Tài liệu Luận văn Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay: LUẬN VĂN:
Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Lịch sử phát triển kinh tế của loài người từ trước đến nay đã trải qua rất
nhiều hình thái kinh tế xã hội. Nổi bật và rõ nét nhất đó là các hình thái kinh tế
công xã nguyên thuỷ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên trong tất cả các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái kinh
tế nào có cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách hợp lý và phù hợp nhất từ
việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản
của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế
của nhà nước. Do đó tìm ra một cơ chế quản lý phù hợp nhất đối với mỗi quốc
gia đang là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu và tìm tòi.
ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng cơ chế kinh tế được chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự đi...
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Lời nói đầu
Lịch sử phát triển kinh tế của loài người từ trước đến nay đã trải qua rất
nhiều hình thái kinh tế xã hội. Nổi bật và rõ nét nhất đó là các hình thái kinh tế
công xã nguyên thuỷ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên trong tất cả các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái kinh
tế nào có cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách hợp lý và phù hợp nhất từ
việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào cơ chế thị trường để giải quyết vấn đề cơ bản
của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý và điều hành nền kinh tế
của nhà nước. Do đó tìm ra một cơ chế quản lý phù hợp nhất đối với mỗi quốc
gia đang là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu và tìm tòi.
ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng cơ chế kinh tế được chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ - cơ chế kế hoạch hoá
- tập trung quan liêu bao cấp - là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ và khá phức tạp
chưa từng xảy ra trong lịch sử phát triển kinh tế của bất cứ một quốc gia nào.
Chính vì lẽ đó đòi hỏi chúng ta cần phải tỉnh táo nhìn nhận đối với mỗi quyết
định của mình. Trước kia trong nền kinh tế hiện vật vai trò kinh tế của nhà nước
được cường điệu quá mức, đã trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường vai trò kinh tế của nhà nước đã thay đổi như
thế nào. Đó chính là nội dung sẽ được làm rõ trong đề tài: “Nghiên cứu vai trò kinh
tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay”.
Với năng lực và trình độ có hạn tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của thầy cô và các bạn sinh viên để đề án được hoàn thành một cách tốt
đẹp, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
Việt Nam.
A - đặt vấn đề
“ Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” là đề tài nghiên cứu sự kết hợp hài hoà
tương hỗ lẫn nhau giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”. Hay nói một
cách khác là nghiên cứu sự kết hợp giữa sự quản lý của nhà nước và cơ chế thị
trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất đồng
thời hạn chế và khắc phục được những khuyết tật của thị trường một cách có hiệu
quả nhất.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, trong kinh tế thị trường, sự can thiệp của
nhà nước vào kinh tế đã hạn chế được những khuyết tật của thị trường, tạo lập
các cân đối vĩ mô, ngăn ngừa những đột biến xấu. Nhà nước tạo điều kiện và môi
trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều tiết các quan hệ kinh tế thông
qua chính sách kinh tế vĩ mô, phân bổ các nguồn lực, quản lý tài sản quốc gia
nhằm bảo đảm phát triển các tài sản đó, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội, hạn chế bất công, bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập, tham gia sản xuất kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu của các cơ sở kinh
tế nhà nước để tác động vào thị trường bảo đảm định hướng chính trị phù hợp với
mục tiêu phát triển của mỗi đất nước.
Vì vậy tìm ra nghệ thuật quản lý kinh tế của nhà nước đối với nước ta hiện
nay xuyên suốt từ định hướng chiến lược hệ thống luật pháp đến các công đoạn
trong kế hoạch hành động từ vĩ mô đến vi mô là nội dung xin được nghiên cứu
xem xét trong đề án kinh tế chính trị này. Với các mục chính như sau:
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước .
II - Tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối
với nền kinh tế.
III - Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước
IV - Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế
của nhà nước.
B - Giải quyết vấn đề
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước.
1 - Các lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước
a - Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin:
Chủ nghĩa Mác - Lê nin với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử đã chứng minh một cách khoa học rằng nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài
người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước luôn luôn vận động
phát triển tồn tại và cũng sẽ tiêu vong khi những tiêu vong khi những điều kiện
khách quan cho sự tồn tại và phát triển của nó không còn nữa. Quan điểm duy vật
lịch sử chứng tỏ rằng chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu
tiên trong lịch sử nhân loại. Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà
nước. Xã hội tổ chức thành các thị tộc, nhiều thị tộc hợp lại thành bào tộc nhiều
bào tộc hợp lại thành bộ lạc. Quyền lực là quyền lực xã hội, không có quyền lực
đặc biệt không mang tính cưỡng chế tổ chức xã hội rất đơn giản trong thị tộc có
hội đồng thị tộc trong bào tộc có hội đồng bào tộc, trong bộ lạc có hội đồng bộ
lạc. Dần dần năng suất lao động tăng lên, lực lượng sản xuất phát triển cộng với
ba lần phân công lao động: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp tách
khỏi nông nghiệp, làm xuất hiện ngành thương nghiệp chế độ tư hữu về tài sản
dẫn đến có sự phân chia giai cấp là chủ nô và nô lệ. Lúc này chế độ thị tộc không
còn phù hợp nữa xã hội đòi hỏi có một tổ chức khác có khả năng giải quyết các
xung đột và mâu thuẫn đó chính là nhà nước. Vậy nhà nước theo Mác - Lênin “ là
một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý nhằm duy trì trật tự chung bảo vệ địa
vị thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp”.
b - Lý luận của trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Bằng phương pháp trừu tượng hoá kinh tế chính trị học trường phái cổ điển
đã xâm nhập vào sâu bên trong các hiện tượng và quá trình kinh tế. Trường phái
kinh tế chính trị học cổ điển thừa nhận sự tồn tại của các qui luật kinh tế khách quan
không phụ thuộc vào ý chí con người. Những qui luật đó có khả năng đảm bảo sự cân
bằng tự nhiên trong hệ thống kinh tế.Vì vậy trường phái cổ điển tán thành hạn chế
bằng mọi cách sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Và tiếp theo đó vào những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng giống như trường phái cổ điển các nhà kinh tế
học trường phái tân cổ điển ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà
nước vào kinh tế. Họ tin tưởng chắc chắn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm
bảo thăng bằng cung cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển.
Như vậy có thể nói rằng trong lý luận của trường phái cổ điển và tân cổ
điển họ phủ nhận sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Họ cho rằng nhà nước
không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mà bản thân các qui luật kinh tế
có thể tự điều tiết và đưa đến sự cân bằng.
c - Lý luận của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước:
Theo Keynes để đảm bảo cho sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và
khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà cần phải có
sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế để tăng “cầu có hiệu quả” kích thích tiêu
dùng sản xuất, kích thích đầu tư cơ bản đảm bảo việc làm và tăng thu nhập. Vì
vậy ông đề nghị nhà nước phải duy trì cầu đầu tư. Muốn vậy phải sử dụng nguồn
ngân sách của nhà nước để kích cầu đầu tư của tư nhân và nhà nước. Ông chủ
trương thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước, hệ thống mua của nhà nước, trợ
cấp về tài chính, tín dụng do ngân sách Nhà nước, đảm bảo để tạo sự ổn định về
lợi nhuận và đầu tư cho tư bản độc quyền.
Để kích thích đầu tư cần phải xây dựng lòng tin và lạc quan của doanh
nhân, phải có các biện pháp tăng cường lợi nhuận và giảm lãi suất. Muốn vậy
phải tăng cường đưa tiền vào lưu thông, thực hiện “lạm phát có mức độ”. Ông
cho rằng “lạm phát có mức độ” sẽ kích thích tính tích cực hoạt động của tư bản
độc quyền, tăng hiệu quả giới hạn của tư bản. Đó là biện pháp có hiệu quả để
kích thích tình hình thị trường và không có gì nguy hiểm. Từ đó ông đề nghị thực
hiện “lạm phát có điều tiết”.
Để bù đắp cho sự thâm hụt ngân sách nhà nước, Keynes đề nghị phải in
thêm tiền giấy. Ông cho rằng làm như vậy sẽ duy trì được tình hình thị trường
trong thời kỳ sản xuất và việc làm giảm sút.
