Tài liệu Luận văn Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, để từ đó có sự vận dụng sáng tạo và đề ra đường lối, chính sách, cũng như trong chỉ đạo thực hiện ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa
tư bản Nhà nước, để từ đó có sự vận dụng
sáng tạo và đề ra đường lối, chính sách, cũng
như trong chỉ đạo thực hiện ở Việt Nam
Lời nói đầu
Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận về chủ nghĩa tư bản
Nhà nước có ý nghĩa hết sức to lớn: Theo V.I.Lênin, đối với những nước có nền kinh
tế kém phát triển như nước Nga (thời bấy giờ), khi nền kinh tế tiểu nông còn chiếm đại
bộ phận, cơ sở vật chất kỹ thuật - nền tảng của chủ nghĩa xã hội - chưa có, trình độ
phân công xã hội hoá sản xuất chưa cao - thì việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội tất yếu
phải trải qua một loạt những bước quá độ. Lênin nói rằng: "Trong một nước tiểu nông,
trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ
nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội", "phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản
(nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước) làm mắt xích
trung gian giữa nền tiểu sản ...
29 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, để từ đó có sự vận dụng sáng tạo và đề ra đường lối, chính sách, cũng như trong chỉ đạo thực hiện ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa
tư bản Nhà nước, để từ đó có sự vận dụng
sáng tạo và đề ra đường lối, chính sách, cũng
như trong chỉ đạo thực hiện ở Việt Nam
Lời nói đầu
Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận về chủ nghĩa tư bản
Nhà nước có ý nghĩa hết sức to lớn: Theo V.I.Lênin, đối với những nước có nền kinh
tế kém phát triển như nước Nga (thời bấy giờ), khi nền kinh tế tiểu nông còn chiếm đại
bộ phận, cơ sở vật chất kỹ thuật - nền tảng của chủ nghĩa xã hội - chưa có, trình độ
phân công xã hội hoá sản xuất chưa cao - thì việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội tất yếu
phải trải qua một loạt những bước quá độ. Lênin nói rằng: "Trong một nước tiểu nông,
trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ
nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội", "phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản
(nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước) làm mắt xích
trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường,
phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên".
Thực tế ngày nay, khi công cuộc đổi mới ở nước ta được triển khai ngày càng sâu
rộng, khi những quan niệm về chủ nghĩa xã hội nói chung, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nói riêng, đã được cuộc sống chứng minh ngày càng rõ nét hơn, chúng ta
càng nhận thấy ý nghĩa thực tiễn và tầm quan trọng của chủ nghĩa tư bản Nhà nước đó
chính là "trợ thủ" là "xúc tiến chủ nghĩa xã hội".
Với điều kiện và khả năng của mình, khi thực hiện Bài viết này, em mong muốn
là góp một phần nhỏ bé những hiểu biết của mình vào vấn đề rất lớn hiện nay là:
"Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, để từ đó có sự
vận dụng sáng tạo và đề ra đường lối, chính sách, cũng như trong chỉ đạo thực
hiện ở Việt Nam".
nội dung
I-/ Lý luận của lê nin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
I.1-/ Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Khi Cách mạng tháng Mười vừa thành công thì chính quyền Xô Viết Nga phải
đương đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp vũ trang của cả chủ nghĩa đế quốc thế
giới. Đứng trước nguy cơ một mất, một còn chính quyền Xô Viết đã tìm mọi cách để
tập trung mọi lực lượng nhằm đánh bại những lực lượng thù địch bên trong và bên
ngoài. Chính sách "Cộng sản thời chiến" ra đời trong hoàn cảnh đó. Nhưng theo Lê
nin, chính sách này chỉ là biện pháp tạm thời, nó không phải và không thể là một chính
sách phù hợp với nhiệm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Thời đó Liên Xô đã mắc phải
một sai lầm nghiêm trọng khi thực hiện chính sách "Cộng sản thời chiến", làm cho nền
kinh tế nước Nga đã kiệt quệ lại càng kiệt quệ hơn. Sai lầm ở đây là đã kéo dài cái
được coi là ưu điểm ra quá giới hạn cần thiết của nó và vì thế nó trở thành khuyết
điểm. Nguyên nhân của sự kéo dài đó chính là do quan niệm ấu trĩ về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội - do chưa có kinh nghiệm thực tế của một nước đầu tiên đã mở
cuộc đột phá vĩ đại vào tương lai, công lao to lớn của Lênin chính là đã nhận ra sự ấu
trĩ đó và đã phát triển ngay lý luận của Mác khi cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giành
được thắng lợi chỉ trong một thời gian rất ngắn. Lênin đã nhận xét sai lầm ấy là "Chủ
nghĩa cộng sản ở nước ta qua vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị"1 nghĩa là
định chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua các thời kỳ mở đầu mà Lênin gọi là
"để làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa"2. Điều đặc biệt
cần lưu ý là trong phát triển kinh tế "chúng ta tuyệt nhiên không nêu ra vấn đề: nền
kinh tế sẽ có quan hệ như thế nào với thị trường, với mậu dịch"3. Nhưng đến mùa xuân
năm 1921 khi thấy rõ sự thất bại trong cái ý định dùng phương pháp "xung phong"
nghĩa là dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản
xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là cần phải rút lui
1 V.I.Lênin; toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva - 1978, tập 43, trang 445
2 V.I.Lênin, toàn tập, tiếng việt, NXB Tiến Bộ, Matxcơva - 1978, tập 43, trang 248
3 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 44 trang 248
về những vị trí của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, cần phải chuyển "xung phong" sang
"bao vây". Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu bằng "chính sách kinh tế mới" (NEP)
(được đề ra vào tháng 3-1921 trong đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Bônsêvíc -
Nga). Toàn bộ nội dung chính sách kinh tế mới có thể được khái quát thành chính sách
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, cải thiện tình cảnh của công nhân và nông dân,
sử dụng tư bản tư nhân và hướng nó vào con đường CNTBNN, ủng hộ toàn diện sáng
kiến của địa phương, đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề. Đây
chính là chính sách củng cố khối liên minh công nông - nguyên tắc cao nhất của
chuyên chính vô sản trên cơ sở những mối quan hệ mới, duy nhất, tức là những mối
quan hệ thông qua các hoạt động kinh tế. Lênin nói rõ thêm: "Việc trao đổi hàng hoá
được coi là đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới, được đặt lên hàng đầu"4.
