Tài liệu Luận văn Nghiên cứu tiền đề ra đời bảo hiểm và dự báo thang độ phát triển tại Việt Nam: Luận văn: Nghiên cứu tiền đề ra đời bảo hiểm và
dự báo thang độ phát triển tại Việt Nam
Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ
1. Lịch sử ra đời của BHNT.
1.1. Trên thế giới:
Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo
hiểm là William Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không
có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống
như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con
người, nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do
sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm
vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều
kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời ở
Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ
bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT
Equitable ở Anh đư...
39 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu tiền đề ra đời bảo hiểm và dự báo thang độ phát triển tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Nghiên cứu tiền đề ra đời bảo hiểm và
dự báo thang độ phát triển tại Việt Nam
Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ
1. Lịch sử ra đời của BHNT.
1.1. Trên thế giới:
Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo
hiểm là William Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không
có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống
như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con
người, nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do
sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm
vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều
kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời ở
Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ
bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT
Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân.
ở Châu á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo
hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và
Nippon ra đời và phát triển cho đến nay.
1.2.Tại Việt Nam
ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo Hiểm
Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu tiên của
Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt
đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở
nước ta chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam
(BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài chính Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển,
đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa
hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần theo cơ chế thi trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện trong
lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính phủ nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam đã ban hành nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là
văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm
trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố
chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo nghị
định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp cổ phần, Hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh với nước ngoài, chi
nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của
việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường Việt Nam.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những
năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm.
Với sự ra đời của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã
khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta
mới tiến hành nghiệp vụ BHNT hơn 5 năm, nhưng những gì BVNT Việt Nam đạt
được trong thời gian đó rất đáng ghi nhận. Tạo nên cho người dân Việt Nam một
phong tục sống mới, một hình thức tiết kiệm mới.
Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị
trường BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp cho
người dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay
thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là:
- Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nước,
đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh doanh là
55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là
không kỳ hạn
- Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt động
12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50 năm.
- Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là công ty
BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai trương
hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm.
- Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công ty bảo
hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày 12/10/1999, vốn
đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm.
- AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương hoạt động
22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50 năm.
Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực tạo ra
hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo
hiểm trong xã hội Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT)
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh
chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là
năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền
này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm
mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp
phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học
kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc
sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ôtô,
hàng không , tai nạn lao động...
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy
cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những
khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình...
làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con người
đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu
quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn
ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn
chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp
chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro
xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo
hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc
phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con
người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt
tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với
rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của
các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm
là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm
không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn
các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là
công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy,
bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát
triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu
tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. ở châu
á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy
động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh
tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của
Thời báo kinh tế thì trong năm 2001 doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ đồng, chiếm
0,55% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết
một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết
các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công
ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng
làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn
khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra
được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép
chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp
hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số
tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết
kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi.
Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước
cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong
dân cho đầu tư phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa
bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong
dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia
ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đa mở ra thêm cho người dân một
cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư
cho đất nước.
3. Vai trò của BHNT
3.1. BHNT đối với nền kinh tế
Để đánh giá được đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trước hết chúng ta cần hiểu
rõ khái niệm về BHNT:
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra
(người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định) còn người
tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá
trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người.
BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi
quốc qia:
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc người
được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không thể lường
trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng có nhiều cơ hội
nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn đến
những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng
may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của bạn sẽ
dược đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra.
Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo
hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo
hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con người.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và tăng
thêm quyền lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra một
lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro dưới hình thức trợ
cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt
ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng vì đã có người
khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân cũng như tổ chức. Ngày nay
khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó
với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên
cạnh các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH người lao động còn được hưởng quyền lợi từ
BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ nguyện người
lao động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tụ lo được cho bản thân giảm gánh
nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi
tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà
lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt Nam đang trong thời kỳ
đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước để phục vụ cho sự phát triển
kinh tế phảI có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan
trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có
những chính sách để tạo điều kiện cho BHNTngày một phát triển mà bước tiến quan
trọng là sự cho phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT
Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một trong các
biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu tư phát triển
Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại
lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có thể trong thời gian tới dần dần
sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vì lượng tiền này được dự kiến sẽ
lên tới hơn 10 tỷ (được dự trữ dưới dạng ngoại tệ cũng như vàng). Ngoài ra, khi các
công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ
đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài
hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài đây là
đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động.
Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng sinh viên ra
trường cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng
khi mà lượng người không có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngoài những
người không có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ không được sử dụng
đúng mục đích. Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác
bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy,
phát triển BHNT đánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở công ty BHNT
Hà Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50 người,
riêng nội thành đã có 16 phòng khai thác, đa số đấy đều là các cán bộ chuyên
nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện, ngoài
ra BHNT còn có 60 công ty khác ở khắp các quận huyện trong cả nước.
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo
nên một tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và phải
coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một tăng
thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo
dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong vá ngoài nước, cho sinh
viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH An sinh
giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ tiết
kiệm thường xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục
tiêu công bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm
của Xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo cho
mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân, đồng
thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với người
khác.
Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho người
thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là nhân tố quyết
định sự phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính sách về con người là vô
cùng quan trọng, thực hiện BHNT chính là thực hiện chiến lược phát triển toàn diện
con người của Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội
như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong
cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động,
người cao tuổi....
3.2. BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm
3.2.1. BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất
Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo hiểm
hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một số
đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là
một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm
đang ngày càng trở thành một tác nghiệp không thể thiếu được đối với các chủ
doanh nghiệp, một thói quen tốt trong dân chúng.
Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc như bảo hiểm hoả hoạn, bảo
hiểm hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại hình
bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra đời
khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị thế
của mình trong thị trường bảo hiểm nói chung.
3.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể
thiếu được trên thị trường BH.
Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không ngừng
tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ BH. Tuy
nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu như ở châu Mỹ Latinh
phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất thấp, chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở
châu âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí
BHNT ở châu Đại đương chiếm 52,3% trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH.
Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải thừa
nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của mình
trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh tế thế
giới nói chung.
4. Những đặc điểm cơ bản của BHNT.
4.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi nhân
thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho người BH theo
định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn (STBH)
cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất
định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn
được bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng bù đắp phần
nào những tổn thất về mặt tài chính.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một cách
thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm khác
với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm không những tích luỹ về mặt
tài chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho bản thân
thì vẫn được đảm bảo về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của BHNT mà
các loại hình tiết kiệm khác không có dược. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm
vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.
4.2 BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo
hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp
phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa mang
tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của
con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo hiểm.
Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người được bảo
hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An
gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được một khoản tiền lớn
sau một thời gian ấn định trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò
như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn
về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn
không như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không
trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy định trong
hợp đồng bảo hiểm).
Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị trường
ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm.
4.3 Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng
Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người tham gia và
từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của công ty thiết kế
ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên bất cứ ai cũng có
thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục đích của bản thân khi
tham gia bảo hiểm.
4.4.Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí
khá phức tạp.
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải bỏ ra rất
nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp
đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí BHNT,
còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
+ Tuổi thọ bình quân của con người
+ Số tiền bảo hiểm
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm
+ Phương thức thanh toán
+ Lãi suất đầu tư
+ Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng địa lý,
từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước khác
nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng loại sản
phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của mỗi loại
sản phẩm trên thị trường...
4.5 BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những quốc gia
chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó.
Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích rằng, cơ sở chủ
yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội nhất
định:
- Những điều kiện về kinh tế
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức
độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung bình trở
lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không
những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu
cầu cao hơn.
+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà đầu tư
vào BHNT
- Những điều kiện xã hội bao gồm:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã hội
phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và
dài hạn.
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và
phát triển của BHNT. ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất nước
ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và tạo điều
kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới như bảo hiểm.
5. Các loại hình BHNT
Như trên đã nêu, BHNT là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc.
Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí trong một thời
gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản lí và công ty bảo
hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền như đã thoả thuận trong hợp đồng khi kết
thúc thời hạn bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm.
Do đó BHNT được hiểu như một sự đảm bảo, một hình thức tiết kiệm và mang tính
chất tương hỗ. BHNT trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho
bảo hiểm xã hội (BHXH) khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo
hiểm xã hội (BHXH) chưa đáp ứng hết được.
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người tuỳ theo mục
đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo hiểm người ta chia ra
các hình thức cơ bản sau:
5.1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm
Có 3 loại hình BHNT cơ bản, sản phẩm của các công ty bảo hiểm đều xuất phát từ 3
loại này.