Ông đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công trái nhà nước. Nhờ
đó mà bổ sung ngân sách, tác động tích cực đến cục diện thị trường điều tiết việc
làm.
Có thể nói rằng Keynes đánh giá cao vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước
và xem nhẹ cơ chế tự điều tiết của thị trường. Theo ông khủng hoảng và thất
nghiệp là do chính sách lỗi thời không can thiệp của nhà nước do tự do kinh tế
gây ra, muốn có cân bằng kinh tế nhà nước phải can thiệp kinh tế thực hiện điều
chỉnh kinh tế .
2 - Vai trò kinh tế của nhà nước nói chung trong lịch sử.
Lịch sử đã chứng minh vai trò kinh tế nhà nước được phôi thai ngay từ buổi
ban đầu, khi nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện.
Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên
trong lịch sử đã dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải
sản xuất ra. Nhà nước chủ nô trong thời kỳ này là nhà nước của giai cấp chủ nô
do đó vai trò chính của nó là quản lý xã hội phục vụ lợi ích của giai cấp chủ nô
bằng các thủ đoạn bạo lực chiếm đoạt và cưỡng bức kinh tế đối với giai cấp nô lệ.
Chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự xâm lăng của các bộ lạc khác.
Trong xã hội phong kiến, nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp phong
kiến bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong xã hội phong kiến nhà nước
phong kiến can thiệp vào tất cả các quá trình kinh tế từ việc phân phối của cải vật
chất cho đến việc phát triển kinh tế. Nền kinh tế phong kiến là nền kinh tế nông
nhghiệp thô sơ và lạc hậu hoạt động dưới sự điều khiển của nhà nước phong kiến
thông qua các chính sách ruộng đất.
Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa nhà nước tư sản ra đời can thiệp vào nền
kinh tế với vai trò như “bà đẻ” của nền kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ
ngoại thương làm cho nền kinh tế thị trường phát triển mạnh nâng cao tích luỹ và
tiền của cho giai cấp tư sản.
Trong thời kỳ XHCN nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời trực tiếp quản lý
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thông qua các kế hoạch, chỉ
tiêu pháp lệnh. Phát triển nền kinh tế theo xu hướng kế hoạch hoá tập trung.
Quan tâm đến lợi ích xã hội và đời sống đại đa số nhân dân.
II - Tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với
nền kinh tế ở Việt Nam.
1 - Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta :
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ
nghĩa đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình
thức sở hữu công cộng về TLSX. Với sự nỗ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận
tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được
những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ
kế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan
trọng về đất đai tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù
hợp. Nó đã tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội.
Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nước
huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Nhưng sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế
xã hội đã thay đổi. Các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, vì vậy việc áp dụng
cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện nhiều
hiện tượng tiêu cực. Đến cuối những năm 80 giá cả leo thang khủng hoảng kinh
tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một
số địa phương nạn đói đang rình rập.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như vậy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
nước ta là một tất yếu khách quan phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.
a - Về mặt lý luận
Chúng ta thấy rằng đổi mới cơ chế quản lý là phù hợp với các qui luật kinh
tế và các quan hệ kinh tế mới nảy sinh. Một khi mà các quan hệ kinh tế mới xuất
hiện các nhu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng nâng cao,
các nhân tố của thị trường đã hình thành và phát triển thông suốt và vươn tới các
thị trường quốc tế thì việc không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế cũ kế
hoạch hoá tập trung - là một điều phi khoa học. mặt khác xem xét về mối quan hệ
kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị
trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước
ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế
thị trường thế giới. Xem xét về xu hướng chung phát triển kinh tế htế giới. Ta
thấy sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà
nhập quốc tế. Vậy đổi mới cơ chế kinh tế là điều đúng đắn về mặt lý luận.
b - Về mặt thực tiễn:
Thực trạng nước ta trước những năm 1986 cho thấy với cơ chế quản lý kinh
tế kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế nước ta đang lâm vào tình trạng bế tắc, tài
nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả sự
tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách
bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ cho tiêu dùng, tích luỹ
hàng năm hầu như không có. Mà nguyên nhân sâu xa của sự suy thoái kinh tế đó
là do ta rập khuôn mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung không còn thích hợp
nữa vả lại còn chứa đựng nhiều nhược điểm kìm hãm sự phát triển kinh tế đó là:
Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ
thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống không phù hợp với
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về
mặt vật chất đối với quyết định của mình. Các đơn vị cơ sở vừa không có quyền
tự chủ vừa không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh.
Chưa chú ý đầy đủ đến quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế dẫn tới cách
quản lý kinh tế và kế hoạch hàng hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản
phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức,
không ràng buộc trách nhiệm và lợi ích vật chất đối với hiệu quả sử dụng tiền vốn
tài sản vật tư lao động tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng
lao động.
Cơ chế đó đẻ ra bộ máy quản lý rất công kềnh, có nhiều cấp trung gian và
kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý không theo
nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
2 - Quá trình chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới
Trước sự cần thiết phải đổi mới như trên tại Đại hội VI với tinh thần “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật nói rõ sự thật” Đảng và nhà nước Việt
Nam đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh
doanh XHCN. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá
nền kinh tế quốc dân đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh
tế phải so sánh chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng. Phải vận dụng tổng hợp
các quy luật kinh tế cơ chế cơ bản cùng với các qui luật đặc thù khác của chủ
nghĩa xã hội. Nền kinh tế phải được quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ
yếu. Và kết quả từ khi đổi mới tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần dần
được cải thiện sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy lòng tin
của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên. Tình hình lương thực thực phẩm có
chuyển biến tốt từ chỗ thiéu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn
tấn gạo thì nay đã vươn lên đáp ứng được nhu cầu trong nước có dự trữ và xuất
khẩu. Hàng hoá trên thị trường nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu
thông tườn đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn trước
về qui mô, hình thức và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 493 triệu rúp và 384 triệu đô la năm
1986 lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đo la năm 1990. Đã giảm được khá lớn mức
độ nhập siêu so với trước đây. Phát huy những thành tựu đó đến Đại Hội VII
Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình
thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước” mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở
hữu và thu nhập hợp pháp. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hứu
đều tự chủ kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Kết quả qua 10 năm đổi mới (1986 -1996) nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội. Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực. Nó chẳng những
không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển
đất nước theo con đường XHCN. Do đó trong phương hướng nhiệm vụ kế hoạch
phát triển kinh tế tại Đại hội VIII tiếp tục khẳng định “Từ nay đến năm 2000 tiếp
tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu
bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN”.
3 - Cơ chế thị trường và những ưu khuyết của nó:
a - Cơ chế thị trường:
- Khái niệm: Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá
do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết 3 vấn
đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì như thế nào và cho ai.
b - Ưu khuyết của cơ chế thị trường:
- Ưu điểm:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều
kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ, Do đó làm cho nền kinh tế phát
triển năng động huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế.
Cơ chế thị trường với cạnh tranh tự do buộc những người sản xuất phải
giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng
kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
Cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu
của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn hàng vạn loại sản phẩm khác
nhau. Những nhiệm vụ này nếu nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng
công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc
ra các quyết định.
Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn nhà nước và có khả năng thích nghi cao
hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với
nhu cầu xã hội.
Như vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế. Cần sản xuất loại hàng hoà gì với khối lượng bao nhiêu do người tiêu
dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này mà không cần mua hàng
hoá kia. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi
nhuận cao do đó mà đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sản xuất bằng phương
thức nào, bằng công nghệ nào được quyết định bởi cạnh tranh giữa những người
sản xuất hàng hoá. Cách dùng duy nhất để các doanh nghiệp có thể cạnh tranh
được về giá cả và đạt được lợi nhuận tối đa cho mình là giảm chi phí đến mức tối
thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Hệ thống giá cả là
tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai hay
là sản phẩm sản xuất ra được phân phối như thế nào, một phần được quyết định
bởi quan hệ cung cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất.
- Khuyết tật:
Sự phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ
chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị
trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo mà nó vốn có những khuyết tật
đặc biệt về mặt xã hội. Cụ thể đó là:
Do mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vậy họ
có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con
người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được bảo
đảm.
Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng
không thể đạt được.
Cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo
đức tình người vì cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính không xét đến các
khía cạnh đạo đức tình người:
Cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm khủng hoảng
kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng nền kinh tế hiện đại đứng trước
một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại
có lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ.
4 - Vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế
Qua phân tích trên ta thấy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp tự
động được hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến
lợi ích chung của cả xã hội đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng năng suất lao
động và tăng hiệu quả tăng sản xuất. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là
một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng rất
nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải. Vì vậy để khắc phục hạn chế những tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường cần thiết phải có sự can thiệp của Chính phủ
vào nền kinh tế tạo ra cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong cơ chế
thị trường đó nhà nước đóng vai trò là người định hướng thị trường, tạo điều kiện
và môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều tiết các quan hệ kinh tế
thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, phân bổ các nguồn lực, quản lý tài sản
quốc gia nhằm đảm bảo phát triển các tài sản đó. Giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, hạn chế bất công bất bình đẳng trong
phân phối và thu nhập. Tham gia sản xuất kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu
của các cơ sở kinh tế nhà nước để tác động vào thị trường bảo đảm định hướng
chính trị phù hợp với mục tiêu phát triển của mỗi nước. Đặc biệt là đối với nước
ta thị trường đang được hình thành thì cùng một lúc nhà nước phải đảm nhận hai
vai trò lớn đó là vừa tạo lập thị trường vừa phải điều tiết sự vận động của cơ chế
thị trường. Vậy vai tròquản lý vĩ mô nền kinh tế của nước ta trong nền kinh tế thị
trường được thể hiện ở những điểm sau:
Một là: Nhà nước phải xây dựng các chương trình kế haọch phát triển phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền tự do
lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, nhà nước không can thiệp vào quyết
định của họ về sản xuất cái gì ? bằng cách nào ? Tiêu thụ ở đâu ? Trong việc lựa
chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình
làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ.
Chính vì vậy đã dẫn đến sự triệt tiêu các nguồn lực kinh tế làm cho môi trường
kinh doanh bị phá huỷ và nền kinh tế không thể nào phát triển. Để khắc phục tình
trạng này nhà nước cần phải định hướng cho sự phát triển kinh tế hay thực chất là
nhà nước thống nhất các lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi lợi ích
cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình vào việc theo đuổi lợi ích
dân tộc. Để làm được điều này nhà nước phải là người hoạch định các chương
trình phát triển kinh tế xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội mở rộng đầu tư
phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp. Chỉ có con đường hoạch định chiến
lược phát triển kinh tế nước ngoài mới có thể dẫn dắt các doanh nghiệp, chỉ cho
họ thấy chỗ nào là có thể và cần phải đầu tư vào nơi nào là lợi cho mình đồng
thời cho dân tộc. Bằng việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội
nhà nước có thể thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo
vùng lãnh thổ khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đưa thị trường trong
nước hoà nhập vào thị trường thế giới làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng
ổn định vững chắc công bằng và có hiệu quả.
Hai là: Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành
phần phát triển.
Mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều
kiện kinh tế - xã hội cần và đủ. Thực tiễn cho thấy rằng - Con đường lịch sử tự
nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài. Ngày nay khi
kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận các nước đi sau có thể rút
ngắn chặng đường phát triển của mình chỉ bằng cách: nhà nước chủ động sử dụng
kiến trúc thượng tầng. Quyền lực nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để
hoàn thành vai trò đó nhà nước cần phải:
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền
kinh tế.
Qui định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường
ổn định về chính trị và xã hội
Ba là: Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng hiệu quả tạo ra
động lực của sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng mở rộng sự hoạt động của các
qui luật càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân
cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ dưới quyền lực kinh tế và
quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ
dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị xã hội, mâu thuẫn gay
gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn tới sự đe doạ ổn định về mặt chính trị,
tạo môi trường xã hội lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước phải
hoàn thành chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân
cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cài về năng lực sở
trường trình độ tay nghề và may mắn dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập. Nhà
nước cần phải biết lựa chọn phương án phân phối lại như thế nào đó cho các hoạt
động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép.
Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập cần thiết phải xây
dựng lại hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của lớp người giàu có.
Đồng thời cần giúp đỡ những người nghèo có cơ hội trở thành giầu có. Nhà nước
cần phải giúp đỡ tạo công ăn việc làm, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, trình
độ nghiệp vụ, cho vay vốn ban đầu với cế độ ưu đãi thích đáng. Đồng thời cần
phải hình thành các quĩ trợ cấp bảo hiểm từ nguòn vốn ngân sách và tư nguồn
vốn huy động của dân để giúp cho những người tạm thời thất nghiệp những
người già yếu...
Phân phối lại thu nhập, hình thành các quĩ trợ cấp là một trong những công
cụ có hiệu lực nhất để định hướng xã hội chủ nghiã của một nền kinh tế. Thể hiện
tính cộng đồng dân tộc trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Bốn là: Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết. Định hướng tạo môi
trường, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của nhà
nước trong mọt chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện các chiến lược đó
dưới ảnh hưởng cả cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nôị địa đống thời dưới
ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra các “cú sốc” làm chệch mục tiêu là
điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó nhà nước cần phải sử dụng những
công cụ như lãi suất, thuế khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm
những chấn động do cú sôcs gây ra đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
Năm là: Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý.
Nhà nước phải là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về
kinh tế trong cương vị quốc gia. Về mặt đối ngoại nhà nước có trách nhiệm bảo
vệ các nguồn lực ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng trời và vùng
biển. Về mặt đối nội nhà nước là chủ sở hữu các nguồn lực này phân bố sử dụng
giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.
Đồng thời nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, nhà nước quản lý trực tiếp
và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của
thể chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất nước. Nhà nước là người trọng tài,
là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế không
làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội.
Tóm lại có thể nói rằng mọi quốc gia dù kinh tế có phát triển thành công
hay suy thoái đình trệ, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tìm thấy nguyên
nhân chủ yếu ở vai trò quản lý của nhà nước. Vì thế chuyển sang cơ chế thị
trường chỉ là điều kiện cần còn điều kiện đủ phải là vai trò quản lý của nhà
nước. Đó là nhân tố vô cùng quan trọng và cần thiết mà không quốc gia nào có
thể bỏ qua.
5 - Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng bởi lý
tưởng của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy nền kinh tế đó mang các đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội. Cụ thể là:
- Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với việc giải quyết những vấn đề xã hội.
Để phát triển kinh tế chúng ta không chỉ quan tâm đến vấn đề sản xuất mà
vấn đề xã hội là một trong những vấn đề day dứt hàng ngày của toàn xã hội. Vì
vậy phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội , xã hội với kinh tế. Mục tiêu của
Đảng và nhà nước không chỉ là ổn định chính trị, xây dựng cơ sở vật chất cơ sở
kỹ thuật, phát triển sản xuất mà còn giải quyết các vấn đề xã hội từ công ăn việc
làm đến đời sống văn hoá, xây dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành
mạnh, công bằng xã hội.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hoá,
nhưng chỗ khác nhau là sự cân bằng giữa kinh tế xã hội, con người và quan hệ
con người với con người, quan hệ phân phối, thiết chế chính trị cả hai đều sử
dụng cạnh tranh làm động lực phát triển nhưng dưới chủ nghĩa tư bản không thể
tránh khỏi qui luật cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng bất công. Chúng ta chấp nhận
thị trường là chấp nhận cạnh tranh đua tranh nhưng sẽ không dã man, tăng trưởng
kinh tế đi đối với xoá đói giảm nghèo, sự gia tăng về mức sống những giữ gìn
đạo đức bản sắc văn hoá dân tộc.
- Phát triển kinh tế Việt Nam phải là phát triển bền vững:
Kinh tế thị trường có thể nhanh chónh tăng trưởng và đạt đến đỉnh cao
những cũng rất dễ dẫn đến suy thoái và khủng hoảng do đó mục tiêu phát triển
kinh tế của chúng ta phải là phát triển bền vững.
