Tài liệu Luận văn Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: 1
Luận văn
Nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
2
NỘI DUNG:
Lời mở đầu
I-Lý luận về con người
1- Các quan niệm khác nhau về con người
2-Con người là một thực thể sinh học-xã hội
3- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội
II-Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
1-Vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự vận động và phát triển
của đời sống xã hội
2-Vai trò của nguồn nhân lực
3-Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay
4-Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đạI hoá ở nước ta
5-Những thành tích đã đạt được của việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực
6-Xây dựng môi trường xã hội tạo điều kiện để phát huy yếu tố con người
III-Kết luận
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa...
19 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 944 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
2
NỘI DUNG:
Lời mở đầu
I-Lý luận về con người
1- Các quan niệm khác nhau về con người
2-Con người là một thực thể sinh học-xã hội
3- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội
II-Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
1-Vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự vận động và phát triển
của đời sống xã hội
2-Vai trò của nguồn nhân lực
3-Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay
4-Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đạI hoá ở nước ta
5-Những thành tích đã đạt được của việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực
6-Xây dựng môi trường xã hội tạo điều kiện để phát huy yếu tố con người
III-Kết luận
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa
họcvà công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ
cao trong mỗi sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của
nó trong tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng
của sự phát triển trong trời đại ngày nay đang đòi hỏi con người phải bộc lộ
đầy đủ hơn nữa “ sức mạnh bản chất người ” của mình một cách hiện thực
và sinh động hơn, phong phú và đa dạng hơn, văn hoá và trí tuệ hơn với
những cá tính độc đáo và những phẩm chất năng động, sáng tạo của con
người hiện đại. Do vậy, trong thời đại ngày nay, khi nói con người là nguồn
lực quan trọng nhất của sự phát triển xã hội,đặc biệt là sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Với tư cách ấy, con người đã được đặt ở
vị trí cao nhất của sự phát triển xã hội, tiến bộ lịch sử, thế giới tinh thần của
con người được coi là tinh hoa của lịch sử văn minh,văn hoá, là giá trị của
mọi giá trị, là cội nguồn của mọi sự phát triển.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới hơn lúc nào hết chúng ta cần phải
hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con
người. Do vậy để tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
một nước đang ở trình độ thấp, kém phát triển như nước ta không thể không
xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của
người lao động, phát huy được nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4
I-Lý luận về con người.
1-Các quan niệm khác nhau về con người.
Chúng ta đều biết, với học thuyết duy vật về lịch sử của mình, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của
xã hội loài người là quá trình lịch sử-tự nhiên, là sự thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế-xã hội, hình thái kinh tế-xã hội cũ được thay thế bởi
hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn. Bằng hoàt động cải tạo thế giới, hoạt
động thực tiễn của mình, con người không chỉ phát triển và hoàn thiện
chính bản thân mình, mà còn sáng tạo ra lịch sử của chính mình-lịch sử xã
hội loài người.
Từ thời cổ đại đến nay, vấn đề con người luôn luôn giữ vị trí quan
trọng trong các học thuyết triết học.Triết học cổ đại coi conngười là tiểu vũ
trụ, bản chất con người là bản chất của vũ trụ.
Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là hoa của đất, là chúa tể của
muôn loài, chỉ đứng sau có thần linh. Con người được chia ra thành phần
hồn và phần xác.
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng phần hồn là do thượng đế
sinh ra và qui định , chi phối phần xác, linh hồn con người là bất tử. Các
học thuyết triết học duy tâm tuyệt đối hoá hoạt động của đời sống tinh thần,
coi toàn bộ thế giới tinh thần bao gồm tư tưởng, tình cảm, khát vọng của
con người như một thực thể bị chia cắt khỏi quá trình tâm sinh học.Các
quan niệm duy tâm về bản chất của con người tìm thấy sự hoàn thiện của
mình trong hệ thống triết học duy tâm của Hê-ghen. Đặc biệt, Hê-ghen đã
đưa ra nhiều kiến giải có giá trị về vấn đề con người mặc dù hệ thống triết
học là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, đời sống con người chỉ được xem xét
5
về mặt tinh thần. Song He-ghen cũng là người đầu tiên thông qua việc xem
xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự
phát triển của đời sống cá nhân. Phơ-bách sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa
duy tâm Hê-ghen đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan
niệm con người của triết học He-ghen. Phơ-bách quan niệm con người là
sản phẩm tự nhiên, có bản tính tự nhiên, là con người sinh học trực quan, bị
phụ thuộc vào hoàn cảnh. Phơ-bách chứng minh mối liên hệ không chia cắt
được của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con
người.
