Tài liệu Luận văn Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN:
Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối
với sự phát triển của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
Mở Đầu
Lợi nhuận là động cơ hay sự thúc đẩy đối với mọi công việc kinh doanh và mọi
cá nhân trong kinh doanh. Phạm trù lợi nhuận nói chung cũng như phạm trù lợi nhuận
gắn với kinh tế thị trường nói riêng đã được biết đến từ thế kỷ XV. Chính những ý
nghĩa lý luận của nó đối với khoa học kinh tế mà nó luôn được quan tâm, luôn được
phát triển. Và như chúng ta đã biết, lý luận Mác là đỉnh cao của sự phát triển ấy. Đứng
trên giác độ của học thuyết này, Mác đã giải quyết mọi mâu thuẫn của nền sản xuất
hàng hóa. Vì vậy, đối với Việt Nam giai đoạn hiện nay, giai đoạn phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, việc vận dụng lý luận về lợi nhuận trong hoạt động kinh tế
mà cụ thể là trong việc nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Tất cả chúng ta đang phải tìm lời giải cho bài toán vận mệnh của Việ...
25 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối
với sự phát triển của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
Mở Đầu
Lợi nhuận là động cơ hay sự thúc đẩy đối với mọi công việc kinh doanh và mọi
cá nhân trong kinh doanh. Phạm trù lợi nhuận nói chung cũng như phạm trù lợi nhuận
gắn với kinh tế thị trường nói riêng đã được biết đến từ thế kỷ XV. Chính những ý
nghĩa lý luận của nó đối với khoa học kinh tế mà nó luôn được quan tâm, luôn được
phát triển. Và như chúng ta đã biết, lý luận Mác là đỉnh cao của sự phát triển ấy. Đứng
trên giác độ của học thuyết này, Mác đã giải quyết mọi mâu thuẫn của nền sản xuất
hàng hóa. Vì vậy, đối với Việt Nam giai đoạn hiện nay, giai đoạn phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, việc vận dụng lý luận về lợi nhuận trong hoạt động kinh tế
mà cụ thể là trong việc nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Tất cả chúng ta đang phải tìm lời giải cho bài toán vận mệnh của Việt Nam:
Làm thế nào để tăng trưởng nhanh, thành công trong cạnh tranh quốc tế khi trình độ
của ta còn thấp, nguồn lực của ta còn hạn chế?
Chính vì vậy mà đề tài: "Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát
triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" đã thu hút sự chú ý cũng như đã gây
cho em nhiều hứng thú.
Theo em đây là một đề tài hết sức thiết thực trong công cuộc công nghiệp hoá
hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
nội dung
1.Những vấn đề lý luận chung
1.1. Quan điểm về lợi nhuận của các nhà kinh tế học trước C.Mac
Chủ nghĩa trọng thương là lý luận đầu tiên của kinh tế chính trị, là hệ tư
tưởng kinh tế của giai cấp tư sản, là cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản trong điều
kiện tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản, tìm nguồn gốc của cải trong thương nghiệp, bảo
vệ lợi ích của tư bản thương nghiệp và giải thích cho sự ra đời của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa trọng thương ra đời và phát triển từ khoảng giữa thế
kỷ XV đến giữa thế kỷ XII ở Tây Âu.
Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì lợi nhuận là kết quả của việc
trao đổi không ngang giá. Nói cách khác, lợi nhuận được sinh ra trong lưu thông. Họ
coi mục đích của hoạt động kinh tế là lợi nhuận và coi lợi nhuận là động lực của các
hoạt động kinh tế. Đó chính là cơ sở của lý luận về cơ chế thị trường sau này.
Hạn chế của chủ nghĩa trọng thương chưa thấy được lợi nhuận còn được sinh ra
trong sản xuất. Theo như C.Mac nhận xét trong cuốn tư bản:” học thuyết đó chỉ nắm
cái vẻ bên ngoài của những hiện tượng”.
Chủ nghĩa trọng nông ra đời vào cuối thế kỷ XVIII ở Pháp do hậu quả thực
hiện chính sách kinh tế của Kolbert làm cho nền nông nghiệp Pháp bị đình đốn, nợ nần
cha truyền con nối, nông dân đói khát, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nghiêm
trọng. Do đó đã xuất hiện một lý luận phê phán gay gắt chủ nghĩa trọng thương, tìm
nguồn gốc của cải trong sản xuất nông nghiệp, khuyến khích phát triển nông nghiệp.
Chủ nghĩa trọng nông đề cập đến sản phẩm thuần tuý hay sản phẩm ròng là sự chênh
lệch giữa giá trị của nông sản và chi phí sản xuất nông nghiệp (gồm giống và tiền
lương).
Hạn chế: Chỉ có sản xuất nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý, mới là
nguồn gốc làm giàu cho quốc gia, muốn quốc gia giàu có phải phát triển nông nghiệp.
Tức là họ mới chỉ nhìn thấy hình thái địa tô (R) mà trên thực tế giá trị thặng dư bao
gồm: lợi nhuận(p) – lợi nhuận bình quân ( )
lợi tức (z) và địa tô (r)
Chủ nghĩa trọng nông cho rằng nông nghiệp có được sự trợ giúp của tự nhiên
làm tăng về chất tạo ra chất mới và do đó tạo ra sản phẩm thuần tuý. Công nghiệp chỉ
đơn thuần chế biến lại những sản phẩm của nông nghiệp. Công nghiệp không những
không có lợi mà còn có hại vì trong quá trình sản xuất có những sản phẩm sẽ bị lãng
phí.
Trường phái cổ điển (kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh)
Vào cuối thế kỷ XVII ở Anh chủ nghĩa trọng thương đã tích luỹ được một khối
lượng tiền tạo được để phát triển sản xuất. Do đó lợi nhuận do sản xuất đem lại ngày
càng tăng còn lợi nhuận do thương nghiệp đem lại có xu hướng giảm vì thị trường
ngoài nước đã khai thác hết. Do đó chủ nghĩa trọng thương bị suy đồi và xuất hiện lý
luận mới nhằm kích thích phát triển sản xuất là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh.
Theo W.Petty (1623-1687), ông chỉ nhìn thấy hình thái địa tô là sự chênh lệch
giữa giá trị của sản phẩm và chi phí của sản xuất. Tuy vậy, theo Mac nhận xét, W.Petty
là người đã nêu ra mầm mống của lý luận về chế độ bóc lột, dự đoán đúng bản chất của
giá trị thặng dư. Sai lầm của ông là đã đồng nhất địa tô với giá trị thặng dư (thực tế địa
tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư).
