Tài liệu Luận văn Nghiên cứu thực trạng và kiến thức-Thái độ -thực hành về bệnh răng miệng của học sinh tiểu học tại huyện Văn Chấn -tỉnh Yên Bái năm 2009: Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYấN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC
NGUYỄN NGỌC NGHĨA
NGHIấN CỨU THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN THỨC-THÁI ĐỘ -THỰC HÀNH VỀ
BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TẠI HUYỆN VĂN CHẤN -TỈNH YấN BÁI NĂM 2009
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Thỏi nguyờn – Năm 2009
Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYấN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC
NGUYỄN NGỌC NGHĨA
NGHIấN CỨU THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN THỨC-THÁI ĐỘ -THỰC HÀNH VỀ
BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TẠI HUYỆN VĂN CHẤN -TỈNH YấN BÁI NĂM 2009
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Chuyờn ngành Y học dự phũng
Mã số: 60 72 73
Hƣớng dẫn khoa học : TS ĐÀO THỊ NGỌC LAN
Thỏi Nguyờn, 11 - 2009
Số húa bởi Trung tõm Học liệu – Đại học Thỏi Nguyờn
3
Lời cảm ơn
Tụi xin bày tỏ lũng biết ơn chõn thành tới Đảng uỷ, Ban giỏm hiệu, khoa
đào tạo sau đại học, phũng đào tạo – khoa học – quan hệ quốc tế, Bộ mụn Vệ
sinh - Mụi trường - Dịch tễ học trường Đ...
85 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu thực trạng và kiến thức-Thái độ -thực hành về bệnh răng miệng của học sinh tiểu học tại huyện Văn Chấn -tỉnh Yên Bái năm 2009, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC
NGUYỄN NGỌC NGHĨA
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN THỨC-THÁI ĐỘ -THỰC HÀNH VỀ
BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TẠI HUYỆN VĂN CHẤN -TỈNH YÊN BÁI NĂM 2009
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Thái nguyên – Năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC
NGUYỄN NGỌC NGHĨA
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN THỨC-THÁI ĐỘ -THỰC HÀNH VỀ
BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TẠI HUYỆN VĂN CHẤN -TỈNH YÊN BÁI NĂM 2009
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Chuyên ngành Y học dự phòng
M· sè: 60 72 73
Hƣớng dẫn khoa học : TS ĐÀO THỊ NGỌC LAN
Thái Nguyên, 11 - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Lêi c¶m ¬n
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Đảng uỷ, Ban giám hiệu, khoa
đào tạo sau đại học, phòng đào tạo – khoa học – quan hệ quốc tế, Bộ môn Vệ
sinh - Môi trường - Dịch tễ học trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, tiến hành nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Để hoàn thành nghiên cứu này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
Tiến sĩ Đào Thị Ngọc Lan, PGS-TS Nguyễn Văn Tư đã giành nhiều thời gian
chỉ bảo, giúp đỡ và tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình tiến hành và hoàn
thiện đề tài nghiên cứu .
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới:
Lãnh đạo sở Y tế tỉnh Yên Bái, Trung tâm Y tế huyện Văn Chấn đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường tiểu học Nghĩa Lộ và Nậm Búng
và các đồng chí lãnh đạo địa phương tại 2 nơi tôi đã tiến hành nghiên cứu này.
Các anh, chị và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên cũng như
chia sẻ những khó khăn, vướng mắc cùng tôi đồng hành trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu để hoàn thành bản luận văn này./.
Ngày 28 tháng 10 năm 2009
Tác giả
Nguyễn Ngọc Nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng, biểu đồ, ảnh chụp. v
Đặt vấn đề ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: Tổng quan .................................................................................... 3
1.1 Bệnh RM vấn đề sức khoẻ toàn cầu ............................................................ 3
1.1.1 Tình hình bệnh răng miệng thế giới ………………………………….3
1.1.2. Tình hình bệnh răng miệng tại Việt Nam ……………………….......8
1.2. Tình hình phòng bệnh RM và dự phòng biến chứng bệnh SR .................. 10
1.2.1. Tình hình phòng bệnh RM trên thế giới ……………………………..10
1.2.2. Tình hình phòng bệnh RM tại Việt Nam……………………………..13
1.2.3. Dự phòng biến chứng bệnh sâu răng …...............................................14
1.3. Vai trò, chức năng và sự cần thiết phải triển khai CT NHĐ ........................17
Chƣơng 2: Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu .................................... 28
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................... 28
2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 28
2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu ............................................................................ 29
2.4. Phương pháp thu thập thông tin .............................................................. 31
2.5. Phương pháp khống chế sai số ................................................................ 31
2.6. Các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ..................................................... 31
2.7. Phương pháp xử lý số liệu ....................................................................... 32
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu .................................................................... 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
3.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ............................................... 33
3.2. Tình hình bệnh lý răng miệng của học sinh .............................................. 35
3.3. Đánh giá về kiến thức, thái độ, thực hành của học sinh về CSRM ............ 39
3.4. Một số yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng ............................................44
Chƣơng 4: Bàn luận ...................................................................................... 48
4.1. Tình hình thực trạng bệnh lý RM, của HS trường tiểu học ……........…………....48
4.2. Thực trạng về kiến thức, thái độ và thực hành của HS ............................. 54
4.3.Các yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng ................................................ 59
