Tài liệu Luận văn Ngôn từ nghệ thuật trong xình ca Cao Lan: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------
TRIỆU THỊ LINH
NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT
TRONG XÌNH CA CAO LAN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn 11
1.1. Cơ sở lí thuyết 11
1.2. Cơ sở thực tiễn 21
Chương 2: Ngôn từ nghệ thuật của xình ca xét về mặt hình thức 31
2.1. Kết cấu xình ca 31
2.2. Thể, vần và nhịp điệu trong xình ca 49
Chương 3: Ngôn từ nghệ thuật xình ca xét về mặt nội dung 62
3.1. Các biện pháp tu từ thường gặp trong xình ca 62
3.2. Sự thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật và một vài biểu 75
tượng thường gặp qua ngôn từ xình ca.
KẾT LUẬN 102
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN 104
QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
PHỤ LỤC
Một số khúc xình ca được ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm Cao Lan.
Một số hình ả...
122 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Ngôn từ nghệ thuật trong xình ca Cao Lan, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------
TRIỆU THỊ LINH
NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT
TRONG XÌNH CA CAO LAN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn 11
1.1. Cơ sở lí thuyết 11
1.2. Cơ sở thực tiễn 21
Chương 2: Ngôn từ nghệ thuật của xình ca xét về mặt hình thức 31
2.1. Kết cấu xình ca 31
2.2. Thể, vần và nhịp điệu trong xình ca 49
Chương 3: Ngôn từ nghệ thuật xình ca xét về mặt nội dung 62
3.1. Các biện pháp tu từ thường gặp trong xình ca 62
3.2. Sự thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật và một vài biểu 75
tượng thường gặp qua ngôn từ xình ca.
KẾT LUẬN 102
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN 104
QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
PHỤ LỤC
Một số khúc xình ca được ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm Cao Lan.
Một số hình ảnh về phong tục và hát xình ca của đồng bào Cao Lan.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Sán Chay là một trong 54 dân tộc thiểu số ở Việt Nam, có số dân là
147.315 người (1999), gồm 2 nhóm chính: Cao Lan và Sán Chỉ
(1)
. Nhóm Cao Lan
(còn được gọi bằng tên khác: Hờn Bán, Chùng,…) hiện cư trú ở các tỉnh Yên Bái,
Lào Cai, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang,
Lạng Sơn, Quảng Ninh…, nhưng tập trung đông nhất ở huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang (27.869 người). Theo một số nhà nghiên cứu và lời kể của đồng
bào, người Cao Lan vốn từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) sang
Việt Nam, cách đây khoảng 300-500 năm.
Dân tộc Sán Chay nói chung và người Cao Lan nói riêng, với vốn văn hoá
văn nghệ truyền thống phong phú và độc đáo của họ, đang góp phần làm nên sự
đa dạng văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu ngôn
từ nghệ thuật trong xình ca Cao Lan có thể góp phần giới thiệu và tôn vinh
những nét bản sắc văn hoá của nhóm người này.
1.2. Xình ca là dân ca của người Cao Lan, được lưu truyền từ đời này sang
đời khác. Theo truyền thuyết, đây là lời hát của Bà chúa thơ ca Lằu Slam khi đối
đáp với người yêu và nỗi lòng của cô gái Lằu Slam khi tìm tình yêu trong tuyệt
vọng. Người Cao Lan ghi nhớ và truyền lại các bài xình ca bằng văn bản chữ
“Nôm Cao Lan” (và cho đến nay bằng cả chữ tự chế trên cơ sở chữ Quốc ngữ).
Tương truyền một bộ sách xình ca được hát trong 36 ngày đêm chưa hết...
(1) Trong Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam (Tổng cục thống kê ban hành ngày
2/3/1979), tên dân tộc này được ghi là Sán Chay, Cao Lan - Sán Chỉ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Có thể nói, xình ca là một trong những nét đặc sắc, độc đáo làm nên văn
hoá truyền thống Cao Lan. Ngôn từ trong xình ca không chỉ là hình thức, là chất
liệu nghệ thuật, mà còn là tâm huyết và tài năng của rất nhiều nghệ sĩ dân gian
Cao Lan trong sáng tạo, trau chuốt tiếng mẹ đẻ không ngừng. Vì vậy, nghiên cứu
ngôn từ trong xình ca sẽ góp phần phát hiện ra nguyên cớ sự hấp dẫn đặc biệt của
xình ca về mặt ngôn từ, cũng như tìm hiểu cái hay cái đẹp trong tiếng Cao Lan.
1.3. Là một người con của đồng bào Cao Lan, tác giả của luận văn này rất
băn khoăn trước tình trạng nhiều nét văn hoá cổ truyền của dân tộc mình - trong
đó có xình ca và cả ngôn ngữ - đang bị mai một, pha tạp, không được coi trọng
đúng mức, từ đó có nguyện vọng tìm hiểu nhằm bảo tồn và phát triển vốn văn
hoá của dân tộc mình, trước hết là vốn văn nghệ truyền thống trong đó có xình
ca, từ góc nhìn ngôn ngữ học. Nghiên cứu Ngôn từ nghệ thuật trong xình ca
Cao Lan còn phục vụ cho việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường Cao đẳng Sư
phạm Tuyên Quang - nơi tác giả đang công tác.
2. LỊCH SỬ SƢU TẦM NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HOÁ NGƢỜI CAO LAN, VỀ
XÌNH CA VÀ NGÔN NGỮ TRONG XÌNH CA CAO LAN
2.1. Nghiên cứu về văn hoá Sán Chay (nói chung) và ngƣời Cao Lan
(nói riêng)
Các mặt trong văn hoá Sán Chay (nói chung) và của người Cao Lan (nói
riêng) là những đề tài khoa học được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có
không ít những công trình sưu tầm nghiên cứu, những hội thảo khoa học ở các
cấp, những bài báo, báo cáo..., bàn về những vấn đề này. Sự nghiên cứu và thảo
luận chủ yếu về văn hoá truyền thống Sán Chay và quan hệ giữa hai nhóm Cao
Lan và Sán Chỉ trong dân tộc Sán Chay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- Hợp tuyển Văn học dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Sán Chay, Nxb
Văn hoá dân tộc, 1994.
- Phù Ninh - Nguyễn Thịnh (1999), Văn hoá truyền thống Cao Lan, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
- Khổng Diễn (2003), Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
- Lâm Quý (2003), Văn hoá Cao Lan, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Cho đến nay, vấn đề quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan và Sán Chỉ trong dân
tộc Sán Chay vẫn chưa có được ý kiến thống nhất: Đây là các nhóm của một dân
tộc hay là hai dân tộc riêng biệt? Câu hỏi này đã được đặt ra và nhận được nhiều
ý kiến bàn luận rất khác nhau, đặc biệt trong Hội nghị xác định thành phần
dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí) ở Bắc Giang (ngày 29-30/3/2004) do
Viện Khoa học - Xã hội Việt Nam và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang chủ trì.
Trong các tài liệu về dân tộc Sán Chay nói chung và người Cao Lan nói
riêng, đều thấy có khẳng định người Cao Lan có nguồn gốc từ Trung Quốc sang
đã nhiều đời, sống rải rác ở phía bắc Việt Nam, là một cộng đồng người cấu kết
chặt chẽ, còn lưu giữ được những nét văn hoá đặc sắc, đặc biệt là kho tàng văn
nghệ dân gian rất phong phú.
2.2. Nghiên cứu về văn nghệ dân gian và XCCL
Trong kho tàng văn nghệ dân gian Cao Lan, xình ca là mảng văn nghệ đặc
sắc nhất, giá trị nhất. Xình ca được xem như cái làm nên nét “bản sắc văn hoá”
của người Cao Lan, vì thế cũng được các nghệ nhân Cao Lan và các nhà nghiên
cứu đặc biệt chú ý.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Ở Tuyên Quang, những cụ già Cao Lan như bà Nịnh Thị Nhân (63 tuổi),
ông Tiểu Văn Học (66 tuổi - thôn cây Thị, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn), ông
Vương Hùng Tá (58 tuổi - thôn Dân Chủ, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn), ông
Sầm Văn Dừn (63 tuổi - thôn Mãn Hoá, xã Đại Phú, huyện Sơn Dương), ông
Trần Văn Tố (67 tuổi, thôn Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn)... được
tôn vinh là các nghệ nhân hát xình ca. Vì yêu làn điệu dân ca của dân tộc mình
nên họ đã sưu tầm, ghi chép lại các quyển sách hát viết bằng chữ Hán và "dịch"
ra để tiện cho việc dạy các con cháu. Ông Sầm Văn Dừn còn sáng tác và dàn
dựng nhiều tác phẩm mang đậm những nét văn hoá truyền thống dân tộc Cao
Lan... Có thể nói, những nghệ nhân Cao Lan đã có ý thức và có công rất lớn
trong việc bảo vệ, lưu truyền lại xình ca cho thế hệ sau. Tuy nhiên họ chỉ mới
chủ yếu dừng lại ở việc bảo tồn và lưu truyền xình ca bằng cách dạy tự phát
truyền miệng.
Trên cơ sở lòng nhiệt tình của các nghệ nhân, cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI, việc sưu tầm, biên soạn, dịch xình ca đã được tổ chức tiến hành với quy mô
khá rộng ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi có đồng bào Cao Lan sinh sống như
Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Giang, Phú Thọ...
Một số công trình và bài báo về văn nghệ dân gian Cao Lan đã được công bố như:
- Phương Bằng (1981), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
- Lâm Quý (2003), Ngày xuân đi hát "Xình ca", Báo Tân Trào số tết
158+159.
- Lê Hồng Sinh (2003), Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan "Kó Lau
Slam", Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
- Nịnh Văn Độ (2003), Bảo tồn hát xình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang, Đề tài nghiên cứu, Sở Văn hóa Thông tin, Tuyên Quang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
- Lâm Quý (2003), Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
- Đặng Đình Thuận (2005), Văn hoá dân gian của dân tộc Cao Lan, Nxb
Khoa học xã hội, 2005.
- Phạm Thị Kim Dung (2005), Khảo sát đặc điểm Xình ca dân tộc Cao
Lan ở Tuyên Quang, Luận văn tốt nghiệp, trường Đại học Sư phạm 1, Hà Nội.
- Ngô Văn Trụ (2006), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
- Trịnh Thành Công (2005), "Đi tìm câu hát xình ca", Báo Tuyên Quang
số tết Xuân Ất Dậu.
- Triệu Thị Linh (2006), “Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích về người mồ
côi của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang”, Luận văn trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, 2006.
- Triệu Thị Linh (2007), “Cách biểu thị thời gian nghệ thuật trong cổ tích
Cao Lan”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 11.
- Triệu Thị Linh (2007), "Một số biểu tượng trong xình ca Cao Lan", Hội
thảo ngữ học trẻ - Xuân 2008.
Về xình ca Cao Lan, các tác giả đã có công sưu tầm những đêm hát,
những câu hát còn rải rác trong dân gian, tập hợp và biên soạn lại khá công phu.
Nhà thơ Lâm Quý đã sưu tầm được 9 đêm, dịch văn học trọn vẹn Xịnh ca Cao
Lan - đêm hát thứ nhất gồm 266 câu. Tác giả Ngô Văn Trụ sưu tầm biên soạn
được gần 1000 câu hát lẻ in trong cuốn Dân ca Cao Lan. Tác giả Phương Bằng
cũng sưu tầm được gần 500 câu hát... Từ tư liệu sưu tầm, biên soạn, các nhà
nghiên cứu đã xác định số lượng và kết cấu những đêm hát, nội dung của mỗi
đêm. Các tác giả Lâm Quý, Ngô Văn Trụ đã bước đầu phân tích được bối cảnh
diễn ra đêm hát, giai điệu lời hát; phân tích ý nghĩa một số câu hát...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Trong luận văn tốt nghiệp "Khảo sát đặc điểm xình ca dân tộc Cao Lan ở
Tuyên Quang", tác giả Phạm Thị Kim Dung đã đặt xình ca trong hoàn cảnh văn
hoá truyền thống Cao Lan để thấy được vai trò, vị trí của xình ca đối với đời
sống tinh thần của cộng đồng này. Tác giả đã khảo sát, rút ra đặc điểm của xình
ca trên ba phương diện: diễn xướng, nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Trong
luận văn, tác giả cũng đã phân tích cách dùng đại từ nhân xưng và tính từ trong
xình ca, từ đó rút ra kết luận: "XCCL có nhiều điểm đắc sắc trong nghệ thuật
biểu hiện: từ hình thức diễn xướng đến việc sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt,
ngôn ngữ, kết cấu, biểu tượng nghệ thuật, các thủ pháp tu từ…" [7;tr.94].
Trong luận văn thạc sĩ “Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan “Kó Lằu
Slam”", tác giả Lê Hồng Sinh đã phân tích những nét đặc sắc về nghệ thuật trong
truyện thơ “Kó Lằu Slam”, đồng thời miêu tả về xình ca như một phần không thể
thiếu để kết tinh thành truyện thơ này: “Lời của truyện thơ được đặt theo thể thơ
có trong xình ca. “Kó Lằu Slam” dường như lấy cảm hứng từ tục hát ví đầu
xuân” [37; tr.41] .
2.3. Nghiên cứu tiếng Cao Lan và ngôn ngữ trong xình ca
Nhìn chung, cho đến nay những nghiên cứu về tiếng Cao Lan ở Việt Nam
không nhiều và chưa đầy đủ. Hầu như không thấy một công trình nào miêu tả
tiếng Cao Lan ở diện đồng đại. Các tác giả A.G. Haudricout, Jereld Edmondson và
David Strecker... đã có một số thảo luận về quan hệ cội nguồn của tiếng Cao Lan.
Trong Hội nghị xác định thành phần dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán
Chí) ở Bắc Giang (ngày 29-30/3/2004), hầu hết các báo cáo tham luận đều nhắc
đến sự khác biệt giữa tiếng Cao Lan và Sán Chí (hai nhóm trong “dân tộc” Sán
Chay) và cố gắng lí giải, đánh giá sự khác biệt này. Báo cáo của tác giả Nguyễn
Văn Lợi “Quan hệ Cao Lan - Sán Chí xét về mặt ngôn ngữ” đã góp phần trả lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
các câu hỏi: Nguồn gốc, quá trình phát triển, mối quan hệ lịch sử giữa tiếng Cao
Lan và Sán Chí như thế nào; Hiện nay các ngôn ngữ này đang hành chức ra sao;
Quan niệm và nguyện vọng của những người sử dụng tiếng Cao Lan và Sán Chí
như thế nào? Trả lời được những câu hỏi này có thể giúp cho việc xác định mối
quan hệ giữa người Cao Lan và người Sán Chí.
Về ngôn ngữ trong xình ca, trong cuốn Văn hoá Cao Lan tác giả Lâm
Quý nhận định: Đây là “thứ tiếng cổ dùng trong cúng bái và hát ví thuộc ngữ hệ
Hán - Tạng, thổ ngữ Quảng Đông - Trung Quốc” [34; tr.166]. Xình ca có hai
loại, ca bậc và ca ý, tương ứng với mỗi loại thì ngôn ngữ cũng có đặc điểm riêng.
“Ca ý” nghĩa là “lời hát nhỏ”, lời hát tâm tình của đôi người yêu thương nhau,
được sáng tạo một các bất chợt” nên lời ca có vần có điệu, dễ nhớ người hát có
thể ứng đối ở nhiều tình huống khác nhau, có thể thay đổi giọng, lời ca cho phù
hợp. “Ca bậc” nghĩa là “hát lớn”, “hát cho cả dân bản cùng nghe, nhờ thế lời ca
được ghi chép vào sách thành chương, mục có tình chất qui định bắt buộc” [34;
tr.188-192].
Tác giả Lâm Quý cũng thống kê tập một của xình ca gồm trên 500 cặp bài
hát bằng 1.000 bài theo thể thơ tứ tuyệt (4 câu, 7 chữ), với trên 4.000 câu thơ 7
chữ [34; tr.193]. Tác giả Ngô Văn Trụ nhận xét: “Ở một số trường hợp, câu thứ
nhất chỉ có 3, 4 chữ, 4 câu chỉ gồm 24, 25 chữ, do vậy khi hát, người ta phải
dùng lời láy để ngân nga”[44; tr.2].