Nhìn chung , các quan điểm triết học nói trên đều xem xét con
người một cách trừu tượng do đó đã đi đến những cách lý giải cực đoan,
phiến diện.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế, đồng
thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết
triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người hiện thực, con người
hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người
hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa
là chủ thể cảo tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác, chủ nghĩa Mác
xem xét con người như một thực thể sinh học-xã hội.
2-Con người là một thực thể sinh học-xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hoá lâu dàI
của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang bản tính
sinh vật. Cái sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện
tượng và quá trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại
của con người. Song con người không phải là động vật thuần tuý như các
động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với tất cả nội dung
văn hoá lịch sử của nó. Con người là sản phẩm của xã hội, là con người xã
hội, mang bản tính xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại được mộtkhi con
6
người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh
học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người
và ý thức.
Chính lao động đã quy định bản chất xã hội của con người, quy định
cáI xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân và
nhân cách. Vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội cùng các quy
luật biến đổi của chúng.
Với tư cách là con người xã hội, con người sản xuất ra của cải vật
chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là chủ thể cải tạo
tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên, con người chỉ có thể thống
trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt các quy luật của bản thân giới tự
nhiên.
Con người không những là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải
tạo xã hội. Bằng hoạt động lao động sản xuất, con người sáng tạo toàn bộ
nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động
theo những quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hành động, con
người luôn luôn xuất phát từ nhu cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi
những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm
vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình.
Như vậy, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, vừa là
chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội.
3-Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội.
Xuất phát từ con người hiện thực, thực tiễn, Mác đã nhận thấy lao
động đóng vai trò quyết định trong việc phân định ranh giới giữa con người
và động vật.
7
Vì lao động là hoạt động xã hội nên mọi sự khác biệt giữa con người
và động vật đều là kết quả cuả cuộc sống con người trong xã hội. Cá nhân
là thực thể xã hội và bản chất con người có tính lịch sử cụ thể. Điều đó quy
định sự khác nhau của con người trong các thời đại khác nhau, sự khác
nhau này tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội, sự thay đổi các quan hệ xã
hội và giao tiếp. Vì vậy, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội
trong hiện tại mà cả trong quá khứ.
Vậy, từ đó rút ra ba kết luận :
-Bản chất chung nhất, sâu sắc nhất của con người là tổng hoà
các mối quan hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và
cả trong quá khứ.
-Bản chất của con người không phải là cố định, bất biến mà có
tính lịch sử cụ thể.
-Không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội.
Nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước.
II-Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
1-Vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự vận động và phát triển của
đời sống xã hội.
