Tài liệu Luận văn Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Luận văn
Đề tài: Nguồn nhân lực công
nghiệp phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Lời mở đầu
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta cần
rất nhiều các loại nguồn lực. Và một trong những ngồn lưc quan trọng nhất
giúp quá trình CNH,HĐH diễn ra nhanh và thành công đó là nguồn nhân
lực. Nước ta thực hiện CNH,HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra nhanh
thì nguồn nhân lực có tri thức luôn là dòi hỏi khách quan.
Nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo kịp các nước tiên tiến trên thế
giới. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có hai yếu tố
cơ bản gắn bó với nhau, đó là kĩ thuật hiện đại và con người hiện đại.Vì thế
phải đổi mới toàn diện con người, kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Việc đổi
mới kỹ thuật công nghệ diễn ra tương đối dễ dàng hơn khi chúng ta tạo được
nguồn vốn (kể cả đi vay) và dùng vốn đó để nhập khẩu kỹ thuật công
nghệ(KT-CN) hiện đạ...
30 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1084 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề tài: Nguồn nhân lực công
nghiệp phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Lời mở đầu
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta cần
rất nhiều các loại nguồn lực. Và một trong những ngồn lưc quan trọng nhất
giúp quá trình CNH,HĐH diễn ra nhanh và thành công đó là nguồn nhân
lực. Nước ta thực hiện CNH,HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra nhanh
thì nguồn nhân lực có tri thức luôn là dòi hỏi khách quan.
Nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo kịp các nước tiên tiến trên thế
giới. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có hai yếu tố
cơ bản gắn bó với nhau, đó là kĩ thuật hiện đại và con người hiện đại.Vì thế
phải đổi mới toàn diện con người, kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Việc đổi
mới kỹ thuật công nghệ diễn ra tương đối dễ dàng hơn khi chúng ta tạo được
nguồn vốn (kể cả đi vay) và dùng vốn đó để nhập khẩu kỹ thuật công
nghệ(KT-CN) hiện đại từ các nước tiên tiến.Đối với người lao động không
thể nhập khẩu được.Muốn có sự tương thức,đồng bộ giữa KT-CN và con
người đòi hỏi không chỉ số lượng và không phải chủ yếu ở số lượng mà ở
chất lượng con người sử dụng phương tiện KT-CN đó .Vì vậy nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực hay đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong
những yêu cầu cấp bách để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Chính vì
vậy vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải thường xuyên chăm lo, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã
hội.
Vì vậy việc chọn đề tài: “Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ được nguồn nhân lực hiện
tại để có hướng phát triển đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH
của Đảng , Nhà nước và toàn dân ta.
Mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực
hiện nay và đưa ra những quan điểm và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn thể những người lao động
hoạt động trong tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế đặc biệt là nguồn lao
động có trình độ cao. Bởi đây là nguồn lao động quan trọng nhất đối với sự
nghiệp CNH,HĐH của đất nước.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để từ đó rút ra nhưng nhận định, nhận
xét đúng đắn về tình hình nguồn nhân lực.
Phần thứ nhất: Nguồn nhân lực.
I.Các khái niệm về nguồn nhân lực.
1. Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội,
nó bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm
khuyết hoặc dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội ,là khả năng lao động của xã hội , được hiểu theo nghĩa hẹp
hơn ,bao gồm những nhóm dân cư trong độ tuổi lao động ,có khả năng lao
động.
Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những
con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động,là tổng thể các yếu tố về
thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động.Với cách hiểu
này, nguồn nhân lực bao gồm những nguời từ bắt đầu bước vào tuổi lao
động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định qui mô nguồn nhân
lực.Nguồn nhân lực còn được xem xét trên giác độ số lượng và chất
lượng.Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng
nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ
tiêu qui mô và tốc độ tăng dân số. Qui mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân
số càng cao thì dẫn đến qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và
ngược lại.Tuy nhiên mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện
sau một thời gian khoảng 15 năm(vì lúc đó con người mới bước vào độ tuổi
lao động).
2.Nguồn nhân lực công nghiệp.
Nguồn nhân lực công nghiệp có thể hiểu là những người đang làm
việc, đang hoạt động trong những nghành công nghiệp.
Đối với Việt Nam mục tiêu tới năm 2020 hoàn thành công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn lực công nghiệp được quan tâm hàng
đầu. Chúng ta tập chung mọi nguồn lực cho phát triển các nghành công
nghiệp hàng đầu cũng như các nghành công nghiệp nặng. Việc đầu tư cơ sở
vật chất cho CNH,HĐH đất nước phải song song với việc đầu tư cho nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp. Với sự phát triển mạnh của các nghành công
nghiệp thì ngày càng thu hút nhiều lao động hoạt động trong lĩnh vực này, tỷ
trọng lao động trong các ngành công nghiệp ngày càng tăng cao. Tuy nhiên
nguồn nhân lực của chúng ta trình độ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc CNH,HĐH. Muốn CNH,HĐH thành công thì nguồn nhân lực
trong các nghành công nghiệp không những đông về số lượng mà phải có
chất lượng cao.