KẾT LUẬN ............................................................................................ 65
KHUYẾN NGHỊ ..................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BÀI BÁO KHOA HỌC
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Nội dung Trang
Bảng 1.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo lớp, địa điểm. 35
Bảng 1.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi , địa điểm ............................. 35
Bảng 1.3: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo lớp, giới ..................................... 36
Bảng 1.4: Đối tượng nghiên cứu phân bố theo dân tộc. ...................................... 36
Bảng 1.5: Đối tượng phân bố theo nghề nghiệp hiện tại của bố mẹ .................... 37
Bảng 2.6: Tỷ lệ bệnh sâu răng giữa 2 trường .................................................... 37
Bảng 2.7: Tỷ lệ bệnh viêm lợi giữa 2 trường.................................................... 37
Bảng 2.8: Phân bố tỷ lệ bệnh răng miệng theo tuổi …………….……......…….38
Bảng 2.9: Phân bố tỷ lệ răng miệng theo giới..................................................39
Bảng 2.10: Phân bố tỷ lệ bệnh theo răng sữa và răng vĩnh viễn ........................ 39
Bảng 2.11: Chỉ số sâu mất trám và cơ cấu sâu mất trám răng…………....……40
Bảng 2.12: Phân tích tình trạng tổn thương bệnh lý răng sâu .............................. 40
Bảng 3.13: Mức độ kiến thức chung của học sinh về bệnh răng miệng ............... 41
Bảng 3.14. Kiến thức của học sinh về bệnh răng.............................................. 41
Bảng 3.15. Mức độ thái độ chung của học sinh về bệnh răng miệng …………..42
Bảng 3.16. Thái độ của học sinh về phòng bệnh răng miệng………….. ……… .42
Bảng 3.17. Mức độ thực hành chung về vệ sinh răng miệng ............................... 43
Bảng 3.18. Thực hành về vệ sinh răng miệng sau ăn, số lần chải răng ................ 44
Bảng 3.19. Thực hành chải răng hằng ngày, thói quen ăn vặt ............................ 45
Bảng 3.20. Thói quen ăn vặt của học sinh theo địa phương ............................. 46
Bảng 4.21. Liên quan giữa kiến thức với bệnh răng miệng ................................ 46
Bảng 4.22. Liên quan giữa thái độ với bệnh răng miệng ................................... 47
Bảng 4.23. Liên quan giữa thái độ với bệnh sâu răng ......................................... 47
Bảng 4.24. Liên quan giữa thực hành vệ sinh răng miệng với BRM ................... 47
Bảng 4.25. Liên quan giữa thói quen ăn vặt với bệnh răng miệng ...................... 47
Bảng 4.26. Liên quan giữa thực hành chải răng với bệnh sâu răng ...................... 48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Bảng 4.27. Liên quan giữa chăm sóc sức khoẻ răng miệng với BRM ................. 48
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ phân bố theo dân tộc ............................................................36
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ bệnh răng miệng của học sinh….....................................…….38
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ sâu răng sữa và răng vĩnh viễn .............................................. 39
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ về phương pháp thực hành VSRM.........................................43
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ về thói quen ăn vặt của học sinh ...........…………………….46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
ART Atraumatic Restorative Treatment (Trám răng không sang chấn)
BRM Bệnh răng miệng
CT NHĐ: Chương trình Nha học đường
CPITN Community periodental index of treatment need (Chỉ số nhu cầu
điều trị viêm quanh răng cộng đồng)
CSRM Chăm sóc răng miệng
HS Học sinh
NHĐ Nha học đường
PHHS Phụ huynh học sinh
RM Răng miệng
RHM Răng hàm mặt
SR Sâu răng
smt Sâu mất trám răng sữa
SMT Sâu mất trám răng vĩnh viễn
VQR Viêm quanh răng
VV Vĩnh viễn
WHO Tổ chức Y tế thế giới ( World Health Organization )
YTHĐ Y tế học đường
ĐẶT VẤN ĐỀ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Bệnh răng miệng (BRM) là bệnh phổ biến, gặp ở sấp sỉ 90% dân số trên
thế giới, ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội. BRM hay gặp nhất là bệnh sâu răng
và viêm lợi, bệnh mắc rất sớm, ngay từ khi trẻ 2 tuổi, nếu không được điều trị,
bệnh sẽ tiến triển gây biến chứng tại chỗ và toàn thân, ảnh hưởng đến sự phát
triển thể lực và thẩm mỹ của trẻ sau này. Do tính chất phổ biến, tỷ lệ mắc cao
trong cộng đồng nên điều trị BRM tốn kém cho cá nhân và xã hội cả về kinh phí
cũng như thời gian. Điều quan trọng là đòi hỏi phải có màng lưới phòng khám
nha khoa rộng khắp với dụng cụ trang bị đắt tiền, cùng đội ngũ thầy thuốc chuyên
khoa đông đảo. Chính vì vậy từ lâu BRM đã được Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
và nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm [26], [38].
Phòng bệnh răng miệng là quá trình tương đối đơn giản, không phức tạp,
không đòi hỏi trang thiết bị đắt tiền, không đòi hỏi cán bộ kỹ thuật chuyên môn
cao, chi phí thấp, dễ thực hiện tại cộng đồng, đặc biệt tại các trường học đã đem
lại hiệu quả cao. Do đó phòng bệnh răng miệng sớm ngay ở lứa tuổi học sinh là
chiến lược khả thi nhất đã được WHO khuyến cáo triển khai. Chương trình chăm
sóc răng miệng (CSRM) tại trường học đã được quan tâm và thực hiện ở hầu hết
các nước trên thế giới và trong khu vực từ nhiều thập kỷ nay. Tại hội nghị về Nha
khoa phòng ngừa tổ chức tại Thái Lan năm 1998, WHO đã khuyến cáo nên áp
dụng kỹ thuật trám răng không sang chấn (Atraumatic Restorative Treatment
Technique - ART) là một kỹ thuật đơn giản, dễ phổ cập, như là chiến lược toàn
cầu để dự phòng bệnh sâu răng (SR) ở giai đoạn sớm cho học sinh tại các trường
học để hạ thấp tỷ lệ biến chứng do bệnh gây ra [6], [39] .
Tại Việt Nam đã có trên 80% dân số mắc bệnh răng miệng, trong khi mạng
lưới RHM chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc của nhân dân. Vì vậy hiện nay
phòng bệnh răng miệng là công tác trọng tâm của ngành Răng Hàm Mặt. Tổ chức
và phát triển Nha học đường (NHĐ) là biện pháp phòng và làm giảm dần bệnh
răng miệng cho lứa tuổi trẻ em ở trường học [ 14], [ 15].
