Tài liệu Luận văn Nghiên cứu tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dõng điện không đổi" vật lí lớp 11 (trung học phổ thông) nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tiến trình hội nhập quốc tế
của đất nƣớc đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và
phẩm chất đạo đức tốt. Để đáp ứng nhu cầu đó nghành giáo dục cần đổi mới
toàn diện. Do vậy với văn kiện đại hội đảng lần thứ X của ban chấp hành
trung ƣơng đảng khoá IX đã khẳng định ''...ưu tiên hàng đầu cho việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Đổi mới trương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học... Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh...’’
Điều 28 luật giáo dục qui định ''phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học cho học sinh".
Thự...
114 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1061 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dõng điện không đổi" vật lí lớp 11 (trung học phổ thông) nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tiến trình hội nhập quốc tế
của đất nƣớc đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và
phẩm chất đạo đức tốt. Để đáp ứng nhu cầu đó nghành giáo dục cần đổi mới
toàn diện. Do vậy với văn kiện đại hội đảng lần thứ X của ban chấp hành
trung ƣơng đảng khoá IX đã khẳng định ''...ưu tiên hàng đầu cho việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Đổi mới trương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học... Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh...’’
Điều 28 luật giáo dục qui định ''phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học cho học sinh".
Thực hiện yêu cầu trên, ngành giáo dục nƣớc ta có chủ trƣơng đổi mới
nội dung, chƣơng trình sách giáo khoa. Với nội dung chƣơng trình sách giáo
khoa mới thì việc đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh là thật sự cần thiết.
Vật lí học là một môn học bắt buộc trong hệ thống các môn học của nhà
trƣờng phổ thông ở nƣớc ta hiện nay. Yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học
trong nhà trƣờng phổ thông trong đó yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học
đối với môn vật lí là điều tất yếu. Do đặc thù của vật lí học là môn khoa học
thực nghiệm nên một trong những khâu quan trọng của quá trình đổi mới
phƣơng pháp dạy học vật lý là tăng cƣờng các hoạt động thực nghiệm của học
sinh trong quá trình học tập. Vì vậy, việc đƣa thí nghiệm vào dạy học đã làm
cho học sinh tiếp cận với con đƣờng nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
và tiếp thu các kiến thức một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Thông qua thí
nghiệm vật lý, học sinh sẽ đƣợc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, giáo dục tổng hợp,
hình thành tƣ duy sáng tạo và tinh thần làm việc tập thể. Thông qua việc tiến
hành thí nghiệm, học sinh đƣợc làm quen với phƣơng pháp nghiên cứu khoa
học, có một số kĩ năng sử dụng các máy móc thiết bị cơ bản làm cơ sở cho việc
sử dụng những công cụ trong công việc cũng nhƣ trong cuộc sống.
Qua điều tra thực tế, chúng tôi thấy: Việc dạy và học theo chƣơng trình
mới đã có nhiều ƣu điểm. Tuy nhiên, dạy học nội khoá vẫn còn rất nặng nề,
chƣa kích thích đƣợc sự hứng thú học tập và chƣa phát triển đƣợc năng lực
sáng tạo của học sinh. Do vậy, để đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra của nền giáo
dục, cần phải đa dạng hoá các hình thức tổ chức hoạt động học tập của học
sinh, và cần phải khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động ngoài giờ lên
lớp (hay hoạt động ngoại khoá). Đây là một hình thức dạy học mang lại hiệu
quả cao nhƣng hiện nay chƣa đƣợc chú trọng ở các trƣờng phổ thông nƣớc ta.
Nó không những giúp học sinh củng cố các kiến thức đã học ở nội khoá mà
còn giúp đào sâu, mở rộng kiến thức, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh. Đây là những điều mà nội khoá làm chƣa tốt do điều kiện thời gian,
phƣơng tiện dạy học hay do sức ép thi cử.
Qua quá trình nghiên cứu sách giáo khoa vật lí 11, chúng tôi nhận thấy
kiến thức về dòng điện không đổi có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ
thuật. Trong dạy học nội khóa đã đƣợc trang bị một số thiết bị thí nghiệm tối
thiểu về dòng điện không đổi, nhƣng qua điều tra chúng tôi nhận thấy các
giáo viên chƣa khai thác, tận dụng đƣợc hết khả năng của các thiết bị thí
nghiệm này trong dạy học. Có giáo viên sử dụng các thiết bị này trong dạy
học nhƣng chƣa nghiên cứu để đƣa thí nghiệm vào giảng dạy theo hƣớng tổ
chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Ngoài ra, phần này cũng có những thí
nghiệm đơn giản, có thể tự chế tạo đƣợc hoặc khai thác từ những thiết bị đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
có sẵn trong thực tế nhƣng giáo viên đã không tổ chức cho học sinh tự thiết kế
và làm thí nghiệm. Do vậy, trong học nội khóa, học sinh không có cơ hội
đƣợc rèn luyện các kĩ năng, các thao tác làm thí nghiệm, cũng nhƣ không
đƣợc hình thành kiến thức một cách đúng đắn dễ dẫn đến sai lầm, hay không
có sự hứng thú, tích cực trong học tập và không đƣợc rèn luyện tƣ duy sáng tạo.
Thực tiễn trong những năm gần đây ở các nhà trƣờng phổ thông hiện
nay, hoạt động ngoại khoá nói chung và hoạt động ngoại khoá vật lí nói riêng
ít đƣợc tổ chức, lãnh đạo nhà trƣờng và giáo viên bộ môn chƣa có sự đầu tƣ
cho hoạt động này. Về mặt lí luận, việc nghiên cứu các hình thức tổ chức hoạt
động ngoại khoá vật lí trong nhà trƣờng phổ thông cũng chƣa đƣợc sự quan
tâm nghiên cứu thích đáng của các nhà lí luận dạy học bộ môn.
Với mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu, nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả dạy và học vật lí ở trƣờng trung học phổ thông (THPT), chúng tôi
chọn nghiên cứu đề tài: NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ
VỀ "DÕNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI" VẬT LÍ LỚP 11 (THPT) NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dòng điện không đổi"
vật lý lớp 11(THPT) nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng
tạo của học sinh.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Tổ chức dạy học ngoại khoá một số chủ đề về "Dòng điện không đổi''
đối với học sinh lớp 11 THPT, nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng
lực sáng tạo của họ c sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu nghiên cứu và tổ chức đƣợc một số chủ đề hoạt động ngoại khoá
vật lí về ''Dòng điện không đổi'' sẽ góp phần nâng cao tính tích cực và phát
triển năng lực sáng tạo của học sinh.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu lí luận về tính tích cực, năng lực sáng tạo.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tổ chức dạy học ngoại khoá.
- Vận dụng kiến thức vào việc tổ chức một số hoạt động ngoại khoá về
dòng điện không đổi cho học sinh lớp 11 THPT.
- Khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp việc tổ chức dạy học ngoại
khoá bộ môn vật lý tại một số trƣờng THPT thuộc địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Soạn thảo tiến trình dạy học ngoại khoá cho một số đơn vị kiến thức về
dong điện không đổi trong chƣơng trình vật lý 11.
- Tổ chức thực hiện, tổng kết và rút ra một số kết luận cần thiết.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu và tổ chức hoạt động ngoại khoá khi dạy một số kiến thức
về dòng điện không đổi trong chƣơng trình vật lý 11 (THPT), nhằm phát huy
tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh.
7. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lí luận phục vụ đề tài: nghiên cứu các tài liệu về tâm
lí học, giáo dục học, lý luận dạy học vật lý, các tài liệu về tổ chức hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Nghiên cứu thực tế dạy học ngoại khoá vật lí tại một số trƣờng THPT.
- Tổ chức thực nghiệm sƣ phạm: thực hiện dạy học ngoại khoá một số
nội dung đã chọn và đánh giá mức độ hoàn thành của luận văn so với mục
đích nghiên cứu của đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
8. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận của hoạt động ngoại khoá vật lí tại
các trƣờng THPT.
- Đề xuất đƣợc một số nội dung và hình thức dạy học ngoại khoá vật lí.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tổ chức hoạt động ngoại khoá
vật lí.
9. CẤU TRÚC VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN
Luận văn dự kiến đƣợc trình bày gồm 5 phần: Ngoài phần mở đầu, phần
kết luận chung, phần tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm có 3 chƣơng:
Chương1: Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dòng điện khồng đổi" cho
học sinh lớp 11 THPT nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng
tạo cho học sinh
Chương 3: Thực nghiệm sƣ phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu
Hoạt động ngoại khoá là một hình thức dạy học có thể giúp học sinh có
kết quả cao hơn trong học tập và góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em.
Chính vì vậy mà hoạt động ngoại khoá đã đƣợc chú trọng nghiên cứu và thực
hiện ở nhiều nƣớc trên thế giới. Thậm chí nền giáo dục của nhiều nƣớc còn
chủ trƣơng giảm thời lƣợng các giờ lên lớp và tăng cƣờng các hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp và hoạt đông ngoại khoá. Công trình nghiên cứu gần
đây của các nhà giáo dục Mĩ cho thấy: Những học sinh thƣờng xuyên tham
gia vào các chƣơng trình hoạt động ngoài giờ lên lớp có chất lƣợng thƣờng
đạt đƣợc thành tích học tập cao hơn, có hành vi đạo đức tốt hơn, có mối quan
hệ và cảm xúc tốt hơn...
Các hình thức hoạt động ngoại khoá của các trƣờng phổ thông của các
nƣớc trên thế giới thƣờng tập trung chủ yếu vào các hoạt động nhƣ: trò chơi
trí tuệ; câu lạc bộ nhạc, kịch, hội hoạ, thể thao; dã ngoại thực tế…
Ở nƣớc ta, từ những năm 1960 khi xây dựng chƣơng trình giáo dục, Bộ giáo
dục đã xác định rõ: ''Muốn thực hiện giáo dục và giáo dưỡng trong các môn
học đạt kết quả đầy đủ thì ở nhà trường cần tổ chức ngoại khoá… Công tác
ngoại khoá bổ sung và nâng cao chất lượng của nội khoá lên một bước''. Vật
lí là một môn học bắt buộc ở trƣờng phổ thông của nƣớc ta hiện nay. Hoạt
động ngoại khoá về vật lí cũng là một phần trong hoạt động ngoại khoá ở
trƣờng phổ thông và đã đƣợc nghiên cứu từ lâu. Cho đến nay đã có nhiều đề
tài nghiên cứu việc tổ chức hoạt động ngoại khoá về vật lí cho đối tƣợng học
sinh phổ thông, nhƣ: Nguyễn Thúy Nga – năm 2001; Nguyễn Văn Ngà – năm
2001; Nguyễn Văn Phán – 2002; Phạm Tuyết Mai – 2002; Trần Hữu Phƣớc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
(2007), Nghiên cứu việc tổ chức ngoại khóa về cơ học chất lưu chuyển động
nhằm phát triển tính tích cực, sáng tạo của học sinh THPT, Luận văn thạc sĩ
khoa học giáo dục; Trƣơng Đức Cƣờng (2007), Nghiên cứu xây dựng và tổ
chức một số chủ đề ngoại khóa phần điện học lớp 12(THPT) nhằm góp phần
giáo dục KTTH cho học sinh, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục; Nguyễn
Hƣơng Lan – 2007; Ngô Thị Bình (2009), Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động
ngoại khoá về Tĩnh học vật rắn ở lớp 10 THPT nhằm phát huy tính tích cực và
phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo
dục…nhƣng ở các phần khác nhau trong chƣơng trình vật lí và chƣa có đề tài
nào nghiên cứu hoạt động ngoại khoá về “Dòng điện không đổi ” ở lớp 11
THPT. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn hƣớng đề tài này.
1.2. Một số nội dung về lí luận dạy học ở trƣờng phổ thông
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc dạy học ở nhà trƣờng PT
* Mục tiêu giáo dục phổ thông
Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã đƣợc cụ thể hóa trong Luật giáo dục
(2005) nhƣ sau: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
* Nhiệm vụ quá trình dạy học
Để đào tạo con ngƣời đủ phẩm chất và năng lực thỏa mãn yêu cầu xã
hội, quá trình dạy học phải thực hiện các nhiệm vụ sau :
Điều khiển, tổ chức HS nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ bản,
hiện đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, xã hội – nhân văn,
đồng thời rèn luyện cho họ hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. [2]
Trong dạy học, phải tổ chức cho ngƣời học nắm vững hệ thống tri thức
phổ thông cơ bản, phù hợp với thực tiễn đất nƣớc về tự nhiên, xã hội, tƣ duy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Những tri thức khoa học phổ thông cơ bản đƣợc cung cấp cho ngƣời học phải
là những tri thức phản ánh những thành tựu mới nhất của các lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật, văn hóa phù hợp với chân lý khách quan. Trên cơ sở đó hình
thành ở ngƣời học hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nhất định, đặc biệt là những kỹ
năng, kỹ xảo có liên quan đến hoạt động học tập: tự học, tập dƣợt nghiên cứu
khoa học ở mức độ thấp, nhằm giúp cho ngƣời học không chỉ nắm vững tri
thức mà còn biết vận dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong các tình
huống khác nhau.
Vì vậy, trong quá trình dạy học cần xác định các mức độ chiếm lĩnh tri
thức của ngƣời học ở các trình độ khác nhau từ nhận biết, tái hiện đến tái tạo,
tìm tòi và cuối cùng là khả năng kết hợp tất cả các mức độ trên.
Tổ chức điều khiển người học hình thành phát triển năng lực và những
phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy, độc lập, sáng tạo, phát triển thể
lực nâng cao sức khỏe để phục vụ học tập và lao động. [2]
Trong quá trình dạy học, ngƣời GV cần chú ý phát triển ở HS các năng
lực trí tuệ sau: năng lực định hƣớng đúng vấn đề nghiên cứu trong thực tế,
năng lực tƣ duy trừu tƣợng, năng lực di chuyển hành động trí tuệ, dự đoán
diễn biến của các hiện tƣợng, năng lực tổ chức lao động trí óc một cách khoa
học, năng lực tự học, năng lực hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo.
Đứng trƣớc sự bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ, việc hình thành cho
HS năng lực tự học một cách độc lập, sáng tạo gữi vai trò hết sức quan trọng, nó là
cơ sở để giúp con ngƣời có thể học tập thƣờng xuyên và học tập suốt đời.
Bên cạnh việc phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ, quá trình dạy học
có nhiệm vụ bồi dƣỡng cho HS một số phẩm chất hoạt động trí tuệ cả về bề
rộng, chiều sâu, tính độc lập, tính phê phán, tính mềm dẻo và tính năng động,
tính khái quát của hoạt động trí tuệ…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Nhƣ vậy, trong quá trình dạy học các phẩm chất của hoạt động trí tuệ nói
riêng và trí tuệ nói chung không ngừng phát triển và hoàn thiện. Ngƣợc lại, sự
phát triển trí tuệ trong chừng mực nhất định cũng ảnh hƣởng trở lại đối với
chất lƣợng quá trình dạy học. Nhƣ vậy giữa dạy học và phát triển trí tuệ có
mối quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy dạy học cần đi trƣớc, đón trƣớc và thúc đẩy
sự phát triển của ngƣời học. Muốn thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của ngƣời học thì
nói chung việc dạy học phải đảm bảo tính vừa sức với ngƣời học, các nhiệm vụ
dạy học phải tƣơng thích với “vùng phát triển gần nhất ” [23] tạo điều kiện đòi
hỏi ngƣời học phải không ngừng vƣơn lên với sự nỗ lực cao nhất.
