Tài liệu Luận văn Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép: LUẬN VĂN:
Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong
sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép
Lời nói đầu
Tiết kiệm là một nhân tố quan trọng làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm
giá thành sản phẩm dịch vụ. Vì thế tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên
thế giới. Tiết kiệm phải được thực hành ở mọi khâu của nền kinh tế quốc dân. Trong các
khâu đó thì sản xuất là khâu quan trọng nhất vì sản xuất là nơi sử dụng các yếu tố của quá
trình sản xuất như nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị và thời gian lao động của người lao
động. Đối với ngành thép, các doanh nghiệp đã đề ra các phương hướng và biện pháp tiết
kiệm vật tư. Trong đề tài “ nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các
doanh nghiệp ngành thép ”,
Chương I
Những vấn đề cơ bản về nguồn và biện pháp tiết kiệm đầu tư .
I. Ý nghĩa kinh tế của tiết kiệm đầu tư
1.Khái niệm vật tư, tiết kiệm vật tư
1.1 Khái niệm vật tư
Vật tư là đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh...
35 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong
sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép
Lời nói đầu
Tiết kiệm là một nhân tố quan trọng làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm
giá thành sản phẩm dịch vụ. Vì thế tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên
thế giới. Tiết kiệm phải được thực hành ở mọi khâu của nền kinh tế quốc dân. Trong các
khâu đó thì sản xuất là khâu quan trọng nhất vì sản xuất là nơi sử dụng các yếu tố của quá
trình sản xuất như nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị và thời gian lao động của người lao
động. Đối với ngành thép, các doanh nghiệp đã đề ra các phương hướng và biện pháp tiết
kiệm vật tư. Trong đề tài “ nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các
doanh nghiệp ngành thép ”,
Chương I
Những vấn đề cơ bản về nguồn và biện pháp tiết kiệm đầu tư .
I. Ý nghĩa kinh tế của tiết kiệm đầu tư
1.Khái niệm vật tư, tiết kiệm vật tư
1.1 Khái niệm vật tư
Vật tư là đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh và chiếm một tỉ
trọng lớn trong cơ cấu chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp
Vật tư là những vật có chức năng làm tư liệu sản xuất, đang trong quá trình từ vận
động đến tiêu dùng sản xuất chưa bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp
Vật tư là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất. Đó là nguyên, nhiên, vật liệu,
điện lực, bán thành phẩm, thiết bị, máy móc, dụng cụ, phụ tùng.
1.2 Khái niệm tiết kiệm .
Chế độ tiết kiệm là hệ thống những biện pháp kinh tế, tổ chức, kĩ thuật và giáo dục
được thực hiện theo một chương trình nhất định nhằm sử dụng hợp lí và tiết kiệm các
nguồn lực của mỗi doanh nghiệp, hộ tiêu dùng và nền kinh tế quốc dân để phát triển sản
xuất kinh doanh .
Tiết kiệm không chỉ là sử dụng dè sẻn tất cả các ngồn tài nguyên, là tránh sự mất
mát mà còn là sử dụng hợp lí những nguồn tài nguyên đó, là tiêu dùng có căn cứ khoa
học các phương tiện nhằm hoàn thiện công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nói cách khác, tiết kiệm theo nghĩa rộng chính là toàn bộ các giải pháp kinh tế, tổ chức,
kĩ thuật ….nhằm giải quyết tốt các vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh ơ mọi cấp của
nền kinh tế quốc dân .
2. Phân loại vật tư
Vật tư gồm nhiều thứ, nhiều loại, từ những thứ có tính năng kĩ thuật cao, đến
những thứ, những loại thông thường, từ những thứ có khối lượng và trọng lượng lớn đến
những thứ nhỏ nhẹ kích thước nhỏ bé, từ những thứ đắt tiền đến những thứ rẻ tiền ….Tất
cả chúng đều là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất .Toàn bộ vật tư được phân theo
3 tiêu thức cơ bản .
2.1 Theo công dụng trong quá trình sản xuất .
Toàn bộ vật tư được phân làm 2 nhóm lớn :
Nhóm 1: là những loại vật tư dùng làm đối tượng lao động và những vật tư dùng làm tư
liệu lao động .Những vật tư thuộc nhóm thứ nhất có đặc điểm là trong quá trình sử dụng
chúng hoàn toàn dùng trong một lần và giá trị chuyển hết sang giá trị thành phẩm .
Nhóm 2 : sử dụng được nhiều lần và giá trị chuyển dần sang giá trị thành phẩm
Sự phân chia vật tư theo tiêu thức trên có ý nghĩa rất lớn và mặt lí luận và thực
tiễn. Thật vậy, đối với loại vật tư thuộc nhóm 1 vì tiêu dùng hoàn toàn 1 lần nên muốn
lập lại giá trị sản xuất với quy mô nhỏ như trước với những điều kiện khác không đổi thì
đòi hỏi doanh nghiệp phải bảo đảm thường xuyên liên tục và với một lượng vật tư như
trước. Còn đối với những loại vật tư thuộc nhóm 2 thì không nhất thiết phải như vậy,
thậm chí ngay cả trong trường hợp tăng quy mô sản xuất .
2.2 Theo tính chất sử dụng vật tư .
Toàn bộ vật tư chia thành vật tư thông dụng và vật tư chuyên dùng:
Vật tư thông dụng gồm những vật tư dùng phổ biến cho nhiều ngành.
Vật tư chuyên dùng là những loại vật tư dùng cho một ngành nào đó, thậm chí một
doanh nghiệp nào đó .
2.3 Theo tỉ lệ vật tư cấu thành trong sản phẩm .
Vật liệu chính: là vật tư cầu thành nên thực thể chủ yếu của sản phẩm.
Vật liệu phụ: là vật tư bổ trợ vào thực thể chủ yếu của sản phẩm.
3. Vai trò của vật tư trong sản xuất ở doanh nghiệp
Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động để tác động đối
tượng lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hóa của đối tượng lao
động để tạo ra những sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, thỏa mãn đầy đủ nhu cầu
đa dạng của con người. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn đòi hỏi phải có các
yếu tố của sản xuất, trong đó có vật tư kỹ thuật. Thiếu vật tư thì không thể có hoạt động
sản xuất ra của cải vật chất. Khi vật tư đóng vai trò là tư liệu lao động mà bộ phận chủ
yếu là máy móc thiết bị, thể hiện trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất, thì nó là nhân tố
cực kỳ quan trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng quy mô sản
xuất, tạo điều kiện sử dụng hợp lý sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu, tiết kiệm các
yếu tố vật chất trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển một phần phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, sự nhanh
chóng đổi mới công nghệ và do đó phụ thuộc vào vật tư kỹ thuật với tư cách là tư liệu lao
động.
Khi vật tư đóng vai trò là đối tượng lao động chủ yếu là nguyên vật liệu, vật tư sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu và do đó đến
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được đảm bảo đầy
đủ, đồng bộ, đúng chất lượng là điều kiện quyết định khả năng tái sản xuất mở rộng.
Trong quá trình sản xuất nguyên vật liệu là bộ phận trực tiếp tạo nên sản phẩm, nó chiếm
60%- 70% trong cơ cấu giá thành sản phẩm do đó nguyên vật liệu có vai trò quan trọng
trong việc giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá cả sản phẩm.
4. Ý nghĩa của tiết kiệm vật tư.
Tiết kiệm là một nhân tố làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh. Việc tiết kiệm cho
phép với cùng một yếu tố đầu vào có thể sản xuất ra được nhiều sản phẩm dịch vụ hơn và
đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Việc giảm lương tiêu hao vật chất trên một đơn vị sản phẩm dịch vị góp phần làm tăng
năng suất lao động sản xuất ( bao gồm lao động sống và lao động vật hoá ).
Tiết kiệm các yếu tố đầu vào làm tăng thiết bị máy móc và giảm tổng chi phí tính
bằng tiền để sản xuất ra sản phẩm.
Tiết kiệm các yếu tố vật chất làm tăng thêm khối lượng hàng hoá sẽ sản xuất ra và
làm tăng thêm khả năng thoả mãn nhu cầu vật tư hàng hoá của xã hội.
Tiết kiệm các yếu tố vật chất là một nhân tố quan trọng để giảm giá thành sản
phẩm, dịch vụ. Hiện nay trong nền kinh tế nước ta tiêu hao vật chất chiếm 51,69%;
doanh nghiệp nhà nước 61,34%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 44,81%. Như vậy tiêu
hao các yếu tố vật chất lớn, tỉ lệ chất thải cao, gây ô nhiễm môi trường không nhỏ.Tiết
kiệm trong sản xuất kinh doanh góp phần khắc phục những khuyết tật đó. Với ý nghĩa
kinh tế quốc dân to lớn, tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên thế giới.
II. Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư
1. Nguồn tiết kiệm vật tư .
Nói đến nguồn tiết kiệm vật tư là nói đến những hướng có thể thực hành tiết kiệm
hay nói một cách khác là chon ra những con đường nào, chỗ nào cần phải chú ý tiết kiệm.
Để tiết kiệm vật tư, doanh nghiệp có nguồn tiết kiệm về kỹ thuật, công nghệ của
sản xuất, nguồn tiết kiệm về tổ chức quản lí, kinh doanh và nguồn tiết kiệm về người trực
tiếp sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu.
1.1 Nguồn tiết kiệm về kỹ thuật, công nghệ của sản xuất.
Doanh nghiệp có thể thực hành tiết kiệm ở khâu kỹ thuật công nghệ của sản xuất.
Quy trình công nghệ kỹ thuật sẽ ảnh hưởng tới tỷ lệ sản phẩm có đạt chất lượng sản
phẩm chính không? Vì thế cải tiến quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất hợp lý cũng góp
phần giảm các tổn thất trong quá trình sản xuất. Khi sử dụng nguyên nhiên vật liệu thay
thế các loại nguyên nhiên vật liệu rẻ tiền, doanh nghiệp chú ý các biện pháp kỹ thuật để
tăng cường chất lượng nguyên vật liệu, vừa đảm bảo yêu cầu của sản phẩm, vừa đảm bảo
chi phí trong giai đoạn dài hạn. Đồng thời, doanh nghiệp phải có kế hoạch phát triển kỹ
thuật mới và các biện pháp cải tiến về trang thiết bị máy móc. Để tiết kiệm vật tư, doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, chuẩn bị những thiết
bị máy móc tốt nhất có thể có. Vì vậy doanh nghiệp phải chú ý tới khâu kỹ thuật công
nghệ của sản xuất vì đó là một trong những hướng để thực hành tiết kiệm.