Chương trình Nha học đường đã triển khai rộng khắp đến 63 tỉnh, thành
phố trong cả nước nhưng tỷ lệ bệnh răng miệng ở tuổi học sinh vẫn còn cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Các nghiên cứu can thiệp đều cho thấy nếu làm tốt công tác NHĐ thì tỷ lệ
bệnh răng miệng sẽ giảm. Việc đẩy mạnh công tác phòng bệnh RM đặc biệt là
chương trình nha học đường là thiết thực cho sức khoẻ học sinh và hữu ích cho
việc tiết kiệm ngân sách quốc gia, giảm gánh nặng cho ngành Y tế và giảm chi
phí cho xã hội góp phần cải thiện sức khoẻ cộng đồng [5], [16].
Văn Chấn là huyện miền núi của tỉnh Yên Bái. Trong những năm qua,
chương trình nha học đường đã được triển khai và thực hiện đến các trường học ở
các xã trong huyện nhằm làm giảm tỷ lệ mắc bệnh răng miệng và nâng cao sức
khỏe cho học sinh tuổi học đường nói riêng và sức khỏe nhân dân trên địa bàn
huyện nói chung. Tuy nhiên việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn về mọi mặt,
công tác tổ chức còn mang tính hình thức và chưa được quan tâm đúng mức, do
đó tỷ lệ bệnh răng miệng của học sinh tại các trường phổ thông còn cao .
Từ những nhu cầu thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : "Nghiên
cứu thực trạng và kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh răng miệng của học sinh tiểu
học tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2009 " với các mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng bệnh răng miệng và kiến thức, thái độ, thực hành của
học sinh trường tiểu học Nghĩa Lộ và Nậm Búng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
về chăm sóc sức khoẻ răng miệng..
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng của học sinh hai
trường tiểu học.
Chƣơng 1. TỔNG QUAN
1.1. TÌNH HÌNH BỆNH RĂNG MIỆNG - VẤN ĐỀ SỨC KHOẺ TOÀN CẦU
1.1.1- Tình hình bệnh răng miệng trên Thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Răng
Bệnh RM là bệnh thường gặp ở tất cả các nước trên thế giới. Trước đây
bệnh RM rất phổ biến ở những nước phát triển vì chế độ ăn nhiều đường, đạm.
Theo W.R. Hume cuộc cách mạng công nghiệp đã đem lại sự thay đổi dạng thức ăn
truyền thống của phần lớn dân số, sự giàu có và nhàn rỗi của những cộng đồng giàu
có, rồi đến các tầng lớp kinh tế khác có cơ hội và thời gian tiêu thụ đường thường
xuyên hơn, chính điều này đã tạo ra một bệnh dịch mới đó là sâu răng (SR). Những
nước nghèo tỷ lệ sâu răng ngày càng tăng do không được fluor hoá nước uống,
thiếu sự giáo dục nha khoa, chế độ ăn đường không đúng. Những nước giàu tỷ lệ
sâu răng giảm do Nhà nước coi trọng chương trình fluor hoá nước uống, thuốc chải
răng có fluor, trám bít hố rãnh, coi giáo dục nha khoa là quốc sách. Trong vài thập
kỷ gần đây, các nước này đã dành 5 - 11% ngân sách của y tế cho phòng bệnh RM [
6], [ 15], [17]
1.1.1.1 Sâu răng
Sâu răng là một quá trình bệnh lý, xuất hiện sau khi răng đã mọc, tổ chức
cứng của răng bị phá huỷ và tạo thành một hố gọi là lỗ sâu.
Do sâu răng đã xuất hiện từ lâu đời nên đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu
nguyên nhân sâu răng.
Trước năm 1970, giải thích bệnh căn sâu răng, người ta chú ý nhiều đến
chất đường và vi khuẩn Streptococcus Mutans và giải thích bệnh căn sâu răng
bằng sơ đồ KEY như sau:
Sơ đồ Key (sơ đồ 1) [48]
Theo sơ đồ Key, việc phòng bệnh sâu răng tập trung vào chế độ ăn hạn chế
đường, tiến hành vệ sinh kỹ răng miệng song kết quả phòng bệnh sâu răng vẫn bị
hạn chế [18]
Vi
khuẩn
Đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Sau năm 1975 người ta làm sáng tỏ hơn căn nguyên bệnh sâu răng và giải
thích bằng sơ đồ WHITE thay thế một vòng tròn của sơ đồ KEY (chất đường)
bằng vòng tròn chất nền (Substrate) nhấn mạnh vai trò nước bọt (chất trung hoà -
Buffers) [26] và pH của dòng chảy môi trường xung quanh răng. Người ta cũng
thấy rõ hơn tác dụng của Fluor khi gặp Hydroxyapatite của răng kết hợp thành
Fluoroapatit rắn chắc, chống được sự phân huỷ của axít tạo thành thương tổn sâu
răng.