Về ý nghĩa của lời ca, những người già Cao Lan thường khen rằng ý tứ
trong lời đối đáp của xình ca rất thâm sâu, nhiều hình ảnh ví von bất ngờ, thú vị.
Tuy nhiên, cảm nhận cũng như nghiên cứu về ngôn từ xình ca là một công
việc không dễ dàng. Ông Nịnh Văn Độ - một người con của đồng bào Cao Lan đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
tâm sự: “Suốt quãng đời của tôi...tôi say sưa tìm hiểu về xình ca mà vẫn chưa cảm
nhận được hết cái hay cái đẹp của lời ca trong xình ca dân tộc mình”[8; tr.5].
Như đã liệt kê ở trên (mục 2.2), trong Hội thảo Ngữ học trẻ - Xuân 2008
(do Hội ngôn ngữ học Việt Nam tổ chức), tác giả của luận văn này đã trình bày
báo cáo về một khía cạnh nhỏ của NTNT trong XCCL - "Một số biểu tượng
trong xình ca Cao Lan".
Quả thật, NTNT của XCCL cho đến nay vẫn là một ẩn số, một vấn đề
khoa học chưa được chuyên luận nào trình bày đầy đủ và sâu sắc. Đây là hướng
gợi mở tích cực để tác giả luận văn này tiếp cận xình ca từ góc độ ngôn ngữ học,
với hi vọng hiểu rõ hơn cách tổ chức văn bản và các tầng ý nghĩa sâu sắc, thú vị
của lời ca, cách biểu đạt bằng ngôn từ độc đáo của các nghệ nhân Cao Lan.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
3.1. Mục đích
- Chỉ ra đặc trưng NTNT của xình ca xét về mặt hình thức, như: kết cấu
một đêm hát, khúc hát, thể thơ, nhịp điệu, cách gieo vần...
- Chỉ ra đặc trưng NTNT của xình ca xét về mặt ngữ nghĩa, như các phép tu
từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hoá; cách biểu thị thời gian, không gian nghệ thuật...
- Qua tìm hiểu các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của ngôn từ xình ca,
có được một số nhận xét về những giá trị của NTNT trong xình ca, đồng thời chỉ
ra được phần nào những nét đặc trưng trong văn hoá như cách ứng xử, cách cảm,
cách nghĩ... của người Cao Lan.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp các tài liệu đã có, sưu tầm thêm, dịch các tư liệu về XCCL.
- Miêu tả một số cách sử dụng NTNT đáng chú ý trong XCCL.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Khái quát được những nét đặc trưng chính của NTNT trong XCCL.
4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
4.1. Về lí luận
- Cung cấp những cứ liệu cho việc khái quát hoá các đặc trưng của ngôn
ngữ nghệ thuật trong thi pháp dân ca: tính cách điệu hoá, cách gieo vần, các đặc
điểm cú pháp như đối và điệp, sự chuyển nghĩa theo những cách khác nhau.
- Từ việc chỉ ra đặc trưng của NTNT trong XCCL, giúp thêm kinh nghiệm
và cách thức cho việc tìm hiểu văn bản văn nghệ dân gian cổ, cũng như việc biên
dịch, sưu tầm các văn bản này có hiệu quả và sâu sắc hơn.
4.2. Về thực tiễn
- Góp phần bảo tồn và phát triển vốn nghệ thuật truyền thống của người
Cao Lan, trong đó có xình ca và ngôn ngữ của họ.
- Khuyến khích và tạo cơ sở, đề xuất hướng tiếp tục đi sâu nghiên cứu
các mặt khác trong ngôn ngữ cũng như vốn văn nghệ truyền thống của người
Cao Lan.
- Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng trong giảng dạy về văn nghệ
dân gian các dân tộc thiểu số nói chung và về XCCL nói riêng.
5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tƣợng
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là ngôn từ trong văn bản "Xịnh
ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất" của tác giả Lâm Quý, Nxb Văn hoá Dân tộc
phát hành năm 2003. Đêm hát thứ nhất này có 8 chương, 266 khúc hát. Phần một
của tác phẩm được viết bằng chữ Nôm - Cao Lan, phần hai được tác giả dịch văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
học ra tiếng Việt. Chúng tôi đã tiến hành dịch nghĩa từng đơn vị từ của 266 khúc hát
này để hiểu và phân tích sâu hơn về ngôn từ trong xình ca.
Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu còn là ngôn từ của xình ca trong các văn
bản: "Dân ca Cao Lan", Nxb Văn hoá dân tộc, phát hành năm 2006 được tác giả
Ngô Văn Trụ sưu tầm và biên soạn, với 898 khúc hát; "Dân ca Cao Lan", Nxb
Văn hoá dân tộc, phát hành năm 1981, tác giả Phương Bằng sưu tầm và biên
soạn, với 665 khúc hát... Việc mở rộng đối tượng nghiên cứu trên nhiều văn bản
khác nhau là để có cái nhìn tổng thể về XCCL, từ đó có những nhận định về đặc
điểm hình thức và ngữ nghĩa của xình ca.
5.2. Phƣơng pháp
- Điền dã: sưu tầm, ghi âm và ghi chép về văn hoá truyền thống Cao Lan,
phiên dịch (dịch nghĩa từng từ và dịch văn học ra tiếng Việt) các bản xình ca.
- Miêu tả: với các thủ pháp phân tích và tổng hợp, trên cơ sở các văn bản
xình ca (nguyên bản và bản dịch).
- Thống kê: tính xác suất một số hiện tượng ngôn từ đáng chú ý trong các
văn bản XCCL.
6. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm các chương mục sau:
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí thuyết
1.2. Cơ sở thực tiễn
CHƢƠNG 2: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT CỦA XÌNH CA XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC
2.1. Kết cấu xình ca
2.2. Thể, vần và nhịp điệu
Chƣơng 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT XÌNH CA XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
3.1. Các biện pháp tu từ thường gặp trong xình ca
3.2. Sự thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật và một vài biểu tượng
thường gặp qua ngôn từ xình ca.
Trong Phụ lục có một số khúc xình ca được ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm
Cao Lan...; một số hình ảnh về phong tục và hát xình ca của đồng bào Cao Lan.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1.1. Ngôn ngữ - Ngôn ngữ văn học - Ngôn từ nghệ thuật
1.1.1.1. Ngôn ngữ
Theo cách hiểu chung nhất, ngôn ngữ là “hệ thống những âm, những từ và
những quy tắc kết hợp chúng mà những người trong một cộng đồng dùng làm
phương tiện để giao tiếp với nhau” [53; tr.683].
Khi nói đến ngôn ngữ, người ta thường hiểu đó là ngôn ngữ tự nhiên của
con người (đối lập với ngôn ngữ nhân tạo và ngôn ngữ của động vật). Đây có thể
được xem là phương tiện quan trọng nhất được dùng trong giao tiếp giữa các
thành viên của cộng đồng, đồng thời cũng là phương tiện để tư duy, để diễn đạt và
truyền lại các giá trị văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khi bàn về ngôn ngữ nói chung, còn có thể nói đến các hình thức giao tiếp
khác: bằng động tác của cơ thể, màu sắc... Tuy nhiên, hình thức phổ biến nhất
của ngôn ngữ trong xã hội loài người là ngôn ngữ âm thanh (ngôn ngữ được nói
ra bằng lời, thành tiếng) và chữ viết (hình thức đường nét ghi lại, phản ánh, đại
diện cho ngôn ngữ thành tiếng).
Trong luận văn, khái niệm "ngôn ngữ" có chỗ được gọi là ngôn từ. Ngôn
từ được hiểu chính là ngôn ngữ ở dạng nói hay viết thành văn.
Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, khi nói về ngôn ngữ và
tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một cộng đồng thiểu số như Cao Lan, không thể
không nhắc đến các khái niệm “ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các tộc người”
(ở người Cao Lan hiện nay là tiếng Việt và trước đây là tiếng Hán); “ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
ngữ dân tộc/tộc người” (ở người Cao Lan đó là tiếng Cao Lan); “tiếng mẹ đẻ”:
ngôn ngữ con người học được trong những năm đầu của đời mình, thường là
công cụ tư duy và quan trọng nhất của mỗi người (ở người Cao Lan đó là
tiếng Cao Lan)...
1.1.1.2. Ngôn ngữ văn học
Hiện nay có hai cách hiểu về ngôn ngữ văn học: 1, là hình thức ngôn ngữ
trùng với “ngôn ngữ văn hoá” (ngôn ngữ toàn dân tộc có hệ thống chuẩn thống
nhất, được sử dụng trong mọi lĩnh vực đời sống văn hoá, chính trị, xã hội)
[53;tr.683]; 2, là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn học. Trong
cách hiểu thứ hai này, ngôn ngữ được xem là yếu tố quan trọng nhất của văn học.
Hai cách hiểu trên không hoàn toàn đồng nhất, nhưng có điểm chung là chú ý
đến ngôn ngữ ở phương diện sử dụng trong đời sống xã hội. Mặt khác, khi đã
được dùng để sáng tác văn học, thì ngôn ngữ của một cộng đồng thường được
khẳng định những ưu điểm (chẳng hạn như “chuẩn mực” về ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp) và có khả năng sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực đời sống.
Tuy nhiên trong thực tế, một ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn
học (văn học hiểu theo nghĩa chung nhất, là “nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình
tượng để thể hiện đời sống và xã hội con người” [52; tr.1079]), chưa hẳn đã có
được những ưu điểm và được "sử dụng trong mọi lĩnh vực đời sống”. Đây là
trường hợp trong cộng đồng Cao Lan ở Việt Nam.
Ở người Cao Lan, tiếng Cao Lan được sử dụng trong đời sống hàng ngày
và phần nào đã được sử dụng trong văn nghệ dân gian (xình ca là một loại sáng
tác như vậy). Tuy nhiên, hình thức “ngôn ngữ văn học” này chưa được xác định
là “chuẩn mực”, cũng chưa được sử dụng rộng rãi mà chỉ trong phạm vi gia
đình và làng bản. Hình thức trong văn nghệ dân gian Cao Lan này cũng chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
được ghi nhận bằng thứ chữ viết ai cũng đọc được, cho nên không có điều kiện
phổ biến. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, nên hiểu ngôn ngữ văn học của
người Cao Lan theo cách thứ hai (đó là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong
sáng tác văn học).
Tuỳ theo phạm vi sử dụng, trong ngôn ngữ văn học có ba dạng thức khác
nhau, đó là: ngôn từ hội thoại, ngôn từ chuyên môn và ngôn từ nghệ thuật.
1.1.1.3. Ngôn từ nghệ thuật
NTNT là một dạng trong ngôn ngữ văn học, là "khái niệm chỉ loại hình
ngôn ngữ dùng để biểu đạt nội dung hình tượng của các tác phẩm ngôn từ (sáng
tác lời truyền miệng và văn học viết)" [52; tr.1090].
Xét về mặt chất liệu, NTNT bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ được sử
dụng đạt tới mức nghệ thuật, đó là các hình thức ngôn ngữ bóng bẩy thường được
sử dụng trong tác phẩm văn học như ví von, ẩn dụ, khoa trương, tượng trưng, nhân
hoá… Đồng thời, NTNT cũng bao gồm cả những yếu tố như phương thức tổ
chức, cách gieo vần, ngắt nhịp, sử dụng thể thơ, tạo dựng kết cấu…
Như vậy, NTNT là sự thể hiện của ngôn ngữ chung một cách khéo léo và
năng động, nhằm phản ánh đầy đủ, sinh động và gợi cảm mọi hình tượng, đồng
thời truyền đạt được tư tưởng, tình cảm của người nói, người viết.
Xét về mặt tính chất, NTNT được các nhà nghiên cứu xác định là mang
nhiều đặc trưng của ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ nghệ thuật nói riêng. Tác giả
Đinh Trọng Lạc cho rằng có bốn đặc trưng là: "tính cấu trúc; tính hình tượng; tính
cá thể hoá; tính cụ thể hoá" [20]. Tác giả Đào Thản nhấn mạnh ba đặc trưng cơ
bản của NTNT là: "tính tạo hình; tính truyền cảm; tính cá thể hoá" [20]. Khi bàn
về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật, tác giả Nguyễn Thế Lịch xác định có bảy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
đặc trưng là: "tính hình tượng; tính biểu cảm; tính cụ thể; tính cá thể hoá; tính chính
xác; tính hàm súc; tính phóng đại; tính cách điệu [20]...
Có thể nói, từ ngôn ngữ chung đến NTNT là cả một quá trình, bắt đầu là
sự tìm kiếm, thu nạp những yếu tố ngôn ngữ chung, để rồi lựa chọn mài giũa
chúng, phát triển thành NTNT. Đó là con đường sáng tạo theo qui luật của cái
đẹp khiến NTNT không ngừng được hoàn thiện.
Tác giả Trần Đình Sử cho rằng "đặc trưng thứ nhất của lời văn là tính
hình tượng từ trong nội dung của lời nói" [20]. Trong các tác phẩm văn nghệ
nói chung, XCCL nói riêng, ngôn từ là chất liệu chính để xây dựng hình tượng.
Chắc hẳn, cùng với việc sáng tác theo khuôn mẫu có tính chất qui ước của dân
ca nói chung, các TGDG Cao Lan đã có những sáng tạo riêng trong sử dụng
ngôn từ để xây dựng hình tượng nghệ thuật, để xình ca có được sức sống lâu
bền và hấp dẫn.
1.1.2. DÂN CA - XÌNH CA
1.1.2.1. Dân ca
Theo cách hiểu phổ biến nhất, dân ca là bài hát lưu truyền trong dân gian.
Trong cách định nghĩa mang tính thuật ngữ thì dân ca là “một loại hình sáng tác
dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp
với nhau trong diễn xướng” [9; tr.91].
Căn cứ vào đặc điểm âm nhạc, làn điệu có thể chia dân ca thành hai loại
chính: loại đa điệu và loại đơn điệu. Đa điệu là loại có nhiều làn điệu như dân ca
quan họ Bắc Ninh (có khoảng 200 làn điệu khác nhau). Đơn điệu như hát ví,
giặm Nghệ Tĩnh, hát trống quân, hát đúm...Ở loại dân ca đa điệu, “khi hát đối
đáp, người ta thường yêu cầu phải đổi giọng (nghĩa là bên nam hát làn điệu nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
thì bên nữ cũng phải hát đúng làn điệu ấy). Còn ở loại đơn điệu thì khi hát đối
đáp, đôi bên chỉ đối nhau bằng lời, bằng ý” theo một điệu nhất định [9; tr.33].
Xình ca Cao Lan có thể được coi là loại dân ca đơn điệu.
Khi nói đến dân ca, người ta thường nghĩ đến đồng thời ba yếu tố cơ bản
cấu thành nó: lời ca, âm nhạc và phương thức diễn xướng.
Dân ca các dân tộc thiểu số, theo đặc điểm diễn xướng của văn hoá dân
gian nói chung, luôn gắn bó mật thiết với sinh hoạt xã hội (như lao động sản
xuất, giao duyên, phong tục, nghi lễ, sinh hoạt ngày thường...) và mang đậm dấu
ấn của từng cộng đồng.
Với những nét đặc sắc trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách sử dụng ngôn
ngữ để xây dựng hình tượng nghệ thuật, tạo nên nhịp điệu với cách thức diễn
xướng..., đi kèm với ý nghĩa sâu sắc của lời ca, XCCL đã được lưu truyền trong
dân gian và có sức sống tới ngày nay.
1.1.2.2. Xình ca
Cho đến nay, chưa có định nghĩa đủ rõ xình ca (còn viết là “xịnh ca”,
“sịnh ca”, “sình ca”) là gì. Nhưng khi nghiên cứu xình ca, nhiều nhà nghiên cứu
đã đề cập đến khái niệm này.
