Tài liệu Luận văn Nghiên cứu về đầu cơ đất đai: Luận văn
Đề Tài:
Nghiên cứu về đầu cơ đất đai
Đề án môn học
2
A. LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi thực hiện đổi mới, quan hệ đất đai ở nước ta đã có những biến đổi nhanh
chóng. Cùng với những tiến bộ về kinh tế và sự tăng lên về thu nhập là sự tăng lên
của nhu cầu về nhà ở, đất ở của dân cư và đất để sản xuất kinh doanh ngày càng
tăng, nhất là ở các đô thị. Từ trước khi có luật đất đai (1993) các quan hệ về đất đai
như chuyển nhượng, chuyển đổi đất đai...đã xuất hiện nhưng bị nhà nước cấm. Các
giao dịch thời kỳ này đều là các giao dịch ngầm và diễn ra một cách tự phát, không
có sự điều tiết của nhà nước. Từ khi có Luật Đất đai (1993) có hiệu lực thi hành,
các quan hệ chuyển nhượng, mua bán quyền sử dụng đất... trở nên sôi động và thị
trường đất đai ngày càng được định hình rõ nét hơn.
Mặc dù vậy, thị trường đất đai ở nước ta vẫn không thoát khỏi tính chất của một
thị trường ngầm bởi luật và các văn bản pháp lý khác chưa đủ sức mạnh để điều
tiết thị trường đất đai vậ...
49 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu về đầu cơ đất đai, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Nghiên cứu về đầu cơ đất đai
Đề án môn học
2
A. LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi thực hiện đổi mới, quan hệ đất đai ở nước ta đã có những biến đổi nhanh
chóng. Cùng với những tiến bộ về kinh tế và sự tăng lên về thu nhập là sự tăng lên
của nhu cầu về nhà ở, đất ở của dân cư và đất để sản xuất kinh doanh ngày càng
tăng, nhất là ở các đô thị. Từ trước khi có luật đất đai (1993) các quan hệ về đất đai
như chuyển nhượng, chuyển đổi đất đai...đã xuất hiện nhưng bị nhà nước cấm. Các
giao dịch thời kỳ này đều là các giao dịch ngầm và diễn ra một cách tự phát, không
có sự điều tiết của nhà nước. Từ khi có Luật Đất đai (1993) có hiệu lực thi hành,
các quan hệ chuyển nhượng, mua bán quyền sử dụng đất... trở nên sôi động và thị
trường đất đai ngày càng được định hình rõ nét hơn.
Mặc dù vậy, thị trường đất đai ở nước ta vẫn không thoát khỏi tính chất của một
thị trường ngầm bởi luật và các văn bản pháp lý khác chưa đủ sức mạnh để điều
tiết thị trường đất đai vận động theo quy luật của cơ chế thị thường vừa theo định
hướng của nhà nước. Những bất cập trong quản lý đất đai đã tạo ra miếng mồi béo
bở cho những kẻ đầu cơ, nắm giữ đất đai. Hiện nay hoạt động đầu cơ đất đai ở
nước ta đến ngưỡng báo động, nhất là ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Đây là một
vấn đề nóng bỏng hiện nay bởi Nhà nước đang cần vốn để đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa phấn đấu đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì một phần ngân sách không
nhỏ bị thất thu nằm ở lĩnh vực đất đai chủ yếu gây ra do đầu cơ đất đai (ĐCĐĐ) và
các tiêu cực trong lĩnh vực này gây ra. Hơn nữa những tín hiệu thất thường của thị
trường nhà đất ở nước ta trong thời gian qua gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh
tế và đời sống của dân cư. Chúng ta đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn thị trường,
văn bản pháp lý nhằm khắc phục đầu cơ đất đai nhưng hoạt động này không những
không giảm mà còn gia tăng một cách đáng lo ngại. Chính vì vậy, chúng ta cần
nhận thức rõ hơn những vấn đề xung quanh hoạt động này, nhận thức đúng tầm
quan trọng của thị trường bất động sản (BĐS) và những hậu quả ghê gớm của hoạt
động đầu cơ (HĐĐC) đối với thị trường BĐS để tìm ra những biện pháp nhằm loại
bỏ hoặc hạn đến mức thấp nhất thiệt hại do hoạt động này gây ra. Đồng thời nhìn
lại những gì chúng ta đã thực hiện để chống ĐCĐĐ nhưng tại sao lại chưa thực
hiện triệt để. Dường như chưa có văn bản pháp quy nào là liều thuốc đặc trị đối với
hoạt động này. ĐCĐĐ cũng là một nguyên nhân thôi thúc Luật Đất đai sửa đổi kỳ
này nhằm chấn chỉnh hoạt động của thị trường nhà đất ở Việt nam đồng thời loại
bỏ những tiêu cực đất đai và làm lành mạnh hoá thị trường BĐS, đưa thị trường
BĐS vào quỹ đạo hoạt động ổn định để góp phần thực hiện thành công chiến lược
phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020. Chính vì vậy, lĩnh vực đất đai hiện nay
đang thu hút sự chú ý của đông đảo các tầng lớp dân cư và bộ Luật Đất đai sắp ra
đời đang được các ý kiến đóng góp quý báu của nhiều tầng lớp dân cư.
Là một sinh viên đã từ lâu quan tâm về vấn nạn đầu cơ em muốn nghiên cứu về
vấn ĐCĐĐ để nhìn nhận chính xác về hoạt động này, đồng thời em muốn đóng
góp những ý kiến của mình trong việc đối phó với hiện tượng này.
Đề án môn học
3
Vì những lý do trên em chọn đề tài “Hoạt động đầu cơ đất đai tại Việt Nam và
các giải các giải pháp cần thiết”
- Mục đích nghiên cứu
Là một sinh viên năm cuối, đề án môn học chuyên ngành không chỉ là cơ hội tốt,
là quyền lợi của một sinh viên được nghiên cứu, được ôn lại và vận dụng những
kiến thức tổng hợp đã được nghiên cứu từ những năm trước mà còn là nghĩa vụ của
một sinh viên. Đây là nghĩa vụ phải hoàn thành trong chương trình đào tạo ở bậc
đại học. Đề tài của em không chỉ nhằm mục đích thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ
của bản thân mà em muốn thông qua quá trình nghiên cứu đề tài này em sẽ nâng
cao kiến thức của mình, đồng thời nhằm tiếp cận với thực tế để sau khi ra trường
không gặp nhiều bỡ ngỡ. Hơn thế nữa, lĩnh vực đất đai ở nước ta là lĩnh vực còn bị
thờ ơ, chưa được quan tâm đúng mức và thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
còn đang tranh cãi. Nạn ĐCĐĐ hoành hành gây nên tác hại vô cùng to lớn mà ta sẽ
nghiên cứu trong chương I của đề tài đã gây nhức nhối cho các nhà nghiên cứu và
các nhà quản lý. Là một sinh viên chuyên ngành Kinh tế địa chính, trường Đại học
kinh tế quốc dân Hà Nội, em muốn nghiên cứu xem HĐĐC là những hoạt động
như thế nào? có tác hại đối với nền kinh tế và đời sống xã hội như thế nào? thực
trạng ĐCĐĐ tại Việt Nam ra sao? Cơ chế, chính sách pháp luật của Nhà nước có
liên quan và những biện pháp chống đầu cơ cần thiết. Cuối cùng là một số kiến
nghị của bản thân về giải pháp hạn chế ĐCĐĐ.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động ĐCĐĐ trên phạm vi cả nước trong
mối quan hệ với thị trường nhà đất. Nhưng ở nước ta thị trường BĐS ở Hà Nội và
Tp. Hồ Chí Minh diễn ra sôi động và trở thành tâm điểm của sự ảnh hưởng tới các
lĩnh vực khác. Do vậy, HĐĐC đất đai cũng theo gót mạnh mẽ ở hai địa bàn này,
ngoài ra ta cũng xem xét hoạt động ĐCĐĐ ở một số địa phương khác. Đề tài này
cũng nghiên cứu các biện pháp chống ĐCĐĐ cần thiết của nước ta và nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu bất kể một vấn đề gì, hiện tượng tự nhiên, kinh tế xã hội nào cũng
cần phải có phương pháp. Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy
vật lịch sử là hai phương pháp nòng cốt trong nghiên cứu hoạt động ĐCĐĐ tại Việt
nam. Các phương pháp chỉ ra mối quan hệ tác động qua lại giữa hoạt động ĐCĐĐ
với các hiện tượng kinh tế xã hội khác. Ngoài ra phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp toán, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử dụng.
- Nội dung nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu chia làm thành ba chương với các vấn đề sau:
Chương I: Một số vấn đề chung về thị trường nhà đất và hoạt động đầu cơ đất
đai.
Đề án môn học
4
Chương II: Thực trạng đầu cơ đất đai tại Việt Nam.
Chương III: Quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp mặt khác do thời gian và trình độ có hạn
cộng thêm kiến thức thực tế còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu
sót; em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô là giảng viên Trung tâm
Đào tạo Địa Chính và Kinh Doanh BĐS – Trường Đại học Kinh tế quốc dân HN
và các bạn đọc để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của GS,TSKH. Lê Đình
Thắng – Giám đốc Trung tâm Đào tạo Địa Chính và Kinh Doanh BĐS cùng một số
tài liệu tham khảo.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NHÀ ĐẤT VÀ
HOẠT ĐỘNG ĐẦU CƠ ĐẤT ĐAI
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NHÀ ĐẤT
I.1. VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẤT ĐAI
a. Vai trò của đất đai.
Như ta đã biết đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vòng quay của bánh xe
thời gian thì con người xuất hiện và tác động vào đất đai, cải tạo đất đai và biến đất
đai từ sản phẩm của tự nhiên lại mang trong mình sức lao động của con người, tức
cũng là sản phẩm của của xã hội.
Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là
yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật
khác trên trái đất. Các Mác viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều
kiện để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất
cơ bản trong nông, lâm nghiệp”. Bởi vậy, nếu không có đất đai thì không có bất kỳ
một ngành sản xuất nào, con người không thể tiến hành sản xuất ra của cải vật chất
để duy trì cuộc sống và duy trì nòi giống đến ngày nay. Trải qua một quá trình lịch
sử lâu dài con người chiếm hữu đất đai biến đất đai từ một sản vật tự nhiên thành
một tài sản của cộng đồng, của một quốc gia. Luật Đất đai năm 1993 của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô
cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao
công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay!”
Rõ ràng, đất đai không chỉ có những vai trò quan trọng như đã nêu trên mà nó
còn có ý nghĩa về mặt chính trị. Tài sản quý giá ấy phải bảo vệ bằng cả xương máu
và vốn đất đai mà một quốc gia có được thể hiện sức mạnh của quốc gia đó, ranh
giới quốc gia thể hiện chủ quyền của một quốc gia. Đất đai còn là nguồn của cải,
Đề án môn học
5
quyền sử dụng đất đai là nguyên liệu của thị trường nhà đất, nó là tài sản đảm bảo
sự an toàn về tài chính, có thể chuyển nhượng qua các thế hệ...
b. Đặc điểm của đất đai.
Đất đai có tính cố định vị trí, không thể di chuyển được, tính cố định vị trí quyết
định tính giới hạn về quy mô theo không gian và chịu sự chi phối của các yếu tố
môi trường nơi có đất. Mặt khác, đất đai không giống các hàng hóa khác có thể sản
sinh qua quá trình sản xuất do đó, đất đai là có hạn. Tuy nhiên, giá trị của đất đai ở
các vị trí khác nhau lại không giống nhau. Đất đai ở đô thị có giá trị lớn hơn ở
nông thôn và vùng sâu, vùng xa; đất đai ở những nơi tạo ra nguồn lợi lớn hơn, các
điều kiện cơ sở hạ tầng hoàn thiện hơn sẽ có giá trị lớn hơn những đất đai có điều
kiện kém hơn. Chính vì vậy, khi vị trí đất đai, điều kiện đất đai từ chỗ kém thuận
lợi nếu các điều kiện xung quanh nó trở nên tốt hơn thì đất đó có giá trị hơn. Vị trí
đất đai hoặc điều kiện đất đai không chỉ tác động đến việc sản xuất, kinh doanh tạo
nên lợi thế thương mại cho một công ty, một doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa
đối với một quốc gia. Chẳng hạn, Việt Nam là cửa ngõ của khu vực Đông Nam á,
chúng ta có biển, có các cảng nước sâu thuận lợi cho giao thông đường biển, cho
buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới, điều mà nước bạn Lào
không thể có được.
Đất đai là một tài sản không hao mòn theo thời gian và giá trị đất đai luôn có xu
hướng tăng lên theo thời gian.
Đất đai có tính đa dạng phong phú tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng đất đai và
phù hợp với từng vùng địa lý, đối với đất đai sử dụng vào mục đích nông nghiệp
thì tính đa dạng phong phú của đất đai do khả năng thích nghi cuả các loại cây, con
quyết định và đất tốt hay xấu xét trong từng loại đất để làm gì, đất tốt cho mục đích
này nhưng lại không tốt cho mục đích khác.
Đất đai một tư liệu sản xuất gắn liền với hoạt động của con người. Con người
tác động vào đất đai nhằm thu được sản phẩm để phục vụ cho các nhu cầu của
cuộc sống. Tác động này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp và làm thay đổi tính chất
của đất đai có thể chuyển đất hoang thành đất sử dụng được hoặc là chuyển mục
đích sử dụng đất. Tất cả những tác động đó của con người biến đất đai từ một sản
phẩm của tự nhiên thành sản phẩm của lao động. Trong điều kiện sản xuất tư bản
chủ nghĩa, những đầu tư vào ruộng đất có liên quan đến các quan hệ kinh tế – xã
hội. Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ kinh tế – xã hội phát triển ngày càng làm
các mâu thuẫn trong xã hội phát sinh, đó là mối quan hệ giữa chủ đất và nhà tư bản
đi thuê đất, giữa nhà tư bản với công nhân...
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai phong phú hơn rất nhiều,
quyền sử dụng đất được trao đổi, mua bán, chuyển nhượng và hình thành một thị
trường đất đai. Lúc này, đất đai được coi như là một hàng hoá và là một hàng hoá
đặc biệt. Thị trường đất đai có liên quan đến nhiều thị trường khác và những biến
động của thị trường này có ảnh hưởng đến nền kinh tế và đời sống dân cư.
Đề án môn học
6
I.2. Khái niệm thị trường bất động sản.
Thị trường BĐS là tập hợp những sắp xếp để người mua và bán hàng hoá BĐS
tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng BĐS được thực hiện.
Trong đó, BĐS được xác định (theo điều 181 Bộ luật Dân sự) là các tài sản
không di dời được bao gồm:
+ Đất đai;
+ Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với
nhà ở, công trình xây dựng đó;
+ Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
+ Các tài sản khác do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, không phải tất cả các BĐS trên đều được tham gia giao dịch trên thị
trường, hàng hoá BĐS muốn được giao dịch trên thị trường phải có đủ các điều
kiện tham gia giao dịch theo quy định của Nhà nước. Chẳng hạn như, đất đai mà
người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không có tranh
chấp...
Ở nước ta hiện nay, quan niệm thị trường BĐS theo nghĩa hẹp chính là thị
trường Nhà đất vì nhà, đất là BĐS được nhiều tầng lớp dân cư đang rất quan tâm.
Mặt khác, trong thị trường BĐS thì thị trường nhà đất đang hình thành rõ nét và
hoạt động rất sôi nổi. Thị trường nhà đất được hiểu là tập hợp các sắp xếp để hành
vi mua và bán hàng hoá nhà đất (thực chất là hàng hoá quyền sử dụng đất) cũng
như các dịch vụ gắn liền với hàng hoá đó của người mua và người bán được thực
hiện.
Luật đất đai hiện hành quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước
thống nhất quản lý và Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
sử dụng ổn định lâu dài” và gắn liền với quyền sử dụng đúng mục đích, người sử
dụng có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, quyền thừa kế, quyền cho thuê,
quyền thế chấp và quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để hợp tác kinh
doanh.