white cycle ( 1975) (s¬ ®å 2) [18]
Người ta có thể tóm lược cơ chế sinh bệnh học sâu răng bằng hai quá trình
huỷ khoáng và tái khoáng. Mỗi quá trình đều do một số yếu tố thúc đẩy. Nếu quá
trình huỷ khoảng lớn hơn quá trình tái khoáng thì sẽ xuất hiện sâu răng:
Sâu răng = Huỷ khoáng > Tái khoáng (cơ chế hoá học và vật lý sinh học )
Vi khuÈn
N•íc bät
ChÊt nÒn
R¨ng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Các yếu tố gây mất ổn định làm sâu
răng
- Mảng bám : Vi khuẩn (kiểm soát )
- Chế độ ăn đường nhiều lần ( kiểm
soát )
- Thiếu nước bọt hay nước bọt axit
- Axit từ dạ dày tràn lên miệng
pH <3
Các yếu tố bảo vệ chống lại sâu
răng
- Nước bọt (kích thích)
- Khả năng kháng acide của men
- Fluor có ở bề mặt men răng
- Trám bít hố rãnh
- Độ Ca ++ NPO4 quanh răng
- pH > 5,5
Với những nghiên cứu về căn nguyên của sâu răng, người ta thấy sâu răng
là một bệnh, các lỗ sâu chỉ là dấu hiệu của bệnh đang hoạt động. Theo Peter
Cleaton 98% những nguy cơ chủ yếu gây sâu răng ở trẻ em là do ăn uống thiếu
Fluor, vệ sinh răng miệng kém và ăn chất ngọt (đường) mà không kiểm soát được
[52]. Năm 1995 Hội Nha khoa Hoa Kỳ đã đưa ra khái niệm sâu răng là bệnh
nhiễm trùng với vai trò gây bệnh của vi khuẩn và giải thích nguyên nhân sâu răng
bằng sơ đồ với ba vòng tròn của các yếu tố vật chủ (răng: gồm men răng, ngà
răng, xương răng) môi trường( thức ăn có khả năng lên men chứa carbohydrate)
và tác nhân (vi khuẩn chủ yếu là Streptococcus Mutans và Lactobacillus) như
sau:
Nguyên nhân sâu răng theo Hội Nha khoa Hoa kỳ [18] (sơ đồ 3)
Cũng từ những hiểu biết mới về căn nguyên của sâu răng, người ta cho rằng
bất cứ một phương pháp nào có thể ngăn cản được phản ứng sâu răng theo chiều
từ trái sang phải (mất khoáng) hoặc làm gia tăng chiều từ phải sang trái (tái
M«i
tr•êng
BÖnh
lý
Vật chủ
Tác nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
khoáng) đều có thể được xem là một biện pháp phòng ngừa sâu răng. Có 4 chiến
lược được ghi nhận để thay đổi tốc độ tấn công của sâu răng cho cộng đồng. Đó
là: Vệ sinh răng miệng, chế độ ăn uống có kiểm soát chất đường và tinh bột, trám
bít hỗ rãnh, sử dụng Fluor. Cải thiện vệ sinh răng miệng, thay đổi chế độ ăn uống
sẽ làm giảm lượng mất khoáng, trong khi đó, trám bít hố rãnh có thể ngăn ngừa
được sự tiếp cận của axít phân huỷ từ thức ăn tới răng. Fluor có cả hai tác dụng
làm giảm mất khoáng và làm tăng tái khoáng [18].
Trong những năm từ 1946 đến 1975, ở hầu hết các nước phát triển, chỉ số
sâu mất trám (SMT) của trẻ em lứa tuổi 12 nằm trong khoảng 7,4 - 10,7 có nghĩa
là trung bình mỗi trẻ em sâu từ 7,4 đến 10,7 răng. Từ 1979 đến 1982 chỉ số SMT
của lứa tuổi 12 đã giảm hẳn còn khoảng 1,7 - 3,0 [40]. Ở Singapo năm 1960 trẻ
12 tuổi có chỉ số SMT > 4 và hiện nay còn < 0,5 [57] .
Nghiên cứu tại các trường phổ thông ở Italia cho thấy: ở lứa tuổi 6 tuổi tỷ lệ
sâu răng chiếm 52,9%, lứa tuổi 12 tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn chiếm 52% và lứa tuổi
15 có tới 68,8% bị sâu răng vĩnh viễn [53].
Tại Thái Lan, năm 2000 tỷ lệ sâu răng ở tuổi 12 là 58-80% [18], [50] .
Nhìn chung ở các nước này bệnh sâu răng đều có xu hướng tăng rõ rệt. So
với các nước phát triển ở thời điểm những năm 1960 - 1970 tình hình sâu răng ở
các nước đang phát triển ở mức thấp hơn nhiều (SMT lứa tuổi 12 từ 0,2- 2,6)
nhưng tới những năm 1970 trở đi chỉ số này lại tăng lên nhanh (từ 1,0 - 6,3) [36].
1.1.1.2 Viêm lợi
Viêm lợi xuất hiện sớm nhất, chỉ sau 7 ngày có mảng bám vi khuẩn mà
không được lấy đi và chỉ tổn thương duy nhất ở tổ chức lợi. Ở thời kỳ này, bệnh
vẫn còn có thể phục hồi, nhưng nếu không điều trị sẽ dẫn đến tình trạng nặng
hơn. Sự kích thích vi khuẩn ở mảng bám răng là nguyên nhân gây ra viêm lợi.
Khi lợi viêm, sẽ có biến đổi giải phẫu như bờ viền lợi tròn, tấy đỏ và phù nề,
mềm. Nhóm vi khuẩn thường kết hợp với viêm lợi là xoắn khuẩn Actinomyces
(Gram dương, hình sợi) và Eikenella (Gram âm, hình que) [11], [41].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Viêm lợi hoại tử loét cấp tính đặc trưng bởi sự hoại tử của gai lợi, chảy
máu tự phát, có mùi hôi. Người ta cho rằng đây là bệnh có liên quan đến stress.
Bệnh này thường có tỷ lệ thấp ở các nước phát triển và cao hơn ở các nước chậm
phát triển và trẻ em nghèo đói. Tuy nhiên, viêm lợi không phải là thể báo trước
của viêm quanh răng. Viêm lợi mạn có thể tồn tại trong một thời gian dài mà
không gây ra viêm quanh răng. Ngược lại có nhiều tác nhân để viêm lợi trở thành
viêm quanh răng, đó là các tác nhân gây bệnh kết hợp với vi khuẩn và phản ứng
bất thường của vật chủ.
- Viêm quanh răng là thời kỳ tiến triển nặng hơn của bệnh quanh răng: lợi,
xương và các tổ chức khác giữ răng sẽ bị phá huỷ. Răng có thể bị rụng hoặc lung
lay hoặc thay đổi vị trí. Ở thời kỳ này đòi hỏi những sự điều trị kết hợp với giữ
cho khỏi mất răng [18].
Theo nghiên cứu của các tác giả ở các nước thuộc châu Âu, châu Mỹ, châu
Á đều cho thấy tỷ lệ trẻ em bị bệnh sâu răng và viêm quanh răng cao ở mức trên
90%. Trẻ em bệnh quanh răng có tỷ lệ mắc cao, có nhiều nơi trên 90% trẻ em
mắc bệnh này. Tuy nhiên bệnh quanh răng ở trẻ em thường được biểu hiện là
viêm lợi, tỷ lệ viêm lợi khác nhau theo tuổi [39], [34].
Bệnh viêm quanh răng liên quan đến tuổi ở thời kỳ răng sữa. Năm 1983
Spencer nghiên cứu 128 trẻ em Úc 5 - 6 tuổi thấy mức độ viêm lợi nhẹ quanh
răng sữa, ít viêm lợi nặng và thấy ít liên quan đến vệ sinh răng miệng.
