Tài liệu Luận văn Nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
_________________
TRẦN THANH NGUYÊN
NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGỌC OÁNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
--------------
Luận văn này được hoàn thành là nhờ sự động viên, giúp đỡ và hướng dẫn
tận tình của quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 15, của quý thầy
cô ở Phòng Khoa học Công nghệ – Sau Đại học và các bạn học viên lớp Cao học
Tâm lý học khóa 15 trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, của Ban
Giám hiệu và các thầy cô giáo ở các khoa, phòng trường Đại học Tiền Giang, của
các bạn đồng nghiệp và sinh viên các lớp đại học khóa 06 trường Đại học Tiền
Giang. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô và các bạn học viên đã
động viên, giúp đỡ, cộng tác để tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Đặc biệt, tác giả mong muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc gở...
148 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
_________________
TRẦN THANH NGUYÊN
NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TIỀN GIANG
VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NGỌC OÁNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
--------------
Luận văn này được hoàn thành là nhờ sự động viên, giúp đỡ và hướng dẫn
tận tình của quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 15, của quý thầy
cô ở Phòng Khoa học Công nghệ – Sau Đại học và các bạn học viên lớp Cao học
Tâm lý học khóa 15 trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, của Ban
Giám hiệu và các thầy cô giáo ở các khoa, phòng trường Đại học Tiền Giang, của
các bạn đồng nghiệp và sinh viên các lớp đại học khóa 06 trường Đại học Tiền
Giang. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô và các bạn học viên đã
động viên, giúp đỡ, cộng tác để tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Đặc biệt, tác giả mong muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc gởi đến thầy giáo
– Phó Giáo sư Tiến sĩ BÙI NGỌC OÁNH – người đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ và
hướng dẫn chu đáo để tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc rằng bản luận văn này còn nhiều thiếu
sót, tác giả rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của quý thầy cô và các bạn
đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn.
Mỹ Tho, ngày 15 tháng 09 năm 2007
Tác giả
TRẦN THANH NGUYÊN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là sản phẩm của chính mình, không sao chép của
các tác giả khác. Nếu có gì sai trái, bản thân xin chịu hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBGV: Cán bộ giáo viên
LTQĐTD: Lây truyền qua đường tình dục
KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình
NSP: Ngành ngoài sư phạm
SKSS: Sức khỏe sinh sản
SP: Ngành sư phạm
SV: Sinh viên
SVSP: Sinh viên ngành sư phạm
SVNSP: Sinh viên ngành ngoài sư phạm
UNICEF: Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc
UNFPA: Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc
WHO: Tổ chức Y tế thế giới
%: Phần trăm
f: tần số
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của thanh thiếu niên luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam.
Bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, số thanh thiếu niên ở nước ta hiện nay ở độ tuổi
14–25 là nhóm đông nhất (chiếm khỏang 24,5 phần trăm (%) dân số – theo số liệu Tổng
điều tra dân số năm 1999). Vì thanh thiếu niên đặc biệt là thanh niên sinh viên có tiềm năng
to lớn quyết định sự lớn mạnh và thịnh vượng của đất nước nên việc việc nắm được những
vấn đề cốt lõi trong sự phát triển của họ là hết sức quan trọng.
Giáo dục SKSS là vấn đề hết sức mới mẻ, lý thú, tế nhị, nhạy cảm thu hút sự quan tâm
của nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới các vấn đề về SKSS trở thành vấn
đề nổi cộm ở nhiều nước. Hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 15 triệu trẻ em gái từ 15
đến 19 tuổi sinh con, chiếm 10% tổng số trẻ em sinh ra trên tòan thế giới. Trong số các
trường hợp mắc các bệnh lây qua quan hệ tình dục cứ 20 người mắc bệnh thì có 1 người ở
lứa tuổi vị thành niên và 1/2 trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV/AIDS là những người
dưới tuổi 25. Ở Việt Nam hiện nay, cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến SKSS
vị thành niên . Tình trạng nạo, phá thai ở lứa tuổi vị thành niên và thanh niên ngày một gia
tăng.
Ở Việt Nam, kể từ Hội nghị Quốc tế “Dân số và phát triển”, hàng loạt các cuộc nghiên
cứu về SKSS đã được thực hiện. Hướng nghiên cứu SKSS ở nhóm dân số trẻ (15–24 tuổi)
cũng mới thực sự được quan tâm và phat triển trong thời gian gần đây. Trong đó, các công
trình nghiên cứu về nhận thức sức khỏe sinh sản của sinh viên đại học nhất là ở khối ngành
sư phạm cũng còn ở giai đoạn khởi đầu. Đây là việc làm cần thiết để chuẩn bị cho sinh viên
đương đầu với những vấn đề của cuộc sống liên quan đến SKSS của họ. Thêm nữa, sự hiểu
biết thiếu đầy đủ, đúng đắn về SKSS có thể đẩy các sinh viên vào nguy cơ tình dục không
lành mạnh, không an toàn; có thể đẩy các bạn gái vào nguy cơ có thai ngoài ý muốn hoặc
mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục kể cả HIV/AIDS... Nhận thức của lớp trẻ trong
khu vực về các vấn đề SKSS bao gồm tình dục, chức năng sinh sản, các biện pháp tránh
thai, quan hệ tình dục an toàn.... còn nhiều hạn chế. “Ở Việt Nam, theo thống kê có 40%
thanh thiếu niên cho biết rằng họ không hiểu gì về các biện pháp tránh thai” [5,tr.12]. Sự
thiếu hiểu biết chung về quá trình sinh sản và bản năng sinh dục của con người cùng với
quan hệ tình dục trước hôn nhân có xu hướng ngày một tăng khiến lớp trẻ phải đối mặt với
các nguy cơ nói trên.
Cung cấp thông tin và giáo dục SKSS hay giáo dục sức khỏe tình dục có thể giúp cho
lớp trẻ tự khám phá các quan điểm, tiêu chuẩn và sự lựa chọn riêng đồng thời nâng cao kiến
thức và hiểu biết về vấn đề SKSS. Điều đó giúp cho lớp trẻ có một cuộc sống lành mạnh và
hạnh phúc, ngăn ngừa những nguy cơ nói trên và nâng cao đời sống và SKSS sau này. Do
đó, có thể nói việc nhận thức về SKSS có tác động sâu rộng và lâu dài với thái độ và hành vi
của sinh viên.
Sinh viên đại học Tiền Giang tương lai sẽ trở thành kỹ sư, giáo viên, cán bộ công chức có
trình độ cao. Do đó, nhận thức, hành vi của họ không những có tác dụng với cuộc sống của
chính họ mà với sinh viên khối ngành sư phạm còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới học sinh của họ sau
này. Nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho sinh viên nhất là sinh viên khối ngành sư
phạm thiết nghĩ là việc làm cần thiết nhằm giúp cho họ có một cuộc sống lành mạnh, hạnh
phúc, ngăn ngừa các nguy cơ nói trên và nâng cao được đời sống và sức khỏe sau này cho nhiều
thế hệ.
Để thực hiện được điều đó, bên cạnh sự tác động, phối hợp ...của các lực lượng giáo
dục trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các sinh viên, sự nhận thức của chính
sinh viên để trên cơ sở đó có hành động phù hợp về vấn đề sức khỏe sinh sản không những
đem lại hiệu quả thiết thực trong nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân, gia đình và
xã hội mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc trang bị kiến thức cho các em học sinh ở các
nhà trường phổ thông về vấn đề này.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đó chính là lý do để bản thân chọn đề tài "Nhận
thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về sức khỏe sinh sản” – vấn đề mà bấy
lâu nay bản thân rất tâm đắc khi tham gia giảng dạy bộ môn tâm lý học-giáo dục học ở
trường sư phạm, tham gia chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên trung học cơ
sở cũng như khi cộng tác tại trung tâm tư vấn dân số gia đình trẻ em trong tư vấn sức khỏe
sinh sản vị thành niên và thanh niên cho thanh thiếu niên ở địa phương. Hy vọng qua việc
nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp bản thân tích lũy thêm kiến thức và kinh nghiệm của mình
trong công tác tại đơn vị cũng như thực hiện tốt hơn vai trò của cộng tác viên tại trung tâm
tư vấn.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức của sinh viên trường Đại học Tiền Giang về sức khỏe
sinh sản; từ đó đề xuất một số biện pháp cụ thể góp phần nâng cao nhận thức về SKSS cho
sinh viên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu
3.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS
3.3. Đề xuất một số biện pháp cơ bản góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên
trường đại học Tiền Giang về SKSS
4. Giới hạn đề tài
4.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài này chỉ nghiên cứu mức độ nhận thức
của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS
4.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chủ yếu ở đối tượng là sinh
viên đại học với số lượng là 332 sinh vin thuộc khoa sư phạm, khoa cơ bản thuộc năm thứ
nhất.
4.3. Giới hạn về không gian nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu sinh viên thuộc hệ
đào tạo chính quy, học tại cơ sở chính và cơ sở 1 của trường.
5. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
5.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục SKSS cho sinh viên hệ đại học chính quy thuộc khoa sư phạm
và khoa cơ bản năm thứ nhất trường đại học Tiền Giang.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS.
6. Giả thuyết khoa học
- Nhận thức của sinh viên hệ đại học chính quy trường đại học Tiền Giang còn chưa
đầy đủ ở các nội dung cơ bản của SKSS và có sự khác nhau giữa sinh viên ngành sư phạm
(SVSP) và sinh viên ngành ngoài sư phạm (SVNSP).
- Có thể nâng cao nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS bằng
việc cung cấp thông tin, kiến thức giáo dục giới tính, giáo dục dân số, giáo dục SKSS và
phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên trong tiếp cận SKSS.
7. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã lựa chọn và sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan về SKSS
để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
7.2.1. Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu câu hỏi: Xác định thực trạng nhận
thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về SKSS. Đây là phương pháp nghiên cứu chính
mà tác giả sử dụng trong thực hiện luận văn.
7.2.1.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát thực trạng về mức độ nhận thức của SV đại học Tiền Giang về SKSS
ở hai khoa Sư phạm và khoa Cơ bản. Kết quả khảo sát sẽ là cơ sở để đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao nhận thức về SKSS của SV.
7.2.1.2. Nội dung khảo sát
Khảo sát hướng vào các nội dung cơ bản của SKSS gắn với đối tượng thanh
niên SV:
- Khái niệm SKSS, giới tính;
- Tình bạn, tình yêu, hôn nhân, luật hôn nhân;
- Tình dục;
- Nạo phá thai và các con đường nhiễm bệnh LTQĐTD;
Bên cạnh đó còn khảo sát:
- Đánh giá của SV về nhận thức SKSS
- Nguyên nhân ảnh hưởng đến nhận thức của SV về SKSS.
- Mức độ ảnh hưởng của các nguồn thông tin giúp SV có hiểu biết về SKSS.
- Các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về SKSS của SV
Cấu trúc bảng hỏi: Bảng hỏi được xây dựng dựa vào các nội dung cơ bản về
SKSS tập trung vào việc biết, hiểu và vận dụng của SV. Trong đó có các câu hỏi là các tình
huống giả định để tìm hiểu khả năng vận dụng kiến thức về SKSS của SV.
7.2.1.3. Đối tượng khảo sát
Để tìm hiểu thực trạng nhận thức của SV trường đại học Tiền Gang về
SKSS, chúng tôi thực hiện khảo sát trên toàn bộ SV hệ đại học chính quy thuộc năm thứ I ở
hai khoa Sư phạm và khoa Cơ bản (Vì trường đại học Tiền Giang mới tuyển sinh đại học từ
năm học 2006 – 2007), gồm SV của 5 lớp: ToánA, ToánB, Ngữ văn (thuộc khoa Sư phạm)
và Quản trị Kinh doanh, Tài chánh Kế toán (thuộc khoa Cơ bản).
- Tổng số phiếu phát ra: 360 phiếu
- Tổng số phiếu thu vào: 332 phiếu
- Số phiếu hợp lệ là 332 phiếu và được phân bố như sau:
Lớp Nam Nữ Tổng cộng
Đại học ToánA 18 21 39
Đại học ToánB 18 22 40
Đại học Ngữ văn 10 28 38
Đại học Quản trị kinh doanh 40 32 72
Đại học Tài chánh Kế toán 34 109 143
Cộng 120 212 332
Với số phiếu phân bố như trên thì:
Sinh viên ngành sư phạm (SVSP) có: 117 phiếu
Trong đó: Nam sinh viên có: 46 phiếu
Nữ sinh viên có: 71 phiếu
Sinh viên ngành ngoài sư phạm (SVNSP): 215 phiếu
Trong đó: Nam sinh viên có: 74 phiếu
Nữ sinh viên có: 141 phiếu
Đồng thời chúng tôi cũng khảo sát trong đối tượng cán bộ giáo viên (CBGV)
của trường với số lượng 47 người là cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm
ở các phòng, khoa trung tâm của trường đề làm rõ hơn nhận thức của SV về SKSS.
7.2.1.4. Thời gian và địa bàn khảo sát
Khảo sát nhận thức của SV đại học Tiền Giang được tiến hành từ tháng 10 năm
2006, thực hiện trên 5 lớp SV đại học chính quy thuộc khoa Sư phạm và khoa Cơ bản tại cơ
sở chính và cơ sở 1 của trường.
7.2.1.5. Xử lý kết quả khảo sát
Phân tích số liệu qua khảo sát được thực hiện bằng chương trình SPSS 11.5 của
Windows để tính tần số, tỉ lệ phần trăm, .... để đưa ra nhận xét và bàn luận, đặc biệt là thực
trạng nhận thức về SKSS của SVSP và SVNSP.
7.2.2. Phương pháp trò chuyện: Hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng phiếu câu
hỏi trong việc làm rõ thực trạng nhận thức của sinh viên trường đại học Tiền Giang về
SKSS.
7.2.3. Phương pháp quan sát: Hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi
trong việc nắm thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Sư phạm và khoa Cơ bản về SKSS.
7.2.4. Phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả điều tra được.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sức khỏe sinh sản (SKSS) là vấn đề khá mới mẻ, lý thú, nhạy cảm. Vấn đề
này đã thực sự thu hút sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy, từ việc nhận
thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục dân số cho thế hệ trẻ, và kể từ sau Hội nghị
quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại Cairo, Ai Cập năm 1994 (ICPD), chương trình
dân số chuyển hướng sang quan tâm nhiều hơn đến chất lượng dân số, trong đó trọng tâm là
nội dung chăm sóc SKSS. Hầu hết các nghiên cứu về SKSS ở các nước trên thế giới và ở
Việt Nam thường hướng về đối tượng thanh, thiếu niên và nhất là vị thành niên và thường là
học sinh ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Có thể nói, việc nghiên cứu SKSS nói chung và nghiên cứu SKSS vị thành niên
đã được tiến hành rất sớm trên thế giới, nhất là ở các quốc gia phát triển nhưng thường được
gọi với những tên gọi khác nhau chẳng hạn như sức khỏe vị thành niên hay giới tính, tình
dục thanh thiếu niên. Có lẽ, kể từ sau Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại
Cairo, Ai Cập năm 1994 (ICPD) khi đã có định nghĩa chính thức về SKSS thì việc nghiên
cứu SKSS nhất là cho đối tượng thanh thiếu niên đang là “mối quan tâm của không những
các nhà khoa học, các nhà giáo dục, các nhà quản lý xã hội mà cả các bậc cha mẹ được đẩy
lên một trình độ mới”[27,tr.426].