Theo A.Smith (1723-1790), lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm
lao động của công nhân. Lao động của công nhân tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận thuộc
về nhà tư bản, lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. Ông thấy
được xu hướng lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm. Ông đã
thấy được địa tô, lợi tức, lợi nhuận là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư
nhưng lại không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Ông cho
rằng lợi nhuận do toàn bộ tư bản đẻ ra. Do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và
lưu thông nên ông cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực lưu
thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau. Tuy nhiên, mặt tích cực mà A.Smith đã đạt được –
theo như C.Mac đánh giá- A.Smith đã nêu được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư
là đẻ ra từ lao động.
Theo D.Ricardo (1772-1823), lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công,
là lao động không được trả công của công nhân. Ông chưa biết đến phạm trù giá trị
thặng dư nhưng nhất quán quan điểm cho rằng giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn số
tiền mà họ nhận được. Ông đã thấy được xu hướng hình thành lợi nhuận bình quân
nhưng lại chưa hiểu được giá cả sản xuất (giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận
bình quân).
Trường phái tầm thường: Vào đầu thế kỷ 19 do cuộc cách mạng công
nghiệp hoàn thành, giai cấp tư sản thống trị xã hội nhưng bắt đầu xuất hiện khủng
hoảng kinh tế, giai cấp vô sản bị bần cùng hoá. Thời kỳ này bắt đầu xuất hiện lý luận
chủ nghĩa xã hội không tưởng do đó giai cấp tư sản cần có một lý luận để chống lại chủ
nghĩa xã hội không tưởng và bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Kinh tế chính trị học tư sản tầm
thường xuất hiện.
Thomas Robert Malthus (1766-1834), ông cho rằng lợi nhuận là hoạt động thêm
vào giá cả (giá cả = chi phí sản xuất + lợi nhuận). Malthus phủ nhận vai trò của lao
động là nguồn gốc tạo ra lợi nhuận và coi lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác của giá trị.
Từ đó ông giải thích lợi nhuận như là khoản thặng dư ngoài số lao động đã hao phí để
sản xuất hàng hóa. Người trả tiền cho khoản lợi nhuận là giai cấp quý tộc địa chủ. Tức
là ông đã biện hộ cho giai cấp thống trị: lợi nhuận không phải do bóc lột (điều này có
thể hiểu vì ông là con út của một gia đình quý tộc).
Jean.Baptiste Say (1766-1832), ông cũng biện hộ cho chủ nghĩa tư bản. Ông cho
rằng chủ nghĩa tư bản không có bóc lột. Ông thấy lợi nhuận là do tư bản sinh ra, đó là
thứ tiền công cao cho công tác lãnh đạo và quản lý của nhà tư bản. Còn những người
công nhân làm việc thô kệch hiển nhiên sẽ hưởng lương ít. Theo C.Mac đánh giá thì
vai trò quản lý của nhà tư bản giống như “nhạc trưởng” của dàn nhạc, lao động quản lý
và lãnh đạo là lao động phức tạp nên nhạc trưởng được hưởng lương cao là đương
nhiên nhưng toàn bộ tiền lương làm chức năng quản lý không phải là toàn bộ lợi
nhuận.
Trường phái tiểu tư sản: Vào đầu thế kỷ 19 giai cấp tư sản thống trị xã hội,
sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ làm cho giai cấp công nhân bị bần
cùng hoá, khủng hoảng, thất nghiệp gia tăng. Những người sản xuất nhỏ bị phá sản
hàng loạt do đó xuất hiện lý luận phê phán chủ nghĩa tư bản và muốn quay lại sản xuất
nhỏ.
J.Simondi cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ từ sản phẩm lao động, đó là thu
nhập không lao động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, là tai hoạ kinh tế của giai
cấp vô sản. Ông cho rằng việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá huỷ
những tư bản cố định, bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp.
Hạn chế: ông lặp lại luận điểm của A.Smith về lợi nhuận doanh nghiệp, nghi ngờ ý
kiến đúng đắn của Ricardo về lợi nhuận tư bản, ông không hiểu nguồn gốc của địa tô
tuyệt đối.
1.2. Quan điểm về lợi nhuận của C.Mac
Như chúng ta đã biết giá trị hàng hoá = c+v+m . Trong đó c là tư liệu sản xuất ,
v là sức lao động, m là giá trị thặng dư. Nhà tư bản phải bỏ ra một khoản chi phí để
mua tư liệu sản xuất c và mua sức lao động v. Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa(k) k=c+v .Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị của hàng hoá khác
nhau cơ bản về lượng và về chất:
Về chất : chi phí nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá được đo bằng chi phí
tư bản . Còn giá trị hàng hoá là chi phí thực tế để sản xuất ra nó được đo bằng chi phí
lao động .Vì vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thấp hơn giá trị hàng hoá.
Về lượng : chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là bộ phận giá trị tư bản tiêu
dùng đã chuyển vào sản phẩm nên bao giờ nó cũng nhỏ hơn tổng số tư bản ứng ra ban
đầu (k).Khi nghiên cứu C.Mac thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong một
năm nên tổng tư bản ứng trước và chi phí sản xuất bằng nhau về lượng và cùng kí hiệu
là (c+v).
Khái niệm CFSX một mặt biểu thị tính chất đặc thù của sản xuất tư bản chủ
nghĩa (vì chỉ trong TBCN thực thể của giá trị mới bị che lấp bởi chi phí tư bản).Mặt
khác, chi phí sản xuất còn được gọi là giá thành sản xuất(vì trong bất cứ nền sản xuất
hàng hoá nào, sau khi thực hiện giá trị hàng hoá đều phải mua lại những yếu tố sản
xuất đã tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hoá).Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường,
việc tiết kiệm chi phí lao động sống và lao động quá khứ để giảm giá thành sản phẩm
bằng các biện pháp kinh tế, kĩ thuật và tổ chức quản lý là yêu cầu thiết thân mà mọi
chủ thể kinh doanh đều phải quan tâm thường xuyên.
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất TBCN nên khi bán
hàng hoá theo giá thị trường (bằng giá trị của hàng hoá), các nhà tư bản thu được một
khoản tiền lời gọi là lợi nhuận, kí hiệu p.