Theo WHO, năm 1978 bình quân trên thế giới có 80% trẻ em dưới 12 tuổi
và 100% trẻ em 14 tuổi bị viêm lợi mãn. Từ năm 1981-1983 chỉ số CPITN ở tuổi
15 dao động từ 3,0 - 4,0 . Năm 1999 theo Enrique Bimstein tỷ lệ viêm lợi chung
cao nhất ở khoảng 9-14 tuổi, trùng với lứa tuổi dậy thì và trước dậy thì.
Addy đã nghiên cứu trẻ em 11-12 tuổi ở Anh thấy có mối liên hệ rõ giữa chỉ
số mảng bám với chỉ số lợi, đồng thời thấy toàn bộ số trẻ em được khám có viêm
lợi và một vài chỗ chảy máu lợi khi thăm khám. ở Đức năm 1992 tỷ lệ viêm lợi ở
lứa tuổi 12 là 88,3% [49] , [51].
Tại các nước tiên tiến thì tỷ lệ mắc bệnh viêm lợi ở trẻ em rất cao:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
+ Năm 1981 tại Phần Lan viêm lợi ở trẻ em là:
- Trẻ em 7 tuổi: 95%
- Trẻ em 12 tuổi: 97%
+ Năm 1990 trẻ em bị viêm lợi ở:
TT Tên nƣớc Tỷ lệ %
1 Ấn Độ 90
2 Nigeria 89
3 Mỹ 89
4 Phần Lan 72
5 Thụy Sỹ 97
Theo WHO năm 1997, các nước trong khu vực có trên 80% dân số bị
sâu răng và viêm lợi. Chỉ số SMT lứa tuổi 12 ở mức cao từ 0,7 đến 5,5 ( ở
Trung Quốc là 0,7, ở Lào là 2,4, ở Campuchia là 4,9, ở Philippin là 5,5, Việt
Nam là 0,8) [9], [45], [52].
1.1.2. Tình hình bệnh răng miệng ở Việt Nam
1.1.2.1 Tỷ lệ bệnh răng miệng
Cũng như nhiều nước đang phát triển, bệnh lý RM gặp phổ biến ở nước ta,
nhu cầu cần được chăm sóc và điều trị rất cao. Năm 1991 theo điều tra cơ bản của
Viện RHM, toàn quốc có trên 90% dân số mắc các bệnh về RM.
Năm 2004 Hoàng Tử Hùng đưa ra tỷ lệ sâu răng sữa ở một số tỉnh miền
Nam là 70,49%, ở Thuận Hải là 72,14% .Theo Nguyễn Văn Cát, tại Hà Nội 1983
-1984 có 1,1 triệu người sâu răng, chỉ số SMT 1,4 [13], [22], [11].
Năm 1993 Lê Đình Giáp và cộng sự cho biết 75,85% trẻ 12 tuổi thuộc 4 tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long mắc sâu răng vĩnh viễn [36]. Chỉ số SMT tuổi 12 ở trẻ
em Việt Nam năm 1982 là 1,8 [48], [56]. Tỷ lệ bệnh cao răng viêm lợi của học
sinh Long An năm 2001: tuổi 12 là 75,7%; tuổi 15 là 81,4% [1], [20], [22].
Tại Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về bệnh quanh răng và đưa ra
nhận xét bệnh quanh răng là bệnh phổ biến, tỷ lệ mắc cao. Theo điều tra năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1990: trẻ em 12 tuổi ở miền Nam có 6,3% chảy máu lợi, 91,5% có cao răng,
98,33% trẻ em 12 tuổi toàn quốc bị viêm lợi [18], [2].
Năm 1999, Viện Răng- Hàm- Mặt tổ chức điều tra sức khoẻ RM trên quy
mô toàn quốc và cho thấy tỷ lệ có bệnh viêm lợi rất cao: 6-8 tuổi là 50,2% và 15-
17 tuổi là 93,53% [9], [12].
Ngoài ra răng mọc lệch lạc cũng thường gặp ở nước ta, hiện nay cũng được
các bậc phụ huynh quan tâm vì nó không những ảnh hưởng đến tâm lý, chức
năng ăn nhai, thẩm mỹ mà còn tạo điều kiện cho các bệnh RM khác phát triển,
nếu được hướng dẫn nhổ răng đúng lúc, không để mất răng sữa sớm tình trạng
lệch lạc răng cũng sẽ giảm một phần. Năm 1984 theo Nguyễn Văn Cát có 44,84%
người bị lệch lạc răng ở miền Bắc, năm 1999 Hoàng Bạch Dương nghiên cứu
lệch lạc răng - hàm ở trẻ em 12 tuổi ở Hà Nội đưa ra tỷ lệ 91% [31]. Năm 2003
Nguyễn Thị Ngân Hà, Hoàng Tử Hùng nghiên cứu tại Đà Nẵng cho thấy 77,4%
HS có nhu cầu điều trị chỉnh hình răng mặt, có 67,5% PHHS có yêu cầu điều trị
chỉnh hình răng hàm cho con [13].
1.1.2.2. Diễn biễn bệnh răng miệng theo tuổi và thời gian
Theo điều tra của Viện Răng hàm mặt năm 2001, tỷ lệ sâu răng sữa giảm
dần theo tuổi vì ở hai lứa tuổi 6-8 và 9-11 đang là lứa tuổi thay răng nên càng lớn
số răng càng thay nhiều nên tỷ lệ sâu răng cũng như chỉ số smt giảm đi . Ở tuổi
từ 6-8 smt là 5,84 , ở tuổi từ 9-11 là 2,03. Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn và chỉ số
SMT tăng dần theo tuổi vì tuổi càng lớn thời gian phơi nhiễm với tác nhân gây
bệnh càng dài. Sâu răng ở tuổi từ 6-8 là 26%, ở tuổi 15-17 là 68,6%. SMT ở tuổi
từ 6-8 là 0,49, ở tuổi từ 15-17 là 2,45. Năm 2002, Nguyễn Hoàng Anh và Hoàng
Tử Hùng khảo sát tình hình sức khoẻ răng miệng HS tại tỉnh Long An cho thấy
tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT tăng dần theo lứa tuổi [27] .