II. Thực trạng và vai trò nguồn nhân lực của Việt Nam.
1.Thực trạng của nguồn nhân lực Việt Nam.
a. Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam.
Việt Nam là một trong những nước đông dân số với quy mô
dân số đứng thứ hai Đông nam á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất
nước với cơ cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 chiếm 60%
trong tổng số 35,9 triệu người lao động: nguần bổ sung hàng năm là 3%-tức
khoảng 1,24 triệu người. Theo tổng điều tra dân số ngày 1-4-1999, quy mô
dân số nước ta là 76,3 triệu người và dự tính đến năm 2010 quy mô dân số
nước ta vào khoảng 95 triệuvà số người trong tuổi lao động gần 58 triệu,
chiếm 60,7% dân số. Dự báo thời kỳ 2001 đến 2010 cần tạo thêm chỗ làm
việc mới cho khoảng 11-12 triệu lao động (chưa kể số lao đông tồn động các
năm chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ
làm việc mới. Tính đến 1/7/2000, tổng lực lượng lao động cả nước có
38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình
quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi
tốc độ tăng bình quân hàng năm của thời kỳ này là 1,5% một năm.
So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với
Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế
giới thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt
Nam xếp thứ hai, chỉ sau Inđônêxia. điều đó được thể hiện qua bảng sau:
Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN
Nước Dânsố Tỷ lệ tăng dân số(%) Lực lượng lao động
1994
(Triệu
người)
1960-1992 1992-2000
1994
(triệu
người)
% tăng
giai đoạn
90-94
%
trong
dân
số
Brunây 0,284 3,8 2,1 0,112 ---
Inđônêxia 192,2 2,2 1,7 81,2 1,1 43
Malaixia 19,5 2,6 2,1 7,85 2,8 38
Philippin 68,6 2,7 2,0 27,48 3,0 56
Thái Lan 59,4 2,4 1,1 32,84 1,1 56
Việt Nam 72,5 2,2 2,1 33,7 2,8 49
Xingapo 2,93 1,7 1,7 1,69 2,9 56
Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người,Nxb Thống kê, Hà Nội,
1995.
Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn
khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân
số. Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm
được tỷ lệ tăng dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia
tăng dân số cao trong khu vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này
dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động trong những năm 90 còn cao ở
phần lớn các nước trong khối: Malaixia là 2,8%; Philippin là 3%; Việt
Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân số nhanh và còn
được duy trì như vậy, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động của Việt Nam
trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh
khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao
động thì đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm
tăng khoảng một triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể
đến số người ngoài độ tuỏi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng
lên, tạo thành một nguần cung cấp về lao động khá dồi dào: cuối năm
1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-1,4 triệu trẻ em (nguần: kim
Ngọc Cương, ''phân tích và dự báo thị trường lao động ở nước ta'', Bộ kế
hoạch và đầu tư, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997, tr.19).
Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số người trong và ngoài độ tuổi
lao động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động
cơ học làm tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay như: số bộ đội giải
ngũ; số lao động đi làm ở các nước Đông Âu, Trung Đông trở về; số người
tỵ nạn ở Thái Lan, Hồng Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi
hương…
Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được
bổ sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những ưu
thế cho Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực
va thế giới.
b. Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng
nguồn nhân lực này.
Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động đã
qua đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân
lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực.
Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước
thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người,
trong đó có 74% công chức có trình độ từ đại học trở lên.
Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thường người ta hay quan
tâm đến số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo hàng năm ở các trường
trung học chuyên nghiệp, trường công nhân kỹ thuật, các trường đại học,
cao đẳng trong quốc gia đó. Bởi đó là con số nói lên số lao động được
đào tạo hàng năm và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia. ở Việt
Nam, số học sinh và sinh viên thuộc các trường trung học chuyên nghiệp,
kỹ thuật, cao đẳng và đại học trong cả nước từ năm 1992 đến năm 1997
(chỉ tính học sinh, sinh viên hệ chính quy) như sau:
Đơn vị tính: 1.000 người
Năm 199
2
199
3
199
4
199
5
199
6
19
97
Trung học chuyên nghiệp 107
,8
119
,0
155
,6
170
,5
172
,4
16
4,1
Số tốt nghiệp 43,
5
44,
9
49,
0
56,
3
59,
3
68,
3
Công nhân kỹ thuật 57,
6
68,
7
74,
7
58,
7
69,
9
10
2,5
Số tốt nghiệp 35,
2
38,
0
64,
9
66,
4
75,
1
70,
6
Cao đẳng, đại học 136
,8
157
,1
203
,3
297
,9
509
,3
66
2,8
Số tốt nghiệp 24,
8
29,
1
36,
9
58,
5
78,
5
74,
1
Nguồn: niên giám thống kê 1998-Nxb Thống kê, 1999, tr342, 345
&349
Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau,
số sinh viên cao đẳng,đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong
khi đó số học sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng
rất chậm và biến đổi bất thường khi lên khi xuống nhất là số công nhân
kỹ thuật. Nếu năm 1994 các trường công nhân kỹ thuật có 74.700 học
sinh, thì năm 1995 còn 58.700 học sinh , song đến năm 1997 lại tăng lên
102.500 học sinh. Chính điều đó tạo nên sự thiếu hụt lớn số công nhân kỹ
thuật và cán bộ có trình độ trung cấp, và ngược lại dẫn tới sự lãng phí
chất xám, bởi sẽ có những sinh viên có trình độ cao đẳng hoặc đại học
đảm nhận những công việc của công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp. Hiện
nay số sinh viên đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2000 số
sinh viên cao đẳng, đại học là gần 1 triệu bằng 1,8 lần năm 1995, vượt dự
kiến kế hoạch 5 năm (1996-2000) là 13% (Lê Quang Trung: biện pháp
cho vấn đề lao động thất nghiệp ở thành thị-Vụ chính sách lao động và
việc làm) và năm học 2001-2002 tổng chỉ tiêu cho các trường cao đẳng,
đại học tăng 5% tức khoảng 160.000 sinh viên, tăng 10.000 sinh viên so
với năm trước.
Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ
thuật, cao đẳng và đại học năm 1992 là 103.500 người, thì đến năm 1996
là 212.900 người và năm 1997 là 213.000 người bổ sung cho nguồn nhân lực của đất
nước . Tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng lực lượng lao động xã hội
tăng lên hằng năm được thể hiện qua bảng sau:
Năm Tỷ lệ lao động được đào tạo/tổng lực lượng lao động xã
hội(%)
1988 9,45
1992 11
1995 13,8
1997 16
Nguồn: dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8-Bộ chính trị.
Tính đến năm 1998, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học
là trên 930.000 người, trong đó khoảng trên 10.000 người là cán bộ có
trình độ trên đại học. đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội.
Số sinh viên tốt nghiệp đại học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị
trên đại học bổ xung vào nguồn nhân lực chất lượng câo. Hàng năm ở
Việt Nam tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trên 1000 dân đang
tăng lên:
Năm Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân
1994 9
1996 11
1997 12
Trong khi đó ở các nước khác là:
Nước Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân
Hàn quốc 52
Singapo 16
Italia 21
Nhật bản 70
Nguồn:Võ Đại Lược-CNH, HĐH ở Việt Nam đến năm 2000. Nxb
KHXH,Hà Nội.
So sánh các số liệu trên ta thấy giữa số lượng nguồn nhân lực được
đào tạo ở Việt Nam so với các nước khác vẫn đang còn khoảng cách khá
xa, chứ chưa nói đến nguồn nhân lực có chất lượng cao. Mặt khác cơ cấu
đào tạo nguồn nhân lực cũng chưa phù hợp, thể hiện ở cỗ một số ngành
được đào tạo ồ ạt như ngành kinh tế, luật trong khi đó các ngành kỹ
thuật, công nghệ tin học, khoa học cơ bản chưa được coi trọng đúng mức.
Do đó, xét cả những điều kiện kinh tế-xã hội lẫn những điều kiện về nguồn
nhân lực cho thấy chúng ta chưa đủ điều kiện để xây dựng nền kinh tế tri
thức, mà chỉ tiếp cận nó trên một số lĩnh vực chúng ta có khả năng.
2.Chất lượng nguồn nhân lực .
Nếu như trong các thập niên trước đây, nhân công nhiều và rẻ được coi
như thế mạnh hàng đầu khi xem xét các lợi thế về nguồn nhân lực thì
trong những năm gần đây, yếu tố chất lượng nguồn nhân lực ngày càng
được nhấn mạnh. Các yếu tố được xem xét trước hết là thể chất, thể lực,
năng lực của nguồn nhân lực.
a. Về trí lực và thể lực.
Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu
tiến bộ, có ý chí và tinh thần tự lực tự cường dân tộc phát triển khá về thể
lực, trí lực, có tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh kiến thức khoa học
công nghệ tiên tiến, hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh cuẩ
ta trong quá trình hội nhập.
Bảng: một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN.
Chỉ tiêu
Thời
gian
Vi
ệt
Na
m
Br
un
ây
Inđô
nêxi
a
Ma
lai
xia
Phi
lip
pin
Thái
Lan
Xinga
po
Tuổi thọ bình quân 1992
63,
4
74 62
70,
4
64,
4
68,7 74,2
Cung cấp calo bình
quân/người
1988-
1990
22
20
28
60
2610
26
70
23
40
2280 3210
Tỷ lệ cung cấp calo
/người so với nhu cầu
tối thiểu(%)
1988-
1990
10
2
- 112
12
4
10
8
100 144
Tỷ lệ được dịch vụ y tế
(%)
1985-
1991
90 96 80 90 75 70 100
Tỷ lê được dùng nước
sạch (%)
1988-
1991
27 95 51 72 82 76 100
Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. Nxb Thống Kê, Hà Nội,
1995.
Bảng: Qua bảng trên ta thấy: các chỉ số của Việt Nam luôn luôn ở mức
thấp, có những chỉ số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên
quan và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, thể lực của người
lao động Việt Nam tất thấp: cung cấp calo bình quân đầu người chỉ có
2220 calo, thấp nhất trong khu vực. Về tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu
người so với nhu cầu tối thiểu, Việt Nam, chỉ cao hơn Thái Lan 100%,
kém Inđônêxia 122%, Xingapo 144%, Philippin 108%, Malaixia 124%.
Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế, chăm sóc sức khoẻ của Việt
Nam cũng còn ở mức thấp. điều đó lý giải phần nào sự hạn chế về mặt
thể lực của nguồn nhân lực của Việt Nam. Cho đến nay, thể lực của
người lao động Việt Nam còn chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền
sản xuất công nghiệp lớn và ở đây đã bộc lộ một trong những yếu điểm
cơ bản của nguồn nhân lực Việt Nam.
Tương quan so sánh về trình độ giáo dục của lực lượng lao động cuả
Việt Nam với các nước ASEAN có thể hình dung được qua các số liệu
trong bảng sau:
Một số chỉ tiêu về giáo dục của các nước ASEAN.
Chỉ tiêu
Thời
gian
Vi
ệt
Na
m
Br
un
ây
Inđô
nêxi
a
Ma
lai
xia
Phi
lip
pin
Thái
Lan
Xi
ng
ap
o
Đại học và sau trung
học(*)
5,1 - - 5 - - 22
Trung học(*) 8,8 - - 48 - - 30
Tiểu học và thấp
hơn(*)
85,
1
- - 47 - - 47
Tỷ lệ người biét chữ từ
15 tuổi trở lên(%)
1992 89 - 84 80 90 94 -
Số năm đi học tính
cho người từ 25 tuổi
trở lên(năm)
1992 4,9 5,0 4,1 5,6 7,6 3,9 4,0
Số cán bộ khoa học kỹ
thuật trên 1000 người
1986-
1991
- 21,
7
12,1 - - 1,2 22,
9
Tỷ lệ chi cho giáo dục
trong GNP(%)
1991 1,6 - 2,5 6,9 2,9 3,8 3,4
GNP bình quân đầu
người cho giáo dục($
Mỹ)
1991 4 - 21,9 51
0,6
21,
46
62,7 48
0,8
(*) Trình độ giáo dục cuả dân số trong độ tuổi lao động (%).
Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người, Nxb Thống kê, Hà Nội,
1995.
Như vậy, bên cạnh một vài chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ
từ 15 tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992, tăng 6% so với năm 11989,
thực trạng trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề đáng lo
ngại: số người mù chữ từ 15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992; trong
toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động, chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và
sau trung học, 8,8% có trình độ trung học; trong tổng số lực lượng lao
động, số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%: năm 1995, trong số 40,2
tiệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật. Một mặt, Việt
Nam đã có những cố gắng không thể không ghi nhân trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, chất lượng nguồn nhân lực nói
riêng như: số học sinh cao đẳng và đại học đã tăng từ 129.600 người năm
1990 lên 279900 người năm 1995, tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm; số
tốt nghiệp đại học từ 20.500 năm1990 tăng lên 58.500 năm 1995; số học
sinh trung học chuyên nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm
1995, số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên
56.300 năm 1995. Chưa kể đến tỷ lệ chi cho giáo dục trong GDP đã tăng
nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993, gần 6% năm 1994.
Nhưng để đạt được mức độ chung như các nước khác ngay trong khối
ASEAN, rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian và công sức,
tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng của
nguồn nhân lực Việt Nam thành hiện thực.
b. Khả năng tư duy của lao động nước ta.
Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất
cập. Từ nền kinh tế nông nghiệp, phong cách, tư duy con người Việt Nam
còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và
quản lý bằng kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ
thế nghề nghiệp và lòng trung thành để đánh giá kết quả lao động và
phân chia thu nhập. Lao động chưa được đào tạo và rèn luyện trong môi
trường sản xuất công nghiệp nên hiệu suất lao động chưa được đề cao và
đánh giá đúng mức. Khi tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại
được thâm nhập và chuyển giao vào Việt Nam thì mâu thuẫn giữa trình
độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật-công nghệ với trình độ lạc hậu của
người sử dụng xuất hiện. Người quản lý, người sử dụng công nghệ thì
không thể tiếp thu, càng không thể khai thác có hiệu quả công nghệ, nên
làm giảm hiệu suất của vốn đầu tư.
Hiện nay, công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành
công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với
thế giới. Các chỉ tiêu chủ yếu về tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu gấp 1,5
đến 2 lần mức chung của thế giới, giá thành sản phẩm cao, năng suất lao
động công nghiệp chỉ đạt 30% mứ trung bình của thế giới( theo số liệu
báo cáo của GS Đặng Hữu tại Hội nghị cán bộ khoa học-công nghệ toàn
quốc ngày 12-2-1995). Số nhân công có trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng
1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân có trình độ bậc 7 chỉ có 4000
người mà đa phần tuổi đã cao. Thiếu công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công
nhân bậc cao là nhân tố trưc tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện
chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công
nghệ.
