Luận văn Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - Quản lý đối với pháp lệnh dân số

Tài liệu Luận văn Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - Quản lý đối với pháp lệnh dân số: LUẬN VĂN: Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ) nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày 9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đả...

pdf95 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1129 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - Quản lý đối với pháp lệnh dân số, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ) nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày 9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số; điều chỉnh thống nhất, định hướng toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số. Tuy nhiên, từ khi PLDS được ban hành, năm 2003 tỷ lệ dân số của cả nước lại tăng lên rõ rệt, từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% năm 2003, tương đương mức tăng của năm 1999. Đến năm 2004 - 2005, xu hướng tăng dân số tuy bước đầu được kiểm soát nhưng cả nước vẫn không có khả năng thực hiện chỉ tiêu giảm mức tăng dân số xuống còn 1,22% vào năm 2005 như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Số liệu thống kê cho thấy, ở 38 tỉnh/ thành phố trong tổng số 64 tỉnh/thành phố của cả nước, mức sinh đã tăng lên [71, tr.3]. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ sinh con thứ ba ở các thành phố lớn, như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tăng lên khá cao so với năm trước đó. Một số cán bộ công nhân viên và thậm chí cả đảng viên cũng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng trong một vài điều của PLDS để sinh con thứ ba. Điều này cho thấy, kết quả đạt được của công tác dân số chưa thực sự vững chắc, chất lượng dân số thấp, vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tiềm ẩn dẫn đến sự bùng nổ dân số trở lại. Trước sự gia tăng dân số như vậy, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết nhấn mạnh, thực hiện chính sách dân số, DS - KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trước mắt. Mục tiêu nhanh chóng đạt mức sinh thay thế đảm bảo trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Đồng thời nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và cơ cấu nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm tốt những điều này, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện PLDS và Nghị quyết 47- NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Trước tiên cần tiến hành những nghiên cứu đánh giá về nhận thức, thái độ và sự thực hiện PLDS của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐ QL) các cấp. ở mỗi địa phương, khu vực có hướng điều chỉnh và truyền thông, hướng dẫn việc thực hiện PLDS nhằm đạt tới những mục tiêu mà chương trình quốc gia về dân số, dân số - phát triển (DSPT) đã đề ra. Nghiên cứu ở từng địa bàn của mỗi tỉnh đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, từ khi Nhà nước ban hành PLDS tỉ lệ sinh con thứ 3 tăng, trong đó có nhóm cán bộ, đảng viên. Năm 2002 tỉ lệ sinh con thứ 3 ở Yên Bái là 10,55%, 2003 là 12,9% đến năm 2004 mức này là 11,6%, năm 2005 là 12% và 6 tháng đầu năm 2006 là 12,45%. Như vậy, sau ba năm thực hiện PLDS, tỷ lệ sinh con thứ ba đều cao hơn mức của năm 2002. Đây là một điều đáng lo ngại ở tỉnh Yên Bái. Do vậy, chọn đề tài về “Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số” là đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần giúp các cơ quan nhà nước thực hiện thành công những mục tiêu mà chương trình dân số, DSPT của Yên Bái đã đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm vừa qua, do yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, đã có không ít các công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về DS - KHHGĐ, DSPT, sức khoẻ sinh sản (SKSS). Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của PLDS tới nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của CBLĐQL thì chưa có nhiều. Mới có một số công trình nghiên cứu được tập hợp như sau: Tác giả Lê Thi đã có 2 bài viết. Bài viết thứ nhất “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh nhanh hiện nay” (Tạp chí Dân số và phát triển số 12/2004). Tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự gia tăng dân số trở lại. Những yếu tố tâm lý đang hiện diện trong tâm thức của người Việt Nam. Người dân nhận thức sai lầm về PLDS, trong đó có nêu lên sự tự nguyện của người dân trong việc sinh con. Từ đó bài viết đề cập giải quyết những vấn đề tâm lý không thể áp đặt thô bạo, cần phải có lý lẽ thuyết phục, những biện pháp tiến hành tế nhị, sâu sắc mới có thể thành công. Bài thứ hai “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và sự tụt hậu của Việt Nam” (Tạp chí dân số và phát triển số 2/2005). Tác giả đề cập đến hậu quả của sự gia tăng dân số dẫn đến đói nghèo khiến các chi phí cho y tế, giáo dục, văn hoá của Nhà nước không đáp ứng nổi. Tuy nhiên, đói nghèo do nhiều nguyên nhân nhưng vấn đề cơ bản chính là gia đình nghèo đông con. Vì vậy, cả xã hội phải tham gia công tác kế hoạch hoá trong việc sinh đẻ của các gia đình. Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh cũng có bài viết: “Pháp lệnh dân số nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình và xã hội” (Tạp chí Cộng sản số 27/ 2003). Tác giả đề cập đến một số quy định trong PLDS, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về DS - KHHGĐ. Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. Tác giả Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cự Linh cũng đã có bài viết: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh con thứ 3 trở lên ở Hà Nội” (Tạp chí dân số và phát triển số 6/2005). Tác giả chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc sinh con thứ 3. Trong đó nghiên cứu cho thấy một bộ phận các cặp vợ chồng đã hiểu sai, hoặc cố ý làm sai PLDS. Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ Xã hội học của Nguyễn Hữu Cường (2005) về đề tài “Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - phát triển/sức khoẻ sinh sản”, đã đi sâu phân tích, đánh giá, dự báo về xu hướng biến đổi và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức các ban Đảng vào công tác xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách DSPT/SKSS. Nghiên cứu “Đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng đối với các qui định của chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Nguyễn Đức Mạnh và các cộng sự thực hiện vào năm 2005 cũng đã chỉ rõ thực trạng nhận thức và thái độ của các nhóm đối tượng đối với một số quy định của chính sách DS - KHHGĐ và PLDS như: các quy định về tuổi kết hôn; về quy mô gia đình; về khoảng cách giữa các lần sinh; về không phân biệt giới tính; cấm lựa chọn giới tính thai nhi qua siêu âm; các quy định về sử dụng các biện pháp tránh thai; khám thai đối với phụ nữ mang thai; nạo phá thai, về phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ADIS; các quy định giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chính sách phù hợp với yêu cầu công tác DS - KHHGĐ trong thời gian tới. Ngoài ra, khi tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ đảng viên với chính sách dân số đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở những góc độ khác nhau. Tuy những nghiên cứu này được thực hiện vào thời điểm trước PLDS nhưng chúng đã cung cấp những nội dung, phương hướng, cách thức tiếp cận với vấn đề mà luận văn này đang hướng tới. Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau: Đề tài nghiên cứu khoa học về “Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và tổ chức đảng đối với Nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Đào Trọng Cảng và cộng sự tiến hành năm 1994 - 1995; “Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết TW4 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ” do GS. Chung á và cộng sự tiến hành năm 1993 - 1995. Các nghiên cứu này đã khẳng định vai trò quan trọng của các cấp uỷ Đảng và CBLĐQL trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS - KHHGĐ. Những vấn đề liên quan đến nhận thức, thái độ và hành vi lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình dân số, DS - KHHGĐ của CBLĐQL các cấp cũng đã được đề cập. Trên cơ sở này mà đề xuất một số khuyến nghị có giá trị thiết thực như: Nhanh chóng trang bị những kiến thức cơ bản và cần thiết về DS - KHHGĐ cho CBLĐQL ở các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý này. Tăng cường đầu tư kinh phí và trang thiết bị cho các địa phương để thực hiện công tác DS - KHHGĐ. Năm 1997, PGS.TS. Nguyễn Hữu Tri đã thực hiện đề tài“Đánh giá nhận thức và vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện chính sách DS - KHHGĐ”. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 20 đơn vị thuộc ba miền: Bắc, Trung và Nam. Đề tài tập trung vào việc đánh giá mức độ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện các chính sách DS - KHHGĐ. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cụ thể nhằm nâng cao vai trò và nhận thức của cán bộ quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến DS - KHHGĐ. Năm 1999, nghiên cứu của Hoàng Xuân Trường, TS. Nguyễn Phương Hồng đã tiến hành “Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt các cấp trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước ta”. Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng lãnh đạo của các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội ở tỉnh, huyện và cơ sở trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ. Qua đó đề xuất và khuyến nghị, các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt với công tác DS - KHHGĐ. Năm 2001, trong khuôn khổ dự án VIE/97/P16 do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội thuộc Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nhận thức, thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các cấp trong việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - SKSS và phát triển”. Công trình này đề cập đến nhận thức, thái độ và hoạt động tuyên truyền vận động với sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, những người có uy tín trong cộng đồng trong hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình DSPT/SKSS. Trên cơ sở đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách, chiến lược DSPT/SKSS. Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL với dân số, DSPT/SKSS là khá phong phú. Các nghiên cứu đã góp phần làm rõ thực trạng nguyên nhân, xu hướng biến chuyển trong nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL với công tác dân số, DS - KHHGĐ và DSPT trong thời gian qua. Song đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện và sâu sắc tác động của PLDS với nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của nhóm CBLĐQL các cấp. ở địa phương như Yên Bái, các công trình nghiên cứu như vậy càng hiếm hơn. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ xã hội học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung vào làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đối với PLDS, trên cơ sở này đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và các văn bản có liên quan, nâng cao hiệu lực và hiệu quả việc thực hiện PLDS. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được các mục tiêu trên luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Xác định và làm rõ một số khái niệm đặt cơ cở cho việc nghiên cứu như: nhận thức, thái độ, hành vi, PLDS, CBLĐQL. - Xác định cơ sở lý luận và những lý thuyết xã hội học cho việc nghiên cứu như lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết dân số. - Thu thập, phân tích các tài liệu có sẵn và khảo sát xã hội học để chỉ ra thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với việc tiếp thu, thực hiện PLDS và những văn bản có liên quan. - Xác định những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS. - Dự báo xu hướng và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL trong việc cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả PLDS. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL các cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã, phường của Yên Bái với PLDS. * Khách thể nghiên cứu: Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở tỉnh Yên Bái. * Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: tỉnh Yên Bái. - Thời gian: Từ sau khi ban hành PLDS (2003) đến nay. 5. Giả thuyết nghiên cứu, hệ biến số và khung lý thuyết của luận văn * Giả thuyết nghiên cứu: - PLDS có điểm quy định thiếu rõ ràng nên một bộ phận CBLĐQL có nhận thức, thái độ và hành vi chưa đúng. - Công tác truyền thông về PLDS chưa đồng bộ, thiếu nhất quán nên một bộ phận CBLĐQL quán triệt chưa cụ thể, thiếu rõ ràng nên thực hiện pháp lệnh chưa tốt. - Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS phụ thuộc khá nhiều vào đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc, cấp công tác và khối công tác. * Khung lý thuyết: Môi trườn g KT -XH Tuổi Giới tính Học vấn Dân tộc Thái độ: - ủng hộ hay không ủng hộ. - Tích cực hay không tích cực. Hành vi: - Gương mẫu thực hiện. - Tham gia tổ chức thực hiện. - Tuyên truyền, Cấp công tác Chính sách dân số Pháp lệnh dân số Khối công tác Cán bộ lãnh đạo, quản lý Nhận thức: - Nội dung PLDS. - Trách nhiệm cá nhân đối với PLDS. - Trách nhiệm của cơ quan đối với PLDS. - Nghị quyết 47/ BCT. *Hệ biến số: Đề tài đã xác định hệ thống các biến số như sau: + Biến số độc lập: Đặc điểm cá nhân: - Độ tuổi. - Giới tính. - Học vấn : Trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng trở lên. - Dân tộc. - Cấp công tác: Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, phường. - Khối công tác: Khối Đảng, khối chính quyền, khối đoàn thể, khối doanh nghiệp. + Biến số phụ thuộc: Nhận thức: - Thời điểm ra đời của PLDS. - Pháp lệnh dân số quy định về trách nhiệm công dân. - Những quy định của PLDS về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị. - Tiếp thu PLDS qua kênh truyền thông nào? hình thức nào? - Truyền thông có gì khác biệt giữa các kênh khác nhau. - Mức hiểu biết về Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị Thái độ: - Pháp lệnh dân số ra đời đúng thời điểm chưa? - Mức độ ủng hộ của CBLĐQL đối với sự ra đời của PLDS - Cán bộ có sẵn sàng tiếp thu tổ chức thực hiện PLDS không? - Mức độ cần thiết ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị. Hành vi: - Gương mẫu thực hiện. - Tuyên truyền vận động người khác thực hiện. - Tham gia tổ chức chỉ đạo thực hiện: Nêu ý kiến sửa đổi, tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đầu tư nguồn lực. + Biến trung gian: Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và môi trường kinh tế xã hội. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn * Cơ sở lý luận: - Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân số và chính sách DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS. - Dựa trên các lý thuyết xã hội học như: Lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số. * Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu sau: + Phương pháp nghiên cứu định tính: - Phân tích tài liệu có sẵn: Thu thập và phân tích các tài liệu bao gồm: các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; Niên giám thống kê của tỉnh; Các báo cáo về công tác DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS của tỉnh từ năm 2002 đến nay. - Phỏng vấn sâu 12 cuộc, trong đó CBLĐQL thuộc cơ quan đảng (3 cuộc), uỷ ban nhân dân (3 cuộc), hội đồng nhân dân (3 cuộc), tổ chức đoàn thể (3 cuộc). + Phương pháp nghiên cứu định lượng: Đề tài thực hiện điều tra xã hội học 300 phiếu trưng cầu ý kiến. + Giới tính người trả lời : Nam giới : 67% Nữ giới : 33% + Về độ tuổi: Dưới 30 tuổi : 15,9% Từ 31 - 40 tuổi : 31,4% Từ 41 - 50 tuổi : 46,2% Trên 51 tuổi : 6,5% + Về dân tộc: Kinh : 78,3% Dân tộc thiểu số : 21,7% + Học vấn: Trung học phổ thông : 6,7% Trung cấp : 25,7% Cao đẳng trở lên : 67,6% + Khối cơ quan: Khối Đảng : 19,7% Khối chính quyền : 54,0% Khối đoàn thể : 17,7% Khối doanh nghiệp : 8,6% 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn * ý nghĩa lý luận: Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số để phân tích và lý giải hành vi của nhóm CBLĐQL với việc giải quyết vấn đề dân số, DSPT, thực hiện PLDS. Luận văn sẽ góp phần làm rõ tính quy luật trong hành vi của CBLĐQL trong việc sinh sản và nâng cao chất lượng dân số. * ý nghĩa thực tiễn: - Đề tài góp phần làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của đội ngũ CBLĐQL các cấp trong việc thực hiện PLDS ở một tỉnh miền núi phía Bắc có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trên cơ sở này mà góp phần đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cũng như sự tham gia tích cực, có hiệu quả của CBLĐQL vào quá trình hoàn chỉnh và thực hiện PLDS. - Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cho đội ngũ giáo viên, học viên trong hệ thống trường chính trị khi tiếp cận và tham gia tuyên truyền, thực hiện PLDS. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết. Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu Chương 2: Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS Chương 3: Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng thực hiện PLDS Chương 1 Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Nhận thức Theo từ điển Tiếng Việt, nhận thức là nhận ra và biết được, hiểu được về một ai đó, một vấn đề hay một hiện tượng nào đó [36, tr. 89]. Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, là quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan. Quá trình ấy đi từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tri thức. Diễn ra ở mấy mức độ: - Kinh nghiệm hàng ngày về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát, thường hỗn hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống. - Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với ý thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng sai. Ngày nay đa số các nhà khoa học cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận, tiến đến gần chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ nắm bắt hết toàn bộ hiện thực, phải thải loại dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực, đi hết bước này sang bước khác [84, tr.250]. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số: Là quá trình phản ánh, thu nhận những kiến thức về PLDS. Nghiên cứu này chú trọng tới việc tìm hiểu mức độ hiểu biết của đối tượng hay khối lượng kiến thức mà đối tượng nắm được về năm ban hành và cơ quan ban hành PLDS; Hiểu biết một số quy định về nội dung trong PLDS như: Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con; về khoảng cách giữa các lần sinh; về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) (Điều 10); Hiểu biết đối với quy định cấm lựa chọn giới tính thai nhi; về quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ và về quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; Ngoài ra còn là hiểu biết về Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; Hiểu biết quy định về các biện pháp thực hiện công tác dân số. 1.1.2. Thái độ Theo từ điển xã hội học, thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là một trong những nhân tố chính gắn với cá nhân và quyết định ứng xử của cá nhân đối với đối tượng [16, tr.443]. Chúng ta có thể hiểu thái độ là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo hướng nào đó trước một vấn đề. Thái độ xuất phát chủ yếu từ những thông tin nhận được về các đối tượng, các sự vật, hiện tượng. Có thể là thông tin trực tiếp phát ra từ đối tượng, cũng có thể là gián tiếp do người khác cấp cho. Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán thành hoặc phản đối, thông qua hành vi tham gia hoặc không tham gia sự kiện đó. Thái độ của một người bị quy định bởi các yếu tố xã hội phụ thuộc vào các khuôn mẫu xã hội. Theo từ điển Tâm lý, trước một số đối tượng nhất định như hàng hoá hoặc một ý tưởng nào (chính trị, tôn giáo, triết lý), nhiều người thường có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó, đó là thái độ [84, tr.346]. Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số: Là những quan điểm của đối tượng về PLDS. Nó được thông qua việc đánh giá về mức độ ủng hộ hay không ủng hộ một số quy định trong nội dung PLDS. Thái độ đối với ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS; Mức độ ủng hộ hay không ủng hộ việc tìm hiểu và thực hiện PLDS. 1.1.3. Hành vi Mọi phản ứng của một cá nhân khi bị một yếu tố nào trong môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống và tiến trình ứng xử để thích ứng có định hướng, mục tiêu nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh thì gọi là hành vi. Theo từ điển Tiếng việt, hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư xử, biểu hiện ra ngoài của một người trong hoàn cảnh cụ thể nhất định [36, tr.25]. Hành vi là sự chuyển tải nhận thức, thái độ thành việc làm cụ thể. Hành vi của con người ở mức độ cao là được học tập và có thể thay đổi bởi ảnh hưởng của những động viên hoặc kích thích thay đổi được của môi trường. Theo Max Weber, hành vi xã hội là điểm xuất phát của mọi quá trình xã hội. Theo Parsons, muốn giải thích một hiện tượng xã hội nào phải quy về những hành vi cá nhân sơ đẳng, coi như một sự kiện, một dữ kiện riêng. Như vậy, hành vi bao giờ cũng phát triển trong hệ thống cưỡng chế ít hay nhiều rõ rệt đối với chủ thể. Tuy vậy nó cũng không phải hoàn toàn do các cơ cấu xã hội khách quan quy định. Nó là hành vi cá nhân diễn ra trong quá trình xã hội hoá, nó còn dựa vào những ý định và động cơ của chủ thể hành vi, cũng như vào những phương tiện thực hiện hành vi của chủ thể [83, tr.125]. Hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số: Là một dạng hoạt động xã hội có mục đích của nhóm xã hội - CBLĐQL gắn với sự cần thiết phải đáp ứng những nhu cầu căn bản của quá trình nhận thức về PLDS. Hành vi nghiêm túc hay gương mẫu trong việc thực hiện PLDS; tuyên truyền vận động người khác thực hiện; Tham gia tổ chức thực hiện như nêu ý kiến sửa đổi, tuyên truyền vận động, tổ chức lãnh đạo; Tham gia đầu tư nguồn lực cho việc thực hiện PLDS. 1.1.4. Cán bộ lãnh đạo, quản lý * Cán bộ, theo nghĩa chung nhất, là khái niệm chỉ người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, cán bộ chỉ người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ [54, tr.121]. * Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện chúng [17, tr.540]. Lãnh đạo thường nhấn mạnh đến chức năng định hướng về tư tưởng, sắp xếp về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một hệ thống xã hội nào đó. * Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định [17, tr.540]. Quản lý ở một góc độ nhất định thường nhấn mạnh đến chức năng điều hành, tổ chức những công việc hoặc những hoạt động cụ thể. Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, hướng khách thể quản lý đến những mục tiêu đã được xác định trước. Lãnh đạo và quản lý là hai lĩnh vực khác nhau nhưng không hoàn toàn tách biệt mà gắn bó mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau thống nhất chặt chẽ trong hoạt động của những người có chức vụ trong hệ thống tổ chức xã hội. Không nên hiểu lãnh đạo là chức năng riêng của cơ quan Đảng, cán bộ Đảng; quản lý là chức năng riêng của cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Trên thực tế, không có cán bộ Đảng nào chỉ lãnh đạo về mặt chính trị mà không quản lý, không có cán bộ chính quyền nào chỉ quản lý các hoạt động kinh tế, xã hội, dân cư...mà không lãnh đạo. Như vậy, trong luận văn sử dụng khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý là chỉ những người giữ cương vị nhất định, thường là cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị hiện nay. 1.1.5. Pháp lệnh dân số Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành. Theo quy định (điều 91) của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Uỷ ban thường vụ Quốc hội “ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày. Quyền công bố pháp lệnh thuộc về Chủ tịch nước (Điều 103, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sau một thời gian thực hiện và hoàn thiện, Quốc hội sẽ xem xét để quyết định ban hành thành luật (điều 21). Điều 47 luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định trình tự xem xét, thông qua dự án pháp lệnh tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sau khi pháp lệnh được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thực hiện pháp lệnh. Quyền giải thích pháp lệnh thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc hội [21, tr.419]. Dân số: Là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính (Khoản 1, điều 3 PLDS ) Pháp lệnh dân số: Là văn bản qui phạm pháp luật, là cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số và nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình, Nhà nước và xã hội trong công tác dân số. PLDS điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao gồm qui mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số. Theo những văn bản có tính pháp quy về dân số thì: + Quy mô dân số: Là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định (Khoản 2, điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, quy mô dân số sẽ chẳng có ý nghĩa khi xét độc lập về mặt số lượng đơn thuần, nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi so sánh chúng với nhau theo thời gian và khi xét chúng trong mối quan hệ với không gian mà con người sinh sống, nghĩa là theo quốc gia, khu vực, vùng địa lý hoặc một đơn vị hành chính. Quy mô dân số chỉ có ý nghĩa khi so sánh về tốc độ thay đổi của nó với những đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và sự phát triển nói chung của xã hội. + Cơ cấu dân số: Là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác (Khoản 3, điều 3 PLDS). Cơ cấu dân số phản ánh các đặc trưng của mỗi lớp người và của toàn bộ dân số. Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi phản ánh về mặt nhân khẩu học; các đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn phản ánh về mặt xã hội; các đặc trưng về nghề nghiệp, trình độ chuyên môn phản ánh về mặt kinh tế; các đặc trưng về giai cấp, thành phần xã hội phản ánh về mặt chính trị. Như vậy, việc phân loại tập hợp người theo các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng được hiểu chung như là cơ cấu xã hội của tập hợp người theo các đặc trưng cụ thể. + Chất lượng dân số: là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số (Khoản 6, điều 3 PLDS). Hiện nay có rất nhiều đặc trưng phản ánh trạng thái về thể chất, trí tuệ và tinh thần, nên việc đo lường đánh giá chất lượng dân số là rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Có thể gộp các đặc trưng thành 5 nhóm: Thu nhập và phúc lợi; sức khoẻ và dinh dưỡng; giáo dục và phát triển trí tuệ; giải trí văn hoá và tinh thần; môi trường sống. + Công tác dân số: Là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số (Khoản 10, điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, dân số là một tập hợp người nên mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều tác động đến mỗi người và tập hợp người. Do đó, việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động dân số là hết sức cần thiết nhằm tác động và tác động có hiệu quả đến quá trình dân số để hình thành quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong hiện tại và tương lai. 1.2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu luận văn 1.2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng Lý thuyết cơ cấu chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học như Emile Durkheim, Talcott Parson, Robert Merton và nhiều nhà xã hội học khác. Lý thuyết cơ cấu chức năng luôn nhấn mạnh đến tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định và bền vững. Cấu trúc theo các tác giả của phương pháp tiếp cận chức năng có thể khái quát lại là kiểu quan hệ giữa con người và xã hội được định hình một cách ổn định, bền vững. Chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác dụng mà một thành phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động của cả hệ thống [23, tr.201]. Các luận điểm chính của việc tiếp cận cấu trúc chức năng đều nhấn mạnh tính cân bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Theo lý thuyết cơ cấu chức năng, một xã hội tồn tại được, phát triển là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường sống thay đổi; sự biến đổi của cấu trúc luôn hướng tới thiết lập lại trạng thái cân bằng, ổn định [23, tr.199]. Tiếp cận chức năng hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc xã hội. Đối với bất kỳ sự kiện xã hội, hiện tượng xã hội nào, những người theo thuyết chức năng đều hướng vào việc phân tích các thành phần tạo nên cấu trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt xem xét quan hệ của chúng đối với nhu cầu chung của sự tồn tại, phát triển các sự kiện, hiện tượng đó. Ngoài ra lý thuyết cơ cấu chức năng còn đòi hỏi phải hướng vào tìm hiểu cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại một cách cân bằng, ổn định của một cấu trúc xã hội [23, tr.199]. T. Parsons được coi như là đại biểu xuất sắc nhất đã phát triển lý thuyết cơ cấu chức năng lên mức hoàn thiện nhất hay lý thuyết cơ cấu chức năng đã được trình bày một cách có hệ thống nhất. Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3 chiều: cấu trúc - chức năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi, vừa trao đổi với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều khiển và tự điều khiển [23, tr.204]. Khi nghiên cứu cấu trúc của hành động xã hội, Parsons cho rằng cấu trúc của hành động được triển khai trên các cấp độ hệ thống khác nhau, trong đó hệ thống xã hội chỉ là một trong các hệ thống của nó. Ông cho rằng thông qua quá trình xã hội hoá cá nhân, hành động của con người hình thành và biểu hiện trên các cấp độ hệ thống từ cấp hành vi của cá thể lên cấp nhân cách, cấp xã hội và cấp văn hoá. Trong các hệ thống hành động trên (từ cấp hành vi đến cấp văn hoá) đều phải thích ứng với những vấn đề có tính chức năng, những nhu cầu của tổng thể hệ thống, đó là vấn đề thích nghi, hướng đích, thống nhất và duy trì khuôn mẫu. Các nhu cầu chức năng của hệ thống là những đòi hỏi mạnh đến mức nó buộc bộ phận nào hoạt động không đúng chức năng sẽ phải thay đổi thậm chí bị thu hẹp lại, hay phá bỏ đi hình thành bộ phận thay thế. Bộ phận nào hoạt động có hiệu quả sẽ trưởng thành, lớn mạnh. Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt là AGIL. Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích ứng với môi trường; (G) Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu; (I) Liên kết, phối hợp các hoạt động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định, trật tự [23, tr.206]. Tương ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, người ta có tiểu hệ thống kinh tế; tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội được quy chuẩn thông qua các thiết chế gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn giáo. Tương quan và tương tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ thống xã hội. Parson cho rằng các tiểu hệ thống quan hệ với nhau theo nguyên lý điều khiển học và theo nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Thực tế, các tiểu hệ thống trao đổi với nhau thông qua một loạt các phương tiện và công cụ xã hội. Còn Merton cho rằng thuyết cấu trúc chức năng là sự giải thích một hiện tượng xã hội bằng cách chỉ ra hệ quả (chức năng) của nó đối với những cấu trúc mà nó là một bộ phận cấu thành. Theo ông các cấu trúc văn hoá mà cụ thể là hệ các giá trị xã hội là những yếu tố cơ bản để lý giải cơ chế hoạt động và phối hợp hoạt động của các thiết chế xã hội. Một trong những đóng góp lớn của Merton đối với lý thuyết chức năng trong xã hội học là việc phát hiện ra sự loạn chức năng còn gọi là phi chức năng hay phản chức năng. Theo ông phản chức năng là những hệ quả làm cản trở, thậm chí gây rối loạn, làm giảm khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Điều này cho thấy hệ quả có thể là chức năng, tức là có lợi cho nhóm người này nhưng lại là phản chức năng, tức là có hại cho nhóm người kia. Merton đã sử dụng triệt để cách phân tích chức năng luận để đưa ra lý thuyết về sự sai lệch xã hội. Ông cho rằng sự lệch chuẩn là sự không phù hợp, sự lệch pha giữa mục tiêu văn hoá và phương tiện được thiết chế hoá. Do xác định sai mục tiêu văn hoá hoặc chọn sai phương tiện mà hành động bị coi là lệch chuẩn, là sai lệch thậm chí là tội phạm. Merton đã phân biệt năm kiểu hành động thích nghi với xã hội đó là: + “Kiểu thoả hiệp: Khi cả mục tiêu văn hoá và phương tiện được chủ thể lựa chọn đều phù hợp với các hệ giá trị, chuẩn mực xã hội và do vậy được xã hội hoàn toàn chấp nhận. + Kiểu đổi mới: Đây là kiểu hành động nhằm mục tiêu đã được chấp nhận nhưng bằng những phương tiện và cách làm mà xã hội có thể chưa hay không chấp nhận. + Kiểu nghi thức: Đây là kiểu hành động tuân theo các thủ tục, các quy định và sử dụng các phương tiện được thừa nhận, nhưng lại không nhằm vào mục tiêu văn hoá được xã hội chấp nhận. + Kiểu thoái lui: Đây là kiểu hành động mà cả mục tiêu và phương tiện của nó đều không được chấp nhận. + Kiểu nổi loạn: Đây là kiểu hành động hướng tới mục tiêu mới được đặt ra để thay thế cho những mục tiêu cũ và sử dụng phương tiện mới thay thế cho phương tiện cũ. Trong năm kiểu hành động này được sắp xếp trên cùng một trục ta thấy kiểu hành động thoả hiệp nằm ở cực “bình thường, đúng mực” đối lập với kiểu nổi loạn ở cực “bất thường, sai lệch”. Các kiểu hành động còn lại nằm dọc trên trục này, cụ thể sau “thoả hiệp” là “đổi mới”, tiếp đến là “nghi thức” rồi “thoái lui” và cuối cùng là “nổi loạn” [23, tr.214-215]. Merton nhấn mạnh sự khác biệt giữa các kiểu ứng xử xã hội chủ yếu là ở sự nhận thức và thái độ đánh giá của xã hội đối với từng biểu hiện của mục tiêu văn hoá và phương tiện được lựa chọn để thực hiện mục tiêu. Tiêu chuẩn để xác định mức độ đúng mực hay sai lệch của hành động phụ thuộc vào hệ quả của nó đối với xã hội. Điều này liên quan tới câu hỏi phương pháp luận của thuyết cấu trúc- chức năng mà Merton đặt ra đó là hành động xã hội có chức năng hay phản chức năng đối với những nhóm cụ thể nào [23, tr.215]. Theo hướng tiếp cận chức năng thì mọi xã hội từ bản chất nội tại của nó luôn có xu hướng tiến tới sự hài hoà và tự điều chỉnh tương tự như những cơ thể sinh học, giống như cơ thể con người là một thể thống nhất, mà các bộ phận riêng phải phục tùng những nhu cầu cụ thể của cả hệ thống. Xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tạo nên sự bền vững của tổng thể [37, tr.59]. áp dụng lý thuyết cơ cấu chức năng vào xem xét hệ thống tổ chức chính trị và chức năng của từng bộ phận CBLĐQL trong việc hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, xã hội mà hệ thống đặt ra cho thấy, với PLDS CBLĐQL là người phải nghiêm túc thực hiện PLDS. Nhận thức của CBLĐ QL thế nào thì họ sẽ có thái độ, hành vi tương ứng như vậy. Tuy nhiên, hành vi của họ còn phụ thuộc vào vị thế, vai trò, những chuẩn mực văn hoá và hệ thống xã hội đã sắp xếp họ vào. Đây là cơ sở quan trọng để xem xét thái độ và hành động của CBLĐQL trong việc tổ chức thực hiện PLDS. 1.2.2. Lý thuyết hành động xã hội Lý thuyết hành động xã hội gắn với tên tuổi nhiều nhà xã hội học, trong đó đặc biệt là M. Weber. Tiếp cận này coi hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người. ở phương diện triết học, hành động xã hội là một hình thức hoặc cách thức giải quyết các mâu thuẫn, các vấn đề xã hội. Còn ở phương diện xã hội học, hành động xã hội được hiểu cụ thể hơn và thường gắn với các chủ thể của hành động là các cá nhân. Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết xã hội học của Max Weber là hành động xã hội. Weber đã sử dụng triệt để phương pháp luận để định nghĩa xã hội học là “khoa học giải nghĩa hành động xã hội và... tiến tới cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động xã hội”[86, tr.4]. Theo quan điểm của Weber, xã hội học là khoa học có nhiệm vụ lý giải, tức là giải nghĩa, thông hiểu động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội. Điều này cho thấy xã hội học vừa có đặc điểm tự nhiên, tức là giải thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành động xã hội, vừa có đặc điểm của khoa học xã hội - nhân văn, tức là lý giải mục đích, nhu cầu, động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội [12, tr.115]. Xã hội học phải là một khoa học giải thích các lý do của hành động xã hội, quá trình và tác động của chúng. Hành động có nghĩa là một thái độ của con người (tự có, hành động bên ngoài hoặc bên trong, không được phép hoặc được phép), khi và chỉ khi chủ thể gắn liền thái độ của mình với một ý nghĩa chủ quan. Hành động, cái ý nghĩa mà các tác nhân phản ảnh, có quan hệ với hành động của những người khác và diễn ra do sự định hướng của hành động này. M. Weber cho rằng xã hội học chỉ xem xét hành động chừng nào chủ thể có một ý nghĩa xác định cho những hành động của mình. Chỉ hành động như vậy mới có thể khiến nhà xã hội học quan tâm. Khái niệm hành động xã hội xác lập chỉ chừng nào chủ thể hành động gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan. Đối với M. Weber, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là thứ hành động gắn với ý nghĩa được ám chỉ một cách chủ quan. Theo quan điểm của ông, xã hội học là khoa học về cái “hiểu” [11, tr.102-103]. Như vậy, hành động xã hội nghĩa là cơ sở của những động cơ chủ quan của cá nhân (hay nhóm) và sự định hướng đến người khác. Đây là hai điều kiện mà thiếu nó thì không thể nói đến hành động xã hội. Trên cơ sở đó, M. Weber đã chỉ ra sự khác nhau giữa hành động xã hội và những hành vi và hoạt động khác của con người. Nói tới hành động là nói tới việc chủ thể gắn cho hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó. Hành động, kể cả hành động thụ động và không hành động (ví dụ như hành động im lặng, hành động chờ đợi không làm gì cả) được gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó có tính đến hành vi của người khác trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai; ý nghĩa chủ quan đó định hướng hành động [23, tr.177-178]. Theo quan điểm của M. Weber, không phải hành động nào cũng có tính xã hội hay đều là hành động xã hội. Những hành động nào chỉ nhằm tới các sự vật mà không tính đến hành vi của người khác thì không được gọi là hành động xã hội. Không phải tương tác nào của con người cũng là hành động xã hội. Chỉ những hoạt động nào có mục đích, chủ thể “hiểu” ý nghĩa của nó mới là “hành động xã hội” cần nghiên cứu. Theo hướng này M. Weber phân hành động xã hội thành 4 loại bao gồm: + “Hành động duy lý giá trị: Là hành động được thực hiện vì bản thân hành động (mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào những mục đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy lý. Ví dụ hoạt động tín ngưỡng là một loại hành động duy lý giá trị. + Hành động cảm tính (xúc cảm): Là hành động do các trạng thái xúc cảm hoặc tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động. Những hành động này rất khó kiểm tra, vì nó mang tính tự phát, những hành động do cảm xúc cũng khó nghiên cứu. Ví dụ hành động của đám đông quá khích hay hành động do tức giận gây ra. + Hành động theo truyền thống: Là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghi lễ, phong tục tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời khác như hành động theo người xưa, cổ nhân nói, hành động vì mọi người đều làm như thế cả… + Hành động duy lý - công cụ: Là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Ví dụ rõ nhất là hành động kinh tế luôn phải tính toán, lựa chọn phương pháp để đạt được năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất có thể được” [23, tr.179-180]. Theo M. Weber, bốn loại hành động trên đây không tồn tại độc lập hoàn toàn với nhau mà có sự tác động và thâm nhập vào nhau. Ông coi bốn loại hình hành động này hết sức cần thiết đối với nhà nghiên cứu. Vấn đề là ở chỗ cần phải xác định được ranh giới của bốn loại hoạt động đó trong từng nền văn hoá khác nhau. Theo Weber, xã hội cấu thành từ các cá nhân với những hành động xã hội đặc trưng của họ. Tuy nhiên, trong bốn loại hành động trên, hành động duy lý - công cụ là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Với những đặc trưng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng thuyết hành động xã hội vào nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS. ở đây, bên cạnh hành vi sinh sản của từng người cần phải xem xét hoạt động tổ chức, chỉ đạo, tuyên truyền thực hiện các chính sách dân số nhất là PLDS. Trong đó các yếu tố về chuẩn mực văn hoá, quan niệm về hạnh phúc gia đình, con cái chi phối thế nào đến hành vi sinh sản và sự tham gia tổ chức chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện PLDS của CBLĐQL là những điều cần phải chú ý. 1.2.3. Lý thuyết dân số Quá độ dân số là lý thuyết được các nhà nhân khẩu học phương Tây đưa ra hơn nửa thế kỷ trước nhằm phân tích sự biến đổi dân số. Lý thuyết này cho rằng, sự phát triển dân số luôn tuân theo một quy luật nhất định và sự gia tăng dân số có quan hệ biện chứng với sự phát triển kinh tế - xã hội [85, tr.17]. Chính vì vậy, tiến trình phát triển dân số của các quốc gia thường phải đi qua 3 giai đoạn sau: Giai đoạn trước quá độ có đặc trưng là mức sinh cao và ổn định còn mức chết cao và biến động. Sự không ổn định của tỷ suất tử là sự phản ánh những biến đổi trong nền kinh tế, ảnh hưởng của mùa màng và bệnh tật. Trong điều kiện kinh tế như vậy, mức sinh cũng rất cao, tư tưởng đông con nhiều cháu đã ăn sâu vào cộng đồng xã hội; Giai đoạn quá độ là thời kỳ có những biến động lớn cả về mức sinh và mức chết mà xu hướng thường gặp là mức chết giảm nhanh hơn mức sinh. Đây là giai đoạn sự gia tăng dân số bắt đầu diễn ra với tốc độ cao còn gọi là bùng nổ dân số; Giai đoạn sau quá độ có đặc trưng là mức sinh và mức chết đều thấp. Những thành tựu của khoa học và công nghệ tạo khả năng cho con người có thể kéo dài tuổi thọ, loại trừ một số dịch bệnh ra khỏi đời sống xã hội, dịch vụ sức khoẻ của con người tốt hơn và kết quả là mức chết giảm nhanh và mức sinh dần ổn định. Xã hội xuất hiện một thời kỳ “dư lợi dân số”. Trong xã hội, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn (60% - 65%). Nơi nào tận dụng được tiềm năng lao động này thường đẩy nhanh được tốc độ phát triển kinh tế. Ngược lại, đây sẽ là gánh nặng về giải quyết việc làm, thất nghiệp và những phức tạp xã hội khác. Như vậy, quá độ dân số là quá trình chuyển đổi khuôn mẫu cân bằng dân số trên cơ sở tương quan giữa tỷ suất sinh và tỷ suất chết khi nhân loại đi từ xã hội tiền công nghiệp sang xã hội công nghiệp. Nếu ở thời kỳ đầu, lý thuyết này mới chỉ ở dạng mô tả thuần tuý thì sau này nó càng được mở rộng, bổ sung và phát triển. Trên cơ sở hai yếu tố chủ đạo là mức sinh và mức chết, lý thuyết quá độ dân số đã cho thấy những khía cạnh rộng lớn và phức tạp trong việc phân tích các động thái dân số. Vận dụng lý thuyết quá độ dân số vào việc xem xét nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL là việc hết sức cần. Bởi dựa vào lý thuyết này sẽ cho phép làm rõ cơ sở thực tiễn khoa học của quá độ dân số ở nước ta hiện nay. Những yếu tố cần thiết làm giảm mức chết và giảm mức sinh đã đạt ngưỡng để đưa ra những quyết định có tính bước ngoặt trong PLDS hay chưa? Sự chuyển biến về nhận thức, thái độ, hành vi của CBLĐQL và của cả cộng đồng dân cư đã có thể đảm bảo những giải pháp mà PLDS đưa ra được thực hiện hay chưa? Đây là vấn đề mà luận văn sẽ góp một phần làm rõ thông qua thực tế được phân tích ở phần sau, từ thực tiễn của tỉnh Yên Bái. 1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách dân số và pháp lệnh dân số 1.3.1. Quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách dân số Do sớm nhận thức được tác động to lớn của dân số đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đời sống của từng gia đình, của mỗi cá nhân nói riêng, nên từ đầu thập niên 1960 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý. Chính sách dân số hướng tới giảm sinh ở Việt Nam ra đời cách đây hơn 40 năm được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ. Tại thời điểm này, chính sách dân số được thể hiện thông qua cuộc vận động về “hướng dẫn sinh đẻ” và sau đó “sinh đẻ có kế hoạch” hay kế hoạch hoá gia đình. Điều đó chứng tỏ Nhà nước ta đã sớm ý thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh, kiềm chế sự bùng nổ dân số. Tuy nhiên, chính sách dân số trong giai đoạn đầu tiên còn gặp nhiều khó khăn trong cả nhận thức lẫn kinh nghiệm tổ chức thực hiện. Công tác tuyên truyền, vận động và giáo dục, thuyết phục chưa được coi trọng đúng mức, các nguồn lực của xã hội chưa được huy động đầy đủ, lại chưa cung cấp thuận tiện và đa dạng các dịch vụ KHHGĐ. Hàng chục năm, công tác DS - KHHGĐ đạt kết quả còn rất khiêm tốn. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm còn ở mức cao (trên 3%). Chất lượng dân số, vì nhiều lý do còn rất thấp. Công tác DS - KHHGĐ tiếp tục được triển khai trong phạm vi cả nước với mục đích đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch thông qua các văn bản quan trọng của Chính phủ, tại Đại hội lần thứ IV, lần thứ V và lần thứ VI của Đảng. Công tác DS - KHHGĐ được xác định có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Mục tiêu cuộc vận động là đẻ ít (2 đến 3 con), đẻ muộn (từ 22 tuổi trở lên) và đẻ thưa (cách nhau từ 3 - 5 năm). Mục tiêu cụ thể được xác định tại đại hội IV (1976) là “đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ gia tăng dân số hàng năm, phấn đấu đến năm 1980, tỷ lệ tăng dân số là trên 2% một ít”; tại Đại hội V (1982) Đảng xác định: “giảm tốc độ tăng dân số bình quân của cả nước từ 2,4% hàng năm xuống còn 1,7% vào năm 1985”; tại Đại hội VI (năm 1986) “giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,2% hiện nay xuống 1,7% vào năm 1990” [67, tr.10]. Trong giai đoạn này, Chính phủ đã có chỉ thị cho các cấp, các ngành phải tham gia công tác dân số nhưng thực tế chỉ có ngành y tế, phụ nữ và công đoàn trực tiếp thực hiện. Các cấp uỷ đảng, chính quyền chưa thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo công tác DS - KHHGĐ, nhiều CBLĐQL vẫn coi đây là công tác của ngành y tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, phần chính sách dân số và việc làm chỉ rõ: “Thực hiện đồng bộ chiến lược ổn định dân số trên cả ba mặt: quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân số; giảm tỷ lệ phát triển dân số mỗi năm khoảng 0,4 - 0,6%o và coi giảm tốc độ tăng dân số là một quốc sách” [85, tr.346]. Để tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách về dân số, bộ máy tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ cũng dần được hoàn thiện. Ngày 19/6/1991, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 193-HĐBT về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Uỷ ban quốc gia DS - KHHGĐ; Quyết định số 315-QĐ của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược truyền thông DS - KHHGĐ. Từ sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, nhận thức ngày càng rõ hơn về sức ép gay gắt của sự gia tăng dân số quá nhanh đối với sự phát triển đất nước, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VII) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 04-NQ/TW