Luận văn Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tài liệu Luận văn Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: LUẬN VĂN: Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa A. ĐặT VấN Đề Vấn đề Nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Vì vậy ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.. Trong báo cáo chính trị của “ban chấp hành trung ương” khoá VIII trình đại hội IX của Đảng ta có đề cập. Nhà nước ta quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Điều đó đã thúc đẩy mọi người phát huy nghiên cứu mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong 15 năm qua nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn thoát khỏi những khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống...

pdf29 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa A. ĐặT VấN Đề Vấn đề Nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Vì vậy ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.. Trong báo cáo chính trị của “ban chấp hành trung ương” khoá VIII trình đại hội IX của Đảng ta có đề cập. Nhà nước ta quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Điều đó đã thúc đẩy mọi người phát huy nghiên cứu mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong 15 năm qua nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn thoát khỏi những khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy- luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị trường. Như vậy, việc Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều hết sức cần thiết. B. Nội dung I. Những lý luân chung về quan điểm toàn diện. 1. Cơ sở lý luận. Quan điểm toàn diện được xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng. Đó là các sự vật hiện tượng không tồn tại cô lập, biệt luật mà thống nhất nhau trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Không chỉ tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống lĩnh vực tinh thần mọi sự vật hiện tượng cũng luôn luôn liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Sự liên hệ đó là tính khách quan và tính phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Trong thế giới khách quan có vô vàn mối liên hệ, chúng rất đa dạng và giữ vai trò vị trí khác nhau trong sự tồn tại, vận động phát triển sự vật hiện tượng có mối quan hệ bên trong (sự liên hệ tác động, lại có mối liên hệ bên ngoài, nói chung mối liên hệ này không có ý nghĩa quyết định hơn nữa nó thường thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với các sự vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên nó là mối liên hệ hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường vì vậy không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời những sự kiện khác. Chẳng hạn cuộc cách mạng khoá học cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa tạo ra những thời cơ nhưng cũng vừa tạo ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm phát triển. Nước ta có tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không trước hết phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng của Nhà nước và tiếp nữa là sự phấn đấu toàn nhân dân Việt Nam. Song chúng ta cũng khó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không hội nhập quốc tế. Không vận dụng được những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà thế giới đã đạt được. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi có thể giữ vai trò chủ đạo. Có mối liên hệ chung trong toàn bộ thế giới, cũng có mối liên hệ riêng trong từng lĩnh vực cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hay nhiều sự vật hiện tượng, lại có mối liên hệ gián tiếp (sự vật hiện tượng liên hệ tác động qua lại lẫn nhau thông qua một hay nhiều khâu trung gian). Từ nhận thức trên trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có các yếu tố thị trường, các công cụ quản lý nền kinh tế quan điểm toàn diện ở đây thể hiện ở chỗ muốn xây dựng nền kinh tế thị trường phải xây dựng các yếu tố thị trường mang tính đồng bộ tính toàn diện chứ không phải xây dựng các công cụ riêng biệt lẻ loi, các thị trường hàng hoá, dịch vụ cụ thể (thị trường vốn, thị trường lao động ) mà ngay bản thân nền kinh tế cũng vậy nó không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế chính trị ngoại giao, kinh tế chính trị, đạo đức pháp quyền, kinh tế chính trị – khoa khọc – nghệ thuật) 2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức đúng đắn về sự vật, chúng ta phải xem xét nó trên 2 khía cạnh. a. Trong mối liên hệ giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác của chính sự vật đó. b. Trong mối liên hệ giữa sự vật đó với sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp) - VI – Lê Nin viết “Muốn hiểu thực sự được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mói liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó” Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cầm xem xét nó trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh nhất định con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy trí thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. - Như vậy quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dần trải, liệt kê những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dần trải, liệt kê những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng. Nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, chủ yếu nhất và quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. 