Hiện nay các nhà công nghệ, công trình sư, kỹ sư thực hành nước ta rất
thiếu, nhất là cán bộ ở các gành công nghệ thông tin, vi điện tử, sinh học
tự động hoá sản xuất... Số cán bộ khoa học thuộc các ngành kỹ thuật liên
quan đến công nghệ chỉ chiếm 11% tổng cán bộ trong cơ chế kinh tế cũ
nên kinh nghiệm, năng lực sáng tạo thực tiễn, khả năng sáng tạo công
nghệ yếu.
c. Sự lạc, non yếu về trình độ của nguồn nhân lực Việt Nam so với nguồn
nhân lực trong khu vực và tế giới.
Trình độ của lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp
lý về cơ cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các
vùng, các thành phần kinh tế. Trình độ non kém, lạc hậu về khoa học
công nghệ, tác phong lao động, kỷ luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị
trường, tính từ chịu trách nhiệm cá nhân thấp ảnh hưởng đến sức cành
tranh của nguồn nhân lực Việt Nam khi hoà nhập vào thị trường nhân lực
tiên tiến của thế giới.
Hiện nay, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, về lâu dài không thể
là lợi thế phát triển của Việt Nam, vì lợi thế nhân công rẻ trên thế giới
đang dần mất đi và thay vào đó là trình độ trí tuệ cao đồng đều của nhân
công.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ, năng lực của các bộ đối tác, sự
sắc sảo mềm dẻo, nhạy bén, linh hoạt trong ngoại giao của cán bộ ảnh
hưởng rất lớn đến lợi ích của những quốc gia. Để giảm được những bất
lợi, tạo ra sự tương đồng trong hoà nhập, cạnh tranh với thị trường nhân
lực khu vực và thế giới, người lao động Việt Nam phải được trang bị các
kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, ngoại ngữ, lao động, kỷ luật, tác
phong lao động và nhận thức đúng đắn mối quan hệ chủ-thợ trong nền
kinh tế thị trường, phải hiểu biết được phong tục tập quán, đặc điểm của
các nước bạn trong cùng thị trường lao động.
Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lao động Việt
Nam cũng bộc lộ những nhược điểm lạc hậu về trình độ kỹ thuật-công
nghệ, kỷ luật và thói quen lao động. Năng lực quản lý kinh tế yếu kém,
tính tùy tiện của người sản xuất nhỏ, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng
chưa cao tạo nên bất lợi và thua thiệt về kinh tế cho phía Việt Nam
2.Vai trò của nguồn nhân lực công nghiệp.
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế
giữa các khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia
đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến
sự quốc tế hoá kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hối sâu
sắc mang tính toàn cầu và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới.
Trong bối cảnh đó, khu vực châu á-Thái Bình Dương đang nổi lên là khu
vực kinh tế năng động nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng là vai trò của nguồn nhân lực.
Nền kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Để có được
nền kinh tế tri thức cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu tư
cho phát triển giáo dục đào tạo. hay nói cách khác phải đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực. Suy cho cùng tri thức là hệ quả, là tất yếu của sự phát triển
nguồn nhân lực. Các nước muốn phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu
tư cho phát triển con người mà cốt lõi là phát triển giáo dục và đào tạo,đặc
biệt là đầu tư phát triển nhân tài. Nhà kinh tế học người Mỹ, ông Garry
Becker-người được giải thưởng Nobel về kinh rế năm 1992, đã khẳng
định:''không có đầu tư nào mang lại nguần lợi lớn như đầu tư cho giáo dục’’
(Nguồn: The Economist 17/10/1992). Nhờ có sự đầu tư cho phát triển nguồn
nhân lực mà nhiều nước chỉ trong một thời gian ngắn đã nhanh chóng trở
thành nước công nghiệp phát triển.
Việt nam là nước đang phát triển có lực lượng sản xuất ở trình độ
thấp, nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm hoàn toàn mới mẻ.
Do vậy, có ý kiến cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay
quá xa và không hiện thực; cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong CNH,
HĐH để làm tiền đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển, kinh tế tri thức
không chỉ bao gồm các ngành mới xuất hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn
cả các ngành truyền thống được cải tạo bằng khoa học công nghệ cao. Do đó
không nên chờ cho đến khi sự nghiệp CNH, HĐH kết thúc mới tiến hành
xây dựng kinh tế tri thức, mà ngay trong giai đoan này, để phát triển và theo
kịp các nước trên thế giới, chúng ta phải đồng thời quan tâm tới những lĩnh
vực mà chúng ta có thể tiếp cận.
Đối với Việt Nam, một đất nước nông nghiệp, rõ dàng chúng ta
không thể xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công
nghiệp phát triển. Thực ra đó là sự tiếp tục quá trình CNH, HĐH đất nước ở
một trình độ cao hơn, dựa trên chất xám của con người. Mặt khác do xuất
phát điểm của lực lượng sản xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở
Việt Nam phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tức mang những đặc
thù của mình. Do đó việc xác định nội dung các ngành kinh tế trong quá
trình CNH, HĐH, chuẩn bị các điều kiện vật chất và con người để tiếp cận
kinh tế tri thức trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cấp, mọi
ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến lược. Trong việc chuẩn bị ấy việc
nghiên cứu thực trạng mạnh, yếu và tìm ra giải pháp phát triển nguồn nhân
lực là quan trọng và cấp bách nhất trong giai đoạn hiện nay.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động
đông và rẻ thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, mà đòi hỏi phải có một
đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lượng lao động
có trình độ chuyên môn cao mà Nhật Bản và các nước Nics (các nước công
nghiệp mới) vận hành có hiệu quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra
nhiều mặt hàng có sức cạnh tranh cao với các nước công nghiệp phát triển
trên thế giới.