Trong viêm lợi lứa tuổi dậy thì sự tăng sinh lợi không tương ứng với tình
trạng mảng bám răng và vệ sinh răng miệng của bệnh nhân [18].
Ở tuổi dậy thì, phản ứng tổ chức đối với mảng bám mạnh mẽ hơn, sau tuổi
dậy thì, mức độ nặng của viêm lợi giảm xuống. Năm 1991 theo điều tra cơ bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
toàn quốc của Viện RHM tỷ lệ sâu răng, viêm lợi cũng tăng theo lứa tuổi: 12 tuổi
(SR là 57,3%, viêm lợi là 95%). Bệnh SR và viêm quanh răng tăng theo lứa tuổi
như vậy phù hợp với thời gian phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ càng dài thì tỷ
lệ bệnh càng cao [38], [39].
Từ những năm của thập kỷ 60 đến 90 đã có những nghiên cứu tình trạng sâu
răng ở Việt Nam nói chung và ở trẻ em nói riêng cho thấy tỷ lệ bệnh RM tăng
dần theo lứa tuổi và tăng dần theo thời gian.
Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội đã điều tra bệnh răng miệng ở Việt Nam trong
3 năm 2002 - 2005 cho thấy tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT của răng vĩnh viễn cũng
tăng dần theo lứa tuổi [40].
Như vậy có sự phù hợp giữa thời gian phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ
càng dài thì tỷ lệ sâu răng càng cao.
Theo Trần Văn Trường, năm 1999, điều tra sức khoẻ RM trên quy mô toàn
quốc và cho thấy tỷ lệ bệnh quanh răng cũng tăng dần theo thời gian.
Bệnh viêm lợi cũng tăng theo lứa tuổi, 6-8 tuổi là 50,5% , 9-11 tuổi là 81,7
%, như vậy phù hợp với thời gian phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ càng dài thì
tỷ lệ bệnh viêm lợi càng cao [27].
Ở lứa tuổi 12 tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT tăng dần theo thời gian, năm
2001 cao hơn năm 1991, năm 1991 lại cao hơn năm 1983 [2]. Chứng tỏ bệnh
răng miệng đang tăng dần lên ở Việt Nam điều đó cũng phù hợp với nhận xét của
WHO bệnh răng miệng đang tăng dần ở các nước đang phát triển. Hiện nay, đời
sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, họ sử dụng nhiều đường, nước
ngọt, công tác phòng bệnh chưa tốt nên tỷ lệ bệnh RM tăng cao [5], [23]
Năm 2003, theo số liệu của sở Y tế Hà Nội tỷ lệ bệnh răng miệng của học
sinh tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ thông trung học là 36%, năm 2004 là
36,66%, như vậy, tỷ lệ bệnh răng miệng của học sinh tiểu học, phổ thông cơ sở
và phổ thông trung học vẫn tăng theo thời gian .
1.2. PHÒNG BỆNH RĂNG MIỆNG VÀ DỰ PHÒNG BIẾN CHỨNG BỆNH SÂU RĂNG
1.2.1. Tình hình phòng bệnh răng miệng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
1.2.1.1. Trên thế giới
Từ 1908 Liên đoàn Nha khoa Quốc tế (FDI) đã quan tâm đến dự phòng sâu
răng và tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa. Tại các hội nghị của FDI năm 1951,
1960 và 1966 đều kết luận việc fluor hoá nước uống là biện pháp phòng bệnh có
hiệu quả và ít tốn kém nhất. Tuy nhiên vào những năm 60 -70 ngành Nha khoa của
hầu hết các nước đều tập trung vào chữa, phục hồi SR và viêm quanh răng, công việc
tốn kém, ít hiệu quả [18].
Theo báo cáo của WHO năm 1978 hàng năm Mỹ tốn 100 triệu giờ công lao
động, 9 tỷ USD cho việc chữa răng, phí tổn điều trị hơn 10 USD cho một răng ở
trẻ em. Chi phí cho điều trị răng một năm ở Anh là 180 triệu bảng Anh, còn ở
Pháp là 8 tỷ france và 25 triệu giờ công lao động [12].
Sau đó các nước phát triển tập trung vào phòng bệnh, coi như một chính
sách lớn của Nhà nước và của ngành Y tế. Kết quả là 20 năm trở lại đây, tỷ lệ sâu
răng ở các nước Bắc Âu, Anh, Mỹ... đã giảm đi một nửa. Đây là một thành tựu
lớn từ đó WHO đã kêu gọi các nước chậm phát triển đẩy mạnh công tác phòng
bệnh RM như các nước phát triển đã làm [5]. Như vậy vai trò của công tác chăm
sóc răng miệng (CSRM) tại cộng đồng rất lớn.
Tại Australia 50% thời gian của bác sỹ nha khoa là làm công tác phòng bệnh
[4]. Kem đánh răng có fluor là biện pháp cá nhân hàng đầu, fluor hoá nước là biện
pháp cộng đồng tốt nhất, có tác dụng ở mọi giai đoạn của sâu răng. Cả hai biện pháp
trên là nguyên nhân chính làm giảm tỷ lệ sâu răng ở Australia [56].
- Năm 1984 WHO đã đưa ra các biện pháp dự phòng sâu răng và viêm
quanh răng như sau :
+ Dự phòng SR: fluor hoá nước uống, đưa fluor vào muối, súc miệng bằng
dung dịch fluor cho trẻ em, dùng kem đánh răng có fluor, trám bít hố rãnh răng,
chế độ ăn dự phòng, hướng dẫn vệ sinh RM, phát hiện sớm và điều trị dự phòng.