So sánh p và m cho thấy :
Về lượng : nếu cung bằng cầu thì giá cả hàng hoá bán ra bằng giá trị của nó
thì số lượng p thu được bằng số lượng giá trị thặng dư .Nếu cung nhỏ hơn hoặc lớn hơn
cầu thì giá cả hàng hoá lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị của nó thì từng tư bản cá biệt có
thể thu được một lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn m.Nhưng trong toàn xã hội tổng giá
cả bằng tổng giá trị hàng hoá, tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư .
Về chất: m là bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong lĩnh
vực sản xuất dôi ra ngoài phần bù lại giá trị tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho công
nhân, còn p là hình thức biểu hiện bên ngoài của m, là m khi nó được quan niệm là con
đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh
doanh.
C.Mac viết “giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của
giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng
lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được lao động chứa đựng
trong hàng hoá”.
Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa tư bản và
lao động, vì nó làm cho người ta tưởng rằng m không phải chỉ do lao động làm thuê tạo
ra.Thực chất, p và m cũng là một.Lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hoá
của giá trị thặng dư.
Tóm lại p là hình thái chuyển hoá của m do lao động sống làm ra , được quan
niệm là do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra.
Khi m chuyển hoá thành p thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành chi phí sản
xuất TBCN cộng p : w=c+v+m w=k+p
Khi m chuyển hoá thành p thì tỷ xuất giá trị thặng dư cũng chuyển hoá thành
tỷ xuất lợi nhuận p’ :
m’ = m/v x 100% => p’ = p/(c+v) x 100%
p’ là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận với toàn bộ tư bản ứng ra để sản
xuất kinh doanh.
p’ hàng năm = p/k x 100%
P’ và m’ có sự khác nhau về lượng và về chất :
Về lượng : p’ bao giờ cũng nhỏ hơn m’ .
Về chất :
m’ biểu hiện mức độ bóc lột của chủ tư bản đối với lao động còn p’ chỉ nói lên
mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản .
m’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống, còn p’ là chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn đầu tư hàng năm của một đơn vị sản xuất kinh doanh
.
Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất giá trị thặng dư m’ :
Theo công thức: p’= m/(c+v) x 100%
Mà m’= m/v x 100% do đó p’= m’ x v/(c+v) x 100% (*)
p’ là hình thái chuyển hoá của m’ nên giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc.
Theo (*) nếu v/(c+v) không đổi thì p’ tỷ lệ với m’ do đó những biện pháp nâng
cao m’ cũng là những biện pháp nâng cao p’.
Tốc độ chu chuyển tư bản n : nếu n tăng thì khối lượng tư bản hoạt động
trong năm sẽ lớn làm cho khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng do đó p’ hàng năm
tăng. Như vậy, p’ tỷ lệ với số vòng chu chuyển và tỷ lệ nghịch với thời gian chu
chuyển của tư bản. Do đó, để nâng cao p’, các nhà tư bản đều tìm mọi biện pháp rút
ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông hàng hoá của mình.
Tiết kiệm tư bản bất biến c :
Vì p’= m/(c+v) nếu m, v không đổi thì p’ vận động ngược chiều với c.Vì thế, để
nâng cao p’, các nhà tư bản tìm mọi cách tiết kiệm tư bản bất biến như : sử dụng máy
móc, thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất ; thay
nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền ; giảm chi tiêu để bảo hiểm lao động, bảo
vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng, tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải
trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội để sản xuất hàng hoá.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v) : là tỷ số giữa giá trị tư bản bất biến c với tư
bản khả biến v. Sự thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản có ảnh hưởng đến p’:
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng làm cho p’ giảm đồng thời làm khối lượng lợi
nhuận tăng . CacMac gọi đó là hình thức biểu hiện tính chất hai mặt của quy luật tỷ
suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Để ngăn trở sự giảm xuống của tỷ suất lợi
nhuận p’ :
+) tăng mức độ bóc lột sức lao động làm cho các nhà tư bản nâng cao được tỷ
suất giá trị thặng dư và do đó sẽ cản trở sự giảm p’ do đó cấu tạo hữu cơ của tư bản
tăng.
+) hạ thấp tiền công xuống dưới giá trị sức lao động sẽ giảm bớt phần lao động
được trả công do đó làm tăng phần lao động không công và giảm được lượng tư bản
khả biến ứng trước v.
+) hạ giá cả các yếu tố tư bản bất biến c. Giá tư liệu sản xuất giảm làm cho cấu
tạo giá trị của tư bản tăng với mức thấp hơn mức tăng của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Do đó, p’giảm ít hơn mức tăng của (c/v).
+) nhân khẩu thừa tương đối tận dụng được lượng nhân công rẻ mạt hoặc thu
hút số lao động dư thừa ở các ngành công nghiệp có cấu tạo hữu cơ tư bản cao. Nhờ đó
mà một số xí nghiệp cũ hay có cấu tạo hữu cơ tư bản thấp hơn mức trung bình có thể
thu được tỷ suất lợi nhuận cao.
+) hoạt động ngoại thương có thể mua được tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt
rẻ làm giảm tư bản bất biến c và tư bản khả biến v. Các nhà tư bản có thể thu lợi nhuận
cao hơn kinh doanh trong nước, nhờ đó tăng được tỷ suất lợi nhuận.
+) tư bản cổ phần : là tư bản được đem đầu tư vào các xí nghiệp sản xuất lớn
dưới hình thức tư bản cổ phần và chỉ đọc hưởng lợi tức cổ phần. Các tư bản cổ phần
này không tham gia vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận chung, vì lợi tức cổ phần
của họ thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác
nhau nhằm giành giật nơi đầu tư có lợi nhất đã hình thành lợi nhuận bình quân và giá
cả sản xuất. Do trong các ngành sản xuất khác nhau, những nhân tố ảnh hưởng đến p’
mỗi ngành không giống nhau, kết quả là p’ thu được không bằng nhau. Các nhà tư bản
theo đó mà sẽ kinh doanh ở những ngành có p’ cao làm thay đổi p’ cá biệt vốn có của
các ngành. Do đó, trong một thời gian nhất định, p’ các ngành xấp xỉ bằng nhau, hình
thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành sản xuất khác nhau.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả những tỷ suất lợi
nhuận khác nhau đó :
P’ bình quân = (p1’+….+pn’)/n
Sau khi xác định được p’ bình quân có thể tính được p bình quân :
pbình quân =
P bình quân che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, vì bất cứ tư bản đầu tư
vào ngành nào, nếu có khối lượng ngang nhau, rốt cuộc cũng thu được lợi nhuận bằng
nhau. Nó không có quan hệ gì với khối lượng giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo
ra. Trên thực tế, p bình quân chỉ là giá trị thặng dư được phân phối giữa các ngành sản
xuất khác nhau tương ứng với số tư bản đầu tư của mỗi nhà tư bản một cách tự phát.