Vậy, thực chất hàng hoá trao đổi trên thị trường nhà đất là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở. Số lượng, chất lượng và giá cả hàng hoá nhà, đất mà người
mua và người bán thoả thuận được với nhau phụ thuộc vào quy mô tài sản nhà đất,
quy mô, mức độ, tính chất của các quyền đối với tài sản đó.
I.3. Vai trò của thị trường bất động sản
Thị trường BĐS là một bộ phận trong hệ thống đồng bộ các loại thị trường. Thị
trường này phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và góp
phần nâng cao đời sống dân cư. Vai trò của nó thể hiện như sau:
Đề án môn học
7
+ Thị trường BĐS có vai trò thực hiện tái sản xuất các yếu tố cho nhà đầu tư kinh
doanh BĐS. Trên thị trường BĐS, nhà kinh doanh BĐS và người mua BĐS tác
động qua lại lẫn nhau, nếu cung thoả mãn cầu thì quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất được chuyển sang bên mua. Tuy nhiên, BĐS được phép mua đi bán lại
nhiều lần nên nguồn hàng hoá cung cấp thị trường luôn luôn phong phú đa dạng
bao gồm cả cũ và mới.
+ Khi giao dịch BĐS thành công thì lúc đó vốn từ hình thái hiện vật chuyển sang
hình thái giá trị. Tốc độ chuyển hoá vốn như trên phụ thuộc vào nhiều nhân tố
như: thời gian tạo nguồn cung, nhu cầu của thị trường, khả năng thanh toán... Sự
tồn tại của các Doanh nghiệp kinh doanh BĐS hoàn toàn phụ thuộc vào tốc độ
chu chuyển vốn và tài năng của nhà kinh doanh. Chẳng hạn, một Doanh nghiệp
xây dựng nhà ở để bán, muốn tái sản xuất ở chu kỳ tiếp theo thì Doanh nghiệp
này phải bán được nhà để trang trải các khoản như: trả lãi tiền vay, chi phí quản
lý, tiền mua nguyên vật liệu (như cát, xi măng, sắt thép)...Để kinh doanh thành
công nhà kinh doanh cũng phải có năng lực dự đoán xu hướng biến động của thị
trường, tính toán thời điểm nào thì đầu tư, tính toán nên xây dựng loại nhà nào,
với số lượng bao nhiêu?...
Quá trình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường giúp giá trị sản phẩm thặng dư tiềm
tàng của BĐS được giải phóng và đó là điều kiện giúp cho nhà kinh doanh BĐS
có thể hoàn trả lãi tiền vay, trả lương cho công nhân...
+ Thị trường BĐS như đã nói là một bộ phận trong hệ thống đồng bộ các loại thị
trường. Bởi vậy, thị trường này phát triển sẽ góp phần phát triển đồng bộ các
loại thị trường và đó là điều kiện quan trọng để cơ chế thị trường phát huy tác
dụng.
+ Thị trường BĐS là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa xây dựng BĐS và
mua bán BĐS. Các nhà kinh doanh BĐS tổ chức sản xuất kinh doanh, họ sản
xuất ra sản phẩm hàng hoá với mục đích đem bán. Còn người mua thì có nhu
cầu mua BĐS của nhà kinh doanh. Vì vậy, nơi giải quyết được mối quan hệ
cung – cầu này chính là thị trường BĐS. Tại đây, người mua và người bán sẽ
thực hiện hành vi mua bán. Nhà kinh doanh BĐS bán được sản phẩm của mình
và thu được lợi nhuận lại bắt đầu một chu kỳ kinh doanh mới, quá trình sản xuất
diễn ra bình thường và điểm hẹn luôn là thị trường BĐS.
+ Thị trường BĐS thúc đẩy việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng của hàng hoá BĐS, bảo vệ và nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên đất đai – tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá. Do trên thị trường có
nhiều nguồn cung hàng hoá BĐS, có nhiều nhà cung cấp vì thế, luôn luôn tồn tại
sự cạnh tranh giữa những người bán. Mặt khác, cũng có nhiều người cùng muốn
mua một BĐS tức là cũng có cạnh tranh mua. Vì vậy, các nhà kinh doanh BĐS
phải không ngừng cải tiến mẫu mã và chất lượng hàng hoá nhằm nâng cao sức
cạnh tranh trên thị trường mang lại nhiều lợi nhuận hơn.
Đề án môn học
8
+ Thị trường BĐS có mối quan hệ chặt chẽ với cơ chế, chính sách quản lý của Nhà
nước do phần lớn BĐS thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Hoạt động của thị
trường BĐS sẽ phát ra tín hiệu để Nhà nước thấy cần phải hoàn chỉnh, bổ sung
chất xúc tác nào cho thị trường. Chẳng hạn, khi thị trường BĐS có xuất hiện tình
trạng đầu cơ đất, trốn thuế... Nhà nước lập tức có biện pháp điều chỉnh bằng
cách ra các văn bản pháp lý nhằm khắc phục hiện tượng này làm lành mạnh hoá
thị trường, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thị trường được điều chỉnh
được hoàn thiện lại góp phần hoàn chỉnh hệ thống đồng bộ các loại thị trường,
phát huy những ưu thế của kinh tế thị trường. Nhưng thị trường BĐS phát triển
lên một bước mới và vượt qua tầm kiểm soát của Nhà nước đòi hỏi Nhà nước lại
phải đổi mới công tác quản lý.
+ BĐS thường là những tài sản có giá trị lớn, một khi Nhà nước kiểm soát được thị
trường BĐS thì nếu thị trường này càng sôi động thì Nhà nước càng thu được
nhiều ngân sách từ BĐS.
+ Thị trường BĐS có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: xây dựng,
ngân hàng, môi trường... nên việc mở rộng và phát triển thị trường BĐS sẽ góp
phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa các ngành. Đồng thời nâng cao trình độ
xã hội hoá trong sản xuất kinh doanh. Trên thị trường mọi chủ thể tham gia có
điều kiện tiếp xúc và mở rộng mối quan hệ với các chủ thể thuộc các ngành, các
lĩnh vực khác.
Trong ngành kinh doanh BĐS nói chung đòi hỏi tiền vốn lớn, sức hấp dẫn của
thị trường cao. Thị trường này phát triển có vai trò nâng cao năng lực kinh
doanh, sự năng động của các chủ thể tham gia thị trường. Hơn nữa, người quản
lý thị trường thuộc các lĩnh vực có liên quan đến thị trường BĐS cũng phải
không ngừng tự nâng cao trình độ của mình để bắt kịp với sự phát triển của thị
trường.
Mặt khác, thị trường BĐS phát triển thì khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà
kinh doanh trong nước và ngoài nước cũng như huy động vốn tích luỹ của các
tầng lớp dân cư tăng lên tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi
mới công nghệ, nâng cao hiệu quả của đồng vốn...
+ Thị trường BĐS điều hoà giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa các tầng lớp dân
cư đó là lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội.
+ Thị trường này phát triển sẽ góp phần xoá bỏ tình trạng kinh doanh ngầm, kinh
doanh trái pháp luật BĐS góp phần vào tăng nguồn thu ngân sách cho Nhà nước.
I.4. Những đặc điểm cơ bản của thị trường BĐS
Thị trường BĐS gắn liền với đặc điểm của BĐS – là những tài sản không thể di
dời được, do vậy mà thị trường này mang tính chất không tập trung mà trải rộng
trên khắp các vùng của đất nước. Ở mỗi địa phương, mỗi vùng địa lý BĐS lại có
những đặc điểm riêng. Bởi vậy, trong thị trường BĐS lớn có hàng loạt thị trường
nhỏ, mỗi thị trường lại mang một bản sắc riêng với quy mô và trình độ không
Đề án môn học
9
giống nhau, do đặc điểm các vùng địa lý là khác nhau và có sự phát triển không
đồng đều giữa các vùng, các miền (điều này do điều kiện tự nhiên và trình độ phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội quy định cho mỗi vùng, mỗi địa phương)... Ở những
vùng thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng, mức thu nhập... thì thị trường BĐS ở đó có
điều kiện phát triển hơn hẳn ở nông thôn và miền núi về quy mô và trình độ.
Các tài sản BĐS mang đặc điểm của mỗi vùng, chịu sự chi phối bởi các điều
kiện tự nhiên, tập quán sản xuất và sinh hoạt của mỗi vùng, nên thị trường BĐS là
một thị trường không hoàn hảo do không có sự đồng nhất về thông tin và các yếu
tố cấu thành của thị trường. Có những BĐS đã có lịch sử tồn tại rất dài nhưng nay
mới tham gia vào thị trường, có những BĐS đã mua đi bán lại nhiều lần, có những
bất động sản được giao dịch trong trị trường không chính thức, có BĐS chưa được
đăng ký, có BĐS đã được đăng ký nhưng thông tin không chính xác... dẫn đến
nguồn gốc của BĐS là khó xác định và việc định ra giá trị chính xác của BĐS là rất
khó khăn.
Ngay trong một vùng, một địa phương, người bán và người mua BĐS đều thiếu
những thông tin về các cuộc giao dịch trước đó. Vì thông thường chỉ khi người ta
cần thực hiện giao dịch người ta mới quan tâm tới những thông tin liên quan đến
BĐS đó. Khác với các hàng hoá khác, các BĐS có giá trị khác nhau ngay trong
cùng một loại BĐS và không phải ai cũng nắm được giá cả, do thiếu thông tin nên
người mua BĐS không biết mình mua với giá có hợp lý hay không?
Ngay cả đối với những BĐS tương đồng trên phạm vi cả nước thì không phải ai
cũng nắm được đầy đủ thông tin để thực hiện giao dịch. Cũng do thiếu thông tin
nên thị trường bị cản trở sự thông suốt, bởi vì người mua BĐS muốn mua rẻ, người
bán BĐS muốn bán đắt mà tài sản BĐS có giá trị rất lớn, để mua được BĐS người
mua bao giờ cũng rất thận trọng, kỹ lưỡng trong việc xem xét tính phù hợp của
BĐS với mục đích sử dụng của mình và khả năng tài chính của anh ta nữa rồi mới
quyết định. Muốn thị trường thông suốt thì thông tin cần phải rõ ràng, các lực cản
phải được loại bỏ để giao dịch có thể diễn ra nhanh chóng và khả năng thành công
mới cao.
Trong thị trường BĐS, cung BĐS không thể phản ứng nhanh chóng với sự thay
đổi của cầu, cung ít co giãn còn cầu thì co giãn mạnh. Do việc tạo nguồn cung
BĐS chịu chi phối bởi nhiều nhân tố như: việc mua đất, thời gian xin cấp phép xây
dựng, sự thành công của chu kỳ kinh doanh trước.. các yếu tố này sẽ quyết định tốc
độ phản ứng của cung đối với cầu BĐS .
Trong ngắn hạn cung BĐS không thoả mãn cầu nên cung – cầu không bao giờ
cân bằng mà luôn luôn có xu hướng tiến tới cân bằng. Ngay cả trong tương lai thì
cầu lại xuất hiện những đòi hỏi mới. Cũng chính vì lý do này mà thị trường BĐS
chỉ hấp dẫn những người có tiềm lực tài chính mạnh, có khả năng chờ đợi đồng
vốn phát huy tác dụng.
Đề án môn học
10
Tuy nhiên, trong ngắn hạn cung BĐS cũng có thể tăng lên nhờ chuyển mục đích
sử dụng BĐS. Ví dụ thế này: Ở nước ta sắp diễn ra Seagames 22, khi đó nhu cầu
nhà cho thuê sẽ tăng lên rất lớn. Số lượng phòng cho thuê hiện có không thể đáp
ứng đủ nhu cầu thuê nhà tăng lên đột ngột, do đó người ta có thể chuyển nhà ở
sang cho thuê nhằm có thêm thu nhập và đáp ứng nhu cầu thuê nhà, khi Seagames
kết thúc, mục đích sử dụng BĐS đó lại chỉ dùng để ở, không phải là cho thuê nữa.
Tất nhiên việc chuyển mục đích sử dụng này chỉ được thực hiện khi các điều kiện
để thực hiện được cho phép. Chẳng hạn như: BĐS dùng cho người nước ngoài thuê
phải là BĐS thế nào? quyền và nghĩa vụ của mỗi bên ra sao? Việc chuyển mục
đích sử dụng có phù hợp với quy hoạch cho phép không?...
Thị trường BĐS là một thị trường chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, xuất
phát từ đất đai thuộc sở hữu nhà nước còn các loại hình sở hữu khác chỉ là sở hữu
bán phần, không đầy đủ. Các nhà kinh doanh BĐS muốn xây dựng BĐS để bán
phải làm các thủ tục xin cấp phép xây dựng, đóng thuế...Kinh doanh BĐS phải
tuân theo những quy định riêng vì các bất động sản có thể là đất đai hoặc các tài
sản có liên quan đến đất đai mà đất đai là tài nguyên của quốc gia và do Nhà nước
thống nhất quản lý, đất đai có liên quan đến chính trị, kinh tế, xã hội. Đất đai và
các BĐS khác muốn được tham gia vào thị trường BĐS phải là những BĐS có đủ
các điều kiện được quy định trong luật.
Trong thị trường BĐS, tổng cung đất đai dành cho các mục đích là cố định, ngay
cả khi việc cải tạo đất làm tăng cung cận biên trong tổng cung. Đối với từng mục
đích sử dụng cụ thể thì không nhất thiết cố định nhưng tổng cung đất đai là cố
định.
Ví dụ:
Tổng diện tích đất cho tất cả các mục đích của một địa phương là: 10.000 ha
Trong đó:
- Đất dành cho nông nghiệp là: 3.000 ha
- Đất dành cho lâm nghiệp là : 1.000 ha
- Đất chuyên dùng là : 3.000 ha
- Đất khu dân cư nông thôn là : 2.000 ha
- Đất chưa sử dụng là : 1.000 ha
Nhưng do vùng này có nhu cầu mở rộng đường giao thông nên lấy từ đất nông
nghiệp 1.000 ha, do đó đất nông nghiệp chỉ còn 2.000 ha và đất chuyên dùng tăng
lên 4.000 ha. Nhưng tổng cung đất đai cho tất cả các mục đích vẫn là 10.000 ha.
Trong thị trường nhà đất, hàng hoá được trao đổi, mua bán trên thị trường thực
chất là mua bán, chuyển nhượng các quyền (quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở).
Một đặc điểm nữa của thị trường BĐS là trong thị trường này, tài sản BĐS chỉ
tiêu hao dần dần giá trị nhưng nó vẫn giữ được hình dáng tự nhiên như: nhà cửa,
xưởng máy... và có khấu hao (ngoại trừ đất đai).
Đề án môn học
11
I.5. Phân loại thị trường bất động sản
Có nhiều cách tiếp cận nhằm phân loại thị trường:
Phân loại dựa trên dấu hiệu “sở hữu” và “sử dụng” chia thị trường BĐS làm 3
loại:
+ Thị trường mua bán BĐS: Quyền sở hữu được chuyển cho bên mua.
+ Thị trường cho thuê BĐS: Quyền sở hữu thuộc chủ sở hữu, quyền chiếm hữu
và quyền sử dụng được chuyển cho bên đi thuê.
+ Thị trường thế chấp và bảo hiểm BĐS: Quyền sở hữu không thuộc chủ sở hữu,
quyền chiếm hữu, sử dụng thuộc chủ sở hữu.
Riêng BĐS là đất đai thì quyền định đoạt tối cao thuộc về Nhà nước
- Phân loại theo thứ tự thời gian người ta chia thị trường BĐS ra làm 3 loại:
+ Thị trường cấp I (thị trường sơ cấp): Đây là thị trường chuyển nhượng, cho
thuê hoặc giao quyền sử dụng đất. Thị trường sơ cấp là thị trường của Nhà
nước với các tầng lớp dân cư. Thị trường này mang tính công khai và không
có giao dịch ngầm.