Hướng nghiên cứu SKSS trong đối tượng thanh thiếu niên ở nước ngoài thường
tập trung nghiên cứu về những vấn đề cụ thể, nhạy cảm của SKSS như vấn đề nạo phá thai,
sinh đẻ sớm, vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân, các bệnh LTQĐTD đã cho chúng ta
thấy những “như những con số biết nói” thật bất ngờ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
“hàng năm có khoảng 20 triệu ca nạo phá thai không an toàn. Ở Châu Phi thai nghén ngoài
dự định dao động từ 50% - 90% trong số vị thành niên chưa chồng và 25% - 40% trong số
vị thành niên có chồng” [27,tr.428].
Theo các nghiên cứu ở nhiều nơi trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, đã chỉ
ra thực trạng nhận thức về SKSS ớ lứa tuổi thanh thiếu niên là “nhận thức của lớp trẻ trong
khu vực-dù đã kết hôn hay chưa-về các vấn đề SKSS bao gồm tình dục, chức năng sinh sản,
các biện pháp tránh thai, quan hệ tình dục an toàn... còn nhiều hạn chế” [5,tr.12].
Thanh thiếu niên thường không biết cơ thể họ thực hiện chức năng sinh dục và sinh
sản như thế nào và thường mong muốn có những trao đổi với một người lớn tuổi có hiểu
biết vấn đề và nhất là không chỉ trích khi họ nêu thắc mắc tương đối chi tiết về vấn đề này.
Thanh thiếu niên chưa có gia đình thường không biết, hoặc không tiếp cận được
những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và như vậy nguy cơ mang thai ngoài ý muốn hoặc mắc
bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả lây nhiễm HIV/AIDS.
Đồng thời thông tin về về tình dục, sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên
hầu như không có và việc thảo luận về tình dục thường bị cấm kỵ. Nhiều người lớn còn nghĩ
rằng việc đưa giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên vào chương trình học sẽ khiến lớp trẻ có
quan hệ tình dục sớm hơn và nhiều hơn. Tuy nhiên hàng loạt nghiên cứu cũng cho thấy,
thông qua việc nghiên cứu và giáo dục SKSS hay giáo dục sức khỏe tình dục sẽ làm cho
“thanh thiếu niên đã có quan hệ tình dục chấp nhận thực hiện những hành vi tình dục an
toàn hơn, cũng như lớp trẻ đã bắt đầu quan hệ tình dục muộn hơn hoặc giảm bớt hoạt động
tình dục nói chung” [5,tr.11].
Cũng qua các nghiên cứu trên cho thấy ở một số nước trong khu vực, cha mẹ được
xem là những người có trách nhiệm chính trong việc giáo dục SKSS cho vị thành niên và
thanh niên. Nhưng trên thực tế, do việc việc thiếu hiểu biết chính xác hoặc không biết cách
nói chuyện với con cái về chủ đề trên khiến lớp trẻ thích thu lượm những thông tin từ những
người khác hay nguồn khác như bạn bè đồng lứa, phương tiện truyền thông không được
kiểm soát hơn là từ cha mẹ. Và lẽ tất nhiên chính điều đó đã gây cho các em những hệ lụy
không mong muốn.
Đáp ứng chương trình hành động quốc tế và thực hiện chiến lược quốc gia về dân số
và chăm sóc SKSS, ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ XX, hoạt động giáo dục dân số
cũng đã chuyển hướng sang giáo dục SKSS nói chung và SKSS cho vị thành niên nói riêng.
Theo đó đã có hàng loạt các cuộc nghiên cứu về SKSS đã được thực hiện. Đặc biệt hướng
nghiên cứu về nhận thức, thái độ, hành vi về SKSS ở nhóm dân số trẻ từ 15 tuổi đến 24 tuổi
cũng mới thực sự được quan tâm và phát triển trong những năm gần đây cùng với quá trình
hội nhập và đổi mới. Mặc dù còn khá mới mẻ nhưng chúng ta đã sớm nhận ra vị trí quan
trọng của giai đoạn 10 -19 tuổi (trong đó có đối tượng SV) trong quá trình phát triển của
cuộc đời mỗi con người. Do vậy, chỉ hơn mười năm qua cùng với sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, sự vào cuộc của các nhà khoa học, sự hỗ trợ về mặt tài chính và khoa học của các
tổ chức quốc tế, đã có hàng chục công trình và đề tài nghiên cứu về các vấn đề cơ bản của
SKSS nói chung và SKSS vị thành niên nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu đa phần
thường được tiếp cận dưới góc độ Y tế - bệnh học và thời gian qua chúng ta cũng chưa có
một dự án nào một cách toàn diện với quy mô quốc gia về SKSS vị thành niên.
- Điều tra về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) mang tính chất rộng lớn
vào năm 2003 do Bộ Y tế, Tổng cục thống kê, , WHO thực hiện đã mô tả tương đối đa
dạng về các mối quan hệ bạn bè, SKSS và vấn đề tình dục; quan niệm, thái độ, hành vi và
trải nghiệm của thanh thiếu niên về các vấn đề SKSS. Đồng thời, cũng qua báo cáo điều tra
đã nêu lên nhận thức, kiến thức và nguồn thông tin về SKSS như nhận thức về 4 chủ đề
SKSS: Các bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD); Hiểu biết về chu kỳ kinh
nguyệt; Nhận thức và sử dụng các biện pháp tránh thai; Việc sử dụng bao cao su.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Đề xuất và thử nghiệm giải pháp đưa giáo dục giới tính
vào trường trung học tại thành phố Hồ Chí Minh”do Sở Khoa học công nghệ, Trung tâm tư
vấn tâm lý gia đình và trẻ em thành phố Hồ Chí Minh thực hiện vào năm 2004 đã nêu thực
trạng về nhận thức và hành vi của trẻ vị thành niên ở bậc phổ thông tại thành phố Hồ Chí
Minh xung quanh các vấn đề giới tính, tình yêu, tình dục và SKSS đồng thời cũng đề xuất
và thử nghiệm các giải pháp đưa giáo dục giới tính vào trường trung học học tại thành phố
Hồ Chí Minh.
- Hội thảo Khảo sát về vấn đề giới tính và tình dục tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng và Nha Trang do Viện Khoa học xã hội tổ chức vào tháng 10/1996 tại thành phố Hồ
Chí Minh.
Hầu hết các nghiên cứu trên khi xem xét, đánh giá về nhận thức về SKSS ở lứa tuổi
thanh thiếu niên đều cho thấy “một số lượng lớn các thanh thiếu niên thiếu hiểu biết hoặc
hiểu biết sai lệch về các vấn đề giới tính và tình dục” [40,tr.20] và “nhiều thông tin về tình
dục và giới tính trong đó có nhiều nguồn thông tin không lành mạnh có ảnh hưởng đến hành
vi tình dục và gây nhiều hậu quả rất lớn cho thanh thiếu niên” [40,tr.21]
Các công trình nghiên cứu trên đối tượng SV về SKSS ở các trường đại học thường
không nhiều chủ yếu là tập trung nghiên cứu những vấn đề cụ thể của SKSS. Có thể kể ra
một vài nghiên cứu sau đây:
- Quan niệm về sự chung thuỷ trong tình yêu của SV hiện nay của tác giả Lê Thị
Bừng nghiên cứu trên 143 sinh viên ở hai trường cao đẳng sư phạm Hưng Yên và đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn cho thấy đa số SV có quan niệm đúng về tình yêu, trong đó
gần 60,14% cho rằng yếu tố đầu tiên trong tình yêu là phải có phẩm chất chung
thủy....[7,tr.19-21]
- Quan niệm của SV về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân của tác giả Nguyễn
Ánh Hồng nghiên cứu trên 230 SV ở 3 trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đại
học Khoa học Tự nhiên và đại học Kinh tế đã phản ánh xu hướng dễ chấp nhận quan hệ tình
dục trước hôn nhân trong SV hiện nay, quan niệm về hôn nhân và tình yêu của họ thường
thoáng hơn [20,tr.18-20]
Các công trình nghiên cứu về nhận thức SKSS đối với SV đại học sư phạm cũng
đang còn ở giai đoạn khởi đầu.
- Tác giả Trần Thị Minh Ngọc với công trình nghiên cứu về “Khảo sát nhận thức của
sinh viên đại học sư phạm về SKSS” vào năm 2004 ở 1440 SV thuộc bốn trường đại học sư
phạm: Thái Nguyên, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vinh đại diện cho các trường đại học
sư phạm ở bốn miền Bắc, Trung, Nam và miền núi phía Bắc, đã cho thấy thực trạng mức độ
nhận thức của sinh viên đại học sư phạm còn rất hạn chế, không đồng đều. Có sự chênh lệch
mức độ nhận thức của sinh viên đại học sư phạm theo giới tính, năm học, học lực, ngành
học, khu vực về 7 nội dung cốt lõi của SKSS: 1. Khái niệm SKSS, đối tượng SKSS, nội
dung SKSS; 2. Giới tính; 3. Tình ạn, tình yêu, hôn nhân; 4. Tình dục an toàn; 5. Mang thai,
nạo phá thai; 6. Biện pháp tránh thai; 7. Bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS. Đồng thời cũng qua
nghiên cứu đó, tác giả cũng đề xuất các biện pháp tác động sư phạm nhằm phát triển nhận
thức của sinh viên đại học sư phạm về SKSS.[34,tr.40-58]
- Với công trình nghiên cứu về “Thực nghiệm nâng cao nhận thức của sinh viên sư
phạm về SKSS” vào năm 2005 cũng của tác giả Trần Thị Minh Ngọc tiến hành ở 358 SV
sư phạm Hà Nội, thực nghiệm với 3 nội dung cơ bản: tình dục an toàn, các biện pháp tránh
thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục bằng biện pháp tác động sư phạm thực hiện
qua 2 hình thức: tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ theo từng chủ đề về SKSS; tổ chức thi tìm hiểu
SKSS thông qua trò chơi “hái hoa dân chủ” có giải bài tập tình huống. Qua kết quả thực
nghiệm đã cho thấy nhận thức của sinh viên sư phạm được nâng lên nhờ các biện pháp tác
động sư phạm nhưng mức độ thay đổi nhận thức về các nội dung SKSS là không đồng đều,
phụ thuộc nhất định vào các tác động sư phạm [36,tr.37-39]
- Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nhận thức SKSS của sinh viên sư
phạm đã phản ánh thực trạng mức độ nhận thức của SV sư phạm về việc biết, hiểu, vận
dụng liên quan đến các vấn đề cốt lõi của SKSS, các biện pháp thực nghiệm nhằm nâng cao
nhận thức của sinh viên sư phạm về các chủ đề SKSS có liên quan nhất là các vấn đề tương
đối nhạy cảm như tình dục an toàn, các biện pháp tránh thai, các bệnh LTQĐTD.
Với đề tài “Nhận thức về SKSS của sinh viên trường đại học Tiền Giang”, chúng
tôi mong muốn qua việc nghiên cứu nắm bắt được thực trạng nhận thức về SKSS của sinh
viên đại học Tiền Giang ở các nội dung cơ bản về SKSS, đồng thời qua đó so sánh nhận
thức của SV ở 2 khối ngành lớn: ngành sư phạm (SP), ngành ngoài sư phạm vế vấn đề trên
nhằm xem xét sự khác biệt giữa SV sư phạm và SV ngành ngoài SP (NSP). Từ đó đề xuất
những giải pháp tác động nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về SKSS.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm về tuổi thanh niên sinh viên
Việc phân đoạn, phân kỳ quá trình phát triển của con người phác họa cho
chúng ta thấy rõ những nét đặc trưng cơ bản cho từng lứa tuổi. Trong mỗi giai đoạn phát
triển, các nét đặc trưng này nảy sinh trên cơ sở kết hợp các điều kiện khách quan và chủ
quan.
Quá trình phát triển này là quá trình liên tục. Mỗi giai đoạn phát triển vừa
mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển. Tuy nhiên việc phân đoạn, phân kỳ quá trình
phát triển của con người, trong đó có lứa tuổi thanh niên SV chỉ có ý nghĩa tương đối.
Hiện nay tồn tại nhiều cách phân đoạn, phân kỳ quá trình phát triển của con
người tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu: xuất phát từ đặc điểm phát triển sinh lý, đặc điểm
phát triển tâm lý hay đi từ góc độ xã hội học dựa vào các dạng hoạt động xã hội...Nếu so
sánh sự khác biệt giữa ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ khoa học thì nội dung các khái
niệm thể hiện giai đoạn phát triển lại càng khác xa nhau.
Riêng trong tâm lý học, nếu loại trừ sự khác biệt trong quan điểm phân đoạn,
phân kỳ lứa tuổi do tính liên tục của quá trình phát triển tạo ra, nhìn chung có thể chấp nhận
xác định lứa tuổi thanh niên trong đó có thanh niên SV là từ 15 đến 24 tuổi. Tuy nhiên, cũng
cần nhận thấy rằng các ngưỡng tuổi trên và ngưỡng tuổi dưới có thể dịch chuyển chút ít (độ
1-2 tuổi) tuỳ thuộc vào các đặc điểm phát triển lịch sử xã hội, đặc điểm giới và cả đặc điểm
phát triển cá nhân.
Chính vì vậy, việc xem xét và đưa ra các quan niệm, định nghĩa về lứa tuổi
thanh niên SV nhìn chung là chưa thống nhất, còn nhiều vấn đề tranh cãi.
- Theo Từ điển Giáo dục học của nhà xuất bản Từ điển Bách khoa: “Sinh viên là
người học của một cở sở giáo dục cao đẳng, đại học” [18,tr.343]. Theo cách hiểu này, có
thể phân loại sinh viên theo nhiều phạm trù khác nhau. Thí dụ sinh viên tập trung, sinh viên
chính quy, sinh viên không tập trung, sinh viên tại chức, sinh viên tự do,....Hơn nữa, do nhu
cầu thống kê, người ta có thể phân biệt sinh viên thông thường và sinh viên thuộc hệ thống
giáo dục không chính quy (giáo dục thường xuyên) và có một hệ số quy đổi từ sinh viên
không chính quy sang sinh viên chính quy.
- Về độ tuổi theo Điều 1, chương I, Luật thanh niên 2005, thanh niên trong đó
có cả thanh niên sinh viên là “công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”.
- Quan điểm cho rằng tuổi thanh niên sinh viên thuộc giai đoạn tuổi thanh niên
là phù hợp xét theo nhiều mặt. Theo cách hiểu đó, tuổi thanh niên là “giai đoạn phát triển
bắt đầu từ sự phát dục và kết thúc vào lúc bước vào tuổi trưởng thành” [17,tr.61]. Tuy nhiên
việc phát dục hay trưởng thành về mặt sinh dục của mỗi trẻ em là hoàn toàn khác nhau. Hơn
thế nữa, việc xác định chuẩn thế nào là người trưởng thành cũng khác nhau. Chính vì vậy,
theo cách nhìn nhận trên thì khó mà xác định được giới hạn về tuổi thanh niên. Trên thực tế,
người ta thường đưa ra các chuẩn về mặt sinh lý, về mặt xã hội... để xác định lứa tuổi thanh
niên.
- Cũng có quan niệm cho rằng nội dung tuổi thanh niên là những giai đoạn của
cuộc đời. Quan niệm này có phần chặt chẽ, khoa học hơn khi cho rằng tuổi thanh niên là
giai đoạn chuyển tiếp, quá độ từ trẻ em đến người lớn và bao gồm lứa tuổi từ 11-12 đến 23-
25 tuổi và trong đó đặc biệt lưu ý đến 2 thời kỳ cơ bản sau:
+ Tuổi thanh niên mới lớn:(từ 14-15 đến 18 tuổi) là “thế giới thứ ba”[21,tr.61]
tồn tại giữa trẻ em và người lớn với đặc trưng là sự trưởng thành về mặt cơ thể, sự chín
muồi sinh vật, là giai đoạn hoàn thiện quá trình xã hội hóa đầu tiên. Tuổi thanh niên mới lớn
cũng thuộc “thời kỳ chuyển tiếp trước”.