Để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là
mục tiêu và động lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những
trong đời sống kinh tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải
quan tâm, nâng cao chất lượng con người, không chỉ với tư cách là người lao
động sản xuất, mà với tư cách là công dân trong xã hội, một cá nhân trong
tập thể, một thành viên trong cộng đồng nhân loại... không thể thực hiện
được công nghiệp hoá, hiện đại hoá nếu không có đội ngũ đông đảo những
công nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên
môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà lãnh đạo, quản
lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng.
Vào những năm 80, quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã trở thành
vấn đề quan tâm đặc biệt ở châu á-Thái Bình Dương. Con người được coi là
yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển. Trong thời đại mới, muốn giải
quyết hài hoà các yếu tố ciung và cầu có liên quan đến chiến lược phất triển
nguồn nhân lực thì cần xem xét khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một
phía. Phải thấy được vai trò sản xuất của nguồn là vấn đề cốt lõi của học
thuyết vốn con người. Và vai trò sản xuất của nguồn nhân lực có quan hệ
chặt chẽ với vai trò tiêu dùng được thể hiện bằng chất lượng cuộc sống. Cơ
chế nối liền hai vai trò là trả công cho người lao động tham gia các hoạt
động kinh tế và thu nhập đầu tư trở lại để nâng cao mức sống của con người
tạo nên khả năng nâng cao mức sống cho toàn xã hội và làm tăng năng suất
lao động... các nước nghèo ở châu á đều nhận thức do tốc độ tăng dân số quá
nhanh nhiều quốc gia coi việc giảm đói nghèo còn quan trọng hơn cả giáo
dục, đó là một thiệt thòi to lớn.
Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu bảo đảm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, an ninh quốc gia và
sự bền vững của môi trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt được tốc
độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả kinh tế-xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự
dựa trên cơ sở công nghiệp hoá, hiện đại hoá. trong đó phải lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững.
Phần thứ hai: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.Khái niệm CNH,HĐH.
Trong thực tiễn hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều quan niệm khác
nhau về phạm trù “Công nghiệp hóa”.
Quan điểm đơn giản nhất cho rằng: “Công nghiệp hoá là đưa đặc tính
công nghiệp cho một hoạt động, trang bị cho một vùng, một nước các nhà
máy, các loại công nghiệp”.
Trong sách báo kinh tế của Liên Xô trước đây tồn tại một định nghĩa
phổ biến cho rằng: “Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả công nghiệp. Đó là sự phát triển của
công nghiệp nặng với ngành trung tâm là công nghiệp chế tạo máy”.
Theo tác giả B.Mazlish thì : “Công nghiệp hoá là một qúa trình được
đánh dấu bằng một sự chuyển động từ một nền kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp”.
Theo tác giả J.Ladriere thì: “Công nghiệp hoá là một quá trình mà các
xã hội ngày nay chuyển từ một kiểu kinh tế từ chủ yếu dựa trên nông nghiệp
với đặc điểm năng suất thấp và tăng trưởng cực kỳ thấp hay bằng không
sang một kiểu kinh tế về cơ bản dựa trên công nghiệp với các đặc điểm năng
suất cao và tăng trưởng tương đối cao”.
Theo Encyclopedic Francáie thì: “Công nghiệp hoá là hoạt động mở
rộng tiến bộ kỹ thuật với sự lùi dần của tính chất thủ công trong sản xuất
hàng hoá và cung cấp dịch vụ”.
Theo tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNICO) thì: “Công
nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận
ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ
cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ
cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những
tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bbộ nền
kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới tiến bộ và kinh tế-xã hội”.
- Hiện đại hóa
Hiện đại hóa: Là một quá trình lâu dài, đầy gian khổ của việc cải biến
một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn mimh cao
hơn, thể hiện đầy đủ hơn những giá trị mà nhân loại vươn tới”.
Một xã hội được thừa nhận là hiện đại hóa là một xã hội có nền kinh
tế phát triển, thể hiện tập trung ở nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung và tính
ra đầu người. Sự tăng trưởng kinh tế này có quan hệ hữu cơ với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Cái cốt lõi của hiện đại hoá kinh tế là tạo ra sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hoá, gắn liền với
đổi mới căn bản về công nghệ, phát triển mạnh mẽ các ngành có hàm lượng
khoa học-công nghệ cao.
Công nghiệp hóa-hiện đại hoá đất nước là quá trình xây dựng đất
nước trở thành nước công nghiệp hiện đại, tỉ trọng sản xuất công nghiệp
chiếm phần lớn trong nền kinh tế quốc dân với nền sản xuất hiện đại, sử
dụng nhiều máy móc, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến với hệ thống cơ
sở hạ tầng hiện đại và được tiến hành trong một thời gian nhất định.
2.Đặc điểm của CNH,HĐH.