- Tốc độ phát triển kinh tế phải cao:
Phải ổn định và phát triển sản xuất, nâng dần nhịp độ tăng trưởng và hiệu
quả kinh tế xã hội. Ưu tiên phát triển những ngành trọng điểm những địa bàn và
những cơ sở sớm đưa lại hiệu quả cao. Đẩy mạnh xuất khẩu, hợp tác nước ngoài.
- Kinh tế nước ta là kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo.
Do đặc điểm lịch sử và sự phát triển kinh tế ở nước ta cả chủ quan lẫn khách
quan đều có sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất, có sự tư hữu khác
nhau trong nền kinh tế. Vì vậy dẫn đến quan hệ sản xuất để phù hợp với nó phải
là những quan hệ sản xuất không giống nhau. Điều này chính là cơ sở để hình
thành nên các thành phần kinh tế khác nhau. Do đó đặc trưng của kinh tế nước ta
là kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo để có thể tác động được đến hoạt
động của toàn nền kinh tế và các lĩnh vực cần thiết mà các thành phần kinh tế
khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lãi hoạc lãi ít.
Muốn vậy kinh tế quốc doanh phải mạnh phải nắm giữ một số ngành và lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế.
- Phát triển kinh tế cần phải có vai trò quản lý của nhà nước. Nền kinh tế thị
trường không làm giảm nhẹ vai trò của nhà nước mà vấn đề đặt ralà phương thức
quản lý của nhà nước như thế nào để vận dụng đầy đủ các qui luật và yêu cầu
khách quan của bản thân nền kinh tế thị trường nhưng lại phải đảm bảo hướng
XHCN không để cho nền kinh tế thị trường vận động tự phát đi theo con đường
tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là tự do làm giàu trong khuôn khổ luật pháp, bình đẳng
trong cạnh tranh (không độc quyền, không đẳng cấp, không ngăn cách) năng
động trên thị trường để tiêu thụ nhanh (số lượng, mặt hàng, chất lượng giá cả...)
để tìm lợi thế tối đa và thị trường tự nó cũng đẻ ta nhiều bệnh tật (đầu cơ buôn
lậu, tham nhũng, trốn thuế). Nhưng không có nền kinh tế thị trường và không có
chế độ kinh tế nào tự do tuyệt đối mà đều có sự quản lý cuả nhà nước.
- Kinh tế nước ta phải hoà nhập với kinh tế thể giới:
Mở cửa nền kinh tế là một trong những thành tựu quan trọng trong đỏi mới
cơ chế quản lý kinh tế. Thời gian qua chúng ta đã có những thay đổi có ý nghĩa
trong xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư nước ngoài.
Đối với xuất nhập khẩu chúng ta đã tự do hoá thương mại giảm bớt một số
thủ tục nhập khẩu không cần thiết.
Mở rộng thị trường xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. áp dụng việc tự
do trao đổi ngoại tệ tại các thị trường ngoại hối cũng góp phần đẩy mạnh xuất
nhập khẩu.
Đối với đầu tư hợp tác nước ngoài: Việc công bố luật đầu tư nước ngoài và
thành lập một số khu chế xuất với nhiều điều khoản ưu đãi thể hiện tư duy phát
huy lợi thế so sánh của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới với
nhiều công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý quí báu của nước ngoài góp
phần giảm bớt sự căng thẳng về vốn trong nước.
III - Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước:
1 - Mục tiêu:
Xuất phát từ khả năng thực tế và yêu cầu bức bách của cuộc sống, của thời
đại nhằm nâng cao mọi mặt đời ssống các tầng lớp dân cư, thay đổi bộ mặt đất
nước tạo thế vững vàng cho nước ta tham gia cạnh tranh và hợp tác trong tiến
trình hội nhập cộng đồng quốc tế. Đại hội VIII của Đảng ta đề ra các mục tiêu
kinh tế xã hội trong giai đoạn tới như sau:
Một là: Thực hiện đồng thời 3 mục tiêu về kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp
hoá với nhịp độ tăng trưởng cao bền vững và có hiệu quả, ổn định vững chắc kinh
tế vĩ mô, chuẩn bị các tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000. Chủ yếu
là phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể
chế.
Hai là: Tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài, chính sách kinh tế nhiều thành
phần, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời hoàn
thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Ba là: Kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, tập trung
giải quyết những vấn đề bức xúc với phát triển xã hội, tập trung giải quyết những
vấn đề bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ về thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội.
Bốn là: Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an ninh nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục vụ quốc
phòng an ninh.
Năm là: Kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác
tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển phát huy lợi thế của mỗi vùng tránh
chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng.
Tóm lại, có thể nói rằng mục tiêu lớn của chúng ta là: Tăng trưởng kinh tế
nhanh hiệu quả cao và bền vững đi đối với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã
hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích
luỹ từ nội bộ nền kinh tế tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào
đầu thế kỷ sau.
2 - Chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước:
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN nhà nước ở nước ta
có các chức năng quản lý vĩ mô sau đây:
Một là: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế. Bằng
cách đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội thiét quán để tạo môi trường ổn định và
thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn và có hiệu quả. Cụ thể:
Đối với việc bảo đảm sự ổn định chính trị xã hội:
Nhà nước cần phải duy trì thể chế chính trị ổn định sẽ thu hút được nhiều sự
đầu tư của các nhà đầu tư trên thế giới bởi vì chính tị xã hội ổn định giúp các nhà
đầu tư yên tâm, sản xuất kinh doanh và họ cảm thấy nguồn đem đầu tư của mình
được bảo đảm an toàn và chắc chắn hơn.
Để làm được điều đó, nhà nước cần phải tuân theo thể chế chính trị phù hợp
với đại đa số quần chúng nhân dân bảo vệ lợi ích của nhân dân. Đó là thế chế
chính trị xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải có nền an ninh quốc phòng có lực
lượng quân đội vững mạnh.
Giữ vững ổn định chính trị là điều kiện rất cần thiết để phát triển kinh tế đặc
biệt là trong giai đoạn chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường. Khi các mối quan
hệ không còn chỉ bó hẹp ở trong nước mà lan rộng ra khắp các nước trên thế giới
nền kinh tế của nước liên quan chặt chẽ đến nhiều nước thì chỉ một chút bất ổn về
chính trị cũng có thể làm giảm sút đầu tư, ảnh hưởng trầm trọng đến các quan hệ
kinh tế từ đó là cho nền kinh tế trở nên bất ổn.
Đối với việc thiết lập khuôn khổ luật pháp:
Nhà nước đặt ra khung pháp luật thống nhất đảm bảo tính dân chủ bình
đẳng để mọi công dân mọi doanh nghiệp có thể tham gia vào các hoạt động thị
trường mà không bị ai ngăn cản. Hệ thống pháp luật chỉ là công cụ hướng dẫn các
chủ thể kinh tế được làm gì và không được làm gì và làm như thế nào thì đúng
làm như thế nào thì sai chứ không ép buộc và qui định các chủ thể kinh tế phải
làm như thế này không được làm thế kia. Hệ thống pháp luật chỉ là để tạo hành
lang có trật tự cho các chủ thể kinh doanh hoạt động. Đẻ làm được điều này nhà
nước cần phải xây dựng môi trường pháp lý hoàn chỉnh và thuận lợi cho sản xuất
- kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Một khuôn khổ pháp
luật đồng bộ và ổn định sẽ tạo hành lang cho phép các doanh nghiệp tiến hành
cạnh tranh một cách lành mạnh và bảo đảm thực hiện tốt các hoạt động hợp tác
liên kết . Đồng thời một hệ thống pháp luật đầy đủ hoàn thiện được thực thi
nghiêm minh sẽ khắc phục được tình trạng buôn lậu trốn thuế làm hàng giả. Có
thể nói nguyên nhân chính của tình trạng cạnh tranh lộn xộn trên thương trường
hiện nay là lỗi ở hệ thống luật pháp của chúng ta chưa kịp chuyển đổi để phù hợp
với yêu cầu kinh tế thị trường, còn thiếu quá nhiều luật và các điềukhoản không
chặt chẽ.