Để phát triển trí tuệ cho HS cần chú ý tới các điều kiện sau:
+ Nắm đƣợc đặc điểm của đối tƣợng, đặc biệt là trình độ nhận thức của
đối tƣợng.
+ Có phƣơng pháp dạy học thích hợp nhằm phát huy trí thông minh của HS.
+ Lựa chọn nội dung dạy học một cách khoa học và hợp lý.
Bên cạnh phát triển trí tuệ, qúa trình dạy học có nhiệm vụ chăm lo phát triển thể
lực cho HS, giúp các em có sức khỏe để học tập và tham gia các hoạt động khác.
Tổ chức điều khiển người học, hình thành phát triển thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan và các phẩm chất của người công dân, người lao động
có bản lĩnh và bản nghĩa cộng đồng. [2]
Để hình thành thế giới quan khoa học cho HS, qúa trình dạy học có
nhiệm vụ tổ chức, điều khiển HS nắm vững hệ thống tri thức về tự nhiên, xã
hội và tƣ duy…hình thành ở HS niềm tin về tính chân thực và hiệu quả của
kiến thức, hình thành thái độ lành mạnh với thực tiễn, hình thành quan điểm
sống tích cực. Trong qúa trình dạy học, GV cần giáo dục cho HS lý tƣởng,
những phẩm chất nhân cách của con ngƣời mà xã hội đặt ra: yêu nƣớc, yêu
chủ nghĩa xã hội, có lòng thƣơng ngƣời, có lòng tự trọng cao, có ý thức pháp
luật, có tính chủ động trong cuộc sống…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Giữa các nhiệm vụ dạy học có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ
nhau cùng thực hiện mục tiêu của qúa trình dạy học. Nhờ nắm vững kỹ năng,
kỹ xảo mà năng lực tƣ duy sáng tạo của con ngƣời không ngừng đƣợc phát
triển, sự phát triển của tƣ duy sẽ kèm theo sự phát triển của thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan và các phẩm chất đạo đức của con ngƣời từ đó hình thành
con ngƣời mới đáp ứng yêu cầu của xã hội.
* Nguyên tắc dạy học
Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính
chất xuất phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phƣơng pháp và hình thức
dạy học phù hợp với mục đích giáo dục, nhiệm vụ dạy học và với những tính
quy luật của quá trình dạy học... [2]
Hệ thống các nguyên tắc dạy học bao gồm :
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục
trong dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi
với hành, nhà trƣờng gắn liền với đời sống.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự giác, tính tích cực, tính
độc lập, sáng tạo của HS và vai trò chủ đạo của GV trong quá trình dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển
tƣ duy lý thuyết.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vững chắc và sự phát triển năng lực nhận thức của HS.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá biệt và tính tập thể trong quá trình dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo tính cảm xúc tích cực của dạy học.
- Nguyên tắc chuyển từ dạy học sang tự học.
1.2.2. Các vấn đề chung về hình thức tổ chức dạy học ở trƣờng PT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Hình thức tổ chức dạy học là toàn bộ những cách thức tổ chức hoạt động
của GV và HS trong quá trình dạy học, ở thời gian và địa điểm nhất định với
những phƣơng pháp, phƣơng tiện dạy học cụ thể nhằm thực hiện những
nhiệm vụ dạy học.
Hình thức dạy học khác nhau chủ yếu tùy theo mối quan hệ giữa việc
dạy học có tính tập thể hay có tính cá nhân, mức độ tính tự lực hoạt động
nhận thức của HS, sự chỉ đạo chuyên biệt của GV đối với hoạt động học tập
của HS, chế độ làm việc, thành phần HS, địa điểm và thời gian học tập.
Trong thực tế dạy học, ngƣời ta phân biệt 3 dạng tổ chức dạy học: dạng
toàn lớp, dạng nhóm, dạng cá nhân.
* Các dạng tổ chức dạy học cơ bản [15], [9]
+ Dạng toàn lớp: Là dạng trong đó, mỗi HS đồng thời hoàn thành những
nhiệm vụ nhận thức chung.
- Ưu điểm: GV có thể lãnh đạo đồng thời mọi HS, tích cực điều khiển
việc lĩnh hội tri thức, việc ôn tập và củng cố tri thức cho toàn lớp.
- Nhược điểm: GV khó chú ý đến đặc điểm cá nhân, đặc biệt là đến tốc
độ hoạt động và trình độ hoạt động nhận thức của mỗi học sinh.
+ Dạng nhóm: Là dạng trong đó, từng nhóm HS cùng giải quyết những
nhiệm vụ nhận thức thống nhất. Các em có thể cùng thảo luận các nhiệm vụ
nhận thức, vạch ra con đƣờng và giải quyết các nhiệm vụ đó, cuối cùng đạt
đến kết quả chung.
- Ưu điểm: Giáo viên có thể chú ý tới những nhu cầu riêng của từng
nhóm HS, có thể mở ra khả năng rộng rãi để HS hợp tác hoạt động với nhau
cũng nhƣ để kiểm tra lẫn nhau.
- Nhược điểm: Những cá nhân HS nào đó do học tập thụ động có thể sử
dụng những kết quả mà những HS khá thu đƣợc. Mặt khác, nó còn có thể làm
nẩy sinh mâu thuẫn giữa những yêu cầu của GV và mức độ tích cực của cá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nhân HS riêng biệt, những yêu cầu do GV nêu ra hoặc khó quá, hoặc quá dễ
so với trình độ của từng HS.
+ Dạng cá nhân: Là dạng mà mỗi HS độc lập hoàn thành nhiệm vụ học
tập theo trình độ và khả năng riêng của mình, không có sự tác động của bạn bè.
- Ưu điểm: Phù hợp với mức độ cao nhất những đặc điểm cá nhân HS về
trình độ nhận thức, tốc độ làm việc. Dạng này tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi
cá nhân phát huy hết tiềm năng của mình, rèn luyện năng lực nhận thức độc
lập. Mặt khác, đối với GV về mặt giảng dạy có thể cá biệt hóa cao độ trong
việc đƣa ra nhiệm vụ nhận thức, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS.
- Nhược điểm: Dễ làm mất nhiều thời gian, đòi hỏi GV mất nhiều công
sức, không có tác động qua lại, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cá nhân HS.
Tóm lại, mỗi dạng tổ chức dạy học đều có những ƣu điểm và nhƣợc
điểm riêng. Thực tiễn dạy học đã khẳng định rằng, muốn phát huy cao độ tác
dụng của chúng, GV cần khéo léo sử dụng kết phối hợp các dạng tổ chức dạy
học một cách hiệu quả. Các dạng tổ chức dạy học này đƣợc thực hiện thông
qua các hình thức dạy học cụ thể.
* Các hình thức tổ chức dạy học ở trường PT
Để thực hiện đƣợc những nhiệm vụ dạy học ở trƣờng phổ thông, hoạt
động dạy học đƣợc tổ chức dƣới nhiều hình thức khác nhau. Đối với thực tiễn
dạy học ở nƣớc ta, quá trình dạy học đƣợc thực hiện bởi nhiều hình thức, có
thể kể đến một số hình thức sau: hình thức bài lên lớp (lớp – bài), hình thức
học ở nhà, hình thức hoạt động ngoại khóa ( tham quan, thảo luận và
xêmina…), hình thức giúp đỡ riêng... [15]
Hình thức lớp – bài: Đây là hình thức dạy học cơ bản, là hình thức giáo
viên lên lớp trình bày nội dung kiến thức của một tiết, bài.
Hình thức học ở nhà: Với hình thức này, HS có thể làm đƣợc rất nhiều công
việc nhƣ học bài, làm bài, làm thí nghiệm, đọc sách tham khảo, chuẩn bị bài mới…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Hình thức hoạt động ngoại khóa: Với hình thức này, HS có thể tham
quan học tập, tổ chức thảo luận theo chuyên đề, tổ chức các buổi dạ hội…hình
thức này còn ít đƣợc tiến hành tại các trƣờng phổ thông.
Hình thức giúp đỡ riêng: Trong quá trình dạy học, tất yếu sẽ có sự phân
hóa về trình độ nhận thức và sẽ xuất hiện hai loại HS: Yếu – kém, khá - giỏi
mà việc dạy học đƣợc tiến hành trên cơ sở trình độ chung không thỏa mãn hai
loại học sinh này.
1.3. Các nhiệm vụ cơ bản của dạy học vật lí ở trƣờng phổ thông
Căn cứ vào mục tiêu chung của hệ thống giáo dục quốc dân và đặc điểm riêng của
bộ môn vật lý, việc dạy học vật lý ở trƣờng phổ thông có các nhiệm vụ sau: [17]
* Trang bị cho HS hệ thống những kiến thức phổ thông, cơ bản, ở mức độ
hiện đại, bao gồm: các hiện tƣợng vật lý, các khái niệm vật lý, các định luật
vật lí cơ bản, nội dung chính của các thuyết vật lí, các ứng dụng quan trọng
nhất của vật lý trong đời sống và trong sản xuất, các phƣơng pháp nhận thức
phổ biến dùng trong vật lí.
* Phát triển tƣ duy khoa học ở HS: rèn luyện những thao tác, hành động,
phƣơng pháp nhận thức cơ bản, nhằm chiếm lĩnh kiến thức vật lí, vận dụng
sáng tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và hoạt động thực tiễn sau này.
* Trên cơ sở kiến thức vật lí vững chắc, có hệ thống, bồi dƣỡng cho HS
thế giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu nƣớc, thái độ đối với lao
động, đối với cộng đồng và những đức tính khác của ngƣời lao động.
* Góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp cho HS, làm
cho HS nắm đƣợc những nguyên lý cơ bản về cấu tạo và hoạt động của các
máy móc dùng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Có kỹ năng sử dụng
những dụng cụ vật lý, đặc biệt là những dụng cụ đo lƣờng, kỹ năng lắp ráp
các thiết bị để thực hiện thí nghiệm vật lí, vẽ biểu đồ, sử lý các số liệu đo đạc
để rút ra kết luận. Những kiến thức, kỹ năng đó giúp cho HS sau này nhanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
chóng thích ứng đƣợc với lao động sản xuất trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc.
Những nhiệm vụ trên không thể tách rời nhau mà luôn luôn gắn liền với
nhau, hỗ trợ lẫn nhau, góp phần đào tạo ra những con ngƣời phát triển hài
hòa, toàn diện.
1.4. Phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh
trong dạy học vật lí
Hình thức dạy học ngoại khoá có thể tạo nhiều điều kiện cho học sinh
phát huy đƣợc tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của mình. Để đánh
giá đƣợc hiệu quả của hoạt động ngoại khoá trong việc phát huy tính tích cực
và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh thì chúng ta cần phải nghiên cứu
những đặc điểm và biểu hiện của chúng trong quá trình học sinh hoạt động.
1.4.1. Tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập [23], [17]
* Khái niệm về tính tích cực của học sinh trong học tập
Tính tích cực trong học tập là một hiện tƣợng sƣ phạm biểu hiện ở sự
cố gắng cao về nhiều mặt trong học tập. Học tập là một trƣờng hợp riêng của
nhận thức “một sự nhận thức làm cho dễ dàng đi và đƣợc thực hiện dƣới sự
chỉ đạo của giáo viên” (P.N.Erddơniev, 1974). Vì vậy, nói tới tích cực học tập
thực chất là nói đến tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng thái
hoạt động nhận thức của học sinh, đặc trƣng ở khát vọng học tập, cố gắng trí
tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức.
* Các biểu hiện của tính tích cực trong học tập
Tính tích cực của học sinh trong học tập biểu hiện qua các hành động
cụ thể nhƣ:
- Học sinh sẵn sàng, hồ hởi đón nhận các nhiệm vụ mà giáo viên giao cho.
- Học sinh tự nguyện tham gia vào các hoạt động học tập.
- Học sinh tự giác thực hiện các nhiệm vụ mà mình đã nhận mà không
cần phải để giáo viên đôn đốc, nhắc nhở.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
- Học sinh yêu cầu đƣợc giải đáp thắc mắc về những lĩnh vực còn chƣa rõ.
- Học sinh mong muốn đƣợc đóng góp ý kiến với giáo viên, với bạn bè
những thông tin mới mẻ hoặc những kinh nghiệm có đƣợc ngoài sách vở, từ
những nguồn khác nhau.
- Học sinh tận dụng thời gian rỗi của mình để cố gắng hoàn thành công
việc, hoặc hoàn thành công việc sớm hơn thời hạn hoặc xin nhận thêm nhiệm vụ...
- Học sinh thƣờng xuyên trao đổi, tranh luận với bạn bè để tìm phƣơng
án giải quyết vấn đề, mong muốn đƣợc giáo viên giúp đỡ, chỉ dẫn mà không
nản chí khi gặp khó khăn.
Ngoài ra, tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập cũng nhƣ
trong hoạt động ngoại khoá còn có thể nhận thấy trong biểu hiện về mặt ý chí,
nhƣ: sự tập trung vào vấn đề đang nghiên cứu, kiên trì theo đuổi mục tiêu,
không nản chí trƣớc những khó khăn hoặc thái độ phản ứng trong những buổi
học, buổi hoạt động nhóm là hào hứng, sôi nổi hay chán nản.
* Các cấp độ của tính tích cực học tập
Có thể phân biệt tính tích cực ở ba cấp độ khác nhau nhƣ sau:
+ Cấp độ 1 – bắt chƣớc: Học sinh tích cực bắt chƣớc hoạt động của
giáo viên và của bạn bè. Trong hành động bắt chƣớc cũng phải có sự cố gắng
của thần kinh và cơ bắp.
+ Cấp độ 2 – tìm tòi: Học sinh tìm cách độc lập giải quyết vấn đề, thử
nhiều cách khác nhau để giải quyết hợp lí vấn đề.
+ Cấp độ 3 – sáng tạo: Học sinh nghĩ ra cách giải quyết mới độc đáo
hoặc cấu tạo những nhiệm vụ mới, bài tập mới hay những thí nghiệm mới để
chứng minh bài học.
Những biểu hiện và các cấp bậc của tính tích cực trong học tập của học
sinh nêu trên chính là những căn cứ để chúng tôi đánh giá hiệu quả của quy
trình hoạt động ngoại khóa về “Dòng điện không đổi” đối với việc phát huy
tính tích cực của học sinh trong thực nghiệm sƣ phạm.
1.4.2. Năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
* Khái niệm năng lực sáng tạo
“Sáng tạo là một hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh
thần hay vật chất có tính đổi mới, có ý nghĩa xã hội, có giá trị” (Sáng tạo,
Bách khoa toàn thƣ Liên Xô. Tập 42, trang 54)
Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị mới về
vật chất hoặc tinh thần, tìm ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng
thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới. Nhƣ vậy, sản phẩm của
sự sáng tạo không thể suy ra từ cái đã biết bằng cách suy luận lôgic hay bắt
chƣớc làm theo mà nó là sản phẩm của tƣ duy trực giác.
Năng lực sáng tạo gắn liền với kĩ năng, kĩ xảo và vốn hiểu biết của chủ
thể. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, nếu chủ thể hoạt động càng thành
thạo và có vốn hiểu biết sâu rộng thì càng nhạy bén trong dự đoán, đề ra đƣợc
nhiều dự đoán, nhiều phƣơng án để lựa chọn, càng tạo điều kiện cho trực giác
phát triển. Bởi vậy, muốn rèn luyện năng lực sáng tạo thì nhất thiết không thể
tách rời, độc lập với học tập kiến thức về một lĩnh vực nào đó.