5.1.1. Bảo hiểm tử kỳ
Còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn. Đây là loại hình BH được
kỳ kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu
cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được BH không nhận được bất kỳ
một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là người BH không phải thanh toán số
tiền BH cho người được BH. Ngựoc lại, nếu có cái chết xảy ra trong thời hạn có
hiệu lực của hợp đồng, người BH có trách nhiệm thanh toán số tiền BH cho người
thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định. Loại hình BH này được đa dạng hoá thành
các loại hình sau:
+Bảo hiểm tử kỳ cố định
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi
+ Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
+ Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên
+ Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện
Đặc điểm
- Thời hạnh BH xác định
- Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời
- Mức phí BH thấp ví không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được BH.
Mục đích
- Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất
- Bảo trợ cho gia đình và gnười thân trong một thời gian ngắn
- Thanh toán các khoản nợ nần về nhứng khoản vay hoặc thế chấp của người
được BH
5.1.2. Bảo hiểm trong trường sinh kỳ : Thực chất của loại hình bảo hiểm này là
người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoản thời gian
xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo
hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản
tiền nào.
Đặc điểm:
- Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho
đến khi chết.
- Phí bảo hiểm đóng một lần
- Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định.
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu.
- Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già.
- Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
5.1.3. Bảo hiểm trọn đời
Hay còn gọi là Bảo hiểm trường sinh.
Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm không xác định và số
tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm chết. Ngoài
ra trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người
được bảo hiểm ngay khi họ sống đến 99 tuổi (như Prudential). Loại hình này thương
có các loại hợp đồng sau:
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận
+ BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận
+ BHNT trọn đời đóng phí liên tục
+ BHNT trọn đời đóng phí một lần
+ BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí
Đặc điểm:
- STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết
- Thời hạn BH không xác định
- Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt
quá trình bảo hiểm
- Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn xảy ra
nên STBH chắc chắn phải chi trả
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
- 0iữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau
5.1.4. BHNT hỗn hợp.
BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, số tiền bảo hiểm sẽ được
trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến đáo hạn hợp đồng và thời hạn
bảo hiểm được xác định trước, trong đó bảo tức trả khi đáo hạn hợp đồng và phụ
thuộc vào hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân, mỗi
người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm BHNT sao cho phù hợp với mục
đích của mình. Trong BHNT hỗn hợp này yếu tố rủi ro và tiết kiệm đan xen nhau vì
thế nó được áp dụng rộng rãi hầu hết ở các nước trên thế giới.
Đặc điểm:
- STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được BH bị tử vong trong
thời hạn bảo hiểm.
- Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm...)
- Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo
hiểm.
- Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được
hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
Mục đích:
- Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân.
- Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa loại sản
phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi
nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.
5.2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm
5.2.1 Bảo hiểm cá nhân
Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo
hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá nhân tham gia
bảo hiểm
5.2.2. Bảo hiểm nhóm
Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh sách cá
nhân được bảo hiểm. Thí dụ tập thể cán bộ, công nhân viên của một doanh nghiệp
đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách các cá nhân được bảo
hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm đảm bảo an toàn sản xuất, lao
động.
5.3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng.
Trong bảo hiểm con người thì BHNT được sử dụng để chỉ loại hình bảo
hiểm con người có tính chất dài hạn (trên 1 năm), trong BHNT có 4 loại hình cơ bản
như đ• nêu ở phần 5.1. Bên cạnh đó còn có những sản phẩm đi kèm cho sản phẩm
chính đó là sản phẩm bổ xung, có những sản phẩm có thời hạn chỉ 1 năm, hết 1 năm
lại tái tục hợp đồng ví dụ như: Trợ cấp nằm viện, chi phí phẫu thuật, bảo hiểm
thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn...
III. Chương trình An Sinh Giáo Dục trong BHNT
1. Vai trò của an sinh giáo dục đối với xã hội, đối với người tham gia
2. Sự phát triển của chương trình an sinh giáo dục
2.1.Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới
Trên thế giới bảo hiểm cho trẻ em xuất phát từ những nhu cầu thực tế là cha mẹ
muốn đảm bảo cho con cái về mặt tài chính khi có rủi ro về thu nhập xảy ra với bản
thân họ. Việc thanh toán học phí có thể thực hiện trong khi bố mẹ đang có thu nhập
đủ để trả cho các chi phí này. Khó khăn phát sinh nếu khoản thu nhập chính bị đánh
mất hoặc bị giảm do cha hoặc mẹ bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc chết. Có
nhiều cách để cha mẹ có thể đảm bảo thanh toán học phí ngay cảc trong trường hợp
họ chết sớm. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thể thu xếp được điều đó, số tiền bảo
hiểm được thanh toán nhiều lần hoặc một lần. Đơn bảo hiểm dựa trên sinh mạng
của cha mẹ chứ không được ký do khả năng tự bảo vệ của trẻ em là rất ít.