Vậy làm thế nào để thực hiện được chủ nghĩa xã hội ở một nước mà tiểu nông
chiếm đại bộ phận dân cư ? Theo Lênin thì phải có hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất,
sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một số nước tiên tiến. Điều kiện
thứ hai là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính của mình
hoặc đang nắm chính quyền Nhà nước với đại đa số nông dân. Để thoả mãn yêu cầu
của nông dân bằng hai việc: Thứ nhất, phải có sự tự do trao đổi nhất định, thứ hai phải
kiếm ra hàng hoá và lương thực. Do đó, một trong những tư tưởng cơ bản của NEP là
thiết lập việc trao đổi hàng hoá (hay sản phẩm) một cách có hệ thống giữa công nghiệp
và nông nghiệp giữa Nhà nước với nông dân. Tư tưởng này đã được thể hiện trong một
loạt các chính sách. Mũi đột phá đầu tiên là nhằm vào quan hệ Nhà nước với nông dân,
vì nước Nga lúc đó cần tăng thêm sản xuất và thu hoạc lúa mì, tăng thêm dự trữ, vận
tải và nhiên liệu. Biện pháp được Nhà nước vô sản áp dụng đối với nông dân là xoá bỏ
chính sách trưng thu lương thực thừa và thực thi chính sách thuế lương thực. Chính
sách tự do trao đổi là nhằm kiếm ra hàng hoá căn cứ vào tâm lý người tiêu dùng. Điều
chủ yếu là phải đem lại cho người tiểu nông một sự khuyến khích, kích thích, một sự
thúc đẩy trong hoạt động kinh doanh của họ bằng một tổ chức kinh tế thích ứng với
nền kinh tế của trung nông, cụ thể là Nhà nước chỉ thu ở nông dân một số thuế nhất
định và ấn định trước số thuế đó - đó là một cách thực tế, khéo léo, khôn ngoan và
4 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 400
mềm dẻo. Nhưng từ chính sách tự do trao đổi trong nông dân và vì chính sách đó mà
xuất hiện hai vấn đề dẫn đến chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Bởi khi thực hiện tự do trao
đổi mua bán nghĩa là lùi lại chủ nghĩa tư bản, Nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận
cho CNTB được phát triển trong một chừng mực nào đó và chỉ với điều kiện là thương
nghiệp tư nhân và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết của Nhà nước. Mặt khác
trong điều kiện một nước như Nga vừa bước ra khỏi chiến tranh cơ sở vật chất kỹ thuật
bị tàn phá nặng nề không có cơ sở để phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp theo
Lênin nếu không có sự giúp đỡ của tư bản "thì không thể giải quyết được vấn đề. Theo
đó cần phải "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán
với các nước tư bản lớn, bằng chính sách tô nhượng. Tóm lại là bằng những hình thức
khác nhau của CNTBNN.
Đề xướng đó của Lênin đã làm chấn động tư tưởng của cả những đảng viên cộng
sản và mọi tầng lớp nhân dân, nhiều người đã kêu lên: "đã tống cổ bọn tư bản nước
mình đi rồi, nay lại định rước bọn tư bản nước ngoài về"5.
Phải chăng, Lênin đã bán rẻ lợi ích quốc gia dân tộc, đã phản bội cách mạng
tháng Mười: Không! Lênin đã phê phán gay gắt quan điểm cực tả đó và người chỉ ra
rằng nghệ thuận chính trị không phải ở chỗ học thuộc lòng mấy chữ "CNTB là xấu" và
"CNXH là tốt", vấn đề là phải biết sử dụng phương pháp cách mạng đúng và phù hợp
với từng thời kỳ cách mạng và xác định cho từng nhiệm vụ xây dựng CNXH như thế
nào và làm thế nào để bảo đảm được thắng lợi cuối cùng là chế độ XHCN.
Vậy chủ nghĩa tư bản Nhà nước là gì ?
ý nghĩa, vai trò và hiệu quả của việc áp dụng nó ra sao ?
I.2-/ Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
I.2.1 Nhận thức về khái niệm chủ nghĩa tư bản Nhà nước
Cho đến nay, trong giới lý luận cũng như các nhà hoạt động thực tiễn, kể cả ở
trong và ngoài nước đang có nhiều cách hiểu khác nhau và có các hình thức vận dụng
khác nhau đối với chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Ngay ở nước ta cũng có nhiều cách giải
5 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 24
thích chẳng hạn, trong các văn kiện của Đại hội VIII, Đảng ta không dùng khái niệm
"chủ nghĩa tư bản Nhà nước" mà lại dùng khái niệm "kinh tế tư bản Nhà nước"
(KTTBNN). Đây là hai khái niệm khác nhau hay là một ? Nếu khác nhau thì giữa
chúng có mối quan hệ với nhau như thế nào ?. Thực tế là hiện nay hai khái niệm này
thường được coi là một và mọi người mặc nhiên thừa nhận. Bởi vậy, đã có không ít ý
kiến cho rằng, không nên gọi là CNTBNN mà chỉ nên gọi là KTTBNN. Điều đó có
mâu thuẫn gì với khái niệm chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà Lênin nêu ra không ?
Để trả lời câu hỏi đó, nhất thiết phải trở lại những luận điểm của Lênin về chủ
nghĩa tư bản Nhà nước, lấy đó làm xuất phát điểm cho việc nghiên cứu. Vì không ai
khác, chính Lênin là người đầu tiên đưa ra khái niệm mới về chủ nghĩa tư bản Nhà
nước dưới chính quyền Xô Viết tức chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới chế độ cộng sản.
Điều này theo Lênin từ trước tới nay không có một quyển sách nào nói tới cả. Vì vậy,
ngày nay chúng ta phải tự tìm ra lời giải.
Trước hết, Lênin giải thích: "Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở trong một Nhà nước
mà chính quyền thuộc về tư bản và chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở trong một Nhà nước
vô sản đó là hai khái niệm khác nhau"6. Rõ ràng nó là thứ chủ nghĩa tư bản đặc biệt,
khác với khái niệm thông thường về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở hai điểm: Thứ nhất,
ở tính chất giai cấp của Nhà nước: "Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi khác về
căn bản so với chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở những nước có chính phủ tư sản, sự khác
biệt chính là ở chỗ Nhà nước của chúng tôi - không phải đại diện cho giai cấp tư sản
mà đại diện cho giai cấp vô sản"7. Thứ hai, sự khác biệt về tính chất xã hội của chế độ
sở hữu về tư liệu sản xuất.
ở đây, tuy Lênin dùng chung một danh từ "chủ nghĩa tư bản Nhà nước" nhưng đó
là hai khái niệm khác nhau, thể hiện bản chất của hai chế độ xã hội khác nhau. Trong
điều kiện chuyên chính tư sản, chủ nghĩa tư bản Nhà nước là hình thức biến dạng của
sở hữu tư bản chủ nghĩa, mặc dù đó là quyền sở hữu của Nhà nước, nhưng hình thức
sở hữu này không làm thay đổi bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa vì nó vẫn dựa trên cơ
sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn bản thân Nhà nước nằm trong tay các tập
đoàn tư bản độc quyền Nhà nước xuất hiện trong lịch sử theo sự vận động của quy luật
6 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 44 trang 58
tích tụ và tập trung tư bản, biểu hiện của trình độ sản xuất xã hội hoá trên thực tế cao
độ, là hình thức mới của sở hữu tư bản chủ nghĩa. Lênin còn gọi chủ nghĩa tư bản Nhà
nước dưới chế độ tư bản là "chủ nghĩa tư bản thông thường" còn chủ nghĩa tư bản Nhà
nước dưới chế độ cộng sản là "chủ nghĩa tư bản Nhà nước không thông thường, thậm
chí còn khác thường nữa". Vậy, thế nào là chủ nghĩa tư bản dưới chế độ cộng sản ?
Lênin luận giải rằng: "Hiện nay, thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước có nghĩa là thực
hiện chế độ kiểm kê và kiểm soát mà trước đây giai cấp tư bản đã thực hiện. Chúng ta
thấy nước Đức là một kiểu mẫu về chủ nghĩa tư bản Nhà nước"8 và rằng, "chủ nghĩa tư
bản Nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được
xã hội hoá, thế mà chúng ta lại thiếu chính cái đó". Lênin còn cho rằng chủ nghĩa tư
bản Nhà nước là một bước tiến liền kề với chủ nghĩa xã hội. Để hướng những người
sản xuất nhỏ như các cơ sở kinh tế tư bản tư nhân vào con đường xã hội chủ nghĩa thì
cần thiết phải phát triển các hình thức KTTBNN. Để hiểu rõ hơn về chủ nghĩa tư bản
Nhà nước ta cần phải nghiên cứu xem vai trò của nó là như thế nào?