+ Dự phòng bệnh quanh răng: Làm sạch mảng bám răng là biện pháp can
thiệp phòng chống bệnh quanh răng. Đánh răng là việc làm quan trọng để làm
sạch mảng bám răng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Với biện pháp dự phòng SR bằng fluor là làm tăng sức đề kháng của răng
nhờ fluor. Người ta đồng ý là việc sử dụng rộng rãi các dạng fluor đã làm giảm
sâu răng rõ rệt ở Mỹ và nhiều quốc gia khác. Fluor hoá nước uống cộng đồng giữ
vai trò quan trọng do hiệu quả lâm sàng và kinh tế của nó. Các chất bổ xung trong
chế độ ăn và fluor hoá nước uống trong trường học là các hình thức sử dụng fluor
ở những nơi fluor hoá nước uống không thực hiện được. Fluor hoá muối ăn đang
trở nên phổ biến hơn ở một số nước như ở Mỹ, các nước Tâu âu.
Hiện nay fluor được công nhận là có hiệu quả đối với mọi lứa tuổi và ngày
càng trở nên quan trọng trong cộng đồng và đối với các lứa tuổi.
Bệnh sâu răng giảm theo nhiều hướng khác nhau. Nghiên cứu trên trẻ 12
tuổi ở Hà Lan, sự giảm sâu răng được tóm tắt như sau: “Chỉ số SMT/R trung bình
giảm đều đặn từ 8 vào năm 1965 xuống còn 1 vào năm 1993”, cho thấy mức fluor
trong nước là yếu tố chính quyết định tỷ lệ sâu răng [60],[61] .
Những năm 1996 và 1998 chỉ số Sâu-Mất -Trám/mặt răng ở răng vĩnh viễn
(SMT/MR) của trẻ lứa tuổi 12 có điều kiện kinh tế xã hội cao ở Đan Mạch rất
thấp: giữa 0,4 và 0,1. Ở trẻ em có điều kiện kinh tế xã hội thấp, SMT/MR giữa
1,6 và 2,0, nhưng gần đây nhất, năm 2002 chỉ còn 0,6 [46],[51]
Ở Tây Âu thành phần “Trám” nhiều hơn thành phần “Sâu” và “Mất”. Ở các
nước công nghiệp phát triển, với mức sâu răng rất thấp, khó nhận diện được
những thay đổi trong tỷ lệ sâu răng [38].
Nhưng việc sử dụng fluor để phòng SR như thế nào là thích hợp cũng cần
phải đặt ra. Hơn hai thập niên qua, tỷ lệ toàn bộ và tỷ lệ mắc mới bệnh sâu răng
giảm ở các nước phát triển, phần lớn là do sử dụng fluor rộng rãi. Song song với
tỷ lệ sâu răng giảm là tỷ lệ răng nhiễm fluor tăng. Các nghiên cứu về nhiễm fluor
được thực hiện trong những vùng có và không có fluor hoá, đã nhận dạng được 4
yếu tố nguy cơ chính gây nhiễm fluor là: sử dụng nước uống có fluor, viên fluor,
kem đánh răng có fluor, và sữa đóng hộp có fluor trước 8 tuổi .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Hiện nay, tại Singapore 100% dân số được fluor hoá nước uống và giáo
dục nha khoa, 100% học sinh tiểu học và trung học cơ sở được chăm sóc sức
khoẻ RM thường xuyên tại trường trong chương trình NHĐ [43] .
Từ năm 1950 Trung Quốc đã có hoạt động NHĐ với nội dung giáo dục
chăm sóc sức khoẻ RM, khám và chữa sớm. Năm 1970 thêm một số chương trình
sử dụng fluor. Năm 1980 có dự án về NHĐ tại một số khu vực. Kết quả là sau 5
năm tỷ lệ sâu răng đã giảm 54% ở khu vực này. Năm 1990 NHĐ đã triển khai ở
hầu hết các tỉnh, thành phố. Năm 1988 thành lập Uỷ ban Quốc gia về sức khoẻ
RM, tổ chức chiến dịch truyền thông phòng bệnh trong cả nước với sự tham gia
của hàng ngàn bác sỹ [34].
1.2.1.2. Công tác phòng chống bệnh răng miệng ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, ở nước ta do đời sống được nâng cao, người dân
sử dụng nhiều đường, nước ngọt, công tác phòng bệnh chưa tốt nên tỷ lệ bệnh
RM đang tăng cao, do đó làm tốt công tác phòng bệnh để giảm tỷ lệ bệnh RM là
rất cần thiết.
Giáo dục chăm sóc răng miệng mới chỉ được đưa vào chương trình sách
giáo khoa của học sinh tiểu học. Giáo dục chăm sóc sức khoẻ RM chưa được chú
trọng trong toàn dân nên hiểu biết về tự chăm sóc răng miệng, cách đánh răng
đúng, thức ăn nào tốt hoặc có hại cho răng, sự cần thiết phải đi khám răng định
kỳ... của người dân còn hạn chế.
Qua điều tra dịch tễ, dạng bệnh RM nào phổ biến nhất trong cộng đồng,
nguyên nhân gây bệnh, các biện pháp phòng ngừa bệnh đã được công nhận trên
thế giới: loại bỏ mảng bám, giảm lượng axít dính trên răng, làm chắc răng. Các
hành vi tích cực cần có và khả thi để ngừa bệnh là: đánh răng đúng phương pháp,
giảm ăn chất đường, sử dụng fluor, từ bỏ các thói quen hay quan niệm sai nơi
cộng đồng.
Kiến thức, thái độ, thực hành của học sinh rất cần thiết trong phòng tránh
bệnh RM đặc biệt là thực hành CSRM của HS được tác động rất nhiều của hoạt
động NHĐ trong đó quan trọng là các hoạt động giáo dục CSRM để các em thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
hành tốt, đây là nội dung được các nước trên thế giới cũng như chương trình
NHĐ Việt Nam đặt ưu tiên hàng đầu.
Mặc dù giáo dục chăm sóc RM đã được dưa vào chương trình giáo dục
chính khoá ở bậc tiểu học và chương trình NHĐ đã được triển khai một thời gian
dài, nhưng qua nghiên cứu của các tác giả Ngô Đồng Khanh, Đào Ngọc Lan,
Nguyễn Lê Thanh, Lê thị Kim Oanh đều cho thấy kiến thức, thái độ, thực hành
của HS còn thấp [15].
