Luận văn Nghiên cứu về báo chí trong phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của nhân tài trong công cuộc xây dựng đất nước

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu về báo chí trong phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của nhân tài trong công cuộc xây dựng đất nước: LUẬN VĂN: Nghiên cứu về báo chí trong phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của nhân tài trong cụng cuộc xây dựng đất nước Mở đầu Ngày nay, khi nói đến sức mạnh của một quốc gia, mọi người đều thừa nhận rằng, nguồn nhân lực, nhân tài là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất. Trong đó, nhân tài là bộ phận tinh túy, cú giỏ trị nhất của nguồn nhõn lực quốc gia. Vỡ vậy, việc nghiên cứu và phát triển nhân tài, đào tạo bồi dưỡng nhân tài, thu hút và sử dụng nhân tài đó trở thành quốc sỏch của nhiều quốc gia. Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều chủ trương chính sách để thu hút người tài phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Trên nhiều lĩnh vực, đã xuất hiện nhiều tấm gương, các điển hình tiên tiến, các nhân tài. Họ đó cú những đóng góp rất đáng kể cho đất nước. Việc cổ vũ các cá nhân, điển hình này là việc làm rất cần thiết, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, sự đam mê nghiên cứu khoa học, đam mê làm giàu chính đáng, cống hiến sức trẻ cho đất nướ...

pdf124 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu về báo chí trong phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của nhân tài trong công cuộc xây dựng đất nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nghiên cứu về báo chí trong phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của nhân tài trong cụng cuộc xây dựng đất nước Mở đầu Ngày nay, khi nói đến sức mạnh của một quốc gia, mọi người đều thừa nhận rằng, nguồn nhân lực, nhân tài là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất. Trong đó, nhân tài là bộ phận tinh túy, cú giỏ trị nhất của nguồn nhõn lực quốc gia. Vỡ vậy, việc nghiên cứu và phát triển nhân tài, đào tạo bồi dưỡng nhân tài, thu hút và sử dụng nhân tài đó trở thành quốc sỏch của nhiều quốc gia. Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều chủ trương chính sách để thu hút người tài phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Trên nhiều lĩnh vực, đã xuất hiện nhiều tấm gương, các điển hình tiên tiến, các nhân tài. Họ đó cú những đóng góp rất đáng kể cho đất nước. Việc cổ vũ các cá nhân, điển hình này là việc làm rất cần thiết, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, sự đam mê nghiên cứu khoa học, đam mê làm giàu chính đáng, cống hiến sức trẻ cho đất nước. Tuy nhiên hiện nay, chính sách trọng dụng người tài ở nước ta vẫn còn rất nhiều bất cập: có lúc, có nơi người tài bị đố kỵ, không được trọng dụng, không có môi trường làm việc chuyên nghiệp, các ngành, các cấp chưa có cơ chế thông thoáng, chế độ đãi ngộ cho họ, chính sách thu hút người tài ở các địa phương chỉ là hình thức, không có thực chất.... Chính vì vậy, người tài chưa phát huy được hết sức lực và trí tuệ của mình cho sự nghiệp đổi mới. Báo chí nước ta, bên cạnh việc nhiều nhiệm vụ tuyên truyền quan trọng khác, những năm gần đây, đó cú tiếng núi rất mạnh mẽ trong việc tuyên truyền về chương trỡnh tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và phát huy nhân tài cho đất nước. Đó là một mảng đề tài đang được một số tờ báo coi là trọng tâm hiện nay, nhất là các tờ báo là diễn đàn của thanh niên, sinh viên học sinh... Báo chí đó gúp phần to lớn trong việc tạo ra một nhận thức mới trong xó hội về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài, đưa ra nhiều kiến nghị và giải pháp cho kế sách nhân tài của Đảng, Nhà nước. Nghiên cứu về báo chí trong phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trũ của nhõn tài trong cụng cuộc xõy dựng đất nước cú ý nghĩa thiết thực đối với cụng tỏc lý luận, nghiên cứu báo chí và chính sách đào tạo, trọng dụng nhân tài trong xó hội ta hiện nay. 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp cách mạng nào cũng cần đến những người tài dẫn dắt. Không có những cá nhân ưu tú, cách mạng sẽ rất khó thành công. Chưa có thời đại nào chúng ta lại cần có nhiều nhân tài và phải trọng dụng nhân tài như ở thời đại ngày nay. Bởi vỡ chớnh họ, những nhõn tài là những cỗ mỏy cỏi quan trọng nhất sản xuất ra tri thức và biến tri thức thành của cải vật chất và tinh thần cho toàn xó hội. Họ có năng lực vượt trội trong việc sử dụng tri thức cho phát triển. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu đáng mừng trên nhiều lĩnh vực thỡ chỳng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là nguy cơ bị tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Lúc này, việc cần người có tài đem tài năng và tâm huyết của mỡnh ra phục vụ đất nước, đưa đất nước có những bước nhảy vọt lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Sự nghiệp đổi mới càng sâu sắc và toàn diện càng đũi hỏi phải đổi mới tư duy triệt để; muốn vậy phải có tầm trí tuệ rất cao. Tầm trí tuệ cao ấy phải có sự tham dự của tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc. Tuy nhiên, như đó núi ở trờn, trong chớnh sỏch trọng dụng người tài ở nước ta bên cạnh những thành tựu và tiến bộ vẫn còn nhiều bất cập, khiến người tài chưa được trọng dụng, chưa phát huy được hết sức lực và trí tuệ của mình cho sự nghiệp đổi mới. Thực tế ấy đang là một vấn đề "nóng", thu hút sự quan tâm của toàn xó hội. Độ "nóng" của nó không thua kém bất cứ đề tài nào như chống tiêu cực hay các tin tức nóng hổi liên quan trực tiếp đến đời sống người dân…. Bởi độ "nóng" ấy mà trên báo chí nước ta, vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài được nhiều tờ báo rất chỳ ý và bạn đọc rất quan tâm. Sự quan tâm đặc biệt của báo chí đối với mảng đề tài này phản ỏnh sự quan tõm chung của toàn xó hội. Thực tế tuyên truyền trên báo chí nước ta những năm gần đây về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài đó đặt ra một số yêu cầu cấp thiết. Đó là việc định hướng tuyên truyền, khẳng định vị trí và tầm quan trọng của việc tuyên truyền và nhất là khắc phục nhiều điểm hạn chế của báo chí trong tuyên truyền về vấn đề này để tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa hiệu quả và chất lượng tuyên truyền, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước. Điều đó khẳng định ý nghĩa thiết thực cũng như tính cấp thiết của việc nghiên cứu về báo chí những năm gần đây trong tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy nhân tài đất nước. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Nghiên cứu thực trạng vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay. Qua đó đề xuất những ý kiến đóng góp vào chủ trương, chính sách đào tạo, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài. - Nghiên cứu các tác động xã hội của việc tuyên truyền trên báo chí đối với vấn đề phát huy nhân tài đất nước hiện nay. - Trên cơ sở khảo sát về tần số xuất hiện, nội dung và quan điểm tuyên truyền của báo chí để từ đó rút ra một số kinh nghiệm, một số biện pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền về nội dung phát huy nhân tài đất nước phục vụ công cuộc đổi mới. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại lợi ích về mặt lý luận báo chí cũng như có tính ứng dụng thực tiễn vào việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền trên báo chí về vấn đề nhân tài. 3. Đối tượng nghiên cứu - Nhân tài với tư cách là tài sản quan trọng quốc gia. - Thực tế vấn đề đào tạo và sử dụng người tài ở nước ta hiện nay. - Những vấn đề đạt được và chưa được trong tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy nhân tài đất nước trên báo chí hiện nay 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn đi sâu nghiên cứu về công tác tuyên truyền về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài đất nước trên 3 tờ báo Tuổi trẻ, Thanh niên và báo điện tử Vietnamnet. Chọn 3 tờ báo này vì: - Là 3 tờ báo có lượng độc giả lớn nhất hiện nay, đặc biệt là các độc giả trẻ. - Chọn 2 tờ báo viết và 1 tờ báo điện tử để khảo sát nhằm cân đối giữa các loại hình báo chí. Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề tuyên truyền này trên 3 tờ báo trên, rút ra một số kinh nghiệm trong vấn đề tuyên truyền về nội dung này trên báo chí. Về thời gian: nghiên cứu các số báo ra trong năm 2005 tới nay. Đây là 2 tờ báo ra hàng ngày và 1 tờ báo điện tử nên số lượng khảo sát khá lớn, số lấy mẫu của báo in là gần 2000 số và gần 1000 số báo của báo Vietnamnet. 5. Phương pháp nghiên cứu Thống kê, tổng hợp, khảo sát, phân tích, đánh giá… là những phương pháp nghiên cứu được áp dụng để thực hiện luận văn này. Để hoàn thành luận văn, tác giả phải tiến hành các bước: - Tập hợp các tài liệu, các văn bản về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nhân tài, đào tạo và trọng dụng nhân tài hiện nay. - Khảo sát tất cả các số báo đã ra trong năm 2005 tới nay của 3 tờ Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh niên và Vietnamnet. Trên cơ sở đó để phân tích, khảo sát, đánh giá, rút ra kết luận. - Điều tra xã hội học bạn đọc về vấn đề tuyên truyền về nhân tài và tác động xã hội của việc tuyên truyền trên báo chí. - Trên cơ sở những dữ kiện, thông tin thu thập được để phân tích, đánh giá, rút ra kết luận, đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Báo chí với nhiệm vụ tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của nhân tài trong xây dựng đất nước. Chương 2: Thực trạng của việc tuyên truyền về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài trên báo chí hiện nay. Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài trên báo chí hiện nay. Chương 1 BáO CHí VớI NHIệM Vụ TUYÊN TRUYềN Về VấN Đề NHÂN tài và phát huy vai trò của nhân tài trong xây dựng đất nước 1.1. Khái niệm nhân tài và những đặc trưng cơ bản của người tài 1.1.1. Khái niệm nhân tài Cách nay hơn 500 năm, éụng cỏc đại học sĩ Thân Nhân Trung theo chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông, đó viết trờn bia tiến sĩ khoa Nhâm tuất (năm 1442) đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long: Hiền tài là nguyờn khớ của quốc gia. Nguyờn khớ thịnh thỡ thế nước mạnh, rồi lờn cao; nguyờn khớ suy thỡ thế nước yếu, rồi xuống thấp. Bởi vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bổ dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là việc đầu tiên. Vỡ thế, cỏi ý tụn trọng họ, thật là vụ cựng... Trải qua bao biến thiên của lịch sử, vận nước lúc hùng cường khi suy vi nhưng bất cứ giai đoạn nào, vai trũ lịch sử của những cá nhân xuất chúng bao giờ cũng được khẳng định. Chỉ những con người tài năng, đức độ mới được tạc ghi vào sử sách như những người anh hùng. Họ là những nhân tài của đất nước. Chúng ta luôn nói về những con người ấy với sự kính trọng và tôn thờ những con người đó có công lớn với non sông, đất nước. Ngày nay, khi nói đến sức mạnh của một quốc gia, mọi người đều thừa nhận rằng, nguồn nhân lực, nhân tài là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất. Trong đú, nhõn tài là bộ phận tinh tuý, cú giỏ trị nhất của nguồn nhõn lực quốc gia. Vỡ vậy, việc nghiờn cứu và phỏt triển nhõn tài, đào tạo bồi dưỡng nhân tài, thu hút và sử dụng nhân tài đó trở thành quốc sỏch của nhiều quốc gia. éể làm tốt được những việc đó, trước hết cần phải hiểu rừ bản chất của vấn đề nhân tài và phát triển nhân tài. Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội - 1994, do Văn Tân chủ biên), Nhân tài được định nghĩa là Người có tài. Đó là định nghĩa cơ bản nhất nhưng theo cách hiểu đơn giản, nhân tài là những người có tài năng thực sự trong lĩnh vực hoạt động nào đó. Biểu hiện cụ thể ai cũng thấy là, họ luôn luôn hoạt động đạt hiệu quả cao, hiệu quả xuất sắc, xuất chúng trong lĩnh vực hoạt động đó. Dưới góc độ khoa học, khái niệm nhân tài gắn liền khái niệm năng lực. Năng lực là một trong những thuộc tính tâm lý cơ bản của nhân cách. éú là khả năng của con người có thể hoàn thành tốt một lĩnh vực hoạt động nào đó. Xét về cấu trúc, năng lực là một tổ chức thuộc tính của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định. Nếu sự phù hợp càng cao, năng lực càng có điều kiện phát triển cao, con người càng dễ phát triển tài năng. Có ba mức độ của năng lực: + Mức độ 1: Người có năng lực. éú là người luôn luôn hoàn thành tốt công việc, đảm đương tốt chức trách được giao, là người làm việc có kế hoạch có sáng tạo ở mức độ nhất định, biết giải quyết vấn đề một cách linh hoạt, là người có chủ kiến, bản lĩnh và quyết đoán trong mọi tỡnh huống, là người biết nhỡn xa trụng rộng, cú bản lĩnh, tự tin và thụng minh. + Mức độ 2: Con người tài năng. Là con người có những phẩm chất giống như người có năng lực nhưng ở mức độ cao hơn. Họ luôn hoàn thành rất xuất sắc công việc, dù bị nhiều khó khăn, trở ngại. Kết quả công việc của họ thường là rất kiệt xuất, hiếm có, hiệu quả rất cao, ý nghĩa rất lớn, rất sỏng tạo, ớt người đạt được. Họ là người có tính chiến lược, chiến thuật rất cao trong hoạt động, say mê, nhiệt tỡnh, tớch cực trong hoạt động đó. Hiệu quả công việc của họ có ý nghĩa ở tầm cỡ quốc gia, quốc tế, có tác động lớn đến xó hội. + Mức độ 3: Con người thiên tài. éõy là mức độ cao nhất của năng lực. Là người tuyệt vời thông minh tài giỏi, sáng tạo độc đáo, có những phát minh sáng chế kiệt xuất, có ý nghĩa lớn lao đối với toàn nhân loại trong cả một giai đoạn lịch sử loài người, tạo nên những sự biến đổi có tính cách mạng trong đời sống xó hội. Cú thể gọi đó là con người tài năng vĩ đại, hiếm có trong lịch sử nhân loại. Có những trường hợp, con người chỉ được tôn vinh là thiên tài khi họ đó mất đi, và ở thế hệ sau loài người mới thấy hết được ý nghĩa, giỏ trị của những phỏt minh sỏng chế và những cống hiến của họ. Xét ở mức độ trên của năng lực, có thể nói, nhân tài là những người có năng lực (ở cả 3 mức độ). Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nhân tài chỉ là những người có năng lực ở mức độ "con người tài năng", "con người thiên tài". Như vậy, xét theo nghĩa hẹp, nhân tài là những con người tài năng,con người thiên tài. Nhưng theo nghĩa rộng, nhân tài có thể bao gồm tất cả những người có năng lực, là những người có thể hoàn thành tốt một lĩnh vực hoạt động nào đó với hiệu quả cao. Như vậy, có thể khái quát: - Nhân tài là người làm được những việc mà người khác không làm được. Với cùng một tỡnh huống trong cuộc sống, người tài sẽ đưa ra cách giải quyết kịp thời, chính xác, hiệu quả hơn những người khác! Bản chất của tài năng là sự thông minh hơn người. Lê Quí Đôn đó khẳng định: "Trong công việc, cần nhất sự thông minh". Người thông minh sẽ biết cách vượt qua những khó khăn trở ngại mà người khác không vượt qua được. Người tài thường nhỡn ra những gúc khuất mà người khác không nhỡn thấu, có khả năng đảm đương được những công việc khó khăn, phức tạp, có khả năng đóng góp được nhiều cho sự nghiệp chung. Nhân tài hiểu một cách bao quát nhất là người tài năng, có những phẩm chất thiên bẩm, phi thường. Cho dù tiềm năng đó không được khai thác, phát triển và không có cống hiến cho xó hội thỡ với nền tảng tri thức cơ bản, tư chất nổi trội hơn người vẫn quan niệm họ là nhân tài. Tiêu chí đánh giá một người là nhân tài rất khó cụ thể hóa. Thợ thuyền cũng có anh thợ cả, thợ phụ. Một công nhân tinh thông nghề nghiệp, thông minh, sáng tạo, có nhiều sáng kiến trong công việc, tiết kiệm hàng chục triệu đồng cho quốc gia cũng phải được xem là nhân tài của đất nước. Trong khi ngài giáo sư khả kính, ăn diện, dáng oai phong, bệ vệ nhưng cả sự nghiệp khoa học không nghiên cứu được cụng trỡnh nào ứng dụng thực tiễn, làm lợi cho nhân dân, cho đất nước, không gọi là nhân tài. Người có tài năng lại có cái tâm và chọn mục đích mang kết quả lao động của mỡnh ra để phụng sự cho xó hội, cho tiến bộ khoa học, thỡ người đó có đủ tiền đề để trở thành nhân tài. Khi những đóng góp chưa có điều kiện thực hiện, họ vẫn chỉ là người có tài năng, cũn nếu những đóng góp chứng tỏ giá trị, họ sẽ được công nhận là nhân tài. Vậy thỡ, những tài năng và nhân tài đều có thể có trong mọi thời kỳ, và tập trung theo ba lĩnh vực gồm: - Nhân tài - lónh đạo (tham gia điều hành một tập thể với cỏc chức vị lónh đạo...) - Nhân tài - trí thức (cá nhân theo đuổi chuyên môn tự nhiên và xó hội: bỏc sĩ, kỹ sư, văn nghệ sĩ...) - Nhân tài trong lao động- sản xuất (công nhân, nông dân, thợ thủ công...) Nguyên khí quốc gia phải dựa vào cả ba nguồn nhân tài trên, trong đó nhân tài - lónh đạo đóng vai trũ quyết định nhất đến sự thịnh suy của nguyên khí này. Có tài chỉ là điều kiện cần. Có đức là điều kiện đủ. Người lónh đạo ngày nay phải là người có cả đức và có tài! Như vậy mới hội đủ hết ý nghĩa của từ "nhân tài" bởi trong "nhân tài" có chữ "nhân" - thể hiện phẩm chất đạo đức cao quý trong những người tài và cũng là quan niệm của xó hội ta từ ngàn đời nay đối với người tài thực sự. Sự kết hợp hài hoà giữa đức và tài sẽ làm nên một "nhân tài" theo đúng nghĩa. 1.1.2. Những đặc trưng của người tài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Vì thế người tài thường hiếm. Để có một người tài phải có quá trình học tập, rèn luyện, bồi dưỡng gian khổ của bản thân cá nhân đó và của toàn xã hội. Có thể khái quát các đặc trưng của nhân tài là: + Về phẩm chất trí tuệ: Họ thường có sự nhạy bén, sự tinh tế trong tư duy, sự sâu sắc trong suy nghĩ, họ thường có ý tưởng độc đáo, sáng tạo hơn người khỏc. Họ luụn luụn tỡm tũi cỏi mới, hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn về mọi mặt. + Về tỡnh cảm và cỏ tớnh: Họ rất say mờ trong lĩnh vực hoạt động nhất định liên quan đến tài năng của họ, họ rất tích cực và năng động, say sưa làm việc, say sưa sáng tạo, tự tin, quyết đoán và kiên trỡ trong cụng việc. + Về hoạt động: Họ làm việc rất hiệu quả và luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động. Họ rất chú trọng sáng tạo cái mới, chú trọng đến những giá trị về nhiều mặt của kết quả hoạt động. Họ thường có những kỹ năng, kỹ xảo đặc biệt và giải pháp tối ưu trong công việc. Nhân tài trước hết là người có nhân cách nên có một từ được dùng rất đúng là hiền tài. Nhân tài đích thực có một số tính cách phổ biến: khiêm tốn, khiêm nhường và chỉ xuất hiện khi có người trọng dụng. Người tài muốn phát triển phải có môi trường tốt để họ phát huy hết khả năng, sở trường của mình. Người tài đều sợ không có chỗ để thi thố tài năng và sức lực. Một vài trong những biểu hiện của nhân tài là tính sáng tạo cao (do trời phú) và sự đam mê công việc mà mỡnh yờu thớch. Đó là những người có thể cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp, cho ý tưởng mà mình đã theo đuổi. Nhân tài là những người luôn tạo nên sự khác biệt, làm được những việc họ muốn làm, luôn lăn xả trong công việc, biết đam mê và có kỹ năng thuần thục kèm theo tính sáng tạo. Đọc truyện "Tam quốc" chúng ta đều biết, Lưu Bị ba lần đến lều tranh mới vời được Khổng Minh ra giúp, hũng khụi phục cơ đồ nhà Hán. Trong khi đó, Từ Thứ làm tân khách của Tào Tháo nhưng vỡ oỏn Tào giả thư của mẹ dụ mỡnh về khiến bà phải tự sỏt, dự ở trong quõn Tào được đói đằng trọng thị vẫn ba năm không hiến một kế. Từ đó có thể hiểu nhân tài bao giờ cũng lấy nghĩa khí làm đầu. Nhân tài thường là những người có lòng tự trọng cao. Tuy nhiên, khi đi tỡm minh chỳa để phũ, những người có tài không chỉ vỡ muốn thi thố tài năng, mà cũn muốn được vinh hiển, có quyền cao chức trọng. Nghĩa khí không loại trừ nhu cầu vật chất. Trong lịch sử đương đại, thế giới chứng kiến nạn chảy máu chất xám. Cuối những năm 30 thế kỷ trước, nhiều nhà bác học Đức (trong đó có Albert Einstein) bỏ sang Mỹ để phản đối chủ nghĩa phát xít. Chiến tranh thế giới kết thúc, người Mỹ dang tay đón thêm các nhà khoa học Đức đó làm ra tên lửa mang bom V1, V2 cho Hitler đánh phá London. Tiềm lực khoa học của nước Mỹ tăng lên đáng kể, giúp Mỹ mau chóng hoàn thiện bom A, chế tạo bom H và đưa lên người mặt trăng. Sau khi Liên xô sụp đổ không ít nhà khoa học Nga lại sang làm việc ở Mỹ. Đó là ba đợt "di cư" ồ ạt. Cũn dũng chất xỏm của Ấn Độ, của châu Phi... sang phương Tây vẫn đều đều, không ồn ào nhưng cộng lại số người rời đất nước ra đi không phải nhỏ. Có thể quy các hiện tượng trên vào mấy nguyên nhân: do ý thức chớnh trị của cỏc nhân tài; đó là người có hoài bóo, ai cũng muốn cú đất dụng vừ, muốn tỡm cơ hội thi thố tài năng; là con người ai cũng cần có cuộc sống thoải mái. Người có tài thường có những ý tưởng và việc làm táo bạo, mới mẻ bị người xung quanh cho là điên rồ. Tài năng cũn là đối tượng của sự ganh ghét, sự ganh ghét sẽ trở nên nguy hiểm khi kẻ ganh ghét là cấp trên, là những người có thế lực, có tiền bạc hoặc những kẻ đê tiện lại xảo quyệt, nhiều người trở nên tuyệt vọng, thoái chí bỏ cuộc. Nhiều tài năng đó thui chột bằng con đường ấy. Có những người tài chỉ tập trung đi sâu vào một lĩnh vực chuyên môn, cũn những lĩnh vực khỏc anh ta tỏ ra chàng màng, ngu ngơ, vụng về. Những người này nếu được giao làm quản lý thường hay vấp váp. Lại có những người tài ngoài khả năng chuyên môn của mỡnh, cũn quan tõm nghiờn cứu nhiều lĩnh vực liờn quan và khụng ớt người thể hiện sự giỏi giang trên nhiều lĩnh vực. Người tài loại này nếu được giao làm quản lý sẽ rất năng động và thành công. Người hiền tài thường có phong cách sống độc lập, rất sợ đánh mất mỡnh. Trong cỏc cuộc họp, anh ta khụng núi dựa, khụng núi leo, khụng a dua mà chỉ núi đúng những điều mỡnh nghĩ mặc dù điều đó chưa hẳn đó là chõn lý. Anh ta cú thể dỏm làm những việc mà mỡnh cho là đúng, hữu ích mặc dù chưa có sự đồng tỡnh của số đông. Như vậy cái sự giữ được bản sắc, không tự đánh mất mỡnh cụn bao hàm cả lũng qủa cảm nữa. Người hiền tài có khả năng nắm bắt dự báo những diễn biến của thời đại, của xó hội mà anh ta đang sống và trong tương lai. Nếu sống trong xó hội chậm phát triển, có những việc làm chưa chắc đó được thừa nhận ngay, thậm chí sẽ phải làm việc trong thầm lặng, cô đơn, khắc khoải. Cú khi dự ỏn, cụng trỡnh, tỏc phẩm của anh ta chỉ được thừa nhận khi anh ta đó từ gió thế giới. Đó biết trước số phận là thế, anh ta vẫn không bỏ cuộc. Người hiền tài không thể không có một tâm hồn trong sáng và lóng mạn. Nhõn loại chẳng đó từng cú những cụng trỡnh khoa học vĩ đại, những tác phẩm văn học nghệ thuật bất hủ được sinh ra từ một bộ óc có trí tưởng tượng bay bổng và một trái tim nhân hậu đó sao? Xin đừng nghĩ chỉ có những người hoạt động khoa học xó hội mới cần đến những tố chất bay bổng bên trên hiện thực. Những chiếc máy bay phản lực, máy bay chở khách, những chiếc ô tô du lịch sang trọng, những chiếc tàu thủy đẹp như những tũa biệt thự nổi trờn biển khụng thể được sản xuất từ những cái đầu trọc phú, mà phải từ những cái đầu lóng mạn, dư thừa trí tưởng tượng. Người hiền tài có nhiều đặc điểm hiện diện thế. Nhưng nhận diện ra người hiền tài và sử dụng được người hiền tài là cả một vấn đề lớn, không đơn giản chút nào. Bởi trong cuộc sống, người ta dễ nhầm lẫn người chân tài (thực tài) với kẻ hư tài (bất tài). Người tài thường hiện hữu trước đồng loại với tất cả những gỡ mỡnh cú. Kẻ bất tài thường tạo ra một cái vỏ bọc mỹ miều để che đậy sự kém cỏi bên trong. Người tài nói thế nào làm thế ấy. Kẻ bất tài sống lập lờ, hai mặt nói rất hay ho nhưng làm rất dở. Khi làm dở thường tỡm cỏch ngụy tạo, đổ lỗi cho người khác. Cấp trên mà bất tài, hư tài thỡ khú cú thể chấp nhận một người chân tài dưới quyền mỡnh, bởi kẻ bất tài thường có tầm nghĩ cạn, tầm nhỡn ngắn, cú thúi ớch kỷ, hẹp hũi, đố kị, khó có thể đồng cảm, đồng điệu, tri âm tri kỷ được với người tài. Hơn nữa, nếu sử dụng người tài, kẻ bất tài thường lo sợ canh cánh một điều rằng, đến một ngày nào đó, người tài sẽ ngồi vào chỗ của họ... Hiện tượng "ố nhõn thắng ký" này là một tác nhân kéo lùi bước tiến của lịch sử. Tài là biểu hiện nổi trội của năng lực, là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố ưu việt mà chủ yếu là gen dũng giống, ý chớ rốn luyện và mụi trường giáo dục sinh hoạt thuận lợi. Tài năng rất cần yếu tố thiên bẩm tốt, càng rất cần sự nỗ lực bản thân, sự tác động giáo dục hiệu lực, môi trường sống và công tác thích hợp. Càng có tài con người càng nhận thức, một cách sáng sủa, đúng đắn những vấn đề trong các mối quan hệ, trong cách ứng xử trước mọi tỡnh huống phức tạp, trong việc trau dồi nhõn cách. Những người xuất chúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Vừ Nguyờn Giỏp, nhà chớ sĩ yờu nước Huỳnh Thúc Kháng... những tri thức lớn như: Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Nguyễn Xiển... những tài năng chuyên ngành danh tiếng như: Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Lương Định Của. Nguyễn Cảnh Toàn, Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Hiệu, Vừ Tuyờn Hoàng... với phẩm chất toàn diện của mỡnh, họ đó chứng minh rừ ràng tài cao phải đi đôi với đức trọng. Tài năng và đạo đức là hai lĩnh vực độc lập với nhau, nhưng lại có mối quan hệ rất mật thiết. Một số người nhầm lẫn những yếu tố của tài năng với phẩm chất của đạo đức. Họ thường cho rằng kiên trỡ, lũng quyết tõm, tớnh tớch cực trong cụng việc, là những yếu tố được xem xét khi đánh giá tài năng. Trong thực tế đó là những phẩm chất của đạo đức. Những yếu tố khả năng về thực chất khác với đạo