ngày 14/1/1993 về chính sách DS - KHHGĐ. Đây là Nghị quyết Trung ương đầu tiên đề cập sâu sắc và toàn diện về công tác DS - KHHGĐ, nó tạo ra bước ngoặt quan trọng đối với công tác dân số ở Việt Nam. Nghị quyết này đã đề ra 5 quan điểm cơ bản sau: (1)Công tác DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội; (2) Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác DS - KHHGĐ là vận động, tuyên truyền và giáo dục, gắn liền với đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân, có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng nhân dân thực hiện KHHGĐ;(3) Đầu tư cho công tác DS - KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác DS - KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế;(4) Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác DS - KHHGĐ, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu quả và đến tận người dân;(5) Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ theo chương trình [67, tr.12-13]. Sau đó, trong quyết định số 270/TTg (1993), Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược DS - KHHGĐ đến năm 2000. Đây là chiến lược DS - KHHGĐ đầu tiên, đánh dấu bước chuyển biến rất quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách dân số của Việt Nam. Để tăng cường triển khai công tác DS - KHHGĐ, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 50- CT/TW, ngày 6/3/1995 về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ. Mục tiêu của chính sách dân số là: Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”. Mục tiêu cụ thể là : “Mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi gia đình có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ thứ 21. Tập trung mọi nỗ lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt ngay trong thập kỷ 90 này”. Đến nay, Đảng và Nhà nước ta không chỉ tập trung giải quyết vấn đề quy mô dân số mà phải giải quyết đồng bộ, từng bước, có trọng điểm các vấn đề về cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số. Đảng và Nhà nước đã liên tiếp ra nhiều chỉ thị, nghị quyết như Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Chỉ thị số 10/2001/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Nghị định số 94/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em; Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học. Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 10/2001/CT-TTg ngày 4/5/2001 nhằm cụ thể hoá việc thực hiện Chiến lược DS - KHHGĐ trong giai đoạn 2001 - 2005 với mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là “Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh để đạt mức sinh thay thế bình quân trong toàn quốc chậm nhất vào năm 2005, ở vùng sâu, vùng xa và vùng nghèo chậm nhất vào năm 2010 để quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội vào năm 2010” [73, tr.2]. Tuy nhiên, những chỉ tiêu này, đến nay đã không đạt được. Lý do: sau khi Uỷ ban Thường vụ quốc hội ban hành PLDS (9/1/2003), một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân không hiểu hết những quy định của nó. Do vậy, nhiều người đã sinh thêm con thứ ba. Tỷ lệ dân số tự nhiên ở nhiều tỉnh, thành phố lại gia tăng. Cụ thể, năm 2003 mức tăng tự nhiên của dân số Việt Nam là 1,47%, tăng 0,15% so với mức 1,32% của năm 2002, tỷ lệ tăng dân số năm 2004 là 1,4% và năm 2005 là 1,38% [29, tr.1]. Trước tình hình trên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết 47- NQ/TW của Bộ Chính trị xác định hai mục tiêu cơ bản là: Nhanh chóng đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hai con), tiến tới ổn định quy mô dân số nước ta ở mức 115-120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI” và “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [30, tr.3]. Vấn đề đặt ra là vì sao khi PLDS ra đời và có hiệu lực trên thực tế, tỷ lệ sinh con thứ ba lại gia tăng. Xem xét điều này phải hết sức căn cứ vào nội dung, cách trình bày và vận động của xã hội với văn bản pháp lý quan trọng này. 1.3.2. Pháp lệnh dân số của Việt Nam năm 2003 Pháp lệnh dân số được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 9/1/2003 số 06/2003/PL-UBTVQH11, là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực dân số, là những quy định khung, định hướng để điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số, phân bố dân cư, các biện pháp thực hiện công tác dân số, quản lý nhà nước về dân số. Pháp lệnh dân số được ban hành nhằm quán triệt quan điểm của Đảng tại NQTW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ và thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Pháp lệnh dân số được xây dựng phù hợp với các công ước, điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập, trong đó có Chương trình hành động quốc tế về DSPT mà nội dung cần đặc biệt chú ý là quyền con người, quyền sinh sản và quyền phát triển toàn diện. Pháp lệnh dân số đặt con người vào vị trí trung tâm là động lực của sự phát triển. PLDS bảo đảm quyền chủ động, tự nguyện của mỗi công dân trong việc phát triển toàn diện bản thân phù hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước. Pháp lệnh dân số bao gồm phần mở đầu, 7 chương và 40 điều. Trong nội dung PLDS có một số quy định cụ thể như sau: * Quy định nguyên tắc của công tác dân số. Nguyên tắc của công tác dân số là: (1) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, chất lượng cuộc sống của cá nhân, gia đình và toàn xã hội; (2) Bảo đảm việc chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, gia đình trong kiểm soát sinh sản, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, lựa chọn nơi cư trú và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; (3) Kết hợp giữa quyền và lợi ích của cá nhân, gia đình với lợi ích của cộng đồng và toàn xã hội, thực hiện quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững (Điều 2 PLDS). Đây là 3 nguyên tắc nhằm bảo đảm sự chủ động của cả đối tượng thi hành và chủ thể tham gia công tác tổ chức thực hiện Pháp lệnh và chính sách dân số. PLDS cũng đã quán triệt đường lối, chính sách của Đảng về công tác dân số, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, tạo điều kiện để giải quyết vấn đề dân số gắn với phát triển. * Quy định về thực hiện kế hoạch hoá gia đình. PLDS quy định “Kế hoạch hoá gia đình là nỗ lực của mỗi gia đình, của nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình”(Khoản 9, điều 3 PLDS). Xét về bản chất, KHHGĐ không phải là mục đích tự thân mà là kết quả vận động của gia đình, nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng có đủ kiến thức, sự hiểu biết và quyết định một cách có trách nhiệm khi thực hiện quyền sinh sản. Vì vậy, PLDS quy định “Kế hoạch hoá gia đình là biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp phần bảo đảm cuộc sống no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”(Khoản 1, điều 9). Điều 7 - PLDS quy định nghiêm cấm các hành vi như: “Cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ; Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; Sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, cung cấp phương tiện tránh thai giả, không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, quá hạn sử dụng, chưa được phép lưu hành; Di cư và cư trú trái pháp luật; Tuyên truyền phổ biến hoặc đưa ra những thông tin có nội dung trái với chính sách dân số, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có ảnh hưởng xấu đến công tác dân số và đời sống xã hội; Nhân bản vô tính người”. Quy định này thể hiện tính lôgíc, nhất quán của chính sách dân số. Việc thực hiện KHHGĐ chủ động, tự nguyện để mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định một cách có trách nhiệm về số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình. Đồng thời, để bảo đảm quyền của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc lựa chọn, sử dụng biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện kinh tế, sức khoẻ, tâm lý và các điều kiện khác, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân trong việc thực hiện KHHGĐ. Đó là yêu cầu, là biện pháp trong việc thực hiện KHHGĐ, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ. Bất cứ hành vi nào gây cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ đều bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo đúng pháp luật. Khoản 2, điều 9 PLDS cũng quy định các biện pháp của KHHGĐ bao gồm: Tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ bảo đảm để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện thực hiện KHHGĐ; Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ bảo đảm chất lượng, thuận tiện, an toàn và đến tận người dân; Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần, thực hiện các chính sách bảo hiểm để tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện KHHGĐ sâu rộng trong nhân dân”. Trong quy định này mỗi cá cặp vợ chồng, cá nhân chủ động, tự nguyện thực hiện quyền, nghĩa vụ về KHHGĐ phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân, gia đình thì phải thực hiện đồng bộ ba biện pháp tuyên truyền, vận động, tư vấn, cung cấp dịch vụ và khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần. * Quy định về chất lượng dân số. PLDS quy định “Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”(Khoản 6, điều 3 PLDS); “Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước”(Khoản 1, điều 20). Quy định này khẳng định quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Do vậy, việc nâng cao chất lượng dân số là mục đích cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với cách tiếp cận có tính hệ thống, nhân văn, coi con người là trung tâm, là mục đích tối thượng của sự phát triển đã mở rộng các cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của mỗi người nhằm hướng tới một cuộc sống phát triển bền vững. Trong đó việc tăng thu nhập, được tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục tốt hơn, có chỗ ở tốt hơn, có việc làm phù hợp, tham gia đầy đủ tích cực hơn vào các hoạt động xã hội, cộng đồng…chính là sự thể hiện quyền được lựa chọn của các cá nhân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều 21 PLDS quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số, cụ thể là: “Bảo đảm quyền cơ bản của con người; quyền phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần; hỗ trợ nâng cao những chỉ số cơ bản về chiều cao, cân nặng, sức bền; tăng tuổi thọ bình quân; nâng cao trình độ học vấn và tăng thu nhập bình quân đầu người; Tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đặc biệt về giáo dục, y tế để cải thiện chất lượng sống và nâng cao chất lượng dân số”. Như vậy, quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số nhằm bảo đảm yêu cầu mở rộng cơ hội lựa chọn của con người, tạo điều kiện cho mỗi người thực hiện các quyền cơ bản, quyền phát triển đầy đủ, được tiếp cận với dịch vụ y tế, giáo dục, phát triển năng khiếu, hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí. Đây là những quy định hết sức tiến bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi người, của cả cộng đồng trong thời đại mới - văn minh, phù hợp với cả những quy định quốc tế mà Việt Nam đã cam kết thực hiện. * Quy định quyền và nghĩa vụ của công dân. PLDS quy định các quyền của công dân về công tác dân số nhằm bảo đảm sự chủ động, tự nguyện của mỗi công dân, bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu một cách bền vững. Các quyền của công dân bao gồm: Quyền được cung cấp thông tin về dân số; được cung cấp các dịch vụ dân số có chất lượng, thuận tiện, an toàn và được giữ bí mật theo quy định của pháp luật; Quyền lựa chọn các biện pháp chăm sóc sức khoẻ sinh sản, KHHGĐ và nâng cao chất lượng dân số; Quyền lựa chọn nơi cư trú phù hợp với quy định của pháp luật (Khoản 1, điều 4 PLDS). Quyền sinh sản được quy định cụ thể tại điều 10, khoản 1, điểm a, PLDS quy định quyền “quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng” [67, tr.72]. Quyền sinh sản là quyền quyết định tự nguyện và có trách nhiệm về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh. Quyền sinh sản phù hợp với các quyền cơ bản của con người được chấp nhận trong luật pháp quốc gia, trong các văn bản nhân quyền quốc tế đã được thông qua tại Liên Hiệp quốc. Điều này cho thấy, mỗi cặp vợ chồng và cá nhân thực hiện quyền sinh sản một cách có trách nhiệm, phù hợp với những nguyên tắc và chuẩn mực của công tác dân số. Đây cũng là điểm quy định hết sức tiến bộ trong PLDS. Tuy nhiên, điểm này nếu không đạt trong tổng thể các quy định về quyền và nghĩa vụ sẽ dễ đưa đến những nhận thức sai lệch về việc thực hiện quyền sinh sản trên thực tế. ở đây, quyền được cung cấp thông tin về dân số; được cung cấp các dịch vụ dân số có chất lượng, thuận tiện, an toàn và được giữ bí mật theo quy định của pháp luật được coi là các quyền điều kiện để thực hiện các quyền cơ bản hướng đích. Đó là quyền sinh sản, quyền lựa chọn các biện pháp chăm sóc SKSS, KHHGĐ và nâng cao chất lượng dân số và quyền lựa chọn nơi cư trú phù hợp với quy định của pháp luật. Thực tế đã có không ít người hiểu chưa đầy đủ về những quy định về quyền và nghĩa vụ công dân trong PLDS. Một số người chỉ nhấn mạnh đến quy định quyền, không gắn quyền với nghĩa vụ. Đây là lý do khiến thời gian qua một số cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục sinh con thứ ba. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên lại có xu hướng cao ở một số tỉnh, thành phố. Cần phải khẳng định rằng, PLDS đã quy định các nghĩa vụ của công dân về sinh sản nhằm bảo đảm lợi ích của cá nhân, gia đình, nhà nước, cơ quan, tổ chức và cộng đồng. Các nghĩa vụ công dân bao gồm: “Thực hiện KHHGĐ, xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững; Thực hiện các biện pháp phù hợp để nâng cao thể chất, trí tuệ, tinh thần của bản thân và các thành viên trong gia đình; Tôn trọng lợi ích của nhà nước, xã hội, cộng đồng trong việc điều chỉnh quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, nâng cao chất lượng dân số; Thực hiện các quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến công tác dân số”(Khoản 2, điều 4). Quy định công dân có nghĩa vụ thực hiện việc kiểm soát sinh sản và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, các thành viên gia đình giúp người dân hiểu và tự nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trên đây là những nội dung cơ bản chính yếu nhất của PLDS - văn bản có tính pháp lý cao nhất của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về dân số. Đây cũng là một văn bản đã tích hợp được những quy chuẩn về giá trị của cả quốc tế lẫn Việt Nam. Tuy nhiên, văn bản này cũng còn có điều khoản chưa gắn bó chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc thực hiện chức năng sinh sản của mọi người, của mỗi cặp vợ chồng. Do vậy, cả tuyên truyền giải thích lẫn hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân nhiều lúc chưa nhất quán. Việc thực hiện PLDS còn nhiều vấn đề phải bàn bạc, điều chỉnh. Chính vì vậy, nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành động của người dân, nhất là của CBLĐQL các cấp với PLDS là điều đang rất cần. Chính trong thông báo của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phiên họp thứ 38 ngày 27/3/2006 để chuẩn bị trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 9 đã ghi rõ: “Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nghe và cho ý kiến về Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của PLDS; nhất trí cho rằng không nên vội sửa đổi PLDS với nội dung như quy định trong tờ trình của Chính phủ (Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ thực hiện gia đình có một hoặc hai con, ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững) mà cần tổng kết về việc thực hiện Pháp lệnh này để nâng lên thành Luật dân số”. Đây chính là cơ sở để luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng vấn đề này ở tỉnh Yên Bái, góp thêm thông tin, thực tiễn để góp phần giúp các nhà làm luật sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh PLDS, làm cho PLDS được thực thi có hiệu quả nhất. Chương 2 Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Yên Bái 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên Yên Bái là một tỉnh miền núi, nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa Tây Bắc và Trung du Bắc bộ. Phía Tây Bắc giáp tỉnh Lao Cai, phía Đông Bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang; Phía Đông Nam giáp tỉnh Phú Thọ và phía Tây Nam giáp tỉnh Sơn La. Diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh là 6887 km2, xếp thứ 4 trong số 11 tỉnh vùng Đông Bắc (sau Lạng Sơn, Lao Cai, Hà Giang). So với các tỉnh và thành phố trong cả nước thì Yên Bái xếp thứ 15. Địa bàn rộng nên từ trung tâm thành phố đi huyện Mù Cang Chải dài hơn 200 km. Yên Bái có 9 đơn vị hành chính cấp huyện thị (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã phường, thị trấn. Theo báo cáo của tỉnh tính đến ngày 31/12/2005 có 85 xã vùng cao trong đó có 70 xã vùng cao đặc biệt khó khăn, chiếm 74,2% về diện tích và 39,95% về dân số so với toàn tỉnh. Toàn tỉnh có 731.784 người trong đó nam là 363.010 người, nữ là 368.774 người, có 30 dân tộc anh em cùng chung sống. Dân tộc thiểu số chiếm 50,4% dân số toàn tỉnh [9, tr.6]. Tuy nằm sâu trong nội địa nhưng Yên Bái tương đối thuận lợi về giao thông, với một mạng lưới đường sắt, đường bộ, đường thủy khá thuận lợi. Yên Bái có vị trí quan trọng, là một trong những đầu mối giao thông của vùng núi phía Bắc. Địa hình: Đặc điểm địa hình của tỉnh Yên Bái là cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi ba dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây Bắc - Đông Nam. Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia Yên Bái thành hai vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. - Vùng cao có độ cao trung bình 600m trở lên so với mặt nước biển, bao gồm 70 xã có diện tích tự nhiên chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, đại bộ phận là đồng bào thiểu số như: Mông, Dao, Khơ Mú; trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém; tập quán canh tác lạc hậu, còn nhiều hộ du canh du cư; đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn. - Vùng thấp có độ cao dưới 600m, chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn địa chiếm 32,44% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân cư vùng này đông đúc, đại bộ phận là người Kinh, Thái, Tày, Nùng. Người dân có tập quán canh tác tiến bộ hơn, đời sống nhân dân khá hơn, trình độ dân trí cao hơn. Nhiều công trình thuộc cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, đặc biệt là những vùng thị trấn, thị xã. Đây là vùng đang góp phần quan trọng làm tăng trưởng nền kinh tế của tỉnh. Thời tiết và khí hậu: Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 22-230C, tổng nhiệt độ cả năm 7.500-8.0000C; lượng mưa trung bình 1.500- 2.200 mm/năm; độ ẩm trung bình 83- 87%, rất thuận lợi cho việc phát triển nông lâm nghiệp. Tài nguyên rừng: Theo số liệu điều tra 1998 toàn tỉnh có 180.410,2 ha rừng tự nhiên, 78.330 ha rừng trồng, tỷ lệ tán che 37,59%. Tổng trữ lượng gỗ các loại khoảng 17.200.000m3. Ngoài ra, Yên Bái còn nhiều cây tre vầu nứa và các loại lâm sản khác. Về khai thác lâm sản từ khi có chủ trương đóng cửa rừng, sản lượng khai thác gỗ đã giảm xuống đáng kể từ 114.114m3 năm 1991 (trong đó rừng tự nhiên 42.830 m3, rừng trồng 71.284 m3) xuống 37.747 m3 năm 1998 (trong đó rừng tự nhiên 9.325 m3, rừng trồng 28.422 m3). Năm 2002, diện tích đất rừng đạt 274.410 ha, so với năm 1995 tăng 66.802 ha (trong đó, rừng tự nhiên tăng 22.122 ha, rừng trồng tăng 4.680 ha); tỷ lệ tán che đạt 40%, so với năm 1995 tăng 9,5%. Đây là điểm đạt giới hạn cho phép của độ an toàn về môi trường và sản lượng khai thác. Tài nguyên nước: Yên Bái có ba hệ thống sông suối lớn: sông Hồng, sông Chảy và suối Nâm Kim (một chi nhánh của sông Đà) với tổng chiều dài 320 km với diện tích lưu vực trên 3.400 km2. Hệ thống chi lưu của nó phân bố tương đối đồng đều trên toàn lãnh thổ. Ngoài hệ thống sông suối còn có 20.193 ha mặt nước hồ ao, trong đó hồ Thác Bà 19.050 ha. Trong nhiều năm, nguồn tiềm năng này đã được khai thác sử dụng để xây dựng thủy điện, sản xuất nông, lâm nghiệp, vận chuyển lâm sản, hàng hóa và giao lưu giữa các vùng trong tỉnh cũng như giữa Yên Bái với đồng bằng sông Hồng. Tiềm năng du lịch: Yên Bái là một tỉnh miền núi có phong cảnh thiên nhiên đa dạng, nhiều hang động; hang Thẩm Lé (Văn Chấn), Thẩm Khuôi, động Thủy Tiên (Yên Bình)..., sông hồ lớn như: Hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng và nhiều di tích cách mạng. Song do điều kiện kinh tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém nên chưa có điều kiện khai thác những tiềm năng này để phát triển ngành du lịch. Trong tương lai gần, cần đầu tư để xây dựng và phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Yên Bái đang là tỉnh nghèo của cả nước, GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 4,267 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 19,29% xuống còn 7%. Riêng đối với vùng cao, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 35,4% xuống còn 22,27%. Tỉnh cũng đã hoàn thành xoá trên 4454 căn nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ chính sách. Trong 5 năm (2001-2005) thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân tăng 9,55%/năm. Trong đó: - Nhóm nông lâm ngư thủy sản tăng 5,6%/năm. - Nhóm công nghiệp - xây dựng tăng 12,8%/năm. - Nhóm dịch vụ tăng 11,8%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 5.500 tỷ đồng, bình quân tăng 17,45%/năm, so với năm 5 trước tăng 2,51 lần. Giải quyết và tạo việc làm mới cho 85.000 lao động. Cơ cấu lao động chuyển dịch còn chậm, nhưng theo hướng tích cực; lao động trong lĩnh vực nông nghiệp giảm từ 82,37% năm 2000 xuống còn 76,3% năm 2005 và lao động trong công nghiệp, dịch vụ tăng từ 8,59% lên 23,7% [5, tr.7]. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo có tiến bộ, 96,4% số trẻ em từ 3 đến 5 tuổi đến lớp mẫu giáo; 180 xã, phường hoàn thành chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; 160 xã, phường hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở; thực hiện kiên cố 4.200 phòng học [9, tr.202]. Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; có 17,5% tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 50% tỷ lệ dân số được dùng nước hợp vệ sinh. Hiện nay, kinh tế trang trại được xác định là hướng đi quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh, với 808 trang trại đạt tiêu chí quốc gia. Trên đây là những thành tựu quan trọng mà tỉnh Yên Bái đã đạt được, làm tiền đề cơ bản để tiến nhanh, tiến mạnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, Yên Bái vẫn còn là một tỉnh miền núi nghèo. Nền kinh tế kém phát triển. Kết cấu hạ tầng cơ sở thấp kém, hệ thống giao thông còn nhiều khó khăn. Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt với khoảng cách ngày một lớn. Vẫn còn tình trạng du canh, du cư và học sinh tái mù chữ. Nhiều xã chưa có điện, chưa có nước sạch; trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn chiếm tỷ lệ cao. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều song ngoài yếu tố xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, trình độ dân trí thấp lại không đồng đều giữa các vùng thì ở vùng cao, tỷ lệ gia tăng dân số trên 2%. Đặc biệt, tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng trở lại trong một số năm gần đây là vấn đề cần phải chú ý. Đây là yếu tố sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển bền vững của Yên Bái - điều mà các ngành, các cấp của tỉnh Yên Bái không thể không quan tâm. 2.2. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số Pháp lệnh dân số là văn bản có giá trị cao nhất với mục đích là nâng cao trách nhiệm của công dân, nhà nước và xã hội trong công tác dân số; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường thống nhất quản lý nhà nước về dân số. Vì vậy, hiểu và biết rõ PLDS của CBLĐQL có ý nghĩa quan trọng. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về PLDS, CBLĐQL mới có thái độ và hành vi tốt trong thực hiện PLDS. 2.2.1. Hiểu biết về thời gian và cơ quan ban hành pháp lệnh dân số Chỉ báo đầu tiên để đánh giá nhận thức của CBLĐQL đối với PLDS là thời gian ra đời của Pháp lệnh này. Tổng hợp số liệu từ câu hỏi điều tra: PLDS ban hành vào năm nào? Số liệu cho thấy, tỷ lệ CBLĐQL trả lời đúng (PLDS được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 9/1/2003, sau đó Chủ tịch nước công bố ngày 22/1/2003) là 55,3%; số CBLĐQL trả lời sai chiếm 32,7%, không biết 12%. Điều này cho thấy CBLĐQL biết về năm ban hành PLDS không cao. Tỷ lệ người trả lời đúng về năm ban hành PLDS ở cấp huyện chiếm cao nhất là 69,2%, cấp tỉnh là 60,9%, cấp xã, phường là 25%. Trong đó, cấp xã, phường trả lời sai về năm ban hành PLDS chiếm tỷ lệ cao nhất 70,6%, cấp tỉnh 26,8%, cấp huyện 13,8%. Số liệu này cho thấy có sự mâu thuẫn giữa nhận thức của các nhóm cán bộ và công việc thực tế mà họ đang làm. Cụ thể, cán bộ cấp xã, phường là những người trực tiếp nhất trong thực hiện công tác dân số nhưng PLDS ra đời năm nào họ lại ít nhớ chỉ 25% số người được hỏi trả lời đúng (xem biểu 2.1). Biểu 2.1: Tương quan giữa năm ban hành PLDS với cấp công tác của CBLĐQL 60.9 69.2 25 26.8 13.8 70.6 12.3 17 4.4 0 10 20 30 40 50 60 70 80 § óng Sai Kh«ng biÕt CÊp tØnh CÊp huyÖn CÊp x· Bên cạnh chỉ báo đánh giá về thời gian ban hành PLDS, cuộc điều tra còn hướng tới làm rõ chủ thể ban hành PLDS. Điều này giúp xác định rõ hơn nhận thức của CBLĐQL đối với PLDS. Với câu hỏi: Đồng chí cho biết cơ quan nào ban hành PLDS, có 58% CBLĐQL trả lời đúng - đó là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Số ý kiến trả lời sai khá cao 40%. Số ý kiến này cho rằng PLDS do các cơ quan khác như Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em Việt Nam, Chính phủ hoặc Bộ Chính trị ban hành (xem biểu 2.2). Biểu 2.2: Tỷ lệ CBLĐQL hiểu biết về cơ quan ban hành pháp lệnh dân số 2% 40% § óng Sai Những số liệu tổng hợp trên đã cho thấy, nhận thức của CBLĐQL về cơ quan ban hành PLDS còn khá mơ hồ, thiếu chính xác. Tuy nhiên, nhận thức này có sự khác biệt giữa các nhóm có học vấn khác nhau, nhóm có học vấn càng cao thì nhận thức đúng càng lớn. (xem bảng 2.1) Bảng 2.1: Hiểu biết của CBLĐQL về cơ quan ban hành PLDS phân theo trình độ học vấn Đơn vị tính: % Hiểu biết về cơ quan ban hành PLDS Trung học phổ thông Trung cấp Cao đẳng trở lên Đúng 35,0 45,5 64,5 Sai 60,0 50,7 33,5 Không biết 5,0 3,8 2,0 Bảng số liệu trên cho thấy, biến số học vấn có ảnh hưởng đến nhận thức của người trả lời về cơ quan ban hành PLDS. Có tới 64,5% CBLĐQL có trình độ Cao đẳng trở lên trả lời đúng, so với 45,5% CBLĐQL có trình độ học vấn trung cấp và 35% CBLĐQL có trình độ trung học phổ thông. Trong khi đó, nhóm CBLĐQL có trình độ trung học phổ thông trả lời “không biết” PLDS do cơ quan nào ban hành chiếm tỷ lệ cao nhất (5%). Như vậy, hiểu biết chung của CBLĐQL về năm ra đời và cơ quan ban hành PLDS còn thiếu chính xác. ở đây, yếu tố cấp công tác và tương đồng với nó là trình độ học vấn của CBLĐQL đã ảnh hưởng nhiều đến nhận thức của họ về PLDS: cấp công tác càng cao (cấp tỉnh), trình độ học vấn cao (cao đẳng trở lên) thì nhận thức càng rõ hơn về thời gian ban hành và chủ thể ban hành của PLDS. 2.2.2. Hiểu biết về nội dung của pháp lệnh dân số * Hiểu biết về một số nội dung chính của PLDS Đánh giá về nhận thức của CBLĐQL đối với PLDS không thể không tìm hiểu những hiểu biết của họ về nội dung mà PLDS đã đề cập. Tuy nhiên, nội dung của PLDS có rất nhiều, nghiên cứu chỉ đề cập đến một số vấn đề chính như: Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về công tác dân số; điều chỉnh quy mô dân số; KHHGĐ; điều chỉnh cơ cấu dân số; phân bố dân cư; chất lượng dân số và nâng cao chất lượng dân số; quản lý nhà nước về dân số; khen thưởng và xử lý vi phạm. Mỗi một nội dung cụ thể được quy định trong PLDS tuỳ theo khả năng tiếp cận thực tiễn của mình mà hiểu biết về PLDS của CBLĐQL ở các nhóm xã hội là khác nhau. Cụ thể: Bảng 2.2: Tỷ lệ CBLĐQL biết đúng về một số nội dung chính của PLDS Đơn vị tính % TT Nội dung PLDS Hiểu biết đúng Tỷ lệ % 1 Quy định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. 193 64,3 2 Quy định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về công tác dân số. 269 89,7 3 Quy định trách nhiệm của nhà nước, cơ quan, đoàn thể xã hội trong công tác dân số. 251 83,7 4 Quy định về phòng chống tệ nạn xã hội và HIV/AIDS. 95 31,7 5 Quy định về điều chỉnh quy mô dân số 214 71,3 6 Quy định về kế hoạch hoá gia đình 270 90,0 7 Quy định về an toàn cộng đồng, phòng chống tai nạn thương tích 35 11,7 8 Quy định về điều chỉnh cơ cấu dân số 211 70,3 9 Quy định về việc phân bố dân cư 123 41,0 10 Quy định về chất lượng dân số và nâng cao chất lượng dân số 220 73,3 11 Quy định về quyền trẻ em 117 39,0 12 Quy định quản lý nhà nước về dân số 244 81,3 13 Quy định về quyền phụ nữ 113 37,7 14 Quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm 174 58,0 Để đánh giá chính xác hiểu biết của CBLĐQL với một số nội dung chính của PLDS, nghiên cứu đã đưa ra nhiều chỉ báo đúng song cũng kèm một số chỉ báo sai. Đây là cách để kiểm tra nhận thức của các nhóm CBLĐQL. Những số liệu tổng hợp cho thấy, phần lớn CBLĐQL có nhận biết đúng về những nội dung cụ thể trong PLDS. Trong đó, nhận thức đúng quy định về KHHGĐ chiếm tỷ lệ cao nhất (90%). Mục đích chính của KHHGĐ là để điều chỉnh mức sinh. Đây là giải pháp quan trọng chính yếu để giảm sự gia tăng dân số. Chiếm tỷ lệ cao thứ hai là hiểu biết của CBLĐQL về những quy định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong công tác dân số (89,7%). Hầu hết, CBLĐQL đều ý thức rõ được quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Đây là sự nhấn mạnh gắn kết giữa quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân trong công tác dân số. Điều này đã được quy định ngay cả trong Hiến pháp năm 1992 và được sửa đổi, bổ sung năm 2001: “quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội” (Điều 51). Với những quy định như vậy, một người không thể chỉ đòi hỏi quyền mà không chịu thực hiện nghĩa vụ và ngược lại, không một ai chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ mà không được hưởng quyền lợi. Nghĩa vụ của mỗi công dân là thực hiện đúng, đủ các quy định của pháp luật về công tác dân số và được hưởng tất cả những quyền mà pháp luật đã quy định. Mặt khác, mỗi công dân còn có nhiều quyền như quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được học tập, làm việc, quyền được phát triển toàn diện. Nhưng mỗi công dân cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số, thực hiện gia đình có quy mô nhỏ - chỉ có một hoặc hai con. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu chính xác là như vậy. Chiếm tỷ lệ cao thứ ba là quy định trách nhiệm của nhà nước, cơ quan, đoàn thể xã hội trong công tác dân số (83,7%). Số liệu này cho thấy, trách nhiệm của nhà nước, cơ quan, đoàn thể xã hội trong công tác dân số vẫn được người trả lời đánh giá cao. Đây cũng là sự thể hiện phần nào đó ý thức trách nhiệm của bản thân CBLĐQL với công tác dân số, DSPT trong các lĩnh vực công tác của mình. Nhà nước có trách nhiệm trong việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ chương trình KHHGĐ, chăm sóc SKSS và nâng cao chất lượng dân số. Các chính sách, biện pháp để triển khai công tác dân số được thể hiện qua hệ thống pháp luật, các chiến lược, chương trình có mục tiêu. Nhiều CBLĐQL cũng đã hiểu rằng, PLDS và các văn bản khác của nhà nước đã xác định các cơ quan, tổ chức phải tích cực chủ động lồng ghép các yếu tố dân số trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; tuyên truyền, vận động thực hiện công tác dân số; cung cấp các loại dịch vụ dân số; tổ chức thực hiện pháp luật về dân số trong cơ quan, tổ chức mình. Chiếm tỷ lệ cao thứ tư là quy định quản lý nhà nước về dân số có 81,3% ý kiến được hỏi đồng ý. Số liệu cho thấy, CBLĐQL đã có những hiểu biết tốt về những quy định trong quản lý nhà nước về dân số. Quy định này xác định rõ mục đích quản lý nhà nước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả công tác dân số và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường, thống nhất quản lý nhà nước về dân số. Ngoài ra, PLDS còn quy định về chất lượng dân số và nâng cao chất lượng dân số. CBLĐQL đã có ý thức tốt về vấn đề này chiếm 73,3%. Một số CBLĐQL đã hiểu đây là quy định cơ bản và toàn diện nhằm nâng cao chất lượng con người và chất lượng dân số; nâng cao chỉ số phát triển con người. Từ việc bảo đảm những quyền cơ bản của con người như: quyền được phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ, tinh thần đến việc được cung cấp thông tin qua tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ và đa dạng hoá các loại hình cung cấp dịch vụ về dân số và DSPT. Với PLDS, đây là lần đầu tiên vấn đề chất lượng dân số được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, giải quyết đầy đủ, đồng bộ, cân đối các lĩnh vực của công tác dân số. Các quy định khác như quy định về điều chỉnh quy mô dân số cũng có 71,3% CBLĐQL được hỏi biết quy định này; quy định về điều chỉnh cơ cấu dân số (70,3%); quy định về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (64,3%); quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm (58%); quy định về phân bố dân cư (41%). Như vậy, nhiều nội dung cơ bản của PLDS đã được CBLĐQL biết đến - đây là điều đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh phần đông CBLĐQL trả lời nhận thức rõ về các nội dung cơ bản của pháp lệnh, vẫn còn những nhận thức chưa đúng về những nội dung cơ bản trong PLDS. Một số nội dung được đưa ra không có trong pháp lệnh, song vẫn có nhiều ý kiến cho rằng những nội dung này có trong PLDS như: “Quy định về quyền trẻ em” là nội dung không có trong PLDS nhưng có tới 39% số cán bộ trả lời có. Đây là một nhầm lẫn đáng tiếc; nội dung khác “quy định về quyền phụ nữ” cũng có tới 37,7% ý kiến cho rằng đây là một nội dung trong PLDS nhưng thực tế quyền sinh sản và quyền bảo vệ SKSS là quyền của chung tất cả mọi người; tương tự như vậy, “Quy định về phòng chống tệ nạn xã hội và HIV/AIDS” tuy không có trong PLDS như một mục riêng nhưng cũng có tới 31,7% ý kiến cán bộ cho rằng đây là một nội dung của PLDS; Bên cạnh đó, nội dung “quy định về an toàn cộng đồng, phòng chống tai nạn thương tích” thậm chí không có liên quan gì đến nội dung của PLDS thì cũng có tới 11,7% CBLĐQL được hỏi cho đó là nội dung PLDS. Tất cả những điều trên cho thấy, vẫn còn một bộ phận CBLĐQL chưa nắm vững những quy định được đưa ra trong PLDS. Về đại thể họ biết có trong PLDS song khi đi vào những nội dung cụ thể, chi tiết thì họ không nắm được. Đây là một khâu yếu trong tuyên truyền, giải thích và cung cấp thông tin cho CBLĐQL nói chung ở nước ta hiện nay, trong đó có PLDS. Điều này cho thấy, phải có kế hoạch tuyên truyền, vận động cụ thể hơn, chi tiết hơn cho từng nhóm cán bộ cũng như cho cả cộng đồng. Rõ ràng, ngay cả với đội ngũ CBLĐQL, công tác truyền thông về dân số, DSPT/SKSS và PLDS còn nhiều việc phải làm. Chỉ có như vậy mới làm thay đổi hẳn cả nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL - nhóm xã hội có vai trò cực kỳ quan trọng trong thực hiện PLDS. * Hiểu biết về một số nội dung cụ thể trong PLDS: Như đã phân tích ở trên, PLDS có rất nhiều nội dung cụ thể khác nhau, nghiên cứu chỉ đưa ra một số nội dung cơ bản để đánh giá sự hiểu biết của CBLĐQL đối với một số quy định, nhất là những quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ công dân và các