Theo tác giả Lâm Quý thì xình ca là tác phẩm thơ ca dân gian mang tính
sử thi về một cuộc thiên di đầy vất vả gian lao của tộc người Cao Lan di cư từ
nội địa các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc sang Việt Nam sinh sống
từ cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII vì nhiều lí do như giặc giã, đời sống khó
khăn [34; tr.12].
Trong lời nhà xuất bản cuốn “Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất” có
đoạn viết: “Đây là tác phẩm thơ ca dân gian cổ của người dân tộc Cao Lan được
ghi chép bằng chữ Hán Nôm Cao Lan và lưu truyền trong đồng bào từ nhiều đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
nay” [34; tr.2]. Xuất phát từ ý nghĩa của chính từ này (xình ca nghĩa là xướng lên
(để đối đáp) - ca, hát), có thể hiểu “xình ca” là một tên gọi chung chỉ dân ca Cao
Lan, nhưng chủ yếu là hát giao duyên.
Xình ca hay xịnh ca, hay sịnh ca, sình ca? Căn cứ vào cách ghi phổ biến
hiện nay và “giọng” của người Cao Lan khi phát âm từ này, đồng thời căn cứ vào
sự tương ứng kí hiệu của chữ Quốc ngữ, theo chúng tôi, nên viết là xình ca.
1.1.3. KẾT CẤU - NHỊP ĐIỆU - VẦN
1.1.3.1. Kết cấu
Hiểu theo cách chung nhất, kết cấu là "sự phân chia và bố trí các phần, các
chương, các mục theo hệ thống nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm"
[53; tr.485]. Kết cấu đảm nhiệm chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư
tưởng của tác phẩm, triển khai hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí hệ thống tính
cách nhân vật, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả..., kết cấu tạo ra "tính
toàn vẹn của tác phẩm như một hiện tượng thẩm mĩ" [9; tr.131-132].
Trong kết cấu XCCL, những khái niệm như "chương hát", "bài hát", "khúc
hát", "câu hát", "lời hát" cần được hiểu một cách thống nhất.
Theo cách hiểu chung nhất, Chương là một "phần của sách có nội dung
tương đối trọn vẹn" [53; tr.203]. Chương hát xình ca cũng tương tự là một bộ
phận được chia ra và được đặt trong quan hệ với tổng thể đêm hát, có nội dung
tương đối hoàn chỉnh.
Trong chương hát có một đơn vị (trên chữ viết được ghi thành 4 "dòng
thơ", mỗi "dòng" 7 chữ) được các tác giả trước đây gọi bằng nhiều tên khác nhau
như: "câu", "bài" [34; tr.193], "bài", "câu", "lời ca" [48; tr.121-124].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Theo cách hiểu chung nhất, câu là "đơn vị cơ bản của lời nói, do từ tạo
thành, có một ngữ điệu nhất định, diễn đạt một ý trọn vẹn" [53; tr.137], đồng vì
vậy để dễ dàng trong miêu tả chúng tôi đề nghị một "dòng" thơ như trong XCCL
(trên chữ viết là một dòng) nên gọi là một câu.
Nếu hiểu "lời" là một "chuỗi âm thanh phát ra trong không khí nói mang
một nội dung trọn vẹn nhất định" [53; tr.582], thì một đến hai "dòng" thơ có thể
gọi là "lời". Như vậy, không nên gọi cả 4 "dòng" thơ 7 chữ hoặc những hình thức
tương tự là "lời hát", "câu hát", vì như vậy rất đại khái và khó phân định từ nó ra
những đơn vị nhỏ hơn.
Khái niệm "bài" chỉ "công trình sáng tác hoặc biên tập, có nội dung tương
đối hoàn chỉnh, nhưng không dài" [53; tr.40] có thể phù hợp với đơn vị đang xét
(4 "dòng thơ" mỗi "dòng" 7 chữ). Tuy nhiên đối chiếu vào những văn bản XCCL
sưu tầm và dịch của các tác giả Lâm Quý, Ngô Văn Trụ, Phương Bằng…, chúng
tôi thấy rằng XCCL còn bao gồm cả những "cụm ca" [44;tr.14], gồm có từ một
đến nhiều "bài" hợp thành.
Vì vậy, đơn vị ở trong một chương hát (thường gồm 4 dòng thơ 7 chữ) có
thể được gọi là một "khúc hát" - là "phần có độ dài nhất định được tách ra khỏi
một vật để thành một đơn vị riêng" [53; tr.512]. Có thể một khúc hát là một bài
xình ca hoàn chỉnh, có thể nhiều khúc hát mới hợp thành một bài, nhiều bài hợp
thành một chương, nhiều chương làm nên một đêm hát.
Hình thức và biện pháp kết cấu của xình ca Cao Lan như thế nào, xin
được phân tích kĩ hơn ở chương sau.
1.1.3.2. Nhịp điệu (tiết tấu, tiết điệu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Theo cách hiểu chung nhất, nhịp điệu là "sự nối tiếp và lặp lại một cách
đều đặn, tuần hoàn các độ dài thời gian bằng nhau làm nền cho nhạc"
[53;tr.714].
Đặc điểm nổi bật của thơ và ca là ngôn từ có nhịp điệu. Từ yêu cầu nhịp
điệu, văn bản thường được tổ chức thành từng dòng, từng khổ, từng câu, từng
khúc. Sau đây là nhận xét về nhịp điệu trong thơ: "Cứ nhìn những khổ thơ tương
đối như nhau, sắp xếp nối tiếp nhau với những khoảng cách nhất định, người đọc
đã nhận ra một nhịp điệu hài hoà nào đó. Sự hài hoà về thị giác đó sẽ được củng
cố hơn nữa với sự hài hoà âm thanh, nhịp điệu khi đọc" [52;tr.1686].
Cơ sở của khái niệm này là từ Hy Lạp “Rhythmós”, có nghĩa là “tính nhịp
nhàng, đều đặn”. Từ điển giải thích thuật ngữ văn học định nghĩa “Sự lặp lại
đều đặn các đơn vị lời nói giống nhau, được dùng để thực hiện các chức năng
cấu trúc, cấu tạo văn bản và chức năng cảm xúc - biểu cảm” [46. tr.292] được
xem là "tiết điệu", hay còn gọi là "tiết tấu".
Có thể xem nhịp điệu như đặc trưng của một tác phẩm nghệ thuật có hình
thức thể hiện là lời ca. Đó là “lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi của các
hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh, môtip... nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mĩ về
thế giới” [9; tr.205]. Nhịp điệu, tiết tấu tạo ra cảm giác vận động nhịp nhàng có
qui luật, chống lại sự đơn điệu, đơn nhất của tác phẩm.
Tác giả Mã Giang Lân khẳng định rằng "nhịp điệu là linh hồn của thơ ca,
vần và nhịp điệu còn gắn liền với thể" [18; tr.20]. Ở mỗi thể, nhịp điệu được sử
dụng khác nhau, chẳng hạn trong thơ: thơ 2 chữ - nhịp 2/2 giống đồng dao; thơ 3
chữ - nhịp 1/2; thơ 4 chữ - nhịp 2/2; thơ 5 chữ - nhịp 3/2 và 2/3; thơ 6 chữ - nhịp
2/2/2 và 2/4; thơ 7 chữ - nhịp 2/2/3, nhịp 3/2/2, nhịp 4/3, nhịp 3/4; thơ 8 chữ -
nhịp 3/2/5. Thơ lục bát chủ yếu ngắt nhịp 2, có khi ngắt nhịp 1, nhịp 3… hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
hỗn hợp cho thích ứng với nội dung cảm xúc; thơ tự do - nhịp được sử dụng linh
hoạt, phong phú.
Trong cấu trúc ngôn ngữ của các tác phẩm nghệ thuật dân gian nói chung,
XCCL nói riêng đều có những yếu tố ngôn ngữ được lặp lại, luân phiên tạo thành
nhịp điệu. Chức năng của nhịp điệu không chỉ là cấu trúc, cấu tạo văn bản mà
còn được sử dụng để tạo cảm xúc và sự gợi cảm.
1.1.3.3. Vần
Nói đến nhịp điệu trong thơ ca, không thể không nhắc đến vần. Theo cách
hiểu chung nhất, vần được sử dụng trong thơ ca là hiện tượng lặp lại một (hoặc
các) bộ phận của âm tiết ở một (hoặc những) vị trí nhất định trong câu, để tạo nên
nhịp điệu. Đồng thời, vần có vai trò liên kết các câu trong khúc ca hay bài thơ.
Phân biệt theo vị trí gieo vần, ta có vần chân và vần lưng; phân biệt theo
mức độ hoà âm, ta có vần chính và vần thông.
Trong thơ, vần chân là vần được gieo vào cuối dòng thơ, có tác dụng đánh
dấu sự kết thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết giữa các dòng thơ, có các dạng
vần liền, vần ôm, vần cách.
Vần lưng là vần “được gieo vào giữa dòng thơ”. Vần thông "được tạo nên
bởi sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng được gieo vần”. Còn vần chính cũng
được tạo bởi “sự hoà phối âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng được gieo vần”
nhưng trong đó “bộ phận vần cái (kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết) hoàn
toàn trùng hợp” [9; tr.362-364].
1.1.4. So sánh - Ẩn dụ - Nhân hoá
1.1.4.1. So sánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Có thể hiểu so sánh là: "Phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình
tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng
nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc
tính của hiện tượng kia" [9; tr.237].
So sánh thường có hai vế. Một vế là đối tượng cần được biểu đạt một cách
hình tượng. Vế kia là đối tượng được dùng để so sánh. Hai vế này thường được
nối liền với nhau bởi các từ so sánh: như, bằng, hơn, kém...
Phương thức so sánh đem lại hiệu quả cao đối với nghệ thuật biểu đạt
bằng ngôn từ, vì vậy được dùng phổ biến trong dân ca các dân tộc thiểu số , trong
đó có XCCL.
1.1.4.2. Ẩn dụ
"Ẩn dụ là cách lấy tên gọi của một đối tượng này để lâm thời biểu thị một
đối tượng khác, trên cơ sở thừa nhận ngầm một nét giống nhau nào đấy giữa hai
đối tượng" [9; tr.11].
Có thể hiểu, ẩn dụ là so sánh ngầm, nghĩa là trong cấu trúc so sánh có ẩn
từ so sánh và cái được so sánh. Để nhận diện ẩn dụ, cần phải có căn cứ vào tiêu
chí ngôn ngữ và phi ngôn ngữ:
- Tiêu chí ngôn ngữ gồm có ngữ cảnh hẹp (những yếu tố, những quan hệ cụ
thể của câu chữ có mặt trong ngôn bản) và ngữ cảnh rộng (hoàn cảnh giao tiếp).
- Tiêu chí phi ngôn ngữ: gồm tính lôgic và thói quen thẩm mĩ hay giá trị
truyền thống văn hóa...
Có thể nói, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa hữu hiệu
để thực hiện việc trao đổi thông tin ngầm, đưa đẩy, bóng gió, lời ít mà ý nhiều...
Vì vậy ca dao, dân ca các dân tộc và xình ca của người Cao Lan thường sử dụng
phương thức này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
1.1.4.3. Nhân hoá
Hiểu một cách chung nhất, nhân hoá hay nhân cách hoá là "một biến thể
của ẩn dụ, ở đó người ta chuyển đổi ý nghĩa của các từ ngữ chỉ thuộc tính của
con người sang đối tượng khác không phải con người" [53; tr.704].
"Tác dụng chủ yếu của nhân hoá đối với sự biểu đạt là miêu tả và trữ
tình"[53; tr.704]. Việc đưa ra các sự vật hiện tượng không phải là con người sang
thế giới loài người đã tạo nên một không khí mới, sinh động, làm cho chúng trở
lên gần gũi hơn, dễ hiểu hơn.
Nhân hoá là một cách biểu đạt trữ tình, là cách nói năng hình ảnh mà
người Cao Lan hay sử dụng, đặc biệt trong xình ca.
1.1.5. Biểu tƣợng nghệ thuật
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm "biểu tượng". Theo nghĩa rộng
nhất, "biểu tượng là một loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa mặt hình thức cảm
tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con
người, được gọi là cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang
tính có lí do, tính tất yếu" [12]. Hiểu đơn giản hơn, biểu tượng là "hình ảnh
tượng trưng" hay hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể hiện quan niệm
thẩm mĩ, tư tưởng của người sáng tạo ra nó, ví dụ hình ảnh "chim bồ câu" là biểu
tượng của hoà bình. Để tạo nên các biểu tượng, từ ngữ phải được khai thác chủ
yếu ở nét nghĩa biểu cảm, nghĩa bóng.
Từ hình ảnh trở thành biểu tượng phải trải qua một quá trình biến đổi ý
nghĩa. Quá trình chuyển hoá này diễn ra trong một phạm vi khác nhau: đời sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
văn hoá, nghệ thuật, văn học… Vì vậy, khi nghiên cứu về biểu tượng cần phân
biệt rõ các khái niệm: "biểu tượng văn hoá", "biểu tượng nghệ thuật", "biểu
tượng NTNT".
- Biểu tượng văn hoá:
"Những thực tế vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành động, ý niệm,…) có
khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức cảm tính của nó, tồn
tại trong một tập hợp, một hệ thống đặc trưng cho những nền văn hoá nhất định"
[12] là những biểu tượng văn hoá. Biểu tượng văn hoá bao gồm cả những biến
thể vật thể (trong các ngành nghệ thuật như kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc,…) và
phi vật thể (tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, văn học).
- Biểu tượng nghệ thuật: là các biến thể loại hình của biểu tượng văn hoá
trong những ngành nghệ thuật khác nhau như hội hoạ, âm nhạc, văn học…
- Biểu tượng NTNT: là các biểu tượng nghệ thuật được thể hiện dưới dạng
tín hiệu ngôn ngữ trong văn học, còn gọi là "từ - biểu tượng" (word-symbols) [12].
Nếu như biểu tượng chỉ là hình ảnh cảm tính của con người về các hình thức vật
chất cụ thể ở hiện thực khách quan, thì biểu tượng ngôn từ là sự tín hiệu hoá các
hình thức vật chất cụ thể ấy qua hệ thống âm thanh ngôn ngữ.
Có thể nói, "ngôn từ đã mở ra cho biểu tượng những quan hệ mới, những
khả năng mới, những khả năng kết hợp còn đang tiềm ẩn hoặc không xuất hiện
trong thực tế khách quan, hiện thực hoá và phát triển ý nghĩa của một biểu tượng
trong một năng lực biểu hiện to lớn" [12].
Cấu trúc NTNT trong các tác phẩm nghệ thuật nói chung, xình ca nói
riêng có thể xem như một tổng thể các tín hiệu thẩm mĩ, trong đó vai trò quan
trọng thuộc về các "từ - biểu tượng" với tư cách là những điểm nhấn trong tổng
thể cấu trúc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Một vài đặc điểm tiếng Cao Lan
Như đã nói ở phần Mở đầu (mục 2.3), cho đến nay những nghiên cứu về
tiếng Cao Lan không nhiều và không phong phú, đặc biệt chưa thấy có một
chuyên luận nào miêu tả tiếng Cao Lan ở diện đồng đại. Tuy nhiên, qua các tài
liệu đã công bố, có thể phác hoạ một số nét chung về tiềng Cao Lan như sau:
Xét về quan hệ cội nguồn, tiếng Cao Lan là một ngôn ngữ thuộc nhóm Tai
Bắc (ở Việt Nam có các đại diện là: Giáy, Bố Y, Pu Nà...) của nhánh Tày - Thái
(gồm các nhóm Tai Bắc, Tai Tây Nam, Tai Trung Tâm) của chi Tai (gồm các
nhánh Tày Thái và Đồng Thuỷ) của ngữ hệ Tai - Kađai (gồm các chi Tai, Hlai -
Lê và Kađai).
Trong các tài liệu lịch sử, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy tiếng Cao
Lan rất gần với các ngôn ngữ thuộc nhóm Tai Trung Tâm (Tày, Nùng, Thu Lao)
và giả định rằng đây là kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ (với các ngôn ngữ
thuộc Tai Trung Tâm) khi người Cao Lan di chuyển xuống phía Nam. Trong
tiếng Cao Lan cũng có nhiều yếu tố và hiện tượng ngữ âm như ở tiếng Hán, và
điều này cũng được giải thích bằng ảnh hưởng của tiếng Hán mà cộng đồng
người Cao Lan từng sử dụng như ngôn ngữ thứ hai.