đức. éú thường là những phẩm chất của trí tuệ (trí thông minh, khả năng suy xét, phán đoán, trí nhớ), lượng tri thức, vốn sống, kinh nghiệm, sức làm việc, sức khoẻ, sự khéo léo, mềm mại, linh hoạt của công tác, những đặc điểm về mặt sinh lý, cơ thể (như chiều cao, hỡnh thức cơ thể, độ tinh nhạy của ánh mắt, trường lực cơ bắp, sức bền, độ dẻo dai), những đặc điểm tâm lý tớch cực. Những phẩm chất của đạo đức và những yếu tố trên thường gắn bó với nhau, có tác dụng tương hỗ nhau và làm cơ sở cho nhau cùng phát triển. Những yếu tố của tài năng chịu sự chi phối của đạo đức. Chúng thường hỡnh thành trong kiờn trỡ tập luyện, trong nỗ lực rốn luyện, trong thái độ trung thực và tích cực hoạt động. éạo đức tốt sẽ góp phần phát triển những yếu tố trên, làm cho giá trị mức độ của tài năng ngày càng gia tăng. Nếu con người có các yếu tố tài năng, có những hiệu quả hoạt động cao nhưng lại thiếu những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của nhân cách hay có những thói hư tật xấu, tài năng của họ sẽ bị giảm giá trị hoặc bị thoái hoá đi, hoặc gây ra những hậu quả tai hại cho xó hội. Những người có tài năng cao mà phẩm chất đạo đức xấu thỡ càng gõy tỏc hại xấu cho xó hội, và càng dễ bị mọi người lên án. Nếu có tài mà không có đức sẽ vô cùng nguy hiểm cho xó hội. Trong trường hợp này, họ không được gọi là nhân tài. Một số người tài nhưng đạo đức kém thường dễ mắc một số khuyết điểm như: kiêu ngạo, vị kỷ cá nhân, bệnh ngôi sao, chủ quan khinh thường mọi người, dẫn đến sự thui chột dần về tài năng. Tài năng và đạo đức là hai yếu tố khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Vỡ vậy, khi núi đến nhân tài, người ta thường muốn bao hàm cả ý nghĩa về đạo đức. Người có tài năng và có cả đạo đức tốt được gọi là bậc hiền tài. Tuy nhiên, khi đánh giá về tài năng của con người, chúng ta lại cần phân biệt những yếu tố, những đặc điểm tạo nên tài năng và những yếu tố, những đặc điểm thuộc về lĩnh vực đạo đức. Nhiều người có quan niệm rằng: Tài bao giờ cũng đi cùng với tật, tài lắm thỡ tật nhiều. Nhưng điều này thực ra hoàn toàn không phải là bản chất của vấn đề. Trong cuộc sống thường nhật ta cũng đó từng thấy cú những người tài rất dễ thương, dễ mến chứ không phải người tài nào cũng có nhiều đức tính dễ ghét. Quan niệm tài phải đi liền với tật là một định kiến, là một nhận định khập khiễng, là sự khái quát từ một tỷ lệ thực tế không nhiều. Tài năng không bắt nguồn từ những tính cách xấu. Không phải ai kiêu căng, khinh người là có tài, không phải ai có tài là tất yếu trở thành kẻ vô kỷ luật, kẻ lập dị. Tài và tật là hai phẩm chất không có cấu trúc liên kết tất yếu. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận hoàn toàn được hiện tượng này tuy nhiên, có một tỷ lệ nào đó người có tật kèm theo hoặc tài với tật kết với nhau. Đó là theo sự phát triển đa dạng của người tài. Có người thấy mỡnh cú tài càng muốn học tập vươn lên thêm. Song cũng có người thấy mỡnh tài lại sinh ra thỏa món, chây lười. Rừ ràng phải phõn biệt tinh tế giữa tài và tật, phải hiểu đầy đủ nội hàm độc lập của nó và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Điều kỳ diệu của người lónh đạo, của cộng đồng là sử dụng được, phát huy được tài mà không khuyến khích tật, hạn chế tật, xóa bỏ tật mà không bóp chết tài. Người tài, nói một cách chính xác và công bằng, phải là những người vừa có tài năng vừa có tư cách đạo đức. Có vậy họ mới có thể cống hiến được nhiều nhất cho đất nước và dân tộc. Dung nạp người hiền tài, làm cho họ thăng hoa, tỏa sáng, dâng hiến hết mỡnh để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân là trách nhiệm và nghĩa vụ không chỉ của các cấp lónh đạo. "Hiền tài là nguyên khí quốc gia" - cõu núi của bậc tiền nhõn mói mói và luụn luụn đúng. 1.2. Vai trò của nhân tài trong công cuộc xây dựng đất nước éụng cỏc đại học sĩ Thân Nhân Trung đó viết: "Hiền tài là nguyờn khớ của quốc gia. Nguyờn khớ thịnh thỡ thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thỡ thế nước yếu, rồi xuống thấp". "Chiếu cầu hiền" của Lờ Thỏi Tổ do Nguyễn Trói soạn cú cõu "cỗ xe cầu hiền cũn chừa bờn phớa tả". Trước mắt nhà vua, có ai tài hơn Nguyễn Trói và Trần Nguyờn Hón đâu! Vậy mà vẫn ra chiếu cầu hiền! Triều nhà Nguyễn tồn tại lâu dài (1802-1945) mà không mạnh bởi không hội tụ được "nguyên khí quốc gia" nên đi đến mất nước. Bác Hồ của chúng ta đó hội tụ được nguyên khí quốc gia khi Đảng ta chỉ từ hai bàn tay trắng làm nên mới làm nên sự nghiệp rạng rỡ như hôm nay. Bởi văn hóa Hồ Chí Minh là môi trường cho các nhân tài như Trường Chinh, Lê Duẩn, Vừ Nguyờn Giỏp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Vừ Văn Kiệt, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Ngọc Thạch, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của... rộ nở như sao đầu hôm. Một thế hệ biết đổi vinh hoa phú quí và cả "giang sơn sự nghiệp" riêng để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc và vinh quang cho đất nước. Thật là hạnh phỳc cho nhõn dõn ta bởi cú lónh tụ Hồ Chớ Minh mà văn hóa dân tộc ta mới được tiếp tục phát triển đến đỉnh cao rạng rỡ như vậy. Bước vào thế kỷ 21 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang phát triển sâu rộng, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đang diễn ra với quy mô rộng lớn, đưa loài người tiến vào nền kinh tế tri thức và xó hội thụng tin đó tỏc động sâu sắc đến nền kinh tế, xó hội của cỏc quốc gia và hệ thống kinh tế toàn cầu. Cho đến nay xó hội loài người đó và đang trải qua ba thời kỳ kinh tế đó là: - Thời kỳ kinh tế nụng nghiệp cũn gọi là kinh tế sức người, cách đây hơn 7000 năm chuyển từ kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế nông nghiệp, con người sáng tạo ra công cụ sản xuất và sở hữu ruộng đất, giá trị của nó đo bằng công cụ thay thế cho khối lượng lao động của con người. - Thời kỳ kinh tế cụng nghiệp cũn gọi là kinh tế mỏy múc đó hỡnh thành và phỏt triển cỏch đây hơn 200 năm, từ giữa thế kỷ 18 với cuộc cách mạng kỹ thuật đầu tiên chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp dựa trên lực lượng sản xuất cơ khí. Thời kỳ này tri thức con người đó vươn lên với những thành tựu to lớn tạo ra hàng loạt các công cụ mới như ô tô, tàu hỏa, máy bay, tàu vũ trụ… mà sức lao động cơ bắp không bao giờ làm được với động lực tạo lợi nhuận và tích lũy tư bản. - Thời kỳ kinh tế tri thức cũn gọi là kinh tế trớ tuệ xuất hiện vào thập kỷ 80 của thế kỷ 20 đó tạo điều kiện cho sự ra đời của lực lượng sản xuất mới, dựa trên tri thức khoa học thay thế cho lực lượng sản xuất cơ khí. Từ sự phỏt triển kinh tế chỉ vỡ lợi nhuận chuyển sang định hướng phát triển đồng thuận giữa kinh tế - xó hội - mụi trường. Ngày nay tri thức có thêm chức năng cực kỳ quan trọng là dùng tri thức để tạo ra tri thức mới. Thuật ngữ kinh tế tri thức (knowledge based economyke) đó được tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) gồm trên 30 nước công nghiệp phát triển chính thức sử dụng từ năm 1995 đó là: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống". Chớnh vỡ vậy nhõn tài và lao động tri thức đó trở thành một lực lượng sản xuất mới, giữ vai trũ quyết định hơn cả vốn và tài nguyên. Trờn thế giới tài nguyờn ngày càng cạn kiệt, cũn tri thức và sức sáng tạo của con người là vô hạn. Tri thức là vốn quý nhất của nền kinh tế tri thức, tri thức là sản phẩm của trớ tuệ con người. Quốc gia nào có nhiều nhân tài, lao động tri thức và nguồn nhân lực phát triển thỡ quốc gia đó sẽ có tốc độ phát triển nhanh và có đủ khả năng xử lý các nguồn thông tin cho đất nước mỡnh và chiến thắng trong quỏ trỡnh hội nhập quốc tế. Ngày nay, sau kỷ nguyên Anh quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những quốc gia phát triển rất nhanh chóng, đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới. Ở các quốc gia này, tỷ lệ trí thức trong một triệu dân rất cao, đặc biệt là các trí thức hàng đầu được giải thưởng Nobel rất được trọng dụng và ưu đói. Trong các quốc gia hưng thịnh, tỷ lệ tri thức (kẻ sĩ) cao hơn rất nhiều so với các quốc gia nghèo khó. Ở đó, người ta cầu hiền như kẻ khát cầu nước, như kẻ đói cầu ăn. Từ việc hiểu rừ ớch lợi sẽ dẫn đến thái độ tôn trọng lao động sáng tạo và điều đó tất dẫn đến sự kính trọng trí thức. Tất cả các quốc gia coi rẻ trí thức đều sớm muộn sẽ đi chung một con đường và sẽ bị diệt vong bởi họ tự tước bỏ động lực phát triển của chính quốc gia họ. Rừ ràng là sự hưng thịnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào cách dùng trí thức. Khi kẻ sĩ rũ áo ra đi thỡ cũng là lỳc quốc gia bắt đầu suy yếu rồi dần dà sẽ bị tiêu diệt. Chính sách đối với kẻ sỹ là hũn đá thử vàng đối với sự phát triển của một dân tộc, là môi trường cho hạt giống hưng thịnh của quốc gia nảy mầm và phát triển. Môi trường trong sạch thỡ kẻ sĩ đầy đàn, quốc gia hưng thịnh; môi trường ô nhiễm thỡ kẻ sĩ thưa thớt, quốc gia suy vong. Ba đội ngũ trụ cột cho công cuộc phát triển của một quốc gia là các nhà lãnh đạo, giới doanh nhân và tầng lớp trí thức. Khỏt vọng, tầm nhỡn và tư duy của ba đội ngũ này có ảnh hưởng quyết định đến khát vọng, tầm nhỡn và tư duy của dân tộc. Trong mỗi đội ngũ này, sự đóng góp có tính đột phá của cá nhân có thể tạo nên những bước nhảy vọt cho công cuộc phát triển. Nhà chính trị Đặng Tiểu Bỡnh, với sự đột phá về tầm nhỡn và tư duy, đó đưa Trung Quốc thoát khỏi vũng tối tăm mê muội để trở thành một quốc gia có tốc độ đổi thay kỳ vĩ, làm cả thế giới kinh ngạc và ngưỡng mộ. Các doanh nhân, như Chong Ju-yung (sáng lập hóng Hyundai) và Lee Byung-chul (sỏng lập hóng Samsung), với ý chớ kinh doanh phi thường và tinh thần dân tộc cao cả, đó gúp phần đưa Hàn Quốc nhanh chóng trở thành một cường quốc công nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực đóng tàu và điện tử. Học giả Fukuzawa Yukuchi thời kỳ Minh Trị của Nhật Bản, đó cú những đóng góp lớn lao cho công cuộc cải cách, thông qua nỗ lực khai sáng dân trí và khích lệ người dân nắm bắt đổi thay, tiếp thu tinh hoa thời đại. Ngày nay, dân tộc ta khao khát biết bao những doanh vừa tài năng vừa có tinh thần ái quốc như thế! Thực tiễn đó chứng minh: Sự tăng trưởng của một nền kinh tế - kinh doanh hiện đại phải có nhiều nhân vật tài năng, trước hết là những nhân tài làm ra chính sách giỏi (policy makers), kế đó là doanh nhân giỏi (Entrepreneurs); rồi nhà quản lý giỏi (Managers); tiếp theo, cũn là nhà tài chỏnh giỏi (Financiers) và cũng rất cần phải có những nhà sáng tạo đổi mới kỹ thuật (Innovators) để tạo ra mặt hàng mới, thị trường mới (chẳng hạn, việc tạo ra điện tử, radio, truyền hỡnh, rồi sau này là mỏy tớnh…) thỡ mới cú những cuộc nhảy vọt về kinh tế như ở thế kỷ 20 vừa qua. Chưa hết, trong thời buổi bùng nổ thông tin và khoa học - kỹ thuật của thế kỷ 21 này cũn cần cả những người có khả năng hỡnh thành những quan điểm mới, ý tưởng mới, khuynh hướng mới (Opinion Shapers hay Trend Setters) như nghĩ ra các festival, các game, các thời trang, các loại nhạc cũng như các món ăn mới… để tạo nhu cầu sôi động và khi đó, kinh doanh mới phong phú được! Suy cho cùng sự tồn vong của dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào cách sử dụng trí thức. Để tạo điều kiện cho nhân tài được phát triển, điều đầu tiên là phải trọng dụng (chính sách chiêu hiền đói sĩ). Trọng dụng trước hết là kính trọng rồi mới sử dụng. Ngày xưa Lưu Bang lập đài bái kiếm Hàn Tín, Lưu Huyền Đức ba lần cầu Gia Cát Lượng, Lê Thái Tông lập Quốc Tử Giám (1442) đúc văn bia ghi công trạng kẻ sỹ tại Văn miếu, Nguyễn Huệ thân hành lên núi thỉnh xin cao kiến La Sơn Phu Tử. Gần hơn, Tiến sỹ (ông Nghè) vinh quy được áo mũ vua ban, vừng lọng về làng. Lờ Nin chu cấp đầy đủ cho các nhà khoa học cũn mỡnh hưởng tiêu chuẩn công nhân. Hồ Chí Minh chiêu tập được rất nhiều trí thức bất kể nguồn gốc xuất thân để tiến hành thành công kháng chiến và kiến quốc. Tóm lại, sự nghiệp phát triển để chấn hưng đất nước ngày nay của chúng ta đũi hỏi nhiều nhất trớ tuệ, cụng sức, ý thức đồng tâm hiệp lực, sự thực hiện tốt nhất công bằng - dân chủ - văn minh, tất cả để phát huy tối ưu mọi nguồn lực bên trong và tranh thủ tốt nhất mọi nguồn lực bên ngoài cho phát triển. Tất cả phải bắt đầu từ phát huy tối ưu khả năng, phẩm chất và quyền năng của từng con người trong cộng đồng xó hội, để mỗi con người có thể với tất cả trái tim và khối óc mỡnh đem hết công sức cống hiến cho sự nghiệp chấn hưng đất nước, vỡ chớnh mỡnh và vỡ đất nước, hài hũa được lợi ích của chính mỡnh và của đất nước. 1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của họ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài, về đào tạo và sử dụng nhân tài đất nước Cách đây hơn 60 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh cả nước nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bức thư của Bác Hồ có đoạn: "Nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Trong bài "Tỡm người tài đức" ngày 20.11.1946 Bác Hồ đó viết những lời tõm huyết: Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có người tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vỡ chớnh phủ nghe khụng đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân thỡ phải bỏo cỏo cho chớnh phủ biết. Bỏo cỏo phải núi rừ: tờn tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam HỒ CHÍ MINH (Báo Cứu Quốc số 411, ngày 20-11-1946) Hơn 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Bác Hồ rất quan tâm tiêu chuẩn, tư cách đạo đức của người cách mạng. Người thường nói: "...