Hiện nay, quỹ đất quốc gia để giao hay cho thuê về cơ bản là không còn. Để
giao đất hay cho thuê đất Nhà nước phải tiến hành thu hồi đất, chuyển mục
đích sử dụng đất, đầu tư vào đất (nhất là huy động những loại đất chưa sử
dụng).
+ Thị trường cấp II: Là thị trường xây dựng các công trình BĐS để bán hoặc là
cho thuê.
+ Thị trường cấp III: Là thị trường mua bán lại hoặc cho thuê lại các công trình
đã được mua hoặc cho thuê
Thị trường cấp II là thị trường có sự tham gia của cả Nhà nước và tư nhân. Nhà
nước và tư nhân cùng có thể xây dựng các công trình BĐS để bán hoặc là cho
thuê. Thị trường cấp III là thị trường của các tầng lớp dân cư với nhau.
Đối với đất đai quy định việc chuyển nhượng đất đai thực chất là mua bán quyền
sử dụng đất.
- Phân loại theo mục đích sử dụng BĐS chia thị trường BĐS ra làm 5 loại:
+ BĐS nhà ở dân cư.
+ BĐS thương mại dịch vụ.
+ BĐS văn phòng.
+ BĐS công nghiệp.
+ BĐS nông nghiệp.
I.6. Một số đặc điểm của thị trường đất đai của Việt nam
Thị trường đất đai nước ta ngoài những đặc điểm chung của thị trường BĐS như
đã nêu còn có những đặc trưng riêng như sau:
1. Thị trường đất đai mang nặng tính tự phát.
Đề án môn học
12
Thị trường đất đai ở nước ta còn non trẻ nên tồn tại nhiều mặt yếu kém và còn
mang nặng tính tự phát. Tính tự phát của thị trường thể hiện chủ yếu ở chỗ quan hệ
cung – cầu về đất đai, các quan hệ chuyển nhượng, mua bán và kinh doanh đất đai
diễn ra tự do hoặc thiếu sự quản lý và điều tiết một cách chặt chẽ, có hiệu quả của
các cơ quan quản lý. Nguyên nhân của hiện tượng này là nhu cầu chuyển nhượng
đất đai, nhu cầu mua nhà là một nhu cầu thực tế, thiết yếu và ngày càng tăng lên.
Nhưng trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa nhận thức đúng và đủ tầm quan
trọng của thị trường đất đai đối với sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung, đối với
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng. Vì chưa
nhận thức đúng và đầy đủ nên chúng ta chưa chính thức thừa nhận thị trường đất
đai, từ đó chưa có các chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể và phù hợp với các
quan hệ trên thị trường để chúng vận hành theo các quy luật của cơ chế thị trường.
Từ đó, các quan hệ chuyển nhượng, mua bán quyền sử dụng đất đai phải hoạt động
trong dòng chảy của một thị trường không chính thức.
2. Thị trường đất đai những năm qua biến động thất thường gây ra những thiệt
hại đáng kể cho nền kinh tế và đời sống xã hội.
Từ sau khi Luật đất đai năm (1993) được ban hành với quy định về giao đất ổn
định lâu dài cho người sử dụng và người sử dụng được mở rộng về các quyền gần
với quyền sở hữu hơn. Ngoài quyền sử dụng đất theo mục đích quy định khi được
giao, người sử dụng đất được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế
và thế chấp quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất. Sau khi Luật trên có hiệu
lực thi hành, Nhà nước đã cụ thể hoá các điều luật bằng việc ra các văn bản pháp
quy, trong đó có việc thừa nhận đất đai có giá và việc quy định khung giá đất có
một vai trò vô cùng quan trọng trong việc khơi thông các quan hệ chuyển nhượng,
mua bán quyền sử dụng đất (gọi tắt là chuyển nhượng, mua bán đất đai)...các quan
hệ này ngày càng sôi động và phổ biến; lĩnh vực đất đai trở thành một lĩnh vực
kinh doanh, thị trường đất đai ngày càng hình thành rõ nét.
Tuy vậy, sự bùng phát của thị trường đất đai ở Việt nam chính là tín hiệu bất
thường gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong 10 năm qua
có lúc thị trường sôi sục, có lúc như đóng băng lại. Hai cơn sốt đất vào các năm
1993 – 1995 và 2000 – 2002 đã đẩy giá đất lên cao. Tâm lý lo sợ giá nhà, đất tăng
lên sẽ khó khăn cho việc mua bán nên nhiều người mua không cần mặc cả, không
cần quan tâm đến tính hợp lệ của giấy tờ. Mặt khác, các nhà đầu tư, kinh doanh
BĐS đã huy động vốn từ nhiều nguồn, chủ yếu vay từ ngân hàng để đầu tư vào
kinh doanh BĐS nhằm thu lợi nhuận, các lĩnh vực đầu tư khác bị lấn át do vốn bị
thu hút vào lĩnh vực BĐS. Từ đó, ngân hàng thiếu tiền VND phải tăng lãi suất và
đây chính là nguyên nhân làm thoái lui đầu tư, nền kinh tế lâm vào tình trạng nguy
khốn. Khi cơn sốt BĐS dịu đi là lúc nền kinh tế phải gánh chịu một hậu quả ghê
gớm, những người thế chấp nhà đất vào ngân hàng để tham gia thị trường BĐS
chịu các khoản nợ chồng chất cùng với nhiều lĩnh vực bị què quặt.
Đề án môn học
13
Các cơn sốt đất đẩy giá đất lên cao đột biến nói chung không phải do nhu cầu sử
dụng đất của dân cư tăng nhanh đột biến mà chủ yếu do hoạt động đầu cơ đất đai
gây nên. Người ta mua đất không vì mục đích kinh doanh mà nhằm mục đích chờ
tăng giá tăng lên cao thì bán kiếm lời hoặc là do tâm lý sợ tiền mất giá trị mà người
ta mua đất để giữ tiền và coi đó là cách giữ tiền tốt nhất, chắc chắn nhất. Những
người có tiền USD khi thấy tiền này xuống giá thì đồng vội vã đến các ngân hàng
thương mại để đổi tiền VND và tập trung vào mua đất. Mặt khác, trong thị trường
nhà đất Việt nam tồn tại đầy rẫy những thông tin ảo do giới đầu cơ và một số môi
giới nhà, đất tung ra để đẩy giá đất lên cao hoặc nhằm mục đích thăm dò thị trường
điều này cũng tác động rất lớn đến giá đất đai trong thời gian qua.
3. Thị trường đất đai Việt nam hoạt động chủ yếu ở các đô thị.
Ở đô thị, hoạt động môi giới nhà đất tư nhân phát triển tràn lan và rất lộn xộn.
Các văn phòng nhà đất, trung tâm nhà đất mọc lên ở khắp nơi nhất là khi có sốt đất
thì các trung tâm văn phòng này mọc lên như nấm sau mưa. Hầu hết những hoạt
động này không đăng ký kinh doanh, cũng không thực hiện các nghĩa vụ tài chính
với Nhà nước. Riêng ở Hà Nội có hàng trăm văn phòng, trung tâm kiểu này; ở Tp.
HCM có hơn 1.300 Doanh nghiệp kinh doanh nhà đất và cũng có rất nhiều văn
phòng và trung tâm hoạt động bất hợp pháp. Theo ước tính có trên 70% lượng giao
dịch trên thị trường nhà đất diễn ra dưới dạng ngầm. Khi các giao dịch được thực
hiện trong thị trường ngầm thì đương nhiên Nhà nước chẳng thu được thuế chuyển
nhượng, chuyển quyền sử dụng đất...
Sở dĩ có tình trạng ngang nhiên như trên là do sự buông lỏng quản lý Nhà nước
đối với thị trường BĐS nói chung và thị trường đất đai nói riêng.
I.7. Quan hệ cung – cầu – giá cả trong thị trường bất động sản
1. Khái niệm chung.
1.1. Cung BĐS.
a. Khái niệm.
Cung hàng hoá BĐS là toàn bộ khối lượng hàng hoá BĐS được sẵn sàng đưa ra
thị trường BĐS trong một thời gian nhất định với một mức giá giới hạn nhất định.
- Trong thị trường BĐS, đất đai có số lượng bị giới hạn, con người không thể
tăng cung theo ý muốn của mình vì đất đai có nguồn gốc từ tự nhiên, nó gắn với
các điều kiện vốn có về địa điểm, điều kiện tự nhiên. Do vậy, nguồn cung về
loại đất đai này thay đổi dẫn đến ảnh hưởng đến nguồn cung về loại đất đai
khác.
Giá
cả
Số lượng
cung
Đường cung
Đề án môn học
14
Hình 1: đường tổng cung đất đai.
Như vậy, tổng cung đất đai là một dạng cung hoàn toàn không co giãn.
- Cung BĐS không phải là tất cả các BĐS hiện có mà là lượng BĐS có thể và sẵn
sàng tham gia giao dịch mua bán trên thị trường. Cung đất đai với tư cách hàng
hoá không phải là tất cả quỹ đất đai hiện có mà chỉ là những loại đất được quy
định trong Luật đất đai hoặc Luật Bất động sản và được sẵn sàng đưa ra thị
trường giao dịch. Cung này có thể tăng giảm nhưng nói chung là có độ co giãn
tương đối nhỏ. Khi giá cả trao đổi đất đai tăng lên thì người ta sẵn sàng đầu tư
khai phá đất hoang dùng cho sản xuất nông nghiệp, khi giá đất xây dựng tăng
người ta tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất thành đất xây dựng mặc dù rủi
ro là rất cao và điều đó làm cho cung tăng.
Để các nguồn BĐS trở thành nguồn cung trên thị trường BĐS cần có đủ các điều
kiện sau:
Lượng BĐS hiện có phải đạt được các tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường hiện
tại, có nghĩa là nó có thể có giá trị sử dụng vào mục đích nào đó mà thị trường
chấp nhận.
Người chủ sở hữu BĐS không có mục đích sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng của
mình mà có nhu cầu bán, tức là sẵn sàng chuyển giao BĐS đó cho người khác.
Giá cả để thực hiện quyền chuyển giao tài sản phải phù hợp với giá mặt bằng
chung, tức là phù hợp với khả năng thanh toán và chấp nhận của thị trường.
Số
lượng
Đường
cung
Giá
Hình 2: Đường cung đất đai với tư cách hàng hoá
Đề án môn học
15
Phải có thị trường BĐS xuất hiện và lượng BĐS tham gia vào giao dịch trên thị
trường là được thừa nhận.
b. Các khu vực cung BĐS.
- Khu vực Nhà nước.
Khu vực này do Nhà nước hoặc các cơ quan, Doanh nghiệp Nhà nước đầu tư
xây dựng BĐS bằng nguồn vốn ngân sách, các quỹ phát triển nhà ở của Nhà nước,
vốn vay và tài trợ của nước ngoài. Khu vực này có vai trò can thiệp và điều tiết
trực tiếp vào thị trường thông qua điều tiết lượng cung, sự tồn tại của khu vực này
là hết sức cần thiết và cần được mở rộng ở các đô thị vì nó có liên quan đến mục
tiêu chính trị liên quan đến đời sống xã hội của dân cư. Nhưng hoạt động của khu
vực Nhà nước là kém hiệu quả cả về mặt kinh tế và giá trị sử dụng tài sản BĐS,
còn mang nặng tính bao cấp và tính cấp phát trong xây dựng.
- Khu vực tư nhân.
Hoạt động phát triển BĐS của khu vực này nói chung không phải bằng vốn ngân
sách mà bằng vốn do các tổ chức, các công ty hoặc các cá nhân thực hiện và tuân
thủ theo các quy tắc chính thức của Nhà nước về quản lý xây dựng và phát triển
BĐS. Khu vực này hoạt động năng động, có hiệu quả cao, có vai trò bù đắp sự
thiếu hụt nguồn cung mà khu vực Nhà nước không đáp ứng được. Ở nước ta, hiện
nay khu vực Nhà nước đang thiếu hụt nguồn cung vì thế việc khuyến khích sự phát
triển của khu vực tư nhân là rất cần thiết.
Mặc dù Nhà nước không trực tiếp kiểm soát được sự phát triển BĐS của khu
vực tư nhân nhưng Nhà nước vẫn điều tiết được hoạt động của khu vực này thông
qua các quy tắc, quy định và tiêu chuẩn trong xây dựng...
Khu vực này hoạt động dựa trên mục đích chính là tối đa hoá lợi nhuận nên
thông thường khu vực này phát triển BĐS chủ yếu để hướng vào các đối tượng có
thu nhập cao. Do vậy, cần phải có chính sách nhằm hạn chế việc phát triển các khu
nhà có diện tích lớn và chất lượng cao, đồng thời khuyến khích phát triển các khu
nhà có diện tích nhỏ, giá thành phù hợp với những người có thu nhập thấp thông
qua việc quy định về tỷ lệ và mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất, mặt bằng xây
dựng... Chính phủ cũng cần tạo điều kiện để tầng lớp thu nhập thấp có thể tiếp cận
với các khu vực nhà ở do tư nhân xây dựng nhằm hạn chế các khu nhà ổ chuột và
giải quyết nhiều vấn đề xã hội khác.
Hoạt động của khu vực này rất dễ dẫn đến độc quyền vì thế Nhà nước điều tiết
khu vực này cần chú ý tới việc tạo ra tính cạnh tranh đa cực bằng cách khuyến
khích nhiều thành phần kinh tế tham gia cung một loại BĐS nào đó như nhà ở,
nhằm chống độc quyền.
- Khu vực không chính thức.
Đây là khu vực mà các hoạt động xây dựng BĐS (thường là nhà ở) hoàn toàn
độc lập với những khuôn khổ quy tắc của chính phủ. Hoạt động của khu vực này
mang tính tự phát không theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước cả về số lượng và
Đề án môn học
16
chất lượng đều bị hạn chế. Điển hình là các khu vực xóm liều, các khu nhà ổ chuột
của dân nghèo và những người lang thang không có nơi ở ổn định. Xu hướng là
khu vực này phải giảm và tiến tới xoá bỏ.
1.2. Cầu về hàng hoá BĐS.
a. Khái niệm.
Cầu về hàng hoá BĐS là toàn bộ nhu cầu có khả năng thanh toán mà xã hội
dùng để mua khối lượng hàng hoá và dịch vụ BĐS trong một thời kỳ nhất định.
- Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá BĐS là vô cùng lớn, nhưng cầu về hàng hoá BĐS
thì có sự cách biệt lớn với nhu cầu cả về quy mô và đối tượng xuất hiện. Cầu
phải là nhu cầu có khả năng thanh toán tức là người mua BĐS phải là người có
khả năng mua và sẵn sàng mua. Có những đối tượng có nhu cầu sử dụng nhưng
không trở thành cầu trên thị trường lại có những đối tượng không có nhu cầu
nhưng lại có nhu cầu đầu cơ kiếm lợi thì vẫn xuất hiện cầu do có nhu cầu và
nhu cầu đó có khả năng thanh toán.
- Để xuất hiện cầu hàng hoá BĐS phải có đủ các điều kiện sau:
+ Có sự xuất hiện nhu cầu tiêu dùng về một loại BĐS nào đó mà nhu cầu đó
không thể tự thoả mãn bằng các nguồn sẵn có của mỗi người dân.
+ Phải có các nguồn lực tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhu
cầu này. Chỉ khi có các nguồn lực tài chính cho thanh toán thì nhu cầu mới
chuyển thành cầu trên thị trường. Trình độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ
thu nhập ngày càng tăng thì nhu cầu đối với hàng hoá BĐS ngày càng tăng
cao.
+ Phải có thị trường BĐS để cung, cầu gặp nhau và cầu thực sự trở thành cầu
xuất hiện trên thị trường.
b. Các loại cầu về BĐS.
- Cầu thực tế về hàng hoá BĐS: Là nhu cầu thực cần mua hàng hoá BĐS để sử
dụng hoặc kinh doanh.
- Cầu tiềm năng: Là số lượng người tiêu dùng hàng hoá BĐS tương ứng với số
lượng hàng hoá BĐS có được sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến sự
phát triển của BĐS trong tương lai như: vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, thu nhập
bình quân, chính trị...