Như vậy, có một điểm đáng chú ý khi xét về quan hệ cội nguồn: Ở trạng
thái hiện nay, tiếng Cao Lan và tiếng Sán Chí (tiếng nói của hai cộng đồng thuộc
“dân tộc” Sán Chay) không có điểm chung: tiếng Cao Lan thuộc ngữ hệ Tai -
Kađai, còn tiếng Sán Chí thuộc ngữ hệ Hán - Tạng (người Sán Chí đang nói bằng
một phương ngữ tiếng Hán).
Trạng thái ngôn ngữ phổ biến ở vùng đồng bào Cao Lan hiện nay là đa
ngữ, trong đó chủ yếu là song ngữ (Cao Lan - Việt). Đa số người Cao Lan nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
được tiếng Việt. Ở một số nơi, đồng bào còn nói được tiếng Tày, tiếng Hoa. Một
số người già Cao Lan biết chữ Hán.
Trạng thái đa/song ngữ kể trên, bên cạnh khía cạnh tích cực (là giúp cho
các dân tộc hiểu nhau) còn có cả mặt trái, vì đó là trạng thái đa/song ngữ tự nhiên
và không bình đẳng. Người Cao Lan, đặc biệt là lớp trẻ, trong khi cố gắng sử
dụng thành thạo ngôn ngữ khác (chủ yếu là tiếng Việt) thì lại quên đi một phần,
hoặc hoàn toàn tiếng mẹ đẻ của mình. Đây cũng là trường hợp của người Sán Chí
(quên hoàn toàn tiếng dân tộc mình chuyển sang nói tiếng Hán), và điều này có
thể lặp lại ở người Cao Lan.
Chưa có tài liệu nào giúp ta hình dung được đầy đủ và sâu sắc về tiếng Cao
Lan hiện nay (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, tiếng địa phương, chữ viết...).
Sau đây là một số nhận xét rút ra từ các tài liệu đã có:
- Xét về cấu trúc, tiếng Cao Lan là một ngôn ngữ rất gần với các ngôn ngữ
Tày - Thái ở Việt Nam (Tày, Nùng, Giáy, Thái...), với một số đặc điểm: đơn tiết
(các “tiếng” được phát âm tách rời, thường trùng với các đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa là từ và hình vị ); có thanh điệu (thường được chi nhận là 6 thanh); hệ
thống các phụ âm giữ chức năng âm đầu tương đối phong phú, các âm cuối có
đối lập giữa các âm mũi và không mũi, hệ thống nguyên âm có đối lập không đều
đặn giữa các âm dài/ngắn; đơn/đôi...
- Trong từ vựng tiếng Cao Lan, có sự phân biệt giữa các từ ngữ “thuần”
Cao Lan được sử dụng hàng ngày kết hợp với các từ vay mượn mới đây từ tiếng
Việt; Các từ ngữ “cổ” mang sắc thái trang trọng được dùng trong cúng bái và
xình ca, phần lớn là các từ có nguồn gốc từ tiếng Hán.
- Người Cao Lan có một hệ thống chữ cổ - chữ “Nôm Cao Lan”, được
hình thành trên cơ sở chữ Hán (là chữ khối vuông ghi ý), theo cách vừa biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
đạt ý vừa biểu đạt âm Cao Lan (giống như chữ “Hán Nôm” của người Việt).
Chữ này được dùng trong các sách cúng, ghi gia phả, một số tác phẩm thơ ca
dân gian. Nhà thơ Lâm Quý, người Cao Lan , tác giả cuốn Văn hoá Cao Lan
nhận xét rằng thứ chữ này “rất khó đọc và khó hiểu nghĩa”, “đại đa số quần
chúng nhân dân khi nghe đọc là hiểu, còn không tự đọc và viết được” [34 ;tr
172-173].
Cách “sáng tạo” ra chữ Cao Lan như thế lại lặp lại một lần nữa: Người ta
đã dùng các kí hiệu của hệ thống chữ Quốc ngữ kết hợp với một vài cải tiến để
ghi tiếng Cao Lan. Kết quả là một loại chữ Cao Lan ra đời, với các chữ cái và
nguyên tắc tương tự như chữ Quốc ngữ. Nhà thơ Lâm Quý nhận xét rằng: “Loại
chữ này rất phổ thông. Chỉ cần đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ là có thể viết
thư, thông tin cho nhau bằng tiếng Cao Lan trong cộng đồng dân tộc mình”[34;
tr.176-177]. Ông cho biết rất nhiều bài ca dao, dân ca, tục ngữ, vở kịch... đã được
chi chép lại bằng chữ này, chẳng hạn sau đây là một bài thơ bộ đội viết ra để trêu
các cô gái Cao Lan
(1)
:
Slính nung slính Nhớ em lắm
Slính nung slam tọn mấy kêu ngoài Nhớ em ba bữa không ăn cơm
Slính nung slam tọn mấy kêu láu Nhớ em ba bữa không uống rượu
Mấy đáy au nung tụp láu thai... Không được lấy em (anh) đập đầu chết...
Trong các bản xình ca do Lâm Quý, Ngô Văn Trụ sưu tầm được , ở phần
tiếng Cao Lan cũng được ghi bằng loại “chữ” này.
1.2.2. Xình ca trong vốn văn nghệ dân gian Cao Lan
Đồng bào Cao Lan không chỉ biết lao động chăm chỉ để tạo cho mình cuộc
sống ấm no, mà họ còn rất chú trọng xây dựng một kho báu văn nghệ dân gian
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
vô cùng phong phú, đa dạng và hấp dẫn. Đó là kho tàng truyện cổ tích, tục ngữ,
ca dao, dân ca, hội họa..., cùng với những lễ hội dân gian tưng bừng, những vũ
điệu nhịp nhàng uyển chuyển theo tiếng trống tang sành...Tất cả đã tạo nên một
đời sống văn hoá tinh thần của người Cao Lan thật trí tuệ mà tình cảm, gần gũi,
vui vẻ, cởi mở.
1.1.2.1. Truyện dân gian
Truyện dân gian Cao Lan có nội dung phong phú, phản ánh quan niệm về
nguồn gốc vũ trụ, loài người như "Truyện quả bầu", "Sự tích bàn chân người";
phản ánh quá trình lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên của người Cao Lan
như "Sự tích hạt lúa", "Ba chàng khổng lồ", "Chàng khổng lồ gánh núi"; truyện
ngợi ca tình yêu thương, lòng kính trọng, hiếu thảo của con cái với cha mẹ như:
"Láu Đoi", "Sự tích con bìm bịp", "Chiếc hũ vàng"; lại có truyện ngợi ca tinh
thần đấu tranh chống áp bức và giặc ngoại xâm: "Lâm Khê", "Cây
trám", "Chuyện kể về người mồ côi"; truyện lí giải về loài vật như "Sự tích con
bìm bịp", "Truyện hươu, rùa, cua"... Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện dân gian
của người Cao Lan rất đa dạng mộc mạc, giản dị, có lúc thâm trầm, sâu sắc nhiều
khi lại dí dỏm, vui tươi.
Dân gian Cao Lan còn lưu truyền một truyện đặc sắc kể về bà Chúa thơ ca
của người Cao Lan - "Kó Lằu Slam". Đây được xem là: tác phẩm mang chất tự
sự của truyện cổ. Truyện này có nguồn gốc từ các đêm hát ví và lấy thể của xình
ca để sáng tác, vì vậy gắn bó chặt chẽ với những đêm hát của các chàng trai, cô
(1) Để tiện trình bày và dễ theo dõi, các ví dụ bằng tiếng Cao Lan dẫn trong luận văn sẽ được ghi
bằng chữ này (mượn các kí hiệu chữ Quốc ngữ để ghi, với một số cải tiến)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
gái Cao Lan. Cụ thể, truyện gồm nhiều chương hát về Lằu Slam (hát mời, hát
tiễn và kể về chuyện tình của Lằu Slam). Vì vậy, nghiên cứu về xình ca trước hết
phải tìm hiểu tích truyện này.
Bao trùm lên những truyện cổ tích Cao Lan là tư tưởng nhân nghĩa sâu
sắc, là khát vọng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, con người sống với nhau
nhân ái, thủy chung. Tiếc rằng, mảng tự sự dân gian này chưa thực sự được các
nhà khoa học quan tâm sưu tầm, nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc.
1.2.2.2. Múa - Âm nhạc - Hội họa
XCCL không có múa phụ hoạ và có ít âm nhạc đệm, nếu có chỉ dùng sáo,
hoặc gõ phách khi hát đố.
Cùng với múa và âm nhạc, hội hoạ cũng là một nét đẹp văn hoá của đồng
bào Cao Lan. Tranh vẽ Cao Lan vừa thể hiện thế giới tâm linh và tín ngưỡng của
người xưa, vừa mang khát vọng về cuộc sống ấm no của con người nơi trần thế.
Ví dụ như các bức tranh vẽ thần Nông, thần Đất, thần Sông, thần bà Mụ...Đặc
biệt là bức tranh “Vương ca” mô phỏng về bà Lằu Slam và cảnh sinh hoạt ca hát
của dân tộc Cao Lan có liên quan đến Bà Chúa thơ ca này của họ.
1.2.2.3. Tục ngữ - Ca dao (dân ca)
Dân tộc nào cũng có tục ngữ - ca dao để mọi người trong cộng đồng
thưởng thức, tiếp thu những lời dạy, những đức tính tốt đẹp, những kinh nghiệm
ứng xử trong cuộc sống. Đặc trưng của tục ngữ - ca dao là ngắn gọn, cô đúc, có
quy luật vần điệu dễ nhớ, dễ bắt chước làm theo trong đời sống hàng ngày. Tục
ngữ - ca dao Cao Lan không ngoài đặc trưng đó.
Tục ngữ Cao Lan đã đúc rút kinh nghiệm trong cuộc sống, lao động sản
xuất; nhắc nhở những điều sai, khuyên răn, dạy bảo những điều hay lẽ phải cho
mọi người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Cho đến nay, ta chỉ biết người Cao Lan có một loại bài hát ru (ru con và ru
em) với làn điệu du dương, dịu dàng. Bên cạnh đó, trẻ em Cao Lan có nhiều bài
hát đồng dao rất hay, được sáng tác tự nhiên khi vui chơi.
Những ý tứ thâm sâu trong tục ngữ, những vần điệu nhịp nhàng của bài
hát ru và đồng dao, có thể được tìm thấy trong xình ca...
1.2.3. Xình ca Cao Lan
XCCL có từ bao giờ? Điều này chưa ai có thể nói rõ được. Theo lời kể của
các cụ già Cao Lan thì xình ca được lưu truyền từ xa xưa cho đến ngày nay. Làn
điệu này tương truyền do nàng Lằu Slam sáng tạo ra, vì thế nó gắn liền với truyện
thơ “Kó Lằu Slam” và truyền thuyết “Truyện tình nàng Lưu Tam”.
Truyền rằng, khi mới biết nói, cô bé Lằu Slam “thần đồng” này đã nói lên
những lời thơ, bảy tuổi đã hát ra những bài hát, đọc những lời đồng dao cho trẻ
chăn trâu trong làng vui hát trong những đêm trăng. Lời hát có câu:
Pá phoom dòm dòm pây khựt phứ Ông trăng dòm dòm đi vén mây
Mệt phứ tèo tèo háy bôn heo... Mây bay bay trời cao cao...
Mười sáu tuổi, Lằu Slam đã trở thành cô gái xinh đẹp, hát ví hay, đối đáp
giỏi làm mê hồn các chàng trai trong vùng. Trong đám hội làng ném còn, hát ví,
nàng đem lòng yêu chàng trai nghèo tên là Dừn. Chị dâu ép gả Lằu Slam cho nhà
giàu. Nàng phải giả làm người câm điếc suốt ba năm...Trong lòng nàng luôn nhớ
người tình cũ, ấp ủ hàng nghìn lời ca nhưng không được hát ra thành lời. Cuối
cùng, Lằu Slam đi hết núi này đến bản nọ để tìm người yêu. Những lời ca tình
yêu nhớ nhung được sáng tác trong suốt mấy chục năm ròng...Người đời chép lại
bằng chữ Nôm với hàng thuyền sách, hát 36 ngày đêm không hết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Chuyện kể rằng, khi biết chàng Dừn đã chết, Lằu Slam tựa vào gốc thông
hát lên những lời thương tiếc và cũng trút hơi thở cuối cùng ở đó...Hồn nàng
nhập vào gốc cây, từ đó cây thông này xanh mướt, quanh năm bốn mùa vi vu
trong gió, hát mãi những bài xình ca tình yêu da diết.
Nhân vật huyền thoại Lằu Slam đã được đồng bào Cao Lan tôn là “Bà
Chúa thơ ca”. Mỗi dịp vui xuân, đám hát ví đều có những lời ca mời hồn nàng về
nhập cuộc, để con trai con gái hát hay và đối đáp thông minh. Sau cuộc vui lại có
những lời hát tiễn nàng về cõi Phật.
Người Cao Lan coi xình ca là “kho báu trí tuệ” và “kho tàng tình cảm” của
mình. Đời sống của người Cao Lan xưa gắn bó với xình ca. Xình ca gần gũi,
thân thiết như bếp lửa, như nếp nhà sàn, như ruộng nương...Xình ca đã được gìn
giữ và lưu truyền bằng việc ghi chép, tập hợp thành sách, và chủ yếu vẫn là nhờ
truyền miệng.
XCCL có nhiều loại:
- Xình ca Thsăn lèn (hát năm mới): đó là những bài hát chúc nhau an
khang thịnh vượng trong những ngày đầu năm mới âm lịch.
- Xình ca Thsao bạo (hát đối đáp hay còn gọi là giao duyên): đây là loại
xình ca được nhiêu người ưa thích. Nội dung những bài ca này là những lời yêu
thương, nhớ nhung, hờn giận...
- Xình ca Kên láu (hát đám cưới).
- Xình ca Tò tèn (hát đố): người hát phải thuộc những bài có sẵn, phải
nhanh trí nghĩ ra câu đố và trả lời được câu đố của bạn hát…
Hai môi trường diễn xướng cơ bản của xình ca là trong nhà sàn và ngoài trời.
Xình ca trong nhà sàn thường diễn ra vào ban đêm (mùa xuân hoặc lúc nông nhàn).
Trai gái hát theo các tập sách ghi chép của người già truyền lại. Tương truyền xình ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
có mười hai tập, ứng với mỗi tập là một đêm hát với nội dung khác nhau. Hai bên hát
phải cùng nhau hát theo các chương có tính chất bắt buộc. Người Cao Lan gọi đó là
“ca bậc” - hát lớn để mọi người cùng nghe. Đêm hát tổ chức ở đâu, chủ nhà trải
chiếu hoa, chuẩn bị ấm chè, miếng trầu mời khách. Một đêm hát thường bắt đầu
khoảng từ tám, chín giờ tối đến sáng hôm sau.
Những đêm hát xình ca trong nhà có nội dung rất phong phú. Dường như
người Cao Lan hát về tất cả mọi điều xung quanh cuộc sống lao động và đời
sống tinh thần của họ. Những điều gần gũi như ngày tháng trong năm, các nông
cụ, thiên nhiên, quá trình di cư..., đến cả những điều xa xôi như vũ trụ, công
chúa, hoàng tử, các vị thần thánh... rồi cả những vấn đề thuộc về tâm linh như
can chi ngũ hành trong bát quái, kiện cáo số mệnh, con người chết vào tháng nào
sẽ đi hướng nào, số mệnh cung tuổi hợp hôn, xem ngày giờ làm nhà, lấy vợ, đặt
mồ mả, thờ cúng tổ tiên... Nhưng trên tất cả, xình ca vẫn hấp dẫn bởi những
chương hát về tình yêu đôi lứa với tất cả cung bậc tình cảm, hát về khát vọng được
cùng nhau trao đổi tâm tình, xây đắp hạnh phúc, đi đến hôn nhân.