đạo đức cách mạng là cái gốc, cái nền tảng, cái bản chất. Giống như sông phải có nguồn nước, không có nguồn thỡ sụng khụ cạn. Cõy phải cú gốc rễ, khụng cú gốc thỡ cõy khụ hộo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thỡ tài giỏi cỏch mấy cũng khụng lónh đạo được nhân dân...". Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Nếu cái gốc của người cách mạng là đạo đức thỡ cỏi gốc của đạo đức là ở chữ Tâm: "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài". Bác nhấn mạnh: Có tài mà không có đức thỡ vụ dụng, cú đức mà không có tài thỡ làm việc gỡ cũng khú; người cách mạng mà không có đạo đức cách mạng thỡ giỏi đến mấy cũng không lónh đạo được nhân dân. Không có đạo đức cách mạng, không có "cái tâm" thỡ trước sau cái "đạo đức giả" che giấu đến mấy cũng bị tai, mắt nhân dân phát hiện. Những người có tài mà không có đức khụng những vụ dụng mà cũn rất nguy hiểm nếu như họ giữ những chức vụ quan trọng. Rừ ràng, đức và tài luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau trong nhận thức tư tưởng, hoạt động thực tiễn. Mối quan hệ giữa đức và tài như sự ràng buộc, đi liền nhau: Có cái này phải có cái kia và cái kia chứa đựng trong cái này. Đức và tài là hai tiêu chuẩn không thể thiếu của người cán bộ. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bỡnh và phờ bỡnh, nhất là cuộc vận động học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay là tiếp tục bồi dưỡng cái gốc rễ ấy, làm tốt công việc gốc rễ ấy để cuối cùng rèn luyện cho cán bộ, đảng viên nhân cách và bản lĩnh cộng sản. Trong mối quan hệ Đức - Tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Đức là gốc, là nền tảng để luyện Tài, để xây dựng con người mới, Người nói: "Sụng cú nguồn thỡ mới cú nước, không có nguồn thỡ sụng cạn. Cõy phải cú gốc, khụng cú gốc thỡ cõy hộo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thỡ dự tài giỏi mấy cũng khụng lónh đạo được nhân dân"; "Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không". Bác yêu cầu người cách mạng phải lấy đức làm gốc, tuy nhiên, tư tưởng đạo đức của Người rất coi trọng cả đức và tài. Có tài phải có đức, có tài mà không có đức, tham ô, hủ hóa chỉ có hại cho đất nước. Có đức mà không có tài chẳng làm gỡ được thỡ khụng giỳp ớch cho ai. Người nêu rừ kiến thiết cần cú nhân tài dẫu tại nước ta nhân tài tuy chưa nhiều lắm nhưng chỳng ta khộo lựa chọn, khộo phõn phối, khộo dụng thỡ nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng việc phát triển giáo dục, đào tạo, phát hiện nhân tài, Người cũn coi trọng chớnh sỏch sử dụng nhân tài. Nhờ có tấm lũng thật sự trọng dụng nhân tài nên Bác đó tập hợp được đội ngũ trí thức từ nước ngoài về phục vụ sự nghiệp kiến quốc như: bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, kỹ sư Trần Đại Nghĩa, giáo sư Lê Văn Thiêm, tướng Nguyễn Sơn, Tạ Quang Bửu... và nhiều trí sĩ khác gắn bó, đem hết tài năng để xây dựng đất nước, phục vụ kiến quốc. Trong tư tưởng của Hồ chủ tịch, quan trọng nhất là nước phải độc lập, dân phải tự do. Sức mạnh để dành độc lập tự do là lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc. Với Hồ Chủ tịch, cán bộ có ý nghĩa quyết định với phong trào, nên Người luôn chọn người có đạo đức, có tư cách, có tài, dù người đó có là Đảng viên hay không. Nhiều người đó phõn tớch về tài dùng người của Hồ Chủ tịch khi mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hũa. Ở Trung ương cũng như địa phương, khi sử dụng cán bộ, Hồ Chủ tịch luôn rất tôn trọng trí thức. Đảng ta là một đảng đạo đức, đảng văn minh, mà văn minh nghĩa là có trí tuệ, có sáng tạo. Theo Người, một chế độ xó hội mới là một xó hội thụng thỏi và đạo đức. Thông điệp cô đọng như thế nhưng để hiểu và làm theo thỡ khụng đơn giản. Biết huy động đội ngũ, tin vào nhân cách, vào lũng tự trọng con người, ắt sẽ có sức cảm hóa để quy tụ được người tài theo cách mạng, bất kể trước đó họ thuộc tầng lớp nào trong xó hội. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chủ tịch thật sự quan tâm và tin tưởng đội ngũ trí thức - những nhân tài của đất nước, không chỉ bằng lời nói mà bằng việc làm cụ thể. Bác cho rằng, để phát huy sự sáng tạo của trí thức, cần đưa họ vào phong trào cách mạng, đi vào đời sống nhân dân, coi đó là trường học lớn để học tập, rèn luyện và trưởng thành. Người đũi hỏi trớ thức cỏch mạng phải là những người vừa có đức, vừa có tài. Cán bộ lónh đạo và quản lý phải được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên để có tri thức sõu rộng trờn nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực mỡnh đang phụ trách, có như vậy mới có thể hoàn thành công việc ngày càng tốt. Chính nhờ tư tưởng sáng suốt của Bác mà đến nay phần lớn con em giai cấp công nhân, nông dân được đào tạo trở thành những cán bộ lónh đạo, cán bộ khoa học tài năng, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Tư tưởng với những nguyên lý giáo dục Hồ Chí Minh về phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài để lại cho chúng ta đến nay vẫn cũn nguyờn giỏ trị, vẫn sỏng mói tớnh khoa học và cách mạng, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đó là những bài học vô cùng quý giá để chúng ta học tập, và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt làm tốt hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, lựa chọn nhân tài đáp ứng nhu cầu cao của công cuộc đổi mới vỡ sự phồn vinh của đất nước. 1.3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đối với vấn đề nhân tài và trọng dụng nhân tài. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta đang thực hiện song song hai nhiệm vụ: từ nền kinh tế sức người chuyển lên nền kinh tế công nghiệp, đồng thời phải thực hiện một số yếu tố của nền kinh tế tri thức. Chính do đặc thù của thời đại làm cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta khác với các quá trỡnh cụng nghiệp húa của nhiều nước trước đây. Điều này cũng là một lợi thế cho nước ta là nước chậm phát triển và đi sau. Vỡ vậy Bỏo cỏo chớnh trị của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đó nờu: Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những ưu thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trỡnh độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới của khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Muốn làm được điều đó không có con đường nào khác Đảng và Nhà nước ta phải tập trung vào việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài có đủ năng lực, trí tuệ, có khả năng sáng tạo nắm bắt và làm chủ các tri thức của thời đại để hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và tiến vào nền kinh tế tri thức. Bài học lớn từ những thử thách lịch sử là Đảng ta biết hội tụ nhân tài, biết lắng nghe những ý kiến khác nhau, để tỡm ra con đường đi phù hợp nhất. Trí tuệ của Đảng là kết tinh trí tuệ của toàn dân tộc, hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nguồn sinh lực ấy không thể có nếu chỉ duy trỡ quyết định một chiều từ trên xuống, bao biện, nghĩ thay, làm thay, mà thiếu không khí bàn luận dân chủ ngay trong nội bộ Đảng, phát huy tiềm lực của ba triệu đảng viên. Hơn thế, là một chính đảng cầm quyền, được giao trọn vẹn quyền lực của nhân dân, trí tuệ của Đảng chỉ có thể phát huy, toả sáng khi biết lắng nghe tiếng nói của người dân, biết tạo cơ chế thông thoáng để người dân thẳng thắn nói lên ý kiến của mỡnh, thẳng thắn vạch ra những yếu kộm, lỗi thời, trỡ trệ, thậm chớ sai lầm trong hoạt động của đảng và bộ máy nhà nước. Có một điều kỳ lạ, đúng hơn là kỳ diệu, ấy là khả năng thu phục nhân tâm của những người cộng sản. Đảng ta luôn khẳng định mang bản chất giai cấp công nhân và luôn trui rèn bản chất giai cấp như một chính đảng kiểu mẫu. Thế nhưng, tụ về quanh Đảng không chỉ là những người công nhân gắn mỡnh với xưởng máy, không chỉ là những người nông dân một nắng hai sương mà có rất nhiều trí thức tiểu tư sản và tư sản dân tộc, cả những người xuất thân quý tộc, quan lại của chế độ cũ cũng nguyện một lũng theo Đảng, theo cách mạng. Có thể nói, một thành công quan trọng của Đảng là đó quy tụ được những trí tuệ lớn nhất thời đại chung lo sự nghiệp vỡ nước, vỡ dõn. Thế nờn, cú anh kỹ sư công chính Phạm Ngọc Lễ bỏ công việc của một tổng công trỡnh sư với mức lương 5 cây vàng/ tháng giữa Pa-ri hoa lệ để lên tàu về nước, nhập vào cuộc kháng chiến gian khổ, hi sinh của dân tộc. Nhờ đó, chúng ta có một chuyên gia chế tạo vũ khí Trần Đại Nghĩa với những xưởng quân giới ẩn trong vùng sâu, trang thiết bị cũn đơn sơ nhưng sức sáng tạo diệu kỳ. Những trí thức phong kiến như cụ Huỳnh Thỳc Khỏng, cụ Phan Kế Toại, cụ Phạm Khắc Hũe... cũng nguyện một lũng đi theo cách mạng, để được thảnh thơi làm dân một nước tự do. Những văn nghệ sỹ lóng tử phong trần như Nguyễn Bính, Xuân Diệu, ngang tàng như Nguyễn Tuân cũng tỡm thấy ý nghĩa đời mỡnh trong dũng chảy lịch sử, trong dũng thỏc cỏch mạng mà Đảng ta khởi xướng. Như vậy, có thể khẳng định rằng: Chế độ chính trị nước ta không đố kỵ với người tài, hoàn toàn có thể là đất dụng vừ của người tài, nhân dân ta luôn có truyền thống tôn vinh người tài. Chỉ xin nhớ lại thời Cách mạng tháng Tám, bao nhiêu người tài đó theo tiếng gọi của Bỏc Hồ, của đất nước đứng ra giúp nước, rồi đến vai trũ của những người tài trong hai cuộc kháng chiến, những người tài trong 20 năm đổi mới vừa qua!... Trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương và chính sách để thu hút và trong dụng người tài, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới. Trong "Chiến lược phát triển kinh tế - xó hội 2001 - 2010" (Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đã nêu rõ: Phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đói ngộ trớ thức, trọng dụng và tụn vinh nhân tài, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới đóng góp vào sự phát triển đất nước bằng nhiều hỡnh thức thớch hợp. Ngày 28 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đó ra Quyết định số 201/2001/QĐ về việc phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010". Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 gồm 6 điểm lớn: Tỡnh hỡnh giỏo dục Việt Nam hiện nay; Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong vài thập kỷ tới; Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục; Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010; Các giải pháp phát triển giáo dục; Tổ chức thực hiện chiến lược. Trong chiến lược giáo dục - đào tạo này có ba mục tiêu chính được nêu lên là: - Nâng cao dân trí; - Đào tạo nhân lực; - Bồi dưỡng nhân tài. Từ chủ trương của Đảng, Nhà nước, các địa phương đều đưa ra những biện pháp để thu hút nhân tài vào làm việc. Ngày 19/7/2002, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khoá XII, tại kỳ họp thứ 7 đó cú nghị quyết về "Quy định tạm thời về ưu đói, khuyến khớch cỏc nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi, người có trỡnh độ cao cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thủ đô" và "Quy định tạm thời về thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ và nguồn nhân lực chất lượng cao". Có thể thể thấy chính sách trọng dụng nhân tài của Đảng và Nhà nước ta tập trung vào nội dung: - Đưa những người có thực tài vào vị trí xứng đáng, tạo điều kiện về cơ chế, khoa học và đời sống cho họ yên tâm làm việc. - Đưa những người bất tài ra khỏi những cương vị quá tầm năng lực của họ, bố trí làm việc khác phù hợp hơn với thực lực của mỗi người. Đặc biệt xử lý nghiờm những người học giả, bằng cấp giả, học hàm, học vị giả, tạo lòng tin vào chính sách trọng dụng nhân tài của Đảng. Có thể nhận thất rất rừ tâm lý tỡm và trọng dụng người tài đức không những là chủ trương mà cũn là khát khao của Đảng ta. Nhưng từ nhận thức tới hành động là một quóng đường không ngắn chút nào. Và việc nhận thức thật ra cũng mới dừng lại ở một bộ phận cán bộ lónh đạo cấp tiến chứ chưa phải là toàn bộ cán bộ lónh đạo của Đảng ta. Đây đó vẫn cũn hiện tượng trù dập, ức hiếp người tài khiến cho họ không thể phát huy được tài năng trong công việc. Chủ trương của Đảng ta dù thật sự đúng đắn trong việc đánh giá đề cao vai trũ người tài song việc sử dụng người tài sao cho hiệu quả, chúng ta vẫn chưa có những sách lược thực sự lâu bền, các chế độ ưu đói đặc biệt với người tài đề họ cống hiến nhiều hơn cho đất nước trong thời kỳ hội nhập hiện nay. 1.4. VAI TRề CỦA BÁO CHÍ TRONG TUYÊN TRUYỀN VỀ VẤN ĐỀ NHÂN TÀI VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.4.1. Lịch sử của vấn đề tuyên truyền về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài đất nước Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc nêu gương những người tài, Người coi đó là những tấm gương có giá trị lớn trong việc cổ vũ các cá nhân, tập thể hăng say học tập, phấn đấu, cống hiến cho cách mạng và phong trào cách mạng. Người viết: "...một tấm gương sống cũn cú giỏ trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền". Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, công tác thông tin tuyên truyền- trong đó có báo chí - được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm, đặc biệt là việc nêu gương tốt với những nội dung mới. Người lưu ý cụng tỏc tuyờn truyền và bỏo chớ phải nờu gương những cán bộ tài năng, trong sạch, gương mẫu, cần, kiệm, liêm, chính. Người cho rằng, việc lấy gương người tốt việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng cuộc sống mới, con người mới. Khi đất nước chưa bước vào giai đoạn đổi mới, báo chí đương nhiên cũng chưa thể có sự phát triển toàn diện về mọi mặt như hiện nay. Hơn 20 năm trong công cuộc đổi mới với biết bao thành tựu đáng tự hào của non sông đất nước, báo chí cũng đó có những đổi thay rất mạnh mẽ và đáng ghi nhận. Việc đổi mới của báo chí không chỉ ở sự lớn mạnh về vật chất mà quan trọng hơn nó cũn thay đổi ở cả lối tư duy, cách nhỡn nhận mọi vấn đề được phản ánh. Báo chí đó thực sự được cởi trói và phát huy hết sức mạnh là diễn đàn của mọi tầng lớp nhân dân đóng góp vào công cuộc đổi mới của Đảng. Từ sự thay đổi đó,vấn đề tuyên truyền về nhân tố mới, điển hỡnh tiên tiến, về nhân tài đất nước và chính sách dùng người của Đảng cũng đó có những bước thay đổi lớn la. Trở lại với báo chí thời kỳ "đêm trước đổi mới" khi ấy báo chí chỉ là cơ quan truyền đạt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông tin chỉ đưa một chiều từ trên xuống dưới. Nội dung thông tin hàng ngày của các báo gần như giống nhau, thậm chí văn phong, cách trình bày cũng đơn điệu giống nhau. Báo chí không dám đề cập tới những vấn đề gay cấn, những đòi hỏi dân chủ thực sự của quần chúng. Vai trò của báo chí tham gia chống tiêu cực rất mờ nhạt. Thế nên việc ca ngợi một cá nhân, tập thể cũng rất dè dặt. Khen vừa phải, chung chung, đại khái là có thành tích, hoàn thành nhiệm vụ được giao mà chưa lý giải được cội rễ thành công của cá nhân, tập thể ấy, không dám và không chỉ ra được cá tính nổi bật… Nói đến điển hỡnh tiờn tiến, chỳng ta nhỡn nhận điển hỡnh là một sản phẩm đó hoàn thành, rất tốt đẹp, dẫn đến tuyên truyền một chiều, khó tránh khỏi màu sắc cực đoan, làm cho ít nhiều người cũn ngờ vực chưa thật tin vào cá nhân tài năng. Do vậy, các ấn phẩm báo chí nói chung mất đi sức lôi cuốn, tính thời sự, tính chiến đấu của nó. Mỗi giai đoạn lịch sử, nhân tài có những quan niệm khác nhau. Trước đây, trong thời kỳ đất nước chưa bước vào thời kỳ đổi mới, do thái độ, định kiến của tâm lý xã hội và của người lãnh đạo nên người tài thường bị rào cản về chính trị, bị tâm lý chính trị áp đặt nên tiêu chuẩn của người tài là phải có phẩm chất trước hết về chính trị. Trong khi đó thực tế, người tài chỉ thật sự có khả năng trong lĩnh vực chuyên môn của họ nên cái nhìn về người tài thường xơ cứng, nặng nề, người tài không có điều kiện phát huy hết khả năng và sở trường của mình. Việc tuyên truyền trên báo chí cũng chưa dám khẳng định nhân tài. Người ta hay nói, có "tài" thì thường hay có"tật" nên chỉ khi đủ cả đức và tài thì một cá nhân mới được khẳng định. Nhân tài đất nước thường phải mang nặng phẩm chất chính trị. Vì vậy, người tài trong một số lĩnh vực mới được tôn vinh chẳng hạn như giáo dục, nông lâm nghiệp, còn các lĩnh vực khác như kinh tế tư nhân, những người có cách làm ăn kinh tế đột phá thì không được tuyên truyền rộng rãi như hôm nay. Nay cán bộ được nhận diện từ góc độ tài năng. Sự nhấn mạnh này cũng là một cảnh tỉnh về cách nhỡn người và giao việc. Có thể khẳng định rằng, ngày nay chúng ta đánh giá người tài dựa trên khả năng lao động, khả năng cống hiến của họ cho đất nước, khẳng định ở tính bứt phá trong công việc, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh và khoa học công nghệ. Trong tuyên truyền phát huy nhân tài đất nước, có một nội dung khá quan trọng là phản ánh về cơ chế đang kìm hãm sự cống hiến của người tài. bao chí trước đây mang tính chiến đấu thấp nên nội dung cũng này ít được đề cập. Còn hiện nay, báo chí đã đề cập khá sâu sắc về vấn đề này, thẳng thắn nêu ra nhiều điểm bất hợp lý trong chính sách sử dụng người tài ở nước ta hiện nay. Điều này có ý nghĩa to lớn góp phần đưa hoàn thiện dần cơ chế trọng dụng người tài của Đảng ta. Tuyên truyền về các tấm gương nhà khoa học trẻ, các doanh nhân thành đạt, đóng góp cho đất nước xuất hiện trên rất nhiều tờ báo. Đây cũng là một vấn đề được bạn đọc quan tâm. Vì trước hết, xã hội hiện nay thực sự đang rất coi trọng người tài. Người tài được tôn trọng, được xã hội công nhận một cách khách quan. Người tài có quyền tự hào về những gì mình đã đóng góp cho đất nước. Một xó hội biết tụn trọng và đánh giá đúng tài năng và sức lao động của trí thức đó manh nha hỡnh thành. Từ đó, báo chí đã đóng vai trò như một người cổ vũ nhiệt tình cho một xã hội tôn trọng người tài, tôn trọng chất xám. Có một thực tế là trước tốc độ phát triển quá nhanh của nền kinh tế thế giới, trong đó, kinh tế tri thức là trung tâm, giới trẻ Việt nam đang thực sự cảm thấy "sốt ruột" trước sức vọt rất lớn của khoa học công nghệ trên thế giới. Không tiến kịp bước tiến ấy tất sẽ tụt hậu. Và những người trẻ đang ra sức chạy đua với tuổi trẻ các nước. Xu thế ấy khiến cho xuất hiện ngày càng nhiều những nhân tài trẻ tuổi trên khắp các lĩnh vực từ công nghệ thông tin cho tới các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Người trẻ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới so với thế hệ đi trước. Do vậy, báo chí sẽ đóng vai trò cổ vũ cho cuộc đua không đích đến. Các tờ báo là diễn đàn của thanh niên, học sinh, sinh viên xuất hiện nhiều bài viết về những con người xuất chúng, đáng để cho thế hệ trẻ học tập. Các tấm gương ấy có thể là các nhà khoa học trong nước, cũng có thể là các doanh nhân nước ngoài. Họ cùng có chung mục tiêu làm giàu, có tài năng và có khát vọng cống hiến cho đất nước. Công tác tuyên truyền về nhân tài, về các cá nhân tài năng, xuất chúng hay nói một cách chung nhất là các điển hỡnh tiờn tiến là một cụng việc lớn rất khú khăn. Trước đây báo chí chúng ta cũng đó cú những kinh nghiệm tốt trong tuyờn truyền điển hỡnh. Nhưng đến thời đại ngày nay công tác tuyên truyền nhân tố mới, điển hỡnh tiờn tiến mới thực sự trở thành cụng việc to lớn của toàn Đảng, toàn dân, bởi vỡ chỳng ta xõy dựng chủ nghĩa xó hội là việc làm chưa từng có, đũi hỏi phải phỏt huy tối đa sức mạnh của mọi người dân; huy động tinh thần chủ động, sáng tạo của toàn xó hội. Tuyờn truyền nhõn tố mới, điển hỡnh tiờn tiến, về nhân tài đất nước và chính sách trọng dụng họ là việc làm rất quan trọng và bức thiết hiện nay, đũi hỏi các cơ quan thông tin báo chí phải làm tốt nhiệm vụ này. 1.4.2. Vai trũ của bỏo chớ trong tuyờn truyền về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài ở nước ta Nhờ có công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo, báo chí đó cú bước tiến nhảy vọt về chất và lượng. Từ vài chục cơ quan báo chí trong ngày đầu giành chính quyền, đến nay đó cú trờn 500 cơ quan báo chí với gần 700 ấn phẩm báo chí, 2 đài phát thanh và truyền hỡnh quốc gia, hơn chục đài phát thanh và truyền hỡnh khu vực, 64 đài phát thanh, truyền hỡnh ở cỏc tỉnh, thành phố. Đội ngũ báo chí điện tử, báo chí trực tuyến phát triển mạnh mẽ cùng với các nhà cung cấp dịch vụ Internet tạo nên một mạng thông tin báo chí điện tử sôi động có sức thu hút hàng triệu lượt người truy cập hàng ngày. Đội ngũ những người làm báo phát triển nhanh chóng, từ 300 người trong kháng chiến chống Pháp lên hơn 13.000 hội viên nhà báo hiện nay, chưa kể hàng nghỡn người mới tham gia đội ngũ báo chí nhưng chưa đủ điều kiện gia nhập Hội Nhà báo Việt Nam... Nội dung thụng tin của bỏo chớ ngày càng phong phỳ, hiệu quả, hỡnh thức đẹp, sinh động và hấp dẫn. Báo chí đó đi sâu vào thực tiễn đời sống, phát hiện, giới thiệu, cổ vũ các mô hỡnh kinh tế mới, cỏch làm ăn mới, nhân tố mới, người tốt, việc tốt. Báo chí đó thể hiện rừ quan điểm bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc, tuyên truyền cổ vũ toàn dân phát huy có chọn lọc nền văn hóa tiên tiến của các nước trên thế giới, góp phần nâng cao dân trí, ngăn chặn văn hóa xấu len lỏi vào Việt Nam. Báo chí đó tổ chức, khơi dậy và biến nhiều hoạt động xó hội từ thiện trở thành phong trào của toàn xó hội như: đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tỡnh nghĩa; xúa đói giảm nghèo; ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quả thiên tai; khuyến khích tài năng; khuyến thiện... Báo chí đó gúp phần quan trọng trong việc phỏt hiện, giới thiệu, cổ vũ cho những nhõn tố mới, những điển hỡnh tiờn tiến, những mụ hỡnh mới xuất hiện trong sản xuất, kinh doanh và nhiều lĩnh vực khỏc. Điểm nữa cần khẳng định là báo chí đó gúp phần tớch cực trong đấu tranh chống tiêu cực xó hội, giỳp hội nhập giao lưu quốc tế, đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động. Nói cách khác, những năm qua, các phương tiện thông tin đại chúng đó thực sự trở thành một kờnh trong việc quản lý, điều hành đất nước. Rất nhiều vấn đề mà báo chí nêu ra Chính phủ căn cứ vào đó để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân để từ đó đưa ra một quyết sách kịp thời đúng đắn. Ở nước ta hiện nay, báo chí đó được coi như một kênh thông tin quan trọng bậc nhất, như bộ mặt của một quốc gia, nơi thể hiện trỡnh độ văn hoá, nhận thức, học thức - trỡnh độ chung của xó hội. Do đó, bất cứ một vấn đề thời sự nào được đông đảo người dân quan tâm và có quan điểm cần bày tỏ thỡ báo chí là kênh quan trọng bậc nhất. Và với các tác phẩm báo chí đó ra đời trong thời gian qua tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy nhân tài cho sự nghiệp đổi mới đất nước,báo chí đó khẳng định là kênh tuyên truyền hiệu quả nhất về vấn vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài của Đảng, Nhà nước và xó hội ta hiện nay. Đối với vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài, đi cùng với nhận thức chung ngày càng được nâng cao của toàn xó hội về vai trũ của người tài với công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, báo chí đó phản ánh rất rừ nét quan điểm ngày càng đúng đắn hơn của toàn xó hội, của toàn Đảng, toàn dân ta đối với vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà báo cách mạng vĩ đại- trong cuộc đời hoạt động cách mạng, cuộc đời viết báo của mỡnh, đó sử dụng rất thành cụng cụng cụ bỏo chớ như một vũ khí chính trị sắc bén trong việc đấu tranh chống các thế lực thù địch, chống cái xấu, cái ác, khơi dậy các phong trào thi đua của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Từ cuối năm 1959, Bác Hồ đó nờu vấn đề: nên dùng huy hiệu của Người để thưởng cho những gương cán bộ, nhân dân làm việc giỏi, việc tốt mà Bỏc biết. Vỡ vậy, hàng ngàn người đó được tặng thưởng Huy hiệu của Bác Hồ. Chính Bác đó trực tiếp tham gia viết nhiều gương người tốt việc tốt trên báo chí. Cũng từ ý tưởng của Người mà những tấm gương người tốt việc tốt in trên báo đó được biên soạn lại thành những tập sách tuyên truyền hàng năm để mọi người cùng noi gương, học tập và làm theo. Nhiều năm qua, báo chí cách mạng Việt Nam đó tỏ rừ vai trũ xung kớch trờn mặt trận tư tưởng, có sức mạnh rất lớn trong việc cổ động, tuyên truyền quần chúng bằng những tấm gương người tài năng có địa chỉ cụ thể có những việc làm ích nước, lợi dân. Bước vào thời kỳ đổi mới hiện nay, việc phát hiện, tuyên truyền kịp thời những cá nhân tài năng, đức độ, những vấn đề nóng bỏng trong việc thu hút và trọng dụng nhân tài được xác định là một nhiệm vụ vô cùng lớn lao của báo chí. Bởi vỡ, phỏt hiện và tuyờn tryền kịp thời những điển