+ Thời kỳ thứ ba của lứa tuổi chuyển tiếp (từ 18 đến 23-25 tuổi) là tuổi thanh
niên muộn hay thời kỳ bắt đầu của tuổi người lớn còn gọi là “thời kỳ chuyển tiếp sau”. Lứa
tuổi này “lớn” về cả hai phương diện sinh vật và quan hệ xã hội.
Theo Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị “SV đại học là những thanh niên thuộc
thời kỳ chuyển tiếp sau” [43,tr.37-44]. Việc cho rằng thanh niên nằm trong thời kỳ chuyển
tiếp và SV đại học thuộc thời kỳ chuyển tiếp sau cũng phù hợp với quan niệm của nhà tâm
lý học người Mỹ Niky Hayes khi cho rằng “thời thanh niên như một thời kỳ chuyển tiếp vai
trò ngày càng tăng, đến lượt dẫn đến sự thay đổi nhân cách”[15,tr.803]. Theo đó việc
chuyển tiếp có thể diễn ra từ trường học đến nơi làm việc hay thực hành kinh nghiệm đòi
hỏi thanh niên nói chung và thanh niên SV nói riêng phải tập quen nhiều hành vi vai trò
khác biệt nhau nhằm mục đích hướng tới việc hoàn thiện bản thân.
- Trong một công trình nghiên cứu khác, người ta cho rằng đối với lứa tuổi
thanh niên SV, về tên gọi và sự phân chia giai đoạn phát triển ở lứa tuổi này được xác định
theo một nghĩa tương đối. Các thành tựu nghiên cứu về sự phát triển của lứa tuổi này còn ít,
chưa tập trung và có hệ thống nên việc khái quát các đặc điểm chung đối với toàn bộ độ tuổi
này theo ghi nhận là thuộc nhóm dân số trẻ tức là trong độ tuổi từ 15 đến 24 tuổi. Thông
thường khi đề cập đến lứa tuổi này, người ta hay mô tả đó là lứa tuổi của những “thanh niên
đang ngồi trên ghế nhà trường: đại học, cao đẳng, dạy nghề....”[36,tr.137]. Theo ý kiến của
nhiều tác giả, lứa tuổi thanh niên sinh viên nên bắt đầu từ 19 tuổi và kết thúc vào khoảng
24–25 tuổi. Sỡ dĩ như vậy là vì khi ở độ tuổi 24, 25 con người đã hoàn tất sự phát triển về
thể chất thể hiện ở: sự tăng lên về chiều cao, trong lượng của cơ thể, sự hoàn thiện về cấu
tạo và chức năng của các bộ phận trong cơ thể.... Đồng thời ở tuổi 25 cũng là dấu mốc cuối
cùng kết thúc giai đoạn đào tạo dài nhất ở trường đại học như đại học y, đại học dược sinh
viên phải hoàn thành khóa học trong thời gian 6 năm.
Tóm lạị: Từ cách tiếp cận các quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu: Tuổi thanh
niên SV là công dân Việt Nam, trong độ tuổi từ 19 đến 23-25 tuổi, nhóm dân số trẻ ở “thời
kỳ chuyển tiếp sau”; là giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về mặt thể chất sang sự trưởng
thành về mặt tâm lý –xã hội; là lứa tuổi đang ngồi trên ghế nhà trường đại học, cao đẳng,
dạy nghề....
1.2.1.2. Khái niệm về sức khỏe sinh sản
- Bối cảnh ra đời của khái niệm SKSS.
Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, chúng ta không thấy đề cập hay nhắc đến
khái niệm SKSS mà chỉ nói đến các vấn đề về giới tính, giáo dục giới tính, sức khỏe, văn
hóa tính dục, tình dục. Khái niệm SKSS được khởi nguồn từ các nước phương Tây và theo
hướng hòa nhập xuất hiện ở Việt Nam thời gian gần đây. Thực chất SKSS không phải là cái
gì xa lạ mà nó chỉ là “một bộ phận của sức khỏe con người nói chung” [27,tr.422].
Theo tác giả Đào Xuân Dũng: Khái niệm SKSS “có nguồn gốc từ những năm 50
của thế kỷ XX khi xuất hiện tình trạng gia tăng dân số quá nhanh ở nhiều nước đang phát
triển buộc chính phủ nhiều nước phải quyết định hành động để giảm bớt sự tăng nhanh dân
số” [25,tr.47]. Vì thế trong thập niên 60 của thế kỷ XX, nhiều chương trình kế hoạch hóa gia
đình (KHHGĐ) đã ra đời ở nhiều nước và trở thành động lực bước đầu cho những nỗ lực
toàn cầu trong nghiên cứu vấn đề sinh sản người.
Năm 1965, sau gần một thập niên tranh luận, Hội đồng dân số thế giới đã kêu gọi
WHO đưa vấn đề sinh sản người vào Chương trình hoạt động (nghị quyết 18.49 của WHO)
và yêu cầu thiết lập Chương trình hoạt động liên quan đến sinh sản, SKSS.
Năm 1972, một số nước và tổ chức trên thế giới đã xây dựng một Chương trình
nghiên cứu mở rộng về sinh sản và 5 năm sau đó đã trở thành một Chương trình đặc biệt có
nhiệm vụ Nghiên cứu, Phát triển và Huấn luyện nghiên cứu về sinh sản người. Chương trình
không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về điều hòa sinh sản mà đã hướng tới việc nghiên cứu
các phương pháp tránh thai, chẩn đoán, điều trị vô sinh và các bệnh LTQĐTD.
Năm 1986 chương trình này còn nghiên cứu về AIDS, sự lây nhiễm HIV từ mẹ
sang con. Năm 1988 thì WHO đã ủng hộ những đường lối chiến lược của Chương trình,
đồng thời tái khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa KHHGĐ, sức khỏe và phát triển và sự
cần thiết phải lồng ghép các hoạt động KHHGĐ với các hoạt động bảo vệ sức khỏe bà mẹ
trẻ em. Chính từ thời điểm này, sứ mạng của Chương trình là phát triển và điều phối những
nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu về SKSS.
- Quan niệm về sức khỏe sinh sản.
Rõ ràng vấn đề SKSS đã được quan tâm nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX.
Khái niệm này chính thức được nhắc đến từ Chương trình của WHO về nghiên cứu sinh sản
người trên bình diện toàn cầu xuất từ yêu cầu của việc giáo dục dân số, việc nghiên cứu về
giới tính, trong đó đáng lưu ý là xuất phát từ tình hình phức tạp của đời sống xã hội về các
tệ nạn xã hội, về sự bùng nổ dân số, về sự phát triển của những lối sống không lành mạnh
của thanh thiếu niên.
Theo tác giả Bùi Ngọc Oánh, việc nghiên cứu SKSS thường được tiến hành theo
các hướng:
+ Nghiên cứu theo góc độ Dân số học và Giáo dục dân số: việc nghiên cứu
này thường đi vào những phương thức điều chỉnh sự phát triển dân số, KHHGĐ, giáo dục
dân số.....
+ Nghiên cứu theo góc độ Y học: việc nghiên cứu này thường là hướng những
tri thức khoa học về các vấn đề của SKSS, những vấn đề thuộc về kỹ thuật của KHHGĐ....
+ Nghiên cứu việc giáo dục SKSS cho thanh thiếu niên cũng như cho người
lớn, đặc biệt là cho trẻ vị thành niên, trẻ ngoài nhà trường.
Kể từ sau Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) tại Cairo, Ai Cập vào
tháng 09/1994, việc nghiên cứu về SKSS ngày càng được phát triển.
Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục SKSS được đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện
nay ở mọi đối tượng nhất là vị thành niên vì nhóm đối tượng này có nguy cơ cao. Bởi lẽ,
nhóm đối tượng này dễ mắc bệnh LTQĐTD, nghiện hút ma tuý như HIV/AIDS và nhiều
bệnh lây nhiễm khác, thậm chí còn là vấn đề thách thức về SKSS. Thực tế những nội dung
này chỉ mới được giới thiệu trong thời gian gần đây, nhưng đã được nhiều cơ quan ban
ngành trong xã hội xem xét tích cực. Năm 1998, Ủy ban Nhà nước về các vấn đề xã hội đã
khuyến cáo Quốc hội, Chính phủ và các tỉnh “Phát triển chương trình SKSS quốc gia bao
gồm chương trình quốc gia chăm sóc bà mẹ trẻ em, nâng cao chất lượng của các dịch vụ
KHHGĐ và phát triển chương trình SKSS thanh thiếu niên”[4,tr.26-27] và “năm 2004, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đưa nội dung giáo dục dân số - SKSS vào chương trình đào
tạo trong các trường sư phạm”[38,tr.134] cũng như thực hiện chương trình giáo dục về
SKSS ở các nhà trường từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông.
Trước đây, khi nói đến khái niệm SKSS thường người ta cho rằng đó là những
vấn đề liên quan đến KHHGĐ, đến vấn đề sinh sản và sức khỏe của phụ nữ. Ngày nay, mọi
người đều nhận thấy rằng sức khỏe sinh sản có nội hàm rộng hơn bao gồm nhiều vấn đề về
lối sống, quan hệ yêu đương, tri thức về KHHGĐ, về hoạt động tình dục và nhiều vấn đề
khác.
Về khái niệm SKSS, mặc dù có nhiều tài liệu khác nhau với nhiều cách trình bày
khác nhau nhưng tựu trung các tác giả đều thống nhất với định nghĩa của WHO khi đề cập
đến SKSS: “SKSS là tình trạng khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những
gì liên quan đến hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản chứ không phải chỉ là không
có bệnh tật hoặc là ốm yếu”. Định nghĩa này đã được Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát
triển (ICPD) họp tại Cairo, Ai Cập vào năm 1994 công nhận. Chính vì vậy hiện nay trong
các tài liệu về SKSS các tác giả thường sử dụng khái niệm này.
Trong đề tài này, chúng tôi cũng sẽ sử dụng cách tiếp cận khái niệm SKSS này,
xem đó là khái niệm cơ bản khi thực hiện nghiên cứu. Vì đây là khái niệm mang tính phổ
biến.
Theo cách hiểu trên, khái niệm SKSS hàm ý là con người có thể có một cuộc sống
tình dục an toàn và thỏa mãn, có khả năng sinh sản và được tự do quyết định khi nào và
thường xuyên như thế nào trong việc này. Điều kiện cuối cùng này ngụ ý nói về quyền của
phụ nữ và nam giới được thông tin và tiếp cận các biện pháp KHHGĐ an toàn, hiệu quả
vừa túi tiền, có thể chấp nhận được và được tự lựa chọn cũng như các biện pháp khác để
điều hòa sinh sản mà không trái với pháp luật. Việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe thích hợp sẽ giúp cho người phụ nữ trải qua thời kỳ thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo
cho các cặp vợ chồng có cơ may tốt nhất để có con lành mạnh, một cách lý tưởng là tham
vọng hướng đến việc tạo ra những đứa con với các tiêu chuẩn “đẹp, khỏe, cao, thông minh
và ngoan”. Từ định nghĩa trên có thể khẳng định, việc chăm sóc SKSS là một tổng thể các
biện pháp kỹ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng
ngừa và giải quyết cáxc vấn đề về sức khỏe sinh sản. Nó cũng bao gồm cả sức khỏe tình dục
với mục đích là đề cao cuộc sống và các mối quan hệ riêng tư, chứ không chỉ là việc tư vấn
và chăm sóc liên quan đến sinh sản và cách bệnh LTQĐTD.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy điều này khi nói đến SKSS người ta cũng thường
đề cập đến khái niệm sức khỏe tình dục vì chúng có liên quan mật thiết nhau và sức khỏe
tình dục được xem là một bộ phận của nội dung SKSS.
Khái niệm sức khỏe tình dục đã được đề cập từ thập niên 70 của thế kỷ XX
(1975) trước khi tổ chức Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại Cairo, Ai Cập
năm 1994. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, sức khỏe tình dục được phát biểu như sau: “Sức
khỏe tình dục là tổng hợp các khía cạnh thể chất, tình cảm, tri thức và xã hội của con người
có tính dục, sao cho cuộc sống con người phong phú, tốt đẹp hơn về nhân cách, giao tiếp và
tình yêu”
(Nguồn: Sex Education in the eighties- Lorna Brown-p.248)
Điều đó chứng tỏ rằng, hành vi tính dục của con người không còn là “vấn đề
riêng tư của cá nhân mà đã trở thành một vấn đề mang tính xã hội” [12,tr.52]. Hành vi tính
dục của con người trước đây thường chịu sự nhìn nhận, đánh giá khắt khe và biến đổi theo
thời gian, theo sự phát triển xã hội. Hiện nay đã ra đời những quan niệm cởi mở hơn, tiến bộ
hơn do việc chúng ta ngày càng hiểu rõ bản chất sinh học, ảnh hưởng tâm lý, giá trị nhân
bản và tác động xã hội của nó. Đồng thời sức khỏe tình dục, ngoài ý nghĩa nhân bản của nó
còn thể hiện một bước tiến quan trọng trong quan niệm về bình đẳng nam nữ và đã trở thành
“một nội dung được quan tâm nhiều trong khoa học xã hội về phụ nữ”.
Khi nói đến sức khỏe tình dục, chúng ta cũng cần xem xét đến yếu tố có liên quan
như: vấn đề tình dục an toàn và lành mạnh, tình dục có trách nhiệm, việc giáo dục tình dục,
vì sao cần coi hành vi tình dục người là một thực thể sức khỏe....Có như vậy, trong điều
kiện nhất định mới có thể trang bị tương đối đầy đủ cho các loại đối tượng trong đó có thanh
niên.
- Nội dung cơ bản của vấn đề SKSS.
Trong kế hoạch hành động sau Hội nghị Cairo của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc
(UNFPA), SKSS bao gồm sáu nội dung chính có liên quan mật thiết với nhau đó là SKSS,
KHHGĐ, sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an toàn, vô sinh, bệnh nhiễm nhuẫn và bệnh lây
truyền qua đường tình dục, vấn đề tình dục.
Nhưng mỗi khu vực, mỗi quốc gia lại có những vấn đề ưu tiên của riêng mình,
nên các nước và các tổ chức tham gia vào việc thực hiện chương trình sức khỏe sinh sản đã
cụ thể hóa 10 nội dung như sau :
+ Làm mẹ an toàn.
+ Kế hoạch hóa gia đình.
+ Nạo hút thai.
+ Bệnh nhiễm khuẩn qua đường sinh sản.
+ Các bệnh LTQĐTD.
+ Giáo dục tình dục
+ Phát hiện sớm ung thư vú và đường sinh dục.
+ Vô sinh.
+ Sức khỏe vị thành niên.
+ Giáo dục truyền thông vì SKSS-KHHGĐ [42, tr.12].
Nội dung SKSS như đã đề cập bao gồm nhiều nội dung phong phú, phức tạp, có
nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều có những điểm chung.
Theo tác giả Bùi Ngọc Oánh, nội dung cơ bản của vấn đề SKSS bao gồm:
+ Tình trạng sức khỏe của hệ cơ quan sinh dục nam và nữ...
+ Sự dậy thì và sự chín muồi giới tính, sự nảy sinh và xuất hiện những nhu cầu
của đời sống tình dục.
+ Những biểu hiện của đời sống tính dục và những chức năng khác trong hoạt
động ủa các cơ quan sinh dục.
+ Đời sống tình dục trong đó có sức khỏe tình dục.