Ngoài những đêm hát bên bếp lửa nhà sàn, trai gái Cao Lan còn hát ở
nhiều không gian khác nhau (ở chợ phiên, trên nương, trong rừng, suối nước...),
gọi chung là xình ca ngoài trời. Đây là không gian diễn xướng phóng khoáng để
trai gái Cao Lan tự do đặt lời, ứng khẩu đối đáp mà không cần sách. Vì thế, đặc
trưng của lời xình ca hát ngoài trời là không cố định, bắt buộc, người hát có thể
tự thay đổi, thêm bớt sao cho phù hợp với hoàn cảnh và với bạn hát, với tình
cảnh của hai bên. Bao giờ họ cũng đứng thành tốp hát tập thể, rồi từng cặp từng
đôi “ưng nhau” mới tách ra hát riêng. Loại xình ca này còn được gọi là "cao
shềnh" (hát giao duyên). Nội dung chủ yếu của nó là hỏi thăm, trao đổi tâm tình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
bày tỏ yêu đương, đố chữ, đố vật, trêu đùa nhau...Tuy vậy, xình ca dạng “ứng
khẩu biến hoá” này cũng phải tuân theo các bước sau:
- Vèo ca: hát để gọi bạn đến.
- Sạo ca: hát dạo đầu (hỏi tên, tuổi, họ hàng, quê quán để làm quen).
- Mầng ca: hát thề thốt (bày tỏ tình cảm, hẹn ước)…
Những bài hát tình yêu này được gọi chung là “ca ý”. Những ý tứ yêu
đương luôn tiềm ẩn trong đầu những chàng trai cô gái ở tuổi đang yêu, nhưng sẽ
thành kỉ niệm khi họ đã có vợ có chồng…
Có thể khẳng định rằng, xình ca là mảng văn nghệ dân gian còn giữ lại
được nhiều nhất những giá trị quý báu của văn hoá truyền thống Cao Lan, trong
đó có vốn ngôn ngữ của cộng đồng này. Có thể xem NTNT trong xình ca như
chìa khoá để chúng ta mở cánh cửa bước vào thế giới đa chiều, phong phú về đời
sống xã hội và đặc biệt tinh thần của người Cao Lan, được phản ánh qua XCCL.
TIỂU KẾT
Được thể hiện chủ yếu qua truyền khẩu, được ghi lại qua chữ viết sau này,
NTNT trong XCCL mang những đặc trưng của ngôn ngữ văn nghệ dân gian nói
chung: vừa bị ràng buộc bởi các khuôn mẫu truyền thống, vừa được ứng tác sáng
tạo tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và mục đích cụ thể của cuộc xướng ca, đồng thời có
thể có những đặc điểm riêng của một hình thức cụ thể của một cộng đồng.
Xuất phát từ quan niệm như vậy, việc chỉ ra các cơ sở lí thuyết và thực tiễn
trong nghiên cứu xình ca Cao Lan là nhằm hình dung đối tượng này trong những
phổ niệm về ngôn ngữ trong văn bản văn nghệ dân gian và các phương thức
chuyển nghĩa, những cách liên kết văn bản thường gặp, đồng thời xác định bước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
đầu những điểm đáng chú ý trong xình ca của cộng đồng này. Các khái niệm
được xác định là: ngôn ngữ, ngôn ngữ văn học, ngôn từ nghệ thuật, so sánh, ẩn
dụ, nhân hoá, biểu tượng, nhịp điệu, vần, xình ca..., có vai trò định hướng khi
xem xét những đặc trưng của NTNT trong xình ca về hình thức và ngữ nghĩa ở
những chương sau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
CHƢƠNG 2
NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT CỦA XÌNH CA
XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC
2.1. KẾT CẤU XÌNH CA
Xình ca là vốn quý trong văn hoá dân gian cổ truyền Cao Lan. Kết cấu của
xình ca vừa có nét tương đồng với dân ca trữ tình của các tộc người trên đất
nước ta, vừa có những đặc điểm riêng. Trong giới hạn của luận văn, xin được tìm
hiểu kết cấu của xình ca trên hai phương diện chính: Hình thức kết cấu và biện
pháp kết cấu.
2.1.1. Các dạng kết cấu
Do ảnh hưởng của thể tứ tuyệt (Trung Quốc) nên những khúc hát xình ca
giao duyên bao giờ cũng có bốn câu hát, mỗi câu 7 chữ. Trường hợp đặc biệt là
những khúc có 3 câu mỗi câu 7 chữ, hoặc bốn câu, câu đầu 3 chữ, ba câu sau mỗi
câu 7 chữ. Như vậy, câu hát xình ca không quá dài, trong khi hát, người hát
thường phải thêm những từ đưa đẩy “ư...ờ...” để ngân nga. Khúc hát chỉ có bốn
câu hát và chỉ gồm 28 chữ là một khúc hát ngắn nên đa số các bài xình ca phải
gồm từ hai khúc trở lên.
Xình ca được hát vào ban đêm và xình ca được hát trong nghi lễ (hát trong
đám cưới, đám tang...) được ghi chép vào sách in thành tập, khi hát người hát
phải cầm sách hoặc học thuộc lòng từng câu rồi hát theo. Vì thế, một khúc hát
đến cả tập sách thường có tính công thức, khuôn mẫu, bắt buộc người hát phải
ghi nhớ. Nếu không thuộc và không hát được sẽ bị chê cười...
Bên cạnh kết cấu cố định, bắt buộc, XCCL còn có những khúc hát giao
duyên, đối đáp có kết cấu khá linh hoạt. Từ mẫu gốc có sẵn, câu hát, khúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
hát có thể được thay đổi ít nhiều sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Lại
có cả những câu hát, khúc hát được sáng tác nhất thời với yêu cầu phải ứng
đối nhanh, thông minh, nên người ta khi hát phải nghĩ ra lời mới để đối đáp
với nhau.
Một số bài xình ca còn có cấu trúc tựa như một câu chuyện kể, mà cốt
truyện được trình bày qua lời đối đáp của bên nam và bên nữ. Đó là những tích
truyện cổ gắn liền đời sống văn hóa, tinh thần của người Cao Lan như Lương
Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Nàng Lằu Slam... Có những truyện gắn với các biến cố
lịch sử của tộc người như kể về cuộc bơi thuyền vượt biển, về quá trình di cư
đầy gian khổ của người Cao Lan từ Trung Quốc sang Việt Nam. Trong số
những bài xình ca trên, bài hát kể về Lằu Slam có cấu trúc cốt truyện rõ nét
nhất. Chuyện bắt đầu giới thiệu về "quê quán Lằu Slam ở Tây Châu", "nhà ở
hướng Tây", vì nàng làm ra nhiều thơ hay nên bị ganh ghét đẩy xuống vực,
nàng leo lên vực bằng dây rừng, rồi lại đến chuyện Lằu Slam đi tìm người yêu,
chuyện nàng tắm suối bị bọn trẻ trâu nhìn trộm. Kết thúc bài xình ca là chuyện
Lằu Slam chết bên gốc cây thông…
Yếu tố cốt truyện trong một bài xình ca làm cho những câu hát, khúc hát trong
bài liên kết chặt hơn, tình tiết chuyện phát triển theo những khúc hát cứ liên tiếp nhau,
khiến cho người nghe có cảm giác như nghe một câu truyện cổ có kết cấu chặt chẽ,
cốt truyện li kì. Ví dụ đoạn cuối câu chuyện về Lằu Slam như sau:
Lằu Slam cáo kích mục tàu tặng
Lênh pén lủy nhừ tun dắt chăng
Pắt slặn ngo họn Lằu Slam mòi
Dắt pin hay mép dắt pin hằng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Lấy cọ họn nhàu hai nhờn cáng
Lău Slam pắt tỉnh slấy ngoày ngoày
Cấy to co sì cáng cú lêu
Ậy ắc họn nhàu kịch slấy màu.
Sồng phéc mộc
Dơu cọ mò phằn và sắc háo
Phông sui thin dính Lằu Slam ca.
(Lằu Slam ghếch chân lên gốc cây / Quấn cho gọn lại đôi xà cạp / Hở ra
cặp đùi trắng hây hây / Xâu vào đôi cá đang thở ngớp / Nép vào đôi bên một
chãng cây / Đôi lời đồng dao trẻ chăn trâu / Thấy thế bèn chơi hát đôi câu / Một
chốc vô tâm làm lộ hết / Của báu dành cho mối tình đầu / Bao nhiêu lời hát bay
đâu hết / Để mắng đàn trẻ em mục đồng / Tựa ngồi buồn bã nơi gốc thông / Sống
làm gì nữa chết cho xong / Dưới gốc thông già phần mộ ai / Cỏ hoa, bướm lượn vẽ
vòng chơi / Người đời thương cảm người dưới ấy/Gió reo thông vút tiếng ca vui).
Khi nói đến kết cấu của một bài dân ca, người ta thường nói đến hai dạng
kết cấu đặc trưng là một chiều và đối đáp. XCCL cũng được sáng tác theo hai
dạng này.
Có thể hiểu kết cấu một chiều là kết cấu liên kết một lượt lời ca do một
chủ thể phát ngôn diễn xướng. Trong XCCL, kết cấu một chiều được sử dụng để
liên kết những câu hát, khúc hát liên tiếp của bên nam, hoặc bên nữ khi diễn
xướng mà không có lời đáp. Kết cấu một chiều được sử dụng ở những bài hát
“mời trầu”, “dâng tổ” trong xình ca đám cưới, bài “lời khuyên” của ông mòi (ông
mối) sau đám cưới, toàn bộ xình ca đám tang, và số bài hát mang tính tự sự diễn
xướng trong 12 đêm hát giao duyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Ở lễ “dâng tổ” và “mời trầu” của đám cưới người Cao Lan, có hai bài sáng
tác theo dạng kết cấu một chiều gồm trên 40 khúc hát, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
bốn câu bảy chữ, có trường hợp câu đầu ba chữ. Lời do bên nhà trai hát:
Kênh cụ slốc ông su tặng tàu Xin bẩm các cụ ngồi bàn đầu
Tạm pu phân phát pá lang đau Bạn bè chú rể được phát tiếp trầu cau
Chú công chóc slin tù phát lêu Trưởng họ chú cô đã phát hết
Lài vằn phát hấy mùn tài tàu. Xin được quay ra tiếp khắp nhà.
Sau tất cả các nghi lễ trong đám cưới, người Cao Lan còn có một bài hát
riêng do ông mòi hát khuyên răn cô dâu làm tròn bổn phận và trách nhiệm với
gia đình chồng. Bài hát gồm nhiều khúc hát nối tiếp tạo thành lượt lời dàn trải.
Kết cấu một chiều độc lập làm cho bài hát nghe như bài giảng về đạo lí:
... Em chưa có chồng em chưa biết
Lấy chồng ba năm em sẽ biết
Bao nhiêu cơm cháy cũng là em ăn
Bao nhiêu việc khó cũng là em làm.
Xình ca đám tang có số lượng ít hơn xình ca đám cưới, đến nay chỉ sưu
tầm được một bài gồm năm khúc hát có kết cấu một chiều, bài hát này do say
phù (thầy cúng) hát lúc căn dặn linh hồn người chết về với tổ tiên. Những câu
hát trong năm khúc hát mang tính trần thuật khá rõ nét, là lời của thầy cúng vừa
kể lể, vừa chuyện trò, tâm sự, khuyên bảo linh hồn. Mở đầu bài cúng, say phù
thường khai giọng bằng các từ “ờ... ự... ư” ngân dài rồi hát:
Dắt shồng mào nhằn mền dình tông Thứ nhất tiễn linh hồn theo hướng Đông
Sắt héng dừ hô kít dừ phông Xuất hành như gió cũng như mưa
Mài nhằn hời tạo mềnh vùng ốc Hình nhân hãy đến vương quốc (nhà) của mình
Dui mộc tạo lằn sằn chú công. Yêu cây đào (mà) về trần với tổ tông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Ngừy sồng mào nhằn mền dình nam Thứ hai tiễn linh hồn theo hướng Nam
Môi mìn tam tạng sầng cao san Mai này bước lên tầng núi cao
Dâu phờn chi sí mây pin héc Có cơm cho mi để mi ăn
Hàn sính di nà mù tác phan. Dù nhớ bố mẹ cũng không được quay lại.
Nói đến xình ca giao duyên, có thể thấy đặc trưng nổi bật là hát đối đáp trao
đổi tâm tình, nhưng xen kẽ vào đó vẫn có những bài có kết cấu một chiều. Đây là
những khúc hát của chàng trai hoặc cô gái tự bộc lộ nỗi lòng mình trước thiên
nhiên, cảnh vật, mượn cảnh tả tình, hoặc tưởng như với người yêu mà không có lời
đáp, nhiều khi chỉ là một khúc hát lẻ, được hát bâng quơ nhưng đầy ngụ ý:
Căn nhặt cổng làng sơi lư thằu Hôm nay gặp anh ở giữa đường
Kịn làng săn sắc lểnh dầu dầu Thấy anh xuân sắc mỹ miều thay
Lư sẩng nhằn to màn hoi hắu Phong cảnh đông người em không dám nói
Nàng hú quay ca ạm dứt sầu. Em đã nhớ anh đêm ngày.
Có những khúc hát dài giống như thơ tự do bảy câu mỗi câu bảy chữ,
người hát than thở về gia cảnh nghèo, đường xa khó đi, hát về bàn tay, cánh tay
(có lẽ tưởng như khi nắm tay người yêu)... Câu hát trong những khúc hát này
mang tính tự sự, có khi thiên về kể lể, miêu tả:
Dừ tồng mềnh dịp tởi cao thin Nhìn như những lá cây trên trời cao
Tao sẩng kít hới pùn lồng cạy Kết lại như hoa mào gà
Dừ tồng tông hái dắt chi lìn Trông như biển đông liền một dải
Tông hái ngo lồng can kếch shới Rồng ở biển đông mà phải khát khao
Mò phông mò hự ệnh săn thin Không mưa không gió đẹp duyên tình
Nà nìn sập lằn sham sẩu Cha mẹ sinh ra rồi để lại (cho mình)
Sẩu sắu ngo lồng sắt há lìn. Năm ngón tay như năm con rồng nằm liền một dải.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Bên cạnh kết cấu một chiều, đa số XCCL có dạng kết cấu đối đáp. Đây là
dạng kết cấu gồm những lời thoại, gồm hai hay nhiều lượt lời trao đáp tương tác
với nhau, do hai hay nhiều chủ thể diễn xướng. Đơn vị cơ sở được liên kết thành
kết cấu trao đáp là các cặp đối đáp. Ví dụ:
Chàng trai hát:
Di sùi mừy vắn tàu lộc chắm Đêm nằm anh mơ thấy em
Mấy slơi ca cậy vừy cao sài Việc nhà lười nhác chẳng thèm làm
Mấy tắc sú mình pụn tính slấy Không được lấy em thà chết đi
Senh di tồng chắm, slấy tồng mài. Sống chung chăn gối, chết cùng chôn.
Cô gái cũng ứng đối lại rất khôn khéo khiến chàng trai ủy mị kia bị thuyết
phục không thể “chết đi” mà cố gắng làm việc chăm chỉ hơn và sống trong hi vọng:
Mù tắc ây Ấy ấy, đừng vội chết
Dực làng kệc hơi slấy ngoày ngoày Chết rồi mang kiếp người không vợ
Công chác ca tàng mù nhằn chếnh Chàng ơi việc nhà đừng lười nhác
Nhằn nhằn sừn cáng tửy mù say Em chỉ lấy người chăm làm thôi.
Những bài xình ca giao duyên có kết cấu đối đáp linh hoạt như thế được
các thanh niên nam nữ Cao Lan rất yêu thích.