I.2.2 Vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước
Theo Lênin thì "Dưới chính quyền Xô Viết, chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ có thể
là 3/4 chủ nghĩa xã hội - bởi vì người nào tổ chức ra những xí nghiệp Nhà nước thì ta
có thể biến người đó thành trợ thủ của mình"9. Mặt khác từ sự phân tích điều kiện thực
tế của nước Nga Xô Viết, Lênin đi đến kết luận: thứ chủ nghĩa tư bản đó là "có lợi và
cần thiết" là "điều đáng mong đợi". Lênin đã luận cứ như thế nào về cái "có lợi" này.
Trước hết, theo Lênin cần phải nhận thức rõ, thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà
nước sẽ có lợi cho ai ? khi thực hiện tô nhượng, rõ ràng là nhà tư bản thu được lợi
nhuận không phải thông thường mà "bất thường", "siêu ngạch". Nhà tư bản được "lập
lại", được "du nhập" không phải vì lợi ích củng cố chính quyền Xô Viết, mà vì lợi ích
của bản thân họ. Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự phân chia lợi ích đó thoạt
đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức "trả giá" cho sự lạc hậu, cho sự
kém cỏi của mình. Nhưng không còn cách nào khác, điều cần thiết là cần phải học.
7 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 45 trang 344
8 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 36 trang 311
9 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 36 trang 313
Phải học cách phân chia lợi ích theo quy luật ngự trị trong kinh doanh, đó là phân chia
theo sức mạnh kinh tế kỹ thuật. Phải trả giá, phải có một vài hy sinh, vấn đề là không
cần phải che giấu sự thật: phải nộp cống vật. Nhưng đối với Nhà nước vô sản thì sự
dung nạp và du nhập chủ nghĩa tư bản sẽ mang lại lợi ích cơ bản và lâu dài.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do Nhà nước vô sản điều tiết và kiểm soát có
thể đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng nhanh lực
lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát ra khỏi khủng hoảng, thoát
ra khỏi tình cảnh giảm sút "tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền Xô Viết, khắc
phục tình trạng trộm cắp của công nặng nề và nạn đầu cơ nhỏ lan tràn. Mặt khác nếu
"du nhập" được chủ nghĩa tư bản thì sẽ có thể cải thiện được nhanh chóng tình trạng
sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân, nền đại công nghiệp Xô Viết sẽ được
khôi phục. Đó là cái lợi cơ bản, cấp thiết nhất của giai cấp vô sản khi mới giành được
chính quyền.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc
phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và tư bản chủ
nghĩa. Xét về trình độ phát triển, thì chủ nghĩa tư bản nước ngoài về kinh tế cao hơn
rất nhiều so với nền kinh tế tiểu nông, nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản nước ngoài
thì chính quyền Xô Viết sẽ tăng cường được nền sản xuất, củng cố được những quan
hệ kinh tế do Nhà nước điều chỉnh. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một bước tiến lớn,
nhờ nó mà chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện
tượng lỏng lẻo, những tập quán, những thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp ấy là cái
quan trọng hơn hết. Bởi vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu
tiếp tục tồn tại là mối nguy hại lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt
vong. Chính vì thế mà chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ đưa nước Nga lên chủ nghĩa xã
hội bằng con đường chắc chắn nhất. Nếu khôi phục được tình trạng này thì “tất cả
những con chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội
được củng cố”10.
10 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 252
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn là công cụ để khắc phục được “kẻ thù chính
trong nội bộ” đất nước, kẻ thù của các biện pháp kinh tế của chính quyền Xô Viết: đó
là bọn đầu cơ, gian thương, bọn phá hoại độc quyền của Nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa
quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Theo Lênin nhận xét thì “Chúng ta
làm việc rất tồi, dẫn chứng là bệnh quan liêu. Chúng ta không nên sợ thú nhận rằng ở
đây chúng ta có thể và phải học tập nhiều nữa ở bọn tư bản”11. ở đây Việt Nam chúng
ta cần phải xem xét và học tập. Thông qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước và chủ nghĩa tư
bản mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ
chức được một nền sản xuất lớn. Khi ấy, giai cấp vô sản Nga, so với bất kỳ giai cấp vô
sản ở các nước phát triển nào khác là giai cấp tiên tiến về chế độ chính trị của mình, về
sức mạnh chính quyền công nông, nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở
Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản Nhà nước có quy củ, về trình độ văn hoá,
về mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật
chất. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước nếu thực hiện được, sẽ giúp cho chính quyền Xô Viết
khắc phục dần được tình trạng lạc hậu đó. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước thông qua sự
“du nhập” của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại qua
đó mà hy vọng có được trình độ trang bị cao của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn mang lại các lợi là thông qua sự phát triển mà
phục hồi được giai cấp công nhân. Nếu chủ nghĩa tư bản được lợi thế, thì sản xuất
công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên.
Vậy với ý nghĩa của việc thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước như vậy, mà
Lênin nói rằng đó là “điều có lợi và cần thiết”, “đáng mong đợi” trong điều kiện của
chính quyền Xô Viết. Nhưng khi nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước thì
ta cần đặc biệt chú trọng vai trò của Nhà nước. Có thể hiểu chủ nghĩa tư bản Nhà nước
là sự can thiệp, sự chi phối, tác động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chính sách
kinh tế và sự kiểm kê, kiểm soát vào các cơ sở sản xuất kinh doanh dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nhà nước hướng sự vận động của các cơ sở kinh tế đó
11 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 280
thông qua luật đầu tư và luật pháp sở tại nhằm vừa đạt được lợi ích kinh tế của nước
chủ nhà vừa thoả mãn lợi nhuận thích đáng.
I.3-/ Các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước
Khi giải thích vì sao dùng danh từ chủ nghĩa tư bản Nhà nước, Lênin đã nói “điều
mà tôi luôn luôn quan tâm tới là mục đích thực tiễn”12. Theo Lênin mục đích thực tiễn
ấy là tìm ra những hình thức cụ thể để thực hiện. Lênin không trói buộc chủ nghĩa tư
bản Nhà nước chỉ vào một số hình thức đã tồn tại. Tư tưởng của Lênin là “... ở chỗ nào
có những thành phần tự do buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa nói chung,
thì ở đó có chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác, ở trình
độ này hay trình độ nọ”13.
Có thể kể ra những hình thức sau:
I.3.1 Tô nhượng:
Theo Lênin “Đó là một sự liên minh với chủ nghĩa tư bản các nước tiên tiến, phải
hiểu thật rõ bản chất của các tô nhượng”. Đó là một sự liên kết, một sự liên minh, một
hợp đồng kinh tế với tư bản tài chính tiên tiến ở các nước tiên tiến, một hợp đồng sẽ
làm cho chúng ta tăng thêm được một số ít sản phẩm nhưng đồng thời cũng làm tăng
thêm sản phẩm cho phía ký kết với chúng ta hay “tô nhượng là hợp đồng giữa Nhà
nước và một nhà tư bản, người này cam kết tổ chức hoặc hoàn thiện sản xuất (chẳng
hạn như đốn và chở gỗ, khai thác than, dầu lửa, khoáng sản...) trả cho Nhà nước một
phần sản phẩm sản xuất ra, và nhận một phần khác dưới danh nghĩa là lãi”. Mục đích
của tô nhượng là trong sự liên minh giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và Nhà nước tư
bản thì sự tô nhượng nhằm mục đích chống lại thế lực tư phát tư hữu. Lênin vạch rõ
“áp dụng một cách có chừng mực và thận trọng, chính sách tô nhượng nhất định sẽ
giúp chúng ta cải thiện được nhanh chóng (đến một mức độ nào đó không cao lắm)
tình trạng sản xuất đời sống của công nhân và nông dân, dĩ nhiên là phải có một vài hy
sinh, là thả cho tư bản hàng chục triệu pút sản phẩm vô cùng quý báu”14. Tô nhượng là
12 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 45 trang 426
13 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 268
14 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 269,270
một hình thức đơn giản rõ ràng, rành mạch và sáng tỏ, dễ chấp nhận tuy nhiên không
phải là sự chấp nhận vô điều kiện.