3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện. Để cải tạo một sự vật hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động thực tiễn, đòi hỏi một hệ thống các biện pháp nhất định. Nếu thiếu tính toàn diện trong các chủ trương biện pháp thì sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Song toàn diện đồng bộ, không phải cái gì cũng đặt ra một cách dẫn đến tràn lan mà đòi hỏi trong mỗi một thời kỳ mỗi một giai đoạn phải có những chủ trương, những biện pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm, phải xác định được những khâu then chốt tập trung giải quyết để làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp khác một cách đồng bộ góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều phiến diện trong thế giới khách quan, mọi sự vật, mọi hiện tượng đều có rất nhiều mối liên hệ. Vì vậy cần phải xem xét các mặt tránh xem xét một mặt hoặc một vài mắt đã vội kết luận ngay vấn đề như vậy sẽ không chính xác. các quan hệ lợi ích thường chỉ thắng lợi ích trước mắt và không thấy được lợi ích lâu dài. Chống lại chủ nghĩa nguỵ biện và chủ nghĩa triết chung nhân danh toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật. II. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1. Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là gì? 1.1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm của kinh tế thị trường. Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loại người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản xuất đã bắt đầu có sản xuất thặng dư, tức là phần sản phẩm nhảy vọt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra. Mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu nhiên nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những sản phẩm dư thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình thiếu do kết quả phân công chuyên môn hoá đưa lại thị trường sơ khai xuất hiện từ đó. Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế thị trường mới được xác lập, và phải đến cuối giai đoạn phát triển của CNTB tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới được xác lập hoàn toàn. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá với những đặc trưng riêng của nó là người làm ra sản phẩm với mục đích đi bán (để trao đổi) chứ không phải tiêu dùng hay ngẫu nhiên như trước. Đặc trưng đó ngày càng được bổ sung phong phú thêm. Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi đó là trình độ văn minh mà nhân loại đạt được. Do đó mọi quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là phát minh riêng của chủ nghĩa tư bản là không có căn cứ. Việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản rồi nó tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng kinh tế thị trường là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN.... Đều có thể dẫn đến sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định “sản xuất hàng hoá là thành tựu văn minh chung của nhân loại”, chúng ta không chỉ kiên định “không bỏ qua kinh tế hàng hoá ” mà còn khẳng định kinh tế hàng hoá còn tồn tại khách quan cho đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng . lần này trong dự thảo văn kiện đại hội IX tiếp tục khẳng định “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu của nó. a. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước kia sự cạnh tranh nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện chúng ta nhận thấy rằng một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh thúc đẩy khoa khọc phát triển, tiếp thu được các công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho hàng loạt Xí nghiệp doanh nghiệp bị phá sản. Đó là do kinh tế thị trường bao hàm cả hai mặt tích cực và tiêu cực. - Về mặt tích cực: Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động, quyết đoán có được nhiều kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất. - Về mặt tiêu cực và hạn chế: phân hoá giầu nghèo quá xa, dẫn đến mọi cân bằng xã hội, xuất hiện mâu thuẫn xã hội. Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp mang lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, quá coi trọng đồng tiền xem thường đạo đức truyền thống. Vậy để phát triển kinh tế thị trường cần phải có sự tác động của Nhà nước để tiếp tục phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực. Điều đó đã được thể hiện rõ trong đường lối kinh tế ở nước ta là Nhà nước quản lý kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa gọi tắt là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử hình thành Nhà nước, chức năng hành chính công, lúc đầu chỉ “mờ nhạt” đơn thuần là thu thuế của các tầng lớp dân cư hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng do tính tự phát của kinh tế thị trường đã gây ra những hậu quả ngày càng nặng nền mà xã hội phải gánh chịu, Nhà nước phải can thiệp sâu hơn vào kinh tế từ đó, chức năng kinh tế của Nhà nước cũng dần được xác định. Học thuyết của JMKên (nhà kinh tế học Anh, 1884-1946) là điển hình về sự kêu gọi phải có bàn tay “hữu hình” của Nhà nước can thiệp vào thị trường để hạn chế tính tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường. Tiếp sau học thuyết của Kên là nhiều học thuyết kinh tế với tên gọi khác nhưng chỉ tập trung bàn về việc Nhà nước nên can thiệp vào kinh tế như thế nào mức độ, thời điểm sao cho hiệu quả cao. Do đó, việc can thiệp vào quá trình kinh tế (quản lý kinh tế vĩ mô) đã được coi là đương nhiên, mang tính quy luật của kinh tế thị trường và việc định hướng phát triển của nền kinh tế đó cũng hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất giai cấp của Đảng cầm quyền. Chúng ta biết rằng, Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là công cụ của giai cấp cầm quyền, Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường ngay từ buổi bình minh của nó để đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ và tư bản, nhằm hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản, ngay cả sau này, khi Nhà nước tư bản chủ nghĩa ban hành các đạo luật chống độc quyền cũng quyết không phải vì lợi ích của giai cấp cần lao, mà vẫn là vì lợi ích toàn cục của chế độ TBCN nói chung vì các tập đoàn tài chính nói riêng. Vì thế việc Nhà nước ta quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường là điều đương nhiên, phù hợp với tính quy luật đã hình thành trong thực tiễn. Ngay trong nghị quyết trung ương 4 khoá VIII Đảng ta đã khẳng định: Đổi mới và tăng cường quản lý Nhà nước vè kinh tế – xã hội coi đó như là một chính sách lớn để đảm bảo cho định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện. Kinh tế thị trường định hướng Xí nghiệp chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có 2 nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường đóng vai trò như là “động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo sự vận đọng của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mở. Để mở cửa nền kinh tế tuỳ thuộc vào: thứ nhất, bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới, thứ hai, năng lực tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và khả năng nội sinh hoá có hiệu quả các yếu tố “ngoại sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, trí thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta. Như vậy, sự hiện diện của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là bộ phận cấu thành trọng yếu (kinh tế Nhà nước ), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường. Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế một đặc trưng của kinh tế hiện đại. Đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi Nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây: Một là, Nhà nước tạo môi trườg pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình, tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng....); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của Nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...), luật thương mại,..... Hai là, Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tiêu dùng... Ba là, Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích. Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa “theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch hoá, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Có một số người cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không còn cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trrên thế giới đều có cả hai dạng điều tiết kinh tế, một là, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; hai là, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó. Thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và thị trường – xét từ góc độ Nhà nước – là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường, cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý hơn và hiệu quả hơn nếu thông qua kế hoạch hoá của Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý Nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém. Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế củ Nhà nước theo hướng: “Nhà nước thực hiện tốt các chức năng, định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để cần đạt nổ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. b. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Đối với nước ta, giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước trong điều tiết, quản lý nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phải nghiên cứu. chẳng hạn như: Thứ nhất, sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó. Thứ hai, với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước thì kế hoạch hoá được sử dụng như là một trong những công cụ lao động kinh tế vĩ mô như thế nào để đạt được tăng trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, kế hoạch hoá được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng khác với kế hoạch hoá trước đây nếu trước đây kế hoạch hoá chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước, thì bây giờ kế hoạch hoá phải bao hàm tổng thể nền kinh tế quốc dân với nhiều thành phần kinh tế và phải nhấn mạnh đến vấn đề quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội v..v... Nhìn nhận kế hoạch hoá với tư cách là một chức năng cơ bản của quản lý kinh tế, thị trường với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế xã hội thì mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường có thể hiểu theo cách thị trường vừa là đối tượng, vừa là cơ sở của kế hoạch hoá. Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã khẳng định: “Trong nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Thị trường vừa là một công cụ vừa là một đối tượng của kế hoạch hoá”. Sự phát triển nền kinh tế hiện nay lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố môi trường, chứ không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của Chính phủ. Ví dụ như môi trường khu vực, môi trường quốc tế, môi trường địa kinh tế, môi trường thiên nhiên..v... vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính dự báo, tính định hướng và kế hoạch không bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thứ ba, thị trường là khách quan, kế hoạch là sản phẩm chủ quan của Nhà nước, của ngành, của địa phương... vậy xử lý mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan ở đây như thế nào cho phù hợp trong một cơ chế để phát huy tác dụng cao nhất. Nhìn nhận kế hoạch hoá thị trường với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước, thì thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và cơ chế thị trường được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Đổi mới kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với cách đặt vấn đề như trên, cần thấy rằng; kế hoạch hoá là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công tác kế hoạch hoá từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo, kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá hiện nay. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tình huớng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích xã hội chủ nghĩa theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: một là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhân tố đóng vai trò “nhân tố trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế, luật pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế – xã hội và khả năng, sức mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị trường, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp cho phù hợp. Vì cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, do đó đặt ra cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà 3 vấn đề sau đây: một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, đảm bảo cho các chủ thể kinh tế thị trường có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phói qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Những công cụ thường được áp dụng trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia phải được thay thế bằng những công cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Liên quan chặt chẽ với những điểm trên là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch được coi là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Cần phải phân biệt rõ 2 loại quy hoạch: quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị và quy hoạch phát triển ngành. Thời gian qua quy hoạch sử dụng không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mứcc, quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí cho cả Nhà nước lẫn mọi người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá mức, gần như ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại được xác định trong điều kiện “tinh” và “đóng cửa”, không tính được đầy đủ những biến động trên thị trường thế giới, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm được hình thành theo quy hoạch không thể có sức cạnh tranh trên thị trường nếu được Nhà nước bảo hộ. Tư duy về quy hoạch cần đổi mới theo hướng tăng cường công tác quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, chỉ quy hoạch theo những ngành mang tính hệ thống toàn vùng hoặc toàn quốc (đường giao thông, điện, viễn thông....), những ngành mang tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin kinh tế, khoa khọc công nghệ để các doanh nghiệp tự làm. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách công khai và ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong thị trường bất động sản. Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những ngành mang tính chiến lược và tính hệ thống toàn quốc (điện, giao thông, bưu chính viễn thông) có tính đến sự tham gia của các thành phần kinh tế và những biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch. Quy hoạch phát triển của các ngnàh khác có sản phẩm và dịch vụ mang tính thương mại, phụ thuộc vào biến động thị trường trong nước và thế giới, tiến bộ khoa học kỹ thuật chỉ nên dừng ở mức định hướng, dự báo, hạn chế tối đa việc sử dụng nguòn ngân sách để đầu tư cho dự án ở những lĩnh vực này. Cần có quy hoạch để các thành phần kinh tế đóng góp ý kiến, tham khảo và tích cực tham gia thực hiện. Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực tế. Cần phân cấp quản lý Nhà nước theo nguyên tắc “những hoạt động gắn liền với quyền lợi người dân do chính quyền cấp gần dân nhất chăm lo, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp dưới không thực hiện được hoặc những việc mang tính liên vùng”. Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung ương lẫn địa phương theo kiểu năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng đều muốn đạt mức cao trong khi tiềm lực có hạn cần được thay đổi một cách cơ bản. kế hoạch phải căn cứ vào thực hiện, phân tích quan hệ cung cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường (trong nước và quốc tế ) để tính tốc độ tăng trưởng, từ đó xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là phải có sự “trả giá”, hy sinh mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu khác. Việc chiến lược phát triển kinh tế – xã hội do Hội đồng Nghiên cứu chiến lược thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến lược có thời gian 10-15 năm nhưng được điều chỉnh vào giữa kỳ, dự thảo chiến lược công bố công khai và được các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các nhà trí thức và quản lý tham gia đóng góp ý kiến, chiến lược đựơc Bộ chính trị và Đại hội Đảng thông qua. Xây dựng kế hoạch phát triển 5 năm. Kế hoạch 5 năm cụ thể hoá chiến lược. Kế hoạch 5 năm xác định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh tế sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để hướng toàn bộ nền kinh tế phát triển theo định hướng đã định. Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định hướng, dự báo cao nên vai trò của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng. Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là những dự báo phát triển về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, của tiến bộ khoa khọc và công nghệ trên thế giới, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của một số ngành chủ chốt trên thị trường Việt Nam cũng như trên thị trường quốc tế. Kế hoạch 5 năm cần tập trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan trọng của thời kỳ, những mục tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu cần thiết. Hệ thống kế hoạch hằng năm ở tầm vĩ mô: kế hoạch vừa là bộ phận vừa là công cụ để điều hành thực hiện kế hoạch định hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế hoạch hằng năm chủ yếu chỉ mang nôi dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện một phần mục tiêu của kế hoạch 5 năm, do vậy kế hoạch hằng năm không nên đưa ra mục tiêu mang tính tổng quát. Về nguyên tắc, hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị trường không bao gòm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình trong quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền hoặc chủ đạo ở một số ngành then chốt, vì kế hoạch của những Tổng Công ty chủ chốt ở những ngành này (ví dụ: Dầu khí, Điện lực, Bưu chính viễn thông...). Bên cạnh đó, hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định cho nền kinh tế trong thời gian tới và cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc tính toán trong xây dựng và điều hành kế hoạch. Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở địa phương và ở các ngành. Nội dung kế hoạch của các địa phương cần phản ánh đúng sự phân cấp quản lý Nhà nước về kinh tế. Kế hoạch của các ngành, địa phương phải phù hợp với kế hoạch chung của cả nước. Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng quy hoạch phát triển của mình, các ngành, địa phương cần hỗ trợ cho việc lập và điều hành kế hoạch kinh tế quốc dân bằng cách cung cấp các thông tin, dự báo và những kiến nghị cho việc xây dựng các chính sách kinh tế. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và các ngnàh trong việc dự báo tình hình thị trường trong nước và quốc tế cũng như phân tích, đánh giá thực trạng trong nước, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá. - Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin. Xác định các loại thông tin báo cáo cần thiết, thống nhất biểu mẫu các loại thông tin báo cáo, xác định hệ thống tổ chức bộ máy thu thập và xử lý thông tin. - Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế. - Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ. 2. Vai trò của kinh tế thị trường với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1.2. Việt Nam phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Về mặt kinh tế, có thể coi đây là thời kỳ của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường còn nhiều xu hướng tự phát nhưng có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo theo hướng củng cố và phát triển chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, kết hợp đúng đắn giữa kế hoạch và thị trường, kết hợp kế hoạch phát triển kinh tế với kế hoạch xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giảm hẳn phần kế hoạch pháp lệnh và kế hoạch trực tiếp thay bằng kế hoạch định hướng, trong đó không chỉ chú ý đến những cân đối tổng hợp mà còn cả cân đối giá trị, nhằm giữ vững cân đối tổng thể, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế, và do kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có những yếu tố khách quan yêu cầu và bảo đảm cho sự thành công của nó. Đó là khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa làm nền tảng đã hình thành, Nhà nước nắm giữ những ngành, những lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế, chính quyền là của nhân dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã có tiền lệ lịch sử chứ không phải là “công việc hoàn toàn mới” hay “chưa hề có ” như một số tác giả đã quan niệm. Tiền lệ đó là chính sách kinh tế mới (NEP) do Lê-nin đề xướng đã được vận dụng vào thực tiễn ở Liên xô trong những năm hai mươi. Nội dung cơ bản của chính sách đó là chuyển từ nền kinh tế mệnh lệnh, chỉ huy sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, biện pháp chủ yếu để bảo đảm thắng lợi của định hướng tư bản chủ nghĩa và ngăn chặn định hướng tư bản chủ nghĩa là sử dụng đúng đắn chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới nền chuyên chính vô sản. Qua mười năm đổi mới, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lê-nin vào đặc điểm và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chúng ta không tránh khỏi một số khuyết điểm, lệch lạc. Song về cơ bản chúng ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go và không những đã đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Với những điều trình bày ở trên chúng ta có thể khẳng định rằng, chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là sự chuyển đổi hợp quy luật. Không thể coi đó là sự “từ bỏ lý tưởng” và “ngả sang chủ nghĩa tư bản”. 2.2. Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường. a. Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc thúc đầy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc đang còn sơ khai như thị trường lao động thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa khọc công nghệ. Trong điều kiện các yếu tố thị trường phát triển không đồng bộ và toàn diện phần nào đã cản trở nên hình thành nền kinh tế thị trường, làm cho thị trường phát triển theo bản chất mà nó, làm sai lệch đi những nội dung cần có của các yếu tố thị trường. Thời gian tới việc cấp thiết là xây dựng và hoàn chỉnh một cách toàn diện các yếu tố thị trường cụ thể như sau. - Phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ: thị trường hàng hoá dịch vụ là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Do vậy việc phát triển nền kinh tế thị trường lao động cần được quan tâm đúng mức. Việc mở rộng thị trường lao động trong nước cần có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và của người sử dụng lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại, học nghề mới. - Phát triển thị trường vốn: phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và tập trung là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển và có tăng trưởng cao. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Tổ chức vận hành thị trường chứng khoán an toàn hiệu quả, Ngân hàng ..... - Ngoài các thị trường chủ yếu trên còn phải phát triển thị trường bất động sản thị trường nhà ở, thị trường đất đai và một số thị trường khác. Như vậy việc vận dụng quan điểm toàn diện đồng bộ các yếu tố thị trường các loại thị trường là yếu tố thị trường cần được định hướng theo định hướng của Nhà nước bằng hàng loạt các công cụ quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. b. Hoàn chỉnh động bồ và toàn diện hệ thống các công cụ quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tiến hành quản lý kinh tế Nhà nước phải sử dụng để tác động cho nền kinh tế nhằm đạt được mong muốn của mình. Văn kiện đại hội VIII của Đảng chỉ rõ “Nhà nước quản lý kinh tế thị trường bằng pháp luật, kế hoạch hoá, cơ chế chính sách bằng các đòn bẩy kinh tế và nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước”. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khác quan trong của cơ chế thị trường, tạo điều kiện để phát huy mặt tích cực, đông thời khắc phục hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Do vậy quan điểm toàn diện trong việc xây dựng các công cụ quản lý là hết sức quan trọng các công cụ đó cụ thể là: - Công cụ pháp luật - Công cụ kế hoạch - Công cụ khác (các nguồn lực của kinh tế Nhà nước ) Tóm lại kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là rất còn thiết. Nó đã hạn chế rất nhiều tiêu cực, thúc đẩy phát triển mạnh hơn nữa những mặt tích cực dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã đi vào ổn định tạo tiền đề cho sự phát triển chủ nghĩa xã hội sau này. III. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực trạng và giải pháp. 1. Thực trạng. 1.1. Giai đoạn trước năm 1986. Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Cách mạng Việt Nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng nặng nền do chiến tranh lâu dài. Trong 15 năm nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử thách thống nhất. Chúng ta đã có nhiều cố gằng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nền từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục y tế thiết lập củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề tính tự cung tự cấp. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế văn hoá xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp. Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều năm với đặc trưng sản xuất chậm và không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao động và tài năng mới được sử dụng thấp. Đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hoá tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm, tham nhũng nhiều, tệ nạn xã hội phát triển. Trên thực tế nền kinh tế nước ta từ nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp hành trung ương khoá IV (năm 1979) các quan hệ hàng hoá tiền tệ đã được chấp nhận nhưng mới chỉ ở mức độ thứ yếu. Đó là do quá nhiều thập kỷ, qua tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến, quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trường. Coi nó là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác là do chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình dập khuôn giáo điều chủ quan duy ý chí các mặt bố trí cơ cấu kinh tế thiếu về phát triển công nghiệp nặng, quy mô lớn, với xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế quốc doạnh và kinh tế tập thể, nặng nền hình thức phủ nhận nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu quả. Những sai lầm đó đã kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển. Cuộc cải cách kinh tế bị đầy lùi. Tư tưởng Lênin trong chính sách kinh tế Mác bị xem như bước lùi tạm thời bất đắc dĩ. 1.2. Giai đoạn năm 1986-1990 Trước tình hình đó, Đại hội VI đã có những tư tưởng đổi mới nhưng chưa đi ngay vào cuộc sống, còn có lực cản, nền kinh tế còn tiếp tục gặp khó khăn trong những năm đầu nhưng từ năm 1989 các biện pháp đổi mới như áp dụng chính sách lãi suất dương, xoá bỏ chế độ tem phiếu, loại bỏ một số khoản chi ngân sách bao cấp, mở rộng quan hệ thị trường... Đã thứcự đi vào cuộc sống và tạo chuyển biến rõ rệt làm cho nền kinh tế có nhiều khởi sắc. Ví dụ: như trong giai đoạn 1986-1990 đầu tư toàn xã hội tư bản là 12,5% GDP tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%, kim ngạch xuất khẩu đạt 23 tỷ USD/năm. Về mặt lạm phát thì năm 1986 là 774,7% đến năm 1990 giảm xuống còn 67,1%. 1.3. Giai đoạn từ 1991-2000: Do mới có một số biện pháp được áp dụng vào cuối kỳ kế hoạch 1989-1990 nên kết quả của thời kỳ này còn hạn chế. Song cái được của thời kỳ này là chúng ta đã thực hiện chuyển đổi cơ chế mạnh mẽ, đến giai đoạn 1991-1995 sự chuyển đổi đó đã phát huy tác dụng và tạo nên thời phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đại hội Đảng VII (6/1991) với những quyết sách quan trọng như phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đổi mới cả về bề rộng và chiều sâu kìm chế đẩy lùi lạm phát giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Những quyết sách âý được đưa ra trong thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc” trong bối cảnh quốc tế không thuận lợi, nguồn lực phát triển bi thiếu hụt... dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho quá trình chuyển đổi kinh tế để góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt 2,8% (mục tiêu là 5-6,5%), trong đó Nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng 13,6% và dịch vụ tăng 8,8% lạm phát hạn chế ổn định ở mức thấp (bình quân 23,4%/năm) 2. Giải phóng. 2.1. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị văn hoá xã hội, từ đổi mới tư duy nhận thức tư tưởng đến hoạt động thực tiễn của Đảng Nhà nước và nhân dân vấn đề có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đổi mới là Đảng phải đổi mới trên cả 3 lĩnh vực: đổi mới tư duy là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo tiền, chủ quan nên hình. Phải tiến hành loại bỏ những quan điểm sai trái khắc phục những quan điểm lạc hậu và chủ nghĩa xã hội. Về công nghiệp hoá ..... Đổi mới tư duy nhằm quán triệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật, hình thành những quan điểm mới về xã hội, và con đường đi lệ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên nền tảng lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ Đại hộ VI đến nay đã gần 15 năm, đã qua các kỳ đại hội VII, VIII đường lối đổi mới đã đựơc cụ thể hóa và phát triển, đem lại những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đảng cộng sản trước sau như một vẫn khẳng định mục tiêu chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại hội VII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi xây dựng đường lối, mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc thúc đầy mở việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng, quán triệt nguyên tắc khách quan khắc phục bệnh chủ qyan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. 