Thứ nhất, công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Sở dĩ như vậy là
vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, một số nước
phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức nên
phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ.
Thứ hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Công nghiệp hoá là tất yếu với các nước phát triển nhưng với mỗi
nước mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá là khác nhau.
Thứ ba, Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước. Điều làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay
khác với công nghiệp hoá trong thời kỳ trước đổi mới.
Thứ tư, công nghiệp hoá hiện đại hoá trong nền kinh tế Quốc dân
trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, vì thế mở của nền kinh tế, phát triển các
quan hệ kinh tế Quốc tế là tất yếu đối với nước ta.
3. Nội dung của CNH,HĐH.
a. Nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
- Phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành
tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá, hợp lý và hiệu quả cao.
- Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Những nội dung cụ thể của CNH, HĐH ở nước ta trong những năm trước
mắt.
- Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
- Phát triển công nghiệp.
- Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng
vật chất của nền kinh tế.
- Phát triển nhanh du lịch các ngành dịnh vụ.
- Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Phần thứ ba: Các giải pháp nhằm phát triển nguồn
nhân lực công nghiệp phục vụ CNH,HĐH.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giữ vị trí quyết định đến chất
lượng nguồn nhân lực. Các phương hướng cho vấn đề này là sự cụ thể hoá
nghị quyết Hội nghị Trung ương II khoá VIII về định hướng chiến lược giáo
dục- đào tạo trong thời kỳ CNH_ HĐH. Phát triển nguồn nhân lực là một
phần hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội nhằm tạo ra nguồn
nhân lực trình độ cao để thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước.
Chiến lược nguồn nhân lực phải xác định những mục tiêu ưu tiên, các giải
pháp khả thi, các cơ chế điều hành, các chính sách, các chương trình hoạt
động nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực.
1. Một số quan điểm chủ đạo phát triển nguồn nhân lực.
- Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sự nghiệp CNH-
HĐH ở nước ta. Cùng với khoa học- công nghệ, vốn đầu tư, chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp đối mới
toàn diện kinh tế- xã hội ở nước ta do Đảng ta khởi xướng. Kinh tế nước ta
có khả năng cạnh tranh hay không, có hấp dẫn và thu hút được đầu tư nước
ngoài hay không phụ thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn nhân lực mà
chúng ta có.
- Giáo dục giữ vị trí quyết định phát triển nguồn nhân lực: giáo dục- đào
tạo có nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Quan điểm giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu được khẳng định từ
nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong quá trình phát triển của đất
nước.
-Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo điều kiện phát triển tài
năng. Dù phát triển trong cơ chế thị trường và trong bối cảnh tăng cường
hội nhập quốc tế, giáo dục Việt Nam cần giữ vững định hướng XHCN.
Nguyên tắc này thể hiện chủ yếu trong hai mặt: Thứ nhất, giáo dục có mục
tiêu đào tạo những con người có lý tưởng độc lập tự do và CNXH; thứ hai,
tạo ra sự bình đẳng về cơ hội học tập đại học cho mọi người. Chống khuynh
hướng thương mại hoá trong giáo dục, rút ngắn sự cách biệt về cơ hội tiếp
cận với giáo dục giữa các vùng thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
-Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tiến
bộ khoa học- công nghệ và sự nghiệp củng cố an ninh quốc phòng. Phát
triển nguồn nhân lực phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn, gắn với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, gắn với
nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế, giữa các vùng kinh tế, vùng dân
cư, từng địa phương.
-Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Các doanh nghiệp sử dụng người lao động, người học và mọi tầng
lớp nhân dân có trách nhiệm tham gia góp ý, đóng góp trí tuệ và vật lực cho
sự nghiệp chung đó. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sé tạo ra tiềm lực
về trí tuệ cho đất nước, xây dựng đội ngũ lao động khoa học- công nghệ
trình độ cao và tạo ra động lực cho phát triển kinh tế.
-Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự hội nhập quốc tế và khu vực
trên cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hoá dân tộc. Quốc tế hoá,
hội nhập là xu thế của thời đại chúng ta. Cần tăng cường học tập các kinh
nghiệm quốc tế trong tổ chức đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ sản
xuất, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất thiết bị theo những tiêu chuẩn
quốc tế; đổi mới chương trình, nội dung phương pháp đào tạo theo hưỡng
của các nước tiên tiến; tăng cường khẩ năng của đội ngũ. Tất cả những đổi
mới nói trên cần hợp tác với những nước tiên tiến và sự hỗ trợ của các tổ
chức quốc tế. Tuy nhiên cần tính đến những điều kiện văn hoá, kinh
tế,chính trị và xã hội nước ta để vận dụng cho phù hợp . hoà nhập nhưng
không hoà tan . Chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại và giữ gìn bản
sắc dân tộc .
2 Phương thức phát triển
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải tiếp cận theo hướng , một
mặt phải đảm bảo tỷ lệ cơ cấu nguồn nhân lực, cân đối theo từng giai đoạn
phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của thị trường lao động, mặt khác đáp
ứng về yêu cầu chất lượng .