Một số nguyên tắc của tô nhượng:
- Để thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước (Tô nhượng) cần phải từ bỏ chủ nghĩa
ái quốc địa phương của một số người cho rằng tự mình có thể làm lấy, không chấp
nhận trở lại chịu ách nô dịch của chủ nghĩa tư bản.
- Người nhận tô nhượng phải có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong
xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức trung bình của nước ngoài. Cải thiện đời sống
của công nhân các xí nghiệp tô nhượng và ngoài tô nhượng được xem là “cơ sở của
chính sách tô nhượng''.Ngoài ra người nhận tô nhượng phải bán thêm cho chính quyền
Xô Viết (nếu có yêu cầu) từ 50 - 100% số lượng sản phẩm tiêu dùng.
- Vấn đề trả lương cho các công nhân ở xí nghiệp tô nhượng: trả bằng ngoại tệ,
bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền Xô Viết v.v...
- Còn đối với những công dân Nga - chuyên gia có trình độ cao nếu các xí nghiệp
tô nhượng muốn mời thì phải được sự đồng ý của cơ quan chính quyền trung ương
theo tinh thần không thể để các chuyên gia ưu tú nhất làm việc ở các xí nghiệp tô
nhượng.
- Phải tôn trọng luật pháp của nước Nga.
- Phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với
pháp luật của nước Nga và của nước ngoài.
Và như vậy Người cho rằng mỗi hợp đồng tô nhượng sẽ là một loại chiến tranh
mới, một cuộc chiến tranh kinh tế, một sự chuyển chiến tranh sang một lĩnh vực khác.
I.3.2 Các hợp tác xã.
Căn cứ vào những thời điểm lịch sử, có thể nhận thấy rằng Lênin quan niệm về
các hợp tác xã đều là hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tuy nhiên cần phân
biệt tổ chức kinh tế này trong những chế độ khác nhau. Nghĩa là trong thực tế tồn tại
hai chế độ hợp tác xã: Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản
chủ nghĩa trong lòng Xô Viết được coi là một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Tồn tại dưới chính quyền Xô Viết đây là một kiểu xí nghiệp thứ ba, tức là xí nghiệp
hợp tác xã đặc trưng của xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân
với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống. Còn một con đường khác mà
Lênin gọi là con đường của chủ nghĩa tư bản hợp tác xã. Nếu việc chuyển từ chế độ tô
nhượng - tức chủ nghĩa tư bản Nhà nước lên chủ nghĩa xã hội thì cũng có nghĩa là
chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang hình thức đại sản xuất khác. Còn việc
chuyển từ chế độ hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là
chuyển từ tiểu sản xuất sang nền đại sản xuất, nghĩa là phải qua bước quá độ phức tạp
hơn “hợp tác xã sản xuất cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước nhưng
ít đơn giản hơn có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn và vì thế trong thực tế nó đặt
chính quyền Xô Viết trước những khó khăn lớn hơn”15.
ý nghĩa của chế độ hợp tác xã là ở chỗ không phải xoá bỏ người sản xuất nhỏ với
lợi ích tư nhân của họ, mà là đặt lợi ích đó dưới sự điều tiết của Nhà nước và phục
tùng lợi ích chung.
I.3.3 Đại lý thương nghiệp.
Là hình thức Nhà nước xã hội chủ nghĩa lôi cuốn các nhà tư bản thương nghiệp,
họ bỏ vốn ra thuê lao động và tổ chức các cửa hàng để bán hàng hoá Nhà nước - tức
thương nghiệp xã hội chủ nghĩa giao cho, đồng thời bao gồm cả việc tổ chức thu mua
sản phẩm trên thị trường tự do.
I.3.4 Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, vùng đất...
Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, vùng đất, để họ bỏ vốn tự tổ
chức sản xuất kinh doanh khai thác, trồng cây... Hình thức này cũng gần giống với
hình thức tô nhượng (tô nhượng “nội địa”). Hình thức còn này được coi là hình thức
riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tương tự nhưng đối tượng thuê chỉ là tư bản
trong nước.
I.3.5 Công ty hợp doanh
15 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 271
Trong báo cáo tại Đại hội IV Quốc tế Cộng sản, Lênin đã nói về những thành tựu
đạt được do thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Khi nói về lĩnh vực thương
nghiệp, chính quyền Xô Viết đang cố gắng lập ra những công ty hợp doanh và đã
thành lập được theo thể thức tiền vốn là một phần của tư bản tư nhân, ngoài ra của tư
bản nước ngoài và một phần là của chính quyền Xô Viết.
I.4-/ Kết quả của việc thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thời Lênin
Đến tháng 11/1922 (khoảng hơn một năm thực hành chế độ này), Lênin đã trình
bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung, chủ nghĩa tư bản
Nhà nước nói riêng như sau:
Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp nông dân. Từ chỗ đói kém một bộ
phận rất lớn trong nông dân bất bình, đến chỗ trong vòng một năm, nông dân chẳng
những thoát khỏi nạn đói mà còn nộp được thuế lương thực hàng trăm triệu pút, nông
dân đã phần nào hài lòng với tình hình hiện tại của họ.
Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển, đời sống của công nhân được cải thiện,
tình hình bất mãn không còn nữa. Công nghiệp nặng tuy còn khó khăn nhưng đã có sự
thay đổi nhất định: Những khoản cho vay lớn không còn, vẫn chưa có một chính sách
tô nhượng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Không còn hy vọng vay được gì ở các
nước giàu có vì các nước đế quốc vẫn đang muốn bóp chết Nhà nước xã hội chủ nghĩa
non trẻ. Tuy nhiên nhờ chính sách kinh tế mới mà đã thu được một số vốn lớn hơn 20
triệu rúp vàng. Nhìn chung chính sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã góp phần làm
sống động nền kinh tế nước Nga: Nhờ tô nhượng nước ngoài góp phần phát triển sản
xuất hàng hoá, mang lại hiệu quả do thiết bị sản xuất hiện đại của nền sản xuất lớn tư
bản chủ nghĩa đã được đưa vào quá trình sản xuất. Thông qua các hoạt động của các
công ty hợp doanh những người cộng sản Nga còn có thể học được cách buôn bán,
cách tổ chức nền sản xuất. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn
hợp đã góp phần giúp Nhà nước Xô Viết duy trì hoạt động sản xuất và giải quyết việc
làm cho người lao động. Các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn giúp cho
việc đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá, tiền tệ, phát triển mạnh nền
sản xuất hàng hoá nhỏ qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan hệ trao
đổi công - nông nghiệp, thành thị - nông thôn.
Nhưng so với mong muốn và mục tiêu ban đầu đã đặt ra thì kết quả thực hiện chế
độ này còn thấp. Nguyên nhân quan trọng nhất là chủ nghĩa tư bản đế quốc vẫn tìm
cách bóp chết chính quyền Xô Viết. Vì thế sự hợp tác và đầu tư của nước ngoài vào
Liên Xô không cao. Và trong những năm 1923 - 1924, tỷ trọng của chủ nghĩa tư bản
Nhà nước - với tư cách là một thành phần kinh tế, trong tổng sản phẩm của cả nước chỉ
chiếm có 1%.