Từ xưa và cho đến tận bây giờ, Việt Nam vẫn là một nước nông
nghiệp lạc hậu và chậm phát triển. Để mau chóng thoát khỏi tình trạng đó
chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá
hiện đại hoá. Công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
”, mà còn là “ một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh
8
vựcvủa đời sống xã hội ”. Phát triển con người Việt Nam hiện đại đó chính
là động lực là mục tiêu nhân văn là cơ sở lâu bền tạo đà cho bước phát triển
tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, mà chúng ta đang
thực hiện. Cái yếu tố đó mọi người dễ dàng nhận biết song để bảo đảm thực
hiện cho có hiệu quả và không mắc phải sai lầm thì lại không dễ dàng bởi
vì từ chỗ thấy được tính tất yéu không cẩn thận dễ xảy ra duy ý chí như đã
từng xảy ra trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn bất lợi thiếu điều
kiện mà không quyết tâm thực hiện sẽ tụt hậu xa so với thế hiới hoặc bằng
mọi cách mọi biện pháp giải quyết khó khăn đó bấ kể lợi hay hại sẽ dẫn đến
hậu quả khó lường trước được. Chính vì vậy cần nắm vững những quan
điểm cơ bản về công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Đối với nước ta đang trong trời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì việc
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một
nhiệm vụ to lớn và một yêu cầu khách quan bởi vì cơ sỏ vật chất kỹ thuật
của nền sản xuất hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ
ngày càng cao hơn, hiện đại hơn, điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ những
yếu tố của cơ sở sản xuất được cơ khí hoá mà trình độ công nghệ phải tiên
tiến và thường xuyên được đổi mới. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá chính
là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền
sản xuất hiện đại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật công
nghệ sản xuất tăng năng suất lao động. Công nghiệp hoá chính là thực hiện
xã hội hoá về mặt kinh tế-kỹ thuật tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc
độ cao, góp phần ổn định ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của mọi thành vuên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành vùng trong phạm vi một nước và giữa các nước với nhau, nó nâng
cao trình độ quản lý kinh tế của Nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở
9
rộng sản xuất làm xuất hiện thêm ngành nghề mới để từng bước giải quyết
những nhu cầu việc làm cho người lao động.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân
tố con người trong nền sản xuất đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại kỹ
thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có
khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện
nhân tố con người làm cho con người trở nên hiện đại nắm bắt được những
tiến bộ mới.
Như vậy thực chất của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo
ra một nền sản xuất lớn hiện đại với mục tiêu cuối cùng là phát triển con
người toàn diện và con người ở đây không chỉ được hiểu với tư cách là
người lao động sản xuất mà còn với tư cách là công dân trong xã hội, một
cá nhân trong tập thể một cộng đồng. Đó không chỉ là đội ngũ những
người lao động có trình độ…mà còn là những công dân yêu nước ý thức
được nguy cơ tụt hậu để cùng nhau cố gắng vì sự nghiệp chung.
Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá xuất phát từ yếu tố con người
và cũng do con người tạo nên. Thật vậy, trong cơ chế quản lý, cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp của xã hội thời kỳ trước đã kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời tạo ra những mối quan hệ
sản xuất không phù hợp dẫn đến tình trạng trì trệ, kém phát triển, kinh tế
đời sống của người lao động không đảm bảo trong khi nhu cầu của con
người ngày càng phát triển do đó đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý mơí,
một môi trường xã hội mới để đáp ứng nhu cầu, lợi ích và các mối quan hệ
xã hội ngày càng phát triển của con người và công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là bước đi tất nhiên và mang tính khách quan để tạo ra một nền sản xuất
hiện đại vì một cộng đồng ngày mai.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ xuất phát từ yếu tố con người
mà do con người tạo nên và chỉ khi nào có nguồn nhân lực mới thành công
bởi như đã phấn tích ở trên con người là chủ thể của mọi hoạt động sản
10
xuất vật chất hiện đại, trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cho ngành
kinh tế quốc dân chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở đội ngũ người lao
động, các cán bộ đầu ngành, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bước đi tất
yếu trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh bền vững của nền kinh tế đất nước đồng thời gắn tăng trưởng
kinh tế với việc cải thiện đời sống nhân dân.
2-Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Đối với đất nước ta khi chiến lược phát triển đất được xác định là “đẩy
mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” theo định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng minh”, thì
vấn đề xác định dúng và huy động có hiệu quả những nguồn lực vốn có và
có thể tạo ra trong tiến trình phát triển càng trở nên quan trọng.
Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay,
Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là : nguồn lực con
người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiện nhiên , vị trí địa lý),
cơ sở vật chất tiềm lực khoa học-kĩ thuật vốn có các nguồn lực ngoài nước
và kinh nghiệm quản lý.
Lịch sử phát triển chân chính của xã hội loài người là lịch sử phát triển
của con người, do con người ,vì con người. Con người làm ra lịch sử của
chính mình và là động lực của lịch sử đó. Khi khẳng định chân lý vĩnh
hằng đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-LêNin đã đồng thời chỉ rõ, xu
hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát
triển của lực lượng sản xuất do con người và những công cụ sản xuất, bao
gồm con người và những công cụ sản xuất do con người tạo ra.
11
Sự phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của
xã hội qua việc con người khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho hoạt động sinh tồn, phát triển của chính
con người và quyết định quan hệ của con người với con người trong sản
xuất.
Vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với phát triển và
tăng trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế
giới và đặc biệt là ở Việt Nam. ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn
mạnh là yếu tố nội lực quan trọng nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên,
sức mạnh của nguồn nội lực này lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó giáo dục đào tạo đóng vai trò quyết định hàng đầu.
3-Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến
độ tuổi lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân
đối ngiêm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao độngvà giải
quyết việc làm cho những người lao động trở nên hết sức bức thiết. Trong
khi đó, khả năng giải quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy, mâu
thuẫn cung cầu về số lượng nguồn nhân lực rất lớn, gây sức ép ngày càng
nặng nề về lao động việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động
nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Kết hợp vào đó là sự thiếu quản
lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi
trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng thiếu hụt kĩ
năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ
thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa
hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao
động. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã được cảI thiện nhiều
nhưng cung về chất lượng vẫn không thể đáp ứng được cầu về mặt thể lực,
12
trí lực và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân
lực của Việt Nam.
Chất lượng thì như vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn
nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về cung
cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. ở các vùng miền núi,
vùng sâu vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao
động có trình độ, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở
các vùng này. Những nơi cần thì không có, còn những nơi đã có nhiều rồi
như ở các thành phố lớn thì lại ngày càng nhiều thêm gây ra một sự lãng
phí rất lớn cho xã hội.
Điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao so với nhiều nước
trong khu vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta
có động lực hạc tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi
nếu được giáo dục đào tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực
chủ yếu là tri thức, nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri
thức khoa học kỹ thuật cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực
nước ta trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập phát triển rất cần được
khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp, khả năng vốn có của
nước ta.
Đó là thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
3-Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá ở nước ta.
Do một trong ba mặt thể hiện vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần
chúng nhân dân là: hoạtđộng sản xuất ra của cải vật chất vật chất của quần
chúng nhân dân, trực tiếp là nhân dân lao động, là cơ sở tồn tại và phát
triển của xã hội. Do nội dung cơ bản của công nghiệp hoá và hiện đại hoá
là:
13
Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành
của nền kinh tế quốc dân. Nội dung này được thể hiện qua hai cách:
Tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật để tự trang bị.
Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thực hiện thông
qua nhân chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến .
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.
Muốn rõ thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta để phát huy những
đIểm mạnh, khắc phục và hạn chế những điểm yếu và đưa ra được những
yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo nguoòn nhân lực. Một mặt phải trực
tiếp giải quyết vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, về trình độ văn hoá và
trình độ chuyên môn kỹ thuật và đồng thời phải giải quyết vấn đề nâng cao
thể lực người lao động và số lượng nguồn nhân lực. Trong trình tự giải
quyết vừa phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập tiểu học, trang bị
những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp đến các bậc cao hơn nhưng
phải kết hợp tạo ra một bộ phận người lao động có chất lượng cao, số
lượng không lớn nhưng phải đạt các tiêu chuẩn của lao động kỹ thuật khu
vực và thế giới, đáp ứng những ngành công nghiệp mới, các khu công
nghiệp và các khu kinh tế mở.
Trước tiên, việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết.
Những cố gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không
theo kịp được tốc độ gia tăng dân số.
Quy mô mọi ngành học, bậc học hiện nay đều chưa đáp ứng được yêu
cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung, số học sinh và số trường, lớp ở
mọi ngành học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp,
cao đẳng, đại học đều tăng. Riêng đối với hệ thống đào tạo nghề thì quy
mô vủa hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm và dạy nghề, trung tâm kỹ
thuật tổng hợp, hướng nghiệp và gần 1000 cơ sở dạy nghề bán công, dân
14
lập, tư thục…Quy mô đào tạo có chuyển biến nhờ tăng cường hình thức
đào tạo ngắn hạn.
Phải khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của
giáo dục đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ
góc độ chuẩn bị nền tảng cả về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo
dục phổ thông, đặc biệt là giáo dục học, theo kinh nghiệm của các nước
đang phát triển, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định các
cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kỹ
thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong
việc phát triển đón bắt, giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, những bất cập
giữa các loại ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó khăn không ít
cho sự phát triển. Một số ngành thì được học sinh, sinh viên theo học. Nếu
không có sự đIều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng gặp phải khó
khăn về đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật như ở nhiều nước Asean, nhất
là của Thái Lan.
Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn
ở nông thôn, vùng sâu kiện phát triển hơn ở nông thôn, vùng núi, vùng sâu
vùng xa.Vì vậy, vấn đề khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, giữa
thành thị và nông thôn, vấn đề thực hiện công bằng xã hội cũng trở nên
phức tạp hơn. Muốn nâng cao trình độ của nguồn nhân lực ở các vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, chính sách cấp học bổng, giảm
học phí, ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó là điều kiện cơ bản đầu tiên
tạo cơ hội được giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực có đáp
ứng được yêu cầu phát triển hay không đó là đổi mới mục tiêu, nội dung,
chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo. Việc hội nhập và cạnh
tranh kinh tế đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng thêm khả
năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó nảy sinh yêu cầu về trình độ
công nghệ và trình độ sử dụng các công nghệ đó cũng ngày càng phải
15
được nâng cao. Ngoài giáo dục đào tạo văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ về
mặt lý thuyết, cần chú ý đén khâu thực hành, ứng dụng, giáo dục kỹ thuật,
tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng thích ứng của người
lao động với những đặc đIểm của nền kinh tế thị trường. Kết hợp với các
cấn đề giáo dục đó là giáo dục liên quan đến dân số, sức khoẻ, giới tính để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm sức ép đối với quy mô và chất
lượng giáo dục.
Trong điều kiện của Việt Nam ta hiện nay, yêu cầu đa dạng hoá các
loại hình giáo dục đào tạo rất cần thiết để vừa bổ xung, cải thiện hiện trạng
nguồn nhân lực, khắc phục những bất hợp lý về phân bổ nguồn nhân lực,
những khó khăn về nguồn lực, nhất là về tài chính, nâng cao hiệu quả của
đầu tư cho giáo dục đào tạo đồng thời phục vụ được yêu cầu phát triển,
đón bắt, đuổi kịp. Đối với giáo dục hướng nghiệp vẫn được kết hợp với
một quy hoạch, kế hoạch phát triển toàn diện và một chính sách sử dụng
sau đào tạo hợp lý, có sức thuyết phục để giảm lãng phí giáo dục đào tạo
của xã hội và của gia đình. Người lao động đào tạo ra được làm việc đúng
ngành, đúng nghề, đúng khả năng và sở trường của mình. Ngoài ra, giáo
dục hướng nghiệp cũng đòi hỏi phải có công tác dự báo nghề để làm giảm
nguy cơ tụt hậu. Giáo dục đào tạo chính quy, dài hạn là cơ sở để hình
thành một bộ phận người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao,
có kỹ năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới, hiện đại. Ngoài ra, cần
mở rộng các loại hình đào tạo ngắn hạn để cải thiện hiện trạng nguồn nhân
lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao số lao động đã qua đào tạo của ta
lên. Giáo dục đào tạo tại chức và từ xa cần chú ý hơn nữa đến chất lượng
và hiệu quả giáo dục.
Việc sử dụng tốt hơn, phân bổ hợp lý hơn nguồn lực đã có, đa dạng
háo và khai thác mọi nguồn lực khác cho giáo dục đào tạo rất cấp thiết.
Nguồn tài chính hạn hẹp hiện được coi là thách thức lớn đối với hệ thống
đào tạo nghề.
16
Tóm lại, giáo dục đào tạo là xu hướng và đòi hỏi ngày càng cấp bách
không chỉ ở nước ta mà ở các nước đang phát triển cũng vậy. Trong thời
đại ngày nay, khi thông tin, khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và đã nảy sinh nhiều ngành nghề mới cũng như làm nhiều
ngành nghề cũ bị co hẹp hoặc thậm chí biến mất. Một hướng giải quyết
khả thi là Nhà nước nên có chính sách quy định các doanh nghiệp phải có
trách nhiệm đào tạo lại không chỉ số người còn làm việc mà cả với đố
người sẽ bị sa thải do không còn phù hợp với công việc ở doanh nghiệp, để
số người này vẫn còn cơ hội tìm việc làm mới.