1.2 Nguồn tiết kiệm về tổ chức quản lý kinh doanh.
Doanh nghiệp không những thực hành tiết kiệm ở khâu kỹ thuật, công nghệ sản
xuất mà còn có thể thực hành tiết kiệm về tổ chức quản lý kinh doanh. Vì nếu như biện
pháp về kỹ thuật công nghệ có tác dụng trực tiếp tiết kiệm nguyên vật liệu về số lượng,
chất lượng thì biện pháp thuộc hướng tổ chức quản lí kinh doanh chỉ góp phần tạo điều
kiện tiền đề và điều kiện cần thiết để các biện pháp kỹ thuật được thực hành ở doanh
nghiệp và tránh được những lãng phí xảy ra trong quá trình sản xuất. Vì thế khâu tổ chức
sản xuất kinh doanh là một hướng để doanh nghiệp thực hành tiết kiệm vật tư. Như
chúng ta đã biết, vật tư là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất ở doanh
nghiệp. Nó là điều kiện cần để tổ chức hoạt động sản xuất ở doanh nghiệp nhằm giúp cho
doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Các yêu cầu cơ bản đặt ra
đối với công tác đảm bảo vật tư của phòng tổ chức quản lí kinh doanh là phải đầy đủ,
chính xác, kịp thời và đồng bộ. Các yếu tố nhằm đảm bảo vật tư góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, từ đó doanh nghiệp tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Hướng thực hành tiết kiệm ở khâu tổ chức quản lí kinh doanh
còn góp phần tích cực ngăn ngừa và kiên quyết chống lại mọi hành vi làm thất thoát
nguyên nhiên vật liệu và sản phẩm dưới mọi hình thức. Đồng thời nó góp phần bảo quản
tốt nguyên nhiên vật liệu trong thời gian lưu kho, giảm hao hụt và biến chất của nguyên
nhiên vật liệu.
1.3 Nguồn tiết kiệm về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên nhiên vật liệu.
Người công nhân là người trực tiếp sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu trong
quá trình sản xuất. Họ là người biết rõ nhất giá trị của các loại nguyên nhiên vật liệu và
công dụng của chúng. Vì thế phòng tổ chức cần phải có những lớp giáo dục về ý thức tiết
kiệm và lợi ích tiết kiệm đối với doanh nghiệp, đối với từng người như thế nào để người
công nhân hiểu được ý nghĩa của việc tiết kiệm. Từ đó họ sẽ có ý thức hơn về việc thực
hành tiết kiệm. Đồng thời doanh nghiệp có chế độ giao nhận, chế độ trách nhiệm vật tư,
chế độ quán lí sử dụng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu rõ ràng trong doanh
nghiệp, trách nhiệm đối với từng người công nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm tinh
thần chấp hành kỉ luật lao động để sử dụng tốt các yếu tố vật chất.
2. Biện pháp tiết kiệm vật tư.
2.1 Về kĩ thuật công nghệ sản xuất .
Doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp sau :
2.1.1. Giảm trọng lượng tinh của sản phẩm .
Trọng lượng tuyệt đối của sản phẩm là là phẩm đó cân nặng bao nhiêu kg, tạ, tấn,
…
Trọng lượng tương đối của sản phẩm là tỉ số trọng lượng tuyệt đối so với một đơn
vị công suất (hoặc công dụng chủ yếu của sản phẩm). Trên cơ sở công dụng của sản
phẩm, cần phải cải tiến thiết kế sản phẩm sử dụng các loại vật liệu thay thế có độ bền tốt
hơn để giảm trọng lượng tương đối của sản phẩm. Như vậy, với khối lượng ( trọng lượng
) nguyên, nhiên vật liệu như cũ có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn .
2.1.2. Giảm phế liệu, phế phẩm và các tổn thất trong quá trình sản xuất .
Phế liệu là những thứ phát sinh trong qúa trình sản xuất. Phế liệu có 2 loại: Loại sử dụng
lại được trong quá trình sản xuất sản phẩm đó và loại phế liệu không sử dụng lại được.
Để giảm bớt phế liệu cần phải cải tiến các công cụ lao động, đặc biệt chú ý các công cụ
chuyên dùng, cải tiến quy trình công nghệ và sử dụng tối đa loại phế liệu có thể sử dụng
lại được trong quá trình sản xuất .
Phế phẩm là những sản phẩm không đạt chất lượng sản phẩm chính. Tỉ lệ phế phẩm cao
hay thấp liên quan đến quy trình công nghệ, đến chất lượng nguyên nhiên vật liệu, đến
công nghệ sản xuất, đến tay nghề của công nhân và cả những điều kiện khác như điều
kiện làm việc, cung cấp các yếu tố của sản xuất, điều kiện thời tiết, khí hậu của nơi sản
xuất .
Cải tiến quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất hợp lí cũng góp phần giảm các tổn
thất trong quá trình sản xuất. Các tổn thất trong quá trình sản xuất bao gồm nhiều khâu,
từ khâu thiết kế sản phẩm đến giai đoạn hoàn chỉnh sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm có
những tổn thất khác nhau. Cần chú ý đến những khâu tổn hao nhiều để giảm bớt khối
lượng nguyên nhiên vật liệu cho mỗi đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm.
2.1.3.Sử dụng tổng hợp các loại nguyên vật liệu .
Trong một sản phẩm sản xuất ra, tuỳ theo cơ cấu của nó, các bộ phận kỹ thuật có
những yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Vì thế, để có thể sử dụng tổng hợp các loại vật liệu
khác nhau, với điều kiện vừa đảm bảo chất lượng, tính năng công dụng …của sản phẩm,
vừa tiết kiệm các loại nguyên vật liệu quý hiếm, đắt tiền hoặc phải nhập khẩu. Sử dụng
tổng hợp nguyên vật liệu đòi hỏi phải đa dạng hoá sản phẩm. Rất nhiều loại nguyên vật
liệu, khi dùng để chế tạo loại sản phẩm chính này, loại phế liệu không dùng được lại có
thể là nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm chính khác. Vì vậy tận dụng hết các loại phế
liệu phế thải, các loại thu hồi được của sản xuất chính vào sản xuất các loại mặt hàng
khác là biện pháp sử dụng tối đa nguyên vật liệu trong sản xuất .
2.1.4.Sử dụng các loại nguyên, vật liệu thứ cấp .
Các loại nguyên, nhiên, vật liệu thay thế các loại nguyên vật liệu rẻ tiền. Sử dụng
những loại nguyên, nhiên, vật liệu trên cần chú ý đến biện pháp kỹ thuật để tăng cường
chất lượng nguyên nhiên vật liệu, vừa đảm bảo yêu cầu của sản phẩm, vừa đảm bảo giảm
chi phí trong quá trình dài hạn đối với doanh nghiệp .
2.1.5.Sử dụng nhiều lần nguyên vật liệu .
Có những loại nguyên nhiên vật liệu có thể được sử dụng nhiều lần. Ví dụ: đồng,
nhôm, dầu nhớt ….Sau quá trình sủ dụng thải ra cần phải được thu hồi và sử dụng lại.
Đây là biện pháp rất kinh tế, đặc biệt trong việc tiết kiệm nguồn tài nguyên tự nhiên mà
sau nhiều năm khai thác sẽ cạn kiệt.
2.1.6. Nâng cao chất lượng nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm, công dụng của thành
phẩm và các chất có ích trong nguyên nhiên vật liệu .
Nguyên nhiên vật liệu chất lượng cao sẽ cho sản phẩm có chất lượng cao. Trước
và trong khi sử dụng cần nâng cao chất lượng nguyên vật liệu vừa đảm bảo sức cạnh
tranh của sản phẩm, dễ tiêu thụ, vừa tiết kiệm được các nguồn tiềm năng. Ở một số
nguyên vật liệu người ta chỉ sử dụng chất có ích. Để sử dụng tốt hơn nguyên vật liệu
người ta nâng cao tỉ lệ sử dụng chất có ích trong nguyên vật liệu để sử dụng tối đa
nguyên vật liệu.
2.2 Về tổ chức quản lí kinh doanh .
Những biện pháp thuộc hướng tổ chức quản lí kinh doanh chỉ góp phần tạo điều
kiện tiền đề và điều kiện cần thiết để các biện pháp kỹ thuật được thực hiện ở những
doanh nghiệp cũng như tránh được những lãng phí xẩy ra trong quá trình sản xuất.
Những biện pháp đó là:
Thứ nhất, Đảm bảo cung ứng cho các nơi làm việc trong doanh nghiệp những
nguyên nhiên vật liệu đầy đủ về chất lượng và chủng loại, kịp thời gian yêu cầu, đồng bộ
để chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh. Nếu không đảm bảo những nội dung trên, sẽ gây ra
nhiều lãng phí. Lãng phí cả nguyên nhiên vật liệu sử dụng, lãng phí thời gian sử dụng
thiết bị máy móc và lãng phí sức lao động của công nhân lãng phí do ngừng sản xuất .
Thứ hai, Thực hiện việc sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu theo định mức: sử
dụng theo định mức là cách sử dụng khấu hao. Vì vậy, các loại nguyên vật liệu chính sử
dụng khối lượng lớn xây dựng các định mức và sử dụng theo định mức .
Thứ ba, Thực hiện dự trữ các loại nguyên nhiên vật liệu theo định mức. Dự trữ
theo định mức bảo đảm việc sử dụng liên tục đều đặn trong doanh nghiệp. Những loại
nguyên nhiên vật liệu có nguồn cung ứng khó khăn cần phải có dự trữ: dự trữ thường
xuyên, dự trữ chuẩn bị, dự trữ bảo hiểm. Những loại sử dụng theo thời vụ phải có dự trữ
thời vụ.
Thứ tư, Tổ chức thu hồi tận dụng tất cả các biện pháp phế liệu, phế phẩm, phế
thải trong quá trình sản xuất .
Thứ năm, Tích cực ngăn ngừa và kiên quyết chống mọi hành vi tiêu cực làm thất
thoát nguyên nhiên vật liệu, hoá chất, ….và sản phẩm trong thời gian lưu kho của doanh
nghiệp. Giảm hao hụt, biến chất. Tích cực phòng chống cháy, mưa, bão, lũ lụt gây tổn
thất nguyên vật liệu và sản phẩm .
Thứ sáu, Sử dụng nguyên nhiên vật liệu đúng yêu cầu, đúng định mức, đúng quy
trình công nghệ, đúng đối tượng.
Thứ bảy, Tổ chức hoạch toán, kiểm tra phân tích đánh giá sử dụng nguyên nhiên
vật liệu ….ở doanh nghiệp .
2.3 Về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên, nhiên vật liệu
Người công nhân là người trực tiếp sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu trong
quá trình sản xuất. Họ biết rõ giá trị của các loại nguyên nhiên vật liệu và công dụng của
chúng. Vì vậy cần áp dụng các biện pháp sau:
Tăng cường giáo dục về ý thức tiết kiệm ,lợi ích của tiết kiệm đối với doanh
nghiệp, đối với từng người.
Nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ tay nghề của mọi công dân.
Có các biện pháp khuyến khích vật chất tinh thần thích đáng kịp thời đối với việc
tiết kiệm.
Có chế độ giao nhận, chế độ trách nhiệm vật chất, chế độ quản lí sử dụng máy
móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu rõ ràng trong doanh nghiệp, trách nhiệm đến từng
người công nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần chấp hành kỷ luật lao động,
để sử dụng tốt các yếu tố vật chất.
Chương II.
Thực trạng của nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở ngành
thép
I. Đặc điểm kinh tế kĩ thuật ảnh hưởng đến việc sử dụng tiết kiệm vật tư ở ngành
thép
1. Đặc điểm cung ứng vật tư cho sản xuất
Kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất kĩ
thuật– tài chính doanh nghiệp. Chúng có quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế
hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng, kế hoạch tài chính…Trong mối
quan hệ này kế hoạch mua sắm vật tư bảo đảm yếu tố vật chất để thực hiện các kế hoạch
khác, còn kế hoạch khác là căn cứ để xây dựng kế hoạch mua sắm vật tư. Chẳng hạn như
trong mối quan hệ với kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch vật tư
không thể xa rời các chỉ tiêu trong các kế hoạch này để xác định nhu cầu vật tư. Nếu xa
rời sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vật tư, ứ đọng vốn hoặc không bảo đảm vật tư cho sản
xuất gây gián đoạn sản xuất
Mặt khác, cũng phải thấy rõ những đặc điểm riêng biệt của kế hoạch mua sắm vật
tư ở doanh nghiệp để có thể nâng cao chất lượng của kế hoạch xây dựng nhằm phục vụ
tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kế hoạch mua sắm vật tư
ở doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư sẽ dự kiến trực tiếp
thời gian cuả một quá trình sản xuất, sự tiêu dùng trực tiếp các tư liệu sản xuất sẽ phát
sinh trong doanh nghiệp.
Thứ hai, kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp rất phức tạp. Tính chất phức
tạp của nó thể hiện ở chỗ trong kế hoạch có rất nhiều loại vật tư với quy cách chủng loại
rất khác nhau với khối lượng mua sắm rất khác nhau đơn vị khác nhau.
Thứ ba, kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp có tính chất cụ thể và nghiệp vụ
cao. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất của sản xuất vì sản xuất bao giờ cũng mang tính
cụ thể nên kế hoạch mua sắm vật tư phải rất chi tiết cụ thể, phải đặt mua những vật tư
thích hợp nhất, phục vụ tốt cho sản xuất. Tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao của kế hoạch
mua sắm vật tư ở doạnh nghiệp còn thể hiện ở chỗ số lượng mua sắm sẽ được phân chia
ra cho từng phân xưởng nhất định và trong từng thời kì nhất định.
2. Đặc điểm công nghệ sản xuất
Trong những năm gần đây, ngành thép đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao
trình độ công nghệ chung của toàn ngành. Tuy vậy, theo nhận xét của các chuyên gia
trình độ công nghệ của ngành vẫn ở mức trung bình thấp. Trình độ công nghệ của ngành
được thực hiện theo phương pháp ATLAS công nghệ đối với bốn yếu tố: thành phần kỹ
thuật (T), thành phần con người (H), thành phần thông tin (I), thành phần tổ chức(O).
2.1 Thành phần kỹ thuật (T)
Nhìn một cách tổng thể, các ngành công nghiệp nặng đều có thành phần kỹ thuật
tương đối khá bởi thời gian qua đã tập trung vào đầu tư đổi mới dây chuyền sản xuất,
thay thế những công nghệ sản xuất cũ để theo kịp với trình độ công nghệ của thế giới. Ở
ngành thép số các nhà máy cán thép hiện đại chỉ chiếm 38,7% tổng công suất thiết kế,
các nhà máy có công nghệ ở mức trung bình chiếm cao nhất, tới 48,9% tổng công suất
thiết kế, còn lại là các nhà máy có công nghệ lạc hậu chiếm 12,4% tổng công suất thiết
kế. Chi phí sản xuất cho 1 tấn thép ở Việt Nam cao hơn so với thế giới, thêm nữa phần
lớn các nhà máy cũng chỉ sản xuất đạt 60% công suất thiết kế nên hiệu quả kinh tế không
cao.
2.2 Thành phần con người (H)
Yếu tố con người của các ngành thép được đánh giá ở mức trung bình. Ngành chịu
một thực tế là bậc thợ không đi dôi với tay nghề, lực lượng công nhân vận hành máy vạn
năng có tay nghề cao chiếm hơn 50% nhưng thực tế đội ngũ này còn xa lạ với kỹ năng
công nghệ. Kiến thức có được chủ yếu bằng kinh nghiệm, khả năng đào tạo nâng cao
trình độ tiếp cận thiết bị hiện đại là rất hạn chế. Hiện rất thiếu lao động có tay nghề cao
như thợ cả, kỹ sư trưởng… do cơ chế đãi ngộ chưa xứng đáng nên các doanh nghiệp
trong nước ít thu hút và giữ được các lao động có tay nghề tốt. Khả năng tự đào tạo của
các doanh nghiệp rất yếu nên không nâng cao được chất lượng lao động .
Ngành thép có nhiều liên doanh liên kết với công ty nước ngoài nên học được ở
các đối tác phương pháp quản lý hiện đại và cách vận hành các dây chuyền hiện đại.
Nhưng đa phần trình độ chuyên môn của đội ngũ kỹ thuật còn nhiều hạn chế, nhiều cán
bộ không cập nhật những tiến bộ kỹ thuật mới trong ngành nên còn hạn chế trong việc
cải tiến công nghệ cũng như trong nghiên cứu phát triển công nghệ mới. Trình độ tin học,
ngoại ngữ còn yếu nên hạn chế việc tiếp thu các thông tin về đổi mới công nghệ trên thế
giới. Độ tuổi cán bộ công nhân viên chức nhất là cán bộ kỹ thuật tương đối cao
Trong cạnh tranh lao động hiện nay, lượng cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao và tuổi
trẻ thường tập trung ở doanh nghiệp lớn, các công ty nước ngoài, nơi có thu nhập cao và
có môi trường làm việc hiện đại, các doanh nghiệp nhỏ thu nhập thấp thường rất thiếu
cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Trong những năm tới tình hình này cũng rất khó
được cải thiện vì nguồn nhân lực được đào tạo trong các trường của nước ta còn hạn chế
mà nhu cầu lại rất cao.
Trình độ học vấn của đội ngũ công nhân, của các đơn vị đa phần ở mức rất thấp,
chỉ ở trình độ sơ cấp, trình độ bậc thợ thuộc loại thấp và rất thấp còn khá cao. Điều này
phản ánh tính không chuyên nghiệp của đội ngũ công nhân và có thể ảnh hưởng đến chất
lượng công việc. Tính kỷ luật và tính hợp tác trong đội ngũ công nhân lao động trong
ngành còn kém, ý thức và tác phong lao động của người lao động không bài bản và chặt
chẽ như công ty nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý hầu như chưa được đào tạo một
cách có hệ thống về làm việc quản lý nên trong quản lý doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó
khăn .
2.3 Thành phần thông tin (I)
Qua nghiên cứu, trình độ thông tin của các doanh nghiệp được đánh giá chỉ nằm ở
giai đoạn làm quen, thu thập và phân lọai các giai đoạn cao hơn như kết nhập, phân tích,
tổng hợp để đề xuất chiến lược chưa triển khai được, lượng thông nghèo khai thác trong
nước là chủ yếu. Điểm nổi bật đối với phần thông tin có thể thấy là hầu hết các đơn vị
đều có mức độ sở hữu và sử dụng các thông tin phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh ở mức kém, thậm chí rất kém còn lại ở mức trung bình. Việc thiếu thông tin tất
yếu sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về cơ sở vật chất cho phần thông tin, hầu hết các ngành, các đơn vị đều có mức độ
sử dụng máy tính thuộc loại cao và khá cao, nhưng mới chỉ tập trung cho công việc văn
phòng không sủ dụng máy tính trong thiết kế và nghiên cứu nên đã hạn chế rất nhiều khả
năng phát minh, sáng chế các sản phẩm mới. Còn việc sử dụng máy tính để điều khiển
các quá trình công nghệ chỉ áp dụng ở một số đơn vị liên doanh, doanh nghiệp nước
ngoài hoặc các doanh nghiệp mới đầu tư. Các nguồn thông tin về công nghệ, kế hoạch
trong ngành còn rất hạn chế. Đây là tình trạng chung của nhiều ngành kỹ thuật ở nước ta.
2.4. Thành phần tổ chức(O)
Vấn đề tổ chức sản xuất, bố trí nguồn nhân lực hợp lý đã được các doanh nghiệp
chú trọng. Các công ty liên doanh và khối doanh nghiệp mới đầu tư công nghệ hiện đại
đã áp dụng mô hình tiên tiến, phù hợp với công nghệ sản xuất và kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường. Qua điều tra cho thấy, nhiều đơn vị chưa áp dụng một hệ thống quản lí
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng thực tế, một số doanh nghiệp thực hiện quá
trình quản lý theo ISO còn thấp. Một số doanh nghiệp chỉ làm ISO ở một số khâu, một số
dây chuyền để lấy danh đã làm ISO, phần còn lại vẫn thể hiện công tác quản lý tùy tiện
và chưa hiệu quả, thiếu tính chuyên nghiệp.
Qua phân tích những vấn đề trên có thể thấy, việc đầu tư nâng cấp các tổ chức
khoa học công nghệ chuyên ngành với các phòng thí nghiệm chuyên biệt cho từng ngành,
tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu của các viện với sự phát triển của các ngành là
cần thiết. Đầu tư vào khoa học công nghệ được xem là biện pháp và phương thức hữu
hiệu nhất vì lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia trong bối cảnh gia nhập tổ
chức thương mại quốc tế. Bên cạnh đó gắn kết công tác đào tạo nhân lực với các dự án
đầu tư ngay từ khi khởi động dự án. Khi dự án đi vào hoạt động, các cán bộ kĩ thuật
nhanh chóng nhập cuộc, nắm bắt và vận hành có hiệu quả các dây chuyền đầu tư, điều
mà hiện nay chúng ta vẫn còn rất yếu .
3. Đặc điểm quản lý vật tư ở doanh nghiệp
3.1. Tổ chức chuyển vật tư hàng hóa về doanh nghiệp
Trong công tác nghiệp vụ của phòng kinh doanh việc tổ chức vận chuyển vật tư
hàng hóa về doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng. Đây là một trong những giai
đoạn kết thúc công tác nghiệp vụ thực hiện kế hoạch mua sắm các yếu tố vật chất cho sản
xuất. Quản lý và tổ chức việc vận chuyển tiếp nhận hàng hóa sẽ tạo điều cung ứng vật tư
kịp thời và đồng bộ cho sản xuất của doanh nghiệp, giữ gìn tốt số lượng và chất lượng vật
tư hàng hóa đồng thời bảo đảm sử dụng có hiệu quả vốn lưu động và giảm được chi phí
kinh doanh.