Tuy nhiên kết quả lớn nhất là đã hình thành một khái niệm mới và chủ nghĩa tư
bản Nhà nước đã thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới. Và nhờ
chính sách kinh tế mới mà chính quyền Xô Viết đã giữ được vị trí vững chắc trong nông
nghiệp và công nghiệp và có khả năng tiến lên, nông dân hài lòng với những gì họ đã có.
Đó là một thắng lợi lớn của chính quyền Xô Viết.
II-/ Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam
II.1-/ Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở Việt Nam
II.1.1 Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta.
Khi đi xét về phương diện “vật chất” nước ta hiện nay ở mức độ nhất định, có thể
khẳng định nền kinh tế là kém phát triển so với thế giới nghĩa là vẫn chưa có đủ điều
kiện để trực tiếp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy chúng ta cần suy nghĩ thấu đáo
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước như Lênin từng
vạch ra. Trước hết chúng ta có thể sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước như là một
phương tiện để thực hiện sự định hướng xã hội chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước: Mô hình kinh tế, cương lĩnh quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội. Khi nói tới một mô hình xã hội nghĩa là muốn nói tới một hệ thống quan niệm
về con đường, biện pháp, hình thức... Để thực hiện một mục tiêu nào đó đã đặt ra. Với
quan niệm ấy, mục tiêu đặt ra cho thời kỳ quá độ là công cuộc xây dựng kinh tế là việc
đặt nền móng kinh tế cho toà nhà mới - toà nhà xã hội chủ nghĩa, để thay thế cho toà
nhà phong kiến đã bị phá huỷ và cho toà nhà tư bản chủ nghĩa đã bị phá huỷ một nửa.
Hay nói cách khác đó là nhiệm vụ xã hội hoá sản xuất trong thực tế, là sự kiểm kê và
kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm, thiếu nó chủ nghĩa xã
hội chỉ là không tưởng. Vậy cần thiết và tất yếu phải xây móng trước khi xây nhà, phải
thực hiện thời kỳ quá độ không thể trực tiếp chuyển ngay lên chủ nghĩa cộng sản được.
Chúng ta phải “lùi” về chủ nghĩa tư bản Nhà nước - thuật ngữ “lùi” ở đây có nghĩa là:
chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp, từ vội vàng trở về với những bước đi thận trọng, là
việc từ bỏ những quan niệm sách vở về chủ nghĩa xã hội để trở về với thực tiễn và
sáng tạo, từ bỏ chủ nghĩa duy ý chí để trở về với tính khách quan của quy luật, từ bỏ
cái ngẫu nhiên về với cái tất nhiên, từ sự khờ dại về với sự thông minh... Đó cũng là
những điểm mà ta từng mắc phải.
Để quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiểu nông thì phải tiến tới xã hội hoá
trong thực tế bằng sự phát triển cực thịnh nền kinh tế thị trường (đó là một nền kinh tế
nhiều thành phần) thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì cũng có nghĩa
là Đảng cầm quyền vừa thừa nhận sự phục hồi đồng thời vừa tạo điều kiện cho sự phát
triển (tất nhiên có mức độ nhất định) thành phần kinh tế tư bản, bao gồm cả sự tồn tại
hợp pháp của các tầng lớp tiểu tư sản, địa chủ đã mất chính quyền. Chính quyền đã
thuộc về tay giai cấp công nhân mà đội quân tiên phong là Đảng cộng sản. Chính vì
vậy, Đảng cộng sản cầm quyền phải đủ thông minh biết khai thác và sử dụng có hiệu
quả tài năng của các chuyên gia tư sản cũng như các hình thức, các thành phần kinh tế
dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, trong đó có chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Giai cấp công
nhân với tư cách là một giai cấp tiên tiến thì đương nhiên phải học hỏi, phải rèn luyện
vươn lên thành người chủ mới của phương thức sản xuất mới mà thực hiện cho bằng
được mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội đặt ra. Lênin nói “trong các nước bị cùng khổ
này thì hoặc là những kẻ không vươn lên nổi sẽ bị diệt vong ở đây không có và không
thể có sự lựa chọn được”16.
Như vậy trong điều kiện có sự du nhập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, có
chính sách mở rộng cửa trong quan hệ kinh tế với thế giới tư bản thì điều tất yếu sẽ
xảy ra “bên cạnh các đồng chí sẽ có các nhà tư bản, cũng sẽ có các nhà tư bản nước
ngoài, những người được tô nhượng và những nhà trúng thầu, họ sẽ quơ của các đồng
chí những món lợi nhuận lên tới hàng trăm phần trăm, họ sẽ làm giàu bên cạnh các
đồng chí” nhưng “cứ để họ làm giàu còn các đồng chí thì sẽ học được ở họ cách quản
lý kinh tế, chỉ có như thế các đồng chí mới xây dựng được chủ nghĩa cộng sản”17.
Như vậy một mặt phải sử dụng các chuyên gia tư sản, một mặt phải du nhập các
cơ sở KTTBNN.
Đó là sự tất yếu đi qua chủ nghĩa tư bản chuyển lên chủ nghĩa xã hội có sử dụng
tới chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước Nga và cũng là phần nào đúng đối với nước ta.
Tuy nhiên thời đại ngày nay đã có nhiều điểm khác xa so với thời Lênin - cũng đã 70
năm trôi qua, phải tính đến đặc thù của nước ta cùng với đặc điểm thời đại ngày nay,
đặc biệt sau sự tan vỡ của Nhà nước Liên Xô để nhận thức đâu là những khả năng
thuận và nghịch khi thực hiện chế độ chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta.
II.1.2 Những nét đặc trưng của thời đại ngày nay. Thời cơ và thách thức.
16 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 208
17 V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, tập 43 trang 209
Đặc trưng bao quát nhất của thời đại ở thập kỷ cuối của thế kỷ XX là thế giới
đang ở bước ngoặt, bước quá độ từ cục diện cũ sang cục diện mới cuộc chạy đua toàn
cầu về kinh tế một cuộc "chiến tranh mềm" trong cục diện vừa đấu tranh vừa hợp tác,
và tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau; "vừa có diễn biến hoà
bình" "vừa có chống diễn biến hoà bình" cục diện thế giới với tính độc lập của gần 200
nước trên thế giới với các trào lưu toàn cầu: dân chủ hoá, hoà bình và phát triển.
Sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và việc thực hành đường lối chủ nghĩa tư
bản Nhà nước nói riêng ở nước ta phải đặt trong cục diện chung của thế giới; từ đó
nhận thức đâu là thời cơ, đâu là thách thức. Nét nổi bật nhất hiện nay là sự tác động
của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ và nó tạo ra cho đất nước ta thời cơ lẫn
thách thức.
Thời cơ: Xu thế đối thoại và hợp tác, trong cục diện vừa hợp tác vừa đấu tranh,
đất nước ta có được một hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, trong đó có sự "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài. Mặc dù chủ nghĩa đế
quốc vẫn chưa từ bỏ ý định "diễn biến hoà bình" đối với nước ta, song so với thời
Lênin, hoàn cảnh hiện nay thuận lợi hơn nhiều.
Xét về mặt địa lý, nước ta nằm trong khu vực phát triển năng động nhất của thế
giới ngày nay. Có dự báo thế kỷ XXI là thế kỷ của Châu á.