+ Sự thụ thai và các vấn đề phòng tránh, chữa trị trong sinh nở nuôi con...
+ Vấn đề KHHGĐ.
+ Những kiến thức và bệnh lý liên quan đến đường tình dục.
+ Ý thức và trách nhiệm trong quan hệ yêu đương, quan hệ tình dục.
+ Ý thức tôn trọng phụ nữ, tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ....[38, tr.135-136].
Theo tác giả Đào Xuân Dũng, nội hàm của SKSS có thể tóm tắt ở các điểm chính
sau đây:
+ Hành vi sinh sản và tình dục có trách nhiệm.
+ Dịch vụ KHHGĐ rộng rãi và thuận tiện.
+ Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và đảm bảo thai nghén và sinh nở an toàn.
+ Kiểm soát có hiệu quả các bệnh nhiễm khuẫn đường sinh sản.
+ Phòng và điều trị vô sinh.
+ Loại trừ phá thai không an toàn.
+ Phòng và điều trị các bệnh ác tính ở cơ quan sinh sản.
Ngoài ra SKSS còn có ảnh hưởng qua lại với nhiều khía cạnh khác của sức khỏe,
đặc biệt là HIV/AIDS, sức khỏe trẻ em, sức khỏe vị thành niên, tình dục, lối sống và môi
trường [25,tr.49-50].
Thực tế ở Việt Nam khi đề cập đến nội dung của SKSS thường người ta hay nhắc
đến 7 vấn đề ưu tiên sau đây :
+ Quyền sinh sản.
+ Các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
+ Kế hoạch hóa gia đình.
+ Nạo phá thai.
+ Bình đẳng giới.
+ Sức khỏe phụ nữ và làm mẹ an toàn
+ SKSS vị thành niên [54,tr.4]
Theo Chuẩn quốc gia về Chăm sóc SKSS, Bộ Y tế nội dung chủ yếu của SKSS
gồm các vấn đề sau:
Chăm sóc phụ nữ khi mang thai, chăm sóc bà mẹ và trẻ trong khi sinh và sau khi
sinh.
Kế hoạch hóa gia đình và các biện pháp tránh thai.
Nạo hút thai an toàn và giảm tác hại của việc nạo hút thai.
Phòng tránh các bệnh viêm nhiễm đường sinh sản, bệnh LTQĐTD, nhiễm
HIV/AIDS.
Chăm sóc SKSS vị thành niên [17,tr.9]
Có thể nói: nội dung cơ bản của SKSS gây tác động tới vấn đề sức khỏe - cụ thể
là các vấn đề sức khỏe có liên quan đến hệ sinh sản hoặc là các vấn đề sức khỏe có liên quan
tới giống nòi. Ở Việt Nam, vấn đề SKSS đặt ra chủ yếu là tình trạng mang thai ở tuổi thiếu
niên, các bệnh LTQĐTD, sự phân biệt chống lại trẻ em gái và phụ nữ và bạo lực đối với phụ
nữ. Ở nhà trường phổ thông, nội dung SKSS phải tập trung vào việc giúp học sinh hiểu biết
và có những quyết định đúng đắn hơn đối với các vấn đề này.
Trong các công trình nghiên cứu về SKSS, các tác giả cũng thường đề cập đến
các nội dung cốt lõi của SKSS nêu trên như: thuật ngữ, khái niệm SKSS, vấn đề giới và giới
tính, tình bạn, tình yêu, hôn nhân, tình dục an toàn, mang thai, nạo phá thai, biện pháp tránh
thai, bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS.
Như vậy, với những nội dung trên, khái niệm SKSS trước hết là một khái niệm
rộng không chỉ giới hạn ở sức khỏe người mẹ mà là sức khỏe người phụ nữ nói chung,
nhưng cũng quan tâm đến những vấn đề liên quan đến quá trình sinh sản của nam nữ và
nhấn mạnh nhiều đến việc tự quyết định của phụ nữ với sinh đẻ. Vấn đề này hiện nay ở
nhiều loại đối tượng trong đó có cả SV và người lớn vẫn cho rằng SKSS là vấn đề chỉ dành
cho những người đã lập gia đình và có con. Họ đồng nhất vấn đề SKSS với việc sinh đẻ của
các sản phụ và thậm chí còn cho rằng việc cung cấp kiến thức về SKSS chẳng khác nào
“vạch đường cho hươu chạy”....
Khái niệm SKSS có ý nghĩa xã hội và rất nhân bản vì nó giúp nâng cao những
yêu cầu bảo vệ chức năng đặc thù của phụ nữ là mang thai, sinh đẻ và nuôi con. Chức năng
đặc thù này xét về mặt đạo lý và giá trị được xem là chức năng xã hội vì nó quan tâm đến cả
hai giới mặc dù hiện nay vấn đề ưu tiên trong SKSS là dành ưu tiên cho phụ nữ nhưng chính
bản thân nam giới đôi khi cũng không được hưởng đầy đủ về SKSS như vấn đề vô sinh ở
nam giới, rối loạn chức năng tình dục của nam giới....mà hiện nay ở nước ta ít có cơ sở y tế
và thầy thuốc chuyên khoa chữa trị. Do vậy nói đến SKSS phải là “tình trạng khỏe mạnh về
thể chất, tinh thần và xã hội, của tất cả những gì liên quan đến hoạt động và chức năng của
bộ máy sinh sản” và cần phải chú ý việc chăm sóc SKKS đến cả hai giới mặc dù có thể một
giới nào đó được ưu tiên chăm sóc nhiều hơn.
Từ những nội dung trên, có thể nói rằng: “SKSS là bộ phận quan trọng và điển
hình của đời sống giới tính, gắn bó mật thiết với những yếu tố khác của đời sống giới
tính”[38,tr.136]
Theo các nội dung trên về SKSS, có thể được trình bày ở nhiều tài liệu khác nhau,
theo những cách viết khác nhau nhưng tất cả đều phác họa những vấn đề cơ bản về SKSS.
Vấn đề quan trọng theo chúng tôi là cần xác định đúng nội dung cần thực hiện đảm bảo phù
hợp ở mức cao cho từng loại đối tượng, xem xét các vấn đề ưu tiên khi giới thiệu, giảng
dạy, giáo dục, tư vấn, đặc biệt là đối với nhóm đối tượng thanh thiếu niên trong đó có SV.
Hướng tiếp cận của chúng tôi về nội dung SKSS trong đề tài này là theo cách trình bày của
tác giả Bùi Ngọc Oánh vì nó đầy đủ nhưng lại rất cụ thể và rõ ràng.
1.2.1.3. Sức khỏe sinh sản tuổi thanh niên
Hầu như các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều cho rằng
SKSS là một khái niệm mới chưa được hiểu một cách thống nhất. Những nội dung chủ yếu
của SKSS là gì? đối với từng loại đối tượng cần cung cấp cho họ những vấn đề nào,.... còn
rất ít người biết đến. Tuy nhiên người ta đều thống nhất rằng: “thanh niên nên theo chuẩn
mực của văn hóa truyền thống”[32,tr.214].
Là người chủ tương lai của đất nước đặc biệt là nhóm đối tượng thanh niên SV
với tư cách là những trí thức có trình độ cao, họ phải tích cực học tập, chuẩn bị cho mình
kiến thức đầy đủ để làm chủ cuộc sống, cuộc đời của mình và tham gia xây dựng xã hội.
Đồng thời phải ý thức những việc nên làm và tránh xa những việc không nên làm; chú ý
việc rèn luyện thể chất, tiếp thu có chọn lọc những cái mới theo hướng “gạn đục khơi
trong”. Do vậy, bên cạnh việc cung cấp cho thanh niên kiến thức văn hóa, xã hội, khoa học
và công nghệ đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cũng cần lưu tâm đến việc phát triển
toàn diện về thể lực đặc biệt là về giới tính, SKSS để duy trì nòi giống, đóng góp vào sự
phát triển của xã hội. Điều đó đã được khẳng định trong Chiến lược dân số Việt Nam giai
đoạn 2001- 2010 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 22/12/200.
Đặc điểm của lứa tuổi này là đã có sự phát triển tương đối hoàn chỉnh về nhân
cách, ý thức công dân, quan điểm sống, xu hướng đạo đức.... Trước mắt nhà giáo dục là
“một thế giới người lớn”. Họ đòi hỏi có sự tôn trọng, quan hệ bình đẳng và tin cậy lẫn nhau
đối với với nhà giáo dục. Thêm vào đó, ở lứa tuổi này còn có đặc điểm là “luôn mở rộng
phạm vi các mối quan tâm gần gũi và những mối quan tâm với người lớn nói chung”
[28,tr.34]. Vì vậy, họ đã có đầy đủ lý trí và tính tự chủ trong những xét đoán và những hành
động của mình, có thái độ phê phán đối với bản thân và người khác nhất là trong phạm vi
các mối quan hệ nam nữ. Điều cần thiết đòi hỏi người lớn cần đối xử với họ một cách phù
hợp: lắng nghe ý kiến, dẫn dắt họ một cách tế nhị trong cuộc sống hàng ngày để giúp họ
thoát khỏi tính tự cao tự đại hay do dự, nhút nhát.
Theo chúng tôi, nội dung SKSS cho lứa tuổi thanh niên có thể bao gồm các vấn
đề sau:
- Ôn lại và nâng cao những kiến thức về giải phẫu sinh lý và chức năng của cơ
quan sinh dục nam nữ. Điều cần lưu ý là đối với họ, tùy theo nhóm tuổi mà giới hạn nội
dung giáo dục.
- Làm rõ khái niệm giới tính và sự khác biệt nam nữ về giới tính.
- Nhấn mạnh tính đạo đức trong quan hệ tình dục nam nữ, văn hóa tình dục. Vấn
đề tình dục trong tình yêu. Tác hại của quan hệ tình dục trước hôn nhân.
- Tình bạn, tình yêu lành mạnh. Tình yêu và sự lựa chọn bạn đời chuẩn bị cho
hôn nhân. Tri thức về hôn nhân và gia đình. Văn hóa ứng xử trong quan hệ nam nữ.
- Thụ thai và sự phát triển của thai. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển bào
thai.
- Tội phạm tình dục và phòng tội phạm tình dục.
- Các biện pháp tránh thai. Hậu quả của việc có thai ngoài ý muốn và nạo phá
thai ở thanh niên.
- Các bệnh LTQĐTD.
- Vấn đề của nhựng cặp vợ chồng trẻ.
- Lơị ích của việc KHHGĐ.
Trong các nội dung vừa trình bày, nhằm phục vụ cho đề tài này, theo chúng tôi
cần làm rõ một số vấn đề sau:
* Giới tính và sự khác biệt nam nữ
- Khái niệm giới tính
Có nhiều quan niệm khác nhau liên quan đến khái niệm này nhưng chúng tôi
chọn cách tiếp cận khái niệm giới tính của giáo sư Trần Trọng Thuỷ: “Giới tính là tất cả
những đặc điểm riêng biệt tạo nên sự khác nhau giữa nam và nữ” [43,tr.164] và của tác giả
Bùi Ngọc Oánh “Giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người, tạo nên sự khác biệt giữa
nam và nữ”[36.tr.29] là đầy đủ, chặt chẽ. Có quan điểm nói đến giới tính là nói đến vấn đề
sinh sản, là đặc điểm khác biệt về sinh học giữa nam và nữ chủ yếu liên quan đến chức năng
sinh sản là chưa đầy đủ.
Thực chất giới tính “ là một đặc điểm nền tảng có tính chất sinh học – xã hội của
con người”[26.tr.37]. Ý thức mình thuộc giới nào ở mỗi cá nhân là kết quả của quá trình
sinh học – xã hội phức tạp liên kết thống nhất ở ba mặt: sự phát triển chất người – sự xã hội
hóa gới tính – sự phát triển tự nhận thức của con người.
- Những biểu hiện của sự khác biệt giới tính
Theo tài liệu nghiên cứu tiếp cận được, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt của giới
tính được biểu hiện: về mặt giải phẫu sinh lý ở cấu trúc và chức năng của các bộ phận cơ
thể nhất là chức năng đặc biệt của hệ sinh dục nam nữ và biểu hiện về mặt tâm lý: hứng thú,
tình cảm, tính cách, năng lực [45,tr.167-tr.169]
- Bình đẳng giới
Bình đẳng giới có nghĩa là “nam giới và nữ giới được công nhận và hưởng các vị
thế ngang nhau trong xã hội”[1,tr.14]. Bình đẳng giới không có nghĩa là nam giới và nữ giới
giống nhau mà phải là sự tương đồng và khác biệt giữa hai giới được công nhận và mang
giá trị ngang nhau; được trải nghiệm những điều kiện ngang nhau để phát huy tiềm năng, có
cơ hội tham gia, đóng góp và hưởng lợi như nhau trong các lĩnh vực. Điều quan trọng hơn
cả là hai giới “được hưởng các tác động hỗ trợ một cách bình đẳng” [1,tr.14]. Chính vì lẽ đó
mà bình đẳng giới đích thực cũng là một mục tiêu của sự phát triển xã hội.
* Những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì.
Phần này có thể không cần đi sâu nên nghiêng về việc giới thiệu khái quát những
vấn đề sinh lý người, tuổi dậy thì, chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, nội dung trình bày cần
hấp dẫn không quá đi sâu, tỉ mĩ khêu gợi trí tò mò của thanh niên nhưng có nhiều mức khác
nhau để phù hợp với từng độ tuổi. Vấn đề quan trọng là cần phát huy khả năng chủ động của
đối tượng trong việc xem xét vấn đề.
* Kiến thức về tình bạn, tình yêu đôi lứa; tri thức về hôn nhân và đời sống gia
đình
- Tình bạn.
+ Tình bạn là gì?
Người ta có nhiều quan niệm khác nhau về tình bạn. Có người thích chơi với
nhóm bạn nhiều người, nhóm có những hoạt động cùng yêu thích, nhóm có cùng chí hướng
và ước mơ.... Dù phong cách của từng người thế nào đi nữa nhưng ai cũng cảm thấy kiêu
hãnh được làm thành viên của một nhóm bạn nào đó và thường nhóm bạn của mình được
xem là một phần của “gia đình mình”
Theo nhiều tài liệu tiếp cận, chúng tôi nhận thấy đều thống nhất với định nghĩa:
“Tình bạn là loại tình cảm gắn bó giữa hai người hoặc một nhóm người với nhau trên cơ sở
hợp nhau về tình tình, giống nhau về sở thích, có sự phù hợp về xu hướng ( thế giới quan, lý
tưởng, niềm tin, hứn thú...) và một số nét nhân cách khác mà qua đó mỗi người đều tìm thấy
ở bạn mình một cái “tôi” thứ hai ít nhiều có tính chất lý tưởng”[5,tr.58], [19,tr.25], [45].
Chính vì vậy, thông qua mối quan hệ bạn bè, mỗi người có thể bộc lộ, khám phá, tự kiểm tra
và đánh giá bản thân bằng việc so sánh mình với người khác, đồng thời dựa vào sự đánh giá
của mình để tự hiểu mình, tự điều chỉnh, tự giáo dục và hoàn thiện mình.
Một điều cần lưu ý là chỉ đến cuối tuổi thiếu niên trở lên mới có tình bạn thân
theo đúng nghĩa của nó dựa trên sự giống nhau về xu hướng. Và càng đến tuổi thanh niên
tuổi trưởng thành, “tình bạn thân càng ổn định, càng bền vững kể cả tình bạn cùng giới cũng
như tình bạn khác giới”[45,tr.110].