yếu tố của quá trình dân số. + Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con: Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ đã chỉ rõ trong phần mục tiêu cụ thể “Mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi gia đình (mỗi cặp vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ 21. Tập trung mọi nỗ lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt ngay trong thập kỷ 90 này” [59, tr.35]. Trong PLDS, điều 4, khoản 2, điểm a quy định: Công dân có nghĩa vụ “Thực hiện KHHGĐ, xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững” [82, tr.3]. Nghị định 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS: Điều 3, khoản 2 quy định “Quy mô gia đình ít con là mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con”; Điều 17, khoản 3, điểm a quy định: Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ “Thực hiện quy mô gia đình ít con - có một hoặc hai con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững” [31, tr.7]. Theo kết quả khảo sát, nhận thức của CBLĐQL đối với quy định của nhà nước về số con của các cặp vợ chồng là tương đối rõ ràng và chính xác. Hầu hết những người được hỏi (chiếm 96%) đều biết rõ về quy định số con trong PLDS. Khi phân tích tương quan giữa các nhóm tuổi cho thấy, phần lớn CBLĐQL được hỏi ở các nhóm tuổi đều trả lời đúng về quy định số con trong PLDS như: CBLĐQL dưới 30 tuổi trả lời đúng là 95,7%, từ 31 - 40 tuổi (96,7%), từ 41- 50 tuổi (95,5%) và CBLĐQL trên 51 tuổi nhận thức đúng là 100%. Tuy nhiên, vẫn còn một số CBLĐQL nhận thức sai khi cho rằng PLDS quy định mỗi cặp vợ chồng có thể sinh ba con hoặc chỉ được sinh một con. Số lượng ý kiến này là không đáng kể nhưng rất đáng chú ý. Bởi lẽ đây là những nhận thức hết sức sai lầm - nguyên nhân làm tăng tỷ lệ dân số trong thời gian qua. Nghiên cứu định tính cũng cho những kết quả tương tự. Có thể thấy điều này qua phỏng vấn sâu CBLĐQL cấp xã như sau: “Pháp lệnh dân số ra đời, tôi cứ tưởng là nhà nước cho sinh con thứ ba. Gia đình nào có khả năng thì cứ sinh chứ không phải sinh 1-2 con” (PVS, LĐ cấp xã, dân tộc Mông, xã Tá Lâu, huyện Trạm Tấu). Tương tự như vậy, quan điểm một CBLĐQL cấp huyện cho biết: “Tôi nghe nói PLDS ra đời là mọi người có thể tự quyết định sinh con tuỳ ý, Nhà nước không cấm đoán chuyện này như trước nữa. Nhà tôi thì cũng mới có 3 cháu gái, vợ tôi và ông bà hai bên nội ngoại đều mong muốn có thêm cháu trai nên tôi quyết định sinh và đã được như mong muốn”(PVS, LĐ huyện, huyện Mù Cang Chải). Kết quả phỏng vấn sâu trên cho thấy, không chỉ cộng đồng mà ngay cả cán bộ, kể cả CBLĐQL huyện đang có nhận thức lệch lạc về quy định số con của mỗi cặp vợ chồng trong PLDS. Đây cũng là biểu hiện cho thấy sự thiếu vững chắc trong những thành quả mà chương trình dân số quốc gia đã đạt được. Tâm lý muốn có con trai để “nối dõi tông đường” và tâm lý “đông con nhiều phúc” còn nặng. + Hiểu biết quy định về khoảng cách giữa các lần sinh Trong PLDS điều 10, khoản 1, điểm a và Nghị định 104/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS, điều 17, khoản 2, điểm a quy định Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng giữa các lần sinh phù hợp với quy mô gia đình ít con, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và chính sách dân số của nhà nước trong từng giai đoạn; phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của các cặp vợ chồng, cá nhân trên cơ sở bình đẳng [31, tr.7]. Với câu hỏi “Đồng chí có biết trong hướng dẫn về PLDS quy định cụ thể về khoảng cách giữa các lần sinh không?”, kết quả thu được cho thấy, có tới 70% những người được hỏi cho biết nhà nước đã có quy định về khoảng cách giữa các lần sinh, nhưng vẫn còn tới 24,7% số người được hỏi cho rằng không có quy định này và 5,3% không biết nhà nước đã có quy định điều này trong PLDS hay không. Những số liệu này cho thấy, mặc dù PLDS đã được tuyên truyền nhiều nhưng tính hình thức còn lớn, hiệu quả truyền thông chưa cao, còn tới 1/3 số cán bộ được hỏi trả lời sai hoặc không biết có quy định này trong PLDS hay không. Đây là điều đáng chú ý để đưa ra giải pháp can thiệp về sau. So sánh nhận thức về quy định khoảng cách giữa các lần sinh trong PLDS của CBLĐQL phân theo khối công tác cũng thấy những khác biệt đáng chú ý (xem biểu 2.3). Biểu 2.3: Tương quan giữa quy định về khoảng cách giữa các lần sinh với khối công tác của CBLĐQL 61 71 77 69 34 25 17 19 5 4 6 12 0 10 20 30 40 50 60 70 80 Cã Kh«ng Kh«ng biÕt Khèi § ¶ng ChÝnh quyÒn § oµn thÓ Doanh nghiÖp Số liệu ở biểu đồ trên cho thấy, CBLĐQL thuộc khối đoàn thể có nhận thức chính xác với tỷ lệ cao nhất, sau đó là khối chính quyền, khối doanh nghiệp và khối Đảng có tỷ lệ nhận thức đúng thấp hơn hai khối trên. Trên thực tế, khối đoàn thể là khối thường xuyên tiếp cận và lồng ghép công tác tuyên truyền, vận động những nội dung liên quan đến dân số nhiều hơn, do đó, có thể họ có những nhận thức rõ hơn những khối cơ quan khác. Qua khảo sát cho thấy, 77% số người được hỏi thuộc khối đoàn thể khẳng định PLDS có quy định về khoảng cách giữa các lần sinh, 17% khẳng định không có quy định này và chỉ với 6% không biết là có quy định này; khối chính quyền có biết quy định về khoảng cách giữa các lần sinh là 71%, không có quy định là 25% và số không biết là 4%; khối Đảng biết có quy định về khoảng cách giữa các lần sinh là 61%, không có quy định là 34% và số không biết là 5%. Như vậy, khối đoàn thể và doanh nghiệp có hiểu biết tốt hơn khối chính quyền và khối Đảng. + Hiểu biết đối với quy định về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện KHHGĐ. Điều 10, khoản 1 quy định: Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền: a. Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng. b. Lựa chọn, sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình [82, tr.5]. Đây là điều khoản quy định trong PLDS dễ bị hiểu lầm và gây tranh cãi nhiều nhất. Chính vì vậy, nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi để CBLĐQL trả lời xem quy định trên đã rõ ràng, rành mạch chưa? Tổng hợp số liệu từ câu trả lời của CBLĐQL được hỏi cho số liệu trong bảng sau ( xem bảng 2.3). Bảng 2.3: Hiểu biết của CBLĐQL về quyền của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện KHHGĐ. Đơn vị tính: % Hiểu biết điều 10, khoản 1, điểm a Điều 10, khoản 1, điểm a Điều 10, khoản 1, điểm b Số lượng % Số lượng % Rất rõ ràng 68 22.7 103 34.3 Rõ ràng 90 30.0 177 59.0 Không rõ ràng 136 45.3 13 4.3 Khó trả lời 6 2.0 7 2.4 Tổng số 300 100 300 100 Kết quả khảo sát cho thấy, về Điều 10, khoản 1, điểm a, tỷ lệ người được hỏi cho rằng quy định như vậy là không rõ ràng chiếm 45,3%. Điều này gây nhiều tranh cãi và có những hiểu lầm về việc quy định số con từ khi PLDS ra đời. Ngược lại, với điểm b có tới 93,3% CBLĐQL có ý kiến cho rằng quy định mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền lựa chọn, sử dụng các biện pháp KHHGĐ là rất rõ ràng và rõ ràng, chỉ có 4,3% ý kiến cho rằng không rõ ràng. Một số phỏng vấn sâu cũng cho thấy, hầu hết CBLĐQL đều cho rằng Nhà nước quy định mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định số con là chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ. Khi hỏi ý kiến của CBLĐQL là Nhà nước cho các cặp vợ chồng được đẻ tự do đúng hay sai? 56,7% CBLĐQL cho rằng điều đó là sai. Khi họ đánh giá là sai tức là họ đã có những nhận thức đúng, bởi vì, PLDS không hàm ý các cặp vợ chồng được sinh đẻ “tự do”. Bên cạnh đó vẫn còn 43,3% số người được hỏi cho rằng điều đó là đúng, nghĩa là họ đã có nhận thức sai. PLDS không hàm ý cho các cặp vợ chồng được sinh đẻ “tự do”. Trong khi đó đánh giá của người trả lời về ý kiến của đồng nghiệp với câu hỏi này cho thấy kết quả tương tự như cách mà họ đã hiểu. Nghĩa là cán bộ ở cơ quan đơn vị người công tác trả lời có nhận thức đúng chiếm 55,7% và sai chiếm 44,3%. Những con số này cho thấy CBLĐQL có sự hiểu biết sai hoặc cố tình hiểu sai về quy định trong điều 10, khoản 1, điểm a là khá đông. Họ đã không hiểu tính ràng buộc giữa quyền với nghĩa vụ của công dân trong quy định về số con. Điều này cắt nghĩa cho tình trạng gia tăng dân số trở lại của tỉnh Yên Bái nói riêng, cũng như của cả nước nói chung, từ sau khi có PLDS. Theo báo cáo của Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (UBDSGĐ&TE) tỉnh Yên Bái, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên một số năm gần đây như sau: Biểu 2.4: Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên qua một số năm gần đây ở tỉnh Yên Bái Qua biểu 2.4 cho thấy, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở Yên Bái tăng lên từ khi PLDS ra đời. Năm 2002 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 10,55% nhưng đến năm 2003 tỷ lệ này tăng lên 12,9%; năm 2004 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm xuống còn 11,6%; năm 2005 10.55 12.9 12.451211.6 0 2 4 6 8 10 12 14 2002 2003 2004 2005 th¸ ng 6/2006 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tăng lên 12% và đến tháng 6/2006 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tiếp tục tăng trở lại 12,45%. Một thực tế khó phủ nhận, những người sinh con thứ ba trở lên ở tỉnh Yên Bái không phải chỉ là người dân mà đang tăng ở cả cán bộ, đảng viên. Qua phỏng vấn sâu, một CBLĐQL ở cấp xã đã sinh con thứ ba cho câu trả lời sau: “Tôi đã sinh được 3 đứa con gái rồi. Vì tôi là con trưởng trong gia đình nên Bố mẹ tôi mong có cháu đức tôn nên tôi quyết định sinh thêm cháu thứ 4...”(PVS, LĐ cấp xã, dân tộc Mông, xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn, Yên Bái ) Trước đây, cán bộ công chức Nhà nước sinh ít con, một phần do bị hạn chế bởi những quy định chỉ được phép sinh một hoặc hai con chứ không chỉ đơn thuần là từ ý thức giác ngộ và mong muốn của họ. Vì vậy, khi có cơ hội là tỷ lệ sinh con thứ ba lập tức tăng. Đây là kết quả tác động của các yếu tố kinh tế tăng trưởng liên tục, đời sống được cải thiện, tâm lý thích con trai vẫn còn nặng trong cộng đồng dân cư. Thực tế khá nhiều người hiểu quyền quyết định số con mà PLDS quy định cho mỗi cặp vợ chồng và cá nhân đồng nghĩa với sinh bao nhiêu tuỳ ý. Một số người cho rằng, PLDS khuyến khích các gia đình sinh thêm con. Quan niệm sai lầm này tồn tại không chỉ ở người dân mà còn ở cả cán bộ, đảng viên. Họ cho rằng PLDS tạo cho họ một tâm lý thoải mái hơn hay coi việc sinh con thứ 3 trở lên là chuyện bình thường, đương nhiên được chấp nhận trong xã hội. Điều đó có nghĩa là hiểu biết của CBLĐQL vẫn còn có sự bất cập giữa nhận thức thực tế và nhận thức về những quy định chung. Đây là vấn đề cần phải chú ý để có giải pháp về tuyên truyền giáo dục và tổ chức quản lý của CBLĐQL trong thực hiện triệt để PLDS. Như vậy, vấn đề về số con nhất là con trai vẫn đang là một vấn đề nhạy cảm. Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đã tiến gần đến mức sinh thay thế. Song những thành tựu mà công tác dân số của Việt Nam đạt được vẫn chưa thực sự bền vững. Quy mô dân số vẫn có nguy cơ tăng nhanh trở lại nếu công tác tuyên truyền và các biện pháp thực hiện thiếu rõ ràng. Do đó, việc nâng cao nhận thức cho các CBLĐQL vẫn là vấn đề rất cần được quan tâm. Về nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện KHHGĐ, PLDS đã ghi rõ trong Điều 10, khoản 2, các điểm a, b, c. Cụ thể: Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ: a. Sử dụng các biện pháp tránh thai b. Bảo vệ sức khoẻ và thực hiện các biện pháp phòng, tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS c. Thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hóa gia đình [82, tr.5-6] Khi hỏi về hiểu biết của CBLĐQL về các điều quy định này, tổng hợp số liệu khảo sát ở tỉnh Yên Bái cho thấy như sau: Bảng 2.4: Hiểu biết của CBLĐQL về nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện KHHGĐ. Đơn vị tính: % Hiểu biết về nghĩa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số.pdf
Tài liệu liên quan