- Cầu giả tạo: Là cầu sinh ra do hiện tượng đầu cơ BĐS chờ thời cơ bán ra thu
lời. Các nhà đầu tư BĐS mua nhà, đất không phải để ở hay để sản xuất kinh
doanh mà để đầu cơ bán lại trên thị trường. Cầu giả tạo tăng lên sẽ lấn át thị
trường chính thức và là tác nhân làm cho quan hệ cung – cầu trở lên căng thẳng
đẩy giá nhà đất tăng lên trong một thời gian nhất định.
- Cầu về đất đai cho sản xuất:
Cầu này chiếm đại bộ phận, nó là tổng nhu cầu mở rộng các hoạt động sản xuất
dựa vào mở rộng diện tích đất đai sử dụng. Loại cầu này thường là cầu về đất
Đề án môn học
17
đai cho các hoạt động sản xuất thuộc khu vực I của xã hội bao gồm: Cầu của
các hoạt động sản xuất dựa vào đất đai như nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất vật
liệu xây dựng và hầm mỏ. Cùng với sự phát triển của xã hội, cầu về đất đai
dành cho khu vực này giảm xuống.
- Cầu về đất đai cho công nghiệp, giao thông và các công trình công cộng: Là cầu
được xã hội hoá và đáp ứng bằng các chương trình của chính phủ, ít xuất hiện
trên thị trường.
- Cầu về nhà ở, đất xây dựng nhà ở và đất xây dựng các công trình BĐS khác:
Cầu về nhà ở và đất ở có liên quan đến nhau. Cầu về nhà ở xuất hiện sẽ kéo
theo cầu về đất xây dựng nhà ở. Hai cầu này gọi chung là cầu về nhà đất và đây
là cầu sôi động nhất trên thị trường BĐS.
Cầu về đất xây dựng các công trình BĐS khác tăng lên do khu vực dịch vụ
(Khu vực III) ngày càng tăng về tỷ trọng so với khu vực I và II (Khu vực công
nghiệp) cùng với sự phát triển của xã hội. Khu vực này cần đất để xây dựng các
trung tâm thương mại, các trung tâm vui chơi giải trí, thể dục thể thao...
1.3. Giá cả bất động sản.
a. Khái niệm giá cả BĐS.
Giá cả BĐS là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá BĐS được thừa nhận
trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường giá cả tài sản BĐS là giá thị trường của BĐS đó, nó
được xác định là số tiền có thể nhận được từ một hoặc nhiều người sẵn sàng và có
thể mua một BĐS nào đó khi tài sản này được đưa ra bán. Giá cả thị trường gắn
người kinh doanh và người tiêu dùng BĐS lại với nhau, giá này vừa phản ánh giá
trị vừa phù hợp với sức mua của đồng tiền và cũng chịu tác động của quy luật cung
– cầu. Giá thị trường của BĐS cũng là giá mua và giá bán BĐS đó và giá này chỉ
có khi mà giao dịch được hoàn tất và đó cũng là giá tốt nhất được đưa ra trên thị
trường. Các bên giao dịch đều tự nguyện và có thông tin hoàn hảo về BĐS mà
mình sẽ tham gia mua hoặc bán.
b. Vai trò của giá cả.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, giá cả là yếu tố trung tâm, nó là tín hiệu
của thị trường, giá cả phản ánh tình hình thị trường nó cho biết mức độ khan
hiếm của hàng hoá và thông qua đó nhà đầu tư kinh doanh thay đổi chiến lược
của mình và người tiêu dùng ra quyết định mua hay không. Cũng thông qua cơ
chế giá cả người bán và người mua gặp gỡ tác động qua lại lẫn nhau đáp ứng
yêu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
- Giá cả thực hiện hai chức năng sau:
+ Điều tiết, phân phối lại thu nhập
+ Giá cả là thước đo chi phí, hiệu quả kinh tế, điều tiết hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nhà nước sử dụng giá cả như một công cụ điều tiết thị trường.
Đề án môn học
18
2. Mối quan hệ cung – cầu – giá cả.
Bất động sản cũng là một hàng hoá nên nó cũng có những thuộc tính là giá trị và
giá trị sử dụng. Để thấy được giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá BĐS thì cũng
như các loại hàng hoá khác là phải thông qua thị trường của nó mà nhân tố cấu
thành là cung, cầu và giá cả.
Khi cung – cầu cân bằng tại một thời điểm nào đó ta có giá cân bằng
Theo lý thuyết:
+ Nếu cung > cầu có nghĩa là khối lượng hàng hoá cung ra thị trường vượt quá nhu
cầu của người tiêu dùng, do đó có sự dư thừa hàng hoá này trên thị trường và xu
hướng là giá cả phải giảm xuống.
+ Nếu cung < cầu có nghĩa là khối lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường không
đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, do đó giá cả sẽ có xu hướng tăng lên
kích thích người sản xuất tăng cung.
+ Nếu cung = cầu có nghĩa là khối lượng hàng hoá cung ứng vừa đủ nhu cầu của
người tiêu dùng và do đó giá cả là không đổi.
Giá cả luôn luôn tỷ lệ thuận với cầu và tỷ lệ nghịch với cung. Tức là, trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi, thì một sự tăng lên của cầu hay giảm xuống của
cung sẽ làm cho giá cả tăng lên; và ngược lại, một sự giảm xuống của cầu và một
sự tăng lên của cung sẽ làm cho giá cả giảm xuống. Mặt khác, sự tăng giá cả trên
thị trường sẽ kích thích các nhà sản xuất tăng cung, và hạn chế cầu làm cho cầu
giảm xuống và ngược lại. Cứ như vậy, đến một lúc nào đó cung và cầu sẽ cân
bằng.
Sự thay đổi của giá nhiều hay ít còn phụ thuộc vào độ co giãn của cung và cầu
theo giá. Đối với cung hàng hoá BĐS do ít co giãn nên một sự thay đổi nhỏ trong
lượng cầu cũng làm cho giá cả tăng cao và cân bằng khó xảy ra do sự thay đổi của
cung là rất chậm chạp, không theo kịp sự thay đổi của cầu. Ngược lại, cầu hàng
hoá BĐS co giãn mạnh nên một sự thay đổi nhỏ trong lượng cung cũng làm cho
lượng cầu thay đổi mạnh.
Đây là mối quan hệ mang tính quy luật đối với mọi hàng hoá, dịch vụ. Nhưng
thị trường bất động sản là một thị trường đặc biệt nên ta cần xem xét khía cạnh như
sau:
Trong thị trường cạnh tranh, quan hệ cung cầu BĐS làm hình thành giá cả của
nó, đồng thời giá cả cũng quay trở lại điều tiết lượng cung, cầu trên thị trường.
Do đất đai là một tài nguyên có hạn nên trên thực tế tổng cung đất đai cho tất cả
các mục đích là cố định. Nhưng cung từng loại đất đai thì có thể thay đổi. Trong
khi nhu cầu về BĐS nói chung và đất đai nói riêng tăng không ngừng do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới xu thế là giá cả không ngừng tăng
lên.
P1
P2
E2
E1 D2
S Giá
Đề án môn học
19
Khi lượng cầu BĐS tăng đường cầu dịch chuyển từ D1 đến D2, cân bằng chuyển
dịch từ Q1 đến Q2, do cung BĐS ít co giãn nên giá cả tăng mạnh từ P1 đến P2.
Mối quan hệ cung – cầu BĐS phụ thuộc vào thời gian. Trong ngắn hạn, cung
một loại BĐS nào đó có thể hoàn toàn không co giãn, nói chung cung BĐS trong
ngắn hạn ít co giãn, với thời hạn dài hơn cung BĐS co giãn mạnh hơn dẫn đến giá
cả tăng ít hơn trong ngắn hạn.
Trong đó: SSR và SLR lần lượt là đường cung trong ngắn hạn và trong dài hạn.
Độ co giãn của cầu BĐS trong dài hạn ít hơn trong ngắn hạn. Do trong ngắn
hạn, giá BĐS tăng lên nhiều người sẽ tạm gác lại việc mua bất động sản, nên cầu
giảm mạnh. Nhưng trong dài hạn, do nhu cầu thay thế, nâng cấp BĐS tăng lên mà
cầu hàng năm về BĐS lại tăng lên. Đây là điều trái ngược hẳn với hàng hoá thông
thường. Hình vẽ minh hoạ như sau:
Hình 4: Cung trong ngắn hạn I. HÌNH 5: CUNG
À
Số lượng Q1 Q2
P1
P2
E2
E1 D2
D1
SSR
P1
P2
Số lượng Q1 Q2
E2
E1 D2
D1
SLR
Giá Giá
DSR
DLR
Giá
cả
Trong đó:
DSR: Đường cầu trong
ngắn hạn.
DLR: Đường cầu trong dài
hạn.
Đề án môn học
20
Giá cân bằng trong thị trường BĐS không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi của
lượng cung và cầu mà còn phụ thuộc nhiều vào độ co giãn của chúng. Trong dài
hạn, độ co giãn của cả cung và cầu đều lớn, nên một sự thay đổi nhỏ trong lượng
cung sẽ làm thay đổi mạnh trong lượng cầu và do đó giá cả cân bằng sẽ ít thay đổi
so với trong ngắn hạn. Tuy nhiên, lượng BĐS cũ nát, hao mòn có nhu cầu thay thế
và nâng cấp lớn nên cầu BĐS trong dài hạn vẫn lớn hơn trong ngắn hạn.
I.8. Quan hệ giữa thị trường BĐS với các thị trường khác.
Thị trường BĐS là một bộ phận trong hệ thống đồng bộ các loại thị trường, thị
trường này có mối liên hệ với nhiều thị trường khác như: thị trường hàng hoá và
dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường sức lao động...
Mối quan hệ với hàng hoá dịch vụ thể hiện ở chỗ thị trường BĐS cung cấp BĐS
(là một đầu vào) cho các Doanh nghiệp sản xuất hàng hoá. Thị trường hàng hoá lại
cung cấp trở lại các nguyên vật liệu cho thị trường BĐS để đầu tư phát triển BĐS,
mối quan hệ giữa hai thị trường này còn biểu hiện ở chỗ khi thị trường sôi sục các
nhà đầu tư bị thu hút nhiều vào đây nên vốn dành cho thị trường hàng hoá bị giảm
đi.
Thị trường tài chính bao gồm: thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường
chứng khoán; thị trường này thoả mãn nhu cầu về vốn của các chủ thể trong nền
kinh tế trong đó có chủ đầu tư kinh doanh BĐS và những người có nhu cầu vốn để
mua BĐS. Sự phát triển của thị trường BĐS phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển
của thị trường tài chính, ngược lại thị trường BĐS phát triển quá mức sẽ gây tổn
hại cho thị trường tài chính. Thị trường chứng khoán có tác dụng cân bằng lại thị
trường và trong một chừng mực nhất định thị trường chứng khoán có tác dụng
ghìm sự bùng nổ của thị trường BĐS. Nếu như thị trường BĐS đang trong cơn sốt
mà thị trường chứng khoán cũng rất hấp dẫn thì người ta hướng sự chú ý sang cả
thị trường chứng khoán. Việc quản lý tốt thị trường tài chính sẽ góp phần làm
mạnh thị trường BĐS, bởi lẽ nếu các ngân hàng và các tổ chức tín dụng quản lý và
Đề án môn học
21
giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản tiền đã cho các doanh nghiệp kinh doanh
BĐS vay thì họ không thể sử dụng khoản tiền đã vay để đầu cơ đất đai kiếm lời.
Thị trường BĐS phát triển mạnh sẽ làm tốc độ chu chuyển vốn nhanh và hiệu
quả đồng vốn sẽ tăng cao thúc đẩy các thị trường cùng phát triển.
II- KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, PHÂN LOẠI HOẠT ĐỘNG ĐẦU CƠ (HĐĐC)
ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA.
II.1. Khái niệm.
Hoạt động đầu cơ (HĐĐC) đất đai là hoạt động trao đổi đất đai nhằm mục đích
kiếm lời bằng cách khai thác chênh lệch giá đất đai theo thời gian hoặc theo đối
tượng mua.
Giá chênh lệch ở đây là mức chênh lệch giữa giá thị trường với giá trị sử dụng
thực tế mà đất đai mang lại.
Như vậy, đất đai tham gia HĐĐC là đất đai không được dùng vào mục đích thoả
mãn nhu cầu xây dựng nhà ở hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh của chính người
mua mà nó bị nằm chờ khi lên giá thì bán để thu lời và đất đai bị mua đi bán lại
nhiều lần. Những đất đai được mua nhưng chưa sử dụng ngay mà chờ một thời
gian mới được đưa vào sử dụng và ngay cả khi giá tăng lên người ta cũng không có
nhu cầu bán thì đất đó không coi là đối tượng của HĐĐC đất đai.
Ví dụ như sau:
Một gia đình có con thi đỗ vào một trường đại học ở Tp. HCM và gia đình đó đã
mua sẵn một căn hộ ở gần trường cho con cái của họ khi bắt đầu nhập học sẽ sử
dụng để ở, trong thời gian chờ nhập học giá cả đã tăng lên nhiều nhưng mà họ
không bán thì BĐS của họ không coi là tài sản bị sử dụng vào đầu cơ và đất có căn
hộ đó không coi là đất đai của HĐĐC.
II.2. Đặc điểm của hoạt động đầu cơ.
1. Hoạt động đầu cơ đất đai là hoạt động trái pháp luật.
Đây là một hoạt động gây ra nhiều tác hại cho nền kinh tế và đời sống xã hội
nên các nước trên thế giới luôn luôn tìm các biện pháp nhằm hạn chế tình trạng này
(các tác hại ta sẽ xét ở phần sau này). Các biện pháp hạn chế tình trạng này đều
được thể chế hoá bằng các văn bản luật và dưới luật. HĐĐC là hoạt động bị
nghiêm cấm.
Tính chất trái pháp luật thể hiện ở chỗ sử dụng đất đai không đúng với mục đích
sử dụng đất khi được giao, hoặc khi đăng ký mà chờ đất đai lên giá và bán. Việc
mua bán chuyển nhượng đất đai diễn ra dưới hình thức trao tay không qua sự tham
gia của Nhà nước và Nhà nước chẳng thu được gì từ đất đai do mình là chủ sở hữu,
hoặc là đất công biến thành đất riêng để chờ thời cơ bán thu lời. Hơn nữa những
người đầu cơ vì muốn thu lời cao nên luôn tìm cách tăng giá, phổ biến là việc đưa
ra các thông tin ảo.
Đề án môn học
22
2. Hoạt động đầu cơ đất đai (ĐCĐĐ) phụ thuộc rất lớn vào chính sách, pháp
luật và công tác quản lý đất đai của Nhà nước.
Do ĐCĐĐ là một hoạt động phi pháp nên những người đầu cơ đất luôn luôn rất
nhạy bén với những thông tin thay đổi trong chính sách pháp luật và những thông
tin quản lý đất đai của Nhà nước. Sở dĩ như vậy là vì người đầu cơ đất lo sợ đất đai
mà mình đang nắm giữ sẽ bị thu hồi hoặc chịu những rủi ro khác. Khi chính sách
pháp luật của Nhà nước còn nhiều kẽ hở, công tác quản lý đất đai còn nhiều bất
cập thì hiện tượng này phát sinh mạnh mẽ và nhanh chóng lan rộng và ngược lại.
Nếu Nhà nước thực hiện tốt chính sách pháp luật đã có hiệu lực thì không có lý do
gì hoạt động đầu cơ không bị đẩy lùi, bởi lẽ nhiều khi luật đã đúng và luôn được
sửa đổi, bổ sung nhưng hiện tượng này không giảm vì thực hiện pháp luật không
đến độ cần thiết, việc quản lý đất đai cũng được quy định trong luật và các văn bản
hướng dẫn nếu làm tốt thì hiện tượng đầu cơ không thể có cơ hội phát sinh và phát
triển.