+ Đặc điểm của tình bạn tốt
Bản chất của tình bạn là tình người, là kết tinh từ tình người. Cho nên giữa tình
bạn và tình người có quan hệ mật thiết không tách rời nhau. Đặc điểm của tình bạn tốt đòi
hỏi biểu hiện ở các dấu hiệu sau :
Có sự phù hợp về xu hướng
Có sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Có sự chân thành, tin cậy và có trách nhiệm cao đối với nhau.
Có sự đồng cảm.
Có thể tồn tại nhiều mối quan hệ tình bạn cùng một lúc và vẫn giữ được độ
mặn nồng, thắm thiết [43,tr.113], [5,tr.59]
Chính vì vậy mà tình bạn tốt không chấp nhận sự bao che khuyết điểm, bè phái,
có sự ghen ghét đố kỵ nhau....
+ Tình bạn khác giới
Tình bạn khác giới là tình bạn giữa một bạn nam và một bạn nữ, thường có
các đặc điểm sau đây:
Cảm thấy bối rối, xao xuyến, ngỡ ngàng.
Những rung cảm giới tính trong giao tiếp chứa đựng nhiều tâm trạng phức
tạp
Có khoảng cách tế nhị hơn so với tình bạn cùng giới, dường như có một sự
“tự điều chỉnh” tự nhiên trong mối quan hệ khác giới.
Mỗi bên đều xem giới kia là điều kiện để tự hoàn thiện mình. Tình bạn khác
giới làm tôn vẻ đẹp của mỗi giới: trong giao tiếp với nhau, bạn trai tỏ ra lịch sự, đàng hoàng
trong cách ăn mặc, nói năng, điệu bộ còn bạn gái thì tỏ ra diụ dàng, ý tứ và duyên dáng.
Từ chỗ tôn trọng, thông cảm, giúp đỡ lẫn nhau, tình bạn khác giới có thể trở
thành tình yêu. Tuy nhiên điều cần lưu ý không phải mọi tình bạn khác giới đều trở thành
tình yêu. Tình bạn khác giới thường nảy sinh ở tuổi dậy thì khi mà các em cùng nhau học
tập lao động, rèn luyện, vui chơi.
Những vấn đề này, theo chúng tôi cần trang bị cho thanh niên giúp họ lựa
chọn bạn phù hợp cho công việc, học tập ....của mình và khắc phục những dấu hiệu của tình
bạn không tốt.
- Tình yêu đôi lứa
+ Tình yêu đôi lứa là gì?
Về khái niệm tình yêu đã có không ít tác giả đề cập đến. Do tính phức tạp của nó
nên mỗi người tùy theo góc độ nhất định có thể đưa ra các định nghĩa khác nhau về tình yêu
theo chủ kiến. Có người cho rằng: “Tình yêu là vấn đề lãng mạn, ủy mị không đứng đắn. Có
người cho tình yêu chỉ là “vấn đề riêng của tuổi trẻ....”[38,tr.78]
Có nhiều định nghĩa về tình yêu, nhưng dưới đây là định nghĩa mang tính chất
phổ biến, theo chúng tôi là dễ chấp nhận: “Tình yêu là loại tình cảm đặc biệt-biểu hiện cao
nhất của tình người vượt ra khỏi cái vỏ cá nhân của mình để đi đến hòa quyện với một
người khác giới trong đó mỗi bên đều trở nên phong phú hơn nhờ bên kia”[43,tr.124],
[1,tr.48], [5,tr.62]. Tuy nhiên tình yêu nam nữ (tình yêu đôi lứa) không đồng nghĩa với quan
hệ tình dục.
Rõ ràng, tình yêu dứt khoát phải xuất phát từ tình bạn khác giới nhưng khác với
tình bạn ở chỗ là phải có sự say mê, cuốn hút, hòa nhập nhau về thể xác, tâm hồn và gắn bó
với nhau cả cuộc đời. Chính vì vậy, có người cho rằng: “Có ba nguồn cuốn hút con người:
tâm hồn làm nảy sinh tình bạn; trí tuệ tạo nên sự tôn trọng và cơ thể là nguồn gốc của sự
ham muốn. Tổ hợp của ba nguồn gốc đó làm nảy sinh tình yêu”[30,tr.9]
Trong tình yêu thường chứa đựng nhiều thành phần tâm lý, sinh lý và những
thành phần đó quan hệ chặt chẽ nhau, tác động qua lẫn nhau.
Có người quan niệm trong tình yêu phải có ba thành phần cơ bản là tình thương
trong tình yêu, tình bạn trong tình yêu và tình dục trong tình yêu [26,tr.86]. Theo chúng tôi
đây là vấn đề mới nhưng chứa đựng tính nhân văn thể hiện ở lòng nhân ái (tình người) và
nêu bật những tiền đề của một tình yêu đích thực. Sống và yêu – đó là hai mặt thống nhất
trong một con người bình thường. “Tình yêu thực sự là điều kiện quan trọng của sự nảy nở
và phát triển nhân cách con người”[3,tr.37]
Một vấn đề mang tính thực tế hiện nay: Thanh niên có ưu điểm biết trao đổi với
nhau nhiều những vấn đề về tình bạn nhưng tỷ lệ trao đổi về tình yêu của họ với bạn bè
cùng lứa còn thấp. Và xa hơn việc trao đổi với nhau về vấn đề tình dục lại càng rất thấp.
Đây là tình trạng chung đặc biệt là thành niên vùng nông thôn: chứng tỏ họ vẫn xem tình
yêu và nhất là tình dục là điều thầm kín không nên bàn luận công khai. Điều này đòi hỏi
những nhà hoạch định chính sách, nhà giáo dục.... cần phải lưu tâm hơn về vấn đề này trong
giáo dục cho thanh niên.
+ Các đặc điểm của tình yêu lành mạnh:
Tình yêu đôi lứa là một loại tình cảm đặc biệt. Để hướng tới một tình yêu đích
thực, hai người yêu nhau một cách lành mạnh. Có nhiều tài liệu đề cập đến các đặc điểm của
tình yêu lành mạnh, tuy nhiên vấn đề này mang tính phổ biến nên thường có sự tương đồng,
do vậy trong thực hiện đề tài, chúng tôi chọn cách tiếp cận này: Tôn trọng người mình yêu;
chia sẻ, đồng cảm, giúp nhau cùng tiến bộ; luôn đem lại hạnh phúc cho nhau, không nài ép
điều gì mà người yêu không muốn, luôn tạo cho nhau những niềm vui nho nhỏ hàng ngày;
chung thuỷ; tôn trọng bản thân mình. Do vậy, trong giáo dục cho thanh niên cần chỉ ra cho
họ biết những đặc điểm của tình yêu lành mạnh, khắc phục một số biểu hiện sai lệch trong
tình yêu của thanh niên, học sinh theo cơ chế kinh tế thị trường hiện nay:
Quan hệ nam nữ quá thân mật, suồng sả - Yêu đương quá sớm - Yêu theo phong
trào - Yêu vô trách nhiệm -Yêu chung chung, chỉ biết hiện tại mà không nghĩ đến tương lai -
Yêu ngộ nhận, yêu chỉ để thỏa mãn tình dục - Quan hệ yêu đương trongbsáng dần dần được
thay thế bằng tình yêu “hòa nhập”, tình yêu lợi dụng, tình yêu vật chất -Yêu nhanh và tan vỡ
nhanh - Xuất hiện nhiều kiểu yêu đương không lành mạnh - Yêu nhưng thiếu hiểu biết về
tình yêu [38,tr.236]
- Tình dục
Tình dục thuộc về một trong số những nhu cầu sinh lý cơ bản giúp cho việc sinh
tồn nòi giống. Đây cũng là nhu cầu quan trọng về tinh thần. Nói đến tình yêu là phải đến
tình dục vì đó được xem là một “thành phần” không thể thiếu trong tình yêu trọn vẹn ở
những người trưởng thành.
Mặc dù là một trong những hoạt động của thiết yếu của đời sống xã hội thế
nhưng việc nghiên cứu này do nhiều ràng buộc về phong tục tập quán, văn hóa truyền
thống.... thường bị hạn chế. Người ta xem đó là điều cấm kỵ, là mảnh đất thiêng, mảnh đất
không được biết đến. So với những lĩnh vực khoa học khác, các công trình nghiên cứu về
tình dụccòn quá hiếm. Phần lớn chúng được viết dạng những sách chuyên khảo có nội dung
từa tựa nhau.
Gần đây, trong thời đại bùng nổ thông tin, xu thế hội nhập vấn đề tình dục được
xem xét một cách nghiêm túc. Và trong giáo dục SKSS cho thanh niên phải có nội dung
giáo dục tình dục cho lớp trẻ.
Tình dục là “nhu cầu sinh lý tự nhiên, lành mạnh của con người, là sự nguyện,
hòa hợp về tâm hôn và thể xác giữa hai người; là nhu cầu cần thiết cho sự tồn tại nòi
giống”[8,tr.28].
Tình dục là yếu tố quan trọng của hôn nhân bền vững và hạnh phúc. Trên nền
tảng của tình yêu, tình dục đã được nâng lên tầm mức cao, được xử sự một cách có văn
hóa. Có thể nói thêm: Bản thân tình dục thì không nguy hiểm. Nó chính là một phần cuộc
sống của con người.
Việc giáo dục tình dục đối với thanh niên cần lưu ý họ tác hại của quan hệ tình
dục trước hôn nhân. Đây là vấn đề mang tính thời sự. Tình dục chỉ có ý nghĩa là bộ phận
của tình yêu khi giữa hai người đã: có tình yêu sâu đậm, đã qua thử thách – có sự tôn trọng,
bảo vệ và có trách nhiệm cao với nhau – có ý thức vị tha, quan tâm đến tiến bộ, sức khỏe
của nhau – biết sử dụng những thành tựukỹ thuật ngừa thai để làm chủ quá trình sinh sản
trong tình dục. Nếu chưa hội đủ các điều kiện trên thì những người bạn tình nhất là cô gái
cần có kiềm chế. Sự kiềm chế sẽ giúp cô gái thử thách người bạn trai của mình và còn có tác
dụng giúp cho cô gái tránh “khôn ba năm dại một giờ”. Độ tuổi phù hợp để quan hệ tình dục
theo chúng tôi là sau khi kết hôn.
Chính vì vậy, theo chúng tôi trong giáo dục tình dục cho thanh niên cần lưu ý đến
vấn đề tình dục an toàn và tình dục có trách nhiệm.
Tình dục an toàn (safe sex) lần đầu tiên được ra vào những năm 1980 để đáp ứng
với sự lan truyền của AIDS; là “cách đạt được khoái cảm nhưng không để máu, tinh dịch,
dịch tiết âm đạo của bạn tình xâm nhập vào cơ thể”.[5,tr.69]. Để đạt yêu cầu này cần thực
hiện việc quan hệ tình dục nhưng không giao hợp, không để có thai ngoài ý muốn, “sẽ giúp
bảo vệ chống lại tất cả các bệnh LTQĐTD chứ không chỉ riêng AIDS”[26,tr.287]. Vì vậy
cần sử dụng bao cao su để “an toàn hơn”. Còn tình dục có trách nhiệm “là cả nam và nữ
phải kiểm soát được hành vi tình dục của mình khi quan hệ tình dục; là việc phối hợp của cả
hai người trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai phù hợp” [5,tr.69]. Quan hệ tình dục
sớm và bừa bãi trong thanh niên sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, học tập và nghề nghiệp.
Quan hệ tình dục sớm dẫn đến tỉ lệ mang thai ngoài ý muốn cao, gây ra những lo âu, sợ hãi
thậm chí cả những hành vi tiêu cực, nếu không thì lại cho ra đời những đứa trẻ không đảm
bảo sức khỏe, dinh duỡng.
Tóm lại: Đối với lứa tuổi thanh niên cần được giáo dục không nên yêu sớm và
phải biết nói “không” đúng lúc. Nếu thanh niên đã có quan hệ tình dục cần hướng dẫn về
tình dục an toàn. Trong mọi trường hợp cần khuyến khích bạn trai phải có trách nhiệm.
- Hôn nhân
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Có quan điểm cho rằng: “Hôn
nhân là sự ràng buộc giữa hai người nam và nữ được luật pháp thừa nhận cho phép yêu nhau
và xây dựng gia đình” [3,tr.29]. Có quan điểm khác: “Hôn nhân là một hiện tượng xã hội,
trong đó hai người khác giới được xã hội thừa nhận sống chung với nhau, gắn bó với nhau,
có trách nhiệm với nhau và cùng có trách nhiệm trước xã hội” [38,tr.106]. Hôn nhân thường
được biểu hiện ở các hình thức là giấy chứng nhận ký hôn do chính quyền địa phương cấp
(hôn nhân hợp pháp) và lễ cưới để thông báo với mọi người.
Hôn nhân phải là liên minh tự nguyện, bình đẳng trên cơ sở tình yêu giữa nam và
nữ. Đạo đức xã hội chủ nghĩa chống lại hôn nhân không có tình yêu, hôn nhân cưỡng bức vì
động cơ vụ lợi...Tình yêu không phải là điều kiện duy nhất của hôn nhân và hạnh phúc gia
đình. Nhưng hạnh phúc đích thực thì không thể thiếu “bóng dáng” của tình yêu. Bởi vậy,
người ta thường đề cập tình yêu trước và sau hôn nhân, thậm chí có người còn nói: cần tiếp
tục tìm hiểu, khám phá, tiếp tục yêu sau hôn nhân.
Nếu như trước kia thời phong kiến, hôn nhân đôi lứa là do cha mẹ sắp đặt thì hiện
nay, hôn nhân đã có sự tiến bộ (hôn nhân tiến bộ) hơn cho phép người ta tự do lựa chọn bạn
đời. Hơn nữa gia đình hợp pháp chỉ gồm một vợ một chồng. Vấn đề quan trọng là hướng
cho thanh niên lựa chọn bạn đời như thế nào, tuổi nào kết hôn là tốt nhất là điều cần bàn.
Có thể nêu lên các tiêu chuẩn trong việc lựa chọn bạn đời trong thanh niên để có
thể đảm bảo một gia đình hạnh phúc như sau:
Thực sự yêu nhau – Có sự thống nhất về cuộc sống và các giá trị đạo đức và một
sự hiểu biết về các đặc điểm của nhau – Có sự chín muồi – Có sức khỏe tốt – Có kinh tế
vững vàng và nghề nghiệp ổn định [3,tr.32-33]
Về tuổi kết hôn, ở nước ta theo luật định là nữ đủ 18 tuổi và nam đủ 20 tuổi.
Nhưng trong phong trào KHHGĐ, người ta vận động chỉ kết hôn sau 20 tuổi đối với nữ và
24 tuổi đời đối với nam để có thời gian và điều kiện học tập, lập thân lập nghiệp, bảo vệ sức
khỏe; đồng thời đây là lứa tuổi sinh con hợp lý. Theo chúng tôi cần định hướng cho thanh
niên có thái độ và hành vi tốt đối với vấn đề này.
Tóm lại: Việc trang bị cho thanh niên các kiến thức về tình bạn, tình yêu đôi lứa;
tri thức về hôn nhân và đời sống gia đình thiết nghĩ có thể được thể hiện trong tám thông
điệp của Trung ương Đoàn trong giáo dục SKSS cho thanh niên, vị thành niên như sau:
+ Tình bạn là thiêng liêng cao quý nếu ta biết giữ gìn.
+ Điều quan trọng đối với chúng ta là học tập để ngày mai lập nghiệp.
+ Yêu nhau xin hãy giữ gìn cho nhau.
+ Nếu giữ được tình bạn, tình yêu trong sáng, chúng ta sẽ có mùa xuân vĩnh cửu.
+ Yêu em vì nết vì người. Yêu em yêu cả khi cười.... đừng anh.
+ Muốn có hạnh phúc bền lâu hãy nói “không” đúng lúc.