* Đặc điểm của sự sáng tạo [35], [33]
Sự sáng tạo xuất hiện trong quá trình tƣ duy trực giác. Trong sáng tạo,
tri thức đƣợc thu nhận một cách nhảy vọt, một cách trực tiếp, các giai đoạn
của nó không thể hiện một cách minh mạch và ngƣời suy nghĩ không thể chỉ
ngay ra làm thế nào mà họ đi đến đƣợc quyết định đó, con đƣờng đó vẫn chƣa
nhận thức đƣợc, phải sau này mới xác lập đƣợc lôgic của phỏng đoán trực
giác đó. Tƣ duy trực giác thể hiện nhƣ một quá trình ngắn gọn, chớp nhoáng
mà ta không thể nhận biết đƣợc diễn biến. H.Poimcarê nói: “Lôgic là chứng
minh, còn trực giác thì sáng tạo”
Đặc trƣng tâm lí quan trọng của hoạt động sáng tạo là tính chất hai mặt
chủ quan và khách quan: chủ quan theo quan điểm của ngƣời nhận thức mà
trong đầu học đang diễn ra quá trình sáng tạo và khách quan theo quan điểm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
ngƣời nghiên cứu cái quá trình sáng tạo đó xem nhƣ một quá trình diễn ra có quy
luật, tác động qua lại giữa ba thành tố là tự nhiên, ý thức con ngƣời và sự phản
ánh tự nhiên vào ý thức con ngƣời. Đối với ngƣời sáng tạo thì tính mới mẻ, tính
bất ngờ, tính ngẫu nhiên của phỏng đoán đều là chủ quan. Đối với các nhà khoa
học thì chỉ những phát minh mà loài ngƣời chƣa từng biết đến mới đƣợc coi là
sự sáng tạo. Còn đối với học sinh thì sáng tạo là tạo ra cái mới đối với bản thân
mình, chứ giáo viên và nhiều ngƣời khác có thể đã biết rồi. Bởi vậy hoạt động
sáng tạo của học sinh mang ý nghĩa là một hoạt động tập dƣợt sáng tạo hay sáng
tạo lại. Điều quan trọng cần đạt đƣợc không phải là những sản phẩm sáng tạo mà
là khả năng sáng tạo của họ, khả năng này sẽ luôn đƣợc học sinh sử dụng trong
hoạt động thực tiễn sau này kể cả khi kiến thức mà họ thu nhận đƣợc đã bị quên.
* Các biểu hiện của sự sáng tạo trong học tập vật lí
Những hành động của học sinh trong học tập có mang tính sáng tạo cụ
thể nhƣ sau:
- Từ những kinh nghiệm thực tế, từ các kiến thức đã có, học sinh nêu
đƣợc giả thuyết. Trong chế tạo dụng cụ thí nghiệm thì học sinh đƣa ra đƣợc
các phƣơng án thiết kế, chế tạo dụng cụ và cùng một thí nghiệm có thể đƣa ra
đƣợc nhiều cách chế tạo khác nhau. Đề xuất đƣợc những sáng kiến kĩ thuật để
thí nghiệm chính xác hơn, dụng cụ bền đẹp hơn,…
- Học sinh đƣa ra dự đoán kết quả các thí nghiệm, dự đoán đƣợc
phƣơng án nào chính xác nhất, phƣơng án nào mắc sai số, vì sao?
- Đề xuất đƣợc những phƣơng án dùng những dụng cụ thí nghiệm đã chế
tạo để làm thí nghiệm để kiểm tra dự đoán và kiểm nghiệm lại lí thuyết đã học.
- Vận dụng kiến thức lí thuyết đã học vào thực tế một cách linh hoạt
nhƣ giải thích một số hiện tƣợng vật lí, giải thích kết quả thí nghiệm hoặc các
ứng dụng của vật lí trong kĩ thuật có liên quan.
Những biểu hiện của sự sáng tạo của học sinh trong học tập nhƣ nêu
trên cũng sẽ là những căn cứ để chúng tôi đánh giá hiệu quả của hoạt động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
ngoại khóa về “Dòng điện không đổi - lớp 11” đối với việc phát triển năng lực
sáng tạo của học sinh trong quá trình thực nghiệm sƣ phạm.
1.5. Vị trí, tác dụng của hoạt động ngoại khóa trong hệ thống các hình
thức tổ chức dạy học ở trƣờng phổ thông
Để hoàn thành tốt mục tiêu giảng dạy của môn học, đặc biệt là mục tiêu
giảng dạy về rèn luyện năng lực sáng tạo và mục tiêu về thái độ tích cực trong
học tập của học sinh thì giáo viên vật lí cần phải phối hợp một cách khéo léo
các hoạt động học tập trong nội khóa và ngoại khóa cho học sinh.
Hoạt động ngoại khóa vật lí là một trong những hoạt động ngoài giờ lên
lớp có tổ chức, có kế hoạch, có phƣơng hƣớng xác định, đƣợc học sinh tiến
hành theo nguyên tắc tự nguyện ở ngoài giờ nội khóa dƣới sự hƣớng dẫn của
giáo viên vật lí nhằm gây sự hứng thú và phát triển tƣ duy, rèn luyện kĩ năng,
bổ sung và mở rộng kiến thức vật lí. Nó có tác dụng to lớn về cả ba mặt mục
tiêu dạy học: giáo dƣỡng, giáo dục và giáo dục kĩ thuật tổng hợp.
Để vận dụng có hiệu quả hình thức dạy học tổ chức hoạt động ngoại
khóa vật lí cho học sinh thì giáo viên cần phải hiểu rõ tác dụng và vị trí của
hình thức dạy học này.
1.5.1. Vị trí của hoạt động ngoại khóa trong hệ thống các hình thức tổ
chức dạy học ở trường phổ thông [12]
Nhà trƣờng phổ thông có ba hình thức tổ chức đào tạo là: Dạy học trên
lớp, giáo dục lao động kĩ thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp dạy nghề và công
tác giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động rộng rãi
trong các lĩnh vực: Xã hội – chính trị, văn hóa – khoa học, nghệ thuật, thể dục
thể thao, quốc phòng.
Công tác ngoại khóa nói chung và công tác ngoại khóa vật lí nói riêng
thuộc lĩnh vực thứ hai của toàn bộ công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
trƣờng phổ thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
1.5.2. Tác dụng của hoạt động ngoại khóa vật lí
Hoạt động ngoại khóa vật lí nói riêng và hoạt động ngoại khóa nói
chung có vai trò rất quan trọng trong công tác giáo dục ở nhà trƣờng phổ
thông, góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục trên tất cả các mặt, cụ thể là:
+ Về mặt nhận thức: Hoạt động ngoại khóa giúp học sinh củng cố, đào
sâu, mở rộng những tri thức đã học trong nội khóa; giúp cho học sinh vận
dụng đƣợc những kiến thức đó vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong
cuộc sống, gắn lí thuyết với thực tiễn, thấy đƣợc những ứng dụng của kiến
thức đã đƣợc học trong đời sống và kĩ thuật.
+ Về mặt rèn luyện kĩ năng: Hoạt động ngoại khóa giúp cho học sinh
đƣợc rèn luyện chế tạo dụng cụ thí nghiệm, kĩ năng tiến hành thí nghiệm, kĩ
năng giải quyết vấn đề; rèn luyện kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng tự tổ
chức, kĩ năng tự quản lí, kĩ năng điều khiển hoạt động nhóm. Ngoài ra, hoạt
động ngoại khóa còn giúp học sinh phát triển kĩ năng giao tiếp, rèn luyện
ngôn ngữ và kĩ năng phát biểu trƣớc đám đông.
+ Về mặt giáo dục tinh thần, thái độ làm việc: Hoạt động ngoại khóa
kích thích sự hứng thú học tập, khơi dậy lòng ham hiểu biết, lôi cuốn học sinh
tự giác tham gia một cách nhiệt tình vào các hoạt động, phát huy tính tích cực,
tự lực của học sinh.
Ngoài ra, hoạt động ngoại khóa còn góp phần phát triển năng lực tƣ
duy nhƣ tƣ duy lôgic, tƣ duy trừu tƣợng và đặc biệt là năng lực tƣ duy sáng
tạo cho học sinh.
Tóm lại, hoạt động ngoại khóa có mục đích bao trùm là hỗ trợ cho dạy
học nội khóa, giúp phát triển và hoàn thiện nhân cách ngƣời học. Đặc biệt,
hoạt động ngoại khóa góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực
có tính tích cực, tự lực cao và có khả năng sáng tạo tốt trong công việc, đáp
ứng đƣợc yêu cầu của nền giáo dục nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
1.6. Các đặc điểm của hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa về vật lí nói riêng và hoạt động ngoại khóa nói
chung có những đặc điểm cơ bản nhƣ sau:
+ Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa phải đƣợc lập kế hoạch cụ thể
về cả mục đích, nội dung, phƣơng pháp, hình thức tổ chức, lịch hoạt động cụ
thể và thời gian thực hiện.
+ Tổ chức các hoạt động ngoại khóa dựa trên tinh thần tự nguyện tham
gia và sự hứng thú của học sinh, dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên. Trên cơ sở
đó, học sinh sẽ yêu thích công việc, hoạt động tích cực, có hiệu quả và phát
triển đƣợc năng lực của mình.
+ Số lƣợng học sinh tham gia không hạn chế, có thể tổ chức hoạt
động ngoại khóa theo nhóm hoặc theo tập thể đông ngƣời. Trong điều kiện
cho phép có thể huy động học sinh toàn trƣờng tham gia, không phân biệt
trình độ học sinh.
+ Nội dung và hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa phải đa dạng,
phong phú, mềm dẻo, hấp dẫn để lôi cuốn đƣợc nhiều học sinh tham gia.
+ Việc đánh giá kết quả các hoạt động ngoại khóa của học sinh không
phải bằng điểm số thông qua các bài kiểm tra nhƣ trong các giờ học nội khóa,
mà thông qua tính tích cực, sáng tạo của học sinh và sản phẩm của quá trình
hoạt động. Ngoài ra, kết quả của hoạt động ngoại khóa đƣợc đánh giá một
cách công khai thông qua cả giáo viên và học sinh. Để khích lệ quá trình hoạt
động của học sinh thì cũng cần có sự khuyến khích và phần thƣởng động viên
kịp thời cho các em.
1.7. Nội dung, các hình thức tổ chức và phƣơng pháp dạy học ngoại khóa
về vật lí [15], [12], [30]
1.7.1. Nội dung ngoại khóa về vật lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Nội dung của ngoại khóa vật lí phải bổ sung và hỗ trợ cho nội khóa. Nội
dung của ngoại khóa giúp cho học sinh củng cố, đào sâu, mở rộng kiến thức vật
lí đã đƣợc học trong nội khóa; bổ sung những kiến thức lí thuyết hoặc khắc
phục những sai lầm mà học sinh thƣờng mắc phải khi học nội khóa; giúp cho
học sinh hiểu rõ, biết liên kết và khái quát hóa những kiến thức đã đƣợc hình
thành một cách rời rạc. Ngoài ra, nội dung của ngoại khóa cần phải giúp cho
học sinh nâng cao lòng ham thích, ham hiểu biết về vật lí – kĩ thuật, vật lí – đời
sống, vật lí – thiên văn, …phát triển tính độc lập, óc sáng tạo của học sinh, tạo
điều kiện cho học sinh đƣợc rèn luyện một số kĩ năng và kĩ xảo.
Có thể kể đến một số nội dung hoạt động ngoại khóa mà học sinh có
thể thực hiện đƣợc nhƣ:
- Tìm hiểu thêm các kiến thức về vật lí và kĩ thuật.
- Nghiên cứu các lĩnh vực riêng biệt của vật lí học, tìm hiểu những ứng
dụng của vật lí trong đời sống, kĩ thuật nhƣ: kĩ thuật điện, kĩ thuật vô tuyến
điện, kĩ thuật chụp ảnh, các ứng dụng của sóng siêu âm …
- Thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm vật lí và kĩ thuật.
Để lựa chọn nội dung tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí phù hợp thì
giáo viên cần phải căn cứ vào nội dung kiến thức mà học sinh đƣợc học trong
nội khóa và tầm quan trọng của kiến thức này trong đời sống, kĩ thuật cũng nhƣ
mục tiêu dạy học về phần kiến thức đó mà học sinh cần phải đạt đƣợc.
Căn cứ vào các hƣớng có thể tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí
nhƣ trên và thực tế dạy học vật lí ở trƣờng phổ thông hiện nay, chúng tôi lựa
chọn nội dung của đề tài chủ yếu là hoạt động thực nghiệm: thiết kế, chế tạo
và sử dụng cụ thí nghiệm vật lí đơn giản. Và chúng tôi chọn nội dung kiến
thức của chƣơng “Dòng điện không đổi” trong sách giáo khoa vật lí lớp 11
phổ thông để xây dựng nội dung cho hoạt động ngoại khóa.
1.7.2. Các hình thức hoạt động ngoại khóa về vật lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Việc phân chia các hình thức hoạt động ngoại khóa về vật lí chỉ mang
tính chất tƣơng đối, không phân biệt đƣợc rõ ràng. Có thể phân ra các hình
thức hoạt động ngoại khóa về vật lí theo lƣợng học sinh tham gia, cũng có thể
theo nội dung ngoại khóa hoặc theo thời gian và địa điểm diễn ra hoạt động
ngoại khóa… Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chúng tôi nhận thấy các hình
thức tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí thông thƣờng nhất là: hoạt động
ngoại khóa mang tính chất cá nhân, hoạt động ngoại khóa theo các nhóm và
hoạt động ngoại khóa có tính quần chúng rộng rãi. Cụ thể:
- Tổ chức các hoạt động ngoại khóa ở lớp và ở nhà (học sinh đọc sách báo
về vật lí và kĩ thuật; tổ chức các buổi báo cáo và dạ hội về các vấn đề vật lí – kĩ
thuật; học sinh ra báo tƣờng hoặc tập san về vật lí – kĩ thuật; học sinh biểu diễn
thí nghiệm hoặc giới thiệu sản phẩm là thí nghiệm vật lí chế tạo đƣợc…)
- Học sinh tổ chức triển lãm giới thiệu những thành tích hoạt động
ngoại khóa về vật lí.
- Tổ chức cho học sinh thăm quan ngoại khóa về vật lí, kĩ thuật.
- Tổ chức, hƣớng dẫn học sinh thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ
thí nghiệm vật lí hoặc máy móc đơn giản.
- Tổ chức ôn luyện cho học sinh tham dự thi học sinh giỏi hoặc các
cuộc thi khác dành cho môn vật lí ở trƣờng phổ thông.
Với các hình thức tổ chức ngoại khóa về vật lí nhƣ trên, học sinh có thể
tham gia vào các hoạt động với tƣ cách cá nhân, nhóm hoặc tập thể.
* Hoạt động ngoại khóa theo nhóm
Dựa trên tính chất đặc thù của bộ môn vật lí: các kiến thức vật lí không
khó nhƣng biểu hiện khá phức tạp trong thức tế và các kiến thức đƣợc xây
dựng chủ yếu bằng con đƣờng thực nghiệm. Cho nên tổ chức ngoại khóa về
vật lí nên lựa chọn nhiều nội dung liên quan đến việc sử dụng thí nghiệm. Để
hoạt động ngoại khóa về vật lí có liên quan nhiều đến thí nghiệm thành công
đƣợc thì hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa theo nhóm là ƣu việt nhất.
Hình thức này vừa đảm bảo cho quá trình thiết kế, chế tạo và tiến hành thí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
nghiệm diễn ra nhanh, có chất lƣợng vừa tạo điều kiện cho học sinh tự học
hỏi lẫn nhau và rèn luyện kĩ năng làm việc theo nhóm.