Tuy được ký do cha mẹ nhưng cha mẹ không có quyền lợi bảo hiểm đối với sinh
mạng con cái họ. Bất cứ bảo hiểm nhân thọ nào vì lợi ích trẻ em đều hoàn phí trong
trường hợp chết sớm xảy ra. Đây được gọi là bảo hiểm trả chậm, bảo hiểm của trẻ
em thường được ký kết đựa vào cuộc sống của bố mẹ chúng và cho phép đứa trẻ lựa
chọn khi đứa trẻ đạt độ tuổi xác định trước (ví dụ ở tuổi 18).
Nếu cha mẹ chết trước khi con cái đến tuổi trưởng thành, hợp đồng bảo hiểm vẫn
tiếp tục mà không phải đóng thêm phí cho đến ngày hợp đồng đáo hạn. Vào ngày kỷ
niệm hợp đồng trước ngày sinh nhật lần thứ 18 sẽ có nhiều sự lựa xhọn khác nhau
cho đứa trẻ. Những dsự lựa xhọn này bao gồm việc thanh toán ngay toàn bộ số tiền
hoặc đơn bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực trên cơ sở bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Không cần bằng chứng về sức khoẻ. Nếu đứa trẻ là nữ thì có quyền lựa chọn việc
chuyển hợp đồng cho người chồng trước khi kết hôn.
3.2. Tại Việt Nam
Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính, khi bước
vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển khai hai loại hình BH đó
là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi
trưởng thành.
Do mục đích của chuyên đề là bàn về sản phẩm An sinh giáo dục cho nên ở phần
này em chỉ nêu rõ về sản phẩm “Chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng
thành”, đây là tên ban đầu của sản phẩm An Sinh giáo dục khi mới đưa vào triển
khai. Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại hình
được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống
yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ
em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm này các bậc phụ huynh hoàn toàn không
mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản
tiết kiệm dành cho những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối
tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi
ro. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau:
- Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo Việt Nhân Thọ
sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng.
- Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng
thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn
18 tuổi.
- Nếu trẻ em không may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã
nộp.
- Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai
nạn, công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực.
- Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho
người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này
vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức.
-Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người
tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị
giải ước.
Từ lúc Bảo Việt nhân thọ bắt đầu triển khai sản phẩm thì một trong hai sản
phẩm đầu tiên được Bảo Việt sử dụng có một sản phẩm dành riêng cho đối tượng
trẻ em. Điều này cũng dựa trên phận nào phong tục tập quán của người dân Việt
Nam là trẻ em bao giờ cũng là được ưu ái nhất trong gia đình cũng như trong xã hội,
gia đình luôn giành cho con cái những gì quý giá nhất cũng như mong muốn con em
mình có một nền tảng vững chắc sau này. Sản phẩm An sinh giáo dục ra đời đã đáp
ứng được mong muốn đó, cha mẹ, ông bà vừa được thể hiện tình thương yêu đối với
con cái vừa tạo cho con cái hành trang để vững bước vào đời. Bắt nguồn từ đức tính
tốt đẹp này của người dân Việt Nam Bảo Việt nhân thọ đã đưa ra loại hình bảo hiểm
An sinh giáo dục và đây cùng là thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với người dân.