Xét chung trong toàn xã hội : tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư.
Theo Mac : lợi nhuận bình quân phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong
việc đấu tranh phân chia giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra. Nó vạch rõ toàn
bộ sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân.
Khi lợi nhuận chuyển hoá thành p bình quân thì giá trị hàng hoá chuyển hoá
thành giá cả sản xuất :
W = c+v+m chuyển thành gcsx = k+pbình quân
Khi đó quy luật giá trị có hình thức biểu hiện là quy luật giá cả sản xuất, còn
quy luật giá trị thặng dư có hình thức biểu hiện là quy luật lợi nhuận bình quân.
Chúng ta đã biết m và p không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có nguồn
gốc từ lao động thặng dư. Đứng về một góc cạnh nào đó thì chính m biểu hiện cho sự
bóc lột và chứng minh công thức mâu thuẫn của tư bản một cách chính xác, khoa học
nhưng nó lại được che dấu bởi phạm trù lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản
dưới các hình thức sau:
Lợi nhuận công nghiệp : về bản chất lợi nhuận công nghiệp là phần giá trị do
người công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần giá trị này bán trên thị
trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất.Đây là hình thái dễ thấy
nhất, gần nhất với m.Lợi nhuận công nghiệp là hình thức chung nhất của các hình thức
p, là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất .
Lợi nhuận thương nghiệp : trong lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị
nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá
được bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp chính là thực hiện khâu trên của tư bản
chủ nghĩa, chính vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà tư bản công nghiệp
kiếm được.Về thực chất thì tư bản thương nghiệp là một phần m dược sáng tạo ra trong
quá trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp.
Lợi tức cho vay : đây là hình thức nhà tư bản này cho nhà tư bản khác vay
một số tiền tạm thời nhàn rỗi của mình . Lợi tức là cái giá mà nhà tư bản hoạt động
phải trả cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được sử dụng tạm thời khoản tư bản
tiền tệ của người đó. Bản chất của lợi tức là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản
hoạt động thu được nhờ tư bản cho vay trả cho nhà tư bản cho vay vốn , tức là một
phần lợi nhuận bình quân . Xét ở một góc cạnh nào đó , nhà tư bản cho vay cũng là nhà
tư bản kinh doanh hàng hoá nhưng là hàng hoá đặc biệt : tiền tệ . Lợi tức ở đây được
hiểu chính là lợi nhuận của tư bản cho vay.
Lợi nhuận ngân hàng : lợi nhuận ngân hàng là khoản chênh lệch giữa lợi tức
cho vay và lợi tức tiền gửi của ngân hàng sau khi khấu trừ các chi phí hoạt động . Về
bản chất , tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động , vì vậy phần lợi nhuận do tư bản ngân
hàng tạo ra cũng tham ra vào quá trình cạnh tranh với các ngành sản xuất khác . Vì vậy
khoản lợi nhuận mà tư bản ngân hàng nhận được cũng là lợi nhuận bình quân.
Địa tô : địa tô TBCN là khoản tiền mà nhà tư bản phải trả cho địa chủ- người
sở hữu ruộng đất - để được sử dụng trong một thời gian nhất định. Địa tô là một bộ
phận lợi nhuận siêu nghạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (là bộ
phận m sau khi trừ đi lợi nhuận bình quân) và do nhà tư bản thuê đất trả cho người sở
hữu ruộng đất.
1.3. Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế học mới
A.Marshall : lợi nhuận là thứ tiền lương cao.
J.Keynes : lợi nhuận là hiệu quả của đầu tư tư bản.
Samellson : lợi nhuận là kết quả của doanh thu- chi phí . Theo ông, lợi nhuận
vừa là động lực vừa là mục đích, lợi nhuận sẽ lôi kéo người kinh doanh vào những mặt
hàng có lợi nhuận cao bỏ trống những hàng hoá cho lợi nhuận thấp hoặc không lợi
nhuận . Cách duy nhất để những nhà kinh doanh cạnh tranh được giá cả và thu lợi
nhuận cao là giảm mức chi phí sản xuất đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những
phương pháp sản xuất có hiệu quả , công nghệ hiện đại .
Hạn chế chung đó là các nhà kinh tế học mới mới chỉ dừng lại phân tích lợi
nhuận về mặt lượng .
2. Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện
nay
2.1.Vài nét về kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ đại hội đảng VI (12/1986) đảng và nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền
kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế này phát
huy vai trò điều tiết của thị trường, từng bước hình thành một thị trường cạnh tranh làm
cho hàng hoá lưu thông, cung cầu cân đối, giá cả ổn định…Nền kinh tế hàng hoá vận
hành theo cơ chế thị trường là nền kinh tế trong đó những vấn đề : sản xuất cái gì ? sản
xuất như thế nào ? sản xuất cho ai? được giải quyết thông qua thị trường .
Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự
chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi
nhuận. Nhân tố cơ bản trong cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Cạnh
tranh là môi trường, lợi nhuận là động lực. Đảng ta chủ trương cạnh tranh lành mạnh
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tế qua hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể . Mặc dù bên cạnh đó vẫn có nhiều hạn chế song cùng
với sự quản lý của nhà nước, kinh tế chính trị xã hội dần dần được ổn định.
2.2. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
Xã hội loài người đã chuyển từ hình thái kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá
và từ kinh tế hàng hoá chuyển lên hình thái kinh tế thị trường . Đó là những quá trình
mang tính tất yếu lịch sử, bởi con người luôn luôn mong muốn thoả mãn một cách cao
nhất nhu cầu của mình, trong đó có nhu cầu lợi nhuận trong kinh doanh. Tuy nhiên,
cùng một hành vi tối đa hoá lợi nhuận nhưng không hoàn toàn giống nhau trong XHCN
và TBCN.
