấy người lao động chưa
thật sự quan tâm nhiều đến dịch vụ tư vấn tâm lý và chưa thật sự thoải mái,
chưa thật cụ thể khi nhận xét về vấn đề này
Tóm lại, qua tổng hợp các phiếu điều tra phản ánh ý kiến của người lao
động, có thể nhận thấy rằng, nhận thức của người lao động về hoạt động tư
vấn tâm lý trong doanh nghiệp còn khá đơn giản, thậm chí sơ sài. Người lao
động vẫn hiểu rằng dịch vụ tư vấn tâm lý chỉ là chuyện “gỡ rối tơ lòng’, chỉ là
dịp để thổ lộ chuyện riêng tư, đặc biệt là chuyện yêu đương. Mặt khác, người
lao động tuy không phản ứng với việc mở rộng các dịch vụ tư vấn tâm lý
trong doanh nghiệp nhưng cũng không hoàn toàn ủng hộ.
3.4. Thực nghiệm so sánh sự thay đổi về nhận thức và thái độ của
người lao động đối với hoạt động tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
Bảng 3.19. Mức độ nhận thức ở nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
trước khi thực nghiệm
Mức độ nhận thức(%)
Rõ ràng Ít rõ Không rõ
Đối tượng
SL % SL % SL %
Trung
bình
P -
value
Nhóm người lao động
Nhóm thực nghiệm 04 13.33 13 43.33 13 43.33 07.36
Nhóm đối chứng 05 14.70 14 41.17 15 44.11 07.48 .064
Nhóm nhà quản lý
Nhóm thực nghiệm 04 13.33 12 40.00 14 46.66 08.32
Nhóm đối chứng 03 10.00 14 46.66 13 43.33 08.16 .081
Kết quả phân tích cho thấy trước khi thực nghiệm mức độ nhận thức về
tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp ở các nhóm thực nghiệm và đối chứng
không cao (điểm trung bình của các nhóm chỉ trong phạm vi 7.0 đến 8.0 thể
hiện rằng người lao động nhận thức chưa rõ về tư vấn tâm lý trong doanh
nghiệp). Ngoài ra các trị số p-value đều lớn hơn 0.05 nên sự chênh lệch điểm
trung bình của các nhóm thực nghiệm và đối chứng không có ý nghĩa thống
kê.
Như vậy trước khi thực nghiệm, các nhóm thực nghiệm và đối chứng
tương đồng nhau về mức độ nhận thức về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp.
Đó là điều kiện cần thiết để có thể xác định sự chuyển biến mức độ nhận thức
về vấn đề này trong các nhóm thực nghiệm và đối chứng sau khi được tư vấn
thử nghiệm
Bảng 3.20. Nhận thức của các nhóm thực nghiệm và đối chứng trước và
sau thực nghiệm
Các trị số kiểm định ý nghĩa
Đối tượng Trung bình
Độ lệch
chuẩn
Sai số trung
bình
Giá trị t
P-
value
Trước
TN
Sau
TN
Trước
TN
Sau
TN
Trước
TN
Sau
TN
Nhóm TN1 07.36 14,12 03.10 02.85 1.63 1.49 8.297 .000
Nhóm ĐC1 07.48 09.31 02.98 02.74 1.75 1.72 1.140 .258
Nhóm TN2 09.12 15.03 02.76 02.18 1.86 1.06 9.516 .000
Nhóm ĐC2 08.97 10.03 03.33 03.20 1.67 1.71 0.418 .677
Kết quả đo lường điểm trung bình chứng tỏ sau thực nghiệm mức độ
nhận thức về tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp trong các nhóm thực nghiệm
đã gia tăng từ mức không rõ (điểm trung bình nhỏ hơn 13) đến ít rõ và khá rõ
(điểm trung bình lớn hơn 13). Trong khi đó, ở các nhóm đối chứng điểm trung
bình chuyển biến theo hướng tăng lên nhưng không rõ rệt.
Bảng 3.20 cho thấy điểm trung bình của 2 nhóm thực nghiệm người lao
động và nhà quản lý đã tăng lên khá cao sau thực nghiệm (trên 13 điểm). Sự
gia tăng này có ý nghĩa thống kê với giá trị P <0.05. Như vậy sau thực nghiệm
mức độ nhận thức của người lao động trực tiếp và gián tiếp trong các nhóm
thực nghiệm đậm nét hơn so với trước khi thực nghiệm. Nói cách khác, khi
thực hiện các dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp tất cả các nhóm thực
nghiệm đều thể hiện được sự thay đổi theo hướng nhận thức rõ hơn về tư vấn
tâm lý. Điều này có nghĩa là, các dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp đã
phát huy được tác dụng của mình
Bảng số liệu cũng cho thấy mức độ nhận thức về tư vấn tâm lý trong
doanh nghiệp ở nhóm đối chứng trước và sau thực nghiệm chuyển biến
không đáng kể ,do các trị số P> 0.05 nên sự chênh lệch điểm trung bình của
nhóm đối chứng trước và sau thực nghiệm không có ý nghĩa thống kê, nghĩa
là những thay đổi về nhận thức ở các nhóm đối chứng có thể do các tác động
ngẫu nhiên chứ không theo một khuynh hướng hay qui luật nào cả. Có thể nói
khi không được tham gia các dịch vụ tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp, người
lao động ở các nhóm đối chứng không nâng cao được nhận thức của họ về
vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là, việc thực hiện
các dịch vụ tư vấn tâm lý tại các d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTLH007.pdf