Như đã nói ở trên loại hình bảo hiểm này thuộc nhóm BHNT hỗn hợp nên thể hiện
rất rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm vì thế nên người tham gia lại càng
thấy được tính tiện lợi khi tham gia Bảo hiểm. Hơn nữa, người ta nói Bảo hiểm
mang tính xã hội và nhân văn rất lớn điều đó được thể hiện ở tính chất của sản
phẩm An sinh giáo dục là khi chẳng may có rủi ro xảy ra đối với bậc cha mẹ chủ
hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng sẽ được miễn phí cho đến khi đáo hạn và quyền lợi
bảo hiểm dành cho em bé đó vẫn không hề thay đổi. Có lẽ vậy cho nên các bậc cha
mẹ tham gia cho con cái của mình rất nhiều vừa thể hiện được tình thương yêu đối
với con cái, vừa đảm bảo cho con một tương lai vững chắc về mặt tài chính khi có
rủi ro xảy ra đối với bản thân, vừa mang tính tiết kiệm. Hội tụ đủ các yếu tố trên cho
thấy quyền lợi của người tham gia bảo hiểm là rất lớn cả cho người chủ hợp đồng
lẫn người được bảo hiểm. Vì thế sản phẩm An sinh giáo dục luôn là sản phẩm được
bán nhiều nhất trong các công ty bảo hiểm.
Cho đến nay, Qua 5 năm hoạt động bảo Việt đã triển khai thêm nhiều sản
phẩm mới để đáp ứng được nhu cầu của mọi người dân trong xã hội, mỗi sản phẩm
có một ưu thế riêng và có cái hay riêng, hệ thống sản phẩm của Bảo Việt rất đa
dạng và phong phú cho nên giới hạn trong đề tài em chỉ nêu về sản phẩm An sinh
giáo dục.
3. Nội dung cơ bản của sản phẩm An sinh giáo dục
3.1.Một số khái niệm về hồ sơ yêu cầu bảo hiểm
Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: là mẫu đăng ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát hành,
người yêu cầu bảo hiểm phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt kê sẵn
trên mẫu. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm được xem là một phần của hợp đồng bảo hiểm.
Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản của
hợp đồng bảo hiểm.
Nội dung của hồ sơ yêu cầu: hồ sơ yêu cầu là một phần quan trọng của hợp
đồng bảo hiểm. Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về bản
thân: tên, tuổi, giới tính, chỗ ở, sở thích; về tình trạng sức khoẻ, về điều kiện bảo
hiểm mà mình lựa chọn theo mẫu đã in sẵn. Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm, công
ty bảo hiểm sẽ đề nghị khám sức khoẻ và đưa ra quyết định có nhận bảo hiểm hay
không. Nếu đồng ý chấp nhận bảo hiểm, công ty sẽ đưa ra một mức phí phù hợp.
Sau khi nhận được số phí đầu tiên, công ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm điều
khoản và các phụ lục. Một bản gửi lại cho khách hàng, một bản giữ lại ở công ty
cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm.
Người chủ hợp đồng:
Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60, là người kê khai giấy yêu cầu bảo
hiểm, đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm.
Người được bảo hiểm:
Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 (tính đến thời điểm gửi giấy yêu cầu bảo
hiểm), là người mà công ty chấp nhận bảo hiểm sinh mạng theo hợp đồng bảo hiểm.
Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo
hiểm .
Tai nạn:
Trong BHNT quy ước “Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất
và trực tiếp của một lực mạnh, bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể người
được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm, loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc
bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thoái hoá”. Như vậy những
thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn, cảm, trúng gió bất ngờ đối với người bảo
hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm.
Thương tật toàn bộ vĩnh viễn:
Là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn toàn
hoặc không thể phục hồi được chức năng của:
- Hai tay hoặc hai chân hoặc . . .
- Một tay, một chân hoặc hai mắt hoặc . . .
- Một tay, một mắt hoặc . . .
- Một chân, một mắt hoặc . . .
Giá trị giải ước (hay giá trị hoàn lại):
Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ
hợp đồng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực.
Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở lên. Giá
trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày sinh nhật của hợp đồng bảo hiểm
(là ngày kỉ niệm hàng năm của hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời
hạn bảo hiểm).
Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã
đóng góp với công ty bảo hiểm, nó chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo hiểm đã
đóng, vì người tham gia bảo hiểm phải thanh toán cho công ty những khoản chi phí
đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp đồng, chi phí khai
thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút, hấp dẫn đối với
khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia BHNT hay
không.
Số tiền bảo hiểm giảm:
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên. Người tham gia
bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số
tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm bị giảm.
Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia BHNT trong
những lúc gặp khó khăn, đây là sự linh động của BHNT ứng với mỗi điều kiện khác
nhau.
Phạm vi bảo hiểm:
Do đây là loại hình BHNT nên phạm vi bảo hiểm phải gắn liền với cuộc sống
của con người do vậy ta phải phân ra:
-Sự kiện được bảo hiểm
+ Người được bảo hiểm sống đến đáo hạn hợp đồng bảo hiểm.
+ Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: bị tai nạn và mất 2 trong 6 bộ phận quy định ở phần
trên,
+ Rủi ro tử vong: đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân: chết do tai nạn
hoặc chết cho bệnh tật.
Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, trong BHNT còn có quy định về rủi
ro loại trừ. Việc đưa ra các rủi ro loại trừ nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của
nhà bảo hiểm, mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật, tôn
trọng pháp luật, có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro.
- Rủi ro loại trừ xảy ra do một số nguyên nhân sau:
+ Hành động cố ý của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm hoặc người
được thừa kế
+ Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm, người tham gia bảo
hiểm.
+ Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu, bia, ma tuý hoặc
các chất kích thích tương tự .
+ Do động đất, núi lửa v .v . . .
+ Do chiến tranh, bạo động v.v . . .
3.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm
3.2.1 Trách nhiệm của các bên.
* Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm
- Kí hợp đồng bảo hiểm: người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm, cùng công
ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng.
- Trách nhiệm khai báo rủi ro: Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo
hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm (kê
khai tình trạng sức khoẻ).
- Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm: đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty bảo
hiểm, theo quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sở thời
điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng. Người tham gia baỏ hiểm phải đóng đầy đủ
phí theo quy định và đúng hạn.
- Trách nhiệm khai báo, thông báo tổn thất: khi có sự cố rủi ro xảy ra, người tham
gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất, tình trạng sức
khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết. Bên cạnh đó phải cung
cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực, chính xác để công ty căn cứ trả
tiền bảo hiểm. Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ.
* Trách nhiệm của công ty bảo hiểm:
- Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm.
- Đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực.
- Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là thuế
như đối với các doanh nghiệp khác.
- Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật.
3.2.2 . Quyền lợi bảo hiểm
- Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi, khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn, công
ty BHNT sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi
trong hợp đồng bảo hiểm.
- Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chết trước ngày hợp đồng bảo hiểm hết hạn,
công ty BHNT sẽ hoàn trả 100% số phí đã nộp vì khi người tham gia BHNT kí kết
hợp đồng với mục đích là đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành. Do vậy
khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của chương trình này không
còn nữa, nên chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp.
- Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết
+ Do tai nạn xảy ra sau 01 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, công ty
BHNT sẽ ngừng thu phí bảo hiểm từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo ngay sau ngày
xảy ra tai nạn và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo
hiểm.
Trường hợp tai nạn xảy ra trước thời gian 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo
hiểm có hiệu lực, công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho
người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ.
+ Do các nguyên nhân khác (trừ trường hợp tự tử và nhiễm virut HIV).
Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chưa đủ 1 năm, công ty BHNT sẽ hoàn
trả cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm 80% số phí bảo hiểm
đã nộp và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị phá bỏ.
Khi hợp đồng bảo hiểm này có hiệu lực từ một năm trở lên, công ty BHNT
sẽ ngừng thu phí bảo hiểm tiếp sau ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vẫn
tiếp tục duy trì với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm.
+ Do nguyên nhân tự tử hoặc do nhiễm virut HIV.
Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, công ty BHNT sẽ
ngừng thu phí bảo hiểm kể từ ngày đến kì thu phí tiếp theo ngay sau ngày xảy ra tai
nạn và hợp đồng vãn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm.
4) Trong trường hợp người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị thương
tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn.
Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai
nạn (tai nạn được bảo hiểm) thì sẽ được hưởng quyền lợi như phần 3.1 trên.
Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn
xảy ra sau 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, công ty BHNT trả cho
người được bảo hiểm số tiền trợ cấp hàng năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cam kết
cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn. Trường hợp tai nạn xảy ra trước một
ngày nói trên, công ty BHNT hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người tham gia bảo
hiểm và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị huỷ bỏ.
Ngoài các quyền lợi nói trên và khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2
năm trở lên, công ty bảo hiểm còn có thể trả một khoản tiền lãi từ kết quả đầu tư phí
BHNT của công ty cho người tham gia bảo hiểm vào ngày kỉ niệm của hợp đồng
bảo hiểm hoặc khi thanh toán giá trị giải ước hoặc vào ngày thanh toán tiền bảo
hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết và trả cho người được bảo
hiểm vào ngày đáo hạn của hợp đồng.