+ Bạn hãy chọn tôi – bao cao su nếu không bạn bị nhiễm HIV.
+ Vì sức khỏe lâu dài, chúng ta hãy bảo vệ mình khỏi mang thai ngoài ý muốn và
tránh các bệnh lây lan qua đường tình dục kể cả HIV/AIDS.
Và một khẩu hiệu: “cho một tương lai tốt đẹp hơn ngay bây giờ hãy hành động vì
SKSS thanh niên và vị thành niên” [30,tr.222]
1.2.2. Một số vấn đề về nhận thức
1.2.2.1. Tổng quan về quá trình nhận thức
Lý luận nhận thức được coi là học thuyết về khả năng nhận thức của con người,
về sự xuất hiện và phát triển của nhận thức, con đường và phương pháp nhận thức....Hiện
nay, vấn đề nhận thức nhất là nhận thức khoa học vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung và phát triển nhằm giúp con người càng hoàn thiện hơn khả năng nhận thức của mình
trong việc hình thành bức tranh chung của thế giới hiện thực và tiến gần đến chân lý.
Nhận thức là một trong ba mặt của đời sống tâm lý con người (nhận thức, tình
cảm, hành động). Nó có quan hệ mật thiết với hai mặt kia nhưng có điểm khác biệt về đối
tượng, tính chất, nội dung, phương thức phản ánh và sản phẩm.
Có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến khái niệm nhận thức.
Theo Từ điển Giáo dục học: “Nhận thức là quá trình và kết quả phản ánh, tái tạo
thực tiễn vào trong tư duy của con người” và “...sự tác động qua lại giữa nhận thức cảm tính
và nhận thức lý tính làm cho nhận thức của con người càng chính xác hơn về đối tượng,
càng tiến gần hơn chân lý khách quan” [18,tr.303-304]
Theo Nicky Hayes: “Nhận thức là tất cả cách hiểu thông tin tiếp nhận qua các
giác quan của cơ thể” [15,tr.37]
Theo Robert. S. Feldman: “nhận thức là quá trình tinh thần bậc cao qua đó chúng
ta hiểu thế giới, xử lý thông tin, phán đoán, quyết định, và chia sẻ hiểu biết với người khác”
[12,tr.308]
Xuất phát từ cách tiếp cận hoạt động liên quan đến các hiện tượng tâm lý của các
nhà tâm lý Xô viết cũ, các nhà tâm lý học Việt Nam đã đưa ra các khái niệm nhận thức đa
phần là tương đồng nhau. Theo giáo sư Phạm Minh Hạc, giáo sư Nguyễn Quang Uẩn,
Hoàng Thị Thu Hiền: “Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực xung quanh, hiện thực của
bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh
và đối với bản thân mình” [13], [16], [47].
Cũng có quan điểm cho rằng: “Nhận thức là hoạt động tâm lý của con người
hướng vào đối tượng để nhận biết về nó tồn tại dưới dạng những tri thức” [10,tr.122]. Với
những cách tiếp cận về khái niệm nhận thức ở trên, theo chúng tôi khi nói đến quá trình
nhận thức thường đề cập các điểm sau:
- Đó là quá trình phản ánh, thu nhận thông tin (hiện thực khách quan; bản thân
con người). Đây có thể xem điểm đặc trưng của quá trình nhận thức.
- Là một quá trình tâm lý: có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc. Quá trình nhận
thức của con người được nảy sinh từ yêu cầu thực tiễn và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn chân
lý.
- Là một hoạt động tâm lý bởi vì nó có đối tượng là các “bài toán nhận thức”.
Hơn nữa mỗi một hành động nhận thức cụ thể bao giờ cũng hướng vào một mục đích nhất
định và thực hiện bởi một hệ thống thao tác phù hợp.
- Thông qua quá trình nhận thức con người không chỉ dừng lại ở việc nhận thức
thế giới mà còn thực hiện nhiệm vụ lớn lao hơn là cải tạo thế giới.
Chính vì vậy mà hoạt động dạy học và giáo dục là nhằm cho đối tượng nhận thức
thực tiễn khách quan, hiểu bản chất và quy luật phát triển của sự vật hiện tượng, và giúp họ
nắm được phương pháp nhận thức để tiếp tục khám phá, tìm hiểu thực tiễn hướng đến việc
làm phong phú nhận thức của con người trong việc cảo tạo hiện thực và bản thân.
Trong quá trình nhận thức có tác giả còn nêu lên hai loại quá trình nhận thức đó
là: “....nhận thức khoa học của các nhà bác học nhằm tìm tòi sáng tạo ra cái mới cho nhân
loại và hoạt động nhận thức của học sinh, sinh viên nhằm lĩnh hội những kinh nghiệm văn
hóa lịch sử của loài người” [17,tr.66]. Vì vậy, theo cách hiểu này trong chừng mực nào đó
có thể hiểu quá trình nhận thức có hai loại cơ bản là nhận thức khoa học và nhận thức thông
thường. Theo tác giả Bùi Mạnh Hùng:
...nhận thức khoa học không chỉ có cấu trúc phức tạp mà còn có những đặc trưng
riêng so với nhận thức thông thường và được thể hiện ở các dấu hiệu sau:
- Thứ nhất: Mang tính khách quan, thông qua một quá trình được định hướng tự
giác, tích cực, sáng tạo nhằm tiếp cận chân lý.
- Thứ hai: Mang tính hệ thống, có luận cứu và sự sáng tạo tri thức khoa học mới.
- Thứ ba: Luôn đòi hỏi yêu cầu cao về tính trừu tượng hóa, khái quát hóa và cụ
thể hóa.
- Thứ tư: Đặt ra yêu cầu cao trong sử dụng ngôn ngữ, phương pháp và phương
tiện.
- Thứ năm: Có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn và thực nghiệm [23]
1.2.2.2. Các mức độ nhận thức
Theo nhiều tài liệu tâm lý học tiếp cận ở Việt Nam, khi nói đến các mức độ nhận
thức các tác giả đều theo hướng: chia quá trình nhận thức thành hai giai đoạn lớn và hai
giai đoạn này cũng được coi là hai mức độ của quá trình nhận thức. Đó là quá trình nhận
thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác và quá trình nhận thức bao gồm tư duy và tưởng
tượng.
Như vậy, nhận thức của con người diễn ra từ đơn giản đến phức tạp; từ chưa biết
đến biết, hiểu, vận dụng; từ thấp đến cao; từ phản ánh các thuộc tính bề ngoài cụ thể, đơn lẻ,
một cách trực tiếp các sự vật hiện tượng đến các thuộc tính bản chất, bên trong, có quy luật
trừu tượng và khái quát hàng loạt sự vật hiện tượng một cách gián tiếp. Theo đó, nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính có những đặc điểm khác biệt nhau về chất ở các mặt nội dung
phản ánh, phương thức phản ánh, sản phẩm. Trong hoạt động nhận thức, hai giai đoạn nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
V.I.Lênin đã tổng kết quy luật của hoạt động nhận thức như sau: “Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [27,tr.189]
Trong thực tế, về mặt lý luận người ta thường ít vận dụng các mức độ của quá trình
nhận thức gồm giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính ở trên trong nghiên cứu
hay đánh giá kết quả học tập của người học. Hiện nay, ở Việt Nam, người ta vận dụng thang
đo các mức độ nhận thức của Bloom để đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng như
trong nghiên cứu khoa học khi nghiên cứu các đề tài đề cập đến mức độ nhận thức. Thang
nhận thức của Bloom có sáu cấp độ là nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp,
đánh giá. Có thể khái quát nguyên tắc phân loại mục tiêu giáo dục – lĩnh vực nhận thức theo
Bloom như sau:
- Nhận biết (mức Biết)
Mức này được thể hiện ở chỗ người học nhớ các khái niệm cơ bản của môn học
hay vấn đề nào đó, có thể nêu lên hoặc nhận ra chúng khi được yêu cầu. Mức này được
thể hiện:
+ Biết các tri thức bộ phận.
+ Biết các thuật ngữ.
+ Biết các sự kiện riêng lẻ.
+ Biết cách thức và phương tiện tiếp cận với các tri thức riêng lẻ:
Tri thức về các quy ước
Tri thức về các khuynh hướng và tính nhất quán
Tri thức về cách phân loại và các phạm trù
Tri thức về các tiêu chuẩn
Tri thức về phương pháp luận
Tri thức về cái tổng quát và trừu tượng trong một lĩnh vực
Tri thức về các nguyên tắc và khái quát hóa
Tri thức về các lý thuyết và cấu trúc
- Thông hiểu (mức Hiểu)
Mức này được đánh dấu bởi việc người học hiểu các khái niệm của môn học hay
vấn đề nào đó và có thể vận dụng chúng khi chúng được thể hiện theo các cách tương tự
như cách giáo viên đã giảng dạy hoặc theo các ví dụ tiêu biểu về các khái niệm đó. Mức này
được thể hiện ở khả năng:
+ Chuyển dịch
+ Nội suy
+ Ngoại suy
- Áp dụng (mức Vận dụng)
Mức này thể hiện ở việc người học sử dụng các khái niệm trừu tượng trong các
hoàn cảnh riêng biệt hay cụ thể. Các khái niệm trừu tượng ở dạng:
+ Các tư tưởng khái quát
+ Các phương pháp được khái quát hóa
+ Các nguyên tắc
+ Các ý tưởng và lý thuyết kỹ thuật phải nhớ và vận dụng
- Phân tích
Là khả năng phân tách toàn thể các bộ phận cấu thành, xác định các mối quan hệ
giữa các bộ phận, nhận biết được nguyên lý, cấu trúc của các bộ phận. Đây là mức độ cao
hơn mức vận dụng vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu về cả nội dung lẫn kết cấu của tài liệu. Mức
này được thể hiện ở các dạng:
+ Phân tích các yếu tố
+ Phân tích mối quan hệ
+ Phân tích các nguyên tắc cấu trúc
- Tổng hợp
Là khả năng sắp xếp các bộ phận riêng lẻ lại với nhau để hình thành một toàn
thể mới. Điều này có thể bao gồm việc tạo ra một chủ đề mới, một mạng lưới các quan hệ
mới. Kết quả học tập của người học trong lĩnh vực này nhấn mạnh các hành vi sáng tạo,
đặc biệt là trong việc hình thành các mô hình hoặc cấu trúc mới. Mức này thể hiện ở các
dạng:
+ Tạo ra một thông tin thống nhất
+ Tạo ra một kế hoạch hoặc một tập hợp các thao tác dự kiến
+ Rút ra một tập hợp các mối quan hệ trừu tượng
- Đánh giá
Là khả năng xác định được các tiêu chí đánh giá khác nhau và vận dụng chúng
để đánh giá tài liệu. Đây là mức cao nhất của nhận thức vì nó chứa đựng các yếu tố của mọi
mức độ nhận thức nêu trên. Mức này thể hiện ở các dạng:
+ Đánh giá bằng các dấu hiệu bên trong
+ Đánh giá bằng các tiêu chuẩn bên ngoài
Trong thực tế, khi đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng nên đánh giá ở 3 mức hay 3 cấp độ đầu theo thang đo của
Benjamin Bloom là nhận biết, thông hiểu và vận dụng. Tuy nhiên thời gian gần đây các nhà
nghiên cứu trong công trình “Một số vấn đề chung về đánh giá chất lượng giáo dục phổ
thông, giáo dục trung học cơ sở”[53,tr.19-21] còn đề xuất chia cấp độ vận dụng thành hai
cấp độ nhỏ là vận dụng ở mức độ thấp và vận dụng ở mức độ cao.
- Vận dụng ở mức độ thấp thể hiện ở việc người học có thể hiểu được khái niệm ở
một cấp độ cao hơn “thông hiểu”, tạo ra được sự liên kết logic giữa các khái niệm cơ bản
của môn học và có thể vận dụng chúng để tổ chức lại các thông tin đã được trình bày giống
với bài giảng của giáo viên và sách giáo khoa.
- Vận dụng ở mức độ cao thể hiện ở việc học sinh có thể sử dụng các khái niệm về
môn học chủ để để giải quyết các vấn đề mới, không giống với những điều đã được học
hoăc trình bày trong sách giáo khoa nhưng phù hợp khi được giải quyết với kỹ năng và kỹ
thuật được giảng dạy ở mức độ nhận thức này. Đây có thể là những vấn đề giống với những
tình huống mà người học có thể gặp phải ở ngoài xã hội [53,tr.19-21].
Liên quan đến quá trình nhận thức của SV trường đại học Tiền Giang về SKSS,
chúng tôi muốn tìm hiểu nhận thức của SV qua việc biết, hiểu và từng bước vận dụng các
tình huống về SKSS được thể hiện ở các nội dung SKSS:
- Nhận thức của SV về các nội dung cơ bản của SKSS;
- Nhận thức của SV về vấn đề giới tính;
- Nhận thức của SV về vấn đề tình bạn, tình yêu, hôn nhân;
- Nhận thức của SV về vấn đề tình dục;
- Nhận thức của SV về vấn đề nạo phá thai và các con đường gây nhiễm bệnh
qua đường tình dục;
- Nhận thức của SV về các nguyên nhân làm ảnh hưởng đến nhận thức SKSS.
1.2.3. Đặc điểm sinh lý, tâm lý –xã hội lứa tuổi thanh niên SV
1.2.3.1. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi thanh niên SV
Ở lứa tuổi từ 18 đến 25 tuổi, hình thể thanh niên đã đạt đến mức độ hoàn chỉnh về
cấu trúc và sự phối hợp các chức năng. Điều này được thể hiện ở các nét chính sau:
- Chiều cao đạt 9/10 và đạt 2/3 trọng lượng của cơ thể trưởng thành.
- Não bộ đã đạt trọng lượng tối đa (trung bình là 1400gram), số lượng tế thần
kinh đạt mức cao nhất (14-16 tỉ).
- Hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt mức trưởng thành. Ở tuổi SV, nơron hoàn
hảo hơn, cách ly tốt hơn, đốt nhánh nhiều, nhiều tế bào thần kinh có thể nhận và gởi 1200
tin trước, sau. Điều này làm cho trí tuệ SV vượt xa trí tuệ của học sinh phổ thông. Uớc tính
ở tuổi SV “có tới 2/3 số kiến thức học được trong một đời người được tích lũy trong thời
gian này” [17], [36].
- Đặc điểm quan trọng là các chức năng sinh sản bắt đầu quá trình phát triển đầy
đủ. Giới tính đã được phân biệt và phát triển đầy đủ ở mỗi giới.
Bên cạnh đó, ở tuổi SV đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ cơ
xương, cơ bắp tạo nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên. Đồng thời các tố chất về thể lực
cũng phát triển mạnh tạo điều kiện cho những thành công rực rỡ cho đối tượng cả về lĩnh
vực thể thao và nghệ thuật.
1.2.3.2. Đặc điểm tâm lý – xã hội lứa tuổi thanh niên SV
- Về mặt xã hội
Thanh niên SV là nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị, kế tục cho một đội
ngũ trí thức có trình độ cao của xã hội. Xã hội coi họ là một thành viên chính thức, một
người trưởng thành.
Nét đặc trưng của SV là hình thành con đường sống được thể hiện trong kế hoạch
đường đời và tự xác định nghề nghiệp.
+ Kế hoạch đường đời cũng chính là kế hoạch hoạt động của SV và nó được
bắt đầu từ việc lựa chọn nghề nghiệp. Mặc dù có nhiều tác động và rào cản nhất định nhưng
việc lựa chọn của SV không chỉ đừng lại ở ý thích mà còn thể hiện trình độ đạo đức
“....chúng ta lựa chọn nghề nghiệp phải vì quyền lợi của nhân loại và vì sự hoàn thiện của
riêng ta” [17, tr.36].