+ Các nguyên tắc đảm bảo tổ chức tốt nhóm ngoại khóa vật lí:
- Khi tổ chức nhóm ngoại khóa trƣớc hết phải dựa trên tinh thần tự
nguyện, hứng thú của học sinh, học sinh phải đƣợc lựa chọn lĩnh vực kiến
thức yêu thích để thiết kế, chế tạo thí nghiệm. Điều này tạo cho học sinh tinh
thần làm việc thoải mải, từ đó họ thấy yêu thích công việc, nỗ lực hoàn thành
công việc và phát triển đƣợc tài năng.
- Để nhóm ngoại khóa có thể tồn tại và hoạt động có hiệu quả thì nhất
thiết phải phát hiện và xây dựng đƣợc hạt nhân của nhóm. Hạt nhân của nhóm
thƣờng là nhóm trƣởng. Học sinh đƣợc chọn là hạt nhân của nhóm phải thích
thú và có sự nhiệt tình cao với đề tài mà nhóm theo đuổi, đồng thời cũng phải
có khả năng đoàn kết các thành viên trong nhóm học tập và lực học thuộc
hạng khá vững vàng, tuy nhiên nhóm trƣởng không nhất thiết là thành viên
giỏi nhất trong nhóm.
- Yếu tố mới và tính vừa sức của đề tài đóng vai trò quan trọng trong
việc duy trì và phát triển sự hứng thú và tích cực của nhóm. Với nguyên tắc
này, nội dung hoạt động ngoại khóa phải mới ít nhiều so với nội khóa, không
đơn thuần là những thí nghiệm kiểm nghiệm lại kiến thức hoặc áp dụng dƣới
dạng quá đơn giản các kiến thức đã học. Giáo viên cần phải xác định đƣợc nội
dung thích hợp, vừa sức với học sinh và khéo léo tổ chức sao cho từng bƣớc
học sinh thu đƣợc kết quả đều đặn, kể cả ở giai đoạn đầu để động viên kịp
thời. Để đạt đƣợc điều đó, khi tổ chức nhóm ngoại khóa giáo viên cần phải dự
kiến đƣợc những khó khăn mà học sinh có thể gặp phải, lên phƣơng án giúp
đỡ và tạo điều kiện về thời gian, tài liệu, nguyên vật liệu…cho nhóm học sinh.
- Phải đảm bảo tính nghiêm túc, nhẹ nhàng, tránh nặng nề, nhƣng cũng
tránh tùy tiện trong quá trình nhóm hoạt động. Để đảm bảo nguyên tắc này,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
nhóm ngoại khóa cần có lịch làm việc cụ thể về thời gian cũng nhƣ tiến độ công
việc, tránh tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”. Kiên quyết không để kế hoạch bị
phá sản chừng nào không bị những nguyên nhân khách quan chi phối. Nhƣ vậy
thì quá trình hoạt động mới có ý nghĩa và đảm bảo uy tín của giáo viên.
+ Nội dung của nhóm ngoại khóa
Tùy theo nội dung hoạt động của nhóm ngoại khóa có thể phân loại
thành: Nhóm “Vật lí lý thuyết”, nhóm “Chế tạo dụng cụ thí nghiệm vật lí”,
nhóm “Vật lí kĩ thuật”.
- Nhóm “Vật lí lý thuyết”
Nhóm này đi sâu vào tìm hiểu và sƣu tầm các tài liệu xoay quanh vấn
đề đang học hoặc các vấn đề đang đƣợc quan tâm nhằm giúp cho các thành
viên trong lớp hiểu sâu hơn kiến thức đƣợc học. Đồng thời nghiên cứu, giải
thích các hiện tƣợng mà trong hoàn cảnh hạn chế của thời gian trên lớp mà
giáo viên không thể đi sâu đƣợc. Khi tham gia nhóm ngoại khóa này, học sinh
có thể sƣu tầm những bài vật lí hay rồi tiến hành thảo luận để tìm ra phƣơng
pháp giải hay, ngắn gọn; cũng có thể nhiệm vụ của nhóm là tìm hiểu lịch sử
phát sinh và phát triển của một lĩnh vực của vật lí, kĩ thuật hoặc học sinh tìm
hiểu tiểu sử của các nhà bác học vật lí v.v… Nhóm có thể phụ trách công việc
ra báo tƣờng hoặc tập san vật lí của trƣờng, nội dung hoạt động của nhóm
ngoại khóa này phải mới so với nội khóa, không đơn thuần là sƣu tập các
thông tin đã có trong sách giáo khoa hoặc sách bài tập.
Trong quá trình thực hiện đề tài, giáo viên cần lƣu ý tới sự hứng thú
của học sinh theo hƣớng tìm hiểu, nghiên cứu mà các em đã chọn để đảm bảo
cho đề tài đƣợc thành công, đúng tiến độ và cung cấp đƣợc những sản phẩm
có chất lƣợng.
- Nhóm “Chế tạo dụng cụ thí nghiệm vật lí”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Do đặc thù của môn học cho nên hình thức nhóm ngoại khóa “Chế tạo
dụng cụ thí nghiệm vật lí” là phổ biến nhất trong công tác ngoại khóa vật lí.
Tại các trƣờng phổ thông hiện nay đã đƣợc trang bị các dụng cụ thí
nghiệm phục vụ cho giờ học thực hành của học sinh. Tuy nhiên, số lƣợng các
thí nghiệm còn hạn chế, đặc biệt là các thí nghiệm có liên quan đến các ứng
dụng vật lí của kĩ thuật. Để có thể phát huy tính tích cực của học sinh và phát
triển đƣợc năng lực sáng tạo của các em thì việc phải chế tạo thêm các dụng
cụ thí nghiệm là rất cần thiết. Do vậy công tác ngoại khóa tổ chức cho học
sinh tham gia chế tạo các dụng cụ thí nghiệm là rất phù hợp. Tổ chức đƣợc tốt
hình thức ngoại khóa với nội dung nhƣ vậy vừa giúp học sinh trực tiếp tham
gia chế tạo dụng cụ có thể hiểu sâu hơn kiến thức đƣợc học, thấy đƣợc ứng
dụng của kiến thức trong thực tế, đồng thời cũng khiến cho các em thấy hứng
thú và tích cực hơn trong học tập, đồng thời vừa có thể bổ sung thêm các
dụng cụ thí nghiệm còn thiếu cho nhà trƣờng, giúp cho việc giảng dạy các
khóa sau đƣợc thuận lợi. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, giáo viên cũng cần phải
góp ý để các em chế tạo đƣợc những dụng cụ thí nghiệm đẹp, bền và có thể sử
dụng đƣợc lâu dài. Tuy nhiên trong quá trình học sinh chế tạo dụng cụ, giáo
viên cũng cần làm cho các em hiểu rõ nguyên tắc cấu tạo cũng nhƣ hoạt động
của các dụng cụ thí nghiệm, chứ không phải các em chỉ cần chế tạo các dụng
cụ theo mẫu có sẵn mà không hiểu bản chất và ý nghĩa của các dụng cụ. Nhƣ
vậy thì công tác ngoại khóa mới có ý nghĩa giáo dục và thực tiễn mạnh mẽ.
Giáo viên cũng cần lƣu giữ các hình ảnh hoạt động và sản phẩm của
nhóm trong phòng thí nghiệm của nhà trƣờng để giáo dục và làm gƣơng cho các
thế hệ sau. Trong quá trình hoạt động ngoại khóa, giáo viên cũng cần dạy cho
các em biết cách sử dụng các công cụ, hiểu tính năng và cách gia công các vật
liệu khác nhau nhƣ sắt, gỗ, bìa cứng, dung dịch hoá học, dây dẫn bằng kim
loại,… Giáo viên cũng có thể nhờ phụ huynh hoặc chuyên gia đến hƣớng dẫn
cho các em trong nhóm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
- Nhóm “Vật lí kĩ thuật”
Hình thức hoạt động ngoại khóa với nội dung liên quan đến các ứng
dụng của vật lí trong kĩ thuật cũng đƣợc nhiều học sinh tham gia, dễ hứng thú,
đồng thời có tác dụng giáo dục kĩ thuật khá trực tiếp do đó cần phải đƣợc đề
cao và khuyến khích. Nhóm ngoại khóa này có thể hoạt động theo nhiều
hƣớng, với tên gọi phong phú và hấp dẫn. Những nhóm ngoại khóa này mang
nhiều tính chất thực hành chuyên môn hơn nhóm “Chế tạo dụng cụ thí
nghiệm vật lí” nhƣng hoạt động của nhóm vẫn phải gắn liền với hai mặt lí
thuyết và thực hành. Do vậy giáo viên cần phải bổ sung thêm cả kiến thức lý
thuyết và thực hành cho học sinh. Khi tổ chức hình thức ngoại khóa này, giáo
viên nên tổ chức những nhóm phục vụ yêu cầu của nền sản suất ở địa phƣơng
và nên phối hợp với những chuyên gia ở đó để có sự giúp đỡ về kĩ thuật cũng
nhƣ kinh nghiệm. Các nhóm ngoại khóa “Vật lí kĩ thuật” này nếu làm tốt vai
trò của mình sẽ trở thành nòng cốt trong việc liên hệ bài học vật lí với thực tế
kĩ thuật, nhóm này có vai trò tốt trong việc giúp cho các học sinh khác hiểu rõ
hơn vai trò và biểu hiện của các kiến thức vật lí trong đời sống.
* Hoạt động ngoại khóa có tính chất quần chúng rộng rãi
Các hoạt động ngoại khóa vật lí thu hút nhiều ngƣời tham gia, nhƣ: Hội vui
vật lí; triển lãm vật lí; báo tƣờng về vật lí… Hoạt động ngoại khóa này thƣờng là
kết quả của quá trình hoạt động của nhóm vật lí. Các hoạt động ngoại khóa này
nếu đƣợc chuẩn bị chu đáo và tổ chức một cách hấp dẫn thì có tác dụng rất lớn
trong việc nâng cao lòng yêu thích nghiên cứu và học hỏi của học sinh.
+ Hội vui vật lí
Hội vui là một hình thức ngoại khóa dễ phổ biến, lôi cuốn đƣợc đông
đảo học sinh tham gia, tạo ra đƣợc khí thế trong học tập và nghiên cứu. Hội
vui có thể tổ chức theo từng chuyên đề hoặc theo khối lớp. Chẳng hạn: hội vui
cơ học; hội vui về nhiệt học; hội vui về điện học; hội vui về quang học…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Hội vui có nội dung chính là các trò chơi hoặc các câu hỏi rèn luyện trí
tuệ, nhƣ: trò chơi hái hoa dân chủ; thi khéo tay; thi giải đáp các câu hỏi trí
tuệ.... Thời gian tổ chức hội vui không nên kéo dài để đảm bảo cho hội vui
vừa truyền tải hết nội dung cần thiết vừa không gây ảnh hƣởng đến sức khỏe
và sự đi lại của học sinh.
Để cho hội vui thành công, đáp ứng đƣợc yêu cầu đã đề ra của chủ hội thì
cần phải chuẩn bị nội dung sao cho hợp lí, phong phú, hấp dẫn và có phần
thƣởng khuyến khích cho ngƣời thắng cuộc khi tham gia trò chơi. Đối với những
trò chơi có liên quan đến máy móc thì cần phải kiểm tra kĩ lƣỡng trƣớc khi tổ
chức hội vui và phải có dự trù thời gian và dụng cụ cho những trò chơi này.
+ Triển lãm về vật lí
Triển lãm về vật lí ở trƣờng phổ thông có thể tổ chức nhân ngày lễ của
trƣờng hoặc dịp tổng kết một kì học hoặc cuối năm học. Mục đích của triển
lãm về vật lí là để nói lên thành tựu hoạt động học tập và nghiên cứu về vật lí
của một khối lớp hoặc của toàn trƣờng.
Để cho triển lãm thành công thì nội dung triển lãm phải phong phú;
trình bày đẹp, khoa học và hấp dẫn. Nội dung triển lãm có thể gồm: dụng cụ,
mô hình vật lí mà học sinh chế tạo đƣợc; mẫu vật sƣu tầm đƣợc; đồ dùng
phục vụ cho việc dạy học; biểu diễn thí nghiệm vật lí có liên quan đến kiến
thức vật lí phổ thông mà học sinh đã đƣợc học. Triển lãm có thể tổ chức kết
hợp với hội vui vật lí hoặc tiến hành cùng với các bộ môn khác nhƣ toán, hóa,
sinh, công nghệ…
+ Báo tƣờng về vật lí
Đây là một hình thức hoạt động ngoại khóa khá hấp dẫn, dễ tổ chức, lôi
cuốn đƣợc đông đảo học sinh tham gia, không phân biệt trình độ học sinh
nhiều. Hình thức hoạt động ngoại khóa này có tác dụng tốt trong việc thúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
đẩy học sinh sƣu tầm, đọc các sách báo hoặc giải các bài toán hay về vật lí.
Báo tƣờng về vật lí cũng là một hoạt động để giáo viên hoặc các thành viên
tích cực trong lớp công bố các bài toán hay mà không có điều kiện hoặc
không cần thiết phải trình bày trên lớp.
Trên cơ sở nghiên cứu về các nội dung, hình thức của hoạt động ngoại
khóa về vật lí và mục đích của đề tài, chúng tôi đã lựa chọn hƣớng nội dung
hoạt động ngoại khóa là hoạt động thực nghiệm: tổ chức và hƣớng dẫn học
sinh thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm về dòng điện không
đổi từ những vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm, đơn giản. Với hƣớng nội dung đó,
chúng tôi cũng lựa chọn hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa cơ bản là học
sinh hoạt động theo nhóm. Ngoài ra để hoạt động ngoại khóa của học sinh có
ý nghĩa và tăng sự hứng thú của học sinh hơn, chúng tôi có tổ chức một buổi
để cho các nhóm học sinh báo cáo sản phẩm và kết hợp với hội vui vật lí.
1.7.3. Phương pháp dạy học hoạt động ngoại khóa vật lí
Phƣơng pháp dạy học hoạt động ngoại khóa vật lí thƣờng có tính mềm
dẻo, không cứng nhắc, phụ thuộc vào nội dung của hoạt động ngoại khóa và
trình độ của giáo viên cũng nhƣ học sinh. Cũng nhƣ trong dạy học nội khóa,
trong dạy học ngoại khóa việc hƣớng dẫn của giáo viên cũng theo các kiểu
định hƣớng: định hƣớng tìm tòi, định hƣớng khái quát chƣơng trình hóa, định
hƣớng tái tạo. Theo chúng tôi, vận dụng các phƣơng pháp này vào dạy học
hoạt động ngoại khóa có thể tuân theo các bƣớc nhƣ sau: Ban đầu giáo viên
định hƣớng học sinh tìm tòi, tự tìm ra các kiến thức hoặc cách thức cần áp
dụng để giải quyết vấn đề. Nếu học sinh không đáp ứng đƣợc yêu cầu đó thì
giáo viên tổ chức định hƣớng khái quát chƣơng trình hoá, gợi ý thêm cho học
sinh. Nếu nhƣ học sinh vẫn không thực hiện đƣợc nhiệm vụ thì giáo viên
chuyển dần sang kiểu định hƣớng tái tạo angôrít.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
* Định hướng tìm tòi
Là kiểu hƣớng dẫn mà ngƣời dạy không chỉ ra cho học sinh một cách
tƣờng minh các kiến thức và cách thức hoạt động cần áp dụng, mà ngƣời dạy
chỉ đƣa ra những gợi ý mang tính tổng quát để học sinh có thể tự tìm tòi, huy
động hoặc xây dựng những kiến thức và cách thức hoạt động thích hợp để giải
quyết nhiệm vụ mà họ đảm nhận, tức là đòi hỏi học sinh phải tự xác định
đƣợc kế hoạch hành động thích hợp trong tình huống đang xét.