2.2.1. Phân biệt lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN và TBCN
Nếu như trong nền kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu làm nền tảng
thì nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ công hữu.Chính quan hệ sản xuất nói
chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau về bản chất
của hai loại thị trường . Cơ chế thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp nhưng do có sự khác nhau về bản chất giữa hai loại thị trường : kinh tế thị
trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN nên cùng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận
nhưng ở tính chất và mức độ khác nhau.
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường XHCN là vì nhân dân lao động, do dân vì
dân và thực hiện xã hội mọi người đều giàu có. Cho nên song song với việc phát triển
kinh tế là thực hiện chính sách phân phối khác, kết hợp với việc các chính sách xã hội.
Do đó khắc phục được sự phân hoá giàu nghèo, giảm dần được tỷ lệ nhân dân nghèo
đói, mức sống trung bình của nhân dân ngày càng tăng.
Do chịu sự tác động của các quy luật kinh tế (quy luật cung cầu, quy luật giá
trị, quy luật cạnh tranh…) các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường luôn vận động
cạnh tranh lẫn nhau. Tuy nhiên không vì thế mà họ có thể làm những việc trái với pháp
luật, trái với tình người. Cạnh tranh trong môi trường XHCN không dã man tàn ác như
trong môi trường TBCN, mà cạnh tranh để phát triển, phát triển vì mục tiêu con người .
Lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN không phải là kết quả của sự bóc lột sức lao
động, không phải là quan hệ người bóc lột người mà là do tư liệu sản xuất thuộc về xã
hội, lợi nhuận ở đây là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất và giá thành sản xuất của các
doanh nghiệp. Do đó, trong điều kiện giá cả nhất định, lợi nhuận trực tiếp phản ánh sự
biến động của giá thành sản phẩm. Và cũng như đối với các doanh nghiệp trong các
nền kinh tế thị trường khác nhau, lợi nhuận cũng là thước đo hoàn hảo nhất để đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nó là công cụ bình tuyển tự nhiên
và rất công bằng : doanh nghiệp nào làm ăn có lãi sẽ tiếp tục mở rộng sản xuất và phát
triển, còn doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Đối với các
doanh nghiệp, một phần lợi nhuận sẽ được giữ lại để mở rộng sản xuất, đầu tư cải thiện
sinh hoạt, làm việc của công nhân viên, trả tiền thưởng, trợ cấp… còn lại sẽ nộp cho
nhà nước để phục vụ cho các mục đích công cộng như xây dựng cơ sở hạ tầng, phúc lợi
xã hội…
Lợi nhuận trong CNXH là mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh tế, kích thích
các nhà kinh tế mở rộng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng nó không phải là mục tiêu
cao nhất. Mục tiêu cao nhất là một mức lợi nhuận cao nhất trong khả năng cố gắng nỗ
lực, đi kèm với bảo vệ môi trường, bảo vệ con người, bảo vệ chế độ, bảo vệ truyền
thống dân tộc, bản sắc văn hoá và hơn hết là tình người.
2.2.2. Lợi nhuận trong kinh tế thị trường giai đoạn hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
mọi hoạt động kinh tế. Cho nên lợi nhuận ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và có
thể kể đến một số ảnh hưởng tích cực sau:
Trên thị trường, quy luật cung cầu quyết định giá cả hàng hoá dịch vụ, do đó
quyết định lượng lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy, để thu được lượng lợi nhuận
cao, các doanh nghiệp phải phát triển công nghệ thông tin, nắm bắt chính xác mọi thay
đổi của thị trường và xử lý thông tin đó nhanh chóng, có hiệu quả, gây những ảnh
hưởng có tính chất quyết định lên toàn bộ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Lịch sử hoạt động kinh tế của một số nước phát triển trên thế giới, đặc biệt là trong 20
năm qua cho thấy sự tăng trưởng của công nghệ thông tin đã giúp cho doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả hơn. Đến lượt nó, nền kinh tế phát triển tác động trở lại công
nghệ thông tin, thúc đẩy công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ hơn.
Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà kinh doanh có thể có mặt ở mọi nơi mọi lúc,
nếu ở đó có thể kiếm được nhiều tiền. Cũng vì mục đích đó, các doanh nghiệp có thể
chuyển từ kinh doanh mặt hàng này sang kinh doanh mặt hàng khác nếu ngành mới có
lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Do đó doanh nghiệp có thể đáp ứng kịp thời hơn,
chất lượng hơn, đầy đủ hơn các nhu cầu của người tiêu dùng.
Để thu hút được khách hàng và chiếm được thị trường, những người sản xuất
luôn phải cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp phải đổi mới
được sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sản xuất nhiều hơn chất lượng hơn,
giá thành sản xuất rẻ hơn. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cố gắng một cách tối đa
trong giới hạn cho phép của mình để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường về loại mặt
hàng.Tuy theo đuổi mục đích lợi nhuận cá nhân, song vô hình chung, họ đã đem lại
hiệu quả xã hội cao : tạo việc làm cho người lao động, tạo sản phẩm cho người tiêu
dùng…
Lợi nhuận doanh nghiệp quyết định sự tồn tại hay sa thải các doanh nghiệp ra
khỏi vũ đài kinh tế. Có nghĩa là nhà kinh tế làm ăn có lãi tiếp tục tồn tại trên thị trường
đồng thời sẽ loại bỏ những cơ sở kinh doanh thua lỗ ra khỏi thị trường. Có thể nói, lợi
nhuận là chỉ tiêu tổng hợp để phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động lực kinh tế thúc đẩy các doanh
nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả xử lý các nguồn lực, nâng cao năng suất chất
lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao.
Đồng thời việc thu được lợi nhuận cao sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phục vụ tốt hơn
nhu cầu của thị trường.
Lợi nhuận của doanh nghiệp không những là bộ phận quan trọng trong thu nhập
thuần tuý của doanh nghiệp mà nó còn là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà
nước, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước.
Như vậy với mục tiêu lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp không ngừng nâng
cao trình độ tay nghề, nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất và kinh doanh góp phần
nâng cao hiệu quả sản xuất chung của xã hội. Ngoài ra, nhà nước, chính phủ phải tạo ra
hành lang pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế .
Lợi nhuận là lý do phát sinh và phát triển của nền kinh tế thị trường. Nó thúc
đẩy quá trình mở cửa của nền kinh tế, nhằm mở rộng việc trao đổi hàng hoá, trao đổi
khoa học kỹ thuật. Các nước tiến hành mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực từ
bên ngoài và phát huy nguồn lực bên trong làm thay đổi mạnh mẽ trình độ kỹ thuật
trong nước. Đồng thời đầu tư ra nước ngoài sẽ mang lại mức lợi nhuận cao hơn trong
nước. Như vậy, để thu hút được lợi nhuận cao hơn, đòi hỏi các nước phải tăng cường
liên doanh liên kết, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trên nguyên tắc
bình đẳng cùng có lợi.
Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội .
Muốn mở rộng sản xuất ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích luỹ nhiều vốn.
Như đã biết, quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lặp lại quá trình tái sản xuất cũ với
quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn như vậy thì phải biến
một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Do đó để tiến hành được quá trình tái
sản xuất phải tạo ra được lợ nhuận. Lợi nhuận tạo ra càng nhiều thì quá trình tái sản
xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn và với quy mô lớn hơn. Ngược lại, việc thu được
lợi nhuận cao sẽ kích thích các chủ doanh nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất thu được
lợi nhuận cao hơn.
Bên cạnh những mặt tích cực, lợi nhuận cũng có những tác động tiêu cực đến
nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản do
mục đích theo đuổi tối đa hoá lợi nhuận. Do đó dẫn đến sự tích tụ tập trung tư bản mức
độ cao hình thành nên các tổ chức độc quyền . Và cạnh tranh giữa các nhà độc quyền
đã gây ra những thiệt hại lớn không những cho nền kinh tế thế giới mà cho cả môi
trường tự nhiên như ô nhiễm môi trường, thủng tầng ô zôn, hàng triệu tấn rác thải chưa
được xử lý… Trong xã hội và nền kinh tế luôn luôn có tình trạng bất ổn định như các
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng dầu mỏ… gây ra
lạm phát, thất nghiệp… Đồng thời với những quá trình đó là thu nhập tập trung phần
lớn vào một số ít người trong xã hội, những người lao động chỉ được hưởng một phần
nhỏ, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng. Các nhà tư bản thu được lợi
nhuận thì cứ tiếp tục giàu lên. Mặt khác, các nhà tư bản chỉ đầu tư vào nơi nào họ đảm
bảo thu được lợi nhuận cao còn không họ sẽ không đâù tư vào. Sự phân phối bất hợp lý
có thể là nguyên nhân gây mất ồn định trong tương lai. Ngoài ra trong xã hội còn có
tình trạng đầu cơ tích trữ, làm hàng giả. Thay vì đầu tư máy móc thiết bị, mở rộng sản
xuất, đã không ít những người tham lam hám lợi đã đầu cơ tích trữ hàng hoá tạo nên
cơn sốt giả tạo, đẩy giá hàng hoá lên cao, sau đó bán ra thu lợi nhuận… Tệ hại hơn, đó
là việc chạy theo lợi nhuận, chạy theo những lợi ích trước mắt mà có người có thể đang
tâm làm những việc thất đức, vi phạm đạo đức, lối sống…là những hiện tượng phổ
biến, mà người ta thường gọi là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Đó là lời
cảnh báo hết sức nguy cấp cho toàn xã hội, cần có những biện pháp thiết thực để cải
tạo xã hội tốt đẹp hơn.
2.2.3. Lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam
Sau cuộc cải cách kinh tế (12/1996) Đảng và nhà nước ta đã thay đổi quan điểm
về vấn đề lợi nhuận. Đảng ta đã khẳng định rằng lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu trong
hoạt động sản xuất.Trong cơ chế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển, không còn con
đường nào khác là doanh nghiệp phải đạt lợi nhuận càng cao càng tốt, mới có điều kiện
hơn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh theo chiều rộng lẫn chiều sâu, đủ sức cạnh
tranh trên thị trường với các đối thủ của mình. Mười năm qua và nhất là năm năm gần
đây, nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Đó là kết quả của quá trình
đổi mới của đảng, sự nỗ lực của những người nông dân, công nhân, trí thức, của các
gia đình, của bộ máy quản lý nhà nước và sự đầu tư của nước ngoài. Cùng với sự thay
đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã
có sự thay đổi về diện mạo và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh bên trong của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp từ chỗ trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chỉ
là cơ cấu chấp hành : nhận vốn, vật tư, chỉ thị mệnh lệnh sản xuất từ cấp trên, ngày nay
trở thành chủ thể sản xuất kinh doanh. Việc mở cửa nền kinh tế, hàng hoá từ nước
ngoài tràn vào rất nhiều, mẫu mã và chủng loại rất đa dạng, với giá cả thấp nhưng vẫn
đảm bảo chất lượng. Đứng trước tình hình đó, các đơn vị, doanh nghiệp tổ chức sản
xuất trong nước đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất. Cùng
với nó là quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên chức. Với mục tiêu lợi nhuận
đặt lên hàng đầu thì từ sau cải cách đến nay, hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam đã
phát triển rất mạnh mẽ. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được nâng
cao. Cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp có sự đổi mới theo hướng gắn với thị
trường, tinh giảm bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý. Cùng với việc mở
cửa nền kinh tế chúng ta cũng đồng thời mở rộng quan hệ với các nước nhằm thu hút
vốn đầu tư của nước ngoài.
Những thay đổi trên đã làm cho đời sống của toàn dân tăng lên rõ rệt, mức thu
nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên, cơ sở hạ tầng ngày càng được củng
cố, tạo tiền đề vững chắc cho những bước đi vững chắc của dân tộc ta.
Với những phân tích trên, đến đây chúng ta có thể khẳng định tầm quan trọng to
lớn của lợi nhuận đối với một doanh nghiệp hay nói một cách khác: vấn đề nâng cao
hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như : tình hình thị
trường, các chế độ chính sách của nhà nước có liên quan, việc nắm vững và sử dụng
nguồn lực doanh nghiệp, cách thức tổ chức quản lý kinh doanh, năng lực con người và
đặc biệt là đội ngũ quản trị gia, việc lựa chọn và thực thi các chiến lược của doanh
nghiệp, hiểu biết về đối thủ cạnh tranh…
3.Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận
Để làm tăng lợi nhuận ta phải tác động trực tiếp đến các nhân tố ảnh hưởng đến
mức lợi nhuận. Đó là :
3.1.Quy mô của sản xuất hàng hoá dịch vụ
Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả là doanh nghiệp giải quyết 3 vấn đề kinh
tế cơ bản : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ?