+ Trong thời gian học tập, nghiên cứu và tu tưỡng rèn luyện ở trường đại học,
do ảnh hưởng của nội dung các môn khoa học, việc tham gia phong trào xu hướng nghề
nghiệp của SV được hình thành và phát triển. Điều này thể hiện ở việc SV đã củng cố thái
độ đối với nghề tương lai, có ý thức vươn lên làm chủ tri thức, hoàn thiện trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ sau khi ra trường....
- Về mặt tâm lý
Những đặc điểm tâm lý của thanh niên SV bị chi phối bởi những đặc điểm phát
triển thể chất, môi trường và vai trò xã hội cụ thể mà họ đang sống và hoạt động. Những đặc
điểm tâm lý ỡ thanh niên SV rấtt phong phú, đa dạng và không đồng đều.
* Sự thích nghi của SV với cuộc sống và hoạt động mới.
Hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống của SV có những nét
đặc trưng và đòi hỏi khác về chất so với lứa tuổi trước đó. Do vậy muốn thực hiện tốt các
mặt hoạt động của mình, SV phải thích nghi . Quá trình thích nghi thể hiện ở các mặt sau :
+ Nội dung học tập mang tính chuyên ngành.
+ Phương pháp học tập mới mang tính chất nghiên cứu khoa học.
+ Môi trường sinh hoạt mở rộng phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế.
+ Nội dung và cách thức giao tiếp với thầy cô giáo, bạn bè và tổ chức xã hội....
* Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ của SV
Bản chất hoạt động nhận thức của những người SV trong các trường đại học,
cao đẳng là đi sâu tìm hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách
chuyên sâu với mục đích trở thành chuyên gia về các lĩnh vực nhất định. Vì lẽ đó, nét đặc
trưng trong hoạt động học tập của SV là “sự căng thẳng nhiều về trí tuệ, sự phối hợp của
nhiều thao tác tư duy”[36,tr.147].
Thời kỳ này sự phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí tuệ,
biểu hiện rõ nhất trong việc tư duy sâu sắc và rộng, có năng lực giải quyết những nhiệm vụ
trí tuệ ngày một khó khăn, phức tạp hơn, có tiến bộ rõ rệt trong các lập luận lôgíc, trong việc
lĩnh hội tri thức.
Các nhà nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh niên
rất tích cực và có tính độc lập tư duy lý luận phát triển mạnh. Họ có khả năng và rất ưa thích
khái quát các vấn đề. Sự phát triển của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng
tạo. Nhờ khả năng khái quát, SV có thể tự mình phát hiện ra những cái mới. Chính vì vậy
với SV (cũng giống như lứa tuổi thanh niên nói chung) điều quan trọng là cách thức giải
quyết vấn đề được đặt ra chứ không phải là loại vấn đề nào cần giải quyết.
Ở lứa tuổi này, trí tưởng tượng, sự chú ý và ghi nhớ đã phát triển thành khả năng
hình thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu phát triển hiểu biết và học tập.
Một đặc trưng quan trọng trong phát triển trí tuệ của thời kỳ chuyển tiếp là “tính nhạy bén
cao độ”. SV có khả năng giải thích và gán ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính nhờ vào
những kinh nghiệm và tri thức đã có trước đây.
* Sự phát triển động cơ học tập của SV
Động cơ học tập chính là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ này
bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân khác nhau: yếu tố tâm lý của chính chủ thể hoặc nằm bên
ngoài bản thân chủ thể....Động cơ học tập cũng có thể này sinh do chính hoạt động và những
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại.
Lĩnh vực hoạt động của SV rất phong phú và thường bộc lộ tính hệ thống: bị
chi phối bởi nhiều động cơ. Nghiên cứu về động cơ học tập của SV cho thấy cấu trúc thứ
bậc động cơ của SV: động cơ nhận thức – động cơ nghề nghiệp – động cơ có tính xã hội –
động tự khẳng định – động cơ có tính cá nhân....Điều lưu ý là các động cơ này không cố
định mà biến đổi trong quá trình học tập.
* Sự phát triển tình cảm của SV
Sự phát triển tình cảm của SV được đặc trưng bằng “ thời kỳ bão táp và căng
thẳng”[17,tr.62]. Đây là thời kỳ đầy xúc cảm đối với mỗi cá nhân. Có nhiều tình huống mới
nảy sinh trong cuộc sống của họ, đòi hỏi họ phải phán đoán và quyết định những còn thiếu
kinh nghiệm và hiểu biết xã hội. Vì vậy việc nảy sinh những tình cảm không thích hợp khi
phải ứng xử trước những tình huống đó.
Tình bạn cùng giới, khác giới ở tuổi SV tiếp tục được phát triển theo chiều sâu.
Một mặt các bạn vẫn giữ mối quan hệ bạn bè thời phổ thông trung học nhưng mặt khác tiếp
tục có thêm những tình bạn mới không kém phần bền vững, sâu sắc. Điều đó đã làm phong
phú thêm tâm hồn, nhân cách của SV rất nhiều.
Tình yêu ở tuổi SV đạt đến hình thái chuẩn mực cùng với những biểu hiện
phong phú đặc sắc. Nhìn chung tình yêu đôi lứa ở tuổi SV rất đẹp, lãng mạn, đầy chất
thơ,.....Nhưng trong lĩnh vực này SV gặp phải những mâu thuẫn nội tại đôi khi họ gặp
không ít khó khăn khi giải quyết đôi khi bế tắc, bi kịch. Do vậy, đa số SV chọn con đường
học tập, học nghề, tu dưỡng trong thời gian học hơn là đi vào con đường “luyến ái” quá sớm
và điều đó giúp họ càng vững vàng, chính chắn hơn trong cuộc sống.
Tóm lại: SV thuộc thuộc lớp thanh niên có độ tuổi từ 19 – 25, là giai đoạn
chuyển tiếp từ sự chín muồi về thể chất sang trưởng thành về phương diện tâm lý-xã hội.
Lứa tuổi này được đánh giá là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm
mỹ; là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách, có vai trò người lớn thực sự. Đây là thời
kỳ có nhiều biến động mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội. SV đã biết xác định con
đường sống tương lai, tích cực nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu dấn thân thể nghiệm mình
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
1.2.4. Giáo dục sức khỏe sinh sản
1.2.4.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục sức khỏe sinh sản
SKSS là quyền của nam và nữ. Con người có SKSS tốt một khi được thỏa mãn 4
vấn đề sau đây:
- Có cuộc sống tình dục thỏa mãn, an toàn và có khả năng sinh sản.
- Được tự quyết định trong lĩnh vực sinh con.
- Được thông tin, tiếp cận và sử dụng các biện pháp tránh thai một cách an toàn,
thuận tiên và hiệu quả.
- Được chăm sóc sức khỏe khi mang thai và lúc sinh nở cho cả mẹ và con.
Chính vì vậy, có thể nói: SKSS là một bộ phận quan trọng của đời sống giới tính,
có ý nghĩa lớn đối với toàn bộ các biểu hiện khác của đời sống giới tính của con người. Nó
thể hiện rõ khả năng hoạt động của hệ cơ quan sinh dục và qua đó khắc họa rõ nét, đặc trưng
của đời sống giới tính.
SKSS ảnh hưởng mạnh đến sức khỏe, liên quan đến bảng năng tình dục, đời sống
sinh lý cơ thể... và như vậy là ảnh hưởng mạnh mẽ sự phát triển toàn bộ nhân cách con
người.
1.2.4.2. Nội dung giáo dục sức khỏe sinh sản
Giáo dục SKSS là “hoạt động giáo dục trang bị cho con người tri thức và những
kỹ năng giữ gìn, đảm bảo cho SKSS ở tình trạng tốt, giúp cho con người có sức khỏe, có đời
sống tình dục an toàn, yêu đương lành mạnh, gia đình hạnh phúc, có tri thức đầy đủ về
SKSS, bảo đảm được sự sinh nở bình thường, nuôi con khỏe mạnh, thông minh và phát
triển” [38,tr.137]
Giáo dục SKSS là một bộ phận của giáo dục giới tính, thường gắn liền với giáo
dục dân số. Cả hai có mối quan hệ mật thiết, rất đặc biệt.
Mục tiêu cơ bản của chương trình giáo dục SKSS là gây tác động đến sức khỏe-
cụ thể là các vấn đề sức khỏe có liên quan đến hệ sinh sản, hoặc các vấn đề sức khỏe khác
có liên quan đến giống nòi. Vấn đề SKSS đặt ra cho Việt Nam là tình trạng mang thai ở tuổi
thiếu niên, các bệnh LTQĐTD, nạo phá thai, sự phân biệt chống lại trẻ em gái và phụ nữ,
vấn đề bạo lực đối với nữ.
Trên thực tế, hầu hết nội dung của chương trình giáo dục SKSS có trong
chương trình giáo dục dân số nhằm cho thanh thiếu niên hiểu biết và có quyết định về số
con trong gia đình, có hiểu biết đầy đủ về tình trạng mang thai ở tuổi thiếu niên, các bệnh
LTQĐTD, nạo thai, phân biệt em gái và phụ nữ. Vì thế, nội dung trọng tâm của chương
trình giáo dục SKSS cũng phải nằm trong chương trình giáo dục dân số.
Việc giáo dục SKSS phải được tiến hành toàn diện và rộng rãi trong toàn xã hội
cho mọi đối tượng, đặc biệt là đối với lứa tuổi vị thành niên.
Theo tác giả Bùi Ngọc Oánh, có thể xác định nội dung chương trình giáo dục
SKSS gồm các vấn đề sau đây:
- Cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục nam nữ
- Một số hiện tượng đặc biệt điển hình trong đời sống sinh lý tình dục.
- Bản chất của hoạt động tình dục và biểu hiện của đời sống tình dục ở thanh
thiếu niên.
- Các bệnh LTQĐTD và cách phòng tránh.
- Sự thụ thai và sự phát triển của thai nhi.
- Các biện pháp tránh thai.
- KHHGĐ.
- Vấn đề nạo phá thai ở tuổi vị thành niên và hậu quả.
- Giới tính và vấn đề SKSS.
- Hôn nhân và đời sống gia đình.
- Quan hệ vợ chồng và sự bình đẳng nam nữ.
- Vấn đề chống bạo hành trong gia đình và sự xâm phạm tình dục trẻ em.
- Việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
- Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển.
Đây là nội dung chung nhất của chương trình giáo dục SKSS nhưng tùy theo từng
nhóm tuổi mà chúng ta có thể lựa chọn để vận dụng cho thích hợp.
Chương 2: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TIỀN GIANG VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN
2.1. Đánh giá của sinh viên đại học Tiền Giang về mức độ nhận thức SKSS
2.2.1. Tự đánh giá của bản thân SV đại học Tiền Giang về mức độ nhận thức SKSS
Kết quả điều tra về tự đánh giá của SV đại học Tiền Giang về mức độ nhận thức
SKSS được trình bày ở biểu đồ 2.1.
Chưa biết
Biết rất ít
Biết ít
Biết nhiều
Hiểu
Qua kết quả điều tra cho thấy tự đánh giá của SV về nhận thức SKSS như sau:
mức độ chưa biết 7.2%; biết rất ít 15.1%; biết ít 36.1%; biết nhiều 9%; hiểu 32.5%. Như
vậy, SV tự nhận đã có hiểu biết về SKSS chiếm đến hơn 2/3 số SV (83.7%) trong đó gần
1/3 số SV tự nhận đã hiểu về SKSS và hơn 1/3 số SV tự nhận đã biết về SKSS trong đó mức
độ biết ít chiếm tỉ lệ cao nhất (36.1%).
* So sánh việc tự đánh giá của SV Đại học Tiền Giang về nhận thức SKSS xét theo
giới và xét theo ngành.
Kết quả điều tra so sánh tự đánh giá của SV Đại học Tiền Giang về nhận thức
SKSS xét theo giới và xét theo ngành được thể hiện ở bảng 2.1
Giới Ngành
SVSP SVNSP Mức độ
nhận thức
Số
lượng
nam
Tỉ lệ
%
Số
lượng
nữ
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Chưa biết 9 7.5 15 7.1 5 4.3 19 8.8
Biết rất ít 11 9.2 39 18.4 18 15.4 32 14.9
Biết ít 39 32.5 81 38.2 36 30.8 84 39.1
Biết nhiều 12 10.0 18 8.5 10 8.5 20 9.3
Hiểu 49 40.8 59 27.8 48 41.0 60 27.9
32.5% 7.2% 15.1%
36.1%9%
Biểu đồ 2.1 Tự đánh giá của SV đại học Tiền Giang
về mức độ nhận thức SKSS
Bảng 2.1. Tự đánh giá của SV Đại học Tiền Giang về nhận thức SKSS xét theo giới và xét
theo ngành
Nhìn vào bảng trên cho thấy:
- Xét theo giới: tự đánh giá nhận thức SKSS của nam và nữ SV đều tập trung ở
mức độ biết và hiểu trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là biết ít (nam: 32.5%; nữ: 38.2%) và hiểu
(nam: 40.8%; nữ: 27.8%). Như vậy, SV tự nhận đã hiểu về SKSS chiếm tỉ lệ cao ở nam SV
so với nữ SV.
- Xét theo ngành: tự đánh giá nhận thức SKSS của SVSP và SVNSP cũng đều tập
trung ở mức độ biết và hiểu, trong đó cũng như so sánh xét theo giới, chiếm tỉ lệ cao nhất là
biết ít (SVSP: 30.8%; SV NSP: 38.1%) và hiểu (SVSP: 41%; SVNSP: 27.9%). Điều đó cho
thấy SV tự nhận đã hiểu về SKSS chiếm tỉ lệ cao ở SVSP so với SVNSP.
2.1.2. Đánh giá của sinh viên đại học Tiền Giang về mức độ nhận thức SKSS
Kết quả điều tra việc đánh giá của SV đại học Tiền Giang về mức độ nhận thức
SKSS được trình bày ở biểu đồ 2.2
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Kém
Rất kém
Qua biểu đồ trên cho thấy việc đánh giá của SV đại học Tiền Giang về mức độ
nhận thức SKSS như sau: rất tốt 6.9%; tốt 44.9%; trung bình 41.6%; kém 3.9%; rất kém
1.2%. Kết quả điều tra cho thấy việc đánh giá của SV đại học Tiền Giang về mức độ nhận
thức SKSS tập trung ở mức độ tốt và trung bình chiếm hơn 2/3 số SV (86.5%). Điều này
cho thấy SV đã đạt một mức độ nhận thức nhất định về SKSS, chứng tỏ các bạn đã có sự
quan tâm đến lĩnh vực nhạy cảm, tế nhị nhưng cũng đầy phức tạp....này.
* So sánh việc đánh giá của SV Đại học Tiền Giang về nhận thức SKSS xét theo
giới và xét theo ngành.
Kết quả điều tra việc đánh giá của SV Đại học Tiền Giang về nhận thức SKSS
xét theo giới và xét theo ngành được thể hiện ở bảng 2.2
Nhận thức Giới Ngành
41.6%
44.9%
6.9%1.2%3.9%
Biểu đồ 2.2 Đánh giá của SV đại học Tiền Giang
về mức độ nhận thức SKSS
SVSP SVNSP Số
lượng
nam
Tỉ lệ
%
Số
lượng
nữ
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Rất tốt 13 10.8 10 4.7 8 6.8 15 7.0
Tốt 54 45.0 95 44.8 63 53.8 86 40.0
Trung bình 43 35.8 95 44.8 37 31.6 101 47.0
Kém 4 3.3 9 4.2 7 6.0 6 2.8
Rất kém 3 2.5 1 0.5 4 1.9
Bảng 2.2. Đánh giá của SV Đại học Tiền Giang về nhận thức SKSS xét theo giới và xét
theo ngành
Nhìn vào bảng trên cho thấy:
- Xét theo giới: việc đánh giá nhận thức SKSS của nam và nữ SV đều hướng về
mức tốt và trung bình: mức tốt (ở nam: 45%; ở nữ: 44.8%) và tốt (ở nam: 35.8%; ở nữ:
44.8%). Như vậy, đánh giá của SV về mức độ nhận thức tốt về SKSS chiếm tỉ lệ cao ở nữ
SV so với nam SV.