Chuyển vật tư hàng hóa được thực hiện theo hai phương thức:
Theo mức độ yêu cầu của sản xuất: áp dụng với doanh nghiệp sản xuất nhỏ, kế hoạch
kinh doanh thường thay đổi, không xác định cụ thể được từng loại vật tư vào thời gian
doanh nghiệp cần.
Phương pháp vận chuyển tập trung: áp dụng với doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn,
khối lượng vật tư tiêu dùng ít thay đổi.
3.2. Tiếp nhận hàng về số lượng và chất lượng
Khi hàng về đến doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác tiếp nhận và bảo quản
hàng hóa. Mục đích của khâu công tác này là kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng mua
bán vật tư, hàng hóa phải nguyên vẹn đảm bảo số lượng và chất lượng hay không? Sau
khi tiếp nhận hàng hóa phòng kinh doanh của doanh nghiệp phải tổ chức quản lý và bảo
quản hàng ở kho. Vật tư được bảo quản cũng tùy thuộc vào tính chất lí hóa mà bố trí sắp
xếp theo từng loai kho. Trang bị kho và tổ chức bảo quản kho phải bảo đảm giữ gìn tốt số
lượng, chất lượng hàng đồng thời phải tuân thủ yêu cầu dễ thấy dễ lấy, dễ kiểm tra và mỹ
thuật kho hàng
3.3 Cấp phát vật tư cho phân xưởng
Đây là khâu công tác hết sức quan trọng của phòng kinh doanh. Tổ chức tốt công
tác này sẽ bảo đảm cho sản xuất của doanh nghiệp đuợc tiến hành nhịp nhàng góp phần
tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh vòng quay vốn lao động doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm .
Việc cấp phát được tiến hành theo hạn mức. Hạn mức là lượng vật tư quy định của
phân xưởng trong kỳ kế hoạch để phân xưởng thực hiện nhiệm vụ sản xuất được giao.
Hạn mức cấp phát nhằm nâng cao trách nhiệm của phân xưởng (tổ, đội sản xuất ) trong
việc sử dụngsố lượng vật tư lĩnh được một cách hợp lý, tiết kiệm: nâng cao trách nhiệm
của phòng vật tư trong việc bảo đảm cấp phát cho phân xưởng số lượng vật tư quy định
trong hạn mức được đầy đủ, kịp thời và đúng quy cách phẩm chất; góp phần chấn chỉnh
và củng cố kho tàng góp phần làm giảm số lương chứng từ và đơn giản hóa công tác ghi
chép ban đầu về cấp phát vật tư.
Hạn mức cấp phát vật tư cho đơn vị tiêu dùng phải đáp ứng được những yêu cầu
cơ bản sau:
Thứ nhất, hạn mức cấp phát phải chính xác, nghĩa là số lượng vật tư quy định
trong hạn mức phải hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thực tế của đơn vị tiêu dùng, được
tính toán có căn cứ khoa học
Thứ hai, Hạn mức cấp phát phải được quy định cho một thời hạn nhất định
(thường là một tháng, quý ) hoặc cho việc hoàn thành một công việc nhất định, hết thời
hạn đó không còn giá trị nữa
Thứ ba, hạn mức cấp phát phải quy định rõ mục đích sử dụng vật tư, nghĩa là dùng
số lượng vật tư quy định trong hạn mức để sản xuất sản phẩm gì hay để thực hiện công
việc gì?
3.4 Quyết toán và kiểm tra sử dụng
Theo dõi sử dụng: trong quá trình sử dụng vật tư ở các đơn vị sản xuất để đảm bảo
tính hiệu quả trong công tác đảm bảo vật tư theo định kỳ hoặc đột xuất người ta tiến hành
kiểm tra tình hình thực tế trong công tác quản lý và sử dụng vật tư ở các đơn vị sản xuất.
Một trong những nội dung quan trọng của hoạt động kiểm tra đó là kiểm tra sự phù hợp
của vật tư với yêu cầu sản xuất.
Thanh lý vật tư: sau quá trình sử dụng vật tư ở các đơn vị sản xuất thường có một
số lượng vật tư dôi dư hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của sản xuất ở doanh nghiệp.
Khi đó doanh nghiệp tiến hành hoạt động thanh lý số lượng vật tư này nhằm mục đích
giải phóng diện tích kho và thu hồi vốn cho doanh nghiệp.
Quyết toán vật tư: đây là hoạt động cuối cùng kết thúc toàn bộ quá trình đảm bảo
vật tư cho sản xuất ở doanh nghiệp. Hoạt động này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu
quả của công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất ở doanh nghiệp. Từ đó giúp cho doanh
nghiệp có định hướng và biện pháp để điều chỉnh hoạt động đảm bảo vật tư ở kỳ sản xuất
tiếp theo
4. Đặc điểm tay nghề và ý thức của người lao động trong ngành thép
Yêu cầu về lao động của ngành thép hiện nay không chỉ có kinh nghiệm mà cần
phải có kiến thức. Xét về mặt kiến thức chuyên môn, lực lượng lao động trong ngành
thép còn khá thấp. Đây là một trong nhữngcản trở quan trọng đối với quá trình đổi mới
công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tỷ trọng cán bộ chuyên môn có trình độ cao
còn thấp. Phần lớn các cán bộ chuyên môn ở các công ty thép Việt Nam chưa được tiếp
xúc với công nghệ tiên tiến, mà đang làm việc ở các nhà máy có công nghệ lạc hậu. Hiện
nay, ngành thép có khoảng 27500 lao động, trong đó tổng công ty thép Việt Nam có
khoảng 18775 lao động. Riêng công ty thép Thái Nguyên là: 11411 người. Công ty thép
Miền Nam 3867 lao động. Rõ ràng cùng với công nghệ lạc hậu cộng thêm lực lượng lao
động lớn do lịch sử để lại trình độ chuyên môn thấp đang là bài toán khó với tổng công ty
thép Việt Nam trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Vấn đề đầu tư công nghệ thiết bị
hiện đại chắc chắn sẽ làm dôi dư một lực lượng lao động khá lớn. Nhà nước cần hỗ trợ
cho tổng công ty thép Việt Nam giải quyết vấn đề lao động của ngành. Lực lượng cán bộ
nghiên cứu trong lĩnh vực thép tại Việt Nam còn khá mỏng. Xét về mức độ lành nghề,
lực lượng thợ lành nghề ở Việt Nam không nhiều.
Theo các nhà quản lý tại công ty liên doanh, lực lượng lao động Việt Nam được
đào tạo cơ bản khá tốt so với các nước khác trong khu vực, có khả năng sáng tạo và thích
nghi cao với công việc mới. Khả năng đó nếu được bồi dưỡng thêm một số kỹ năng thực
hành thì họ sẽ trở nên rất giỏi.
Cụ thể là:
Công ty thép Việt – Hàn cũng tự hào có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm đã
qua tuyển chọn và đào tạo kĩ càng trong đó nhiều cán bộ kĩ sư của VPS đã từng làm việc
hoặc được đào tạo ở công ty nước ngoài. Hàng năm VPS đã cử các đoàn cán bộ công
nhân viên đi tham quan khảo sát và học tập tại các nhà máy sản xuất thép của tập đoàn
POSCO (Hàn Quốc), để người lao động được học tập, nâng cao tay nghề. Nhờ vậy cán
bộ công nhân viên của VPS không những đã hoàn toàn làm chủ dây chuyền công nghệ
chế tạo được các sản phẩm chất lượng cao, mà còn tích cực cải tiến kĩ thuật nhăm nâng
cao năng suât, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Nhà máy luyện thép Lưu Xá có đội ngũ gồm 800 cán bộ công nhân viên giàu kinh
nghiệm và chuyên môn cao, trong đó 110 người có trình độ đại học và cao đẳng, có trên
100 người có trình độ trung cấp được đào tạo ở trong và ngoài nước. Nhà máy luyện thép
Lưu Xá trở thành một đơn vị sản xuất phôi thỏi lớn nhất ngành thép Việt Nam.
Công ty gang thép Thái Nguyên đội ngũ lao động vẫn bộc lộ những mặt hạn chế .
Một bộ phận người lao động chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa tầm quan trọng của công
tác đào tạo và phát triển. Vẫn còn tư tưởng bao cấp, chưa thực sự chủ động tìm lớp tìm
thầy để học tập, bồi dưỡng chuyên môn chưa coi việc tự đào tạo là nhu cầu thương xuyên
của mỗi cán bộ, công nhân
Các chế độ động viên, khuyến khích đối với người học và người dạy về vật chất, tinh
thần cũng như đãi ngộ, ưu tiên trong việc tiến cử, đề bạt … thực sự chưa tạo được động
lực thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đào tạo
Công tác đào tạo chủ yếu được tiến hành khép kín trong nội bộ công ty, chưa khai thác
lợi thế và năng lực của đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất của các trường, trung tâm, viện
nghiên cứu của tỉnh Thái Nguyên, Hà Nội.
II. Thực trạng của việc tiết kiệm vật tư ở ngành thép
1.Thực trạng của việc tạo nguồn vật tư ở ngành thép
Ngành thép tiếp tục triển khai đầu tư chiều sâu các cơ sở luyện kim và cán thép
hiện có. Đầu tư xây dựng mới 1-2 cơ sở sản xuất phôi thép, năng lực sản xuất phôi thép
từ 40 vạn tấn năm 2000 lên 1 - 1.4 triệu tấn năm 2005. Xây dựng nhà máy cán thép nguội
và nhà máy cán thép nóng để sản xuất thép tấm, thép lá. Nghiên cứu và chuẩn bị xây
dựng cơ sở luyện thép liên hợp từ quặng trong nước và nhập khẩu.