Hai là: Nhà nước phải định hướng sự phát triển trực tiếp đầu tư vào một số
lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn
định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng ngăn
ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
Cơ chế thị trường hoạt động là vì lợi nhuận lấy lợi nhuận làm thước đo cho
sự phát triển do đó nhiều khi các mục tiêu xã hội không thể thực hiện được vì vậy
cần thiết phải định hướng cho sự phát triển. Phát triển kinh tế theo con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người
vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã
hội.
Để thực hiện được mục tiêu đó thì nhà nước cần phải trực tiếp đầu tư vào
một số lĩnh vực trọng điểm và then chốt của nền kinh tế dẫn dắt nền kinh tế phát
triển định hướng xã hội chủ nghĩa nhờ một hệ thống các doanh nghiệp nhà nước
nòng cốt trong nền kinh tế.
Cơ chế thị trường luôn thể hiện tính 2 mặt: Một mặt là khuyết tật như khủng
hoảng kinh tế, lãng phí tài nguyên, phân hoá giàu nghèo bất hợp lý đầu cơ, tham
nhũng buôn lậu... do đó chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước trong lĩnh vực này
là rất quan trọng.
Nếu nhà nước buông lỏng cho thị trường vận động thì tác động đó xảy ra rất
rõ, thực tế ở Đức những năm 20 đã xảy ra siêu lạm phát, ở Mỹ những năm 30 đã
xảy ra đại suy thoái. Những kinh nghiệm đó giúp chúng ta nhận ra một điều bôt
ích rằng nhà nước cần phải tìm mọi cách để kiểm soát và ngăn chặn những thăng
trầm của chu kỳ kinh doanh, ngăn chặn đình trệ, khủng hoảng, lạm phát và thất
nghiệp trong nền kinh tế. Con đường để thực hiện điều này đã được nhà kinh tế
học vĩ đại Keynes vạch ra rõ đó là 2 chính sách tài chính và tiền tệ hữu hiệu mà
nhà nước đang sử dụng và phát huy sức mạnh hơn nữa.
Ba là: Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát
triển kinh tế.
Xây dựng cơ sở hạ tầng là những ngành những lĩnh vực mà tư nhân, doanh
nghiệp không muốn hoặc không đủ khả năng và uy tín để đảm nhận nhưng lại là
cơ sở kinh tế cần thiết cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế đảm
bảo cho nhà nước thực hiện tốt chính sách kinh tế - xã hội văn hoá - môi trường
tốt. Vì vậy, nhà nước cần phải chú trọng đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng này.
Bốn là: quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh
tế - xã hội. Thực hiện đúng chức năng quan rlý nhà nước về kinh tế và chức năng
chủ sở hữu tài sản công của nhà nước. Các Bộ và các cấp chính quyền không can
thiệp vào chức năng hoạt động kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Nhà nước là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh
tế trong cương vị quốc gia. Do đó nhà nước có trách nhiệm bảo vệ các quyền lực
của xã hội, quản lý các tài sản công, Mặt khác nhà nước là người chủ quản lý đất
nước, là người trọng tài do đó nhà nước có chức năng kiểm tra, kiểm soát toàn bộ
hoạt động kinh tế xã hội nhằm ngăn chặn tình trạng tham ô, tham nhũng làm thất
thoát tài sản công.
Năm là: Khắc phục hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường phân
phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn
với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
Thông qua chính sách công cụ nhà nước giảm đến mức thấp nhất mặt tiêu
cực và hậu quả kinh tế xã hội do cạnh tranh gây ra nhằm đảm bảo phúc lợi công
cộng như công bằng xã hội bảo vệ môi sinh, môi trường.
IV - Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với
nền kinh tế:
Về phía nền kinh tế chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp lớn sau:
1 - Đối với hệ thống pháp luật:
Nhà nước pháp quyền trước tiên phải được thể hiện ở những bộ luật đồng
bộ, đầy đủ và khoa học sau đó là việc thực hiện pháp luật trên thực tế một cách
nghiêm minh bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn cho mọi công dân trước pháp luật.
Kinh tế thị trường gắn liến với nhà nước pháp quyền và nhà nước sẽ quản lý
chủ yếu bằng pháp luật. Kinh tế thị trường lành mạnh chỉ có thể hoạt động trong
khuôn khổ luật pháp. Đây là công cụ cực lỳ quan trọng tạo nên hành lang năng
động và có trật tự cho các chủ thể kinh doanh. Theo hướng đó nhà nước cần phải
dày công tạo dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, chống đặc quyền hành chính bình đẳng
giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Trước hết ban hành luật kinh doanh chuyển
từ nguyên tắc “xin phép” sang nguyên tắc “được làm cái mà luật không cấm”.
Theo từng nấc thang của kinh tế thị trường mà có thể chế hoá các quan hệ kinh tế.
Trước mắt cần hoàn chỉnh bổ sung các luật liên quan đến tư cách pháp nhân như
bổ sung và sửa đổi luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty ban hành luật doanh
nghiệp nhà nước luật hợp tác xã, các luật liên quan đến điều kiện sản xuất kinh
doanh. Nâng pháp lệnh ngân hàng thành luật, luật đất đai, bổ sung sửa đổi luật
thuế, các luật liên quan đến hậu quả sản xuất kinh doanh như luật phá sản, thất
nghiệp hiểm kinh doanh.
Để có thể làm được việc này nhà nước cần phải thực hiện các nguyên tắc và
quan điểm sau:
a - Trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế, chúng ta phải đối mặt
với một khó khăn lớn là phải tạo lập một hệ thống pháp luật trong đó cơ chế pháp
lý của nó phản ánh đa dạng của các chủ thể kinh doanh và lợi ích kinh doanh
nhưng lại phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật đó phải giải
quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích kinh doanh và công bằng xã hội. Một mô
hình như thế chưa từng tồn tại trên thực tế, chưa kể đến quan hệ kinh tế thị trường
cũng chỉ mới bước đầu phát sinh ở nước ta và pháp luật chỉ mới bắt đầu biết đến
nó. Vì vậy việc hoàn thiện một cách nóng vội, muốn có đầy đủ ngay một hệ
thống pháp luật ban hành dưới hình thức pháp luật cao sẽ không tránh khỏi những
nhược điểm thiếu sót. Việc hoàn thiện pháp luật kinh tế phải được tiến hành từng
bước vững chắc, có chương trình, trật tự ưu tiên sau khi pháp luật được ban hành
và đưa vào điều chỉnh trong thực tế phải được ban hành và đưa vào điều chỉnh
trong thực tế thì việc sửa đổi bổ sung pháp luật là một khâu quan trọng của hoạt
động lập pháp.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới bắt đầu hình thành các quan hệ kinh tế
chưa ổn định. Vì vậy cần thiết phải sửa đổi bổ sung thường xuyên. Mặt khác đặc
biệt quan trọng là phải siết chặt kiểm tra thực hiện luật. Tiến hành thường xuyên
việc tổ chức kiểm nghiệm lại hiệu lực thi hành của các văn bản pháp luật đã ban
hành là vấn đề quan trọng nhằm giúp cho việc sửa đổi bổ sung kịp thời đáp ứng
hoạt động kinh doanh có hiệu quả hiệu lực. điều cần hết sức tránh là ở chỗ một
văn bản mới ban hành chưa thực thi thì đã có ngay một quyết định hoãn hoặc xoá
bỏ nó như thời gian qua.
b - Trong nền kinh tế thị trường quyền tự do kinh doanh là trung tâm, mục
tiêu động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Tuy nhiên tự do kinh doanh
không có nghĩ là vô chính phủ, là vô hạn mà nó được thực hiện trong sự tôn trọng
lợi ích của xã hội của nhân dân, của các chủ thể kinh doanh khác. Pháp luật
không thể là những qui định hạn chế quyền tự do kinh doanh mà phải tạo tiền đề
pháp lý cho sự ổn định các quan hệ kinh doanh làm cho mọi thành phần kinh tế,
mỗi doanh nghiệp và công dân yên tâm huy động mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm
năng kinh tế vào hoạt động kinh doanh. Vì vậy pháp luật về kinh tế phải rất rộng
về nhiều phương diện và các bộ phận pháp luật hợp thành.
c - Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội ban hành vào
ngày 21/12/1990 và có hiệu lực từ ngày 15/4/1992 nhưng cho đến nay việc thi
hành 2 luật này còn nhiều lúng túng lắm phiền hà bởi vì không một cơ quan có
trách nhiệm nào của nhà nước có văn bản hướng dẫn qui trình xét duyệt cho phép
thành lập công ty doanh nghiệp tư nhân theo luật định vậy cần nhanh chóng sửa
đổi luạt công ty và luật doanh nghiệp tư nhân trên những nguyên tắc cơ bản của
nền kinh tế thị trường. Cần nhanh chóng xây dựng và ban hành luật phá sản của
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quá trình ra đời hoạt động kinh doanh thì tất
yếu có quá trình phá sản nếu không được chấp nhận. Do đó cần phải có qui định
rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
2 - Đối với công tác kế hoạch và dự báo chiến lược phát triển kinh tế xã
hội:
Kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các qui luật
khách quan, trước hết là các qui luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị
trường để xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. Vì vậy
kế hoạch hoá là một trong những công cụ trọng yếu thực hiện chính sách kinh tế
của nhà nước hướng đến sự phát triển sản xuất để thoả mãn hơn nhu cầu vật chất
và văn hoá của nhân dân. Nhờ kế hoạch nhà nước quản lý sản xuất xã hội, điều
chỉnh sản xuất, phân phối và trao đổi của cải vật chất. Do đó để nâng cao hiệu
quả của công tác kế hoạch nhà nước cần phải.
- Vận dụng đúng đắn tổng hợp các qui luật khách quan trước hết là qui luật
kinh tế trong đó có các qui luật của thị trường. Phải phân tích thực trạng kinh tế -
xã hội của đất nước để rút ra xu hướng vận động của nó, tính toán các nguồn lực
trong thời kỳ kế hoạch. Nguồn tích luỹ vốn,vay của nước ngoài, các khoản thu
của ngân sách, trình độ quản lý và tổ chức từ đó xác định các mục tiêu và chiến
lược phát triển.
Kế hoạch kinh tế quốc dân trong những năm tới phải đảm bảo thực hiện
phương hướng sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí đúng cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư
theo các chương trình mục tiêu. Các cân đối kế hoạch được xây dựng từ cơ sở và
tổng hợp từ dưới lên với sự hướng dẫn và điều hoà của trung ương. Kết hợp chặt
chẽ kế hoạch hoá theo ngành và kế hoạch hoá trên địa bàn lãnh thổ. Với quyền tự
chủ sản xuất, kinh doanh các đơn vị kinh tế cơ sở chủ động tiếp cận nhu cầu của
thị trường, khai thác mọi khả năng để phát triển sản xuất kinh doanh nhằm thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước. Hợp đồng kinh tế giữa các đơn
vị sản xuất kinh doanh vừa là cơ sở để thực hiện kế hoạch. Cần tăng cường chế
độ hợp đồng kinh tế và bảo đảm hiệu lực của nó bằng chế độ trọng tài kinh tế nhà
nước.
Nhà nước sử dụng các đòn bẩy kinh tế cả trong kế hoạch hoá trực tiếp và kế
hoạch hoá gián tiếp để bảo đảm thực hiện những phương hướng mục tiêu của kế
hoạch kinh tế quốc dân.
Việc giao kế hoạch pháp lệnh chỉ hạn chế trong một số chỉ tiêu thật cần thiết
nhằm bảo đảm những cân đối cơ bản và những nghĩa vụ cam kết với nước ngoài. Phấn
đấu xây dựng từng bước lực lượng dự trữ của nhà nước để chủ động xử lý những
trường hợp bất thường trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Uỷ ban kế hoạch nhà nước và các cơ quan khác ở trung ương có chức năng
quản lý hành chính - kinh tế phải tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu chiến
lược kinh tế - xã hội, xây dựng kế hoạch dài hạn và trung hạn, bảo đảm các quan
hệ cân đối tổng hợp trong nền kinh tế, xây dựng chính sách và luật kinh tế.
3 - Đối với chính sách tài chính tín dụng tiền tệ và giá cả.
a - Đối với chính sách tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định biểu hiện dưới hình thức
tiền tệ, phát sinh trong quá trình phân phối để hình thành và sử dụng các quỹ tiền
tệ nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Do đó chính sách tài chính là công cụ hữu hiệu để nâng cao vai trò quản lý
của nhà nước thực hiện được mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Cho nên nhà nước cần
phải:
Nghiên cứu và ban hàng chính sách tài chính quốc gia thống nhất phù hợp
với đặc điểm nước ta, giải quyết đúng đắn việc phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân. Nhà nước cần phải định lại chế độ phân cấp quản lý thu chi ngân
sách cho hợp lý. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, tăng cường quản lý thị trường, có
chính sách khuyến khích đúng mức để tăng mạnh nguồn thu từ nội bộ nền kinh
tế, chống thất thu. Mặt khác phải căn cứ vào nguồn thu mà bố trí chi tiêu, không
chi vượt quá khả năng thu của ngân sách, triệt để tiết kiệm chi tiêu về mọi mặt.
Bằng phương thức kế hoạch hoá gián tiếp, thúc đẩy xí nghiệp phấn đấu
giảm giá thành, tăng tích luỹ cho nhà nước.
Để đảm bảo nguồn thu tài chính nhà nước phải thực hiện thu thuế theo đúng
thời giá và đối tượng không khoan nhượng đối với những đối tượng không chấp
hành hoặc cố tình không nộp đủ thuế. Xúc tiến nghiên cứu và có sự điều chỉnh
hợp lý đối với các loại thuế nông nghiệp, thuế vườn, thuế thuỷ sản thuế thu
nhập... Mau chóng củng cố tổ chức ngành thuế, loại trừ số nhân viên tiêu cực,
thực hiện hệ thống song trùng lãnh đạo.
Nhà nước thực hiện thường xuyên chế độ thanh tra tài chính xử lý nghiêm
theo pháp luật để nhanh chóng thiết lập trật tự kỷ cương về tài chính, phát động
quần chúng kiểm soát giám sát để chống tệ tham nhũng, lãng phí.
b - Đối với chính sách tín dụng:
Nhà nước cần phải chuyển mạnh chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng
phù hợp với cơ chế thị trường góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam,
kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, quản lý ngoại tệ, vàng bạc đá quí.
Tổ chức tốt hệ thống quĩ tín dụng nhân dân. Quản lý chặt chẽ hoạt động của
các ngân hàng thương mại và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Có biện pháp
đồng bộ để giảm dần lãi suất, tạo điều kiện cho đầu tư phát triển.
Có chính sách tỉ giá hối đoái và quản lý ngoại hối hợp lý thúc đẩy xuất khẩu
và điều tiết được nhập khẩu từng bước làm cho đồng Việt Nam có giá trị chuyển
đổi đầy đủ và là phương tiện lưu thông duy nhất trong nước.
Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp qui về tín dụng ngoại hối và ngân
hàng đồng thời thực thi việc kiểm tra quá trình thực hiện của các ngân hàng, áp
dụng các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo sự tôn trọng các nguyên tắc hoạt động
nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng nhà nước cấp giấy phép hoạt động và kiểm tra các tổ chức tín
dụng trong chấp hành pháp luật về tiền tệ tín dụng thanh toán ngoại hối và ngân
hàng thi hành các biện pháp an toàn nhằm đảm bảo khả năng chi trả kịp thời đầy
đủ theo yêu cầu khách hàng của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng nhà nước công bố lãi suất chiết khấu lãi xuất tối thiểu về tiền
gửi, tối đa về tiền vay cho các tổ chức tín dụng. Ngân hàng có quyền bắt buộc các
tổ chức tín dụng duy trì các dự trữ pháp định các nguồn tiền khác sẵn sàng thanh
toán các khoản tiền gửi và nợ theo qui định. Ban hành tỉ lệ dự trữ tối thiểu bắt
buộc và tỷ lệ an toàn khác tuỳ theo loại hình của tổ chức tín dụng ngân hàng nhà
nước qui định các giới hạn về các nghiệp vụ, hoa hồng lệ phí, dịch vụ...
c - Đối với chính sách tiền tệ:
Nhà nước cần có hệ thống chính sách thích hợp, thực thi một chính sách
đúng đắn điều hoà cung cầu tiền tệ theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, cải tổ hệ
thống ngân hàng hoạt động theo thông lệ của kinh tế thị trường. Ngân hàng nhà
nước quản lý về mặt tiền tệ như chính sách lãi suất, điều tiết khối lượng tiền tệ phù
hợp như bơm hút tiền vào lưu thông qua hệ thống ngân hàng thương mại để tác động
vào cung cầu, dùng lực lượng dự trữ để can thiệp khi cần thiết.