Với đặc điểm của thế giới hiện nay là tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
trên thế giới ngày càng tăng lên. Vậy có nghĩa phải dựa vào nhau: bạn cần tôi và tôi
cũng cần bạn. Vấn đề phải nắm bắt cái ''bạn'' cần để có chính sách thoả đáng, biến
những thứ bạn cần ở ta thành hiện thực.
Mặt khác, một thế mạnh khác của ta là việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là
cái quan trọng quyết định xu hướng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, quyết định triển
vọng phát triển của nền kinh tế nước ta. Nước ta cũng có một số tài nguyên quý giá, là
một thị trường không phải là nhỏ. Đặc biệt sự ổn định chính trị lâu dài là cái mà người
nước ngoài có thể tin cậy để đầu tư.
Thách thức: Chỉ nguyên với thực trạng là một nước nghèo, kém phát triển, đang
nằm trong khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã đưa nước ta xuống một vị trí xuất phát
không thuận lợi lắm trong cuộc chạy đua kinh tế. Phương Tây đang vượt xa chúng ta
trong lĩnh vực kế hoạch hoá sản xuất, còn chủ nghĩa xã hội thế giới trước đây lại lạc
hậu so với yêu cầu của sự phát triển: lạc hậu về năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, tiến bộ kỹ thuật.
Mặc dù nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường song sự chuyển biến ấy
lại xuất phát từ một nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên tự cung tự cấp. Về nguồn lực quan
trọng nhất là con người thì lại thiếu tri thức và đội ngũ kinh doanh hiện đại.
Bên cạnh đó sự chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta của các
thế lực phản động ở trong và ngoài nước ngày đêm diễn ra. Rồi những mặt trái của quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước là những vấn
đề xã hội hết sức phức tạp, đến mức có thể gây ra sự bất bình của cả một tầng lớp dân cư.
Vậy trước mắt ta những khó khăn đó là không nhỏ, phải trả giá để phát triển. Vấn
đề là phải dũng cảm và khôn ngoan, phải có chiến lược, bước đi, hình thức thực hiện
hữu hiệu.
II.2-/ Những hình thức cụ thể của KTTBNN đang được vận dụng ở nước ta.
II.2.1 Tính tất yếu khách quan của việc phát triển rộng rãi các hình thức
KTTBNN ở nước ta.
- Do yêu cầu của sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở một nước nông nghiệp lạc hậu.
- Từ yêu cầu phải nhanh chóng hiện đại hoá lực lượng sản xuất: quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong điều kiện một nền kinh tế kém phát triển, lực
lượng sản xuất hết sức lạc hậu không thể có sự nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất
nếu không tiến hành nhanh chóng công nghiệp hoá để có cơ sở vật chất kỹ thuật đảm
bảo cho quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Do nhu cầu xây dựng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế hàng hoá: không thể nâng cao trình độ xã hội hoá nếu không chuyển sang kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước.
- Do yêu cầu thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh", "xã hội công bằng văn minh" và xã hội chủ nghĩa.
- Do nhu cầu phải biết lợi dụng các lợi thế so sánh để nhanh chóng hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
II.2.2 Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta.
1. Mở rộng hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước với kinh tế tư nhân
trong nước.
ở nước ta trong thời kỳ cải tạo đối với công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc
trước đấy hình thức nói trên tồn tại dưới hình thức tổ chức kinh tế "công tư hợp
doanh". Sau ngày miền Nam giải phóng đã xuất hiện một số "công tư hợp doanh"
thương nghiệp nhưng sự hoạt động trên cả hai miền của hình thức trên trong thưòi kỳ
"kinh tế chỉ huy tập trung" thực chất là hoạt động của tổ chức quốc doanh. Từ ngày đổi
mới kinh tế với sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần và "mở cửa" hình thức liên
doanh liên kết này thường được hướng vào lực lượng kinh tế tư nhân và tổ chức kinh
tế nước ngoài thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp. Trong khi đó việc phát triển hình
thức này đối với lực lượng kinh tế tư nhân trong nước có phần bị lãng quyên. Nhưng
qua gần 10 năm đổi mới, lực lượng kinh tế tư nhân ở nước ta nhờ sự hoạt động của
quy luật tích tụ và tập trung vốn bằng nhiều con đường và nguồn vốn khác nhau, tiềm
năng của lực lượng này có bước phát triển đáng kể. Tiềm năng kinh tế tư nhân thể hiện
rõ nhất qua chỉ tiêu về vốn kinh doanh: Số công ty có vốn điều lệ từ 1 - 5 tỷ đồng tăng
từ 11,05% - 22,08%, số công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn từ 300 triệu đồng, từ
32,2% xuống 22,3%. Về lĩnh vực hoạt động, có 21% công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp và 5% trong lĩnh vực khách sạn du lịch, nhiều ngành
nghề được mở rộng, phát triển mạnh, xuất hiện nhiều nghề mới.
Nhà nước cần có biện pháp và chính sách ban hành hợp tình hợp lý, với các
chính sách ưu đãi, hệ thống luật pháp rõ ràng. Bằng cách đó Nhà nước khuyến khích
kinh tế tư nhân trong nước vì lợi ích kinh tế và lòng "yêu nước" mà nhanh chóng tiếp
nhận hình thức này trong thời gian tới ở nước ta.
2. Tiếp tục mở rộng và phát triển hình thức liên doanh nước ngoài.
Đây là hình thức liên doanh theo tỷ lệ vốn có mức độ khác nhau giữa Nhà nước
và tư nhân Việt kiều và các tổ chức kinh tế nước ngoài, được tổ chức dưới tên gọi là
các xí nghiệp liên doanh. Hình thức này xuất hiện trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế và
được thực hiện thông qua đầu tư trực tiếp hình thành các trung tâm công nghiệp mới
với kỹ thuật cao. Một số số liệu: đến cuối năm 1994 số dự án được cấp giấy phép:
1170 với tổng vốn đầu tư. 12.200.430 triệu USD và tổng vốn pháp định 6.376.441
triệu USD. Các dự án được phân bố tập trung ở nhiều thành phố lớn: Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Hải Phòng. ở Hà Nội các dự án được phân bố tập trung vào việc hình thành các
khu công nghiệp "Nam cầu Thăng Long", thu công nghiệp "Đông Anh"... Cho đến nay
việc triển khai các dự án đã đưa lại nhiều kết quả một số trung tâm công nghiệp kỹ
thuật cao và một số lĩnh vực khác nhất là khách sạn du lịch qua hình thức liên doanh
vốn nước ngoài bước đầu hình thành tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao
động, làm thay đổi bộ mặt đất nước theo hướng. Tuy nhiên vẫn còn tồn đọng một số
vấn đề: thủ tục giấy tờ với nhiều cơ quan đầu mối thẩm định và xét duyệt dự án rắc rối.
Nhà nước cần can thiệp để tạo điều kiện cho các dự án được thực hiện dễ dàng hơn.
Nhưng về phía ta khi thực hiện liên doanh phải chọn đối tác phù hợp với mình, nhất là
khi ký các hợp đồng tô nhượng để liên doanh thì phải cân nhắc hết mọi điều khi ký và
sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó.
3. Về hình thức tô nhượng mà thực chất là hình thức có 100% vốn nước ngoài
được hình thành trong các khu chế xuất.
Đây là loại hình xí nghiệp rất mới mẻ đối với chúng ta: vừa làm vừa rút kinh
nghiệm. Đến nay cả nước được Chính Phủ cho phép hình thành 6 khu chế xuất: Thành
phố Hồ Chí Minh có 2; Cần Thơ: 1; Quảng Nam Đà Nẵng 1; Hà Nội 1; Hải Phòng 1.