Do yêu cầu đổi mới đến năm 1992, nhà máy luyện thép Lưu Xá đã đầu tư lắp đặt 1
lò điện hồ quang luyện thép 30T/mẻ với công suất 92000T/năm (thiết bị Trung Quốc)
thay thế cho công nghệ luyện thép Martin. Sau đó nhà máy tiếp tục lắp đặt thêm một máy
đúc liên tục 4 dòng của Ấn Độ có bán kính cong 4m, công suất 1200000T/năm đưa vào
sử dụng từ tháng 6/1996 thay thế cho công nghệ đúc phôi xi phông. Trong dự án đầu tư
cải tạo mở rộng sản xuất công ty gang thép Thái Nguyên, nhà máy luyện thép Lưu Xá
được đầu tư lắp đặt mới một lò điện siêu cao, công suất mở đáy 30T/mẻ, lò thùng tinh
luyện 40T/mẻ
Công ty thép Việt Hàn đã đề ra và thực hiện phương châm “mọi hoạt động đều
hướng tới chất lượng và khách hàng” với mong muốn cung cấp cho khách hàng các sản
phẩm tốt nhất, đáp ứng mọi yêu cầu của thị trường VSP đã không ngừng chú trọng đầu tư
nâng cấp dây chuyền, thiết bị sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa phương
thức phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Các sản phẩm của VPS đều được
sản xuất theo các tiêu chuẩn của Nhật Bản (JIC) Anh (BS), Hoa Kỳ (ASTM) và Việt
Nam (TCVN). Quá trình sản xuất từ khâu mua nguyên liệu đầu vào đến xuất hàng đều
được kiểm sóat nghiêm ngặt để loại bỏ các sản phẩm không phù hợp đảm bảo chất lượng
sản phẩm luôn ổn định.
Công ty thép tấm lá Phú Mỹ với mong muốn mang tới kế hoạch sản phẩm hoàn
hảo và chất lượng, PFS đã đầu tư xây dựng những khu nhà xưởng với hệ thống các dây
chuyền sản xuất khá hiện đại theo công nghệ cán 4 trục của các nước có nền công nghiệp
phát triển như: Ý, Mỹ, Áo. Công suất sản xuất của công ty khoảng 400000 tấn / năm gồm
các sản phẩm như thép lá nguội mềm cứng và cuộn thép P.O theo tiêu chuẩn JIS của
Nhật Bản, DIN của Châu Âu và ASTM của Mỹ.
Năm 2006 công ty thép Miền Nam đầu tư xây dựng một nhà máy mới theo công
nghệ hiện đại có công suất hàng năm 500000 tấn phôi và 400000 tấn thép cán cùng một
cảng chuyên dùng 1000000 tấn /năm nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường quốc tế.
Tổng công ty thép đã mở rộng cơ sở vật chất nhà máy sản xuất, trong 3 năm 2001-
2003 TCT đã triển khai được 140 dự án lớn nhỏ, trong đó có 3 dự án nhóm A(cải tạo mở
rộng công ty gang thép Thái Nguyên giai đoạn 1, thép cán nguội Phú Mỹ với tổng mức
đầu tư 4.600 tỷ đồng) và 5 dự án nhóm B và hơn 100 dự án nhóm C. Riêng năm 2003
TCT đã phê duyệt 38 dự án mới (cả B và C) với tổng mức đầu tư là 339,6 tỷ đồng, tổ
chưc phê duyệt được 53 gói thầu với giá trị trúng thầu giảm thấp là 1.759 tỷ đồng và 4,1
triệu USD …
Trong giai đoạn 2006-2010 TCT thép có một số dự án đầu tư quan trọng: Dự án
mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Công ty Gang thép Thái nguyên: sản xuất phôi thép từ
quặng sắt, công suất 500.000 tấn /năm, vốn đầu tư trên 3.800 tỷ đồng; Dự án liên doanh
khai thác mỏ sắt Quý Sa và xây dựng Nhà máy Thép Lào Cai: 1,5 triệu tấn quặng sắt và
500.000 tấn phôi thép /năm; Vốn đầu tư khoảng 900 tỷ đồng; Dự án nhà máy thép cuộn
nóng: Công suất 1,5-2 triệu tấn mỗi năm, vốn đầu tư khoảng 525 triệu USD; Dự án khai
thác mỏ sắt Thạch Khê: 5-10 triệu tấn/năm,vốn đầu tư khoảng trên 300 triệu USD; Dự án
xây dựng nhà máy thép liên hợp Hà Tĩnh, công suất 4,5 triệu tấn/ năm, vốn đầu tư 3,5 tỷ
USD
2. Thực trạng của việc cung ứng vật tư cho sản xuẩt của ngành thép
Việc đầu tiên mà công ty thép Miền Nam cần giải quyết là tìm được nguồn vật tư
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Công ty đã chủ động tìm kiếm, khai thác thu mua
nguồn sắt thép vụn nên trong năm đã thu mua được 300 nghìn tấn sắt thép phế thải, gần
70 nghìn tấn gang các lọai đồng thời chú trọng đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhờ thực
hiện tốt việc cung ứng vật tư nên trong công ty đã nâng cao được sản lượng nấu luyện tự
cung cấp 50% lượng phôi cho sản xuất cán.
Theo tổng công ty thép Việt Nam, toàn ngành đến nay đã sản xuất được khoảng
400000 tấn phôi / năm. So với nhu cầu của nền kinh tế đang cần khoảng 2,4 triệu tấn thép
/năm, thì lượng phôi sản xuất được còn quá nhỏ. Ngành thép vẫn đang phải nhập khẩu
phôi thép để cán ra thép thương phẩm phục vụ nhu cầu thị trường. Điểm yếu của ngành
luyện thép Việt Nam là nguồn nguyên liệu. Do điều kiện khai thác quặng sắt ở nước ta
còn nhiều khó khăn ngành thép lại phát triển chủ yếu công nghệ lò điện và sử dụng
nguyên liệu là sắt thép phế liệu để sản xuất thép phôi, nên phụ thuộc nhiều vào nguồn
nguyên liệu thép phế. Ở nước ta 75% thép phôi có nguồn gốc từ thép phế liệu. Công
nghiệp của Việt Nam mới phát triển nên chỉ tạo ra lượng thép phế liệu khoảng 300.000
tấn /năm, không đủ cho nhu cầu.
Thống kê của Tổng cục hải quan cho biết, năm 1998 Việt Nam, mới nhập khẩu
hơn 50.000 tấn thép phế liệu; năm 2000 đã nhập khẩu trên 170.000 tấn; và năm 2002là
261.389 tấn nhưng thép vụn cho lò điện không đáng kể . Từ năm 2005 khi hàng loạt lò
luyện kim cuả các nhà máy: Phú Mỹ, Cái Lân, Cửu Long, Hưng Yên…đồng loạt hoạt
động ngành thép khi đó đạt công suất trên 2 triệu tấn phôi thép /năm, thì nhu cầu thép phế
liệu cho ngành luyện kim sẽ rất lớn.
Sắt thép phế liệu là một loại nguyên liệu vô cùng quan trọng trong ngành công
nghiệp thép, chiếm tỷ trọng 37-38% trong toàn bộ nguyên liệu để sản xuất thép. Chúng ta
cần nhớ rằng, để sản xuất được trên 500 triệu tấn gang một năm nhân loại phải bỏ ra rât
nhiều tiền của, công sức trí tuệ và phải chịu những hậu quả to lớn về môi trường trong
việc thăm dò, khai thác và chế biến quặng sắt than mỡ, luyện cốc và luyện gang. Nguồn
thép phế liệu được tạo ra chủ yếu từ các nước có nền công nghiệp phát triển. Những nước
nay là những nước đang phát triện ngành công nghiệp thép từ lâu nên sử dụng công nghệ
chủ yếu là Lò cao-Luyện chuyển –tinh luyện – Đúc liên tục –Cán. Vì vậy những nước
này là những nước xuất khẩu rất nhiều thép phế liệu. Thép phế liệu không phải là sản
phẩm do con người sản xuất ra mà nó được tạo ra trong quá trình sản xuất và sử dụng
thép vật liệu. Đây là lọai nguyên liệu vô cùng quan trọng của ngành công nghiệp thép,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Việc sử dụng thép phế liệu để sản xuất thép mang lại những hiệu quả kinh tế và xã hội
rất lớn. Viên nghiên cứu công nghiệp tái chế phế liệu đã tổng kết các lợi ích của việc sử
dụng thép phế liệu sản xuất thép so với công nghệ khai thác quặng sắt – lò cao- lò thép
như sau:
Tiết kiệm năng lượng: 74%
Tiết kiệm khoáng sản: 90%
Giảm ô nhiễm không khí: 86%
Giảm sử dụng nước: 40%
Giảm ô nhiễm nước: 76%
Giảm tiêu thụ nước trong khai mỏ: 97%
Giảm phế thải phát sinh: 105%
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp thép Việt Nam đã sản xuất khoảng
400.000 tấn phôi, trong đó khoảng 75% là từ thép phế liệu. Do công nghiệp của nước ta
mới phát triển và còn nhỏ bé nên lượng thép phế liệu tạo ra hàng năm cũng chỉ khoảng
300.000 tấn. Vì vậy chúng ta đã phải nhập khẩu thép phế liệu từ nước ngoài, tuy còn rất
ít. Năm 2002 chúng ta nhập khẩu 261.389 tấn thép phế liệu
Công ty gang thép Thái Nguyên hiện là doanh nghiệp sở hữu duy nhất ở nước ta
sản xuất thép chủ yếu đi từ nguyên liệu trong nước như quặng sắt, thép phế, than mỡ và
một số vật tư khác. Năm nay công ty phấn đấu sản xuất gần 30 vạn tấn phôi thép, tăng
hơn năm 2003 gần 4 vạn tấn, với giá thấp hơn hẳn phôi thép nhập của nước ngoài, hạ giá
thành thép thành phẩm, góp phần bình ổn giá thép xây dựng ở trong nước, tăng hiệu quả
sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo đà tăng nhanh hơn nữa mức sản xuất phôi thép trong
các năm tới.
Để đảm bảo sản xuât phôi thép với giá thành hạ lãnh đạo công ty đã tập trung chỉ
đạo đồng bộ các khâu từ khai thác mỏ, mua gom và nhập khẩu thép phế liệu đến than
cốc, luyện gang, cán thép thành phần với chi phí hợp lý. Các mỏ than, mỏ sắt đã sắp xếp
lại sản xuất, tranh thủ thời tiết thuận lợi, tăng năng suất khai thác ngay từ đầu năm để đạt
sản lượng cả năm trên 10,7 vạ tấn than mỡ, 47,8 vạn tấn quặng sắt; mua gom 14 vạn tấn
thép phế ở trong nước và tổ chức nhập khẩu 5 vạn tấn thép phế liệu phục vụ sản xuất
phôi thép.
3. Thực trạng của việc sử dụng vật tư ở ngành thép
Khi sử dụng công nghệ luyện thép lò điện quang người ta thường áp dụng các tiến
bộ kỹ thuật như sau:
Cường hóa quá trình luyện thép bằng oxi và phun nhiên liệu phụ.
Tinh luyện ngoài lò trong môi trường chân không hoặc khí bảo vệ để tăng năng suất và
tăng chất lượng thép.
Tăng công suất bìến thế.
Tăng cường trang bị hệ thống làm nguội tường và đỉnh lò.
Tận thu thừa của khí thải để đun nóng trước nguyên liệu.