Do điều kiện đầu tư cho đào tạo và phát triển còn rất hạn chế, nhưng
lại phải đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội với tốc độ cao để đuổi kịp các
nước trong khu vực, mặt khác phải đảm bảo tính công bằng xã hội cho mọi
người, góp phần phát triển hài hoà thành thị và nông thôn. Vì vậy phải phát
triển theo hai hướng mũi nhọn và đại trà:
-Mũi nhọn : đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề, kỹ thuật
viên ( trong đó có một số trình độ đại học/ cao đẳng) đủ khả năng trí tuệ tiếp
cận và sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại .
Theo hướng này bên cạnh việc mở thêm trường mới sẽ hình thành một bộ
phận chất lượng cao của hệ thống, tuy số lượng không nhiều nhưng là tinh
hoa để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và đạt các chuẩn mực về khu
vực và quốc tế , là khâu đột phá để thoát khỏi sự tụt hậu về trình độ nhân lực
hiện nay. Dự kiến có các trường chất lượng cao ở các hành lang kinh tế
trọng điểm nhằm đáp ứng nguồn nhân lực có kỹ thuật cao cho các khu công
nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất ...và bước đầu tính
đến khả năng xuất khẩu lao động .
-Đại trà : mở rộng các loại hình đào tạo nghề nghiệp ngắn hạn, từng
bước phổ cập nghề cho tất cả mọi người lao động bằng cách sớm hình thành
nền giáo dục kỹ thuật trong xã hội . Từng bước đưa giáo dục kỹ thuật tổng
hợp , kỹ thuật ứng dụng vào các trường phổ thông, trang bị kiến thức và kỹ
năng cần thiết . Theo hướng này hình thành các loại hình trung tâm đào tạo
nghề nghiệp, mở rộng các loại hìng trường ngoài công lập nhằm đáp ứng
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế địa phương, công nghiệp hoá nông
thôn , chuyển đổi cơ cấu lao động và giải quyết việc làm cho xã hội .
Kết luận.
Hội nhập là một tất yếu khách quan. Một doanh nghiệp có thể vươn
lên phát triển vững mạnh bằng thời cơ lớn mà hội nhập mang đến nhưng
cũng còn chứa trong đó lại là những thách thức, rủi ro không nhỏ.
Thời cơ lớn nhất có thể nói đó chính là sự bùng nổ của khoa học công
nghệ mà đỉnh cao là kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công
nghệ sinh học…). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể chớp lấy
thành quả công nghệ, nâng cao chất lượng, kỹ năng cũng như khả năng thay
đổi trước môi trường.Nhưng môi trường kinh doanh với sự biến đổi không
ngừng, tổng hợp các yếu tố kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội ,
chính trị luật pháp …thách thức với những khó khăn, phức tạp có khi không
dự tính trước được cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Một
doanh nghiệp với các nhà quản trị giỏi và đội ngũ nhân lực hùng hậu , năng
động, sáng tạo sẽ tạo ra lực nội sinh mạnh mẽ, đề ra được những chiến lược
nhân sự , kinh doanh linh hoạt, hiệu quả và nó có thể thay đổi phương cách
kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp lên tầm cao của thời đại.
Tổ chức nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng ở Việt Nam
còn kém về mọi mặt, mang mặt bằng chung của một nước đang phát triển.
Câu hỏi đặt ra có cách mạng nhận thức và năng lực đổi mới mỗi con người
trong đội ngũ nhân lực được triệt để hay không, biến đội ngũ nhân lực thành
“nhân lực tri thức” sẵn sàng cho hội nhập buộc nhà quản tị và những ai quan
tâm đến vấn đề này suy xét và trở lời bằng hành động .
Vấn đề Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề
cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Trong thời gian ngắn ,
đề tài đã tập trung làm rõ một số
vấn đề sau:
Làm rõ hơn vai trò của yếu tố con người trong sự phát triển kinh tế-
xã hội và sự cần thiết phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Đi sâu phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay từ các mặt trình
độ văn hoá, trình độ chuyên môn, chỉ ra những bất cập hiện nay giữa nguồn
nhân lực với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong những năm vừa qua.
Trên cơ sở dự báo yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về trước mắt, đề tài kiến nghị một số
giải pháp nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
trong thời gian từ nay đến năm 2020
Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn, nội dung phong phú, có liên quan
đến nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội đòi hỏi sự nỗ lực, tập trung của mỗi
ngành, mỗi cấp, một số vấn đề mà đề tài nêu ra sẽ tiếp thu, bổ sung và hoàn
thiện .
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Quản trị nhân sự ( Nguyễn Hữu Thân)
Nhà xuất bản Thống kê
2.Quản trị Nguồn nhân lực (Trần Kim Dung)
Nhà xuất bản Gaío Dục 2001
3.Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Chu Văn Cấp)
Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia 2001
4.Giáo trình Kinh tế lao động (PGS.TS Phạm Đức Thành
Và PTS. Mai Quốc Chánh )
Nhà xất bản Giáo Dục 1998
5. Ngô Đình Giao: “ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa – hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
1994
6.Một số tạp chí kinh tế , tạp chí giáo dục,trang web về nguồn nhân lực phục
vụ CNH,HĐH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.pdf