3.3. Thủ tục bảo hiểm
1. Khi yêu cầu bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm phải điền đầy đủ, trung thực vào
giấy yêu cầu bảo hiểm, xuất trình giấy khai sinh của người được bảo hiểm và giấy
khai sinh hoặc chứng minh thư hay hộ khẩu của người tham gia bảo hiểm cho công
ty BHNT.
2. Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người tham gia bảo hiểm không
tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng thì phải thông báo
bằng văn bản cho công ty BHNT trước kỳ nộp phí tiếp theo 15 ngày, và công ty
BHNT sẽ thông báo bằng văn bản cho người tham gia bảo hiểm biết về số tiền bảo
hiểm giảm tại thời điểm dừng đóng phí trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được
thông báo của người tham gia bảo hiểm.
3. Trong thời gian 14 ngày kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham gia
BH có quyền từ chối không tiếp tực tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp này
người tham gia bảo hiểm được nhận 100% số phí đã nộp.
4. Huỷ bỏ và thay đổi hợp đồng bảo hiểm:
a) Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực công ty BHNT không có
quyền huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản, điều kiện của hợp đồng này trừ khi đã có
thoả thuận khác nhau giữa công ty BHNT và người tham gia bảo hiểm.
b) Trường hợp người tham gia bảo hiểm có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm
- Khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ hai năm, công ty BHNT không hoàn trả
lại số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm.
- Khi hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên, công ty BHNT sẽ thanh toán
cho người tham gia bảo hiểm giá trị giải ước tính đến thời điểm, nhận được yêu cầu
huỷ bỏ hợp đồng và khoản tiền lai của hợp đồng này từ kết quả đầu tư phí BHNT
của công ty.
3.4. Số tiền bảo hiểm va nguyên tắc đinh phí: 3.4.1. Số tiền bảo hiểm
Đây là hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với người bảo hiểm . Trong
BHNT (cụ thể là bảo hiểm trẻ em) nhà bảo hiểm sẽ đưa ra nhiều mức số tiền khác
nhau và người tham gia bảo hiểm sẽ dựa trên khả năng tài chính của mình để lựa
chọn số tiền thích hợp nhất.
Đây cũng là số tiền người tham gia đăng kí với công ty BHNT.
Người tham gia BHNT có quyền lựa chọn một trong các mức số tiền bảo
hiểm sau: 5 triệu, 10 triệu, 15 triệu, 20 triệu, 30 triệu, 40 triệu, 50 triệu.
3.4.2. Phí bảo hiểm và nguyên tắc tính phí
Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm, phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ bảo
hiểm để chi trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí.
Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm
đảm bảo trách nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với
người tham gia bảo hiểm như: chết, hết hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo cho
việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách nhiệm của người tham gia
bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước những rủi ro đã
được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Phí bảo hiểm có thể nộp một lần ngay sau khi ký hợp đồng hoặc có thể nộp định kỳ
trong năm. Phí nộp một lần sẽ phải đóng góp ít hơn so với tổng số chi phí đóng góp
hàng kỳ do hiệu quả đầu tư của việc đóng phí một lần cao hơn và chi phí quản lý
thấp hơn.
Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công ty
bảo hiểm và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm tính theo giá trị tại thời
điểm ký kết hợp đồng.
Trách nhiệm của người được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bằng trách nhiệm
của công ty bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng
Phí bảo hiểm gồm hai phần: phí thuần và phụ phí.
+ Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm.
+ Phụ phí gồm:
- Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý...
- Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi
phí thu phí BH ...
- Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường.
3.4.3.Cách xác định phí:
a. Phí thuần:
Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là:
- Tuổi thọ của người được bảo hiểm cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong.
- Lãi suất kỹ thuật: lãi xuất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí.
Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo
hiểm, cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn.
Qua bảng tỉ lệ tử vong ta có thể đưa ra số lượng những người còn sống (lx+n) ở
lứa tuổi x sau n năm. Từ đây có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong của
một người ở độ tuổi x sau n năm.
Tuổi
(x) Số người sống
(lx) Số người chết
(dx) Tỷ lệ chết
(1000.qx)
Lãi suất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư các khoản phí để đưa ra
một phần lãi làm giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng cao thì
càng phải kích thích được số lượng người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm phải đưa
vào lãi suất tiền gửi để tính phí.