3. Hoạt động đầu cơ đất đai thường sôi động khi có “sốt đất”.
Khi sốt đất (sốt nóng) là lúc cầu vượt quá cung rất nhiều, người có nhu cầu mua
đất đai nhưng thông tin thị trường rất thiếu hụt, họ không nắm được giá cả thị
trường trong khi đó khi có sốt đất giá cả biến động thất thường, họ không hề biết
giá nào là giá ảo, giá nào là giá thực. Lợi dụng vào đó giới đầu cơ thu lời lớn, siêu
lợi nhuận thì càng kích thích cho hoạt động này gia tăng mạnh mặc dù biết rằng
việc làm này là trái pháp luật cũng giống như buôn ma tuý vậy mặc dù biết rằng là
vi phạm pháp luật nhưng người ta vẫn làm vì lợi nhuận thu được là quá lớn.
4. Hoạt động đầu cơ đất đai rất khó bị phát hiện.
Do hoạt động đầu cơ là hoạt động trái pháp luật nên những người đầu cơ luôn
luôn tìm cách che giấu, việc phát hiện ra hiện tượng này không phải là dễ nếu
không quản lý chặt chẽ đất đai. Người trùm đất không mấy khi lộ diện nên nhiều
khi phát hiện được đất đai có hiện tượng đầu cơ thì cũng khó mà tìm thấy chủ của
mảnh đất đó. Hơn thế, nhiều khi biết rõ đất có HĐĐC mà không thể chứng minh
chủ đất đó đang tích trữ chờ lên giá bởi vì do những người ĐCĐĐ luôn nhạy bén
với thông tin thay đổi, mà các chính sách pháp luật ban hành không phải lúc nào
cũng thực hiện được ngay nên người đầu cơ đất có thể tạm thời sử dụng đất đúng
mục đích theo kiểu chống đối và vẫn đảm bảo được mục đích riêng của mình; Khi
có sốt đất có nhiều mảnh đất được mua đi bán lại nhiều lần và sau mỗi lần giá đất
lại tăng lên, khuyến khích hiện tượng đầu cơ mở rộng và nhà đầu cơ đất đai tìm ra
nhiều thủ đoạn tinh vi khiến việc phát hiện là vô cùng khó khăn. Nói như thế
không có nghĩa là HĐĐC không thể bị xoá bỏ mà các biện pháp để đối phó với
HĐĐC ta sẽ xét sau.
5. Hoạt động đầu cơ đất đai kéo theo sự hình thành của một thị trường ngầm.
Ta đã biết rằng nhà ĐCĐĐ hoạt động nhằm mục đích khai thác giá đất do chênh
lệch mà có và hoạt động của họ là hoạt động trái pháp luật. Do đó, người ĐCĐĐ
Đề án môn học
23
đương nhiên sẽ không thể cho đất đai của mình tham gia vào thị trường chính thức
nếu anh ta không hợp thức hoá được đất đai mình đang chiếm hữu. Khi giao dịch
trên thị trường chính thức anh ta sẽ bị phát hiện và công lao bấy lâu của anh ta trở
thành công dã tràng. Chính vì thế, mà người ta giao dịch dưới một thị trường ngầm
không có sự kiểm soát của Nhà nước. Nhà đầu cơ sẽ dễ dàng thuyết phục người
mua trong điều kiện thông tin thị trường là rất thiếu và tình trạng khan hiếm đất đai
là phổ biến, lúc đó người mua không cần quan tâm đến tính hợp pháp của giấy tờ
nhà, đất hoặc là bị những kẻ đầu cơ đất lừa gạt.
Ở nước ta, thị trường ngầm còn hình thành do sự quản lý thiếu khoa học trong
lĩnh vực đất đai và BĐS bởi lẽ trong một thời gian dài chúng ta chưa chính thức
thừa nhận thị trường đất đai trong khi các quan hệ mua bán, chuyển nhượng đất đai
là một nhu cầu thực tế và ngày một tăng nên các quan hệ mua bán, chuyển nhượng
đất đai phải hoạt động dưới dòng chảy của một thị trường ngầm. Đó là nguyên
nhân khiến cho người có nhu cầu sử dụng đất đai muốn mua đất phải thực hiện
mua đất trong thị trường không chính thức này và đây là điều kiện cho giới đầu
thực hiện việc trao đổi đất đai trong thị trường ngầm một cách dễ dàng.
II.3. Phân loại đầu cơ đất đai.
Căn cứ vào mục đích, đối tượng, phương thức và phạm vi hoạt động có thể chia
HĐĐC ra làm 4 loại như sau:
1- Mua đất (nhà) dự trữ khi có lợi thì bán;
2- Lấn chiếm đất công đem bán trao tay để kiếm lời;
3- Mua đất đã bị lấn chiếm, chia lô, cắt thửa, thay đổi diện mạo của thửa đất và
chờ thời cơ để thu lợi.
4- Mua đất rồi đầu tư xây dựng nhà để đó chờ thời cơ bán ra.
Trong 4 loại trên tính chất tinh khôn của hoạt động ở mức độ khác nhau. Loại 1
mang tính nghiệp dư, loại 2, 3 và loại 4 mang tính chuyên nghiệp cao, thể hiện ở
chỗ: có mục đích duy nhất và rõ ràng là thu lợi có nguồn vốn lớn, có phương thức
hoạt động đa dạng và tinh khôn, hoạt động liên tục ở quy mô lớn. Bai loại này gây
hậu quả tai hại cho đời sống kinh tế – xã hội.
III- NGUYÊN NHÂN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU CƠ ĐẤT ĐAI.
III.1. Đất đai là lĩnh vực đầu tư siêu lợi nhuận.
Trước hết, người đầu cơ đất đai hy vọng giá đất sẽ tăng cao trong một chu kỳ
nhất định và sẽ đem lại cho họ một khoản lợi nhuận do chênh lệch giá tạo ra, và
khoản lợi nhuận này sẽ thấp hơn nếu như đầu tư vào lĩnh vực khác.
Ở nước ta do luật pháp còn chưa hoàn chỉnh và thị trường BĐS còn ở mức sơ
khai chưa có bề dày lịch sử phát triển nên còn nhiều điểm còn hạn chế. Trong cảnh
tranh tối, tranh sáng này người ta thấy rằng đầu tư vào BĐS ít rủi ro và cho thu lợi
lớn. Mặt khác, với các nguyên nhân đã nêu ở những phần trước thì ta thấy rằng
người ĐCĐĐ tìm cách thu lợi bằng việc găm giữ đất đai chờ tăng giá. Việc đầu tư
Đề án môn học
24
vào lĩnh vực đất đai ngay cả trên thị trường chính thức cũng cho thu lợi rất lớn,
trong khi đó đất đai sinh lợi do đầu cơ còn lớn hơn nhiều vì không có sự kiểm soát
của Nhà nước và điều đó càng làm gia tăng HĐĐC đất đai.
III.2. Nhà đầu cơ hy vọng đất đai được chuyển mục đích sử dụng từ loại đất
có giá trị thấp sang đất có giá trị cao.
Giá đất đai phụ thuộc rất lớn vào mục đích sử dụng đất, do vậy nếu được chuyển
mục đích sử dụng đất từ loại đất có giá trị thấp sang loại đất có giá trị cao, trong
khi nghĩa vụ tài chính thấp (Hiện nay đất đô thị tại các địa phương, giá tính tiền sử
dụng đất đối với đất ở chỉ bằng khoảng 10 – 30% giá đất thực tế chuyển nhượng),
và do vậy người sử dụng đất sẽ thu được một khoản chênh lệch khá lớn mà không
phải mất nhiều chi phí đầu tư. Chính vì vậy, rất nhiều hộ gia đình được giao đất
nông nghiệp, lâm nghiệp mặc dù không có nhu cầu sử dụng nhưng vẫn nắm giữ
đất, cho người khác thuê lại để chờ thời cơ chuyển mục đích sử dụng đất, hoặc là
được đền bù.
III.3. Chính sách, pháp luật đất đai còn chậm so với sự phát triển sinh động
của thực tiễn.
Mặc dù khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của đất đai (tính thanh khoản) thấp,
do không phải ai cũng đủ khả năng tài chính để mua được tài sản có giá trị lớn như
đất đai một cách dễ dàng. Khi mua đất đai lại phải chịu sự ràng buộc rất lớn về
trình tự, thủ tục do Nhà nước ban hành. Song ở Việt nam, việc quản lý đất đai còn
nhiều bất cập trong thời gian vừa qua thì việc mua đi, bán lại đất đai cũng rất dễ
dàng vì chủ yếu là mua bán trao tay, không thông qua cơ quan đăng ký, không thực
hiện các thủ tục theo quy định của luật pháp. Mặt khác, việc đầu tư vào đất đai vốn
chứa đựng nhiều rủi ro bởi giá đất phụ thuộc rất nhiều vào tình hình phát triển kinh
tế – xã hội, chính sách của Nhà nước về đất đai và quy hoạch của Nhà nước, nhưng
do việc mua bán trong thị trường ngầm diễn ra trong một thời gian dài mà không bị
ngăn chặn, xử lý kịp thời và nghiêm minh khiến người ta lầm tưởng rằng việc kinh
doanh, nắm giữ đất đai có độ rủi ro thấp. Vì thế mà lĩnh vực đất đai càng trở nên
hấp dẫn và đôi khi người ta quên đi vai trò của Nhà nước.
III.4. Do buông lỏng quản lý đất đai.
- Do chưa chú ý đúng mức tới thị trường BĐS và chưa chính thức thừa nhận về
mặt pháp lý đối với thị trường BĐS nên Nhà nước chưa có khung pháp lý rõ
ràng cho thị trường BĐS nói chung và thị trường đất đai nói riêng hoạt động và
do đó, Nhà nước hầu như không quản lý được hoạt động của các tổ chức, cá
nhân tham gia vào thị trường đất đai và BĐS. Việc quản lý các loại đất công
gần như bị bỏ ngỏ và đó là nguyên nhân của đầu cơ đất đai loại 2 phát sinh và
phát triển.
- Công tác quản lý, sử dụng đất đai chưa được coi trọng đúng mức, thực hiện
chưa tốt, nhất là đối với đất ở cho dân cư tại các đô thị. Trong khi dân cư đô thị
Đề án môn học
25
tăng nhanh, thu nhập và sức mua của dân cư được nâng cao làm cho cầu về đất
ở vượt quá cung. Điều này làm cho kinh doanh đất đai có lợi nhuận cao và do
đó khuyến khích hoạt động ĐCĐĐ. Hiện tượng ĐCĐĐ diễn ra rất phổ biến và
đa dạng song các cơ quan quản lý Nhà nước lại hầu như chưa quan tâm và chưa
có biện pháp kịp thời để ngăn chặn.
- Thông tin về thị trường nói chung và thị trường đất đai nói riêng là thiếu nên
những người sử dụng đất rất khó tiếp cận được với thông tin cần thiết và chính
xác. Đây chính là điều kiện cho các thông tin sai lệch do người môi giới và
người ĐCĐĐ phát huy tác dụng.
- Việc quản lý thị trường tiền tệ, tín dụng còn nhiều bất cập, trong đó đáng chú ý
là một số ngân hàng và tổ chức tín dụng chưa quản lý và giám sát chặt chẽ việc
sử dụng các khoản tiền cho các Doanh nghiệp kinh doanh BĐS vay, nên họ
dùng vốn vay đầu tư để ĐCĐĐ thu lời.
III.5. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính thực hiện chưa kiên quyết
và thường xuyên.
Như đã nói, hoạt động ĐCĐĐ diễn ra phổ biến và đa dạng song các cơ quan
quản lý Nhà nước lại hầu như chưa có biện pháp nào kịp thời và cần thiết để ngăn
chặn kịp thời tình trạng này. Các biện pháp hành chính của Nhà nước trong việc xử
lý các trường hợp sử dụng đất sai mục đích (tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng
đất), chuyển nhượng trái pháp luật, sử dụng đất lãng phí chưa thực hiện nghiêm
túc, thường xuyên dẫn đến hiệu lực quản lý Nhà nước còn kém hiệu quả.
III.6. Các công cụ tài chính chưa hợp lý và linh hoạt.
Điều này thể hiện ở chỗ, các công cụ tài chính chưa thực sự góp phần vào việc
điều tiết thu nhập từ việc sử dụng đất, nắm giữ, chuyển nhượng đất đai một cách
công bằng, linh hoạt và hợp lý.
Một số cơ quan, đơn vị mặc dù không có ý định ĐCĐĐ để sinh lời do pháp luật
không cho phép mua bán, chuyển nhượng hoặc cho thuê lại, nhưng do không phải
thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước hoặc chi trả ở mức thấp, trong khi biện
pháp xử lý hành chính là không kiên quyết, nên họ vẫn nắm giữ đất đai với một số
lượng lớn mà nếu để không rất lãng phí hoặc sử dụng vào mục đích cho thuê kiếm
lời mà Nhà nước không điều tiết được. Nếu như họ bị xử phạt thì tiền cho thuê
cũng vẫn đem lại cho họ một khoản lợi sau khi đã nộp phạt.
IV- ƯU ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU CƠ ĐẤT ĐAI.
Hoạt động ĐCĐĐ hầu như chẳng có những tác dụng nào chỉ toàn gây tác hại
cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Hoạt động này xuất hiện có tác dụng làm cho
hệ thống luật pháp và các cơ chế chính sách của Nhà nước phải thay đổi cho phù
hợp với sự thay đổi của thực tiễn. Luật và văn bản dưới luật luôn luôn hướng vào
việc quản lý tốt nguồn tài nguyên đất đai và hạn chế những tiêu cực trong lĩnh vực
này trong đó có hoạt động ĐCĐĐ. Hoạt động này là nguồn thông tin phản hồi cho
Đề án môn học
26
biết tác dụng của các cơ chế chính sách quản lý đất đai ra sao, dựa trên đó mà các
nhà quản lý biết được những chính sách nào, những văn bản nào đã lỗi thời cần
phải thay thế, bổ sung và cần tìm ra phương pháp nào để khắc phục HĐĐC đất đai
nhằm quay lại điều chỉnh những khuyết tật hiện có.
V- HẬU QUẢ CỦA TÌNH TRẠNG ĐẦU CƠ ĐẤT ĐAI.
V.1. Hoạt động đầu cơ đất đai làm cho giá đất đai tăng lên (Qua phân tích
cung – cầu).
Do hoạt động ĐCĐĐ thường nắm giữ đất đai chờ lên giá trong khi đất đai lại có
hạn và nhu cầu về đất đai thì ngày càng tăng cho hầu hết các mục đích, dẫn đến
tình trạng cung tăng không theo kịp sự tăng của cầu trong những điều kiện nhất
định dẫn đến giá tăng cao.
Giá đất càng tăng cao thì càng hấp dẫn đầu tư vào đất đai và HĐĐC phát triển từ
đó đất đai vốn đã khan hiếm lại càng khan hiếm và trở lên có giá trị hơn, giá đất vì
thế lại tăng cao. Sự khan hiếm này mang tính giả tạo đã đẩy giá đất lên cao và là
nguyên nhân của các cơn sốt.
Trên hình vẽ thể hiện, ban đầu tình hình cung cầu ở mức E1, do nhu cầu về đất
đai tăng lên dẫn đến đường cầu dịch chuyển từ D1 đến D2, trong khi đó cung đất
đai chỉ tăng từ S1 đến S2 và sự tăng này thấp hơn sự tăng của cầu có phần do cung
đất đai do khu vực Nhà nước cung cấp là thiếu hụt cộng với hoạt động đầu cơ gây
ra, giá tăng từ P1 đến P2, ngay cả khi giá đến P2 người đầu cơ cũng chưa có ý định
trao đổi đất đai đó mà còn mong chờ mức giá cao hơn nữa.
V.2. Hoạt động đầu cơ đất đai làm cho giá đất đai tăng lên (Qua những mánh
lới của nhà đầu cơ).