Sự định hƣớng tìm tòi có thể phân biệt hai trình độ khác nhau đối với
hành động đòi hỏi ở học sinh. Đó là:
- Định hƣớng tìm tòi áp dụng các cách thức hành động theo các mẫu đã
biết: Ở mức độ này, giáo viên yêu cầu học sinh tự huy đông, lựa chọn cách thức
hoạt động theo các mẫu đã biết để chuyển tải áp dụng vào tình huống đang xét.
- Định hƣớng tìm tòi sáng tạo: Giáo viên yêu cầu học sinh tự nghĩ ra
cách thức hoạt động giải quyết vấn đề, không phải là theo một mẫu có sẵn.
* Định hướng khái quát chương trình hóa
Đó là kiểu hƣớng dẫn trong đó ngƣời dạy cũng gợi ý cho học sinh tự
tìm tòi nhƣ kiểu định hƣớng tìm tòi nói trên, nhƣng giúp cho học sinh ý thức
đƣợc lối khái quát của việc tìm tòi giải quyết vấn đề và sự định hƣớng đƣợc
chƣơng trình hóa theo các bƣớc dự định hợp lí, theo các yêu cầu từ cao đến
thấp đối với học sinh: từ tổng quát, tổng thể, toàn bộ đến riêng biệt, chi tiết,
bộ phận sao cho thực hiện đƣợc một cách có hiệu quả các yêu cầu.
Ngƣời dạy phải thực hiện từng bƣớc việc hƣớng dẫn học sinh tự lực
giải quyết nhiệm vụ mà họ đảm nhận.
- Sự định hƣớng ban đầu đòi hỏi học sinh tự lực tìm tòi giải quyết vấn đề.
- Nếu học sinh không đáp ứng đƣợc thì sự giúp đỡ tiếp theo của giáo
viên là sự phát triển định hƣớng khái quát ban đầu (gợi ý thêm, cụ thể hóa, chi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
tiết hóa thêm một bƣớc) để thu hẹp hơn phạm vi, mức độ phải tìm tòi giải
quyết cho vừa sức với học sinh.
- Nếu học sinh vẫn không đáp ứng đƣợc thì sự hƣớng dẫn của giáo viên
chuyển dần sang kiểu định hƣớng tái tạo, mà trƣớc tiên là kiểu định hƣớng
angôrít (hƣớng dẫn trình tự các hành động, thao tác hợp lí) để theo đó học
sinh tự giải quyết vấn đề đã đặt ra.
- Nếu học sinh vẫn không đáp ứng đƣợc thì mới thực hiện sự hƣớng
dẫn tái tạo đối với mỗi hành động, thao tác cụ thể riêng biệt của trình tự hành
động, thao tác đó.
* Định hướng tái tạo
Đó là kiểu định hƣớng trong đó giáo viên hƣớng học sinh vào việc huy
động, áp dụng những kiến thức, cách thức hoạt động học sinh đã nắm đƣợc
hoặc đã đƣợc giáo viên chỉ ra một cách tƣờng minh, để học sinh có thể thực
hiện đƣợc nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Nghĩa là học sinh chỉ cần tái tạo những
hành động đã đƣợc giáo viên chỉ rõ hoặc những hành động trong các tình
huống đã quen thuộc đối với học sinh.
Sự định hƣớng tái tạo có thể phân biệt hai trình độ khác nhau đối với
hành động đòi hỏi ở học sinh. Đó là:
- Định hƣớng tái tạo từng thao tác cụ thể riêng rẽ: Trong kiểu định
hƣớng này ngƣời học sẽ theo dõi, thực hiện bắt chƣớc lặp lại theo thao tác
mẫu cụ thể do giáo viên chỉ ra.
- Định hƣớng tại tạo angôrít: Trong kiểu định hƣớng này giáo viên chỉ
ra một cách khái quát tổng thể trình tự hành động để ngƣời học tự chủ giải
quyết đƣợc nhiệm vụ.
Với mục đích và nội dung của đề tài, chúng tôi chọn kiểu định hƣớng
cho học sinh không phải chỉ là định hƣớng tái tạo hay chỉ là định hƣớng tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
tòi mà là kiểu định hƣớng khái quát chƣơng trình hoá. Chúng tôi sẽ giao
nhiệm vụ cho học sinh dƣới dạng những nhiệm vụ học tập, sau đó yêu cầu
học sinh thảo luận theo nhóm để tìm cách giải quyết nhiệm vụ đƣợc giao. Nếu
học sinh gặp khó khăn thì giáo viên gợi ý thêm, cụ thể hoá nhiệm vụ hơn để
thu hẹp phạm vi tìm tòi, nghiên cứu và vừa sức hơn với học sinh.
Việc hƣớng dẫn hoạt động ngoại khoá khác với dạy học nội khoá ở chỗ:
+ Ở nội khoá, nếu học sinh gặp khó khăn không trả lời đƣợc câu hỏi
hoặc tình huống mà giáo viên đƣa ra thì giáo viên có thể ngay lập tức thu hẹp
phạm vi nghiên cứu dần sao cho vừa sức với học sinh. Nếu học sinh vẫn
không đáp ứng đƣợc thì sự hƣớng dẫn của giáo viên chuyển dần sang kiểu
định hƣớng tái tạo, mà trƣớc hết là kiểu định hƣớng angôrít để theo đó học
sinh tự lực giải quyết vấn đề đặt ra. Nếu học sinh vẫn không đáp ứng đƣợc thì
mới thực hiện sự hƣớng dẫn tái tạo đối với mỗi hành động, thao tác đó.
+ Ở dạy học ngoại khoá thì không nhƣ vậy, nếu học sinh gặp khó khăn
trong việc thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao, do có nhiều thời gian nên giáo viên
có thể cho học sinh về nhà suy nghĩ tiếp trong vài ngày thì có thể học sinh sẽ
tự giải quyết đƣợc khó khăn đó. Nếu học sinh vẫn gặp khó khăn thì giáo viên
sẽ gợi ý tiếp mà không sử dụng phƣơng pháp tái tạo ngay từ đầu.
1.8. Quy trình tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí [15], [12], [6]
Kết quả của hoạt động ngoại khoá vật lí phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ
chức và lập kế hoạch hoạt động mà giáo viên vật lí là ngƣời quyết định. Hiện
nay chƣa có nhiều tài liệu nói rõ quy trình tổ chức hoạt động ngoại khoá vật
lí. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy việc tổ chức hoạt động ngoại
khoá về vật lí cho học sinh có thể thực hiện theo các bƣớc sau:
+ Bƣớc 1: Lựa chọn chủ đề ngoại khoá
Căn cứ vào nội dung chƣơng trình, mục tiêu dạy học và tình hình thực
tế của dạy học nội khoá bộ môn, đặc điểm của học sinh và điều kiện của giáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
viên cũng nhƣ của nhà trƣờng để lựa chọn chủ đề của hoạt động ngoại khoá
cần tổ chức. Việc lựa chọn này phải rõ ràng để có tác dụng định hƣớng tâm lí
và kích thích sự tích cực, tự lực của học sinh ngay từ đầu.
+ Bƣớc 2: Lập kế hoạch ngoại khoá
Khi lập kế hoạch hoạt động ngoại khoá thì giáo viên cần phải xây dựng
các nội dung sau:
- Xác định mục tiêu giáo dục của hoạt động, gồm có: mục tiêu về kiến
thức; mục tiêu về kĩ năng và yêu cầu về phát triển năng lực, trí tuệ; mục tiêu
về thái độ, tình cảm.
- Xây dựng nội dung cho hoạt động ngoại khoá dƣới dạng những nhiệm
vụ học tập cụ thể.
- Dự kiến hình thức tổ chức, phƣơng pháp dạy học.
- Dự kiến các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết.
- Dự kiến những công việc có thể nhờ đến sự giúp đỡ của các lực lƣợng
giáo dục khác.
- Dự kiến thời gian và địa điểm tổ chức.
+ Bƣớc 3: Tiến hành hoạt động ngoại khoá theo kế hoạch
Khi tổ chức hoạt động ngoại khoá theo kế hoạch giáo viên cần phải chú
ý những nội dung sau:
- Luôn theo dõi quá trình học sinh thực hiện các nhiệm vụ để có thể
giúp đỡ kịp thời, đặc biệt là những tình huống phát sinh ngoài dự kiến, kịp
thời điều chỉnh những nội dung diễn ra không đúng kế hoạch.
- Đối với những hoạt động diễn ra ở quy mô lớn nhƣ lớp, khối thì giáo
viên đóng vai trò là ngƣời tổ chức, điều khiển các hoạt động. Đồng thời giáo
viên cũng phải là ngƣời trọng tài để tổ chức cho học sinh có thể tham gia tranh
luận hay bảo vệ ý kiến của mình về những nội dung hoạt động ngoại khoá.
- Đối với những hoạt động diễn ra ở quy mô nhỏ nhƣ trong tổ, nhóm
học sinh thì cần để cho học sinh hoàn toàn tự chủ cả việc tổ chức và thực hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
nhiệm vụ đƣợc giao, giáo viên chỉ có vai trò hƣớng dẫn khi học sinh gặp khó
khăn hoặc việc không xử lí đƣợc.
- Sau mỗi đợt tổ chức hoạt động ngoại khoá thì giáo viên phải đánh giá,
rút kinh nghiệm để điều chỉnh nội dung, hình thức và phƣơng pháp cho hợp lí
để tổ chức những đợt ngoại khoá về sau đạt kết quả cao hơn.
+ Bƣớc 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả, tham gia hội vui,
rút kinh nghiệm, khen thƣởng.
Việc đánh giá kết quả của quá trình hoạt động ngoại khoá không giống
nhƣ trong nội khoá, mà phải đánh giá thông qua cả quá trình hoạt động. Giáo
viên đánh giá hiệu quả thông qua sự tích cực, sự hứng thú, sự sáng tạo của học
sinh và cả những kết quả mà học sinh đạt đƣợc trong quá trình hoạt động. Trong
đó sản phẩm của quá trình hoạt động là một căn cứ quan trọng để đánh giá. Do
vậy, cần tổ chức cho học sinh giới thiệu, báo cáo sản phẩm đã tạo ra đƣợc trong
qua trình hoạt động ngoại khoá. Mặt khác, việc làm này còn có tác dụng trong
việc khích lệ, động viên tinh thần tích cực học tập của học sinh về sau.
Quy trình tổ chức hoạt động ngoại khoá nhƣ trên có thể đem lại hiệu
quả cao nếu giáo viên biết vận dụng tốt các điều kiện và tổ chức hợp lí các
hoạt động của học sinh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì giáo viên cần
phải căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trƣờng, học sinh và các yêu cầu giáo
dục của bộ môn mà vận dụng quy trình trên một cách mềm dẻo sao cho quá
trình hoạt động ngoại khoá đạt hiệu quả cao nhất.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận về tổ chức hoạt động ngoại
khoá vật lí ở trƣờng phổ thông chúng tôi nhận thấy đƣợc rõ hơn vai trò, tác
dụng của hoạt động ngoại khoá trong việc phát huy tính tích cực và phát triển
năng lực sáng tạo của học sinh cũng nhƣ cách chọn nội dung, hình thức tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
chức và phƣơng pháp dạy học ngoại khoá sao cho đạt hiệu quả tốt nhất.
Chúng tôi căn cứ vào những cơ sở lí luận đã nghiên cứu ở trên để tìm ra
phƣơng hƣớng nghiên cứu và thực hiện đề tài sao cho đạt hiệu quả tốt nhất.
Do thực trạng dạy học vật lí ở các trƣờng phổ thông của nƣớc ta hiện
nay là phƣơng pháp dạy học thực nghiệm và hình thức tổ chức hoạt động học
tập theo nhóm còn yếu nên việc tổ chức hoạt động ngoại khoá vật lí sẽ làm
cho quá trình dạy học thêm phong phú, sâu sắc hơn, toàn diện hơn và khắc
phục đƣợc nhiều điểm yếu của dạy học nội khoá. Nếu tổ chức tốt hoạt động
ngoại khoá về vật lí đặc biệt là hoạt động chế tạo dụng cụ thí nghiệm kết hợp
với báo cáo các sản phẩm mà học sinh đã chế tạo đƣợc và các trò chơi vật lí,
sẽ bổ sung rất tốt cho dạy học nội khoá. Hoạt động ngoại khoá sẽ bổ sung tốt
cho dạy học nội khoá trong việc rèn luyện kĩ thuật tổng hợp, phát huy tính
tích cực và phát triển năng lực sáng tạo thông qua quá trình thiết kế phƣơng
án thí nghiệm, lựa chọn phƣơng án thí nghiệm, chế tạo dụng cụ thí nghiệm, sử
dụng dụng cụ thí nghiệm chế tạo đƣợc để tiến hành thí nghiệm và giải thích kết
quả thí nghiệm thu đƣợc. Đồng thời, nó cũng giúp cho học sinh mạnh dạn hơn,
tự tin hơn, rèn luyện kĩ năng phát biểu trƣớc đám đông đặc biệt nó giúp cho các
em làm quen với nghiên cứu khoa học, tạo ra một tiền đề tốt trong quá trình
học tập, nghiên cứu sau này.
CHƢƠNG 2
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ VẬT LÍ VỀ
“DÕNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI” CHO HỌC SINH LỚP 11 THPT
2.1. Mục tiêu dạy học mà học sinh cần đạt đƣợc khi học về “Dòng điện
không đổi” ở lớp 11 THPT
2.1.1. Mục tiêu về kiến thức
Sau khi học xong về chƣơng “Dòng điện không đổi”, học sinh cần đạt
đƣợc mục tiêu về kiến thức nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
+ Trình bày quy ƣớc về chiều dòng điện, tác dụng của dòng điện, ý
nghĩa của cƣờng độ dòng điện.
+ Viết đƣợc công thức định nghĩa cƣờng độ dòng điện.
+ Nêu đƣợc vai trò của nguồn điện và suất điện động của nguồn điện.
+ Nêu đƣợc cấu tạo và sự tạo thành suất điện động của pin Vôn-ta.
+ Nêu đƣợc cấu tạo của acquy chì và nguyên nhân vì sao acquy là một
pin điện hoá nhƣng lại có thể đƣợc sử dụng nhiều lần.
+ Giải thích đƣợc sự xuất hiện hiệu điện thế điện hoá trong trƣờng
hợp thanh kẽm nhúng vào dung dịch axit sunfuric .
+ Hiểu đƣợc sự biến đổi năng lƣợng trong một mạch điện, từ đó hiểu
công và công suất của dòng điện ở một đoạn mạch tiêu thụ điện năng, công và
công suất của nguồn điện.
+ Nêu và vận dụng đƣợc công thức của định luật Jun - Len-xơ.
+ Phân biệt hai loại dụng cụ tiêu thụ điện. Hiểu đƣợc suất phản điện của
máy thu điện. Hiểu và vận dụng đƣợc các công thức về điện năng tiêu thụ và
công suất tiêu thụ, công suất có ích của máy thu điện.
+ Nêu đƣợc và vận dụng đƣợc công thức tính hiệu suất của nguồn điện
và của máy thu điện.
+ Phát biểu đƣợc định luật Ôm đối với toàn mạch và viết đƣợc hệ thức
biểu thị định luật này.