Trước khi tính phí ta cần hiểu một số khái niệm sau:
x: tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu được nhận bảo hiểm.
lx: số người sống
l(x+n): số ngưòi được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng.
d(x+k): số người được bảo hiểm chết trong năm hợp đồng k.
n: thời hạn hợp đồng.
v: thừa số chiết khấu v=1/1+i.
T(x+k): số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm hợp
đồng k.
C: số tiền bảo hiểm.
p: phí thuần.
p”: phí toàn phần.
Do BHNT gồm nhiều trường hợp được trả số tiền bảo hiểm. Do vậy phải xác định
phí bảo hiểm cho từng trường hợp.
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hợp đồng:
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trước
khi hết hạn hợp đồng:
+ Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn
bộ vĩnh viễn do tai nạn:
( Theo điều qui định của nghiệp vụ thì khi người được bảo hiểm bị thương tật toàn
bộ vĩnh viễn sẽ được công ty bảo hiểm trả định kỳ 1/4 số tiền bảo hiểm trong những
năm còn lại của hợp đồng).
Phí BHNT được xây dựng trên cơ sở P1 ,P2 ,P3.
P = P1 + P2 + P3.
b. Phí toàn phần:
Trên cơ sở phí thuần, nhà bảo hiểm căn cứ vào các khoản phụ phí để tính ra
khoản phí mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm.
Phí toàn phần = Phí thuần + Phụ phí
Thông thường thu phí chiếm khoảng 5% phụ phí, trong đó:
+ 3% chi phí quản lí
+ 2% chi phí khai thác hợp đồng
Mức phí không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo
hiểm có thể nộp theo tháng, quý, năm hoặc theo 2 kì trong năm. công thức tính phí
nộp mỗi kì (F) theo phí tháng như sau:
Nếu nộp phí theo quý thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
Fquí = Ftháng * 3*0,98
(so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo quý giảm 2 %)
Nếu nộp phí hai kỳ trong năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
F2 kì = Ftháng * 6 * 0,96
( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo hai kỳ trong năm giảm 4
%)
Nếu nộp phí theo năm thì số phí nộp mỗi kỳ được tính bằng
Fnăm = Ftháng * 12 * 0,92
( so với tổng số phí nộp theo tháng thì tổng số phí nộp theo năm giảm 8 %)
Phí bảo hiểm cho các mức số trên bảo hiểm được tính theo tỉ lệ sau:
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 5 triệu đến 30 triệuVNĐ- tính bằng 100% tỉ lệ
phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 31 triệu đến 40 triệuVNĐ- tính bằng 98% tỉ lệ
phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
+ Với các mức số tiền bảo hiểm từ 41 triệu đến 50 triệuVNĐ- tính bằng 97% tỉ lệ
phí của một đơn vị số trên bảo hiểm.
3.5. Chi trả bảo hiểm
3.5.1. Trường hợp sống đến hết hạn hợp đồng
Với : Hợp đồng bảo hiểm gốc, công ty sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ký kết
trong hợp đồng.
3.5.2. Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị chết
Với : - Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm
- Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Giấy chứng từ
Công ty bảo hiểm xem xét các giấy trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam
kết trong hợp đồng.
3.5.3. Trường hợp ngưòi tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm bị thương
tật toàn bộ vĩnh viễn.
Với :
- Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm
- Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Biên bản tai nạn có xác nhận của công an hoặc cơ quan của người tham gia bảo
hiểm làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn.
- Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật của người
được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm xem xét các giấy tờ trên và sẽ thực hiện mọi quyền lợi đã cam
kết trong hợp đồng.
3.5.4. Trường hợp huỷ bỏ hợp đồng đã có giá trị hoàn lại
Với:
- Giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng
- Hợp đồng bảo hiểm gốc.
Trường hợp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm không trung thực,
hoặc không chấp hành đúng các điều quy định trong hợp đồng, công ty bảo hiểm có
quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bảo hiểm tuỳ theo mức độ vi phạm.
Công ty bảo hiểm có trách nhiệm giải quyết và trả tiền bảo hiểm hoặc thanh toán giá
trị hoàn lại, hoặc số phí đã nộp trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy
đủ và hợp lệ. Nếu quá thời hạn trên thì khi thanh toán công ty bảo hiểm phải trả
thêm lãi của số tiền này theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm thời hạn 3 tháng do Ngân
hàng Nhà nước quy định trong hợp đồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Nghiên cứu tiền đề ra đời bảo hiểm và dự báo thang độ phát triển tại Việt Nam.pdf