hỡnh như thế nhằm góp phần phổ biến kinh nghiệm và nhân rộng trên phạm vi một ngành, một địa phương hay cả nước, cũng chính là góp phần cực kỳ to lớn và vô cùng quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xó hội, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế những năm đổi mới vừa qua cho thấy, báo chí luôn là kênh thông tin quan trọng nhất trong đời sống xã hội, truyền đạt mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân. Báo chí cũng đã có nhiều đổi mới trong đó đặc biệt chú ý là tính chiến đấu của báo chí đã được nâng cao rõ rệt. Chính điều này đã làm nên sức lan toả mạnh và sức sống mạnh mẽ của tất cả các loại hình báo chí trong đời sống xã hội. Tuyên truyền về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài ở nước ta, chắc chắn báo chí cũng là kênh chủ yếu. Đây là một vấn đề thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của nhiều người dân vì nó có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của đất nước, đến sự thành bại của công cuộc đổi mới. Do vậy, những năm qua báo chí đã thu được nhiều thành tựu trong mảng tuyên truyền về vấn đề này. Xuất phát từ nhận thức chung của toàn xó hội về vị trí, vai trũ thật sự quan trọng của người tài, báo chí cũng đó có quan điểm hết sức tiến bộ, đúng đắn vai trũ của người tài trong xó hội mới. Báo chí tuyên truyền mạnh mẽ về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài sẽ có tác dụng to lớn trong việc nâng cao nhận thức của cả xã hội, giúp xã hội nhìn nhận đúng đắn và khách quan hơn về vai trò của người tài trong xã hội, tạo lập một văn hoá trọng dụng người tài, đấu tranh với các các cơ chế đang ảnh hưởng tiêu cực tới chính sách thu hút người tài của Đảng ta và kích thích lòng tự hào, ý chí phấn đấu vươn lên của thế hệ trẻ trở thành người tài cho đất nước... Có thể nói, chúng ta vẫn chưa toàn có một quan niệm thật sự công bằng, thật sự đúng đắn về người tài. Xó hội vẫn có tâm lý hoài nghi hoặc ghen tỵ, đố kỵ và cho rằng người tài thường đi cùng với những thói hư, tật xấu. Chính quan niệm đó đó dẫn đến những cách ứng xử thiếu văn hoá, thiếu tính nhân văn và công bằng với người tài. Làm thế nào để dần dần thay đổi được quan niệm đó in sõu vào đầu óc người Việt là công việc không dễ dàng. Và chỉ khi thay đổi được những quan niệm, những suy nghĩ ấy, việc phát hiện và sử dụng người tài mới thực sự công bằng, minh bạch và người tài mới cống hiến hết khả năng của họ cho sự nghiệp chấn hưng đất nước. Nhiều bài báo đó mạnh dạn đi sâu phê phán cách dùng người, cách đối xử với người tài thiếu văn hoỏ của nhiều vị lónh đạo do sợ người tài lấn lướt mỡnh trong cụng việc mà tỡm cỏch khống chế họ, khụng cho họ phỏt triển, khẳng định mỡnh trong cụng việc. Công việc của báo chí là phải xây dựng một văn hoá trọng người tài, biết quý trọng những cỏ nhõn xuất chỳng, tất cả vỡ sự nghiệp chung. Bên cạnh đó, việc báo chí nêu những tấm gương người tài, về nghị lực và sự phấn đấu vươn lên của họ trong cuộc sống để vươn tới thành công... như là một cú hích đối với lớp trẻ, khiến họ nhân thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình đối với đất nước, kích thích lòng tự hào, chạm vào lòng "tự ái" của lớp trẻ khiến nhiều bạn trẻ noi gương và phấn đấu vươn lên... Bên cạnh đó, báo chí làm cầu nối giữa nhân tài và nơi cần tới nhân tài, là diễn đàn giúp những người tài có thể cống hiến nhiều hơn cho xã hội. Bỏo chớ cũn thực sự là diễn đàn là diễn đàn để đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp vào chính sách bồi dưỡng, sử dụng nhân tài của Đảng ta. Mặc dù quan điểm của Đảng và Nhà nước đó rất rừ ràng về vấn đề đào tạo và sử dụng nhân tài, song nhiều chính sách cũn chưa phù hợp, bất cập, khiến cho chủ trương thu hút nhân tài cho sự nghiệp chấn hưng đất nước chưa thực sự được đi vào cuộc sống. Chính sách nào cũng vậy, phải qua thực tế cuộc sống, đi vào đời sống nhân dân mới được kiểm định, phát hiện chỗ đúng, chỗ sai, chỗ chưa phù hợp để chỉnh sửa bổ sung. Đây là việc làm rất cần thiết của cuộc sống mà báo chí có đủ sức mạnh và điều kiện và lợi thế tham gia, phát huy vai trũ của mỡnh. Thực tế bất cập của vấn đề nhân tài như: người tài bị đố kỵ và không được trọng dụng, rải thảm đỏ thu hút nhân tài nhưng lại không bố trí công việc phù hợp cho họ, chính sách đói ngộ với nhân tài quá thấp, điều kiện làm việc lạc hậu, không có chính sách đào tạo và hỗ trợ phát triển nhân tài… đó được báo chí đề cập khá rừ nét và đầy đủ. Nhiều tờ báo lớn của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị cùng lên tiếng bênh vực người tài, góp một tiếng nói vỡ tương lai và vận mệnh của dân tộc. Tuyên truyền về nhân tài và chính sách trọng dụng nhân tài như thế nào, đó là mối quan tâm của các nhà báo và các cơ quan báo chí. Thời gian qua, việc này đó cú nhiều kinh nghiệm tốt, nhưng vẫn cũn nhiều mặt lỳng tỳng, chất lượng hiệu quả chưa cao. Báo chí của ta đó cú nhiều thành tớch và kinh nghiệm tuyờn truyền nhõn tố mới, điển hỡnh tiờn tiến. Và đây cũng là một nền tảng rất quan trọng để tuyên truyền tốt hơn về vấn đề nhân tài đất nước và chính sách nhân tài của Đảng. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ mới, nhất là khi chúng ta gia nhập WTO, trước những yêu cầu về nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển đất nước, đẩy mạnh hội nhập, việc tuyên truyền nhân tài như thế nào trên báo chí nói chung cho đạt chất lượng, hiệu quả xó hội rộng lớn là vấn đề "nóng" đang đặt ra, phải tiếp tục xử lý tốt hơn. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Qua các nội dung đó nờu trờn, cú thể thấy rằng, vai trũ của người tài trong xó hội là vụ cựng to lớn. Trong giai đoạn hiện nay, quan niệm về người tài đã được mở rộng hơn. Tất cả các cá nhân giỏi trong một lĩnh vực nào đó mà có thể đóng góp được cho xã hội đều có thể coi là nhân tài. Nhân tài trong các lĩnh vực: kinh doanh, giáo dục, khoa học công nghệ... Tuy nhiên ngày nay, người thông minh, có học mới là thực tài. Người tài có vị trí như rường cột của quốc gia, có khả năng thay đổi vận mệnh của một dân tộc, một đất nước. Người tài trí là một vốn quý, quý nhất trong mọi nguồn vốn mà một xó hội cú thể cú được. Và cũng như đối với mọi nguồn vốn khác, biết tỡm người tài trí, biết tôn trọng họ, biết đánh giá và sử dụng tài năng của họ… là một trong những dấu hiệu quan trọng bậc nhất để xem xét những người lónh đạo một đất nước có thể mang lại gỡ cho đất nước đó. Xó hội chỳng ta ngày nay càng coi trọng, đánh giá cao người tài. Điều đó được thể hiện xuyên suốt trong thời đại Hồ Chí Minh và mói mói về sau khi chỳng ta cũn khỏt khao vươn lên tầm cao thế giới. Vỡ thế, cái ý trọng dụng họ đó thấm vào tư duy và hành động của đội ngũ những nhà lónh đạo của Đảng, Nhà nước, thấm xuống các tầng lớp nhân dân. Nhưng có điều bất cập là tuy nhận thức của xó hội như vậy nhưng thực tế đối xử và trọng dụng người tài cũn nhiều vấn đề phải bàn. Đó là những quan điểm chậm đổi mới trong cách nhỡn nhận và đánh giá thế nào là một nhân tài thực sự và cách dùng họ ra sao. Nhiều người vẫn nhỡn nhận nhõn tài như những hỡnh mẫu chúi lọi, hoàn hảo về tài năng và cả nhân cách. Cách nhỡn cầu toàn như vậy đó khiến cho bao người tài trí chưa được trọng dụng, bố trí đúng nơi, đúng việc, lóng phớ một nguồn chất xỏm khụng nhỏ. Hơn nữa, các thiếu sót, hạn chế của chính sách dùng người, hay nói cách khác là công tác bố trí cán bộ của ta hiện nay cũng kỡm kẹp tài năng của nhiều nhân tài, không tạo cho họ cơ hội phát triển rộng rói. Tuy nhiên, trước những thành tựu của xó hội hiện nay, bờn cạnh sự nỗ lực của toàn dõn, chỳng ta cũng đó ghi nhận sự đóng góp của đội ngũ những con người tài trí trong mọi lĩnh vực. Báo chí đó phản ỏnh khỏ rừ nột những đóng góp này. Với chức năng của mỡnh, bỏo chớ đóng vai trũ một kênh truyền thông hiệu quả nhất trong việc tuyờn truyền, nõng cao nhận thức của xó hội trong nhỡn nhận, đánh giá một nhân tài từ đó hoàn thiện những chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước trong sử dụng nhân tài hiện nay. Chương 2 Thực trạng tuyên truyền trên báo chí về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài hiện nay 2.1. THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN TRÊN BÁO CHÍ VỀ VẤN ĐỀ NHÂN TÀI VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI Ở NƯỚC TA 2.1.1.Thực trạng vấn đề nhân tài và trọng dụng nhân tài ở nước ta hiện nay Nhõn tài, hiền tài - là nguyờn khớ của quốc gia. Nguyờn khớ thịnh thỡ nhõn tài, hiền tài nhiều. Nguyờn khớ suy thỡ nhõn tài hiếm, hiền tài càng khụng cú. Vào cỏc thời mạt vận của các triều đại phong kiến xưa, có lúc có tỡnh trạng: "Nhân tài như lá mùa thu. Tuấn kiệt như sao buổi sớm" tức là rất hiếm. Đất nước ta, dưới thời thực dân phong kiến cũng vậy, nhiều tài năng bị thui chột, nhân tài do đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Cũn hiền tài thỡ chỉ được hun đúc trong gian khổ hy sinh của cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, biết bao thanh, thiếu niên thông minh, hiếu học đó phải hiến thõn cho Tổ quốc khi chưa được đào tạo để trở thành nhân tài. Ngày nay, đất nước được độc lập tự do, nhân dân có quyền làm chủ, nhân tài có điều kiện nở rộ nếu được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng. Toàn Đảng, toàn dân ta đang chăm lo đào tạo nhân tài. Các ngành tư tưởng, văn hóa, giáo dục, khoa học... đều dốc sức vào việc đào tạo nhân tài. Các đoàn thể quần chúng, các hội văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, các địa phương từ làng, xó đến huyện, tỉnh, thậm chí đến các gia đỡnh, dũng họ đều chăm lo đào tạo và phát triển nhân tài. Thực tiễn đất nước cũng cho thấy một xu thế tất yếu đang diễn ra là sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đũi hỏi phải cú nhiều nhõn tài để thực hiện. Ngược lại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa lại là điều kiện để sản sinh ra nhiều nhân tài. Từ đông đảo các nhân tài sẽ xuất hiện những hiền tài. Có chủ trương chính sách thu hút người tài của Đảng và Nhà nước nên trong những năm gần đây, các trí thức giỏi đã được bồi dưỡng đào tạo, được gửi đi đào tạo để sau này cống hiến cho công cuộc xây dựng đất nước. Thực tế hiện nay đã xuất hiện một lớp người mới trong xã hội mà tiêu biểu là đội ngũ trí thức và doanh nhân có hoài bão, lý tưởng, có tài năng đang cống hiến được nhiều cho đất nước. Họ là những tấm gương sáng cho lớp trẻ và mọi tầng lớp trong xã hội kinh trọng, noi theo. Tuy đó cú chế độ, chính sách cụ thể để thu hút nhân tài góp "chất xám" dựng xây đất nước nhưng thực tế vẫn chưa nhận được sự hưởng ứng của nhiều nhà khoa học, trí thức. Chế độ, chính sách chưa đáp ứng được hai yêu cầu đầu tiên của các nhà trí thức và nhà khoa học là: tôn trọng họ và tạo điều kiện, phương tiện cho họ làm việc, cống hiến tài năng. Chính vì vậy, những năm gần đây, vấn đề phát huy nhân tài để xây dựng đất nước vẫn là một vấn đề nóng bỏng, cần có lời giải. Nguyễn Trói từng núi: "Thế vận nước có lúc thịnh suy song hào kiệt đời nào cũng có". Thời nay, có nhiều người tài làm được những việc mà hàng triệu người khác không đảm đương nổi. Thế nhưng rất nhiều người trong số họ đó bị bỏ phớ, đất nước không sử dụng họ mà nước ngoài rước đón... Có thể nói, cho đến nay, hầu như địa phương nào cũng công bố chính sách tuyển dụng, thu hút nhân tài như: khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đưa ra những phương án thu hút, sử dụng tài năng trẻ; khuyến khích các doanh nghiệp cấp học bổng để đào tạo cán bộ nguồn và khuyến khích cán bộ, công chức học tập, nâng cao trỡnh độ sau Đại học, xây dựng cơ chế thưởng cho người có công đào tạo tài năng trẻ... quy định ưu đói, thu hỳt nhân tài với một số cơ chế: quỹ ưu đói, khuyến khớch cỏc nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi; ưu đói về nhà ở (thưởng nhà, bán nhà theo cơ chế trả dần); các ưu đói về phụ cấp, thưởng bằng tiền, trợ cấp mua tài liệu nghiên cứu... Nhiều tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân tốt nghiệp loại khá, giỏi được các lónh đạo của địa phương mở rộng vũng tay đón nhận, phân về các đơn vị, Tuy nhiên theo phản ánh của báo chí: sau đó các đơn vị đó đùn đẩy qua lại, thủ tục rườm rà và nhận người trong tỡnh thế bị buộc phải nhận. Tiếp theo đó là phân công công việc không hợp lý, cơ hội làm việc không có, hầu hết phân bổ về các đơn vị hành chính sự nghiệp nên đồng lương trả cho nhân tài được tính theo mức xếp hàng theo thâm niên… Đó là lý do khiến đa số những người được tuyển dụng làm chỉ một thời gian ngắn là chuyển sang các doanh nghiệp hoặc công ty nước ngoài. Hiện nay, về số lượng người có học hàm học vị cao, Việt Nam đứng đầu ở khu vực