+ Nêu đƣợc mối quan hệ giữa suất điện động của nguồn điện và độ
giảm điện thế ở mạch ngoài và ở mạch trong.
+ Trả lời đƣợc câu hỏi hiện tƣợng đoản mạch là gì và giải thích đƣợc
ảnh hƣởng của điện trở trong của nguồn điện đối với cƣờng độ dòng điện khi
đoản mạch.
+ Thiết lập và vận dụng đƣợc các công thức biểu thị định luật Ôm đối
với các loại mạch điện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
+ Hiểu và vận dụng đƣợc công thức tính suất điện động và điện trở
trong của bộ nguồn gồm các nguồn mắc nối tiếp, mắc xung đối, mắc song
song, hoặc mắc hỗn hợp đối xứng.
2.1.2. Mục tiêu về kĩ năng
Khi học xong về “Dòng điện không đổi” học sinh cần đƣợc rèn luyện
các kĩ năng sau:
+ Vận dụng đƣợc các công thức tính công, công suất của dòng điện và
của nguồn điện. Tính đƣợc hiệu suất của nguồn điện.
+ Vận dụng đƣợc các công thức của định luật Ôm đối với toàn mạch,
định luật Ôm đối với từng loại đoạn mạch để giải các bài tập.
+ Mắc đƣợc các nguồn thành bộ và tính đƣợc suất điện động và điện trở
trong của bộ nguồn.
+ Đo điện trở trong và suất điện động của một nguồn điện (pin con thỏ)
bằng cách tiến hành thí nghiệm.
+ Tạo ra đƣợc các mạch điện kín dùng nguồn một chiều để thắp sáng
các đèn.
2.1.3. Mục tiêu phát triển tư duy
Theo chúng tôi, để có thể góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học thì
ngoài những mục tiêu chung của dạy học vật lí thì cần có thêm các mục tiêu
về phát triển tƣ duy nhƣ sau:
+ Thiết kế, tiến hành thí nghiệm xác định điện trở trong của nguồn điện
(pin con thỏ).
+ Tạo ra các mạch điện kín dùng nguồn một chiều để thắp sáng các đèn
điện theo định mức.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
+ Chế tạo đèn pin, chuông điện, máy phát điện một chiều...từ những vật
liệu đơn giản, rẻ tiền, dễ kiếm.
+ Tạo ra nguồn điện từ các quả chanh, quả quýt...
+ Nghiên cứu sự nạp và phát điện của acquy.
+ Thiết kế, tiến hành thí nghiệm khảo sát định luật Jun - Len-xơ, định
luật Ôm cho toàn mạch và cho các đoạn mạch.
2.1.4. Các thí nghiệm cần tiến hành trong quá trình dạy học về “Dòng
điện không đổi”
Để đạt đƣợc những mục tiêu dạy học nhƣ đã nêu trên thì trong quá trình
dạy học về “Dòng điện không đổi” giáo viên, tốt nhất là học sinh cần tiến
hành các thí nghiệm sau:
+ Tạo ra nguồn điện từ các quả chanh, quả quýt, các dung dịch hoá học
nhƣ axit, bazơ, muối và các điện cực.
+ Nghiên cứu sự nạp điện và phát điện của acquy.
+ Thiết kế, tiến hành thí nghiệm khảo sát định luật Jun - Len-xơ.
+ Thiết kế, tiến hành thí nghiệm khảo sát định luật Ôm cho toàn mạch.
+ Xác định suất điện động và điện trở trong của pin con thỏ.
+ Tạo ra các mạch điện sáng tạo để thắp sáng các đèn điện dùng các
nguồn điện nhƣ pin, acquy.
+ Chế tạo đèn pin, chuông điện, máy phát điện một chiều...từ những vật
liệu đơn giản, rẻ tiền, dễ kiếm.
2.2. Tìm hiểu tình hình dạy và học về “Dòng điện không đổi” ở lớp 11
THPT thuộc một số trƣờng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
2.2.1. Mục đích điều tra
Tìm hiểu tình hình dạy học về “Dòng điện không đổi” ở một số trƣờng
THPT ở tỉnh Bắc Giang, đối chiếu với mục tiêu dạy học các kiến thức này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
trong chƣơng trình vật lí lớp 11 để phát hiện ra những điểm còn hạn chế cả về
phƣơng pháp và phƣơng tiện dạy học; phát hiện những sai lầm, hạn chế của
cả giáo viên và học sinh khi dạy và học phần kiến thức này. Từ đó, sơ bộ đề
xuất nguyên nhân của những sai lầm, hạn chế đó. Những kết quả tìm hiểu
đƣợc về tình hình dạy và học là một cơ sở để chúng tôi xây dựng nội dung,
phƣơng pháp và hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa về “Dòng điện
không đổi” trong chƣơng trình vật lí lớp 11 THPT.
2.2.2. Phương pháp điều tra
+ Điều tra giáo viên (thông qua phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp, tham
khảo giáo án, dự giờ dạy trên lớp).
+ Điều tra học sinh (thông qua phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp, tìm
hiểu thông qua các bài kiểm tra của học sinh, quan sát học sinh trong các giờ
học trên lớp).
+ Phỏng vấn lãnh đạo nhà trƣờng; tham quan phòng thí nghiệm vật lí,
kho dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho dạy học về “Dòng điện không đổi”.
2.2.3. Đối tượng điều tra
+ Giáo viên vật lí và học sinh của các trƣờng THPT ở huyện Tân Yên –
Bắc Giang: Trƣờng THPT Tân Yên số 1; Trƣờng THPT Tân Yên số 2;
Trƣờng THPT Tân Yên số 3 và trƣờng THPT Mỏ Trạng - Yên Thế - Bắc Giang.
+ Phòng thực hành vật lí và kho đựng dụng cụ thí nghiệm vật lí của các
trƣờng THPT nói trên.
2.2.4. Kết quả điều tra
Nhận thức của giáo viên và học sinh về tầm quan trọng của việc tổ
chức dạy học ngoại khoá vật lí: (Bảng 2.1)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Bảng 2.1
STT Đánh giá Số ý kiến tỉ lệ %
1 Quan trọng 150 81%
2 Bình thƣờng 30 16%
3 Không cần thiết 5 3%
* Phương pháp dạy của giáo viên
+ Tình hình giáo viên: Tất cả giáo viên vật lí của các trƣờng THPT nói
trên đều đƣợc đào tạo chính quy tập trung tại các trƣờng đại học sƣ phạm nhƣ:
Đại học sƣ phạm Hà Nội; Đại học sƣ phạm Hà Nội 2; Đại học sƣ phạm Thái
Nguyên. Tất cả các giáo viên vật lí đều đƣợc đào tạo và giảng dạy đúng
chuyên môn, nhiệt tình với công việc.
+ Phương pháp dạy của giáo viên
Qua việc tổng hợp kết quả ở 22 phiếu tham khảo ý kiến giáo viên, hỏi ý
kiến trực tiếp, tham khảo giáo án của các giáo viên vật lí của các trƣờng
THPT nói trên về tình hình dạy chƣơng “Dòng điện không đổi” ở lớp 11 (có
mẫu ở phần phụ lục), chúng tôi nhận thấy:
- Hầu hết các giáo viên vẫn mang nặng phƣơng pháp truyền thụ, thuyết
trình, thông báo. Các giáo án của giáo viên chủ yếu là tóm tắt lại kiến thức
sách giáo khoa, không hoạch định hoặc hoạch định không rõ ràng các hoạt
động của giáo viên và học sinh trong mỗi giờ học. Vai trò tổ chức, định
hƣớng của giáo viên chƣa đƣợc thể hiện rõ. Quá trình thực hiện bài dạy, nhiều
khi giáo viên vẫn chủ yếu diễn đạt bằng lời: Mô tả, giải thích hiện tƣợng,
giảng giải, nhấn mạnh cho học sinh những kiến thức cơ bản hay nội dung
quan trọng. Ví dụ, khi xây dựng biểu thức định luật Ôm cho toàn mạch: giáo
viên chỉ thông báo cách làm, vẽ hình và nêu mối quan hệ giữa các đại lƣợng
mà không cho học sinh đƣợc quan sát thí nghiệm hay thực hiện thí nghiệm, đo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
đạc để đƣa ra biểu thức. Điều này sẽ khiến cho học sinh không hứng thú,
không phát triển năng lực sáng tạo của mình.
- Trong quá trình giảng dạy, các giáo viên cũng có đƣa ra các câu hỏi
hoặc các tình huống có vấn đề cho học sinh, nhƣng chúng tôi thấy các câu hỏi
đó vẫn mang tính chất rời rạc, các tình huống không cụ thể, không khiến cho
học sinh có đƣợc cái nhìn tổng quát về vấn đề hay cách giải quyết toàn diện
vấn đề, không có tác dụng phát triển tƣ duy cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài Pin và Acquy, giáo viên đƣa ra các câu hỏi mà
không sử dụng mô hình hay thí nghiệm. Quá trình dạy học nhƣ vậy khiến cho
học sinh bị thụ động, không tự lực nhận thức đƣợc vấn đề.
- Phƣơng pháp dạy học chƣa phát huy đƣợc tính tích cực và chƣa phát
triển đƣợc tính sáng tạo của học sinh. Trong các giờ học, có những hoạt động
mà học sinh có thể thực hiện đƣợc, có thể giúp phát huy tính tích cực hoặc
phát triển năng lực sáng tạo học sinh nhƣng các giáo viên vì nhiều lí do đã
làm hộ học sinh.
Ví dụ nhƣ khi dạy học kiến thức về ghép các nguồn thành bộ, giáo viên
không yêu cầu học sinh thiết kế, chế tạo một dụng cụ thí nghiệm có thể
nghiên cứu các dạng mạch có nguồn mắc nối tiếp hay song song mà mô tả
ngay nhƣ sách giáo khoa và thông báo các đặc điểm của các dạng mạch rồi
đƣa ra biểu thức tính suất điện động và điện trở trong của bộ nguồn. Nếu giáo
viên yêu cầu học sinh thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm và tiến hành thì có
tác dụng rất lớn trong việc phát huy tính tích cực, tăng sự hứng thú trong học
tập, giúp các em hiểu bài kĩ hơn, đặc biệt còn có tác dụng trong việc phát triển
năng lực sáng tạo và khả năng tƣ duy của học sinh.
- Hầu hết các giáo viên đƣợc hỏi đều cho rằng: phần kiến thức này khá
trừu tƣợng, có nhiều ứng dụng trong thực tế và kĩ thuật nhƣng số giờ dành
cho học chính khóa lại rất hạn chế (cả chƣơng trình chuẩn và chƣơng trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
nâng cao đều đƣợc phân phối 13 tiết). Điều này khiến cho học sinh rất khó
khăn trong việc nắm vững kiến thức. Các giáo viên cũng cho biết: ít khi họ sử
dụng thí nghiệm trong khi nghiên cứu bài mới vì không đủ thời gian; giáo
viên có làm thí nghiệm biểu diễn cho học sinh nhƣng không thƣờng xuyên,
chỉ làm các thí nhiệm có sẵn trong phòng thí nghiệm.
Ở bài thí nghiệm thực hành đo suất điện động và điện trở trong của
nguồn điện, các giáo viên tổ chức cho học sinh đƣợc thực hành với bộ thí
nghiệm đã có sẵn, mà không yêu cầu các em thiết kế phƣơng án khác.
- 100% các giáo viên không chế tạo thêm dụng cụ thí nghiệm, thậm chí
không tận dụng đƣợc hết công dụng của các thí nghiệm có sẵn trong phòng thí
nghiệm cũng nhƣ khả năng của học sinh THPT trong việc thiết kế và chế tạo các
dụng cụ thí nghiệm đơn giản phục vụ cho dạy học phần kiến thức này.
- Hầu hết các giáo viên không tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí
cho học sinh, do không biết tổ chức thế nào cho hiệu quả.
- Đa số giáo viên cho rằng để dạy học phần kiến thức này có hiệu quả
hơn thì ngoài việc sử dụng tốt thí nghiệm và các phƣơng pháp dạy học tích
cực khác trong dạy học nội khóa thì cần phải tổ chức thêm các hoạt động
ngoại khóa.
* Tình hình học tập của học sinh
+ Đối tƣợng học sinh
Học sinh ở các trƣờng THPT mà chúng tôi tiến hành điều tra đều có
đặc điểm riêng:
- Trƣờng THPT Tân Yên I là trƣờng chuẩn quốc gia, có trên 50 năm bề
dày thành tích, học sinh chủ yếu thuộc trung tâm của huyện và các vùng lân
cận. Hầu hết học sinh ở trƣờng này ngoan, có tính tự lực và tinh thần hiếu học
cao, có điều kiện học tập cũng nhƣ đi lại khá thuận tiện. Đây là trƣờng có tỉ lệ
học sinh đỗ đại học và cao đẳng hàng năm cao nhất toàn huyện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
- Trƣờng THPT Tân Yên II đặt ở địa bàn phía tây của huyện Tân Yên,
học sinh chủ yếu xuất thân từ gia đình thuần nông, có điều kiện học tập và đi
lại khó khăn. Hầu hết gia đình các em khó khăn về kinh tế cho nên ngoài thời
gian đến trƣờng các em còn phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình.
Nói chung, các em ngoan, chăm học và có ý chí phấn đấu học tập tốt .
- Trƣờng THPT Tân Yên III nằm ở thị trấn Nhã Nam, là khu vực có
điều kiện kinh tế phát triển. Hầu hết học sinh có điều kiện học tập thuận lợi
nhƣng do đầu vào còn thấp nên tính tự giác của các em chƣa cao.
- Trƣờng THPT Mỏ Trạng thuộc huyện Yên Thế, học sinh chủ yếu xuất
thân từ gia đình thuần nông, con em dân tộc thiểu số có điều kiện học tập và
đi lại khó khăn. Hầu hết gia đình các em khó khăn về kinh tế, gia đình chƣa
quan tâm tốt tới việc học của các em. Nói chung, các em ngoan, chăm học và
có ý chí phấn đấu học tập tốt nhƣng so với học sinh ở trƣờng trung tâm thì
khả năng nhận thức và tính tự lực kém hơn nhiều.
+ Tình hình học tập và những sai lầm cơ bản của học sinh liên quan tới
các kiến thức "Dòng điện không đổi" ở lớp 11 THPT:
Qua điều tra, cho thấy:
- Do giờ học nội khoá còn nặng nề, không gây đƣợc hứng thú học tập
cho học sinh cho nên có nhiều học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức:
Lƣời suy nghĩ, lƣời hoạt động, chỉ ngồi nghe thầy cô giảng rồi chép lại, ít
hứng thú; rất ít học sinh mạnh dạn đặt câu hỏi cho giáo viên về vấn đề đã
đƣợc học, thậm chí cả vấn đề mà các em chƣa hiểu.
- Nhiều học sinh chƣa hiểu rõ các khái niệm nhƣ: Nguồn điện, suất điện
động của nguồn điện, suất phản điện…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
- Đa số học sinh không biết giải thích cách làm để xác định suất điện động
và điện trở trong của một nguồn điện.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức vật lí đã học vào giải thích các hiện tƣợng
vật lí trong đời sống và ứng dụng kĩ thuật còn kém. Ví dụ: học sinh không
giải thích và chế tạo đƣợc mạch đèn pin, mạch chuông điện đơn giản...