Áp dụng dây chuyền công nghệ sản xuất thép bằng máy đúc liên tục bằng cán thép,
trang bị hệ thống điều khiển quá trình tự động nhằm thực hiện quá trình sản xuât liên tục
mẻ tiếp mẻ.
Áp dụng các tiến bộ kĩ thuật như: lò điện hồ quang ngọn lửa dài, lò hồ quang chân
không, lò điện sử dụng dòng điện một chiều, lò điện có tháo thép ở đáy lệch tâm, lò 2
thân, sử dụng một phần nguyên liệu gang lỏng thay thế cho thép phế, chạy lò với chế độ
bọt xỉ…
Trong cán thép ngày nay đã có những bước dài trong đổi mới công nghệ, tập
trung vào việc điều khiển tự động hóa quá trình cán thép . Để nâng cao năng suất máy
trong cán thép áp dụng công nghệ tách phôi ban đầu thành nhiều dây.
Công ty thép Thái Nguyên có dây chuyền luyện kim khép kín với thiết bị và công
nghệ của Trung Quốc. Riêng nhà máy luyện cán thép Gia Sang do Cộng hòa dân chủ
Đức (cũ) giúp xây dựng. Các thiết bị công nghệ của công ty thép miền nam vốn do tư
nhân quản lý được quốc hữu hóa sau năm 1995, hầu hết thiết bị xuất xứ từ Đài Loan.
Trong quá trình cải tạo và đổi mới công nghệ tại 2 công ty này phần lớn thiết bị bổ sung
chủ yếu đựợc chế tạo trong nước hoăc nhập khẩu của Trung Quốc, Ấn Độ và Đài Loan.
Trong cùng một thiết bị luyện kim hoặc thiết bị cán, các bộ phận được chế tạo ở nhiều
nước khác nhau. Chỉ có một số công ty liên doanh nhập thiết bị từ các nước G7. Đa số
thiết bị toàn ngành thép không đồng bộ, mất cân đối giữa khâu luyện và cán, lạc hậu về
trình độ kỹ thuật và công nghệ. Các máy đúc thép liên tục mới được lắp đặt cũng chỉ vận
hành theo tưng mẻ theo năng suất lò điện luyện thép, nên chưa thể phát huy hết tinh ưu
việt của nó. Một số đơn vị đã trang bị các hệ thống lọc bụi, hệ thống tuần hoàn nước
thải, thu hồi nhiệt của lò nung phôi cán. Trừ máy cán và các thiết bị công nghệ khác của
công ty liên doanh ra, các thiết bị công nghệ luyện kim chính vẫn được cơ giới hóa hoàn
toàn trong vận hành, một bộ phận người lao động còn phải làm việc nặng nhọc và mức
độ tự động hóa còn hạn chế. Sự lỗi thời của các thiết bị, máy móc đang sử dụng cộng với
mức tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu lớn đã làm cho chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của
ngành thép Việt Nam thấp so với chỉ tiêu tương ứng ở các nước khác.
Trừ hai dây chuyền cán mới ở Nhà máy thép Thủ Đức và nhà máy thép Nhà Bè
mới được đầu tư có công nghệ trung bình tiên tiến mua của Đài Loan, các nhà máy còn
lại hoạt động trong nhiều năm trong nhiều hoàn cảnh thiếu các điều kiện bảo dưỡng, sửa
chữa và thay thế. Một số máy cán được cải tạo lại nhưng hiệu quả kinh tế chưa cao. Các
lò nung của máy cán cũ thường bị thoát nhiệt do hở nhiều, chế độ nhiệt không hợp lý do
một số lò nung không có bộ phận trao đổi nhiệt cấp không khí nóng do mỏ đốt của lò, do
đó tiêu hao dầu còn ở mức cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với chỉ tiêu tiêu hao dầu của các lò
nung phôi ở các công ty liên doanh.
Từ thực trạng công nghệ thiết bị và sử dụng năng lượng trong ngành thép như đã
nêu trên, mức tiêu hao năng lượng trong sản xuất luyện kim ở Việt Nam hiện tại còn rất
cao, cụ thể: tiêu hao than cốc cho luyện gang (1200-1350kg cốc/tấn gang) gấp 3 lần so
với mức tiêu hao than của các lò cao hiện đại (do than cốc chất lượng thấp, tro cao); tiêu
hao điện năng do luyện thép lò điện hồ quang(750-800kwh/tấn thép thỏi) gấp 1.5 lần so
với mức trung bình và gấp 2 lần so với mức tiên tiến của thế giới; tiêu hao điện năng và
tiêu hao dầu trong cán thép với mức chênh lệch so với thế giới cũng tương tự như đối với
luyện thép.
Năm 2005 công ty đã cắt giảm được 59,446 tỷ đồng khấu hao cơ bản; giảm 32,277
tỷ đồng chi phí sửa chữa lớn giảm 28,576 tỷ đồng chi phí tiền lương so vơi năm 2004 (
chỉ tính bằng 95% đơn giá tiền lương năm 2004). Năm 2005 đã giảm được giá thành trên
68,953 tỷ đồng, trong đó tiết kiệm vật tư 21,792 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt
1.729,4 tỷ đồng tăng 8% so với năm 2004; sản lượng thép cán đạt 440.962 tấn, tăng 10%;
doanh thu đạt 3.130 tỷ đồng, tăng 3,6%; lợi nhuận đạt 15 tỷ đồng, thu nhập bình
quân1,85 triệu đồng/người/tháng.
Trong thời gian qua, các nhà máy sản xuất thép Việt Nam lại hoạt động trong tình
trạng dư thừa sức công suất. Phần lớn các cơ sở sản xuất thép ở Việt Nam chỉ hoạt động
ở mức khoảng 60% công suất thiết kế. Chính vì vậy, nâng cao hệ số sử dụng công suất ở
các nhà máy cũng có thể cho phép nâng cao hiệu quả kinh doanh và giảm giá thành sản
xuất. Trong tương lai gần, công suất các nhà máy thép ở Việt Nam tiếp tục dư thừa. Sự
dư thừa công suất sẽ dẫn tới chi phí cố định cao, cản trở việc đầu tư công nghệ mới.
Các công ty thép Miền Nam, Gang thép Thái Nguyên đã duy trì tốt việc sử dụng
gang Mg-L xây tường lò điện, sản xuất nhiều mác thép chất lượng cao cung cấp cho thị
trường. Các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật trong khâu luyện thép khá ổn định. Lò luyện 15 tấn
của công ty thép Đà Nẵng đã đi vào hoạt động tốt, các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật đạt được
yêu cầu đề ra.
Công ty thép Miền Nam đưa kết quả đã đạt được ở Nhà máy thép Biên Hòa để áp dụng
cho các nhà máy khác và phát huy ưu thế sử dụng các máy đúc thép liên tục trong sản
xuất phôi thép cho nên đã mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất. Cụ thể năm 1999
Công ty đã giảm chỉ tiêu tiêu hao điện năng trong sản xuất thép lò điện xuống bình quân
dưới 740kwh/T phôi so với trước đây là 850-900 Kwh/T thép thỏi. Các nhà máy cán thép
của công ty thép Miền Nam cũng đạt được các chỉ số về tiêu hao điện năng và dầu nặng
thấp hơn so với năm 1998 từ 5 đến 8%, đặc biệt là các máy cán mới ở nhà máy thép Nhà
Bè và Thép Thủ Đức
Từ năm 2000 đến nay, công ty thép Miền Nam đã triền khai và thực hiện 3 đề tài
được hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá cao và cho phép triển khai sản xuất ở quy mô
thương mại, đó là:sản xuất trục cán tinh bằng gang biến trắng và trục cán gang 2 lớp đúc
ly tâm; sản xuất thép hợp kim thấp độ bền cao Gr 60 theo tiêu chuẩn của Mỹ; sản xuất
thép làm khuôn mẫu dùng trong ngành nhựa, cơ khí và luyện kim.
Chương III
Phương hướng và giải pháp cho việc tạo nguồn và tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở
ngành thép
I. Mục tiêu và phương hướng phát triển của ngành thép
1. Mục tiêu phát triển của ngành thép
Thứ nhất, Cải tiến thiết bị và công nghệ sản xuất thép lạc hậu đang sử dụng bằng
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật cho phép sản xuất thép với giá thành hạ chất lượng cao hơn,
cải thiện môi trường và điều kiện lao động của người lao động. Mục tiêu cơ bản cần đạt
được của các tiến bộ kỹ thuật là giảm tiêu hao nguyên liệu và năng lượng.
Thứ hai, Công ty gang thép Thái Nguyên với mục tiêu là đưa năng lực sản xuất
phôi tại chỗ bằng nguyên liệu trong nước theo công nghệ luyện kim truyền thống
thêm500.000 tấn/năm. Sau khi đầu tư xong năng lực tạo phôi của công ty sẽ đạt từ
900.000 tấn đến 1.000.000 tấn/năm. Đồng thời vẫn tiếp tục cải tạo các dây chuyền cán cũ
để giảm các tiêu hao vật tư năng lượng và nâng cao năng suất lao động. Chuẩn bị sẵn
sàng cho việc chuyển đổi mô hình quản lý sang công ty mẹ - con theo kế hoạch chung
của TCT thép Việt Nam. Trước mắt công ty phấn đấu hoàn thành toàn diện vượt mức các
chỉ tiêu kế hoạch đề ra, lấy tiêu chí là “năm tiêu thụ”
Để đẩy mạnh tiêu thụ cán thép, tiếp tục củng cố và nâng cao uy tín thương hiệu thép
TISCO trên thị trường giữ vững quy mô là nhà sản xuất thép hàng đầu của Việt Nam
Thứ ba, Dựa vào các thành tựu về tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất thép trên thế
giới, ngành thép Việt Nam trong những năm tới sẽ cố gắng phấn đấu để có thể áp dụng
chúng nhằm cải thiện hơn nữa các chỉ tiêu kĩ thuật các thiết bị đang sử dụng. Mục tiêu
chính cần đạt là:
.Tiêu hao điện năng trong sản xuât thép là điện đạt tới :600 kwh/ tấn sản phẩm
.Tiêu hao dầu trong sản xuât thép cán đạt tới: 40lit/tấn sản phẩm
Thứ tư, Mục tiêu đáp ứng đầy đủ nhu cầu thép xây dựng cho cả nước, góp phần ổn
định thị trường thép trong nước, đồng thời khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy
mới, sản xuất phôi thép, giảm bớt lượng phôi phải nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ, xúc
tiến đầu tư các nhà máy sản xuất thép tấm, lá, thép chế tạo là những sản phẩm hiện nay
phải nhập khẩu gần như 100%
Thứ năm, Phát triển ngành thép Việt Nam nhanh chóng trở thành một ngành phát
triển hoàn chỉnh theo công nghệ truyền thống, sử dụng tối đa nguồn quặng sắt sẵn có
trong nước, trên cơ sở xây dựng khu liên hợp luyện kim công suất 4-5 triệu tấn thép/năm,
sử dụng tối đa và có hiệu quả nguồn nguyên liệu khoáng trong nước, áp dụng các công
nghệ mới hiện đại đang được sử dụng trên thế giới, cố gắng thỏa mãn tối đa nhu cầu
trong nước về thép cán (cả số lượng, chủng loại, quy cách và chất lượng ). Từ thay thế
nhập khẩu tiến tới xuất khẩu sản phẩm thép. Phấn đấu đến năm 2020 sẽ có một ngành
thép phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng cao, bảo đảm tốt về chất lượng, đầy đủ về
số lượng và chủng loại sản phẩm thép, đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Thứ sáu, hoàn thành xuất sắc kế hoạch từ năm 2006 đến 2010 là duy trì tốc độ
tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và sản lượng thép cán bình quân tối thiểu
13,5%/năm đưa sản lượng thép cán đạt 2,3 triệu tấn/năm; phôi thép đạt 1,3 triệu tấn /năm
đáp ứng cơ bản nhu cầu phôi cho sản xuất thép xây dựng thông dụng
Như vậy, nhu cầu thép vào năm2010 sẽ là 10 triệu tấn; năm 2015 là 16 triệu tấn và
năm 2020 là 20 triệu tấn. Trong đó sản xuất trong nước theo mốc năm tương ứng chỉ đạt
61%, 62% và 70% vào năm 2020
2. Phương hướng phát triển của ngành thép
Phương hướng phát triển của ngành thép là từng bước đáp ứng nhu cầu thông
thường về thép xây dựng của Việt Nam để không bị thuộc hoàn toàn vào nước ngoài.