Nhà nước cần phải xem xét tuỳ theo thực trạng kinh tế và tình hình cụ thể
mà thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt hay mở rộng.
d - Đối với chính sách giá cả:
Nhà nước phải vận dụng tổng hợp nhiều qui luật trong đó qui luật giá trị có
tác động trực tiếp. Giá cả phải phù hợp với giá trị đồng thời phù hợp với sức mua
của đồng tiền và tính đến quan hệ cung cầu. Chính sách giá cả cần phải ổn định
và kích thích các cơ sở sản xuất và mọi người lao động làm ra nhiều sản phẩm
hàng hoá hạ giá thành. Không nên ổn định giá cả bằng cách giữ giá một cách
cứng nhắc, bất chấp sức mua của đồng tiền, bất chấp quan hệ cung cầu và sự biến
động của các yếu tố hình thành giá cả. Mặt khác phải có biện pháp tích cực khắc
phục từng bước tính tự phát của giá cả thị trường tự do.
Nhà nước cần phấn đấu thi hành chính sách một giá đó là kinh doanh
thương nghiệp. Cần sớm ban hành cơ chế định giá và quản lý giá đúng đắn.
4 - Chính sách lao động, việc làm, thu nhập phân phối.
a - Đối với chính sách lao động, việc làm:
Trong những năm tới cần phải tạo thêm việc làm, sử dụng lực lượng lao
động xã hội. Giải quyết công việc làm với mức cố gắng lớn nhất, thực hiện phân
bố lại lao động, gắn lao động với khai thác đất đai, phát triển ngành nghề vận
động định canh định cư, tinh giảm biên chế hành chính nhà nước nhằm phát triển
sản xuất, tăng năng suất lao động nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
Đối với lao động sản xuất, phải bằng mọi cách giải quyết việc làm cho phần
lớn số lao động mới tăng nhất là thanh niên và học sinh. Sớm ban hành luật nghĩa
vụ lao động đối với thanh niên. Theo hướng sử dụng các thành phần kinh tế ban
hành các chính sách mở đường cho người lao động tự tạo việc làm bằng mọi hình
thức với qui mô và trình độ thích hợp kể cả hình thức thuê mướn nhân công theo
đúng luật pháp nhà nước.
ở các thành phố của nước ta đang còn hàng chục vạn người lao động chưa
có việc làm, trong số đó nhiều người có trình độ văn hoá có hiểu biết kỹ thuật. Do
đó chúng ta phải phát huy thế mạnh của họ, hướng họ vào khu vực sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dịch vụ và gia công hàng xuất nhập khẩu, phát triển
kinh tế gia đình. Đồng thời gắn với qui hoạch phân bố lại lao động, đưa một bộ
phận ra ngoại thành xây dựng vành đai thực phẩm, đưa đi các vùng kinh tế mới,
tổ chức các đội lao động nghĩa vụ của thanh niên phục vụ các công trình trọng
điểm.
Số lao động tăng thêm ở nông thôn trước hết được sử dụng vào việc đẩy mạnh
thâm canh, tăng vụ, khai hoang, trồng rừng nuôi cá và phát triển ngành nghề.
b - Đối với chính sách thu nhập và phân phối.
Đối với thu nhập nhà nước cần phải tăng cường đánh thuế thu nhập luỹ tiến
đối với thu nhập của mỗi công dân. Tăng cường kiểm tra giám sát các nguồn thu
nhập của dân cư. Tránh tình trạng phân hoá giàu nghèo sâu sắc.
Đối với phân phối, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên
mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối
thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi
người lao động.
5 - Chính sách xuất nhập khẩu
a - Đối với xuất khẩu:
Nhà nước cần phải có chính sách mở rộng thị trường xuất khẩu đổi mới cơ
cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu
và tinh, giảm mạnh việc xuất khẩu hàng thô. Tạo thêm mặt hàng nhóm hàng xuất
khẩu có khối lượng và giá trị lớn. Tăng khối lượng các mặt hàng đặc sản có giá
trị. Củng cố vị trí xuất khẩu ở các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với
thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng mới giảm sự tập trung quá
mức vào một vài thị trường. Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, giảm xuất khẩu qua thị trường trung gian. Thực hiện
nhất quán các chính sách khuyến khích xuất khẩu bao gồm cả việc bảo hiểm về
giá cho hàng xuất khẩu, điều tiết tỉ giá hối đoái hợp lý có lợi cho xuất khẩu.
Xúc tiến việc tham gia diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC).
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), từng bước tham gia các hoạt động của hệ
thống toàn cầu về ưu đãi thương mại với các nước đang phát triển (GSTP), áp
dụng các chuẩn mực thương mại quốc tế và lựa chọn tham gia một số hiệp hội
xuất khẩu quốc tế về từng mặt hàng xuất khẩu.
b - Đối với nhập khẩu:
Hướng nhập khẩu là tập trung vào nguyên liệu, vật liệu các loại thiết bị
công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từng bước thay thế
nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất hiệu quả ở trong nước.
Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về nhập khẩu chủ yếu, giảm nhập
khẩu qua thị trường trung gian.
6 - Chính sách xã hội
Mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành
phần kinh tế, áp dụng bắt buộc đối với các cơ quan, các doanh nghiệp. Tổ chức
quản lý và sử dụng tốt các quĩ bảo hiểm, bảo đảm đời sống của người nghỉ hưu.
Mở rộng các quĩ làm việc nghĩa, việc thiện của nhân dân.
Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông
tin đại chúng và các phương tiện vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu đời sống văn
hoá - tinh thần của nhân dân. Chú trọng các vùng miền núi, biên giới, hải đảo và
các vùng nông thôn có nhiều khó khăn.
Tăng nhanh số lượng các sản phẩm văn hoá, văn học nghệ thuật báo chí có
chất lượng cao về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật.
Từng bước hiện đại hoá các ngành phát thanh, truyền hình điện ảnh in, xuất
bản. Nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh và truyền hình tăng công
suất phát sóng truyền thanh truyền hình. Tiếp tục thực hiện 3 chương trình quốc
gia về văn hoá thông tin: bảo tồn tôn tạo các di tích lịch sử và các di sản văn hoá
dân tộc, xây dựng đời sống văn hoá trong đó chú trọng vấn đề gia đình văn hoá,
làng bản văn hoá, nếp sống văn minh đô thị. Mở rộng giao lưu văn hoá, văn nghệ
thể dục thể thao với các dân tộc nhất là với các nước trong khu vực. Tăng cường
các biện pháp và phối hợp lực lượng của toàn xã hội, xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh, đấu tranh bền bỉ và mạnh mẽ nhằm ngăn chặn, loại trừ các văn
hoá phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội.
Cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ cho mọi người, từng bước nâng
cao thể trạng và tầm vóc, trước hết là nâng cao thể lực bà mẹ trẻ em.
Thực hiện chương trình dinh dưỡng quốc gia. Phát triển các hoạt động tình
nghĩa trong xã hội, chăm sóc tốt hơn người có công với nước gia đình thương
binh, liệt sỹ, những người khó khăn trong cuộc sống, người tàn tật, người già
không nơi nương tựa và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Tóm lại, hơn bao giờ hết chúng ta cần phải luôn luôn kết hợp chặt chẽ kinh
tế với xã hội, xã hội với kinh tế. Mục tiêu ổn định tình hình giải phóng năng lực
sản xuất không chỉ là phát triển sản xuất mà còn là giải quyết các vấn đề xã hội từ
công ăn việc làm đến đời sống vật chất và văn hoá bồi dưỡng sức dân, xây dựng các
quan hệ xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, thực hiện công bằng xã hội với ý thức
người lao động là lực lượng sản xuất lớn nhất là chủ thể của xã hội.