- Hoạt động chủ yếu của học sinh là học thuộc lí thuyết và luyện giải
bài tập. Học sinh chỉ đƣợc quan sát giáo viên biểu diễn thí nghiệm mà không
đƣợc trực tiếp tiến hành các thí nghiệm khi xây dựng bài mới. Trong cả
chƣơng, học sinh có hai tiết làm thí nghiệm thực hành đo suất điện động và
điện trở trong của nguồn điện. Do đó, cơ hội để các em hiểu sâu kiến thức, rèn
luyện kĩ năng cũng nhƣ phát triển năng lực sáng tạo là không nhiều.
- Học sinh chƣa từng đƣợc giao nhiệm vụ làm dụng cụ thí nghiệm vật lí
cũng nhƣ chƣa bao giờ đƣợc tham gia các hoạt động mang tính chất vừa học
vừa chơi về vật lí nên nhiều em thấy sợ học môn này, kiến thức mà các em đạt
đƣợc còn hời hợt, không chắc chắn và còn lúng túng, dập khuôn khi áp dụng
kiến thức.
- Học sinh ít có khả năng vận dụng kiến thức một cách sáng tạo vào
thực tiễn mà chủ yếu chỉ vận dụng đƣợc vào những tình huống quen thuộc.
- Khả năng diễn đạt của học sinh về một vấn đề còn rất kém, thƣờng
lúng túng khi diễn đạt ý tƣởng của mình hoặc điều muốn hỏi, do các em ít
đƣợc trao đổi, tranh luận với bạn bè và thầy cô.
- Tất cả học sinh đƣợc hỏi đều cho biết các em chƣa từng đƣợc tham
gia hoạt động ngoại khóa về vật lí và đều muốn đƣợc tham gia hoạt động
ngoại khóa thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm
về dòng điện không đổi.
* Tình hình thiết bị thí nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
+ Các trƣờng THPT đều đƣợc trang bị các dụng cụ thí nghiệm tối thiểu
cho dạy học phần kiến thức này, gồm có các bộ thí nghiệm về dòng điện
không đổi: Khảo sát định luật Ôm đối với toàn mạch, đo suất điện động và
điện trở trong của nguồn điện.
+ Các thí nghiệm nhƣ: Sự nạp và phát điện của Acquy, máy phát điện
một chiều, kiểm chứng định luật Jun - Len-xơ...là không đƣợc trang bị.
2.2.5. Nguyên nhân của những sai lầm của học sinh và một số giải
pháp khắc phục
* Những nguyên nhân dẫn tới sai lầm của học sinh:
Qua kết quả điều tra, chúng tôi nhận thấy tình hình dạy học nội khóa
chƣơng “Dòng điện không đổi” còn nhiều hạn chế, chƣa đạt đƣợc hết mục
tiêu dạy học đã đề ra. Theo chúng tôi, những hạn chế đó là do những nguyên
nhân sau:
Về mặt nội dung chương trình:
+ Phần kiến thức này hai quyển sách giáo khoa viết cho chƣơng trình
chuẩn và chƣơng trình nâng cao là gần tƣơng đƣơng nhau về lƣợng kiến thức
nhƣng có cách viết khác nhau. Điều này gây khó khăn và mất thời gian cho
giáo viên dạy đồng thời cả hai chƣơng trình.
+ Mỗi tiết học có nhiều nội dung kiến thức nên không thể bố trí tiến
hành tất cả thí nghiệm liên quan, nhất là thí nghiệm do học sinh tự tiến hành.
+ Mục tiêu dạy học cho cả hai chƣơng trình gần nhƣ nhau, chủ yếu là các
yêu cầu về kiến thức mà chƣa chú trọng vào các mục tiêu kĩ năng, đặc biệt là các
kĩ năng thí nghiệm, rèn luyện ngôn ngữ vật lí, sự tự tin, khả năng trình bày trƣớc
đám đông và đặc biệt chƣa chú trọng đến việc rèn luyện khả năng thiết kế, chế
tạo dụng cụ thí nghiệm hay khả năng dự đoán kết quả thí nghiệm.
+ Nội dung kiến thức về “Dòng điện không đổi” khá trừu tƣợng, có
nhiều ứng dụng trong thực tế và trong kĩ thuật. Tuy nhiên, phân phối thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
lƣợng cho học chính khóa chƣơng này là ít và thiếu các thiết bị thí nghiệm
cần thiết.
Về phía giáo viên:
+ Nhiều giáo viên vẫn trung thành với phƣơng pháp dạy học truyền thống.
+ Nhiều giáo viên vẫn chƣa biết cách tổ chức cho học sinh thảo luận và
làm việc theo nhóm.
+ Nhiều giáo viên không sử dụng thí nghiệm trong dạy học. Những
giáo viên có sử dụng thí nghiệm thì cũng chƣa biết khai thác hết tác dụng của
thí nghiệm vật lí cũng nhƣ các phƣơng tiện hỗ trợ dạy học khác. Giáo viên ít
khi tự làm dụng cụ thí nghiệm nên danh mục thí nghiệm có trong phòng thí
nghiệm chỉ là những thí nghiệm tối thiểu do Bộ giáo dục cung cấp.
+ Giáo viên chƣa mạnh dạn giao cho học sinh tự nghiên cứu những
phần kiến thức có thể tự học ở nhà, để giành thời gian cho học sinh đƣợc làm
thí nghiệm trên lớp.
Về phía học sinh:
+ Chịu ảnh hƣởng của cách học thụ động, lại ít đƣợc tiến hành thí
nghiệm nên kiến thức của học sinh còn hời hợt, vận dụng chƣa linh hoạt và
hay mắc sai lầm.
+ Kiến thức xuất phát của học sinh không đầy đủ, sâu sắc. Học sinh
không nhớ chính xác kiến thức cơ bản đã đƣợc học ở các lớp dƣới. Trình độ
toán học của học sinh còn kém nên ảnh hƣởng nhiều đến việc học vật lí.
+ Học sinh ít đƣợc tiến hành thí nghiệm khi học bài mới nên các kĩ
năng tiến hành thí nghiệm nhƣ lắp ráp thí nghiệm, thực hiện thí nghiệm, thu
thập và xử lí số liệu còn kém.
+ Học sinh ít đƣợc tham gia một hoạt động ngoại khóa vật lí về thiết kế
và chế tạo các dụng cụ thí nghiệm nên khả năng của các em còn hạn chế khi
giáo viên ra nhiệm vụ thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm.
* Một số giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục những sai lầm của học
sinh khi học về “Dòng điện không đổi”:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
+ Nên tổ chức tốt các giờ học nội khóa theo phƣơng pháp dạy học giải
quyết vấn đề để phát huy đƣợc tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh
trong học tập.
+ Tăng cƣờng tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo nhóm.
+ Nhà trƣờng và giáo viên cần có sự đầu tƣ, khai thác và sử dụng có
hiệu quả các thiết bị thí nghiệm vật lí đã có, nên bổ sung thêm các dụng cụ thí
nghiệm bằng nhiều cách.
+ Đa dạng hóa các hình thức dạy học: phối kết hợp các hình thức dạy
học nhƣ dạy học dự án; dạy học theo nhóm, tổ chức hoạt động ngoại khóa,…
+ Nên tận dụng một số giờ học tự chọn để tổ chức các hoạt động ngoại
khóa cho học sinh nhằm kích thích hứng thú học tập, phát huy tính tích cực và
phát triển năng lực sáng tạo cho các em.
2.3. Xây dựng quy trình hoạt động ngoại khoá về “Dòng điện không đổi”
ở lớp 11 THPT
2.3.1. Ý định sư phạm chung khi xây dựng quy trình tổ chức hoạt động
ngoại khóa
+ Căn cứ vào những kết quả mà chúng tôi đã điều tra đƣợc về tình hình
dạy và học về “Dòng điện không đổi” ở lớp 11 THPT, vào những mục tiêu cần
đạt đƣợc khi dạy học phần kiến thức này, chúng tôi đã lựa chọn chủ đề của hoạt
động ngoại khóa cho học sinh là: Thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm và tiến
hành các thí nghiệm về “Dòng điện không đổi” từ những vật liệu đơn giản, rẻ
tiền, dễ kiếm, để khắc phục những điểm yếu của dạy học nội khóa.
+ Để hoạt động ngoại khóa tạo đƣợc sự hứng thú, phát huy đƣợc tính
tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh thì nội dung phải thiết
thực, phong phú, hấp dẫn. Chính vì vậy, chúng tôi chọn nội dung chủ yếu của
hoạt động ngoại khóa là hoạt động thực nghiệm. Trong quá trình hoạt động,
học sinh sẽ thiết kế, chế tạo, tiến hành thí nghiệm với các dụng cụ thí nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
về dòng điện không đổi từ những vật liệu đơn giản, rẻ tiền, dễ kiếm mà nội
dung gắn liền với thực tiễn.
Những nhiệm vụ mà chúng tôi dự kiến giao cho học sinh thực hiện dƣới
dạng những nhiệm vụ nhận thức, không chỉ là những yêu cầu đơn thuần về mặt
tay chân. Những nhiệm vụ này cũng đòi hỏi học sinh phải hoạt động trí tuệ: thiết
kế phƣơng án thí nghiệm, lựa chọn và chế tạo dụng cụ, dự đoán kết quả, …chứ
không chỉ đơn thuần là bố trí, tiến hành thí nghiệm với phƣơng án đã có sẵn.
+ Khi đã xác định đƣợc nội dung chính của hoạt động ngoại khóa, giáo
viên tiến hành thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm và thực hiện các thí
nghiệm dự kiến giao cho học sinh để phát hiện ra những khó khăn mà học
sinh có thể mắc phải khi thực hiện nhiệm vụ. Từ đó, giáo viên xác định
phƣơng pháp hƣớng dẫn học sinh đạt hiệu quả.
+ Chúng tôi dự kiến giao cho học sinh thực hiện nhiệm vụ theo nhóm.
Mỗi nhóm lớn có 9 hoặc 10 học sinh, thực hiện một hoặc hai nhiệm vụ. Để
thuận lợi cho việc học tập và đi lại của học sinh, chúng tôi giao cho học sinh
thực hiện các nhiệm vụ tại nhà theo lịch mà các nhóm tự bố trí. Ngoài ra, để
tăng sự hứng thú và rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ, giao tiếp cho học sinh,
chúng tôi dự kiến tổ chức một buổi tổng kết để học sinh báo cáo sản phẩm
mình chế tạo đƣợc kết hợp với hội vui vật lí về “Dòng điện không đổi”.
+ Sau khi đã xây dựng đƣợc nội dung, phƣơng pháp dạy học và hình
thức tổ chức, giáo viên dự kiến thời gian hoạt động ngoại khóa và giao cho
học sinh thực hiện các nhiệm vụ.
+ Trong quá trình các nhóm thực hiện nhiệm vụ, giáo viên thƣờng xuyên
theo dõi, giúp đỡ các em khi gặp khó khăn. Khi học sinh đã hoàn thành nhiệm
vụ của mình, giáo viên sẽ tổ chức tổng kết hoạt động cho các em theo dự kiến.
Với ý định chung khi xây dựng quy trình tổ chức hoạt động ngoại khóa
nhƣ trên, chúng tôi xác định mục đích của hoạt động ngoại khóa nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
- Củng cố và khắc sâu các kiến thức về: Tác dụng của dòng điện, cấu
tạo và nguyên tắc hoạt động của nguồn điện, điện năng và công suất điện,
định luật Jun - Len-xơ, định luật Ôm đối với toàn mạch và các loại đoạn
mạch, ghép các nguồn thành bộ.
- Vận dụng các kiến thức vào giải thích cấu tạo và nguyên tắc hoạt
động của Pin và Acquy, giải thích đƣợc các mạch điện kín dùng nguồn một
chiều trong thực tế, giải thích đƣợc nguyên tắc hoạt động của máy phát điện
một chiều...
- Rèn luyện các kĩ năng: thiết kế và chế tạo các dụng cụ thí nghiệm; kĩ
năng sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đã chế tạo ra; kĩ năng sử dụng một số
dụng cụ đo nhƣ ampe kế, vôn kế, điện kế …; kĩ năng thu thập, xử lí kết quả thí
nghiệm đã tiến hành và rút ra nhận xét; kĩ năng vận dụng các kiến thức vào giải
thích các hiện tƣợng thực tế; kĩ năng giao tiếp, trình bày ý kiến, thảo luận và
báo cáo kết quả.
- Phát huy tính tích cực và sự hứng thú của học sinh trong các hoạt
động: học sinh tự thành lập nhóm theo ý nguyện, tự nhận nhiệm vụ mà cảm
thấy mình có khả năng, tự giác và cố gắng thực hiện nhiệm vụ đã nhận, tự lên
lịch hoạt động của nhóm và bố trí các hoạt động của nhóm một cách hợp lí,
hiệu quả...
- Phát triển năng lực sáng tạo của học sinh thông qua các hoạt động
nhƣ: học sinh đƣa ra các phƣơng án thiết kế, chế tạo thí nghiệm; đánh giá các
phƣơng án chế tạo và chọn phƣơng án phù hợp nhất; chọn vật liệu để chế tạo
dụng cụ thí nghiệm; tìm vật liệu và chế tạo dụng cụ thí nghiệm; đƣa ra đƣợc
các giải pháp kĩ thuật để chế tạo đƣợc dụng cụ bền, đẹp và có độ chính xác
cao; lựa chọn đƣợc dụng cụ đo và cách tiến hành thí nghiệm để thu đƣợc kết
quả chính xác nhất; dự đoán kết quả thí nghiệm hoặc giải thích kết quả thí
nghiệm đã tiến hành.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
- Rèn luyện kĩ năng làm việc theo nhóm, sự hợp tác trong công việc.
Giáo dục tinh thần đoàn kết, lối sống hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau để cùng
hoàn thành nhiệm vụ.
Với ý tƣởng chung về việc xây dựng chƣơng trình hoạt động ngoại
khóa nhƣ trên, chúng tôi đã chuẩn bị và tiến hành nhƣ sau:
2.3.2. Nội dung của hoạt động ngoại khóa về “Dòng điện không đổi”
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi dự kiến sẽ tổ chức
hoạt động ngoại khóa về “Dòng điện không đổi” với hai nội dung chính nhƣ sau:
* Nội dung thứ nhất: giáo viên định hƣớng và giúp đỡ để học sinh tham
gia thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm và tiến hành các thí nghiệm với các
dụng cụ đã chế tạo đƣợc về dòng điện không đổi. Với nội dung này, chúng tôi
dự kiến sẽ giao cho học sinh những nhiệm vụ học tập, gồm:
03 nhiệm vụ về tạo ra nguồn điện
03 nhiệm vụ về chế tạo mạch điện
03 nhiệm vụ về chế tạo đèn pin, chuông điện, bàn là từ những vật liệu
đơn giản, dễ kiếm.
03 nhiệm vụ về thiết kế phƣơng án thí nghiệm và đo suất điện động, điện
trở trong của một nguồn điện, kiểm nghiệm định luật Jun - Len xơ và định luật
Ôm cho toàn mạch.