Dự báo nhu cầu các sản phẩm thép các giai đoạn như sau
I-Tăng trưởng GDP(%); II-Tăng trưởng công nghiệp (%); III-Tăng trưởng sản xuất thép
(%); IV-Tăng tiêu thụ thép(%); V-BQ đầu người (kg/người)
Giai đoạn I II III IV V
1996-2000 6,94 13,57 27 9 37
2001-2005 7,5 14,08 14 10-11 78
2006-2010 7,5 10,38 10 10,6 123
2011-2015 7,0 8-9 9-9,5 9-9,5 170
2016-2020 6,5 7-8 8-8,5 8-8,5 240
Trong giai đoạn đầu sẽ phát triển các khâu hạ nguồn trước như sản xuất thép cán
tròn xây dựng, thép cán tấm nóng, cán tấm nguội…đi từ thép phôi, thép nhập khẩu và
một phần thép phế liệu. Trong quá trình phát triển sẽ tiếp tục đầu tư chiều sâu các cơ sở
hiện có, nghiên cứu phát triển khâu thượng nguồn có sử dụng quặng sắt trong nước và
một phần quặng sắt nhập khẩu phù hợp với trình độ công nghệ đã thuần thục. Dưới đây là
những quan điểm cụ thể:
1. Trên cơ sở phát huy có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản sẵn có trong
nước, kết hợp với nhập khẩu một phần quặng và phôi của nước ngoài, xây dựng khu liên
hợp luyện kim công suất 4-5 triệu tấn thép/ năm để từng bước đáp ứng nhu cầu thép
trong nước cả về chủng loại và chất lượng. Trong giai đoạn đầu tẩp trung phát triển các
khâu hạ nguồn như cán thép xây dựng, thép cán tấm nóng, thép tấm nguội sau đó cần
nghiên cứu phát triển khâu sản xuất thượng nguồn để sử dụng có hiệu quả nguồn tài
nguyên trong nước.
2. Kết hợp chặt chẽ giữa phát huy nội lực và tranh thủ tận dụng có hiệu quả các
nguồn vốn từ nước ngoài (trước hết về thiết bị công nghệ ). Kết hợp hài hòa giữa yêu cầu
giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế với xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa; tự chủ nhưng
không bỏ qua các cơ hội hợp tác và phân công lao động quốc tế để đẩy nhanh tốc độ phát
triển ngành thép. Đa dạng hóa vốn đầu tư cho ngành thép. Vốn đầu tư của nhà nước chủ
yếu dành cho phát triển các nguồn quặng trong nước và các công trình sản xuất thép tấm,
thép lá
3. Về công nghệ: Trong giai đoạn đến 2020 vẫn sử dụng công nghệ truyền thống
là sản xuất lò cao luyện thép. Đồng thời tích cực nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới,
tiên tiến, hiện đại để phát triển ngành thép. Đối với khu liên hợp luyện kim khép kín có
vốn đầu tư lớn và thời gian xây dựng kéo dài, có thể triển khai trước khâu sản xuất cán
kéo. Sau sẽ phát triển tiếp khâu sản xuất phôi cán từ quặng.
4. Đi đôi với việc đầu tư xây dựng các nhà máy hiện đại, phải hết sức coi trọng
đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, hiện đại hóa các cơ sở hiện có lên ngang
bằng tiên tiến trong nước và khu vực. Quan tâm công tác đào tạo nhân lực và phát triển
khoa học phục vụ phát triển ngành.
Trong những năm tới, ngành thép sẽ ưu tiên phục hồi và củng cố các cơ sở thép
đang hoạt động hiện nay với cơ cấu đa dạng, linh hoạt, tận dụng tài nguyên và thiết bị có
sẵn được áp dụng các tiến bộ kỹ thuật bằng mọi nguồn vốn có thể huy động để phát huy
hết công suất sản xuất thép xây dựng các loại, thép cán hình nhỏ và vừa, các sản phẩm
sau cán. Phương hướng giảm chỉ tiêu tiêu hao nguyên nhiên vật liệu và năng lượng là duy
nhất giúp cho ngành thép có khả năng giảm thiểu tối đa các chất và khí thải ra môi
trường.
II. Giải pháp cho việc tiết kiệm vật tư ở ngành thép.
1. Về kỹ thuật, công nghệ của sản xuất.
Tiếp tục nghiên cứu đầu tư nâng cao năng lực sản xuất dây chuyền công nghệ hiện
nay của nhà máy như: cải tạo từng phần máy đúc liên tục bốn dòng (cải tạo nâng cao
dung tích thùng trung gian, mở rộng bể nước tuần hoàn…) đầu tư thêm khu vực gia công
chuẩn bị liệu.
Đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất tại
nhà máy, như nghiên cứu đa dạng hóa các mát thép: nghiên cứu sử dụng các loại vật liệu
chịu lửa mới, nhằm nâng cao tuổi thọ của lò, của thùng thép; nghiên cứu sử dụng những
chất hợp kim mới…
Áp dụng công nghệ luyện thép nhanh để giảm chỉ tiêu tiêu hao điện năng, điện cực và
tăng năng suất lò. Công ty gang thép Thái Nguyên tổ chức triển khai áp dụng thổi ôxy
cường hóa quá trình luyện thép cho lò điện 30 tấn (lúc có ôxy cung cấp) và sàng loại bỏ
đất đá trong khâu chuẩn bị sắt thép phế cho lò điện.
Đầu tư các hạn mục bảo vệ môi trường như các thiết bị lọc bụi chò lò điện hồ
quang, xây dựng mới các hệ thống nước tuần hoàn tại các phân xưởng cán thép, bê tông
hóa mặt bằng các nhà máy và cải tạo thêm nhà xưởng cho thông thoáng.
Giảm phế liệu phế phẩm và các tổn thất trong quá trình sản xuất. Để giảm bớt phế
liệu cần phải cải tiến các công cụ lao động, đặc biệt công cụ chuyên dùng cải tiến quy
trình công nghệ và sử dụng tối đa loại phế liệu có thể sử dụng lại trong quá trình sản xuất.
Sản phẩm thép được luyện lại từ thép phế thải chiếm khoảng 30-35% tổng lượng
thép hàng năm. Vì thế để có thép phế nhập khẩu phải có những việc cần làm là:
Thứ nhất, phải chuẩn bị cảng nước sâu có thể tiếp nhận được tàu 3 vạn- 5 vạn tấn
hoặc cao hơn để chuyên chở thép phế nhập từ các nước, nếu tàu có trọng tải nhẹ giá
chuyên chở cao sẽ không thể nhập được thép phế.
Thứ hai, cần có cảng chuyên dùng và thiết bị vận chuyển thép phế chuyên dùng vì
thép phế đòi hỏi kho bãi và thiết bị bốc xếp vận chuyển thích hợp, nếu không có mà dùng
chung kho bãi và thiết bị cảng như hiện nay thì không thể giải phóng tàu nhanh chi phí
lưu tàu, lưu kho sẽ rất lớn, giá thành không chịu đựng nổi. Tổng lượng thép phế nhập
hàng năm cho mỗi nhà máy thép sẽ là 600.000- 700.000 tấn nên không thể dùng chung
bến cảng với các hàng hóa khác.
Thực hiện đúng quy định về tiêu chuẩn chất lượng cho sắt thép phế liệu nhập khẩu
mà bộ tài nguyên môi trường đã ban hành. Nhà nước phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
về giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cảng biển…cho các khu khai thác nguyên liệu,
khu công nghiệp luyện kim lớn. Đầu tư cho các dự án trọng điểm điều tra tiềm năng
khoáng sản cho ngành thép, phát triển vùng nguyên liệu lớn của ngành.
2. Về tổ chức quản lý kinh doanh.
Nếu như các biện pháp về kỹ thuật công nghệ có tác dụng trực tiếp tiết kiệm
nguyên vật liệu về số lượng, chất lượng và chủng loại nguyên nhiên vật liệu thì những
biện pháp thuộc hướng tổ chức quản lý kinh doanh góp phần tạo điều kiện cần thiết để
biện pháp kỹ thuật được thực hiện ở doanh nghiệp. Về tổ chức quản lý kinh doanh, ngành
thép để ra các giải pháp là:
Đảm bảo cung ứng cho các nơi làm việc trong doanh nghiệp những nguyên nhiên
vật liệu đầy đủ về số luợng, chất lượng và chủng loại, kịp thời gian yêu cầu; đồng bộ để
chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh nếu không sẽ gây lãng phí cả nguyên nhiên vật liệu sử
dụng, lãng phí thời gian sử dụng thiết bị, máy móc và lãng phí cả sức lao động của công
nhân, lãng phí do ngừng sản xuất…
Rà soát các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật, đưa các chỉ tiêu tiên tiến vào sản
xuất kinh doanh. Khoán định mức tiết kiệm đối với từng đơn vị thành viên từng công
đoạn sản xuất, yêu cầu đơn vị phải tìm các biện pháp để giảm các chỉ tiêu tiêu hao
nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, năng lượng; có biện pháp tiết kiệm để giảm chi phí sản
xuất với những khoản mục cụ thể nhằm thực hiện cắt giảm chi phí 170 tỷ đồng.