Số
lượng
P1
P2
Q1 Q2
D2
D1
S1
S2
E1
E2
Giá
cả
Hình 7: Minh hoạ giá đất tăng lên do hoạt động ĐCĐĐ
Đề án môn học
27
Thông thường nhà đầu cơ có tâm lý muốn bán với giá cao để thu lời lớn nên họ
thường dùng những thủ đoạn để tăng giá đất lên. Biện pháp hay dùng nhất là đưa ra
thông tin giả nhằm che mắt những người mua thiếu thông tin, từ đó người mua tin
rằng họ đã mua được mảnh đất với giá cả phải chăng và hợp pháp. Những thông
tin ảo này vô tình đã làm cho giá cả bị đội lên do thị trường BĐS là một dạng của
thị trường không hoàn hảo và giá cả thay đổi thường xuyên do phụ thuộc rất nhiều
vào các thị trường khác và các điều kiện xung quanh nhất là cơ sở hạ tầng nơi có
BĐS, đất đai; phụ thuộc vào chính sách pháp luật của Nhà nước như ta đã nghiên
cứu, vì thế không phải ai cũng nắm được những thông tin thay đổi và việc giới
ĐCĐĐ giở trò là chuyện không thể tránh khỏi. Chẳng hạn, giới đầu cơ tung tin đồn
vùng một vùng đất nào đó sắp được quy hoạch thành khu đô thị, người mua đất
không biết rằng đó là thông tin ảo và họ tin rằng điều đó là có thực vì những thông
tin ảo đó rất gần với các điều kiện để xảy ra việc khu vực đó được quy hoạch thành
khu đô thị mới. Do vậy họ không ngần ngại bỏ ra một khoản tiền lớn để mua một
mảnh đất trong khu vực gần nơi “sắp được quy hoạch” và đương nhiên là bạn bè
họ cũng sẽ dễ dàng tin rằng đó là khu đất có triển vọng...
Một thủ đoạn khác của giới đầu cơ là đón trước thông tin về những văn bản
chính sách của Nhà nước, của thành phố có liên quan đến đất đai. Hoặc là móc
ngoặc với cán bộ dự án để đôi bên cùng có lợi !.
V.3. Hoạt động đầu cơ đẩy quan hệ cung – cầu ngày càng căng thẳng, là
nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế.
Như đã nói HĐĐC đất đai tạo ra sự khan hiếm nguồn cung giả tạo, trong khi đó
cầu vẫn tăng cao là một nguyên nhân đẩy giá đất lên cao hơn mức thông thường,
tạo ra các cơn sốt nhà, đất. HĐĐC lấn chiếm đất gây khó khăn, làm chậm trễ và
phức tạp quá trình phát triển quỹ nhà ở đô thị. Điều này sẽ làm cho quan hệ cung
cầu về nhà ở của dân cư càng thêm căng thẳng. Sự căng thẳng này lại thúc đẩy
HĐĐC gia tăng. Sự gia tăng trong HĐĐC đất đai lại làm trầm trọng thêm các vấn
đề xã hội và đến nền kinh tế. Thị trường bị rối loạn, đến một giới hạn nào đó sự
tăng giá của đất đai sẽ gây ra phản ứng mang tính chất dây chuyền làm tăng giá
hầu hết các sản phẩm vì đất đai là yếu tố “đầu vào” của hầu hết các ngành sản xuất,
thương mại và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Khi đó giá vàng, giá ngoại tệ
mạnh sẽ tăng lên. Tuỳ theo mức độ tăng của giá đó mà phân phối giá trị tổng sản
phẩm xã hội và các quan hệ về lợi ích kinh tế sẽ bị rối loạn.
Nếu như không có sự can thiệp kịp thời của Nhà nước vào giá đất đai và BĐS
khác, giá vàng, giá ngoại tệ mạnh và các sản phẩm quan trọng cho đời sống và cho
sản xuất thì mặt bằng giá cả sẽ biến động mạnh. Sự hoạt động của các quy luật
trong cơ chế thị trường như: quy luật giá trị, cung cầu, quy luật lưu thông tiền
tệ...sẽ tự phát điều tiết các quan hệ vĩ mô trong nền kinh tế quốc dân như: quan hệ
cung – cầu, giá cả với tiền lương, hàng hoá với tiền tệ... Khi xảy ra tình trạng này
thì cho dù Nhà nước có can thiệp đi nữa thì cũng đã quá muộn, khủng hoảng kinh
Đề án môn học
28
tế sẽ xảy ra. Thực tế đã chứng minh nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế, tiền tệ bắt
nguồn từ cơn sốt BĐS. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu
Á 05/1997-1999 bắt nguồn từ cơn sốt BĐS.
V.4. Ngân sách Nhà nước thất thu và lòng tin của nhân dân vào chính sách
pháp luật của Nhà nước giảm sút.
Hoạt động ĐCĐĐ làm thất thoát loại BĐS quan trọng nhất, có hạn nhất và quý
hiếm nhất đối với đời sống, kinh tế và xã hội. Hoạt động ĐCĐĐ làm cho đất đai
được sang tay, chuyển nhượng qua nhiều đối tượng khác nhau, trong đó có những
đối tượng được che chắn bởi những “vỏ bọc” khá vững chắc. Ngân sách Nhà nước
phải chi ra những khoản tiền lớn khi cần thu hồi đất đai cho nhu cầu chung của xã
hội. Quá trình giải phóng mặt bằng hiện đang là vấn đề gay cấn nhất vô cùng phức
tạp, khó khăn và tốn kém thời gian và tiền của trong khi cơ sở hạ tầng còn thấp
kém.
Hoạt động ĐCĐĐ đã tách một bộ phận đất đai giao dịch phi chính thức và Nhà
nước hoàn toàn không kiểm soát được do đó những giá trị gia tăng Nhà nước
không thu được, những nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất đối với nhà nước
không được thực hiện, trong khi ngân sách Nhà nước có nguồn thu chủ yếu là từ
thuế và lệ phí.
V.5. Hoạt động ĐCĐĐ đất đai lấn chiếm đất công làm giảm hiệu quả kinh tế,
kĩ thuật, xã hội mất đi ưu thế của hệ thống giao thông vận tải hiện đại.
Hoạt động ĐCĐĐ lấn chiếm đất lưu không của các quốc lộ để làm địa bàn cư trú
phát triển thương mại, dịch vụ. Muốn mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống
giao thông Nhà nước phải đầu tư gấp nhiều lần so với bình thường. Ngay cả khi có
thể nâng cấp, hiện đại hoá thì cũng không thể thực hiện được mục tiêu cơ bản.
V.6. Hoạt động đầu cơ đất đai ảnh hưởng xấu đến sự đầu tư vốn vào các lĩnh
vực khác.
Tỷ suất sinh lời cao và sự an toàn trong HĐĐC đất đai đã thu hút nguồn vốn
đáng lẽ ra được đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, vào việc thực hiện
cổ phần hoá, cho thuê, vào thị trường chứng khoán... bị thu hẹp lại.
Ta đã biết rằng, ĐCĐĐ thường sôi động khi có “sốt đất” và nó là nguyên nhân
đẩy giá đất đã cao lại càng cao hơn. Bộ phận vốn sẽ tập trung vào BĐS ngày càng
nhiều, thất thu ngân sách ngày càng lớn và chi phí đền bù giải phóng mặt bằng để
thực hiện các dự án đầu tư tăng cao ảnh hưởng đến việc Nhà nước đầu tư vào phát
triển cơ sở hạ tầng, thực hiện các chính sách xã hội...
V.7. Hoạt động ĐCĐĐ làm lãng phí đất đai – một tài nguyên quý giá.
Đất đai bị lãng phí thể hiện ở việc đất đai bị sử dụng không đúng mục đích.
Trong khi Nhà nước phải bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để khai hoang đất trống,
đất đồi... ở những vùng sâu, vùng xa, hoặc phải bỏ kinh phí để đền bù cao để xây
Đề án môn học
29
dựng trụ sở cho các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp thì ngay trong lòng đô
thị hoặc ở đồng bằng lại tồn tại những khu đất bỏ hoang, không tạo ra sản phẩm
cho xã hội và cũng không tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Việc ĐCĐĐ
để chờ thời cơ chuyển mục đích sử dụng đất đã vô hiệu hoá việc quản lý đất đai
theo mục đích sử dụng, phá vỡ quy hoạch sử dụng đất và làm nghèo đất.
VI. NHỮNG RỦI RO MÀ NHÀ ĐẦU CƠ ĐẤT CÓ THỂ GẶP PHẢI.
Nhà ĐCĐĐ có thể gặp phải những rủi ro do cơ chế chính sách, do pháp luật và
công tác quản lý đất đai đưa lại. Rủi ro lớn nhất nằm trong quy hoạch và bị thu hồi
đất.
Có trường hợp tại phường Bình Thạnh quận 7 - Tp. HCM một chủ đầu tư có tới
1,2 ha đất nông nghiệp. Năm 2000, người đó quyết định đầu cơ và mua với giá
700.000đ/m2 (có sổ đỏ), với hy vọng là khi có quy hoạch khu vực này trở thành
khu dân cư giá đất sẽ tăng cao khoảng 2 – 2,5 triệu đồng/m2 vì gần khu đô thị mới
Nam Sài Gòn. Nhưng bất ngờ số đất đó bị thu hồi để xây dựng một số khu văn hoá
thể thao... nếu được đền bù thì chỉ có 50.000đ/m2 thế là chủ đất mất 7,8 tỷ đồng.
Một số người khi mua bán mới có giấy viết tay hay hồ sơ mới ở cấp phường xã,
chưa có sổ đỏ, khi quận này công bố quy hoạch chi tiết khu vực này thì gần như
mất trắng vì mua bất hợp pháp sẽ không được nhận tiền đền bù 50.000đ/m2.
Ngoài ra các giải pháp hành chính, tài chính...trong lĩnh vực đất đai cũng là
những liều thuốc đáng sợ với những người đầu cơ đất đai.
Một rủi ro khác mà cũng thường xuyên xảy ra là mua phải đất có tranh chấp
giữa các thành viên trong gia đình người bán, nhưng người ĐCĐĐ cũng không
biết.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU CƠ ĐẤT ĐAI TẠI VIỆT NAM
I- HOẠT ĐỘNG ĐẦU CƠ Ở NƯỚC TA CHỦ YẾU DIỄN RA SÔI ĐỘNG Ở
CÁC ĐÔ THỊ LỚN.
Do ở đô thị tập trung nhiều người dân có mức thu nhập cao nên sức mua cao,
mật độ dân số lớn và quy mô dân số ngày càng tăng và nhu cầu đất đai dành cho
các mục đích là rất lớn, đây cũng là nơi có cơ sở hạ tầng hoàn thiện hơn nông thôn,
miền núi rất nhiều. Thêm vào đó người dân Việt nam có tâm lý thích sống ở đô thị
nên người ta đổ về các đô thị để tìm chốn “an cư lạc nghiệp” bởi nhiều người cho
rằng “sung sướng ở quê không bằng ngồi lê thành phố”; cầu đất đai đô thị ngày
càng tăng cao và vượt xa cung dẫn đến giá đất đai và BĐS tăng cao. Vì thế HĐĐC
đất đai tập trung chủ yếu ở các đô thị càng làm căng thẳng quan hệ cung – cầu tạo
ra các cơn sốt nhà đất nhưng cũng mới chỉ giới hạn ở Hà Nội và Tp. HCM.
I.1. Hoạt động đầu cơ đất đai tại Hà Nội.
Đề án môn học
30
Hiện nay, ở Hà nội (HN) phần lớn người đi mua nhà, đất đều không thực sự có
nhu cầu để ở mà mua đất để đầu tư kinh doanh trong khi lãi suất của hệ thống ngân
hàng quá thấp, không thể thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi của họ.
Thị trường nhà đất HN cũng như cả nước vẫn còn sơ khai, nhu cầu về nhà ở, đất
ở là rất lớn, nhưng những người thực sự có nhu cầu đất đai để sử dụng lại không đủ
khả năng tài chính để mua nhà, đất, ngay cả trong những khu chung cư cao tầng.
Tại các khu nhà cao tầng trong các khu đô thị mới, mỗi căn hộ đều rộng từ 80 m2
trở lên, với mức giá trung bình khu ở tầng 10 cũng lên tới khoảng 5.5 – 6 trđ/m2.
Vậy tối thiểu giá một căn hộ cũng là 440 trđ đối với khu ở tầng 10 điều mà nhiều
người không thể có. Nhiều người có được khoản tiền 440 trđ trở lên cũng chưa
chắc đã mua được nhà chung cư bởi lẽ đại đa số dự án khi vừa được phê duyệt đều
đã bán hết số nhà đất (trong khi vốn vẫn chỉ nằm trên giấy) và người mua thường
phải nộp 40 – 50% tiền nhà chủ yếu là giới đầu cơ đã nhảy vào từ sớm. Khi khu
Mỹ Đình II vẫn còn đang trong giai đoạn xây dựng, nhưng đã có hơn 800 người
đăng ký mua trên tổng số 1.000 căn nhà. Còn khu đô thị Trung Hoà - Nhân Chính
đang triển khai xây thô cũng đã bán hết.
Trong một hai năm trở lại đây, thủ đô HN triển khai rất nhiều dự án xây dựng
khu đô thị mới. Tuy nhiên, hình ảnh các lô đất được khoanh lại với đầy cỏ dại,
những căn hộ chung cư vắng bóng người kèm theo mẩu tin nhắn “Ai có nhu cầu
mua đất, nhà này xin liên hệ theo số máy... ngoài giờ hành chính” vẫn khá phổ biến
buộc các chủ đầu tư phải mạnh tay ngăn ngừa hiện tượng đầu cơ trong việc mua
nhà, đất tại các dự án của mình. Điển hình là biện pháp của các chủ đầu tư thuộc
Tổng công ty Đầu tư và phát triển nhà và đô thị (HUD) và Vinaconex.
+ Theo ông Dương Xuân Chí, trưởng phòng kinh doanh tiếp thị của HUD cho biết,
ngay từ đầu tháng 5/2002 HUD đã ra quy định: “Đối tượng mua nhà và hạ tầng
của tổng công ty phải có hộ khẩu HN, có nhu cầu thực sự về nhà và chưa mua
nhà (đất) trong dự án của tổng công ty; mỗi hộ khẩu ở HN chỉ được mua một
căn hộ (một lô đất có hạ tầng) trong dự án của tổng công ty. Riêng đối với một
hộ khẩu có nhiều cặp vợ chồng, nhiều thế hệ và có nhu cầu thực sự thì có thể
xem xét thêm”. HUD cũng không nhận chuyển nhượng hợp đồng mua nhà cho
bên thứ ba. Đối với khách mua đất HUD đã ra hạn cam kết là trong năm phải
xây dựng. Còn đối với các căn hộ chung cư, trong hợp đồng mua bán cũng có
điều khoản quy định rõ thời gian sau khi bàn giao 30 ngày, nhà đã bán phải có
người đến ở.
+ Theo ông Đoàn Châu Phong, giám đốc ban quản lý dự án khu đô thị Trung Hoà -
Nhân Chính (thuộc Vinaconex): “Để tránh hiện tượng đầu cơ, người mua nhà ở
khu đô thị do ông quản lý phải có hộ khẩu HN. Đối tượng ưu tiên là những
người hưu trí, giáo sư, bác sỹ, người làm khoa học, người thực sự có nhu cầu về
nhà ở”.
Tuy nhiên, để chống đầu cơ có hiệu quả, đem lại quyền lợi cho người thực sự có
nhu cầu thì cần phải có sự can thiệp của chính quyền thành phố, hoặc chính
Đề án môn học
31
quyền cấp cao hơn bởi vì ngay khi nhà chưa xây xong, nhờ mối quan hệ thân
thiết, nhiều đối tượng đã ôm trước hàng lô nhà, còn những người có nhu cầu
thực sự lại rất khó mua nhà.