2.2. Thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế: Nhà nước có chức năng cơ bản là tổ chức và xây dựng kinh tế vì vậy có chức năng quản lý. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà nước càng đặc biệt quan trọng. Một nền kinh tế thị trường mà không có sự can thiệp của Nhà nước thì khác nào như vỗ tay bằng một bàn tay. ở nước ta, chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế cần tập trung vào những nội dung sau đây: + Tạo điều kiện, môi trường cho các quy luật kinh tế hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Đồng thời phát triển thị trường đồng bộ như thị trường tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường lao động, thị trường dịch vụ, thị trường chứng khoán. Trên cơ sở đó thị trường mới có thể tham gia phân bố nguồn lực và khai thác tài nguyên có hiệu quả. + Tập trung vào xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách tạo môi trường bình đẳng cho sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Những năm gần đây Nhà nước ta có bổ sung, sửa đổi hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách tương đối phù hợp với điều kiện trong nước và thông lệ quốc tế nhằm hoàn thiện cơ chế thị trường. Tuy nhiên, vẫn cón nhiều kẽ hở, thiếu đồng bộ, hoặc sai lệch làm cho các hoạt động kinh tế bị méo mó, các thành phần kinh tế gặp khó khăn như chính sách thuế, chính sách cạnh tranh, cơ chế độc quyền ở một số ngành, lĩnh vực. Có một số chính sách làm thiệt hại cho đối tượng này nhưng lại tạo kẻ hở cho đối tượng khác luồn lách, thoát khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Vì vậy sửa đổi, hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật pháp chính sách, tạo ra khung pháp lý rõ ràng, ổn định làm “sân chơi” cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Sửa đổi hệ thống chính sách theo hướng giảm bao cấp, ổn định, đa dạng hoá các hình thức sở hữu tạo điều kiện cho sự cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế. + Tập trung phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo, phát triển tiềm năng khoa khọc- công nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng. Đây là những vấn đề rất quan trọng tạo cơ sở cho sự hoàn thiện cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị sản xuất kinh doanh đều thực hiện mục tiêu lợi nhuận, vốn ít thu hồi nhanh. Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học – cộng nghệ, kết cấu hạ tầng đầu tư lớn, lâu dài, thu hồi chậm nên không hấp dẫn các nhà đầu tư. Vì vậy, Nhà nước phải thực hiện chức năng này. Đồng thời trên cơ sở đó Nhà nước nắm một bộ phận nguồn lực, những lĩnh vực then chốt để chi phối, điều tiết các hoạt động kinh tế, xã hội, bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. + Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, bảo vệ môi trường. Kinh tế thị trường có xu hướng phân hoá giai cấp, chênh lệch về thu nhập, đời sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn. Tăng trưởng kinh tế không gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, làm cạn kiệt tài nguyên, tàn phá môi trường. ở nước ta tiếp tục thực hiện các chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách đào tạo nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm, chính sách đầu tư vốn, các chương trình 327 135, chương trình phát triển Nông nghiệp, nông thôn, chính sách trợ cấp gia định có công với nước, người già neo đơn. Trong nền kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước về kinh tế không phải bằng sự can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh của các đơn vị doanh nghiệp mà chỉ thực hiện chức năng định hướng, tạo môi trường thông qua hệ thống luật pháp, chính sách tạo dựng những điều kiện vật chất, kỹ thuật cho việc phân bố lực lượng sản xuất và khai thác tài nguyên có hiệu quả. 2.3. Phát triển thị trường trong nước, nhất là thị trường ở khu vực Nông nghiệp, nông thôn: Nông thôn nước ta rộng lớn, khu vực Nông nghiệp, nông thôn đến nay có gần 60 triệu người sinh sống nhưng nhiều vùng còn trong tình trạng lạc hậu, sản xuất tự cung, tự cấp, thị trường nhỏ hẹp, bị chia cắt, sức mua thấp. Điều tra sơ bộ cho thấy hiện tại nhu cầu ở khu vực này khá cao cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Đó là thiết bị máy móc, vật tư cho sản xuất Nông nghiệp, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, điện vốn. Các loại hàng tiêu dùng như xe máy, cát sét, đồ điện, trang trí nội thất, đồ nhựa, hoá chất... có nhu cầu cao nhưng sức mua thấp, khả năng thanh toán có hạn. Mặt khác, thị trường trong nước hạn hẹp thể hiện ở chỗ hàng nông sản bị ách tắc, khó tiêu thụ, giá cả không ổn định, ảnh hưởng bất lợi cho sản xuất Nông nghiệp, nhất là kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Để phát triển thị trường trong nước, biện pháp cơ bản và lâu dài xem xét, điều chỉnh các chương trình phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp với thị trường trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh. Sản xuất phải tính đến thị trường tiêu thụ, sản xuất cái gì, sản xuất cho ái? Vấn đề là sản xuất cái gì ta có. Đầu tư cho khu vực Nông nghiệp, nông thôn, phát triển sản xuất hàng hoá làm tăng thu nhập để tăng sức mua. Chừng nào khu vực Nông nghiệp nông thôn còn nghèo nàn lạc hậu thì vẫn chưa có được thị trường hoàn thiện. Phát triển kết cấu hạ tầng Nông nghiệp, nông thôn nhất là hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, chợ, cửa