Mục tiêu hình thành khu chế xuất.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giải quyết công ăn việc làm thông qua đó đào
tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề.
- Du nhập kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Tạo nguồn hàng xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân
thanh toán quốc tế.
- Thúc đẩy nền kinh tế nội địa có mũi nhọn đột phá phát triển theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Mặc dù việc triển khai khu chế xuất ở một số nơi đưa lại kết quả tốt song nhìn
chung việc phát triển còn chậm so với dự kiến. Hiện đang nổi lên vấn đề là thủ tục
xuất vào nội địa và từ nội địa nhập vào khu chế xuất còn chậm và rườm rà, tính giá
thuê đất còn cao, kết cấu hạ tầng chưa đảm bảo, kinh nghiệm quản lý kém... Tình hình
này đã gây ra nhiều ý kiến trái ngược nhau - nên áp dụng rộng rãi loại hình này mà
cũng nên thu hẹp loại hình này. Vấn đề cần nhìn nhận một cách khách quan để nhận
xét, theo ý kiến cá nhân tôi thì tôi cho đây là một loại hình hay và thích hợp đối với
nước ta.
4. Thực hiện hình thức cho thuê thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của
các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước.
Đây là hợp đồng được ký kết giữa Nhà nước với lực lượng kinh tế tư nhân trong
và ngoài nước. Hợp đồng này cũng giống hợp đồng của hình thức tô nhượng trong khu
chế xuất nhưng chúng có điểm khác nhau là: thời gian ký hợp đồng ngắn hơn tô
nhượng, vì đây là hình thức cho thuê hầm mỏ, các khu rừng, xí nghiệp, cửa hàng...
Trong một thời gian nhất định. Những đối tượng này thường là những đối tượng mà
Nhà nước không có khả năng nắm hoặc nếu để Nhà nước kinh doanh thì không hiệu
quả.
5. Hình thức gia công đặt hàng.
Hình thức này thường áp dụng đối với các ngành sản xuất vật chất đòi hỏi, lực
lượng lao động nhiều. Đây là hình thức khá phù hợp với nước ta bởi nước ta có tỷ lệ
gia tăng dân số và lực lượng lao động cao. Hình thức này có thể thực hiện 2 chiều, các
doanh nghiệp Nhà nước nhận gia công cho kinh tế tư nhân trong và ngoài nước và
ngược lại, kinh tế tư nhân trong và ngoài nước nhân gia công cho doanh nghiệp Nhà
nước Việt Nam.
6 Hình thức đại lý.
Đây là hình thức thường được áp dụng cho các ngành, nhất là ngành dịch vụ. Nó
bao gồm: đại lý mua, đại lý bán, đại lý về các dịch vụ khác nhau giữa các doanh
nghiệp Nhà nước Việt Nam, với các tổ chức kinh tế tư nhân trong nước và ngoài nước
trong những thời hạn nhất định.
Trên đây là một số hình thức chủ yếu thường được sử dụng trong đời sống thực
tế các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà
nước diễn ra rất phong phú và đa dạng. Nó đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn luôn biến
động để điều chỉnh các hình thức, phải luôn tìm tòi sáng tạo thêm các hình thức mới
có hiệu quả hơn để áp dụng vào thực tiễn nước ta, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước
ta phát triển.
II.3-/ Phương hướng và những điều kiện để vận dụng thành công kinh tế tư bản
Nhà nước ở nước ta hiện nay.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một
nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội là thứ chủ nghĩa tư bản phục tùng Nhà nước dưới
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, vì lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của
toàn xã hội. Cho nên sự thành công trong việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở
nước ta là phụ thuộc vào sự vững mạnh của bộ máy Nhà nước và khả năng điều tiết
của Nhà nước.
Đã hình thành một Nhà nước, mới không phải vì bản chất giai cấp xã hội của nó
thay đổi mà mới là so với điều kiện hoạt động của nó trước đây. Đó là một Nhà nước
trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều định hướng chủ nghĩa xã hội và có khả
năng quản lý thành công nền kinh tế ấy đó là Nhà nước có khả năng "ứng biến một
cách mềm dẻo, mau lẹ", "biết nghiên cứu một cách chính xác phạm vi của hiện tượng
và tìm ra được những biện pháp thích ứng để điều tiết". Đó là Nhà nước của chính
sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước và có khả năng vận dụng thành công chính sách ấy.
Sức mạnh của Nhà nước trong điều kiện đó là ở chỗ "biết dùng bàn tay của người khác
để cùng với mình xây dựng chủ nghĩa cộng sản". Do vậy sự thành công của chính sách
này phụ thuộc khả năng điều tiết của Nhà nước và mức độ trưởng thành của giai cấp
vô sản và quần chúng lao động nói chung. Dưới đây là một số điều kiện chủ yếu:
(1) Tăng cường sức mạnh kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Sức mạnh của bộ máy Nhà nước trước hết là sức mạnh kinh tế. Trước đây, Lênin
đã nói về sức mạnh ấy và nhờ sức mạnh đó mà có thể dung nạp, phát triển, du nhập
chủ nghĩa tư bản. Để có sức mạnh ấy phải nắm được các đài chỉ huy kinh tế, nắm được
ngành vận tải và đại công nghiệp. "Nếu hàng hoá trong tay các đồng chí sẽ giữ được
chính quyền" - Củng cố và phát triển hợp lý kinh tế quốc doanh cũng là để tạo ra sức
mạnh kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường sức mạnh kinh tế biểu hiện tập trung
ở sức mạnh tài chính, ai nắm được nguồn tài chính thì người đó sẽ chi phối sự phát
triển kinh tế - xã hội theo định hướng của mình. Vì vậy Nhà nước cần vươn tới nắm
quyền về tài chính thông qua công cụ tài chính - Ngân hàng.
(2) Xúc tiến sửa đổi và hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật khuyến khích đầu
tư tư nhân, nhằm từng bước tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng và ổn
định.
Muốn sử dụng tốt các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước cần hoàn thiện, hệ
thống pháp luật, trong đó đặc biệt là luật kinh tế. Không thể chuyển sang cơ chế thị
trường nếu không có nền tảng pháp luật bởi nếu thiếu tất yếu sẽ xảy ra tình trạng hỗn
loạn. Mặt khác khi ổn định khuôn khổ pháp luật sẽ khuyến khích đầu tư. Như đã nêu ở
các phần trên về khuôn khổ các chính sách kinh tế vấn đề thực hiện sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ít nhiều vẫn nằm trong "biết rồi khổ
lắm, nói mãi" đặc biệt thể hiện trong chính sách tín dụng đầu tư của ngân hàng. Các
quy định về vay vốn, các thủ tục thành lập doanh nghiệp còn rườm rà, cứng nhắc. Vậy
cần tính tới việc đơn giản hoá các thủ tục thành lập doanh nghiệp theo hình thức "một
cửa" qua UBND các cấp theo luật định và việc cho phép thành lập với cấp giấy phép
kinh doanh cần gộp lại như một thủ tục trong một bộ hồ sơ. Đồng thời cần hạn chế
mức can thiệp của các cơ quan Nhà nước đối với các doanh nghiệp theo hướng dẫn
kiểm tra định kỳ, hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Làm như vậy sẽ nâng cao tính
tích cực chủ động của doanh nghiệp trong việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh, giảm tối
thiểu tệ nạn cửa quyền hách dịch của một số cán bộ Nhà nước.
(3) ổn định chính trị - xã hội - trước hết ổn định hệ thống chính trị.