Ngoài xình ca giao duyên, kết cấu đối đáp còn có trong những bài xình ca
đám cưới. Đám cưới (làn mùn) của người Cao Lan được tiến hành qua các bước:
- Hoi mặc (dạm ngõ)
- Phạn ngằn (ăn hỏi)
- Làn mùn (giữ cửa)
- Đám an lìu (lấy dâu) và ca lực slau (gả con gái)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
- Kệnh tró (dâng tổ)
- Phát mạc làng hò (mời trầu)
Xình ca trong đám cưới được bắt đầu ở lễ “giữ cửa’’ (làn mùn), là những
khúc hát thường chỉ có hai câu, mỗi câu bảy chữ sắp xếp theo kết cấu đối đáp
giữa nhà trai và nhà gái. Khi nhà trai mang lễ vật đến, nhà gái ra đón ở cửa nhà
và hát hỏi:
Mơn tưu héc nhằn sợ ná chau ? Xin hỏi đoàn khách ở phương đâu?
Slạo sệch tềnh sưn hun hới su. Sân nhà đã quét xin mời đợi.
Nhà trai đáp:
Tưi sì héc nhằn sợi Cống Châu Anh là người khách từ Quảng Châu
Lài tạo tềnh sưn hun hới su. Đã đến sân rồi anh xin đợi.
Với kết cấu đối đáp ngắn như vậy, hai họ tiếp tục hỏi thăm nhau về những
người đi theo đoàn, về lễ vật... Tiếp đó là những khúc ca dài bốn câu bảy chữ,
đối đáp giữa pù tàu (phù rể) và các thiếu nữ giữ cửa. Khi bước đến cầu thang,
thấy nhà gái có giăng hai chiếc thắt lưng xanh đỏ treo vòng bạc, pù tàu hỏi:
Hò mợt hồng hồng làn lù háu Cái gì đỏ đỏ chắn đường vào
Hò một hồng hồng làn lù tàu Cái gì đỏ đỏ chắn đầu đường
Tàu di mù tàu mấy mù mấy Đầu không có đầu đuôi không có đuôi
Mấy sếch hò pun làn lù tàu ? Không biết tại sao chắn đầu đường?
Thiếu nữ nhà gái trả lời:
Sáu căn hồng hồng làn lù háu Thắt lưng đo đỏ chắn đầu vào
Sáu căn hồng hồng làn lù tàu Thắt lưng đo đỏ chắn đầu đường
Quạy hàng mấy sếch mình sư pạo Các anh không biết em bảo cho
Chếch sì sáu căn làn lù tàu. Chính là thắt lưng chắn đầu đường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Kết cấu đối đáp như trên được tiếp tục dùng để nhà gái hát đố thử tài nhà
trai, nhưng những khúc xình ca lúc này chỉ còn kết cấu trung bình, gồm ba câu
bảy chữ. Chẳng hạn, nhà gái hỏi:
Cấy căn chủ nhục cấy căn bào Mấy cân thịt lợn mấy cân mỡ
Cấy táu dầu nà cấy tầu tồ? Mấy bó vừng được mấy đấu tro
Thụ nhi sắt tắc cấy to mào? Con thỏ có bao nhiêu cái lông?
Nhà trai đáp:
Sặp căn chủ nhục dắt căn lào Mười cân thịt lợn một cân mỡ
Sặp táu dầu nà dắt táu tồ Mười bó vừng được một đấu tro
Thụ nhi sắt tắc mầu pun mào. Con thỏ có hàng vạn cái lông.
Ngoài ra, nhà gái còn đưa ra những đồ vật khác như cái cân, cái chổi, khay
ấm chén, bát tiết lợn..., để đố nhà trai. Bao giờ nhà trai đối được đúng, hoặc có
một ông bác, ông chú nhà gái nói một lời: “Hát thế được rồi, để họ vào nhà
thôi...”, thì nhà trai mới được vào dâng lễ vật.
Trong 12 tập sách, xình ca được hát vào ban đêm có rất nhiều chương
hát đối đáp với những nội dung phong phú. Đêm đầu tiên có 4/8 chương hát
đối đáp, đó là các chương: Bơi thuyền vượt biển (gồm 61 khúc hát); Chúc
tụng (gồm 9 khúc hát); Mời Bà Lằu Slam (gồm 20 khúc hát); Phụng chủ nhà
(gồm 53 khúc hát).
Những đêm hát sau này, từ đêm thứ hai đến mười hai, nam – nữ hát đố
nhau về 12 tháng trong năm, đố về các loài hoa, các nông cụ, thời tiết, vận mệnh,
can chi ngũ hành, hoặc ca ngợi về các vị thần thơ ca, thần nông... với những đề
tài rất phong phú được thể hiện dưới dạng hát hỏi. Bên trai hát hỏi rồi bên gái trả lời
hoặc ngược lại. Cứ như vậy, người ta giở sách ra hát suốt đêm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Về kết cấu của chương, bài cụ thể trong những đêm hát này, cho đến nay
chưa có nhà nghiên cứu nào tìm hiểu cặn kẽ. Chỉ có tác giả Lâm Quý giới thiệu
rằng đêm hát thứ sáu có ba bản sao, tập sách “gồm 100 trang, mỗi trang 4 bài thơ
chữ Hán - Nôm Cao Lan cổ. Với 400 bài thơ tứ tuyệt (4 câu, 7 chữ) được chia
làm nhiều chương, mục”[34; tr199].
Trong giới hạn của luận văn này, xin được phân tích cụ thể về hình thức
kết cấu của đêm hát thứ nhất ghi trong cuốn Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ
nhất do Lâm Quý sưu tầm và biên soạn.
Tập sách gồm 8 chương hát:
- Chương 1 - Ca hoi slinh (Mở đầu) có 38 khúc hát, trong đó 32 khúc theo
thể thất ngôn tứ tuyệt bốn câu, mỗi câu bảy chữ, sáu khúc còn lại có bốn câu, câu
đầu ba chữ, ba câu sau mỗi câu bảy chữ.
Toàn bộ chương Mở đầu có kết cấu một chiều độc lập, là lời của chàng
trai đi làm khách hát ở làng xa. Chàng kể chuyện mùa xuân đi chơi tìm người
thương, vào làng đông thấy nhiều hoa đẹp, thấy các cô gái tươi đẹp như hoa, thế
là chàng xin ở lại hát ví. Vào làng, chàng trai hát lời ngợi ca, kính chúc người
già, bạn bè bốn phương. Sau đó chàng hỏi họ tên cô gái, tỏ vẻ thán phục vẻ đẹp
của nàng, ướm hỏi để được cùng vào nhà để hát với nhau. Cuối cùng chàng trai
hát lời kính chúc làng bản và những người già.
- Chương 2 - Nhợp sun co (Vào bản): Gồm 34 khúc hát trong đó 31 khúc
theo thể thất ngôn tứ tuyệt, bốn khúc có dạng biến thể, câu đầu ba chữ.
Chương này có kết cấu một chiều độc lập, vẫn là lời hát của chàng trai kể
chuyện đi trên đường đến làng của bạn hát, chàng gặp bến sông, cối nước, con
suối... Chàng kể về việc đến đầu làng hát xin được vào, vì nghe người ta đồn về
cô gái rằng cô đẹp, duyên dáng, có bao nhiêu người hỏi mà chưa ưng đám nào ...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Ẩn sâu bên trong lời hát kể chuyện “vòng vo” ấy là ngụ ý ước muốn được giao
duyên cùng cô gái.
- Chương 3 - Dàu dinh co (Du hương ca): Gồm 41 khúc hát theo thể thất
ngôn tứ tuyệt. Chương này không có những khúc hát dạng biến thể như hai
chương trên. Vẫn là kết cấu một chiều, là lời chàng trai kể chuyện từ nhỏ đi chơi
khắp phương trời, qua nhiều nước có nhiều chuyện hay, cuối chương có năm
khúc hát kể chuyện về Pắc Po (Bắc Đô) - nhân vật lịch sử được ca ngợi như một
vị thần của người Cao Lan.
- Chương 4 - Súi co sờu sờn cụ hái (Bơi thuyền vượt biển): Gồm 61 khúc
hát, trong đó 51 khúc theo thể thất ngôn tứ tuyệt, 10 khúc có dạng biến thể câu
đầu ba chữ, ba câu sau bảy chữ. Chương này chủ yếu là lời chàng trai kể chuyện
bơi thuyền vượt biển. Thực chất, đây là chương hát miêu tả cuộc thiên di “chạy
loạn giặc giã” bằng thuyền từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc
vượt eo biển Đông sang Việt Nam của người Cao Lan. Trong khi chàng trai kể
chuyện làm thuyền để đi ra biển, có năm khúc hát là lời của cô gái hỏi đố thử trí
thông minh của chàng. Sau mỗi khúc hát hỏi lại có một khúc hát đáp trả lời. Hỏi
- đáp liên tiếp tạo thành năm cặp đối đáp trong lời kể chuyện của chàng trai. Ở
cuối chương hát có ba khúc hát là lời tự sự của cô gái nhớ lại lúc chàng trai mới
đến làng mình.
Như vậy chương này có hai dạng kết cấu một chiều và đối đáp đan xen
nhau tạo cho cấu trúc của chương có sự phong phú đa dạng.
- Chương 5 - Co phùng sun (Hát chúc tụng) gồm 10 khúc hát theo thể
thất ngôn tứ tuyệt. Năm khúc hát đầu là lời chàng trai chúc chủ nhà được mạnh
khỏe, bốn khúc hát sau là hai cặp đối đáp: Chàng trai hát hỏi chủ nhà về việc làm
nhà, cô gái thay lời chủ nhà trả lời. Khúc hát cuối cùng lại là lời chàng trai hát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
chúc mừng chủ nhà thêm mạnh khoẻ, giàu có, no đủ. Trong chương hát này cũng
có sự đan xen hai dạng kết cấu đối đáp và một chiều như chương hát bơi thuyền
vượt biển.
- Chương 6 - Sếnh Lằu Slam co (Thỉnh mời thần ca hát): gồm 20 khúc
hát, 19 khúc theo thể thất ngôn tứ tuyệt, một khúc hát dạng biến thể thất ngôn tứ
tuyệt câu đầu ba chữ, ba câu sau mỗi câu bảy chữ. Đây là khúc hát miêu tả cái
chết của Lằu Slam, khi hồn nàng nhập vào cây thông và để lại tiếng hát ca cho
đời. Trong chương này, năm khúc hát đầu là lời đối đáp của chàng trai và cô gái
về Lằu Slam. Khúc hát đầu tiên, chàng trai hỏi ai là người làm ra lời hát xình ca;
Ai là người sáng tác ra những câu hát mà không biết hát; Ai là người tiếp lấy
những câu hát ấy để hát.
Hai câu hát tiếp theo, cô gái trả lời Cửu Ca là người sáng tác mà không
biết hát, Lằu Slam là người tiếp lấy ca hát. Khúc hát thứ tư chàng trai lại hỏi về
quê và nhà của Lằu Slam ở đâu. Khúc hát thứ năm, cô gái trả lời quê của Lằu
Slam ở Tây Châu. Từ khúc hát thứ sáu đến hết chương hát là lời của một người
hát không xưng danh mà chỉ nói rằng Đôi ta cùng hát lời cầu thỉnh Lằu Slam (có
thể là nam hoặc nữ hát), sau đó kể chuyện cuộc đời của Lằu Slam từ lúc còn trẻ
đến lúc chết.
Như vậy, chương hát này cũng được kết hợp bởi hai dạng kết cấu: kết cấu
đối đáp, với những khúc hát hỏi - đáp không liên tục mà có sự cách quãng; và
kết cấu một chiều, là lời kể do nam hoặc nữ thể hiện.
- Chương 7 - Ca tày co (Hát về gà gáy): gồm bốn khúc hát theo thể thất
ngôn tứ tuyệt, kết cấu một chiều độc lập. Chàng trai hát nhắc khéo cô gái rằng gà
gáy báo quá nửa đêm rồi, tình tự đến thế nên đi nghỉ thôi. Chàng còn hát khen vu
vơ con gà trống có tiếng gáy hay quá, gáy lên cho gia chủ có giấc ngủ bình yên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
- Chương 8 - Phùng chứ co (Hát chúc tụng chủ nhà): gồm 55 khúc hát,
trong đó 37 khúc hát đầu chàng trai kính chúc tất cả mọi người trong gia đình cô
gái. Trong lời hát còn có ý thăm dò xem tình cảm của bạn hát với mình như thế
nào. Sau đó là bài hát cảm ơn của cô gái đối với sự quan tâm của chàng trai. Bài
hát của cô gái gồm ba khúc hát đều theo dạng biến thể thất ngôn tứ tuyệt, câu
đầu ba chữ Cảm ơn chàng, ba câu sau mỗi câu bảy chữ. 13 khúc hát cuối cùng là
lời chàng trai cảm ơn, kính chúc cả làng và tạm biệt bạn hát. Kết cấu của cả
chương hát là kết cấu đối đáp (bên nam chúc gia đình, bên nữ cảm ơn, bên nam
chúc cả thôn và tạm biệt nhau). Tuy vậy, lời đối và đáp dài (trên hai khúc hát),
nên mỗi bài đối và đáp ấy lại có kết cấu một chiều.
Khép lại tập sách Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất, bước đầu có thể
nhận xét rằng hình thức kết cấu của đêm hát này khá phong phú và phức tạp. Mỗi
chương hát có số lượng khúc hát khác nhau, độ dài ngắn khác nhau.
Có hai chương hát dài: Chương 4 (61 khúc hát) và chương 8 (55 khúc hát).
Đây là hai chương chiếm vị trí quan trọng của đêm hát. Chương 4 được hát vào
khoảng giữa đêm, đây là thời điểm khi tình cảm của đôi nam - nữ đã có thể
chuyển sang giai đoạn thân mật hơn, thắm thiết hơn. Khi họ đã biết và hiểu nhiều
về nhau cũng là lúc họ hát tâm tình, kể cho nhau nghe một chuyện nào đó, có thể
đố nhau để thử tài. Chương 8 được hát vào cuối đêm hát, lúc rạng sáng đôi trai
gái sắp phải chia tay. Đây là những giây phút đầy lưu luyến để đôi bạn dành cho
nhau lời chúc, lời hẹn. Có thể vì dùng dằng mãi không xa bạn hát được, nên họ
cứ kéo dài lời chúc, lời chia tay tạm biệt...
Giữa hai chương hát dài là ba chương hát ngắn (Chương 5 gồm 10 khúc
hát, chương 6 gồm 20 khúc hát, chương 7 gồm bốn khúc hát). Những chương
ngắn có vai trò như bước đệm nối giữa hai chương dài, giống như quãng nghỉ lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
hơi lấy đà, những chỗ được ngân nga của bài hát lớn, hoặc như các hồi luân
phiên nhau của một vở kịch dài.
Ba chương hát đầu tiên của đêm hát có độ dài trung bình (Chương 1 có 38
khúc, chương 2 có 34 khúc, chương 3 có 41 khúc). Có thể nói, ba chương này là
3 ba chương quan trọng của đêm hát, có chức năng dẫn dắt, mở đường cho câu
chuyện sẽ được kể ở những chương tiếp theo.
Hai dạng kết cấu đặc trưng của dân ca là kết cấu đối đáp và kết cấu một
chiều được sử dụng triệt để trong XCCL đêm hát đầu tiên. Kết cấu một chiều
độc lập
(1)
ở ba chương đầu tiên gắn liền với tính chất trần thuật, kể lể, tâm tình,
với chủ thể diễn xướng là chàng trai.
Những chương sau (chương 4, chương 6, chương 8) có kết cấu phức tạp
hơn, là kết cấu một chiều và đối đáp đan xen nhau, kết hợp với nhau ở nhiều
mức độ. Có kết cấu một chiều với lời hát dài của một chủ thể diễn xướng, xen
vào đó là những cặp đối đáp ngắn.
Có chương bao gồm những kết cấu đối đáp, nhưng bài đối và bài đáp lại
kéo dài theo dạng kết cấu một chiều. Sự đan xen này làm cho kết cấu những
chương hát xình ca biến đổi linh hoạt, thành một đêm hát không đơn điệu, mà rất
sinh động... Có lẽ vì thế mà trong 12 đêm hát, đêm đầu tiên được đánh giá là
đêm hát hay nhất, quan trọng nhất.