- Về phía nhà nước.
Để nâng cao vai trò quản lý nền kinh tế vĩ mô bản thân nhà nước cần phải
cải cách một số đặc thù xấu còn tồn tại từ trước. Cụ thể là.
1 - Cải cách nền hành chính nhà nước:
Nhà nước cần phải tiến hành công cuộc cải cách hành chính dựa trên cơ sở
pháp luật và đồng bộ trên các mặt. Cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy
và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ và công chức hành chính.
- Về cải cách thể chế hành chính: Thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục
hành chính cả về thể chế và tổ chức thực hiện loại bỏ những khâu bất hợp lí và
phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật.
Về tổ chức bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, qui chế hoạt động
của bộ máy hành chính các cấp. Làm cho bộ máy tinh gọn bảo đảm sự điều hành
tập trung, thống nhất, thông suốt có hiệu lực từ chính phủ đến chính quyền địa
phương, cơ sở đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của địa phương cơ
sở. Xác định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp chính
quyền địa phương. Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp huyện và cơ sở đủ sức
quản lý, giải quyết kịp thời đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt ra và
nhân dân đòi hỏi.
- Về đội ngũ cán bộ, công chức hành chính: Xây dựng và ban hành văn bản
pháp qui về chế độ công vụ và công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm
quyền, quyền lợi và kỷ luật công chức hành chính. Qui định các chế độ đào tạo
tuyển dụng sử dụng công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước
vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ chính trị
có tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ, công tâm, vừa có đạo đức, liêm khiết khi thừa
hành công vụ.
2 - Cải cách phương thức quản lý nền kinh tế của nhà nước:
Sức mạnh của quản lý nhà nước chính là nhờ ở phương hướng hoạt động
đúng đắn và nghệ thuật phối hợp các hoạt động toàn xã hội theo trật tự và phương
hướng đã đề ra. Quản lý theo mệnh lệnh tác động trực tiếp đến đối tượng thực
hiện. Còn quản lý vĩ mô tác động gián tiếp đến các đối tượng, gây nên phản ứng
dây chuyền và từ đó có thể gặt hái những thành quả to lớn. Nếu sử dụng các công
cụ quản lý vi mô một cách riêng lẻ như quản lý theo mệnh lệnh chẳng những kém
hiệu quả mà có thể gây nên những thiệt hại nặng nề do tác động triệt tiêu lẫn nhau
trong cả hệ thống dây chuyền. Vì vậy nhà nước cần phải tăng cường phối hợp các
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô bằng cách.
- Tổ chức một bộ phận cán bộ chuyên trách đủ mạnh để: giúp chính phủ
nghiên cứu một cách đồng bộ hệ thống mô hình cần tạo lập và lộ trình thực hiện
phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Hình thành chương trình đổi mới toàn
diện và những giải pháp thực hiện từng bước một cách nhất quán. Giám sát hoạt
động của các cơ quan chức năng của Chính phủ trong việc phối hợp các công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô: kế hoạch ngân sách, tiền tệ, lao động tiền lương, khoa học
kỹ thuật ngành và địa phương...hạn chế những mâu thuẫn trong sử dụng các công
cụ quản lý kinh tế - xã hội.
- Tăng cường điều hành hướng dẫn giảm mạnh vai trò điều hành trực tiếp có
tính chất sự vụ của thủ tướng chính phủ, tăng cường hệ thống thông tin và hình
thức phối hợp liên bộ trong điều hành vĩ mô. Cần giao cho một cơ quan có trách
nhiệm chủ trì phối hợp thực hiện đường lối chính sách và mục tiêu của nhà nước
đã xác định. Trường hợp có những ý kiến xa nhau mới trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định.
- Cần hệ thống hoá việc sử dụng các công cụ quản lý vì tác động vĩ mô là
tác động gián tiếp, gây phản ứng dây chuyền để đạt được hiệu quả tổng thể.
Không thể tách rời việc nghiên cứu cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý với nghiên
cứu cơ chế quản lý. Chỉ đạo phối hợp chặt chẽ việc sử dụng cơ cấu ngân sách gắn
với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện qui trình hợp lý trong việc
chuẩn bị ban hành các chính sách một cách có hệ thống.
c - Kết luận
Trong thời đại ngày nay việc nâng cao vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
là xu hướng khách quan đối với mọi quốc gia không phân biệt thể chế chính trị.
Ngày nay không có một nhà nước nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một
nền kinh tế thị trường nào hoạt động thuần tuý mà ở những mức độ khác nhau
đều có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước không còn được quan niệm giản đơn
là người giữ trật tự, làm trọng tài mà nhà nước nằm trong cơ cấu kinh tế, điều tiết
từ bên trong nền kinh tế. Mọi quốc gia các trường hợp kinh tế phát triển thành
công hay suy thoái, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tìm thấy nguyên
nhân chủ yếu ở vai trò kinh tế của nhà nước. Vì thế chuyển sang kinh tế thị
trường chỉ là điều kiện cần còn điều kiện đủ phải là vai trò kinh tế của nhà nước.
Do vậy việc chuyển nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước là phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu khách quan của
nền kinh tế, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, là con đường
đúng đắn nhất mà Đảng và nhà nước ta đã chọn để đưa đất nước tiến lên sánh vai
cùng cường quốc năm châu như lời Hồ Chí Minh đã dặn. Cơ chế mới với nhiều
thách thức mới do đó hơn bao giờ hết cần thiết phải có vai trò kinh tế của nhà nước
để đảm bảo cho sự phát triển là hiệu quả nhất và giữ vững được định hướng XHCN
mà chúng ta đã xây dựng bằng mồ hôi và xương máu trong suốt 2 cuộc chiến tranh
trường kỳ.
Tài liệu tham khảo
1 - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
NXB sự thật - 1987
2 - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
NXB sự thật - 1991
3 - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
NXB sự thật - 1996
4 - Kinh tế chính trị Mác - Lê nin (tập II)
NXB giáo dục - 1998
5 - Cơ chế thị trường và vai trò nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam
NXB thống kê - 1991
Chủ biên: GS.TS Lương Xuân Quỳ
6 - Kinh tế thị trường định hướng XHCN
NXB thống kê - 1991
Tác giả: PTS. Nguyễn Cúc
7 - Tạp chí kinh tế phát triển số 13/96
Bài “Vai trò nhà nước trong việc định hướng XHCN kinh tế thị
trường của nước ta”
Tác giả: Dương Thị Liễu
8 - Tạp chí nghiên cứu phát triển số 102/99
Bài “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường “
Tác giả: TS Vũ Anh Tuấn.
9 - Paul. Samuellson: Kinh tế học, tập 1 chương III
10 - Kinh tế học của D.Beed Tập 1 chương IV.
mục lục
Lời nói đầu ..................................................................................................1
A - đặt vấn đề .......................................................................................................3
B - Giải quyết vấn đề ............................................................................................4
I - Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước. ...............................................4
1 - Các lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước ..........................................4
2 - Vai trò kinh tế của nhà nước nói chung trong lịch sử. ..........................6
II - Tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của nhà
nước đối với nền kinh tế ở Việt Nam. ...................................................7
1 - Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta ..................7
2 - Quá trình chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới ....................................9
3 - Cơ chế thị trường và những ưu khuyết của nó .................................... 10
4 - Vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế ...................... 12
5 - Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ........................ 16
III - Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước ............................ 19
1 - Mục tiêu ............................................................................................... 19
2 - Chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước .............................................. 20
IV - Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà
nước đối với nền kinh tế ...................................................................... 23
1 - Đối với hệ thống pháp luật ................................................................... 23
2 - Đối với công tác kế hoạch và dự báo chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 25
3 - Đối với chính sách tài chính tín dụng tiền tệ và giá cả. ....................... 26
4 - Chính sách lao động, việc làm, thu nhập phân phối. ........................... 29
5 - Chính sách xuất nhập khẩu ................................................................. 30
6 - Chính sách xã hội ................................................................................ 31
c - Kết luận ......................................................................................................... 35
Tài liệu tham khảo ............................................................................. 36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.pdf