hàng, đại lý, dịch vụ mua bán, tiêu thụ... Đó là những điều kiện vật chất quan trọng kịch thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Các ngành công nghiệp, dịch vụ gắn liền với khu vực Nông nghiệp, nông thôn lấy đó là đối tượng phục vụ, phải tự tạo ra thị trường trong nước, coi Nông nghiệp, nông thôn là nhân tố, điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của mình. 2.4. Phát triển hoàn thiện hệ thống tài chính, tiêu dùng, Ngân hàng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường phát triển: Hệ thống và chính sách tài chính nước ta phải tạo điều kiện huy động các nguồn lực trong xã hội để đầu tư phát triển làm tăng tích luỹ cả khu vực Nhà nước và khu vực dân cư. Chính sách tài chính phải mở ra các luồng bơm hút vốn, điều hoà vốn, đầu tư phù hợp trong từng thời kỳ. Chính sách tài chính tích cực phải có tác dụng hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, điều tiết sản xuất điều kiện, điều tiết và phân phối thu nhập góp phần thực hiện công bằng xã hội, đồng thời kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu hút lâu dài. Mặt khác cần có quan điểm thu – chi ngân sách đúng đắn. quản lý chi ngân sách, tiết kiệm chi nhất là chi thường xuyên, sửa đổi chính sách quản lý vốn, chính sách tài chính doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Hoàn chỉnh hệ thống tiêu dùng, Ngân hàng, giảm các thủ tục, thể lệ phiền hà gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Xoá bỏ cơ chế bao cấp, cơ chế “xin cho” tạo điều kiện cho quy luật cung cầu hoạt động, dẫn đến hình thành thị trường vốn, thị trường chứng khoán. KếT LUậN Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề hết sức cần thiết đối với đất nước ta. Chúng ta đã nhận thức được rằng những thành tựu mà chúng ta đạt được qua 15 năm thực hiện chiến lược kinh tế xã hội là sự nổ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân ta. Đồng thời những khó khăn thách thức mà chúng ta sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục cố gắng hơn nữa, nổ lực nhiều hơn nữa để vượt qua. Với thực tiễn đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều này, trên thực tế đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa bảo đảm cho mỗi hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thức bao giờ cũng là một quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Hơn thế nữa chủ nghĩa xã hội lại là một hiện tượng mới mẻ, đang vận động hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy bám sát thực tiễn nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận - đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đã đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng hôm nay. Thực tế cho thấy rằng nhờ vận dụng quan điểm toàn diện trong việc hình thành đồng bộ yếu tố thị trường, hình thành các công cụ quản lý kinh tế, nhất là các công cụ về pháp luật, công cụ kế hoạch... Đã thu được một số thành công nhất định. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn các yếu tố thị trường chưa đồng bộ, còn phức tạp. Điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện hơn các công cụ quản lý xã hội, công cụ pháp luật, công cụ tài chính..... TÀI LIệU THAM KHảO 1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn và phương hướng giải quyết. TS. Nguyễn Tấn Hùng (Nghiên cứu và lý luận số 8/2000) 2. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. GS-TS. Chu Văn Cấp (Nghiên cứu và lý luận số 9/2000) 3. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nguyễn Nhâm (Nghiên cứu và lý luận số 10/2000) 4. Giáo trình “Triết học Mác – Lê Nin” tập II NXB chính trị quốc gia năm 1997 5. Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng 6. Dự thảo các văn kiện trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. 7. Dự thảo các văn kiện trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. 8. Dự thảo các văn kiện trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Mục lục A.Đặt vấn đề ................................................................................................................ 1 B. Nội dung ................................................................................................................. 3 I. Những lý luân chung về quan điểm toàn diện........................................................ 3 1. Cơ sở lý luận. ....................................................................................................... 3 2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện. ........................................................................ 4 3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện. ............................................. 5 II. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ....................................................................................................... 5 1. Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là gì? .......................................... 5 2. Vai trò của kinh tế thị trường với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ....................................................................................................................... 16 III. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực trạng và giải pháp. ................................................................................................................... 19 1. Thực trạng. ......................................................................................................... 19 2. Giải pháp. ........................................................................................................... 21 Kết luận ......................................................................................................................... 27 Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.pdf
Tài liệu liên quan