Thị trường nhà đất HN từ cuối năm 2002 càng thêm nóng bỏng khi có thông tin
HN sắp xuất hiện 2 quận mới là Long Biên (có một phần huyện Gia Lâm) và Vạn
Xuân (có một phần huyện Thanh Trì và quận Hai Bà Trưng). Nhiều người từ nội
thành ra ngoại thành tìm mua đất, chủ đất cũng thi nhau đẩy giá lên cao. Không chỉ
có ở hai khu vực này mà các khu vực ngoại thành khác giá đất cũng chẳng chịu
đứng yên. Khu vực xã Phú Diễn, cách thị trấn cầu Diễn 3 km giá đất tăng vùn vụt
sau khi HN tổ chức triển lãm quy hoạch thành phố đến 2020, giá bùng phát kéo
theo sự xuất hiện của hàng loạt các trung tâm, văn phòng môi giới nhà đất.
Hà nội đã thực hiện được một số phiên đấu giá đất thành công, tuy còn ít ỏi và
còn chậm chạp nhưng đã mở ra một bước tiến mới trong quản lý đất đai, góp phần
làm giảm nạn ĐCĐĐ và đưa giá đất sát với giá thị trường.
Trong thời gian qua, giao dịch nhà đất chững lại do Luật đất đai (sửa đổi) nên
giới ĐCĐĐ đứng ngoài cuộc, giao dịch thành công ở các đối tượng có nhu cầu
thực tế tăng lên. Hiện giao dịch ngầm về BĐS vẫn chiếm tới trên 70% các giao
dịch. Số hộ gia đình chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 80% số
hộ trên toàn thành phố.
Sở địa chính – nhà đất HN đã công bố danh sách các chủ đầu tư nhằm hạn chế
tình trạng đầu cơ đất đai, và thực tế biện pháp này cũng đã làm giảm nạn ĐCĐĐ.
I.2. Hoạt động đầu cơ đất đai tại Tp. Hồ Chí Minh.
Giống như HN và cả nước, thị trường đất đai ở Tp. HCM cũng còn ở dạng sơ
khai, đây cũng là một đô thị lớn của cả nước, vấn nạn đầu cơ cũng gây nhức nhối
cho các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu thị trường. Ngay cả với những công ty
kinh doanh phát triển nhà (là công ty Nhà nước) cũng tham gia ĐCĐĐ, có công ty
có dự án 100 nền nhà, tung ra bán 30 nền chỉ trong tích tắc là hết, những lô đất sau
buộc phải điều chỉnh tăng giá. Các công ty Nhà nước buộc phải giữ lại không bán,
hoặc là chấp nhận tăng giá tránh trường hợp cò đất hốt hết để bán lại. Phần lợi
nhuận thu từ việc tăng giá này, dù sao Nhà nước cũng được hưởng để tái đầu tư
phát triển.
Những người tham gia đầu cơ không ra mặt mà họ đứng đằng sau các công ty
trách nhiệm hữu hạn để công ty nhảy vào mua đất của nông dân, sau đó xin chia dự
án hoặc cò kè giá cả đền bù với công ty, thế nào họ cũng có lời. Do vậy, rất khó có
thể phát hiện ra người núp đằng sau các công ty trách nhiệm hữu hạn.
Tại Tp. HCM cũng giống như HN các chủ đầu tư cũng phải “đối đầu” với lực
lượng ĐCĐĐ trong các dự án. Người đầu cơ đất thường rất nhạy bén với tình hình,
một số người đã mua đất đón đầu đầu tư khi mới lập quy hoạch tổng thể, từ năm
2000 tới nay hoạt động ĐCĐĐ căng thẳng hơn.
Đề án môn học
32
Ngoài ra, khi dự án đưa ra phương thức đền bù “đất đổi đất”, ngay lập tức lực
lượng đầu cơ tính toán chắc chắn có lãi trên giá đền bù, nên đã tung tiền mua đất
nông nghiệp, để khi giải toả được đổi bằng đất ở, có hạ tầng kỹ thuật đầy đủ. Mức
đổi tại dự án An Phú – An Khánh là 7%, 9% và 11% tuỳ theo loại đất. Phức tạp
hơn nữa là lực lượng đầu cơ trong một số dự án vẫn chờ một mức đền bù cao hơn.
Hệ quả của vấn đề này là dự án đi vào bế tắc, khiếu nại tranh chấp thì ngày một
tăng lên.
Một hiện thực là ở Tp. HCM người ta thường “mua” đất nông nghiệp với diện
tích lớn (từ 1.000 đến 10.000 m2) với giá 50.000 – 80.000đồng/m2 và sau đó “xin”
biến đất khu đất này thành khu dân cư, san lấp cơ sở, phân lô, găm đất chờ lên
giá...gấp 5-10 lần bán ra kiếm lời bạc tỷ. Đó là do cán bộ, viên chức Nhà nước thực
hiện trong đó trước tiên phải kể đến số cán bộ trong ngành địa chính. Tuy nhiên,
người đứng tên trong sổ đỏ lại thường là vợ, con, anh em hay người thân trong gia
đình họ.
Tại đây, thị trường ngầm cũng chiếm tỷ lệ cao (trên 70%). Nguyên nhân thì có
nhiều nhưng có một nguyên nhân quan trọng đó là Tp. HCM còn 60% số hộ chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo sở địa chính nhà đất Tp. HCM
(nay là sở Tài Nguyên Môi Trường Tp. HCM) đa số những vụ chuyển nhượng đất
từ đầu năm 2001 đến nay là không hợp pháp và nhiều thửa đất được mua đi bán lại
nhiều lần. Năm 2001, trên địa bàn thành phố đã có khoảng 30.000 vụ chuyển
nhượng đất, tăng 2,5 lần so với năm 2000.
Gần đây do Luật đất đai đang trong giai đoạn thảo luận, sửa đổi bổ sung lấy ý
kiến của nhân dân nên nạn ĐCĐĐ ở Tp. HCM cũng như ở HN có chiều hướng
chững lại do giới đầu cơ không dám mạo hiểm manh động khi Luật chưa ban hành.
I.3. Hoạt động đầu cơ đất đai tại một số địa phương khác.
Khoảng hơn một năm nay, việc sang nhượng đất tại tỉnh Bình Dương bỗng trở
lên sôi động rồi trở thành một thị trường diễn ra rất sôi động. Sau khi Tp. HCM có
chỉ thị 08 về hạn chế sang nhượng đất nông nghiệp và tin sẽ có quy hoạch một
phần lớn diện tích xã Phú Mỹ – một xã nông thôn của thị xã Thủ Dầu I thì dân ở
Tp. HCM càng đổ xô về Bình Dương đất tư vào đất ngày càng nhiều.
Tại thị xã Thủ Dầu I cách đây vài năm còn yên ả, việc sang nhượng đất diễn ra
bình thường và người mua có nhu cầu thực sự, người bán cũng chỉ bán phần đất
dư, không bán hàng loạt, nhưng từ cuối năm 2002 đến nay thì ngược lại. Nếu như
giá đất cách đây 2 năm chỉ 30.000 – 40.000đ/m2 thì nay đã tăng lên gấp hơn 6 lần
có nơi trên 400.000đ/m2, đa số những chủ đất mới ở đây đều mua đất vì mục đích
kinh doanh tích trữ đất chờ lên giá bán kiếm lời. Tại xã An Điền, Lai Uyên... quanh
thị trấn Mỹ Phước giá đất nông nghiệp tăng lên chóng mặt vì người mua tích trữ
ngày càng nhiều.
Tại Long An, cũng như ở Bình Dương sau khi Tp. HCM có chỉ thị 08 thì đất tại
Long An cũng có giá cao vì dân ở Tp. HCM về đây tìm mua đất để đầu cơ thu lời,
Đề án môn học
33
do mới có quốc lộ 50 vừa được mở rộng, tình hình sôi động đến nỗi người đi tìm
mua đất đông vui như trẩy hội. Ở đây, những người đầu cơ đất đã làm cho giá tiền
đền bù vượt dự toán. Nhưng Long An đã có biện pháp hạn chế ĐCĐĐ hiệu quả
bằng cách cho phép hội đồng đền bù đơn phương áp giá đền bù theo phương án đã
được duyệt nếu người chủ sử dụng đất ở Tp. HCM nhận thư mời nhiều lần nhưng
không đến gặp hội đồng nhằm gây áp lực phải tăng giá đền bù để thu lợi. Nhờ vậy,
tình hình đầu cơ đất ở đây có chiều hướng giảm.
Thông thường hoạt động ĐCĐĐ luôn luôn đón trước quy hoạch, hoạt động này
luôn luôn đi kèm với việc quy hoạch các khu đô thị, các khu dân cư bởi vậy cần có
biện pháp ngăn chặn kịp thời ở những nơi mới phát sinh như Long An.
II- NHỮNG THỦ ĐOẠN CỦA NHÀ ĐẦU CƠ NHẰM TRỤC LỢI.
Những người đầu cơ đất có rất nhiều thủ đoạn và ngày càng tinh vi khó phát
hiện, trong bài này không thể nêu hết được những mánh lới của họ mà chỉ nêu điển
hình vài thủ đoạn:
Ta đã xét các loại đầu cơ trong phần “phân loại hoạt động đầu cơ đất đai” nhưng
nhà đầu cơ muốn thu lợi nhiều thì họ không chỉ mua nhà (đất) dự trữ khi có lợi thì
bán hay lấn chiếm đất công đem bán trao tay... mà họ còn dùng nhiều chiêu thức
khác, phổ biến nhất ở nước ta hiện nay là việc mua nhà, đất hàng loạt để tạo ra sự
khan hiếm về nguồn cung.
Vào đầu năm 2002 giá đất ở Tp. HCM được giới đầu cơ chuyển nhượng với
mức cao do các công ty kinh doanh nhà đất đã tung hết số nền nhà thuộc các dự án
bán ra trong năm 2001. Cụ thể giá đất nền mua đi bán lại tại các dự án được rao
bán như sau:
Khu d©n c− Ph−íc Long B (quËn 9) 1,7 - 2,5 triÖu ®ång/m2
Khu d©n c− B×nh Hoμ, ph−êng 13 (quËn B×nh Th¹nh) 4,3 - 4,5 triÖu ®ång/m2
Khu ®« thÞ An Phó - An Kh n¸h (quËn 2) 5,6 - 6 triÖu ®ång/m2
Khu ®« thÞ HiÖp B×nh Ph−íc (quËn Thñ §øc) 2,1 triÖu ®ång/m2
Khu quy ho¹ch §ång DiÒu (quËn 8) 5,3 triÖu ®ång/m2
Khu d©n c− B×nh H−ng 3,4 - 6 triÖu ®ång/m2
Nguồn: báo Thanh Niên
Trước đó, giá đất đai rẻ hơn rất nhiều, việc mua bán hàng loạt diễn ra trong khi
Tp. HCM chưa có biện pháp đối phó tốt đã để các nhà ĐCĐĐ thu lợi lớn.
Không chỉ có mua bán hàng loạt, các nhà ĐCĐĐ còn tăng giá dựa vào việc thị
trường thiếu thông tin để lừa gạt, nâng giá, ép giá...trước tiên kẻ lừa đảo cũng khảo
sát, xác định vị trí của các công trình công cộng rồi gom hết đất nông nghiệp còn
lại chung quanh, phân lô bán lẻ. Sau đó lừa bán cho những người từ xa đến mua
Đề án môn học
34
không mà không hiểu rõ khu vực này. Hai câu chuyện sau đây sẽ nói nên phần nào
thủ đoạn này:
“Một lần đến mua đất ở xã Bình Hưng Hoà, huyện Bình Chánh, ông Toàn, nhà ở
phường 5, quận Phú Nhuận, đang đứng nói chuyện với “chủ đất” thì bỗng thấy có
một đoàn xe khoảng 7 – 8 người chạy ngang qua cười nói rôm rả, xin xem bản đồ
phân lô khu vực. Chủ đất đưa ra tờ bản đồ đánh dấu xanh đỏ gần hết, chỉ còn một ít
lô để trắng. Nhóm người này sau khi xem xong họ đề nghị dẫn đi xem đất. Họ nói
với chủ đất: “Bọn này mua đất làm nhà ở chung với nhau, mỗi cặp một căn, bác
bớt cho vài giá, một lúc những mấy nền lời chán còn gì! ”. Chủ đất ra vẻ suy nghĩ
rồi quyết định bớt một chỉ vàng/nền. Đám người này đề nghị bớt 3 chỉ/nền, chủ đất
không chịu, họ đề nghị chủ đất bớt thêm 1 chỉ gọi là mừng cưới cho cả bọn. Chủ
đất lắc đầu, họ nói để đi ra ngoài bàn bạc với nhau chút nữa sẽ quay lại quyết định.
Nhìn thấy cảnh này, sợ hết đất, ông Toàn quýnh quáng quyết định mua ngay
miếng đất kia.
Vài tháng sau, có dịp lân la tìm mua miếng đất ở khu vực lân cận cho người em
họ, ông giật mình khi thấy hoạt cảnh cũ trong các khu đất phân lô gần đó”
“Ông Bảo là cán bộ tỉnh đội Lâm Đồng đi mua đất ở khu phân lô phường 15,
quận Tân Bình Tp. HCM. Khi đang xem xét đất, ông Bảo nhìn thấy cô Hà đi xe
đời mới, tới lui năn nỉ ông chủ đất cho cô mua hết lô đất, vì đất của ông ở ngoài mà
ông lại bán rẻ hơn bên trong nên đất của cô Hà bị “đóng băng”. Điều kiện cô Hà
đưa ra cũng khá thoải mái: trả trước một nửa tiền, còn lại bán nền nào thanh toán
nền đó. Việc mua bán để cô Hà lo. Dù cô ra sức nài nỉ, ông Đức không bán. Ông
nói với khách (ông Bảo) là ông muốn bán giá thấp để thu hồi vốn nhanh, nếu bán
hết cho cô Hà, lỡ mua xong rồi cô ngâm đất của ông, bán đất của cô trước thì biết
chừng nào ông mới thu tiền được! ông Bảo nghe có lý nên quyết định mua một nền
nhà 60 m2 của ông Đức với giá 1,7 triệu đồng/m2. Sau này ông Bảo mới biết rằng
miếng đất đó ông Đức chào bán chỉ với giá 1,5 triệu đồng/m2 ”
Qua hai câu chuyện chỉ nói được phần nào trò lừa bịp người mua đất khi họ
không có đủ thông tin về thị trường, các thủ đoạn của các cò đất, những kẻ đầu cơ
là vô cùng nhiều và tinh vi.
Tại HN đã từng có chuyện giới đầu cơ phát ra liên tục thông tin: Thị trường HN
sốt đất làm cho giá đất leo thang và thông tin này lan truyền rất nhanh theo mức độ
quan tâm đặc biệt của mọi người. Và đây là nguyên nhân làm cho giá đất tăng 20 –
25% so với trước khi có thông tin “ảo” này. Năm 2001, ở Tp. HCM cũng đã có
hiện tượng này đã có thông tin từ giới đầu cơ phát ra cho rằng: “Phường 22 sắp
được quy hoạch thành một khu vực của quận I” làm giá đất tăng nhanh. Trên thực
tế, ban Quản lý đô thị quận Bình Thạnh xác nhận, đây là tin đồn của giới đầu cơ.
Đề án môn học
35
Cũng tại HN chủ đầu tư trong các dự án cũng tìm cho mình những cách hoạt
động khác nhau. Thực tế các chủ đầu tư đã bán đất trong giai đoạn “tiền dự án” và
chủ yếu mua trên giấy tờ. Với phương thức này dần dần hình thành mối liên kết
giữa các nhà đầu cơ với cán bộ kinh doanh nhà đất ở các dự án. Khi đất đến tay
người có nhu cầu thực sự thì giá đã tăng lên rất nhiều.
Một hình thức khác được giới đầu cơ ở HN nhắm tới là mua đất thuộc diện được
quy hoạch nhưng chưa triển khai để rồi ăn chênh lệch từ việc nhận tiền đền bù
hoặc đổi đất theo quy hoạch của thành phố. Để đạt được việc này nhà đầu cơ cũng
cần phải có sự quen biết với cán bộ dự án để đôi bên cùng có lợi.