5- Những thành tích đã đạt được của việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đã tác động và làm
biến đổi mạnh mẽ lao động xã hội theo hướng tăng tỷ trọng của lao động
trí tuệ, giảm bớt các hoạt động chân tay, làm cho lao động trí tuệ trở thành
hoạt động cơ bản của con người. Việc ứng dụng ngày càng rộng rãi tri
thức vào sản xuất và tổ chức lao động đã làm cho tri thức nhanh chóng trở
thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất, thành nguồn lực kinh tế cơ bản và
chủ yếu. Vai trò của các yếu tố sản xuất truyền thống như đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, vốn…dẫu không mất đi song đã trở thành thứ yếu.
Các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy chỉ một phần nhỏ của sự tăng
trưởng có thể giải thích bởi đầu tư vào vốn, còn phần quan trọng của tăng
trưởng gắn liền với chất lượng lao động.
Trong những năm chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, người dân
được tự do kinh doanh những lĩnh vực pháp luật không cấm; trong sinh
hoạt tư tưởng, người dân cũng được tự do thảo luận hơn rất nhiều nhiều so
với trước; dân chủ ở cơ sở được thể chế hoá đã có tác dụng tích cực; sự
thảo luận và đối thoại trong Quốc hội thẳng thắn, công khai; sự khiếu kiện
của dân được giải quyết kịp thời hơn; nhân dân được tham gia trực tiếp vào
17
những vấn đề trọng đại của đất nước. Điều này chứng tỏ nguồn nhân lực
của nước ta có trình độ ngày càng được khẳng định và được trọng dụng.
Những thành tích của giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đào tạo
nguồn nhân lực nói riêng là to lớn nhờ đó mà mặc dù một số chỉ tiêu khác
như thu nhập bình quân đầu người chưa cao nhưng Việt Nam vẫn có chỉ số
HDI tương đối cao, được xếp vào các nước có trình độ phát triển trung
bình. Tuy nhiên, so với những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội thì giáo
dục đào tạo của nước ta hiện nay còn chưa đáp ứng được. Những phân tích
trên đây cho thấy giáo dục đào tạo cần và có thể giúp cho việc giải quyết
những mâu thuẫn giữa cung và cầu không chỉ về số lượng mà cả về chất
lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
nước ta hiện nay.
6-Xây dựng môi trường xã hội tạo điều kiện để phát huy yếu tố con người.
Con người là chủ thể đồng thời là sản phẩm của sự vận động xã hội.
Vì vậy muốn phát huy được yếu tố con người cần phải có môi trường thuận
lợi. Việc giải phóng lực lượng sản xuất được thực hiện trước tiên và chủ
yếu là xoá bỏ những cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích cực chủ động
sáng tạo của người lao động đồng thời phải xây dựng một cơ chế mới bảo
đảm thực hiện giải phóng người lao động về mọi mặt.
Cần xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực đặc
biệt là người tài. Đây là điều kiện quan trọng, trước hết nguồn nhân lực đào
tạo tốt có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp với nguyên tắc phân phôí theo
lao động đảm bảo công bằng trong kinh tế.
III-Kết luận
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để chiến lược phát triển treo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi đến thắng lợi, chúng ta phải lấy
18
nguồn lực con người Việt Nam - “ nguồn lực quan trọng nhất ” trong các
nguồn lực, nguồn lực nội sinh - làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó,
chúng ta cần phải tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế
nhanh với tiến bộ xã hội, đảm bảo công vụ và quyền lợi công dân, cải thiện
và nâng chất lẫn tinh thần; giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích lâu
dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích tập thể, lợi ích
cá nhân; không ngừng nâng cao trình độ học vấn, văn hoá cho họ trên cơ
sở xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Các tài liệu tham khảo:
-Triết học Mác-Lê nin-Nhà xuất bản chính trị quốc gia
-Địa lý kinh tế Việt Nam
-Kinh tế chính trị
-Tạp trí những vấn đề kinh tế thế giới, số 1/1999
-Tạp chí cộng sản, số 21,15
-Triết học số 3(115)
19
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.pdf