Đông Nam Á. Song vỡ sao cỏc trường đại học tốt nhất của ta lại được xếp loại thấp hơn khoảng 50 bậc so với Thái Lan, cũn khoa học cụng nghệ của ta tụt hậu so với Thái Lan khoảng 30 năm? Mấu chốt vấn đề nằm ở chỗ, "thực" - "ảo" trong khoa học vẫn cũn lẫn lộn; cỏc nhà khoa học thực sự chưa được nhỡn nhận đúng và chưa được tạo điều kiện tốt nhất có thể để làm việc; trong khi đó, các nhà lónh đạo lại chưa tỏ rừ quyết tõm trọng dụng người tài... Văn bằng Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học tại các nước tiên tiến chỉ có "giá trị" hai năm. Sau thời gian đó, nếu chủ sở hữu không tiếp tục có ít nhất một sản phẩm khoa học mới, văn bằng tuy không bị thu hồi nhưng chỗ đứng của chủ sở hữu nó trong giới khoa học khụng cũn nữa. Văn bằng Phó giáo sư, giáo sư chỉ có giá trị khi được gắn với trách nhiệm đào tạo và vị trí cụ thể tại viện nghiên cứu hoặc trường Đại học. Khác với các nước, ở Việt Nam, văn bằng tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, Phó giáo sư, giáo sư - phần "ảo" lại được tôn vinh và hưởng "lộc" cả đời, cũn "phần thực" (hành nghề như thế nào?) lại chưa được xem trọng. Con đường nào vào khoa học cũng chông gai gian khổ. Khoa học chưa được coi trọng là một "nghề". Số đông chưa có điều kiện hành "nghề", chưa nói là phải "bỏ nghề" sau khi cú bằng, là một thực tế, khú chấp nhận. Tiến thõn theo cỏc bậc quản lý gần như trở thành lối đi độc đạo. Quan niệm này có nguồn gốc sâu xa từ hạn chế của văn hoá phương Đông. Về tư duy này nhà văn Lỗ Tấn đó gọi "bằng cấp như hũn gạch để gừ cửa vào chốn quan trường. Cửa mở rồi thỡ cú thể vứt gạch đi". Giáo sư Hoàng Tụy gần đây đó phỏt biểu trờn VietnamNet: "Khoảng 1/3 số Giáo sư Phó giáo sư phải thu hồi chức danh" - là một nhận xét đáng buồn. Theo số liệu quốc tế, mỗi năm Việt Nam có khoảng 340 bài được công bố, bằng số lượng của Thái Lan 10 năm về trước; cũn chỉ số nghiờn cứu ứng dụng triển khai (R&D) Thái Lan lớn hơn Việt Nam khoảng ba lần. Theo tiêu chí quốc tế, trong số 13.500 Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học chỉ có khoảng 500 người (chiếm 3,72%) có sản phẩm đích thực, được quốc tế ghi nhận thỡ quả là con số thỏch thức... Vấn đề tồn tại lớn nhất nằm ở công tác cán bộ, trong đó cốt lừi là cỏn bộ cụng chức trong cỏc cơ quan công quyền của Nhà nước. Với cách sử dụng người của Đảng hiện nay thỡ người tài không được trọng dụng, người tài khó có cơ hội chiếm lĩnh được một vị trí nào đó để tự thể hiện mỡnh, tự khẳng định tài năng của mỡnh. Việc thu hút nhân tài từ lâu đang trở thành "câu cửa miệng" của lónh đạo nhiều địa phương, nhưng trên thực tế, lời kêu gọi đó phần nhiều mang tính hỡnh thức. Hiện tại, nhiều địa phương đó lập trang web, kờu gọi thu hỳt nhân tài. Thế nhưng, khi vào trang web của Hà Nội, người ta không hề thấy một dũng thụng tin nào về thu hỳt nhân tài, cũn Thành phố Hồ Chí Minh, để tỡm cho ra quyết định thu hút nhân tài của thành phố này, người đọc phải lần vào mục văn bản chính sách mới được mục sở thị. Cũn trang web của tỉnh Bắc Ninh, sau một hồi tỡm kiếm, chỉ thấy quyết định thu hút nhân tài mà không hề có điều khoản, chi tiết cụ thể... Giải thích cho hiện tượng này có nhiều nguyên nhân. Có thể do các địa phương cũn nghốo, kinh tế khoa học mặt bằng dõn trớ cũn thấp, từ đó dẫn tới môi trường làm việc cho đội ngũ cán bộ nói chung, người tài nói riêng rất khó khăn. Khó khăn lớn nhất vẫn là môi trường làm việc trong khi đây là điều quan trọng về lâu về dài đối với nhân tài, cũn hỗ trợ ban đầu chỉ mang tính động viên. Các chính sách thu hút nhân tài không xuất phát từ nhu cầu đặc thù riêng của mỗi địa phương mà thường được xây dựng theo khuôn mẫu na ná nhau giữa các tỉnh. Có thể nói rằng nhiều nơi không cầu người tài thực sự, mà chỉ sắm người tài chỉ để trang trí, cho bằng các tỉnh bạn. Do vậy vừa hết sức lóng phí, vừa không phát huy được vai trũ của họ trong công việc. Đó chỉ là một phần của những thực tế nhức nhối về cách sử dụng nhân tài của chúng ta hiện nay mà báo chí đại diện cho người dân đó nói lên. Nếu so với nhân tài ở các nước phát triển, nhân tài ở nước ta quả thật vô cùng khó khăn về mọi mặt để cống hiến tài năng cho đất nước. Sau đây là bảng so sánh chính sách đối với các cá nhân tài năng của ta so với các nước phát triển. Điểm so sánh Ở Việt Nam Ở một số nước phát triển Sinh viên tốt nghiệp thủ khoa Sinh viờn giỏi tỡm được việc làm tốt trong cơ quan nhà nước không nhiều (vỡ biờn chế hết) Sinh viên giỏi được doanh nghiệp ký hợp đồng, đỡ đầu, cấp học bổng, khi tốt nghiệp được đưa đi đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Lương trả theo ngạch, bậc, có thể trả thêm cũng không nhiều. Việc tham dự hội nghị quốc gia, quốc tế ớt. Vỡ cũn trẻ, chưa đến lượt, chưa đủ tiêu chuẩn Lương trả theo thành quả lao động (có thể rất cao). Được cấp hộ chiếu ưu tiên. Tham dự các hội nghị quốc tế tự do, có thể được cấp kinh phí. Nhân tài Khi trong biên chế, do cơ chế, chính sách bó buộc rất khó thay đổi vị trí, nơi làm việc Tự do sử dụng thời gian với tỷ lệ% được thoả thuận. Được di chuyển dễ dàng sau khi hoàn thành hợp đồng. Nếu đối xử không thỏa đáng, có quyền cắt hợp đồng chuyển nơi khác. Tạo ra thế cạnh tranh nhân tài Đánh giá nhân tài Mới đây, người tài năng cũng dự thi tuyển vào một số vị trí công tác. Nhưng do vị nể, con ông cháu cha, chạy chọt... nên việc Người tài đấu thầu dự án, thi tuyển có tính cạnh tranh: công khai, minh bạch, đảm bảo ai tài giỏi hơn sẽ thắng. Ai tài cao thỡ chức trọng. thi tuyển cũn hỡnh thức. Đứng đầu cơ quan, đơn vị, không ít nơi chưa phải là người có tài năng. Người tài cũn trẻ khú phỏt huy được tác dụng vỡ tõm lý trọng người cao tuổi, người có nhiều kinh nghiệm thực tế. Người tài ít tuổi, nhiều tuổi, học hàm học vị cao thấp đều có thể thi tuyển. Ai thắng có thể thuê giáo sư, tiến sĩ khoa học làm theo hợp đồng. Môi trường làm việc Bầu không khí hợp tác: thiếu, yếu.Thiên về làm việc cá nhân Hợp tác theo cơ chế nhóm, làm việc cởi mở Thông tin ít, thiếu tạp chí nước ngoài Thông tin qua nhiều kênh, đặc biệt qua mạng, qua nhóm Giao lưu quốc tế, dự hội nghị, hội thảo ít Giao lưu, dự hội nghị quốc gia, quốc tế dễ dàng Trang thiết bị, mỏy múc cũn lạc hậu, phũng thớ nghiệm hiện đại ít. Máy móc, trang thiết bị hiện đại Trỡnh độ ngoại ngữ, công nghệ thông tin thấp. Cập nhật thông tin qua mạng ít Sử dụng ngoại ngữ tiếng Anh tốt, sử dụng máy tính nối mạng thành thạo. Có thể làm việc tại nhà. Kết luận Chất xỏm bị lóng phớ, chảy mỏu chất xám. Óc sáng tạo bị ức chế. Tài năng khó có điều kiện trở thành nhân tài. Rất nhiều tài năng trẻ được giải vàng quốc tế nhưng không thành nhân tài. Một số có thể trở thành "nhân tài" nhưng chưa hẳn là nhân tài Luụn luụn kớch thớch úc tỡm tũi, sỏng tạo, buộc phải suy nghĩ, do cơ chế cạnh tranh chất xám. í tưởng mới dễ nảy sinh, hỡnh thành. đích thực. Nhân tài đích thực ít được trọng dụng do cơ chế, chính sách và nhiều lý do khỏch nhau. Nhân tài không chỉ được trọng dụng mà cũn được suy tôn, hưởng nhiều quy chế ưu tiên, ưu đói. (Nguồn: Đề tài nghiên cứu chính sách phát triển nhân tài khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Ban Khoa giáo Trung ương). Trước những vấn đề nóng bỏng trên, báo chí đã vào cuộc. Rất nhiều tờ báo đã có các bài viết xung quanh chủ đề: Làm gì để phát huy thu hút được nhân tài và phát huy hết tài năng của họ cống hiến cho đất nước... Với rất nhiều nội dung tuyên truyền phong phú, báo chí đó ca ngợi các tấm gương người tài có những cống hiến cho công cuộc đổi mới đất nước, phản ánh thực trạng thu hút và sử dụng nhân tài của nước ta hiện nay và góp phần sửa đổi nhiều những bất cập trong các chủ trương, chính sách, nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo và cả người dân về vấn đề sử dụng nhân tài đất nước. Đây là một trong những nội dung và yêu cầu trong việc tuyên truyền trên báo chí hiện nay. Cũng là một nội dung thu hút đông đảo bạn đọc, tạo nên không khí sôi nổi trên các diễn đàn trên mạng internet.... Những bài báo có tác dụng rõ rệt trong việc cổ vũ động viên lớp trẻ, thế hệ 7X, 8X, 9X hăng say hơn trong học tập, công tác, nghiên cứu khoa học và kinh doanh để làm giàu cho đất nước. 2.1.2. Thực trạng tuyên truyền trên báo chí về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài hiện nay Vấn đề nhân tài và phát huy nhân tài đất nước được coi là vấn đề thời sự hiện nay, thu hút sự quan tâm của không chỉ các bạn trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước, những người đang chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của các chính sách giáo dục đào tạo và đang có trong mỡnh những định hướng nghề nghiệp cho tương lai - mà vấn đề này cũn nhận được sự quan tâm chung của toàn xó hội nhất là những người tâm huyết với tương lai và vận mệnh của dân tộc. Do đó, tuyên truyền về vấn đề này cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng của báo chí, đánh giá đúng vị trí thỡ nó có những nội dung quan trọng như mọi vấn đề như chống tiêu cực, các vấn đề thời sự nổi cộm tại mỗi thời điểm. Các tin bài về đề tài phát huy nhân tài đất nước đang được nhiều báo quan tâm đưa tin bài khá sâu sắc. Các diễn đàn trên nhiều tờ báo có nhiều ý kiến của độc giả tham gia tạo nên một không khí trao đổi khá thẳng thắn xung quanh vấn đề người tài và chính sách trọng người tài của Đảng ta hiện nay. Khảo sát một số tờ báo như Tuổi trẻ, Thanh niên, Tiền phong, Vietnamnet, Sinh viên, Lao động... cho thấy tần số xuất hiện của các bài viết về đề tài này khá cao. Cùng với sự nhận thức chung của xó hội: bất cứ xó hội nào muốn phỏt triển thỡ đều cần một lực lượng những cá nhân tinh hoa, tài giỏi để chèo lái con thuyền chung. Đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập, yêu cầu về đào tạo nhân tài và sử dụng họ trở thành một vấn đề cú ý nghĩa sống cũn với vận mệnh dõn tộc. Vỡ vậy, đây là một vấn đề núng, thu hỳt sự quan tõm của toàn xó hội. Độ "nóng" của nó không thua kém bất cứ đề tài nào như chống tiêu cực hay các tin tức nóng hổi liên quan trực tiếp đến đời sống người dân... Có thể nhận thấy rất rừ ràng rằng báo chí đó cú sự quan tõm đặc biệt với mảng đề tài này. Càng quan tâm đến mảng đề tài này bao nhiờu càng thể hiện tầm nhận thức của lónh đạo cơ quan báo chí đối với việc tỡm người tài đức cho công cuộc chấn hưng đất nước ngày nay. Có thể nói, tất cả các báo từ truyền hỡnh, phát thanh, báo in đến báo điện tử đều rất coi trọng tuyên truyền về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài hiện nay. Điều đó thể hiện ở số lượng tác phẩm, chất lượng tác phẩm, sự phong phú về vấn đề, nội dung phản ánh cũng như hỡnh thức thể hiện đề tài này. Và đây cũng là một đề tài được coi là hấp dẫn đối với các phóng viên. Khảo sát trên 3 tờ báo là Thanh niên (Cơ quan của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam), báo Tuổi trẻ (Cơ quan của Trung ương Đoàn Thanh niện Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh) và báo điện tử Vietnamnet đó cho thấy một số vấn đề đỏng chỳ ý trong tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy nhân tài đất nước trong giai đoạn hiện nay. 3 tờ báo này là những tờ báo lớn,có uy tín, có số lượng độc giả thường xuyên đông trong đó có nhiều người trẻ tuổi, nội dung đề cập đến mọi mặt của đời sống xó hội, khá phong phú và hấp dẫn. Viết về vấn đề này, báo Thanh niên từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 9 năm 2007: Năm 2005 có 52 bài Năm 2006: 67 bài Năm 2007: 38 bài Tổng cộng trong 3 năm có: 157 bài Báo Tuổi trẻ từ tháng 1 năm 2005 đến tháng 9 năm 2007 có: Năm 2005: 23 bài Năm 2006: 41 bài Năm 2007: 28 bài Tổng cộng trong 3 năm có: 92 bài Tính trung bỡnh thỡ báo Thanh niên có tỷ lệ bài về đề tài này là 0,157 bài/số. Tức là cứ 3 tháng thỡ có khoảng 14 bài, 1 tháng có 4,6 bài. Và như vậy, mỗi tuần có hơn một bài viết về vấn để này. Báo Tuổi trẻ: 0,1 bài/số. Tương đương với 11 ngày có 1 bài. Báo điện tử Vietnamnet do không thể có số lượng thống kê một cách chính xác do vấn đề kỹ thuật nên chỉ có kết quả tỡm kiếm bằng công cụ tỡm kiếm của chính tờ báo. Đây là kết quả tỡm kiếm: 140,000 kết quả tỡm kiếm từ vietnamnet.vn với từ khoá "nhân tài" 12,700 kết quả từ vietnamnet.vn với từ khoá "hiền tài" Các kết quả trên cho thấy số lượng tin bài về đề tài này khá lớn, nội dung Phân tích các bài viết trên ba tờ báo này cho thấy việc phản ánh về vấn đề nhân tài và trọng dụng người tài thể hiện ở các mặt sau: 2.1.2.1 Về mặt nội dung tuyên truyền Đối với vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài trên báo chí, qua khảo sát có thể khái quát một số nội dung tuyên truyền chủ yếu như sau: Thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến chính sách nhân tài, chủ trương thu hút người tài và phát huy vai trò của nhân tài trong xây dựng đất nước, tham gia tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức của nhân dân về chính sách trọng dụng nhân tài của Đảng và Nhà nước ta. Đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm đồng thời cũng là mục tiêu cao nhất của báo chí trong tuyên truyền về mảng đề tài này. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó và đang lôi cuốn, tác động đến tất cả các nước cũng như đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xó hội. Đối với nước ta, từ xuất phát điểm là nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trỡnh độ của một nước phát triển theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", tất yếu phải tiến hành thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là "một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xó hội". Đây cũng là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới của cách mạng nước ta. Trong hàng loạt phương thức và biện pháp để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trỡnh độ cao là hết sức cần thiết và có tính chiến lược lâu dài. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vị trí, vai trũ đặc biệt quan trọng của nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật nói riêng đối với sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vỡ, nguồn nhõn lực chất lượng cao hay nói cách khác là nguồn chất xám tinh tuý chính là lực lượng lao động đó, đang và sẽ tham gia đắc lực vào tiến trỡnh cụng nghiệp húa, hiện đại hóa; là nguồn lực có ý nghĩa quyết định đối với các nguồn lực khác cũng như quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, đa phần là lực lượng trẻ có khả năng thích ứng nhanh trước những ngành nghề mới. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận: lực lượng lao động nhiều nhưng chất lượng lao động thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong hiện tại và những năm tiếp theo. Số lao động có trỡnh độ cao trong các ngành nghề cung đều vừa thiếu vừa yếu, làm cản trở quỏ trỡnh chuyển đổi và phát triển nền kinh tế. Sau gần 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, nguồn nhân lực trỡnh độ cao của nước ta đó khẳng định vai trũ quan trọng trong mọi lĩnh vực của xó hội. Trước tầm quan trọng của đội ngũ chất xám của đất nước này, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là mong muốn thu hút nhiều hơn nữa nguồn lực chất xám của cả dân tộc trong đó có cả một lực lượng không nhỏ người Việt Nam ở nước ngoài để cùng chung tay xây dựng đất nước. Chủ trương này của Đảng là hết sức đúng đắn, là hợp với quy luật phát triển của đất nước. Những đường lối chủ trương đó của Đảng và Nhà nước đó được báo chí đó đề cập trong nhiều bài viết về các chính sách thu hút nhân tài của các địa phương,các chính sách đói ngộ với trí thức trẻ, với trí thức Việt kiều… góp phần hỗ trợ công tác tuyển dụng và sử dụng nhân tài ở các ngành, các địa phương trên cả nước. Đảng và Nhà nước chủ trương huy động mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực chất xám của tri thức người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước. Theo tinh thần Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Chính phủ và các cơ quan chức năng từng bước hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của tri thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước; xây dựng chế độ đói ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, tri thức người Việt Nam ở nước ngoài có trỡnh độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước cũng như góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của nước nhà. Các ngành chức năng cũng đó bắt tay vào xây dựng và hoàn thiện các chính sách tạo thuận lợi và khuyến khích các ngành, các trung tâm nghiên cứu khoa học-công nghệ, văn hóa nghệ thuật, giáo dục-đào tạo, y tế, thể dục-thể thao, các cơ sở sản xuất, dịch vụ ở trong nước mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, tri thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia công việc ở trong nước, làm việc cho các chương trỡnh, dự ỏn hợp tỏc đa phương và song phương của Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và làm tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài; tranh thủ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tiến hành hoạt động vận động, tư vấn về pháp lý trong quan hệ với nước bà con làm ăn sinh sống. Chủ trương mang tính chiến lược đó đó được cả ba tờ báo tuyên truyền khá tích cực với các bài: Thu hút chuyên gia Việt kiều về làm việc tại quê nhà (báo Thanh niên số ngày 7-1-2005) của Vũ Tất Thắng, Khơi dậy nguồn lực chất xám của Việt kiều (báo Thanh niên ngày 15-8-2005), Cần môi trường trọng dụng hơn là ưu đói (nhân Hội thảo Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài với sự nghiệp xây dựng quê hương - báo Thanh niên ngày 18-8-2005), Biến tiềm lực của kiều bào thành nguồn lực (Vietnamnet ngày 1-2-2006)… Với số lượng đồng đảo, cư trú tại hầu khắp các nước có trỡnh độ về khoa học, công nghệ và kinh tế, được đào luyện trong môi trường phát triển, cạnh tranh và cập nhật thông tin, tri thức kiều bào là tiềm năng, vốn quý của đất nước. Nếu huy động tốt, nguồn lực này sẽ có thể giúp đất nước đi tắt, đón đầu, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta đang đặt ra hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu đánh giá; nhất là cần được tổng kết để rút ra những vấn đề mấu chốt; đặc biệt là kịp thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị để đưa công tác này đi đúng quỹ đạo, phù hợp với quy luật khách quan. Xu thế thời đại, vấn đề toàn cầu hóa, nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đang đặt ra nhiều thách thức cho đất nước, trong đó có áp lực ngày càng tăng về việc chuẩn bị nguồn nhân lực thích ứng và đi kịp với yêu cầu của thời đại. Đội ngũ những nhân tài đất nước sẽ là lực lượng tiên phong. Đảng và Nhà nước đó cú chủ trương. Cũn thực hiện ở cỏc cấp, cỏc ngành tới đâu là một vấn đề phức tạp. Có nơi vỡ chưa hiểu đúng, hiểu đủ các chủ trương chính sách này hoặc thực hiện lại có nhiều bước sai, không phù hợp với quy luật khách quan dẫn đến những hậu quả đỏng tiếc, gõy lóng phớ về nguồn nhõn tài cho đất nước. Thứ hai, khẳng định vị trớ, vai trũ, trỏch nhiệm của người tài trong công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước. Qua khảo sát, có thể thấy rất rừ đây là nội dung xuyên suốt trong toàn bộ các tác phẩm đó đăng tải trên báo Thanh niên, Tuổi trẻ, Vietnamnet về đề tài này thời gian qua. Đây thực chất là việc nhấn mạnh thêm một lần nữa, khẳng định vị trí vô cùng quan trọng của người tài trong bất cứ công việc nào. Mặc dù đa số chúng ta đều thấy được vị trí quan trọng của người tài, người giỏi trong guồng máy công việc chung, song từ suy nghĩ đến hành động để thực sự tin cậy, tin tưởng, dám giao những trọng trách cho người tài nhất là những người trẻ tuổi thỡ không phải lónh đạo nào cũng đó dám thực hiện. Nhận thức của nhiều người dân thậm chí cả các quan chức, đặc biệt là trong các đơn vị Nhà nước đối với vị trớ, vai trũ của người tài chưa hoàn toàn đúng đắn và công bằng. Với lối nghĩ và làm việc tập thể nờn vai trũ của cỏ nhõn xuất chỳng chưa được coi trọng. Do đó mà người tài chưa được nhỡn nhận đúng tầm, đúng với vị trí của họ trong guồng quay chung. Nhận thức này dẫn đến một loạt các hệ luỵ khác như không bố trí người tài nắm giữ các vị trí quan trọng (nhân tài không được giỏi hơn "sếp"), không dành cho người tài những điều kiện làm việc tốt dẫn đến việc người tài khụng cống hiến hết trớ tuệ cho cụng việc chung. Vỡ vậy, việc nõng cao nhận thức cho xó hội trong đó có cả người dân và các quan chức về vị trớ,vai trũ của người tài là vô cùng quan trọng. Trong bài "Đầu năm Ất dậu Bàn chuyện Nhân tài" (báo Thanh niên số Xuân Ất dậu 2005), cố nhà báo Trần Bạch Đằng đó viết: …Đất nước lúc nào cũng cần người có tài. Chúng ta hiểu rằng một dân tộc làm nên chiến công, lập nên thành tích chỉ khi dân tộc ấy được một bộ phận ưu tỳ lónh đạo. Trong quá khứ, các vương triều nào ở ta mà bộ phận ưu tỳ giữ quyền chi phối việc triều chớnh thỡ đó là lúc dân chúng làm nên sự nghiệp lớn. Ngược lại, cũng triều nghi ấy, ban bộ ấy mà bị kẻ bất tài lũng đoạn thỡ cỏi hoạ sẽ giỏng xuống khụng chỉ cho triều đại ấy mà cho cả dân tộc… Việc khẳng định điều này cũn cú ý nghĩa đối với các chính bản thân mỗi người trẻ trong xó hội tự ý thức được sứ mệnh cống hiến cho đất nước nếu họ có tài và có khát vọng đem trí tuệ của phục vụ sự nghiệp kiến thiết đất nước. Trước sự phát triển rất nhanh chóng của đất nước, nhu cầu về nguồn lao động chất lượng cao ngày càng tăng lên. Người tài được các công ty, doanh nghiệp "săn lùng’ ráo riết, trả lương cao để thu hút họ về làm việc. Các đơn vị đặc biệt là các công ty nước ngoài hoặc các công ty tư nhân rất coi trọng những lao động tài năng bởi họ biết rừ rằng một nhõn tài cú thể đảm đương công việc của rất nhiều người với hiệu quả cao. Chớnh vỡ vậy, có thể thấy, người tài ngày càng được xó hội tụn vinh. Song trong một số cơ quan Nhà nước, người tài vẫn chưa được nhỡn nhận đúng với khả năng của họ. Việc tuyên truyền, khẳng định sâu thêm vị trí và tầm quan trọng của người tài và việc trọng dụng nhân tài vẫn cú một ý nghĩa rất lớn,cú thể núi là quan trọng bậc nhất trong việc xỏc định mục đích và hiệu quả tuyên truyền cuối cùng của các tác phẩm về đề tài này. Luật sư Lê Công Định, trong bài viết "Đừng để đất nước trễ thêm bất kỳ chuyến tàu lịch sử nào nữa!" đăng trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 16-1-2007 trong diễn đàn Vươn ra biển lớn đó cho rằng: Thách thức lớn nhất của thời đại - WTO - là Chính phủ có đủ dũng khí thực hiện những thay đổi cần thiết nhằm tự nâng mỡnh và nõng cả dõn tộc lờn một tầm cao mới hay không. Hơn bao giờ hết, chúng ta thật sự cần những nhà kỹ trị trong bộ máy lónh đạo quốc gia. Không có họ, khó có thể có được một chính quyền chuyên nghiệp, quản trị quốc gia một cách khoa học. Không ai có thể nghi ngờ về tầm quan trọng của người những người tài giỏi. Đặc biệt là khi những người tài lại có cái tâm trong sáng, không vụ lợi. Các bài viết bên cạnh việc đánh giá cao vai trũ vị trí của những cá nhân tài năng thỡ cũng khẳng định thêm tầm quan trọng của khía cạnh đạo đức và đều quan niệm đạo đức và tài năng phải hoà quyện trong mỗi con người. Đạo càng sáng thỡ tài càng có điều kiện phát huy, người tài càng được trọng dụng và phát huy hơn trong công việc. "Sử dụng người hiền tài như thế nào?" - bài của Tiến sĩ Trần Văn Quyến tham gia Diễn đàn Vỡ sao Chiờu hiền đói sĩ chưa là lực hút đăng trên Vietnamnet 14-7-2006 đó đưa ra bàn luận một vấn đề rất đáng tâm đắc bởi lẽ chính các hiền tài là những người làm cho dân giàu, nước mạnh, xó hội tụn trọng lẫn nhau, dõn chủ và văn minh (ở đây tác giả muốn nhấn mạnh xó hội tụn trọng lẫn nhau, bởi lẽ theo ý kiến của cá nhân TS Trần Văn Quyến, xó hội cụng bằng phải cũn lâu nữa mới đạt được). Khẳng định vai trũ, vị trí của người tài trong xó hội, các bài viết đó thể hiện một cách nhỡn thực sự công bằng và đúng đắn với người tài trong xó hội: Chúng ta đánh giá nhân tài qua hiệu quả công việc đạt được chứ không qua bằng cấp hay một sự chứng nhận bên ngoài nào cả. Cũng trong bài viết trên, TS Trần Văn Quyến quan niệm: Người tài là những người luôn tỡm và làm ra cỏi mới, khác với những cái đó tồn tại trước đó, bất kể người đó có trỡnh độ gỡ. Núi như vậy để thấy rằng xung quanh ta có rất nhiều người tài, ngay cả mỗi người chúng ta đều có tài riêng về một vấn đề nào đó. Trong một xó hội khụng cú người bất tài! Nếu biết khai thỏc cỏi tài riờng của mỗi cụng dõn thỡ Việt Nam ta sẽ nhanh chúng "sánh vai với các cường quốc năm châu" như Bác Hồ đó núi. Thứ ba, báo chí đã tham gia phát hiện, cổ vũ những nhân tố mới, tích cực, những cá nhân xuất sắc, những nhân tài của đất nước, những tấm gương, những cá nhân tài năng trên các lĩnh vực, trong đó tập trung vào lĩnh vực khoa học công nghệ và kinh tế để xã hội biết tới họ, quan tâm và sử dụng họ, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ các tấm gương này, nhằm mục đích cổ vũ và động viên toàn xã hội học tập và làm theo những tấm gương các cá nhân xuất sắc trong xã hội, noi gương nghị lực phấn đấu, ý chí của họ.... Báo chí thời gian gần đây đã có nhiều bài viết khá sâu sắc về vấn đề này, phát hiện và cổ vũ nhiều tấm gương học tập và lao động giỏi, đặc biệt là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Nghiên cứu về báo chí trong phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân.pdf
Tài liệu liên quan