- Xét theo ngành: việc đánh giá nhận thức SKSS của SVSP và SVNSP cũng tập
trung ở mức tốt và trung bình. Trong đó SVSP đánh giá nhận thức SKSS của tất cả SV ở
mức tốt chiếm tỉ lệ cao nhất 53.8% so với 40.% ở SVNSP và mức trung bình chiếm tỉ lệ
31.6% so với 47.% ở SVNSP.
Nhận xét chung: Qua việc đánh giá và tự đánh giá của SV về nhận thức SKSS đã
cho thấy có sự tương phản trong tự đánh giá và đánh giá của SV về nhận thức SKSS xét
theo giới và xét theo ngành. Và chiếm tỉ lệ cao ở mức tốt trong nam SV và SVSP.
2.2. Nhận thức của sinh viên đại học Tiền Giang về nội dung SKSS và về các biểu
hiện sự khác biệt mặt tâm lý của giới tính
2.2.1. Nhận thức của SV đại học Tiền Giang về nội dung SKSS
Kết quả điều tra về nhận thức của SV đại học Tiền Giang về nội dung SKSS
được trình bày ở bảng 2.3
Xét theo giới Xét theo ngành Số
TT
Nội dung SKSS Chung
Nam Nữ SVSP SVNSP
1 Cấu tạo và chức năng cơ
quan sinh dục nam nữ
f
%
226
68.1%
72
60%
154
73.3%
87
74.4%
139
65.3%
2 Giới f
%
43
13%
18
15%
25
11.9%
14
12%
29
13.6%
3 Giới tính f
%
211
63.6%
83
69.2%
128
61%
84
71.8%
127
59.6%
4 Sự thụ thai f 176 68 108 66 110
% 53% 56.7% 51.4% 56.4% 51.6%
5 Kinh nguyệt f
%
186
56%
65
54.2%
121
57.6%
75
64.1%
111
52.1%
6 Tình bạn f
%
88
26.5%
35
29.2%
53
25.2%
31
26.5%
57
26.8%
7 Tình yêu f
%
159
47.9%
65
54.2%
94
44.8%
55
47%
104
48.8%
8 Hôn nhân f
%
139
41.9%
52
43.3%
87
41,4%
50
42.7%
89
41.8%
9 Tình dục f
%
230
69.3%
92
76.7%
138
65.7%
91
77.8%
139
65.3%
10 Kế hoạch hóa gia đình f
%
187
56.3%
65
54.2%
122
58.1%
69
59%
118
55.4%
11 Chăm sóc phụ nữ khi
mang thai
f
%
198
59.6%
73
60.8%
125
59.5%
69
59%
129
60.6%
12 Các biện pháp tránh thai f
%
217
65.4%
78
65%
139
66.2%
85
72.6%
132
62%
13 Nạo hút thai an toàn f
%
161
48.5%
64
53.3%
97
46.2%
63
53.8%
98
46%
14 Phòng tránh bệnh
LTQĐTD
f
%
230
69.3%
87
72.5%
143
69.1%
98
83.8%
132
62%
15 Chăm sóc sức khỏe vị
thành niên
f
%
219
68%
71
59.2%
148
70.5%
85
72.6%
134
62.4%
16 Bình đẳng giới f
%
47
14.2%
19
15.8%
28
13.3%
20
17.1%
27
12,7%
17 Vô sinh f
%
95
28.6%
36
30%
59
28.1%
32
27.4%
63
29.6%
18 HIV/AIDS f
%
134
40.4%
60
50%
74
35.2%
51
43.6%
83
39%
19 Mãn kinh khi tuổi già f
%
77
23.2%
28
23.3%
49
23.3%
35
29.9%
42
19.7%
Bảng 2.3. Nhận thức của SV Đại học Tiền Giang về nội dung SKSS
Qua bảng trên, nhận thấy SV đại học Tiền Giang đã nhận thức nội dung SKSS bao
gồm 19 vấn đề cơ bản được giới thiệu ở trên nhưng tỉ lệ các nội dung cụ thể mà các sinh
viên nhận thức không đồng đều. Có thể nhận thấy, có 10/19 nội dung mà sinh viên biết
nhiều, chiếm tỉ lệ cao trong tổng số SV được điều tra (trên 50%), theo thứ tự: tình dục
(69.3%); phòng tránh bệnh LTQĐTD (69.3%); cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nam
nữ (68.1%); các biện pháp tránh thai (65.4%); chăm sóc SKSS vị thành niên (66%) ; giới
tính (63.6%); chăm sóc phụ nữ khi mang thai (59.6%); KHHGĐ (56.3%); kinh nguyệt
(56%); sự thụ thai (53%). Bên cạnh dó, các nội dung SKSS mà SV biết ít (dưới 30%) là: vô
sinh (28.6%); tình bạn (26.5%); mãn kinh khi tuổi già (23.2%); bình đẳng giới (14.2%); giới
(13%).
- Xét theo giới tính: SV ở hai giới đều cho rằng nội dung SKSS cũng bao gồm 19
vấn đề nói trên. Hầu hết SV ở hai giới đều biết nhiều (trên 50% trong tổng số SV được điều
tra) ở các vấn đề: tình dục; phòng tránh bệnh LTQĐTD; giới tính; các biện pháp tránh thai;
chăm sóc phụ nữ khi mang thai; cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nam nữ; chăm sóc
SKSS vị thành niên; sự thụ thai; tình yêu; kinh nguyệt; KHHGĐ; nạo hút thai an toàn. Nội
dung SKSS được nam SV biết nhiều nhất là tình dục (76.7%) và biết ít nhất là giới (15%);
nội dung SKSS được nữ SV biết nhiều nhất là cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nam
nữ (71.6%) và biết ít nhất là giới (11.6%). Trong đó, độ chênh lệch về tỉ lệ giữa nội dung
SKSS được biết nhiều nhất và biết ít nhất ở nam SV và nữ SV là không nhiều (61.7% - nam
SV so với 60% - nữ SV)
- Xét theo ngành: cả SVSP và SVNSP khi được hỏi đều cho rằng nội dung SKSS
bao gồm 19 vấn đề cơ bản nêu trên, trong đó biết nhiều (trên 50% tổng số SV được điều tra)
ở các vấn đề: phòng tránh bệnh LTQĐTD; cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nam nữ;
các biện pháp tránh thai; chăm sóc SKSS vị thành niên; giới tính; kinh nguyệt; chăm sóc
phụ nữ khi mang thai; sự thụ thai; kinh nguyệt, nạo hút thai an toàn. Và biết ít ở các nội
dung: giới tính, bình đẳng giới, mãn kinh khi tuổi già. Tuy nhiên, độ chênh lệch tỉ lệ giữa
nội dung SKSS được biết nhiều nhất và nội dung biết ít nhất ở SVSP so với SVNSP là
tương đối cao (71.8%- SVSP so với 52.1% - SVNSP).
Qua trao đổi, trò chuyện với một số bạn SV ở các lớp nhất là các lớp ở khối ngành
SP đã cho thấy mặc dù có nhận thức về nội dung SKSS nhưng các SV biết chưa đầy đủ về
các nội dung. Số các bạn biết đầy đủ về các nội dung (qua trò chuyện) rất ít. Điều này cũng
phù hợp trong đánh giá của cán bộ giáo viên (CBGV) trường đại học Tiền Giang cho rằng
nhận thức của SV khi đề cập đến các khái niệm, thuật ngữ SKSS chỉ ở mức trung bình với
25/47 chiếm tỉ lệ 59% số CBGV được điều tra (được thể hiện trong bảng 3.2 phụ lục 3)
- Nhận xét chung:
+ Đa số SV đã có nhận thức phù hợp, đúng đắn khi cho rằng nội dung SKSS
bao gồm 19 vấn đề được giới thiệu ở trên. Qua hiện trạng trên cho thấy SV đã ít nhiều quan
tâm tuy chưa thỏa đáng, chưa đầy đủ về nội dung SKSS.
Sinh viên biết nhiều ở các vấn đề: tình dục, phòng tránh bệnh LTQĐTD, chăm
sóc SKSS vị thành niên, nạo phá thai, chăm sóc phụ nữ khi mang thai; các biện pháp tránh
thai; cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nam nữ; sự thụ thai... và biết ít ở các nội dung:
giới; bình đẳng giới, vô sinh; mãn kinh khi tuổi già. Điều đó cho thấy SV đã có nhận thức
về nội dung SKSS nhưng biết một cách chưa đầy đủ. Kể cả vấn đề tình bạn, tình yêu trong
nội dung SKSS qua điều tra cũng có tỉ lệ thấp. Nhận thức của SV chỉ dừng lại 10/19 vấn đề
có tỉ lệ từ 50% trở lên là vấn đề đáng suy nghĩ trong nhận thức của SV về vấn đề này đòi
các lực lượng giáo dục cần có hướng tác động đến SV để nâng cao hơn nữa mức độ nhận
thức của SV.
+ Sinh viên ở hai giới đều có nhận thức giống nhau về các vấn đề của nội dung
SKSS nhưng nam SV thường hướng nhiều đến các vấn đề tương đối nhạy cảm, tế nhị trong
SKSS như: tình dục, các biện pháp tránh thai, phòng chống bệnh LTQĐTD so với nữ SV.
+ Nhận thức từng vấn đề của nội dung SKSS ở SVSP có tỉ lệ cao hơn SVNSP
mặc dù SV đều đã được nghe và tiếp cận về vấn đề này. Điều đó cho thấy việc nhận thức
của SVSP không chỉ dừng lại ở mục đích phục vụ cho bản thân mà còn chuẩn bị để sau này
phục vụ cho công tác giáo dục thế hệ trẻ, nên các bạn quan tâm đến nội dung này và đòi hỏi
phải biết nhiều hơn.
2.2.2. Nhận thức của SV đại học Tiền Giang về các biểu hiện sự khác biệt mặt tâm
lý của giới tính
Kết quả điều tra về nhận thức của SV đại học Tiền Giang về biểu hiện sự khác
biệt mặt tâm lý của giới tính được thể hiện ở bảng 2.4 và biểu đồ Đ3.1 và Đ3.2 (phần phụ
lục 1)
Xét theo giới Xét theo ngành Số
TT
Các biểu hiện của giới tính Chung
Nam Nữ SVSP SVNSP
1 Hứng thú f
%
33
9.9%
18
15.3%
15
7.2%
11
9.7%
22
10.3%
2 Xúc cảm, tình cảm f
%
140
42.2%
59
50%
81
38.8%
45
39.8%
95
44.4%
3 Tính cách f
%
131
39.5%
52
44.1%
79
37.8%
48
42.5%
83
38.8%
4 Năng lực f
%
105
31.6%
29
24.6%
76
36.4%
29
25.7%
76
35.5%
Bảng 2.4. Nhận thức của SV Đại học Tiền Giang về các biểu hiện của giới tính
Nhìn vào bảng trên, nhận thấy SV đại học Tiền Giang bước đầu đã hiểu về các biểu
hiện sự khác biệt về mặt tâm lý của giới tính tuy chưa đầy đủ. Trong 4 biểu hiện sự khác
biệt về mặt tâm lý của giới tính, SV đặc biệt chú trọng nhiều đến 3 vấn đề: tình cảm (42.2%)
xếp thứ nhất, thứ hai là tính cách (39.5%) và thứ ba là năng lực (31%). Biểu hiện sự khác
biệt về mặt tâm lý giới tính mà SV biết ít nhất là vấn đề hứng thú (9.9%). Mặc dù đó là 4
biểu hiện của giới tính và có vị trí như nhau.
- Xét theo giới tính: SV cả hai giới đều cho rằng giới tính được biểu hiện ở 4 vấn đề
nêu trên, trong đó có 3 vấn đề mà SV cũng đặc biệt lưu tâm: vấn đề tình cảm xếp thứ nhất
(50%- nam SV, 38.8% - nữ SV); tính cách (44.1%- nam SV, 37.8% - nữ SV) xếp thứ hai và
năng lực (24.6% -nam SV) xếp thứ ba; vấn đề khác cũng có nói đến nhưng chiếm tỉ lệ rất
thấp. Tỉ lệ thấp nhất là vấn đề hứng thú (15.3% ở nam và 7.2%). Điều đó cho thấy, SV chưa
hiểu đầy đủ về các biểu hiện của giới tính, nhận thức vấn đề còn mang tính cảm tính, thông
qua vốn sống, kinh nghiệm là chủ yếu. Việc nhận thức vấn đề này ở nữ SV mặc dù tỉ lệ các
biểu hiện sự khác biệt về mặt tâm lý của giới tính không chiếm tỉ lệ cao so với nam giới
nhưng độ chênh lệch về tỉ lệ là không lớn.
- Xét theo ngành: SVSP và SVNSP trong nhận thức về các biểu hiện sự khác biệt
về mặt tâm lý của giới tính cũng đề cập đến 4 vấn đề được giới thiệu ở trên và cũng tập
trung vào 3 vấn đề: tình cảm; tính cách; năng lực. Nhưng SVSP hiểu biểu hiện sự khác biệt
về mặt tâm lý của giới tính nghiêng nhiều về vấn đề tính cách (42.2%) xếp thứ nhất, tình
cảm (39.8%) xếp thứ hai và năng lực (25.7%) xếp thứ ba còn SVNSP thì nghiêng nhiều về
vấn đề tình cảm (50%) xếp thứ nhất; tính cách (38.8%) xếp thứ hai và năng lực (35.5%) xếp
thứ ba. Và cả SVSP và SVNSP đều hiểu biểu hiện sự khác biệt về mặt tâm lý của giới tính
đạt tỉ lệ thấp nhất ở vấn đề hứng thú (9.7% - SVSP, 10.3% -SVNSP).
- Nhận xét chung:
+ Sinh viên đã có hiểu biết nhất định về sự khác biệt về mặt tâm lý của giới tính
gồm 4 vấn đề như đã nêu ở trên.
+ Việc hiểu của SV về các biểu hiện sự khác biệt về mặt tâm lý của giới tính
hầu như chưa đầy đủ, chỉ tập trung vào 3/4 biểu hiện nhưng tỉ lệ không cao chỉ ở ngưỡng
dưới trung bình. Điều đó cho thấy, mức độ nhận thức của SV về vấn đề giới tính chưa cao,
hiểu vấn đề còn mang tính phiến diện, kinh nghiệm.
+ Việc hiểu các biểu hiện sự khác biệt về mặt tâm lý của giới tính ở nam SV và
nữ SV cũng như SVSP và SVNSP tuy có thay đổi trật tự các biểu hiện (như khi xem xét ờ
SVSP và SVNSP) nhưng nhìn chung không có khác biệt lớn.
+ Sinh viên cần được trang bị các kiến thức về giới tính để hiểu đầy đủ hơn về
các biểu hiện của nó.
2.3. Nhận thức của sinh viên đại học Tiền Giang về vấn đề tình bạn, tình yêu, hôn
nhân
2.3.1. Nhận thức của SV đại học Tiền Giang về vấn đề tình bạn
Kết quả điều tra về nhận thức của SV đại học Tiền Giang về
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTLH006.pdf