Có thể nói, khác với dân ca các dân tộc Giáy, Thái, Mường, Hmông
thường có kết cấu dài với tính trần thuật, kể lể, tự sự, những khúc hát xình ca
(1) Ngoài văn bản Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất của Lâm Quý còn có những
văn bản khác là Dân ca Cao Lan của Phương Bằng cũng có phần về xình ca trong đêm hát
đầu tiên. Trong bản Sịnh ca đêm đầu tiên của Phương Bằng sưu tầm được có kết cấu đối đáp
giữa nam và nữ ngay từ khúc hát đầu tiên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
lại có kết cấu ngắn từ hai đến bốn dòng thơ. Nhờ vậy, XCCL có tính chất cô
đọng, súc tích, gần giống như ca dao, dân ca người Việt.
Những khúc hát ngắn, câu hát ngắn nói lên phần nào về lối tư duy và cách
nói năng mộc mạc, giản dị của người Cao Lan. Bên cạnh đó, người Cao Lan còn
thể hiện sự sáng tạo phong phú trong cách thể hiện. Họ kết hợp, đan xen những
lời kể chuyện miêu tả, có đôi chút phô diễn, với những lời đối đáp ứng khẩu
nhanh trí, thông minh. Hai dạng kết cấu một chiều và đối đáp được kết hợp linh
hoạt làm cho xình ca thêm phần lôi cuốn, hấp dẫn. Chưa kể các khúc hát có yếu
tố cốt truyện khá li kì về lịch sử tộc người, về các vị thần..., khiến người nghe
theo dõi hồi hộp, chăm chú.
2.1.2. Biện pháp kết cấu
2.1.2.1. Biện pháp đối chiếu
Một trong những biện pháp thường được sử dụng để thể hiện, khắc họa
tâm trạng và diễn biến cảm xúc trong XCCL là biện pháp đối chiếu. Có thể
hiểu, đó là biện pháp các TGDG tìm ra những nét tương đồng và khác biệt
giữa hiện tượng (ngoài con người) với trạng thái tình cảm của con người, cốt
để miêu tả và làm nổi bật tâm trạng của con người. Đây là một biện pháp kết
cấu quen thuộc của dân ca các dân tộc ở Việt Nam. Trong XCCL, nhất là xình
ca giao duyên, các chàng trai cô gái cần thể hiện tình cảm khéo léo, tế nhị, kín
đáo..., vì thế họ thường mượn cảnh vật, những con vật quen thuộc để thể hiện
cảm xúc, tình cảm trong lòng, ví dụ:
Chốc mục tủn căn vừy sắc slấy
Cằn lằn pụi sừng vừy pằn cau
Lồng sời sằm van nhừ lùng phát
Sờn sời hái chông phông lờng dàu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
(Dịch ý: Búi trúc nhiều cây đẹp, bị chặt ắt chết thôi. Kì lân mọc gai nhọn,
chỉ vì không có mồi. Anh héo gầy xấu xí, chỉ vì thiếu em thôi).
Những hiện tượng có tính quy luật của đời sống như "búi trúc đẹp bị chặt
sẽ chết, con kì lân mọc gai vì không có mồi" được miêu tả đầy ẩn ý trong lời
chàng trai. Chàng mượn những chuyện về búi trúc, về con kì lân để nói ra câu
chuyện riêng của lòng mình, đó là tâm trạng héo mòn trong nỗi cô đơn vì không
có người yêu bên cạnh.
Cái được đem ra đối chiếu với tâm trạng của con người còn có cả những con
vật gắn bó hoặc thường gặp cuộc sống lao động thường ngày con ngựa, con ếch...
Cời mơ cụ cang mấy héc súi Cưỡi ngựa đường xa bao đèo suối
Xí mơ phan quay sung lủi lằn Nhìn ngựa quay về ngựa cũng buồn
Mơ di shơi héc lư pin sáo Chăn ngựa ven đường em phải khóc
Slính làng tìu lư di nàn dằn. Nhớ chàng đường xa bao giờ gặp.
Cóp thìu cóp Ếch ơi ếch
Cóp thìu tàng sênh sênh cón sênh Ếch kêu ngoài đồng tiếng lên tiếng
Ốc pạo di nà sùi mắng chậc Bố mẹ trong nhà chưa ngủ say
Vợi hò tán cóp thìu tàng sênh. Vậy mà con ếch vẫn nhảy kêu...
Đối chiếu những sự vật hiện tượng của thiên nhiên với những trạng thái
tình cảm của con người là biện pháp kết cấu được người Cao Lan rất ưa sử dụng.
Tình yêu có bao nhiêu cung bậc thì dường như thiên nhiên, cảnh vật cũng có bấy
nhiêu tình ý để giúp đôi trai gái thổ lộ tâm tình với nhau.
Lời chàng trai :
Dằn ham chí Bóng cây me
Có chí dằn ham lài tẻm thằu Bẻ lấy cành me đem cùng ngồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Hai nhằn sày lính dằn ham chỉ Hai người cùng nhớ bóng cây me
Slính chặc dằn ham sông lụi lằn Nhớ bóng cây me nước mắt chảy.
Lời cô gái :
Ham chí sọc Quả me chín
Một sì chí sọc hai sì sanh Một giờ thì chín hai giờ sinh
Dăn pốc hắm kịn ham chí sọc Có phúc mới gặp quả me chín
Dăn dừn hắm tắc cỏng làng hành. Có duyên mới được cùng chàng đi.
Dùng thiên nhiên, cảnh vật, những con vật quen thuộc để đối chiếu, làm
nổi bật sự phong phú, đa dạng trong đời sống tình cảm của người Cao Lan, là
cách diễn đạt quen thuộc không chỉ trong xình ca, mà cả trong lời ăn, tiếng nói
hàng ngày của người Cao Lan, là kết quả của lối tư duy trực quan sinh động.
Cách diễn đạt này phản ánh rõ sự gắn bó, sự hoà đồng với cỏ cây, với sông núi
và các sự vật bình thường trong đời sống... của đồng bào các dân tộc thiểu số,
trong đó có người Cao Lan.
2.1.2.2. Biện pháp trùng điệp
"Trùng điệp là biện pháp lặp lại một ý, một câu, thậm chí một khúc ca theo
nguyên tắc điệp ý, điệp cấu trúc ngữ pháp" [11; tr.138].
Thơ ca trữ tình dân gian rất hay sử dụng biện pháp kết cấu này để tổ chức
văn bản, tuy nhiên mỗi ngôn ngữ và từng loại văn bản có thể sử dụng ở mức độ
khác nhau. Tác giả Phạm Thu Yến cho rằng: nếu như ở dân ca người Việt có sử
dụng biện pháp trùng điệp nhưng số lượng ít thì biện pháp này ở dân ca Hmông
được sử dụng vượt trội cả về số lượng cũng như diễn tả... Nếu như dân ca Thái có
ưu thế của thủ pháp lặp một dòng thơ, thì dân ca Hmông hay dùng thủ pháp điệp
cả khổ thơ [47; tr.64].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
Trong những bài xình ca của người Cao Lan, các TGDG luôn sử dụng
biện pháp trùng điệp, trong đó có thủ pháp điệp từ, điệp câu hát, điệp khúc hát.
Điệp từ là một thủ pháp lặp lại một từ trong câu hay trong một số câu tiếp
theo. Thủ pháp này được sử dụng với mức độ cao trong XCCL:
Cù nìn cù líu slăn nìn lài Năm cũ qua rồi năm mới đến
So slam so slợi pơi hènh hai Mùng ba mùng bốn đi du xuân
So slam so slợi va hai sáo Mùng ba mùng bốn hoa đua nở
Tưy hắm sin tìu lưy lù lài. Anh đi nghìn dặm thăm người thương.
Thủ pháp lặp lại từ nhiều lần trong một câu hát và những câu tiếp theo
không chỉ là nét riêng trong lối diễn đạt, mà còn là biện pháp tạo nên tính nhịp
điệu cho câu hát, khúc hát, đồng thời tạo lên tính liên kết trong văn bản. Có
những từ được lặp lại với dụng ý nhấn mạnh, gây ấn tượng, thể hiện một sắc thái
biểu cảm nhất định, làm nổi bật chủ ý và cảm xúc của người hát:
Sì slíu dàu dinh dinh cắn dinh
Phao tìu di nà nìn cụ nìn
Phao tìu di nà nìn cấy lơu
Di nà chựu mùng tưy hùi dinh
(Lúc còn trẻ mải mê đi chơi, cứ để cha mẹ chờ năm này qua năm khác, cứ
để cha mẹ mỗi năm một già đi, cha mẹ mong mình về chơi).
Trong tiếng Cao Lan, dàu dinh có nghĩa là “đi chơi”, phao tìu có nghĩa là
“cứ để”, di nà có nghĩa là "cha mẹ", nìn có nghĩa là "năm"... Đây là những từ
ngữ lặp đi lặp lại trong khúc hát của chàng trai, đó có thể được xem là những "từ
được đánh dấu". Người con trai ấy tự hào khi kể cho bạn hát nghe thời niên thiếu
mình đã đi chơi khắp năm châu bốn biển, song chàng cũng ngậm ngùi, đôi chút
ân hận vì hiểu rõ lòng cha mẹ già ngóng trông khi con mải mê theo những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
chuyến du hương hết năm này qua năm khác. Nhưng không phải chỉ có vậy,
những tiếng được lặp lại này giúp cho việc liên kết các câu thành một chỉnh thể
và tiếp nối trong khúc hát, tạo thành lời kể chuyện liền mạch trong sự cởi mở
chân thành.
Điệp câu hát cũng được sử dụng với mật độ cao và khá linh hoạt trong
XCCL. Thủ pháp này đã tạo ra những cặp "sóng đôi" cả về ngữ nghĩa và cấu trúc
cú pháp. Sự lặp lại không phải y nguyên những câu hát trước mà thường có sự
thay đổi trật tự từ, ví dụ:
Sờu sờn dàu dàu hậy Cúng Tông Đoàn thuyền du du trên Quảng Đông
Lộc chi hậy tắc lộc chi hông Sáu thuyền đi đến sáu thuyền không
Lộc chi chi hậy tạo Ai Nàm Cúc Sáu thuyền đi đến An Nam quốc
Lộc chi nùi pún thụi quay hông. Sáu thuyền không đến phải về không.
Hoặc:
Su lài tạo
Cụ súi mù chi pù pù săm
Cụ súi mù chi pù pù lợc
Ná pù sằm van sờn pạo nhằn.
(Vào đến nơi (thôn của em), qua suối không biết chỗ nào trơn trượt, qua
suối không biết chỗ nào trơn ngã, ai biết chỗ nào trơn thì bảo với anh một lời).
Người Cao Lan còn thường hay có cách nói cặp đôi, cặp ba như so slam
so slơi (mồng ba mồng bốn); tời dắt, tời ngừy, tời slam (thứ nhất, thứ nhì, thứ
ba); sắu chắp, sắu tày (tay nắm, tay làm); cụ súi, cụ sun, cụ san (qua suối, qua
thôn, qua núi)...Thủ pháp điệp trong câu hát trong xình ca còn bắt nguồn từ
cách nói trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Tời dắt pin kệnh sun lơu tời Thứ nhất chúc người cao tuổi nhất
Tời ngừy pin kệnh sun lơu nhằn Thứ hai xin chúc các lão làng
Tời slam pin kệnh nình chếnh súi Thứ ba chúc suối làng em trong nhất
Nìn sun chếnh súi lềnh phăn phăn. Uống vào mát thấu tận trong lòng.
Điệp khúc hát là thủ pháp lặp lại về hình thức cấu trúc một khúc hát nào
đó trong bài hát, giữa nội dung ý nghĩa khúc hát “gốc” và khúc hát được lặp lại
có mối liên hệ nhất định.
Bài xình ca sau là lời đối đáp của chàng trai và cô gái đang trong giai đoạn
tìm hiểu, họ thử tài của nhau bằng việc ra câu đố. Mỗi câu hỏi và câu trả lời tạo
thành một cặp “sóng đôi”, hai khúc hát tạo thành một bài có hình thức kết cấu
chặt chẽ và ý nghĩa sâu sắc:
Hỏi:
Slăn hấy tời ốc cấy to chốc? Bao nhiêu gỗ nứa làm nên nhà
Slăn hấy tời sờn cấy to tênh? Làm thuyền cần mấy cân đinh
Cấy sợp căn tênh tềnh sờn táy? Mấy thanh ván ghép thành thuyền lớn
Cấy vài hợp lài sờn hắm sềnh? Đôi ta vượt sóng biển trùng xa.
Trả lời:
Slăn hấy tời ốc slợi to chốc Bốn mươi cây gỗ làm nên nhà
Slăn hấy tời sờn slợi to tênh Làm thuyền cần bốn mươi cân đinh
Slăn hấy căn tênh tềnh sờn táy Bốn mươi tấm ván bao thành tấm
Slam vài hợp lài sờn hắm sềnh. Ba bên hợp lại tạo nên thuyền.
Xình ca hát đố chủ yếu sử dụng thủ pháp điệp khúc hát để tạo nên những
cặp đối đáp sát ý và chặt chẽ. Về cơ bản, điệp khúc hát đã bao hàm cả thủ pháp
điệp từ, điệp câu hát. Việc lặp lại này không hề gây nên nhàm chán, đơn điệu bởi
một số từ ngữ đã được thay đổi, thêm bớt, đảo trật tự, để tạo ra nhịp điệu uyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
chuyển khi diễn xướng. Hơn nữa, điều đó luôn kết hợp với những ý nghĩa sâu sắc,
phong phú dưới hình thức của ngôn ngữ, tạo nên nét hấp dẫn, lôi cuốn người nghe.
Xét về phương diện liên kết văn bản và nghệ thuật hình tượng, có thể thấy
biện pháp trùng điệp tạo nên một số giá trị biểu đạt và nét đặc trưng trong xình
ca như sau:
Trước hết, cách trùng điệp câu hát theo kiểu “sóng đôi”, “sóng ba” làm
cho khúc hát dễ nhớ, dễ thuộc, từ đó dễ dàng lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Đồng thời, nhờ có lối điệp, những khúc xình ca trở nên mềm mại, uyển chuyển
hơn, sinh động hơn, có thể truyền tải được nhiều thông tin ngữ nghĩa, diễn đạt
được những ẩn ý thâm sâu trong lời hát.
Cách trùng điệp còn góp phần tạo nên nhịp điệu, tiết tấu cho khúc hát. Nó
giúp tạo lập mối quan hệ kết liền, gắn bó giữa các câu hát trong khúc ca thành
một mạch cảm xúc nhất định phù hợp với cảnh diễn xướng cụ thể của xình ca.
Tóm lại, từ những đặc điểm về hình thức và biện pháp kết cấu nổi bật
trong XCCL có thể khẳng định rằng: Kết cấu là yếu tố quan trọng trong hình thức
NTNT của xình ca. Đây có thể được xem là yếu tố ổn định, bền vững để cấu tạo, tổ
chức, sắp xếp những câu hát, lời hát theo công thức chung của xình ca, đồng thời
mở lối cho những sáng tạo của chủ thể diễn xướng.
2.2. THỂ, VẦN VÀ NHỊP ĐIỆU TRONG XÌNH CA
2.2.1. Thể
Có thể nói, thể (còn gọi là thể thơ) là yếu tố quan trọng trong NTNT của
dân ca. Nó chi phối các yếu tố khác như kết cấu, nhịp điệu, vần..., của bài hát,
khúc hát. Về cơ bản thể của XCCL giống với thơ Đường của Trung Quốc, hầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
hết các bài xình ca giao duyên được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt và dạng
biến thể của tứ tuyệt.
Trong giới hạn của luận văn, xin được giới thiệu khái quát về hai loại thể
mà các TGDG Cao Lan thường sử dụng để tạo nên hình thức của xình ca.