Các nhà đầu cơ cũng có thể lấn chiếm đất công rồi phân lô để bán, hoặc là mua
đất đã bị lấn chiếm, chia lô, cắt thửa, thay đổi diện mạo của thửa đất rồi chờ thời
thu lời. Hoặc họ cũng có thể mua đất rồi đầu tư phát triển BĐS nhưng không sử
dụng mà chờ thời cơ đem bán kiếm lời.
Một chiêu thức mà nhà đầu cơ nào cũng biết sử dụng đó là việc đón trước thông
tin về những văn bản chính sách của Nhà nước, thành phố có liên quan tới nhà đất.
III- ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU CƠ Ở NƯỚC TA.
Hoạt động ĐCĐĐ ở nước ta chỉ tập trung chủ yếu ở hai địa bàn là HN và Tp.
HCM vì đây là hai nơi có hoạt động giao dịch về BĐS sôi động nhất cả nước. Ở
các địa phương khác thì trầm lắng và có nơi chưa hề có hoạt động đầu cơ.
HN và Tp. HCM là hai địa bàn mà hoạt động ĐCĐĐ có tính chất phức tạp nhất
bởi những người đầu cơ hoạt động rất chuyên nghiệp, rất tinh khôn và khó phát
hiện ra người chủ đích thực của phần đất, nhà có hiện tượng đầu cơ.
Nói chung, hoạt động đầu cơ ở các địa phương khác diễn ra là do lan rộng ra từ
HN và Tp. HCM. Chẳng hạn như, nạn đầu cơ ở Long An và Bình Dương do tác
động của quy hoạch và do chính sách chống đầu cơ của Tp. HCM.
III.1. Một số thành tựu trong việc hạn chế tình trạng đầu cơ đất đai.
1. Luật đất đai (sửa đổi) sắp ban hành sẽ hạn chế tốt hơn tình trạng đầu cơ
đất đai.
Hiện nay, Luật đất đai đang trong giai đoạn sửa đổi và vào đầu năm tới chính
thức ban hành. Do vậy, hiện nay giới đầu cơ đang thận trọng nghe ngóng những
thông tin thay đổi. Công tác quản lý đất đai sẽ được thực hiện tốt hơn và nạn đầu
cơ đất đai ở các đô thị lớn sẽ có thể không có cơ hội để phát triển?
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực, thị trường BĐS
đang hoạt động tự phát, tình trạng ĐCĐĐ đã gây nhiều tiêu cực có tác động xấu
đến nền kinh tế và đây là một nguyên nhân thôi thúc việc sửa đổi Bộ luật Đất đai
lần này.
Trong Luật này vai trò của Nhà nước sẽ được thể hiện rõ hơn, quy định thu hồi
đất đai đối với dự án đầu tư sau 12 tháng liền không sử dụng hoặc tiến độ sử dụng
chậm hơn 24 tháng so với tiến độ của dự án được cơ quan Nhà nước có thẩm
Đề án môn học
36
quyền phê duyệt. Quy định này sẽ nâng cao hơn tính khả thi của việc thi hành luật
và góp phần chống tình trạng đầu cơ.
Đối với vấn đề thu hồi, bồi thường và tái định cư, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
cũng đã bổ sung thêm các quy định nhằm đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng,
quy định những trường hợp được bồi thường và không được bồi thường khi thu hồi
đất, điều kiện tái định cư...
Đối với giá đất, định kỳ hàng năm UBND cấp tỉnh sẽ công bố công khai giá đất
nhằm khắc phục tình trạng giá đất Nhà nước quy định lạc hậu so với thực tế. Đồng
thời, sẽ có quy định cho phép Doanh nghiệp có khả năng chuyên môn làm dịch vụ
tư vấn về giá đất để thuận lợi trong giao dịch quyền sử dụng đất. Cùng với nó, sẽ
tiến hành đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất.
2. Tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất tại một số địa phương trong cả nước
mở ra một giải pháp khắc phục hoạt động đầu cơ.
Đấu giá quyền sử dụng đất mở ra một phương pháp khắc phục đầu cơ, đồng thời
đưa giá đất đai sát với giá thị trường và Nhà nước thu được nguồn thu tối đa một
cách công khai để đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Vừa qua, Nhà nước thu được
69 tỷ đồng từ đấu giá đất khu Đền Lừ II (thuộc phường Hoàng Văn Thụ, quận Hai
Bà Trưng) – (theo Thời báo kinh tế Việt Nam). Đấu giá quyền sử dụng đất bảo
đảm tính bình đẳng, cơ chế xin – cho bị xoá bỏ. Khung giá cứng trong nghị định 87
của chính phủ không còn được áp dụng nữa, tính cạnh tranh lành mạnh được phát
huy và người thắng cuộc sẽ chuyên tâm hơn vào việc đầu tư để phát huy tối đa hiệu
quả của đất đai.
Đấu giá đất cũng đã được thực hiện ở Hải Phòng và cần mở rộng hình thức này
ở các địa phương khác.
3. Tp. HCM công khai quy hoạch để chống đầu cơ đất.
Tại quận 12 - Tp. HCM người dân có thể xem quy hoạch tại UBND quận và trụ
sở UBND các phường. ở đây cũng cắm các pano giới thiệu các quy hoạch tại từng
khu phố, tổ dân phố và phát hành tài liệu cho người dân có nhu cầu. Ngoài ra,
chính quyền quận còn tiến hành kiểm tra, buộc tất cả những chủ đầu tư các khu
phân lô “chui” phải hoàn chỉnh lại quy hoạch, đăng ký với kiến trúc sư trưởng
thành phố để được phê duyệt, nếu không sẽ phải tháo dỡ.
Đây là một biện pháp mà đã tạo ra sự rõ ràng về thông tin trong thị trường đất
đai cho những người có nhu cầu thực sự, các chủ đất vì thế sẽ không còn sử dụng
được chiêu thức tăng giá bằng cách lừa gạt những người thiếu thông tin thị trường.
4. Thành công của Chỉ thị 08/2002 CT-UB ngày 22/4/2002 của Uỷ ban Nhân
dân Tp. HCM.
Chỉ thị 08/2002 CT – UB ngày 22/04/2002 về hạn chế chuyển nhượng đất nông
nghiệp đã đạt được những thành công ngoạn mục. Chỉ thị này có hiệu lực ngay từ
Đề án môn học
37
trước khi ban hành khi mà báo chí đưa tin về việc UBND Tp. HCM sắp ban hành
quy định “tạm ngưng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp...”, cơn sốt
đất trước đó đột ngột chững lại. Ngay từ trước tết dương lịch năm 2002 một công
đất (1.000m2) sình lầy ở Phước Kiểng (Nhà Bè) chỉ khoảng 7 – 8 chục triệu đồng
thì đến cuối tháng 3 đã tăng gấp 3 lần – trên 200 triệu đồng/1.000m2. Đất nông
nghiệp ở Xuân Tới Thượng (Hóc Môn), cùng thời điểm, đang từ 25 triệu
đồng/công đã tăng lên 60 – 70 triệu đồng/công. Việc giá đất tăng nhanh đã làm cho
nạn đầu cơ xuất hiện họ thu hàng trăm triệu đồng trên mỗi lần sang tay.
Nhưng Chỉ thị này – một văn bản hành chính đã can thiệp kịp thời và điều tiết
được ổn định các cơn sốt trên thị trường tự do. Trước đó việc thương lượng bồi
thường quyền sử dụng đất là rất khó khăn trong các dự án nhà ở. Có nơi đền bù
theo thương lượng ban đầu là 100.000 đ/m2 nhưng giai đoạn cuối phải đền bù 2
triệu đồng/m2 trong khi giá nền nhà theo phương thức góp vốn là 1,6 triệu
đồng/m2. Những người đầu cơ đặt giá rất cao, trong tình hình đó chỉ thị 08 đã quy
định: “Người nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp phải chấp hành quyết định thu
hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và chỉ được nhận tiền đền bù giải toả
theo giá đất nông nghiệp khi triển khai dự án đầu tư theo quy hoạch”. Trong chỉ thị
cũng nêu rõ “Đất không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liền mà không được
cơ quan có thẩm quyền giao đất đó cho phép, Nhà nước sẽ thu hồi theo điều 26
Luật đất đai hiện hành”. Nhờ có như vậy mà tình trạng đất nông nghiệp bỏ hoang
đã được “có nhu cầu sử dụng” tuy rằng còn có sự chống đối nhưng cũng làm cho
các chủ đầu cơ không khỏi lo lắng vì nếu họ đầu tư vào đất thì không có nhu cầu
sử dụng mà không đầu tư vào thì bị Nhà nước thu hồi.
Như vậy, điểm tích cực trong chỉ thị 08 là đã kìm được cơn sốt của thị trường tự
do, hạn chế được tình trạng đầu cơ trái pháp luật và tạo cho các nhà đầu tư chân
chính một môi trường kinh doanh thuận lợi.
5. Tp. HCM đề xuất được 4 giải pháp ổn định thị trường nhà đất.
Bốn giải pháp để ổn định thị trường nhà đất đó là:
Ban hành chính sách hành chính, kinh tế cho các khu đô thị mới, trong đó tăng
cường phạt tiền luỹ tiến hoặc thu hồi đất nông nghiệp bỏ hoang trên 12 tháng để
chống đầu cơ.
Chấm dứt phê duyệt các dự án phân lô bán nền nhà.
Điều tiết thu nhập kinh doanh địa ốc một cách hợp lý.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình quản lý, sử dụng đất đai và
đầu tư dự án...
Các biện pháp thứ nhất, thứ hai và thứ tư là các liều thuốc tốt cho thị trường nhà
đất, đặc biệt là biện pháp thứ nhất và thứ hai sẽ hạn chế tốt hoạt động ĐCĐĐ và
làm cho đất đai được sử dụng có hiệu quả hơn.
6. Hà Nội quy định phải có hộ khẩu thường trú khi mua nhà, đất.
Đề án môn học
38
Đây là giải pháp nhằm hạn chế tăng dân số và ĐCĐĐ vì ta biết rằng đa số những
người có thu nhập cao ngoại tỉnh có nhu cầu mua đất tại các đô thị lớn để tìm nơi
an cư lạc nghiệp và một bộ phận vì nhu cầu đầu cơ.
7. Một số thành tựu khác.
Như ta đã thấy biện pháp mà Long An đã thực hiện đã đem lại hiệu quả rất lớn
buộc các chủ đất phải chịu chấp nhận giá đền bù không theo tính toán của họ hoặc
là phải chịu giữ đất mà không chuyển nhượng được. Đây là một biện pháp chống
đầu cơ có hiệu quả và cần được nhân rộng.
Như ta đã xét, các chủ đầu tư cũng đã tự tìm cách để chống đầu cơ đất đai trong
dự án của mình bằng cách ra các quy định riêng và có chính sách ưu tiên cho
những người có nhu cầu thực sự sử dụng nhà đất như cách làm của Vinaconex, quy
định phải xây dựng trong năm, hoặc nếu là nhà thì trong thời hạn 30 ngày phải có
người đến ở... như HUD.
III.2. Những tồn tại và nguyên nhân.
1. Những tồn tại.
Tuy rằng cuộc chiến chống đầu cơ đã đạt được một số thành công nhưng nạn
đầu cơ vẫn còn tồn tại, có nơi có lúc còn phát triển mạnh mẽ hơn.
Những biện pháp chống đầu cơ không có tính toàn diện vì mới chỉ đạt được
mục tiêu trước mắt.
Việc các chủ đầu tư ra phải ra các quy định chống đầu cơ đất trong dự án của
mình cho thấy năng lực quản lý của Nhà nước còn hạn chế.
Việc đấu giá đất tuy rằng là một biện pháp coi là tối ưu và đạt được nhiều mục
đích nhưng không phải là không có những vấn đề tồn tại bởi lẽ đấu giá đất là
lĩnh vực mới mà các quy định cũng như tính khoa học cho vấn đề này là chưa
đầy đủ. Tiêu cực trong đấu thầu không thể khẳng định chắc chắn rằng không
còn tồn tại trong đấu thầu đất vì đã có trường hợp nhờ người thân đứng tên và
thầu được 5 – 7 miếng đất, sau đó bán trao tay ăn chênh lệch 1 – 2 triệu
đồng/m2 (theo tìm hiểu của một số phóng viên của báo điện tử Vnexpress). Một
vấn đề khác là xung quanh khu đất đấu thầu, giá đất cũng thay đổi và thường là
tăng lên và đây là mầm mống cho nạn đầu cơ hoành hành tại những nơi sắp có
đấu giá đất.
Tiếp nữa là tình trạng móc ngoặc giữa cán bộ dự án, cán bộ làm công tác quy
hoạch với những người đầu cơ đất đai để cùng hưởng lời, các cán bộ trong
ngành địa chính cũng tham gia vào đầu cơ dù không đứng tên mình mà lấy tên
của người thân cũng là một tồn tại đáng lo ngại vì ngay trong lòng bộ máy quản
lý đất đai mà còn như vậy thì đến bao giờ mới chống được ĐCĐĐ?
Một số doanh nghiệp Nhà nước tham gia đầu cơ cũng làm cho giá đất tăng lên,
và đây cũng là vấn đề nổi cộm.
Đề án môn học
39
Việc quy định phải có hộ khẩu HN mới được mua nhà, đất ở HN làm giảm tính
sôi động của thị trường mặc dù góp phần hạn chế đầu cơ.
Tình trạng lấn chiếm đất công cũng không còn gì là lạ nữa nhưng tại sao vẫn
tồn tại?
Khi hoạt động đầu cơ được ngăn chặn kịp thời ở những địa bàn nóng thì hoạt
động này có nguy cơ lan rộng ra các khu vực khác, nên việc chống đầu cơ ngày
càng gay go và phức tạp, thử hỏi nếu không có liều thuốc đặc trị nào cho hoạt
động ĐCĐĐ mà hoạt động này ngày càng lan rộng thì sẽ phải làm thế nào để
chống được đây?
2. Những nguyên nhân.
Để nạn đầu cơ có đất dụng võ là do có các nguyên nhân sau đây:
Trước hết, do một thời gian dài chúng ta chưa chính thức thừa nhận sự tồn tại
của thị trường BĐS (thị trường nhà đất) vì chưa nhận thức được tầm quan trọng
của nó đối với nền kinh tế quốc dân nên chưa có một hệ thống các văn bản pháp
lý nhằm điều tiết thị trường. Mặt khác, nhu cầu của dân cư về nhà ở, đất ở...
ngày một tăng cao dẫn tới sức ép từ phía cầu là quá lớn mà có cầu thì sẽ có
cung thì thị trường ngầm hình thành là tất yếu và đây là môi trường lý tưởng
cho hoạt động đầu cơ.
Hệ thống văn bản hướng dẫn thị trường nhà đất còn lộn xộn mặc dù có hơn 500
văn bản, do các văn bản hướng dẫn không thống nhất dẫn đến tạo ra kẽ hở trong
luật pháp và gây khó khăn cho việc thực thi. Số văn bản phát huy tác dụng chỉ
đếm trên đầu ngón tay và không phải trường hợp nào cũng áp dụng được. Ngay
những bộ luật lớn cũng có sự quy định không trùng khớp với nhau do đó cản trở
những quan hệ giao dịch trên thị trường. Ví dụ như, Bộ luật Dân Sự việc
chuyển quyền sử dụng đất mới chỉ được quy định cho cá nhân và hộ gia đình,
chưa quy định cho pháp nhân, quyền sử dụng đất chỉ được quy định bởi Luật
đất đai nên trên thực tế pháp nhân sử dụng đất thông qua các thủ tục mang tính
hành chính của Nhà nước, chứ không thể chuyển nhượng, thu nhượng theo
quan hệ dân sự. Điều này đã tạo ra rào cản hay bức tường pháp lý chia cắt giao
dịch giữa cá nhân và ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề án nghiên cứu về đầu cơ đất đai.pdf