Cụ thể các nhiệm vụ được giao cho học sinh ở nội dung thứ nhất
như sau:
Nhiệm vụ 1:
+ Nhiệm vụ 1.1: Tạo ra nguồn điện từ các quả chanh, quả quất
+ Nhiệm vụ 1.2: Tạo ra nguồn điện từ dung dịch hoá học
+ Nhiệm vụ 1.3: Tạo ra nguồn điện từ những chiếc đi na mô cũ
Nhiệm vụ 2:
+ Nhiệm vụ 2.1: Thết kế mạch thắp sáng các đèn điện theo đúng định mức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
+ Nhiệm vụ 2.2: Thết kế các mạch điện hình bản đồ Việt Nam
+ Nhiệm vụ 2.3: Thết kế các mạch điện hình cổng Văn Miếu Quốc Tử Giảm
Nhiệm vụ 3:
+ Nhiệm vụ 3.1: Chế tạo mạch đèn pin
Nhiệm vụ 4:
+ Nhiệm vụ 4.1: Thiết kế mạch chuông điện trên bảng gỗ
Nhiệm vụ 5:
+ Nhiệm vụ 5.1: Thiết kế và tiến hành thí nghiệm để xây dựng định luật
Ôm cho toàn mạch
+ Nhiệm vụ 5.2: Thiết kế mạch điện trên bảng gỗ để đo suất điện động
và điện trở trong của Pin con thỏ
Nhiệm vụ 6:
+ Nhiệm vụ 6.1: Thiết kế và tiến hành thí nghiệm để kiểm nghiệm định
luật Jun - Len-xơ
+ Nhiệm vụ 6.2: Nghiên cứu sự nạp điện và phát điện của acquy.
Lí giải việc chúng tôi lựa chọn và giao cho học sinh các nhiệm vụ
học tập như trên:
+ Ở nhiệm vụ 1
Trong sách giáo khoa vật lí lớp 11 chƣơng trình nâng cao và chƣơng
trình chuẩn đều đƣa ra khái niệm nguồn điện, kí hiệu nguồn điện và một số ví
dụ về nguồn điện nhƣ Pin và Acquy, nhƣng thực tế là làm thế nào để học sinh
tự tạo ra nguồn điện bằng những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm thì cả hai
chƣơng trình đều không đề cập tới. Chúng tôi thấy đây là việc làm khá quan
trọng, nhƣng các giáo viên trong khi dạy về phần kiến thức này chỉ mô tả lại
thí nghiệm và nguyên tắc hoạt động của nguồn điện. Điều này dễ làm cho các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
em nghi rằng việc tự mình tạo ra nguồn điện là không thể hoặc rất khó khăn.
Chính vì vậy, chúng tôi đƣa nhiệm vụ này vào ngoại khóa.
Nhiệm vụ này đòi hỏi học sinh phải có khả năng vận dụng thực tế, có
niềm tin, sự đam mê và kiên trì trong công việc.
Nhiệm vụ này cũng giúp học sinh củng cố các kiến thức về nguồn điện,
nguyên tắc hoạt động của nguồn điện, cách chế tạo ra nguồn điện.
Nhiệm vụ này khá độc đáo, dễ gây sự tò mò, hứng thú cho học sinh.
+ Ở nhiệm vụ 2
Trong sách giáo khoa chỉ nêu ra các bài tập về mạch điện kín, học sinh
chỉ phải làm các bài tập tính toán và nhận xét về độ sáng các đèn. Khi dạy học
nội khóa, giáo viên cũng chỉ hƣớng dẫn các em giải các bài tập về mạch điện
có mắc đèn, mắc ampe kế, mắc vôn kế mà không thể tiến hành thí nghiệm
ngay trên lớp đƣợc. Do vậy, học sinh sẽ không có một cái nhìn thực tế về
công việc mà mình làm.
Nhiệm vụ này yêu cầu học sinh phải thiết kế đƣợc phƣơng án thí
nghiệm về mạch điện kín để xét độ sáng của các đèn, khi nào đèn sáng bình
thƣờng, khi nào đèn sáng yếu, khi nào đèn sáng quá mức bình thƣờng.
Trong nhiệm vụ này, học sinh phải dự đoán, tính toán đƣợc việc dùng
nguồn, mắc mạch nhƣ thế nào để các đèn sáng đúng định mức.
Nhiệm vụ này cũng tạo cho các em khả năng khám phá ra các mạch điện
độc đáo, sáng tạo. Giúp các em lấy đƣợc sự tự tin và đam mê trong công việc.
Các nhiệm vụ này giúp học sinh củng cố và mở rộng kiến thức về định
luật Ôm cho toàn mạch, mắc các nguồn thành bộ; rèn luyện kĩ năng tính toán,
dự đoán kết quả thí nghiệm, vận dụng kiến thức về mạch điện kín để thiết kế
phƣơng án thí nghiệm.
+ Ở nhiệm vụ 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Đây là một nhiệm vụ dễ chuẩn bị dụng cụ, dễ tiến hành, dễ giải thích
kết quả. Nhƣng nhiệm vụ có tác dụng khá lớn, giúp học sinh lấy đƣợc sự tự
tin trong học tập, ôn tập kiến thức về mạch kín và về hoạt động của đèn Pin,
rèn luyện tính kiên trì trong việc chế tạo vỏ, mạch, choá ...đèn pin, rèn luyện
óc sáng tạo trong việc lựa chọn dụng cụ và lắp đặt thí nghiệm.
+ Ở nhiệm vụ 4
Qua việc thực hiện nhiệm vụ này, học sinh đƣợc củng cố thêm các
kiếm thức về mạch điện. Học sinh cũng đƣợc rèn luyện các kĩ năng bố trí, lựa
chọn dụng cụ, lắp đặt, tiến hành thí nghiệm và nhận xét kết quả thu đƣợc.
Việc tìm kiếm và lựa chọn các bộ phận nhƣ cần rung, hộp âm, nguồn
điện, cuộn dây ...đòi hỏi các em phải cố gắng và tích cực nhiều hơn trong
công việc.
+ Ở nhiệm vụ 5
Đối với nhiệm vụ 5.1 thì hai chƣơng trình nâng cao và cơ bản là có cách
viết khác nhau: Chƣơng trình cơ bản thì tiến hành làm thí nghiệm còn chƣơng
trình nâng cao thì sử dụng định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lƣợng để xây
dựng định luật Ôm cho toàn mạch. Đây là định luật rất quan trọng vì nó liên
quan tới nhiều bài tập của học sinh cũng nhƣ các mạch điện thực tế. Việc các
em tự đƣa ra phƣơng án và tự tay thiết kế, chế tạo, tiến hành làm thí nghiệm để
tìm ra mối quan hệ giữa suất điện động, điện trở toàn mạch và cƣờng độ dòng
điện trong mạch sẽ tạo cho các em niềm tin và sự đam mê vào khoa học, giúp
các em rèn những kĩ năng đo đạc, thu thập và xử lí số liệu...
Đối với nhiệm vụ 5.2 thì cả hai chƣơng trình có đƣa ra nhiệm vụ này,
nhƣng chúng tôi thấy đây là một nhiệm vụ rất hay, khắc sâu đƣợc kiến thức
các em đã học nếu nhƣ chính các em đƣa ra phƣơng án, thiết kế và tiến hành
các thí nghiệm. Việc các em tự tay thiết kế mạch điện, lựa chọn nguồn điện,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
sử dụng các dụng cụ đo nhƣ vôn kế, ampe kế sẽ tạo đƣợc sự tự tin trong học
tập, tạo ra những kĩ năng cần thiết của một nhà chế tạo...
+ Ở nhiệm vụ 6
Chƣơng trình không yêu cầu thí nghiệm này, nhƣng chúng tôi thấy đây là
một nhiệm vụ rất hay, giải thích đƣợc nhiều hiện tƣợng thực tiễn liên quan tới sự
chuyển hoá từ điện thành nhiệt, sự chuyển hoá giữa điện năng và hoá năng...
Thí nghiệm này có tác dụng trong việc ôn tập, củng cố kiến thức về:
nhiệt lƣợng, định luật Jun - Len-xơ, sự nạp và phát điện của ac quy; bồi
dƣỡng sự ham mê nghiên cứu khoa học, rèn luyện đức tính kiên trì, sự khéo
léo và cẩn thận trong chế tạo dụng cụ.
* Nội dung thứ hai: Tổ chức cho học sinh một buổi để các em ra mắt
sản phẩm và trình bày các thí nghiệm mà nhóm mình đã chế tạo đƣợc kết hợp
với phần thi olympia giữa các nhóm và sự giao lƣu giữa các nhóm với khán
giả. Nội dung này sẽ tạo điều kiện cho học sinh đƣợc báo cáo sản phẩm, trao
đổi thông tin, rèn luyện ngôn ngữ và là sân chơi bổ ích, lí thú giúp các em
thêm yêu thích môn học hơn. Ngoài ra, nội dung này còn rèn luyện cho các
em tác phong mạnh dạn, hoạt bát, trí thông minh, sự nhanh trí và khả năng
trình bày ý kiến trƣớc đám đông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
2.3.3. Các thí nghiệm mà giáo viên đã nghiên cứu, chế tạo và dự kiến
nội dung của hội vui vật lí về “Dòng điện không đổi”
Để tổ chức hoạt động ngoại khóa về “Dòng điện không đổi” đạt hiệu
quả cao trong việc phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của
học sinh thì trƣớc tiên, chúng tôi tiến hành chế tạo các thí nghiệm dự kiến sẽ
giao cho học sinh để xác định những khó khăn mà học sinh có thể gặp phải
khi thực hiện. Từ đó, chúng tôi dự kiến phƣơng pháp hƣớng dẫn cụ thể để học
sinh vƣợt qua khó khăn, hoàn thành đƣợc nhiệm vụ.
* Thí nghiệm 1: Thí nghiệm nghiên cứu về nguồn điện hoá
Mục đích thí nghiệm:
+ Tìm đƣợc một số nguồn điện hoá trong thực tế
+ Tìm hiểu cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của một số nguồn điện hoá.
Chế tạo dụng cụ thí nghiệm:
+ Sử dụng các quả chanh, quả quất
+ Các dung dịch hoá học nhƣ axit, muối, bazơ
+ Các miếng kim loại, dây dẫn, vôn kế, giá đỡ...
Có thể xác định sự xuất hiện của nguồn điện có trong quả chanh,
quả quất bằng các phương án sau:
Phương án 1: Xác định nguồn điện bằng vôn kế
- Bố trí thí nghiệm như hình 2.1 và hình 2.2:
- Tiến hành thí nghiệm:
Hình 2.1 Hình 2.2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Trƣờng hợp 1: Bóp mềm 1 quả chanh sau đó cắt làm đôi, lấy ra nửa
quả. Cắm hai thanh kim loại khác bản chất (đồng và nhôm) vào nửa quả
chanh vừa cắt để làm hai điện cực. Dùng dây dẫn nối hai điện cực với vôn kế.
Trƣờng hợp 2: Bóp mềm nhiều quả chanh sau đó cắt làm đôi, lấy các
nửa quả chanh vừa cắt đặt lên giá đỡ. Nối tiếp các nửa quả tranh bằng các
thanh kim loại khác bản chất. Dùng dây dẫn nối hai điện cực của các quả
chanh sau khi đã nối tiếp với vôn kế.
Trƣờng hợp 3: Vắt nƣớc chanh vào cốc, sau đó dùng thanh đồng và
thanh nhôm nhúng vào để làm hai điện cực. Nối hai điện cực với vôn kế.
Kết quả: Trong cả 3 trƣờng hợp kim vôn kế bị lệch khỏi vị trí số không,
chứng tỏ có một nguồn điện trong quả chanh.
Nhận xét: Dung dịch nƣớc chanh là dung dịch hoá học, nguồn điện xuất hiện
trong quả chanh là nguồn điện hoá.
Phương án 2: Xác định nguồn điện bằng đèn LED
- Bố trí thí nghiệm: Bố trí thí nghiệm giống nhƣ hình 2.1 và 2.2 nhƣng ta
thay vôn kế bằng đèn LED.
- Tiến hành thí nghiệm: Làm thí nghiệm nhƣ 3 trƣờng hợp của phƣơng án
1, mắc các điện cực với hai cực của đèn LED.
Kết quả: Ở trƣờng hợp 1 đèn không phát sáng, ở trƣờng hợp 2 và 3 có lúc
đèn sáng.
Nhận xét: Phƣơng án 1 và phƣơng án 2 có thể xác định đƣợc trong quả
chanh, quả quất có một nguồn điện, nhƣng ở phƣơng án 1 kết quả thí nghiệm
rõ ràng và dễ thành công hơn hơn.
*Thí nghiệm 2: Thí nghiệm nghiên cứu về máy phát điện một chiều
Mục đích thí nghiệm:
Nghiên cứu, tạo ra một máy phát điện một chiều từ những chiếc
Đinamô.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Chế tạo dụng cụ thí nghiệm:
Tiến hành thí nghiệm:
Dùng 3 chiếc đinamô cũ ghép thành một khối cố định trên một giá đỡ,
sau đó dùng dây dẫn mắc nối tiếp chúng với nhau. Gắn vành xe đạp lên trục
quay trên giá đỡ, dùng dây cua roa mắc vào vành xe và mắc với các trục quay
của 3 chiếc đinamô (hình 2.3). Dùng tay quay cho vành xe quay, các trục
đinamô cũng quay theo, nối các đèn LED với hai cực của các đinamô.
Kết quả: Các đèn LED phát sáng. Độ sáng các đèn thay đổi khi mắc
vào hai cực của một chiếc, hai chiếc hoặc cả ba chiếc đinamô.
Nhận xét: Để những chiếc Đinamô ghép nối tiếp tạo ra nguồn lớn hơn
từng chiếc thì chúng phải giống nhau về thông số kĩ thuật và đƣợc quay đồng bộ.
* Thí nghiệm 3: Chế tạo mạch, vỏ đèn pin
Mục đích thí nghiệm:
Tự tạo ra những chiếc đèn pin dùng để thắp sáng bóng đèn từ những
vật dụng đơn giản, dễ kiếm.
Chế tạo dụng cụ thí nghiệm:
+ Dây dẫn bằng đồng
+ Vỏ lon, kéo
+ Khoá K (dùng công tắc hoặc núm đẩy)
+ Hai quả pin
Hình 2. 3
+ 1 vành xe đạp
+ 3 chiếc đi na môcũ
+ 1 lốp xe đạp cũ
+ Các thanh sắt, ốc vít
+ Vôn kế, các đèn LED
+ Các đồ phụ kiện cần thiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
+ Bóng đèn
+ Lò xo, gƣơng lõm.
Bố trí và tiến hành thí nghiệm:
- Bố trí thí thí nghiệm theo sơ đồ mạch (hình 2.4) và lắp giáp (hình 2.5).
- Khi đóng công tắc thì đèn phát sáng, ngắt công tắc thì đèn tắt.
C«ng t¾c Bãng ®Ìn d©y tãc
G•¬ng lâm
* Thí nghiệm 4: Nghiên cứu sự nạp điện và phát điện của acquy
Mục đích thí nghiệm:
Tìm hiểu nguyên tắc hoạt động của acquy khi nạp điện và khi phát điện.
Tìm đƣợc cực của acquy khi mất dấu.
Chế tạo dụng cụ thí nghiệm:
+ Một bình acquy xe máy đã hết điện cỡ 12V
+ Bình đựng dung dịch, dây dẫn, hai điện cực bằng đồng và inox
+ Nƣớc, axít H2SO4, muối CuSO4
+ Bộ đổi nguồn, các quả pin
Có các phương án sau để tiến hành nạp điện cho acquy:
Phương án 1: Sử dụng các nguồn một chiều có sẵn để nạp
Sử dụng các quả pin nối tiếp chúng với nhau để tạo ra bộ nguồn lớn có
hiệu điện thế gữa hai cực luôn lớn hơn hiệu điện thế giữa hai cực acquy đƣợc
vá Pin
Hình 2.5 Hình 2.4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
nạp. Nối hai cực của bộ nguồn đó với hai cực của acquy, khi đó acquy sẽ
đƣợc nạp điện.
Phương án 2: Sử dụng bộ đổi nguồn và mạng điện sinh hoạt để nạp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2010_SP_LLPPDH_Nguyenvanhao.pdf