Trong sự nghiệp cách mạng nước ta, sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản
Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Nhờ sự lãnh đạo đó mà các nguồn lực
của đất nước, của dân tộc, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và trí thức tiến
bộ được huy động một cách thống nhất và phát huy tối đa trong công cuộc xây dựng
Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng; văn minh. Trong xây
dựng và phát triển kinh tế, người Đảng viên tham gia tích cực và mọi thành phần kinh
tế thuộc khu vực Nhà nước, kinh tế hợp tác. Khi tham gia thành phần kinh tế cá thể,
tiểu chủ người Đảng viên phải gương mẫu, làm theo pháp luật, cần kiệm làm giàu cho
gia đình và xã hội.
(4) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong đó
thành phần kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò to lớn.
Xét về ý nghĩa sâu xa, KTTBNN khai thác được tiềm năng kinh tế của kinh tế tư
nhân, vừa là lối ra rộng mở cho thành phần kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta. Sự tăng
trưởng của kinh tế tư bản tư nhân đến quy mô lớn, trình độ xã hội hoá cao sẽ không hề
bị chặn lại, hay bị "cải xoá" hay tịch thu... mà đã có sẵn con đường, hình thức thích
hợp là kinh tế tư bản Nhà nước để phát triển và tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp xây
dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
(5) Hỗ trợ công tác đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp và đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ quản lý nền kinh tế.
Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp, những nhà quản lý kinh tế có
nhiều nguồn gốc khác nhau. Tri thức kinh nghiệm vẫn là phổ biến. Vì vậy để khắc
phục những thiếu hụt nội tại ngoài cố gắng tự vươn lên của những người quản lý kinh
tế những ông chủ, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ công tác đào tạo, bổ túc tri thức
kinh doanh, quản lý kinh tế, doanh nghiệp ở cả tầm vi mô, lẫn vĩ mô. Đồng thời, Nhà
nước cũng cần tính đến trách nhiệm cộng đồng của các doanh nghiệp trong việc tuyển
dụng nguồn nhân lực, thông qua việc thành lập "quỹ đào tạo nguồn nhân lực quốc
gia". Nhưng bên cạnh đó tự mỗi người phải luôn không ngừng học hỏi để hiểu biết
thêm chủ nghĩa tư bản Nhà nước gắn với nền kinh tế thị trường văn minh. Muốn đạt
tới phải học tập, bộ máy Nhà nước ta ít ra cũng phải có "một số nhân viên có phẩm
chất cao, nghĩa là không kém gì những nhân viên kiểu mẫu giỏi nhất ở Tây Âu"18.
18 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1996, trang 95
Tóm lại, cần phải nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thực hành chủ nghĩa tư
bản Nhà nước trong quá trình đổi mới ở nước ta và phải tạo điều kiện cho nó phát triển
trước hết bằng việc củng cố và nâng cao tính chất và năng lực tổ chức của bộ máy Nhà
nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
kết luận
Sau quá trình nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản Nhà nước: có thể nói đặc điểm rõ
nét nhất trong đường lối đổi mới của chúng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Nhưng trong sự phát triển nền kinh tế nhiều thành thì kinh tế tư bản Nhà nước là
một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định:
"kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn
về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý ... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản
thân họ, cũng như công cuộc xây dựng và phát triển đất nước"(20). Hơn thế, kinh tế tư
bản Nhà nước được coi là một thành phần và được xếp vào hàng thứ ba trong cơ cấu
kinh tế thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một luận điểm quan
trọng, lần đầu tiên được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng. ý nghĩa to lớn của nó
ở chỗ: nó khẳng định một hoạt động đã và đang diễn ra trên thực tế từ sau Đại hội VI
của Đảng đến nay. Đó thực chất là sự vận dụng lý luận của V.I.Lênin về kinh tế hàng
hoá và chủ nghĩa tư bản Nhà nước để xây dựng xã hội phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên trong quá trình vận dụng ta đã có nhiều điểm được và chưa được bởi
nó vẫn là mới mẻ đối với chúng ta: vừa làm vừa rút kinh nghiệm bởi tuy nhiên khi đề
ra việc thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thì nước Nga cũng bắt đầu thời kỳ nội
chiến. Chính hoàn cảnh đó đã buộc chình quyền Xô Viết phải đi đến việc "áp dụng gấp
rút những biện pháp xã hội chủ nghĩa". Những dự kiến về chủ nghĩa tư bản Nhà nước
do đó đã không thực hiện được hoàn chỉnh.
Nước ta vẫn kiên quyết và khẳng định rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản của mình, nhưng con đường đi đó không phải là "thẳng tuột" mà phải
viện tới chủ nghĩa tư bản để tạo đà cho ta bước lên chủ nghĩa xã hội một cách vững
chắc. Đó là một điều thiết yếu và rất cần thiết đối với nước ta.
Đây là một đề tài hay, khó, còn rất mới mẻ, và thực sự cần thiết và càng cần thiết
hơn đối với quá trình học tập nghiên cứu của sinh viên trường kinh tế. Đề tài này giúp
cho ta hiểu rõ hơn về nền kinh tế Nga và nền kinh tế Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1-/ V.I.Lênin: Bàn về thuế lương thực, toàn tập, NXB Tiến bộ,
Matxcơva - 1984, tập 43
2-/ V.I.Lênin: Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban
giáo dục chính trị. Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva - 1984, tập 44
3-/ Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
NXB CTQG, hiện nay - 1996.
4-/ Vũ Hữu Ngoan: Mấy vấn đề về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, NXB
CTQG hiện nay - 1995.
5-/ Vũ Ngọc Long: Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin, NXB Thanh
niên, hiện nay - 1996.
6-/ Tạp chí Cộng sản, số 8 tháng 7/1995.
7-/ Nghiên cứu kinh tế tháng 3/1997
8-/ Nghiên cứu kinh tế tháng 11/1998
9-/ Nghiên cứu lý luận tháng 1/1999.
Mục lục
Lời nói đầu ............................................................................................................. 1
Nội dung ................................................................................................................ 3
I-/ Lý luận của lê nin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. ................................................................. 3
I.1-/ Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
3
I.2-/ . Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
5
I.2.1 Nhận thức về khái niệm chủ nghĩa tư bản Nhà nước ............................ 5
I.2.2 Vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước................................................... 7
I.3-/ Các hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước ..................................... 10
I.3.1 Tô nhượng: ............................................................................................... 10
I.3.2 Các hợp tác xã. ......................................................................................... 11
I.3.3 Đại lý thương nghiệp. ............................................................................. 12
I.3.4 Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp, vùng mỏ, vùng đất... ............ 12
I.3.5 Công ty hợp doanh ................................................................................... 12
I.4-/ Kết quả của việc thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước thời Lênin .... 13
II-/ Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà
nước ở Việt Nam ................................................................................................ 15
II.1-/Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở Việt Nam
15
II.1.1 . Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta.
15
II.1.2 Những nét đặc trưng của thời đại ngày nay. Thời cơ và thách thức. . 16
II.2-/Những hình thức cụ thể của KTTBNN đang được vận dụng ở nước ta.
18
II.2.1 ...... Tính tất yếu khách quan của việc phát triển rộng rãi các hình thức
KTTBNN
ở nước ta. .................................................................................................... 18
II.2.2 Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta. 19
II.3-/Phương hướng và những điều kiện để vận dụng thành công kinh tế tư
bản
Nhà nước ở nước ta hiện nay. .................................................................... 22
Kết luận ............................................................................................................. 26
Tài liệu tham khảo ............................................................................................ 27
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước, để từ đó có sự vận dụng sáng tạo và đề ra đường lối, chính sách, cũng như trong chỉ đạo thực hiện ở Việt Nam.pdf