Sản xuất cái gì ? là quyết định của doanh nghiệp sản xuất hàng hoá dịch vụ
với số lượng bao nhiêu, bao giờ thì sản xuất, cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trên
cơ sở nhu cầu của thị trường, các nhà kinh tế cân đối với khả năng sản xuất của nền
kinh tế, của từng doanh nghiệp và chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết
định cung ứng cái gì để đạt được mức lợi nhuận cao nhất, đạt được thu nhập quốc dân
cao nhất. Gía cả trên thị trường là bàn tay vô hình điều chỉnh quan hệ cung cầu giúp
chúng ta sản xuất cái gì.
Sản xuất như thế nào? nghĩa là phải sản xuất bằng lực lượng sản xuất(gồm cả
con người và công nghệ ) như thế nào, tài nguyên, nhiên liệu gì và phương án sản xuất
ra sao. Sau khi đã lựa chọn sản xuất hàng hoá dịch vụ gì, các nhà kinh tế phải tính toán
làm sao để sản xuất hàng hoá với chi phí thấp nhất mà vẫn đảm bảo khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Mục tiêu lợi nhuận đã buộc các nhà kinh tế phải tìm kiếm, lựa
chọn phương án sản xuất tối ưu : đầu vào tối thiểu ( chi phí thấp nhất ), đầu ra tối đa (
sản xuất nhanh nhất, nhiều nhất, chất lượng cao ).
Sản xuất cho ai ? doanh nghiệp cần phải xác định được đối tượng tiêu dùng
hàng hoá dịch vụ do mình sản xuất ra, để từ đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu
dùng. Mức lợi nhuận cao sẽ thu hút các nhà doanh nghiệp xuất hiện ở mọi nơi mọi lúc,
đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.
Các doanh nghiệp cần áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất vào
sản xuất, đào tạo chuyên sâu, nâng cao tay nghề cho những người thợ, người công
nhân, đúc rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ quản lý của cán bộ. Như thế năng suất lao
động sẽ tăng lên, mặt khác sẽ giảm được chi phí sản xuất. Hay nói cách khác, đó là
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó thúc đẩy quan hệ sản xuất phát
triển : chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối phải phù hợp, kết gắn với
nhau, phát huy các nguồn lực, tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
thực hiện công bằng xã hội.
3.2. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá có lợi nhuận
Tiêu thụ là một khâu trong quy trình sản xuất- phân phối- trao đổi- tiêu dùng, do
đó thị trường tiêu thụ hàng hoá là một trong những vấn đề quan trọng mà các nhà
doanh nghiệp rất quan tâm.
Những tồn tại trong vấn đề tiêu thụ :
Quảng cáo của chúng ta ít gây tác động và hưởng ứng.
Không có việc lên dự án trước đúng thể thức.
Thư và tài liệu chào hàng của chúng ta không hoàn hảo
Sản phẩm của chúng ta chưa nhạy bén với các thị trường đang thay đổi
Kinh doanh của chúng ta đang sinh lợi nhưng nguồn tiền mặt luôn eo hẹp.
Khắc phục những điểm yếu của nhân viên tiêu thụ.
Giải pháp cụ thể :
1)Xác định những nhu cầu của thị trường, phân tích thị trường hiện tại và tương
lai.
Khi sản xuất chế tạo ra một sản phẩm mới, người quản lý phải nghiên cứu kỹ
lưỡng thị trường để xác định xem có tồn tại những nhu cầu thực tế hay không, quy mô
thị trường sẽ như thế nào? Sự hiểu biết thị trường sâu sắc sẽ tạo điều kiện cho các nhà
sản xuất phản ứng với những biến động thị trường một cách nhanh nhậy, có hiệu quả.
Nghiên cứu thị trường là một điều kiện tiên quyết đối với mọi công ty muốn đưa ra sản
phẩm mới hoặc mở rộng thị trường của mình với những sản phẩm hiện có.
2) Phân tích sự cạnh tranh để từ đó biết được mọi khía cạnh của những cái mạnh
và yếu của các đối thủ chính trong mỗi khu vực thị trường để hoạch định kế hoạch tiêu
thụ, nhằm vượt qua cạnh tranh. Chiến thắng trong cạnh tranh với sự đưa ra sản phẩm
mới có thể là một lợi nhuận thương mại nhưng ãn đầu cạnh tranh đòi hỏi một sự hoạch
định tiêu thụ đúng đắn. Kế hoạch tiếp thị phải bao gồm việc xử lý năng động và sáng
tạo đối với quảng cáo, hoạt động thúc đẩy và tiếp xúc với quần chúng, với đội ngũ
nhân viên có huấn luyện, có năng lực.
3) Hoạch định những chiến lược hiện đại để tồn tại.
Ngày nay, tính năng động trong toàn công ty sẽ là vấn đề quyết định. Sự phát
triển phải gắn liền với thị trường, tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có nhu cầu thực sự.
Việc cung cấp những sản phẩm mà thị trường tiêu thụ mong muốn sẽ tạo ra sức bật
mạnh mẽ cho đội ngũ tiêu thụ, tạo điều kiện cho họ thâm nhập thị trường một cách có
hiệu quả. Các nhà sản xuất nên rất thận trọng trong những giai đoạn cực thịnh khi mà
sự tồn tại trong tương lai phụ thuộc vào sự phát triển có kiểm soát hơn là phát triển bột
phát.
4) Tấn công vào thị trường một cách có hiệu quả nhất.
Một doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về hiện trạng doanh nghiệp, môi trường
hoạt động để đề ra mục tiêu xác đáng, các chiến lược, giải pháp để thực hiện mục tiêu
đề ra. Với mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp phải đề ra chiến lược cho từng thời kỳ.
Đồng thời cần lượng giá những rủi ro, những thua lỗ thất bại có thể có vì khi tình hình
không như mong muốn doanh nghiệp dễ rơi vào tinhf trạng phá sản.
5) Thêm giá trị, tăng lợi nhuận.
Việc tăng thêm giá trị và tăng thêm tính độc đáo cho sản phẩm có thể giúp
người sản xuất gạt bỏ nhu cầu tham gia vào đấu trường chỉ về giá không hay ho gì.