Thể thất ngôn tứ tuyệt: Một khúc hát xình ca tương ứng với một khổ
thơ thể thất ngôn tứ tuyệt bao giờ cũng có bốn câu, mỗi câu bảy tiếng, ví dụ:
Kịn nình sanh tắc háo chi va Nhìn em như thể thiên nga
Mỉn pếc dừ tồng công phán xà Chẳng phải phấn son như ngọc ngà
Mấy sếch di nà trang hới tởi Bõ công sinh thành cha mẹ dưỡng
Di nà sanh tởi tạng lìn va. Sinh được ra em đẹp như hoa.
Nhịp thường gặp trong thể này là 2/2/3 hoặc 4/3, có khi ngắt nhịp 3/2/2
hoặc 3/4. Vần thơ trong xình ca có nhiều loại như: vần bằng, vần trắc; vần gián
cách, vần ôm. Khúc ca sau đây có hình thức đặc trưng của các khúc trong xình
ca: Nhịp 4/3 ở mỗi câu và gieo vần ôm (dạng AA-A), vần chân được gieo ở hai
câu đầu với câu cuối:
Cù nìn cù líu / slăn nìn lài Năm cũ qua rồi / năm mới đến
So slam so slợi / pơi hènh hai Mùng ba mùng bốn / đi du xuân
So slam so slợi / va hai sáo Mùng ba mùng bốn / hoa đua nở
Tưy hắm sin tìu / lưy lù lài. Anh đi nghìn dặm/ thăm người thương.
Dạng biến thể của thể thất ngôn tứ tuyệt:
Đó là những khúc ca có bốn câu, nhưng câu đầu tiên chỉ có ba tiếng, ba câu
sau mỗi câu có bảy tiếng. Về cơ bản, những khúc hát thuộc dạng biến thể này có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
nguồn gốc là những khổ thơ thất ngôn tứ tuyệt, do hoàn cảnh diễn xướng đã được
biến đổi đi cho phù hợp, ví dụ:
Sếch nình nhợp Mời em vào (nhà)
Làng mù sắc mục họn săn sài Anh không đẹp gì mà như thân cây mục
Căm sì slính phồng vằn hợp slính Chỉ vì hồn nhớ nhau mà nhớ
Hống phạ mù dưn cù sềnh lài Đổ tại tình yêu đến nên nối thế.
Hoặc khúc ca có hai dòng, mỗi dòng bảy tiếng, được nhà gái hát lên với ý
hỏi han chào đón:
Mơn tưu héc nhắn sợ ná chau? Xin hỏi đoàn khách ở phương đâu?
Slạo sệch tềnh sưn hun hới su. Sân nhà đã quét xin mời đợi.
Nhà trai đáp:
Tưi sì héc nhằn sợi cống châu Anh là người khách từ Quảng Châu
Lài tạo tềnh sưn hun hới su. Đã đến sân rồi anh xin đợi.
Và khúc ca có ba câu, mỗi câu bảy tiếng, với ý hỏi:
Cấy căn chủ nhục cấy căn bào Mấy cân thịt lợn mấy cân mỡ
Cấy táu dầu nà cấy tầu tồ Mấy bó vừng được mấy đấu tro
Thụ nhi sắt tắc cấy to mào? Con thỏ có bao nhiêu cái lông?
Nhà trai đáp:
Sặp căn chủ nhục dắt căn lào Mười cân thịt lợn một cân mỡ
Sặp táu dầu nà dắt táu tồ Mười bó vừng được một đấu tro
Thụ nhi sắt tắc mầu pun mào. Con thỏ có hàng vạn cái lông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Về cơ bản, nhịp trong những khúc ca “biến thể” giống như thể thất ngôn
tứ tuyệt, chỉ có câu hát đầu ba tiếng được tách ra một nhịp riêng.
Những khúc hát thuộc dạng “biến thể” linh hoạt và phong phú này cho
thấy: Khi sáng tác xình ca, người Cao Lan đã chịu ảnh hưởng của lối diễn xướng
trực tiếp. Khúc ca không bắt buộc phải nhất loạt theo công thức thể cứng nhắc mà
được làm mới sao cho việc giao tiếp bằng lời hát được thuận tiện nhất. Một trong
những cách thức như vậy là những yếu tố của lời ăn tiếng nói hàng ngày được sử
dụng, tạo nên sắc thái biểu cảm nhất định cho khúc ca.
Yếu tố lời ăn tiếng nói xuất hiện ở những đoạn mở đầu một câu ca và những
chỗ ngắt nhịp giống như lời khai giọng hoặc nghỉ lấy hơi, hay chuyển tiếp,
thường là “ờ... ư...”, “ò... ư...”, “ừ... ư...”,... Các phụ từ đưa đẩy: hò pun (làm
sao), dằn (mấy), hò nìn, dằn nìn (nào), hò mợt (bao nhiêu là)..., có vai trò làm
cho khúc hát mềm mại, uyển chuyển hơn, đồng thời được cảm nhận dễ dàng hơn.
Những yếu tố như vậy xuất hiện rõ nét nhất trong những câu hát đầu có ba
tiếng, đó thường là những lời nhắn, hỏi, mời, gọi..., giống ngôn ngữ trong giao tiếp
hàng ngày: sếnh nình nhợp (mời em vào), sếnh nùnh su (mời em đi), làng mấy sếch
(chàng biết chưa), mấy sếch co (không biết hát đâu), lằu lờng nháu (anh chàng lãng
du ơi), làng sời dừn (xem anh chàng hiền này)... Những yếu tố này với tính chất vừa
khuôn mẫu vừa phá cách rất linh hoạt của chúng, làm cho ngôn ngữ xình ca rất gần
gũi, quen thuộc với đời sống của đồng bào Cao Lan. Có thể coi hát xình ca cũng là
một cách trò chuyện, trao đổi tâm tình với nhau:
Lờng sờn líu Thả thuyền thôi
Lờng sờn tý lợc hái chông can Đã đến biển rồi thả thuyền thôi
Lơu lồng vừn súi quay ạo tỉn Rồng già quay gót về linh điện
Tạo sự lưy nhừ cụ pịt van. Cá chép về nơi giữa biển khơi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Mòi tồng pan Bạn tình ơi
Xinh líu sờu sờn co dắt pan Hát chương vượt biển đã xong rồi
Xinh líu sờu son co dắt pún Đôi ta đã đến bến bờ hạnh phúc
Lại vằn xịnh hậy lờng co tàng. Bồi hồi nhớ lại lúc gian truân.
Có thể nói, thể của xình ca đã được biến đổi cho phù hợp hơn với lối nói,
cách cảm, cách nghĩ hàng ngày của người Cao Lan. Thường là khúc ca bị rút gọn
đi một số tiếng nhưng về cơ bản vẫn có thể coi đó thuộc thể thất ngôn. Đây là một
thể truyền thống cách luật đòi hỏi ngôn từ phải hàm súc, chọn lọc. Tuy nhiên từ
ngữ dùng trong xình ca lại phải rất mộc mạc, gần gũi với đời sống của người lao
động, vừa trang trọng vừa mang tính khẩu ngữ. Phải chăng, việc lựa chọn thể và
sử dụng NTNT của các TGDG Cao Lan ở trong sự mâu thuẫn?
Vậy thì phải chăng cũng có thể coi việc xử lí mâu thuẫn này trong ý đồ
của nghệ thuật biểu đạt. Bởi với những khúc ca ngắn, ngôn từ bị gói gọn chỉ
trong hai mươi tám tiếng, thậm chí hai mươi tư tiếng, mười bốn tiếng, nhưng
xình ca vẫn thể hiện được tất cả các cung bậc tình cảm và những ẩn ý sâu sắc của
người hát, ví dụ:
Căm di vênh lài tạo mòi chau Đêm nay anh đến làng em
Kịn nình chếch pậu sời cao làu Thấy em dệt vải trên nền nhà cao
Làng dịu cùng nình cao chếch pậu Cho anh dệt vải cùng nào
Pha nhằn sờn càng tưy phông làu. Sợ người ta bảo anh vào giao duyên.
Hoặc:
Xíp tìu căm dì xịnh sì slíu Đêm nay lời hát hết rồi
Ngò mầy nhịt ếnh chịu slam kenh Trăng lên soi tỏ núi đồi trong đêm
Chi chao kít mung làn cụ lù Nhện vàng giăng mắc tơ duyên
Mù hai tời hù tưy nàn hènh. Anh qua vướng phải khó xin đường về.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
Trên thực tế, bên cạnh thể thất ngôn tứ tuyệt và dạng biến thể, người Cao
Lan còn sử dụng cả thể tự do trong những bài cúng, bài hát ru... Việc tìm hiểu
các quy tắc cùng những giá trị nghệ thuật của sự "pha trộn" giữa cách luật và
biến thể hoặc tự do trong các loại dân ca này, rất đáng được quan tâm, chú ý tìm
hiểu kĩ hơn, ở một công trình khác.
2.2.2. Vần
Khảo sát 8 chương và 266 khúc hát trong đêm hát đầu tiên, xin đưa ra một
số nhận xét về đặc điểm của vần như sau:
Trong XCCL có sự hiệp vần chặt chẽ, 100% khúc ca được khảo sát có
vần, không có khúc hát nào bị bỏ cách. Hai dạng vần được sử dụng chủ yếu là
vần chân và vần lưng.
Vần chân được dùng trong xình ca với các dạng cơ bản là: vần liền và
vần cách. Ngoài ra, vần chân còn được gieo theo cách riêng của người Cao Lan,
có thể coi đó là những trường hợp đặc biệt.
Qua khảo sát: Có 97 khúc ca dùng vần liền (dạng AA-A), ví dụ:
Hai sênh pin xịnh mồi sun tàu
Sun tàu sun mấy lình dàu dàu
Chộng vừy lơu sun sùi mấy vắn
Sền làng lài chú kít phông làu.
Có 14 khổ thơ dùng vần cách (dạng ABAB), ví dụ:
Làng lài hènh cù keo nhi cúc
Căm u nhục thụ pời lênh cai
Slăng nhằn nỉm kênh quay phợt cúc
Làng pan mù dửn sắt sênh tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Những trường hợp vần chân được gieo tương đối đặc biệt là dạng vần cách
mà chỉ ở hai câu: câu đầu với câu cuối, hoặc câu thứ hai với câu cuối. Có 153
khúc gieo vần chân dạng này. Các ví dụ:
- Vần cách ở câu đầu với câu cuối:
Sờu sờn hậy tạo cáu tìu cang
Hò pun (lồng mu) sắt sênh sời cang thăn
Mù chi (di mù) kéch làng súi lù
Mù chi (di mù) kéch tủy co tàng.
- Vần cách ở câu thứ hai với câu cuối:
Sời sờn hậy tạo dăm dinh mìu
Dăm dình mìu lủy dơu lềnh lò
Dịu sú lềnh lò hợ sư sì
Sư sì cấy to sú cấy to.
- Vần liền chỉ được gieo ở hai dòng đầu, có 4 khúc, ví dụ:
Làng lài hènh cù nháu từng cai
Tắc kịn nháu va tú tú hai
Sa sáu áo lài slin mờn mòi
Nhằn tàng dơu nháu sì hò ca.
Có 5 khúc không có vần chân, ví dụ:
Sòng phéc mộc
Dơu cọ mò phằn mấy chi nhằn
Dơu cọ mò phằn va sắc háo
Phong sui thin sính lằu slam ca.
Nhưng có 2 khúc hiệp vần cả 4 câu, ví dụ:
Cằm di làng lài tạo mòi chau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Kịn nình tạm súi cụ sun tàu
Làng dịu tày tàu thau dắt káu
Cam tìu tu lưy thạu slăm tàu.
Kết quả khảo sát vần chân trong 266 khúc ca có thể được trình bày qua
bảng sau:
Dạng vần
Số lƣợng
khúc ca
Tỉ lệ %
Vần liền (Dạng AA-A) 97 36,5
Vần cách (Dạng ABAB) 14 5
Vần cách gieo ở 2 câu (câu đầu - câu cuối; câu thứ
hai - câu cuối)
153 54
Vần liền gieo ở hai 2 đầu 4 1,5
Vần liền gieo ở 4 2 1
Không gieo vần chân 5 2
Các dạng vần chân trong XCCL
Vần lưng trong xình ca có cách gieo vần khá phong phú, ở các vị trí
khác nhau từ đầu đến cuối câu theo các dạng khác nhau. Dạng vần lưng gieo
trong cùng một câu, hay còn gọi là “vần chuỗi” được sử dụng rất nhiều trong
XCCL (khoảng 240/266 khúc ca, chiếm khoảng 90%), ví dụ:
Cù nìn cù líu slăn nìn lìn
So slam so slợi pơi hènh slin
So slam so slợi va hai sáo
Tƣy hắm sin tìu lƣy lù lìn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
Vẫn chuỗi có hai dạng: Vần liền như "nìn, lìn" và "slợi, pợi"; và vần cách
như "nìn - nìn, lìn", "tưy - lưy". Đối với vần chuỗi, cách gieo vần phải tuân theo
quy tắc nhất định, chỉ được gieo vần ở các tiếng cùng một nhóm thanh điệu hoặc
"bằng" hoặc "trắc". Vần chuỗi trong xình ca thường là vần "bằng". Những vần
liền gieo giữa câu thường ở các tiếng trước và sau ranh giới thuộc hai vế của
nhịp ngắt :
So slam so slợi / pơi hènh slin
Tời dắt sì sằn / nhằn tá cú
San san dơu lúi / súi lơu lồng...
Bên cạnh sử dụng vần chuỗi, các TGDG Cao Lan còn sử dụng những
cách bắt vần chân với vần lưng rất linh hoạt, đặc biệt ở những khúc hát có
dạng "biến thể":
Tá tìu tưi/ Lão ngồi câu
Nhợt nhợt tá tìu/ sời căng chăn Ngày nào cũng thấy lão câu bên bờ
Tìu căn lộc cang/ mù nhừ héc Có đâu cá đớp rung phao
Nàn với sắc séc /sưng sa chau? Cần câu trĩu nặng nhấc sao khỏi bờ.
Sau đây là các ví dụ tiếng cuối ở câu trước bắt vần với các tiếng của câu sau:
+ Bắt vần với tiếng thứ nhất:
Tời ngừy hai sênh slin mời chau
Slạu sài sắt cai táu mùng một.
+ Bắt vần với tiếng thứ hai:
Hai sênh pin xịnh mòi sun tàu
Sun tàu sun mấy lình dàu dàu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
+ Bắt vần với tiếng thứ ba :
En chí phây thin phùng pệc hợc
Pẹc sính lợc tàng phùng kiu ngò.
+ Bắt vần với tiếng thứ tư :
Căm dì slinh phồng vằn sau hấy
Lài vằn sau hấy mờn san co.
+ Bắt vần với tiếng thứ năm:
Có sì mấy tồng sênh mấy háo
Xịnh sắt mấy tồng lao tời ông.
+ Bắt vần với tiếng thứ sáu:
Làng mấy sếch
Ốc táy tời tàng mấy sếch dàu.
Ngoài ra vần lưng còn được hiệp vần theo chiều dọc khúc ca:
Dơu mờn hò sì pin sláy phấu
Dơu mờn hò sì pin sláy tao
Dơu mờn hò sì pin sláy cậy
Dơu mờn hò sì dùng sláy páo.
Và chéo giữa các câu:
Sếch lưu lằu slam vằn phùng chứ
Phùng háy chứ nhằn sài sốc an
Căm nìn phùng háy mềnh nìn phú
Mềnh nìn sài sốc num ca tàng.
Có thể thấy trong xình ca, người Cao Lan có cách gieo vần rất phong phú.
Vần chân có sáu dạng vần, trong đó vần cách ở hai dòng thơ rất hay được sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
dụng. Vần lưng có dạng vần chuỗi và các cách bắt vần linh hoạt của vần chân
với các tiếng trong câu, cách bắt vần lưng dọc và chéo khúc ca.
Những hiện tượng điệp vần trên đã liên kết, móc xích các tiếng trong các
câu hát, khúc hát lại với nhau thành một chỉnh thể hoàn chỉnh. Điệp vần còn tạo
cho lời xình ca trở nên cân đối, hài hòa, nhịp nhàng, có giá trị tạo nhịp điệu.
2.2.3. Nhịp điệu
Tính nhạc trong xình ca được t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG XÌNH CA CAO LAN.pdf