Giao định mức kế hoạch và chỉ tiêu tiết kiệm, hạ giá thành cho từng đơn vị trên cơ
sở các chỉ tiêu định mức kinh tế- kỹ thuật mới ban hành. Hàng quý xét duyệt và áp dụng
cơ chế thưởng- phạt về tăng, giảm giá thành từ quỹ tiền lương. Rà soát tạm ngừng các
hạng mục sửa chữa lớn chưa thực sự cần thiết, kiểm soát chặt chẽ chi phí sửa chữa để hạn
chế các chi phí phát sinh.
Quản lý giá mua vật tư trên cơ sở thực hiện chào giá cạnh tranh. Các chủng loại
vật tư có giá trị lớn như phôi thép, thép phế đều tuân thủ chỉ đạo của tổng công ty.
Thực hiện khoán chi phí bán hàng cho các chi nhánh, trên cơ sở xây dựng chi phí
bán hàng cụ thể, chi tiết như: tiết kiệm chi phí xăng, dầu, tiếp khách, hội nghị, chi phí
uốn bẻ, bốc xếp, vận chuyển…tăng cường công tác kiểm tra trong quá trình thực hiện.
Kiểm soát chặt chẽ chi phí quản lý doanh nghiệp, rà soát cụ thể từng khoản mục
tại các đơn vị và văn phòng công ty; sửa đổi và ban hành các quy chế về tiết kiệm như
khoán chi phí điện thoại, tiếp khách, hội nghị, quy chế quản lý và sử dụng xe đi công
tác…đồng thời tổ chức sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp, tiến hành cổ phần hóa cho 3
đơn vị thành viên của công ty theo quyết định của Bộ trưởng Bộ công nghiệp.
Chủ động tìm kiếm, khai thác thu mua nguồn sắt thép vụn. Thực hiện dự trữ các
loại nguyên nhiên vật liệu theo định mức. Dự trữ theo định mức bảo đảm việc sử dụng
liên tục, đều đặn trong doanh nghiệp. Những loại nguyên vật liệu có nguồn cung ứng khó
khăn cần phải có dự trữ. Tổ chức thu hồi, tận dụng tất cả các loại phế liệu, phế thải trong
quá trình sản xuất.
Từng bước thu hẹp sản xuất tại các cơ sở có thiết bị cũ, lạc hậu, kém hiệu quả,
đồng thời tiếp tục phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, xây dựng định mức kỹ thuật tiên
tiến kèm theo các giải pháp khả thi để giảm chi phí trong các khâu sản xuất.
Nhà nước phải có quy hoạch dài hạn cho việc khai thác và sử dụng các nguồn tài
nguyên được huy động cho sản xuát thép như quặng sắt, than, điện, dầu khí…quy định
những điều kiện tối thiểu mà những doanh nghiệp kinh doanh sắt thép phải đảm bảo như
quy mô công nghệ, vốn, nguồn nhân lực, môi trường…thực hiện thẩm định bảo đảm các
dự án thép đạt được công nghệ tiên tiến, kiên quyết loại trừ những công nghệ lạc hậu và
dự án có quy mô nhỏ.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản xuất thép đối với các nhà đầu tư,
nhất là sản xuất phôi thép từ quặng. Vì nó tác động sâu rộng vào nền kinh tế, thúc đẩy
mạnh các ngành kinh tế khác phát triển. Việc khai thác và sử dụng quặng mặc dù đã có
quy hoạch song cũng cần có chính sách cụ thể nhằm tăng hiệu quả sử dụng, hạn chế xuất
khẩu tràn lan như hiện nay và bảo đảm nguồn tài nguyên lâu dài cho ngành thép. Ngoài
ra cần có những quy định cụ thể chi tiết đối với việc nhập khẩu sắt thép phế liệu vừa đảm
bảo an toàn đối với môi trường vừa tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
3. Về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên nhiên vật liệu.
Do người công nhân là người trực tiếp sử dụng các loại nguyên, nhiên, vật liệu
trong quá trình sản xuất nên họ hiểu rõ giá trị của các loại nguyên, nhiên, vật liệu và công
dụng của chúng. Vì thế ngành thép đã áp dụng các biện pháp:
Phát huy sáng kiến cải tiến, hợp lí hóa sản xuất, cải thiện môi trường và điều kiện
làm việc cho người lao động.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao năng lực quản lý, hiểu biết khoa học
kỹ thuật, lỹ thuyết tay nghề chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, kỹ năng làm việc…cho
cán bộ viên chức một cách đồng bộ từ người thợ đến cán bộ quản lý trên tất cả các cương
vị công tác.
Xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt, vững chắc, đó là những con người có đức độ, có
tài thuyết phục trước công chúng, luôn nhạy bén và thay đổi tư duy, thay đổi phương
pháp hoạt động…và đội ngũ này cần phải được đào tạo một cách chính quy về kiến thức
văn hóa, nghiệp vụ, pháp luật, dám đấu tranh chống tiêu cực, bảo vệ lẽ phải để đảm bảo
lợi ích kinh doanh cho công ty cũng như quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao
động.
Thông qua các hình thức hoạt động của các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên
vận động cán bộ công nhân viên tích cực tham gia phong trào phát huy sáng kiến cải tiến
kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất. Phối hợp với chuyên môn tăng cường khâu thông tin phổ
biến các sáng kiến.
Cần có các định hướng cho công tác sáng kiến ssể tăng số lượng sáng kiến liên
quan đến công nghệ và quản lý.
Khuyến khích cán bộ công nhân viên mạnh dạn áp dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật và thực hành tiết kiệm trong lao động sản xuất. Duy trì việc trích thưởng tiết
kiệm làm động lực thúc đẩy phong trào.
Quan tâm đào tạo đội ngũ để sớm có một lớp công nhân luyện kim đủ sức làm chủ
thiết bị và công nghệ hiện đại, phát huy hiệu quả đầu tư.
Tiến hành sắp xếp, bố trí một cách hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện
có ở các đơn vị trực thuộc và văn phòng tổng công ty. Phát hiện và đào tạo những người
có năng lực, để bố trí vào những công việc phù hợp với chuyên môn, cán bộ quản lý
trong tương lai. Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh
nghiệp (bảo đảm công ăn việc làm, được đào tạo, chế độ tiền lương, thưởng thỏa đáng
…).
Ngành thép cần phối hợp chặt chẽ với các trường đại học, viẹn nghiên cứu, các
trường dạy nghề để đào tạo dội ngũ chuyên gia, kỹ sư, công nhân bậc cao thích ứng với
công nghệ hiện đại. Nhà nước cần đầu tư cho đào tạo đội ngũ chuyên gia kể cả cho đào
tạo ở nước ngoài, tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và công nghệ phát triển
ngành thép và xúc tiến vĩ mô hỗ trợ ngành thép.
Kết Luận
Trong cơ chế thị trường tiết kiệm là toàn bộ các giải pháp kinh tế -tổ chức –kỹ
thuật…nhằm giải quyết tốt các vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh ở mọi cấp của nền
kinh tế quốc dân. Tiết kiệm vật tư trong sản xuất có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
các doanh nghiệp đặc biệt đối với ngành thép. Để có thể cạnh tranh với các nước trên thế
giới, ngành thép cần phải đề ra các phương hướng và áp dụng các biện pháp tiết kiệm vật
tư trong sản xuất nhằm mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình thương mại doanh nghiệp, NXB Thống kê.
2. Giáo trình định mức kinh tế kỹ thuật cơ sở cuả quản trị kinh doanh, NXB
ĐHKTQD.
3. Những vấn đề cơ bản về hậu cần vật tư doanh nghiệp,NXB Thống kê.
4. Tạp chí khoa học và công nghệ.
5. Giáo trình bộ công nghiệp.
6. Các web: vietnam.net;
7. Cổng thông tin của bộ công nghiêp.
MụC LụC
LờI NÓI ĐầU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG I ........................................................................................................ 2
NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về NGUồN VÀ BIệN PHÁP TIếT KIệM ĐầU TƯ . 2
I. Ý NGHĨA KINH Tế CủA TIếT KIệM ĐầU TƯ ..................................................... 2
1.Khái niệm vật tư, tiết kiệm vật tư ............................................................ 2
2. Phân loại vật tư ...................................................................................... 3
3. Vai trò của vật tư trong sản xuất ở doanh nghiệp ................................. 3
4. Ý nghĩa của tiết kiệm vật tư.................................................................... 4
II. NGUồN VÀ BIệN PHÁP TIếT KIệM VậT TƯ .................................................... 5
1. Nguồn tiết kiệm vật tư . .......................................................................... 5
2. Biện pháp tiết kiệm vật tư. ..................................................................... 6
CHƯƠNG II. .................................................................................................... 10
THựC TRạNG CủA NGUồN VÀ BIệN PHÁP TIếT KIệM VậT TƯ TRONG SảN XUấT
ở NGÀNH THÉP ............................................................................................. 10
I. ĐặC ĐIểM KINH Tế KĨ THUậT ảNH HƯởNG ĐếN VIệC Sử DụNG TIếT KIệM VậT TƯ ở
NGÀNH THÉP ................................................................................................ 10
1. Đặc điểm cung ứng vật tư cho sản xuất ............................................... 10
2. Đặc điểm công nghệ sản xuất .............................................................. 11
3. Đặc điểm quản lý vật tư ở doanh nghiệp ............................................. 13
4. Đặc điểm tay nghề và ý thức của người lao động trong ngành thép ... 15
II. THựC TRạNG CủA VIệC TIếT KIệM VậT TƯ ở NGÀNH THÉP ........................ 17
1.Thực trạng của việc tạo nguồn vật tư ở ngành thép ............................. 17
2. Thực trạng của việc cung ứng vật tư cho sản xuẩt của ngành thép .... 19
3. Thực trạng của việc sử dụng vật tư ở ngành thép ............................... 21
CHƯƠNG III ................................................................................................... 24
PHƯƠNG HƯớNG VÀ GIảI PHÁP CHO VIệC TạO NGUồN VÀ TIếT KIệM VậT TƯ
TRONG SảN XUấT ở NGÀNH THÉP ............................................................. 24
I. MụC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯớNG PHÁT TRIểN CủA NGÀNH THÉP ................. 24
1. Mục tiêu phát triển của ngành thép ..................................................... 24
2. Phương hướng phát triển của ngành thép .......................................... 25
II. GIảI PHÁP CHO VIệC TIếT KIệM VậT TƯ ở NGÀNH THÉP. ........................... 27
1. Về kỹ thuật, công nghệ của sản xuất. .................................................. 27
2. Về tổ chức quản lý kinh doanh. ........................................................... 28
3. Về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên nhiên vật liệu. .......... 30
KếT LUậN ....................................................................................................... 32
TÀI LIệU THAM KHảO .................................................................................. 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép.pdf