Những cuộc cạnh tranh đơn thuần về giá có thể là một trò chơi nguy hiểm, nó xói mòn
lãi xuất và làm giảm mức lợi nhuận có thể thu được, từ đó “cấm đoán” những dự án
“bành chướng” tiềm tàng. Tăng thêm giá trị cho sản phẩm bất cứ khi nào có thể được
để tăng lợi nhuận, tăng thị phần.
6) Chiếm lĩnh thị trường bằng sự chuyên môn hoá.
Các mức lợi nhuận thực tế và thoả đáng có thể thu được nhờ sự chuyên biệt với
những sản phẩm được tăng thêm giá trị hoặc có một cái gì đó khác đối thủ, cho phép
nhà sản xuất “chiếm được” thanh danh lừng lẫy như một nhà sản xuất chuyên gia. Việc
chuyên môn hoá thu hút sản xuất và kinh doanh và cống hiến những cơ hội rất khả
quan cho phép sự phát triển có lợi.
7) Phân phối có hiệu quả .
Chi phí vận chuyển và giao hàng cao cần được ưu tiên cân nhắc. Những lô hàng
hoàn hảo trả cước phí vận chuyển trước được giao một cách hiệu quả bảo đảm sự bền
vững và tính hiệu quả về thu nhập cho một mạng lưới phân phối lưu thông.
Ngoài ra, khen thưởng để tạo hiệu quả cao trong công việc là yếu tố động viên
bổ xung để người lao động thực hiện mục tiêu đề ra một cách hài lòng, tiền thưởng trao
đều đặn để người lao động vui hưởng ngay thành quả lao động và cố gắng hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ của mình.
3.3.Tổ chức hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp
Khả năng lãnh đạo của chủ doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết
định của doanh nghiệp đối với ba vấn đề kinh tế cơ bản, do đó nó ảnh hưởng đến sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, nói cách khác nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu
lợi nhuận của doanh nghiệp. Để thực hiện biện pháp cần phải nhận thức, hiểu rõ vai
trò, tầm quan trọng của quản trị đối với doanh nghiệp.
Nói chung trước tình hình kinh doanh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đi đến chỗ
thua lỗ, phá sản do nhiều nguyên nhân. Nhưng ta có thể khẳng định một trong những
nguyên nhân cơ bản nhất đó là sự yếu kém trong quả trị của các nhà quản trị. Vì vậy
trước tiên cần phải trang bị hay trang bị lại những kiến thức kinh doanh hiện đại, tạo
điều kiện để các nhà quản lý tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị, học
hỏi các kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển.
Việc có được trình độ quản lý cao là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực tổ chức như vốn, nhân sự, công nghệ…cũng như làm chủ được các yếu tố
bên ngoài như thị trường, giá cả hạn chế những lãng phí, tổn thất.
Trên đây là một số những biện pháp , kiến nghị được rút ra từ thực trạng kinh
doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Tuy lượng tri thức bản thân còn ít
ỏi, nhưng em tin tưởng rằng chúng sẽ không là một bài văn cứng nhắc mà trong một
giới hạn nào đó là có ích cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, có ích cho công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Phần kết luận
Với một đề tài khá rộng, trong phạm vi chỉ khoảng hơn hai mươi trang giấy, bài
viết của em tuy không phân tích hết được mọi khía cạnh cũng như mọi nội dung có liên
quan đến “ nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phảt triển kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” , nhưng em hy vọng và tin tưởng rằng những vấn đề quan
ttọng và thiết yếu nhất đã được đưa ra xem xét, phân tích và đánh giá. Bài viết đã tổng
kết được tất cả các quan điểm về lợi nhuận từ khoảng giữa thế kỷ XV cho đến khi nó
đạt tới đỉnh cao của khoa học và mang ý nghĩa thực tiễn lớn lao – phạm trù lợi nhuận
trong học thuyết kinh tế của Karl Marx. Trên cơ sở những nhận thức lý luận ấy, bài viết
tiếp tục lý giải vai trò và sự cần thiết của việc tăng lợi nhuận trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề lợi nhuận được nhìn nhận một cách khách quan
và đánh giá như một chỉ tiêu quan trọng số một khi đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời vấn đề hiệu quả kinh tế cũng được xem
xét bằng những nhận thức mới nhất dựa trên cơ sở lý luận khoa học từ những thế kỷ
trước mà vẫn mang tính thời đại. Giữa thế kỷ XIX Marx đã rút ra một nhận định hết
sức quan trọng “ lịch sử chỉ đặt ra những nhiệm vụ phải giải quyết khi mà sự phát triển
của lịch sử đã chứa đựng những tiền đề để giải quyết nó “ . Vì thế, chúng ta hãy kiên trì
đi theo chỉ dẫn của Marx, phân tích các bài học lịch sử và thực tiễn hiện nay của dân
tộc và thế giới, chắc chắn với trí tuệ của người Việt Nam chúng ta sẽ đưa dân tộc Việt
Nam phát triển trong thời đại mới.
Tài liệu tham khảo
1.Chiến lược thị trường- J ohn Shaw NXB Thế giới-1995
2.Giáo trình KTCT NXB Giáo dục-1998
3.Kinh tế học chính trị Mac-Lenin NXB CTQG-1999
4.Kinh tế học P.Samuellson
5.Lịch sử các học thuyết kinh tế NXB Giáo dục-1998
6.Tư bản- quyển I, quyển III
7.Tạp chí: Dự báo-chiến lược-chính sách
Nghiên cứu kinh tế
Ngân hàng
Nghiên cứu phát triển
Phát triển kinh tế
Thương mại
Tài chính doanh nghiệp
Mục lục
Mở đầu
Nội dung
1.Những vấn đề lý luận chung
1.1.Quan điểm về lợi nhuận của các nhà kinh tế học trước mac
1.2.Quan điểm về lợi nhuận của mac
1.3.Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế học mới
2.Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt nam giai đoạn hiện nay
2.1.Vài nét về nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN ở VN
2.2.Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
2.2.1.Phân biệt lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN và TBCN
2.2.2.Lợi nhuận trong kinh tế thị trường giai đoạn hiện nay
2.2.3.Lợi nhuận trong nền kinh tế VN giai đoạn hiện nay
3.Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận
3.1.Quy mô của sản xuất hàng hoá và dịch vụ
3.2.Tổ chức tiêu thụ có lợi nhuận
3.3.Tổ chức hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp
Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.pdf