Giáo dục chăm sóc sức khoẻ là trọng tâm của chương trình chăm sóc sức
khoẻ ban đầu và là biện pháp đầu tiên. Trong bối cảnh đó, giáo dục CSRM không
thể tách rời khỏi giáo dục sức khoẻ chung và là một nội dung quan trọng trong
chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
1.2.2. Dự phòng biến chứng bệnh sâu răng
1.2.2.1. Tiến triển của bệnh sâu răng
Sâu răng được chia làm nhiều mức độ tuỳ theo thời gian tiến triển. Nếu ở mức
độ nhẹ không điều trị sẽ tiến triển thành mức độ tiếp theo nặng hơn từ sâu men thành
sâu ngà, đến viêm tuỷ, tuỷ hoại tử, viêm quanh cuống, viêm xương hàm [5].
- Sâu men: Là giai đoạn đầu tiên, bệnh nhân không đau, nhìn có thể thấy
men răng đổi màu, khi khám bằng thám trâm phát hiện thấy lỗ sâu.
Ở giai đoạn sâu men được phát hiện kịp thời chỉ cần dùng Gel Fluor bôi vào
hoặc thuốc đánh răng (có Fluor) trước khi đi ngủ thì thương tổn có thể hồi phục
được hoăc điều trị bằng phương pháp trám bít lỗ rãnh, ART sẽ ít tốn kém.
- Sâu ngà: Đau khi có kích thích (thức ăn lạnh, chua, ngọt...), hết đau khi
loại bỏ yếu tố kích thích. Khám thấy lỗ sâu, có thể gây đau khi thăm khám.
Kỹ thuật ART cũng chỉ áp dụng được khi lỗ sâu ở giai đoạn sâu ngà, đây là
giai đoạn thích hợp để hàn phòng biến chứng viêm tuỷ và viêm cuống sau này.
- Viêm tủy: Đau thành cơn dữ dội, giữa 2 cơn đau hoàn toàn hết đau. Thăm
khám có lỗ sâu lớn, có thể lộ tủy, gõ răng đau.
Ở giai đoạn này điều trị khó khăn đỏi hỏi máy móc, dụng cụ hiện đại, tốn
thêm rất nhiều kinh phí cũng như thời gian của bệnh nhân.
- Tủy hoại tử, viêm quanh cuống răng: Thường thì không đau trừ khi có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
một đợt viêm cấp tái diễn. Khám thấy răng đổi màu, thử nghiệm tủy thấy răng đã
chết tủy, chụp phim có thể thấy tổn thương ở vùng cuống răng.
Ở giai đoạn này điều trị gần giống với viêm tuỷ nhưng phức tạp hơn và cần
nhiều thời gian cũng như kinh phí so với điều trị viêm tuỷ. Những trường hợp
nặng không điều trị được hoặc răng vỡ to phải nhổ sẽ phải tốn rất nhiều công sức
cũng như kinh phí để phục hình răng.
Điều trị sâu răng giai đoạn sớm: Khi SR đã có phá hủy tổ chức cứng thì
phải hàn. Hàn răng là dùng một vật liệu nhân tạo hồi phục lại hình thể của răng.
1.2.2.2. Các quan niệm mới về điều trị sâu răng
Trước đây quan niệm “lấy sạch” tức là lấy bỏ hoàn toàn các vùng bị mất
khoáng của răng tức là phải loại bỏ một lượng chuẩn của cấu trúc răng lành mạnh
để phòng ngừa sâu răng tiến triển, kiểu xoang được phân loại chuẩn hoá, phải loại
bỏ một phần mô răng lành mạnh để tạo sự hoàn hảo về mặt hình thể, dễ tạo
đường vào cho chất hàn.
Hiện nay người ta đã chứng minh được lớp răng này có thể tái khoáng tốt
nếu nó được hàn bằng các vật liệu sinh học như vậy sẽ giảm bớt mô răng bị mất
trong quá trình điều trị. Trong những năm gần đây fluor đóng vai trò quan trọng
trong chu trình khử - tái khoáng. Từ năm 2003 theo quan điểm mới trong ngành
chữa răng là can thiệp tối thiểu.
Một số nha sĩ cũ đã quen với quan niệm về thảm hoạ sâu răng lan tràn trước đây
và sự tiến triển nhanh chóng của các tổn thương sâu răng nhỏ. Họ có khuynh hướng
ước tính quá mức nguy cơ sâu răng, không tin tưởng lời khuyên hiện đại là chờ đợi cơ
hội tái khoáng hoá. Và họ đã điều trị quá mức, nạo và trám những tổn thương nhỏ
thay vì trám bít hố rãnh hoặc sử dụng các tác nhân tái khoáng hoá ở những tổn thương
SR mới chớm. Chăm sóc phòng ngừa không phục hồi phải hiệu quả hơn về mặt lâm
sàng, thích hợp với nhu cầu bệnh nhân và hiệu quả chi phí hơn so với điều trị phục hồi
truyền thống.
Ngày nay, trên toàn thế giới tình hình bệnh RM rất biến đổi và sự thay đổi đang
xảy ra theo nhiều hướng khác nhau. Ở các nước công nghiệp hoá, tình trạng bệnh RM
có sự cải thiện rất lớn, nhưng ở một số nước đang phát triển tình hình này đang ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
càng xấu đi, có một số nơi biểu hiện sâu răng khá ổn định. Tuy nhiên, ở một số nước,
đặc biệt ở Châu Phi đang phát triển rất chậm và do thiếu nguồn tài chính không thể
cung cấp các dịch vụ nha khoa hiện đại, trong những trường hợp này phương pháp
trám răng không sang chấn (ART) là một lựa chọn thoả đáng (Frencken và Holmgren
1999; Massara và cộng sự 2002) [50], [55].
1.3. VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TRIỂN KHAI CHƢƠNG
TRÌNH NHA HỌC ĐƢỜNG
1.3.1. Sự cần thiết phải triển khai chƣơng trình nha học đƣờng
CT NHĐ để phòng tránh bệnh RM từ sớm chiếm một vị trí quan trọng vì những
lý do sau: (Theo điều tra của Viện RHM năm 2001).
Tỷ lệ mắc bệnh RM cao: Bệnh RM là bệnh phổ biến và mắc sớm ngay từ nhỏ.
Tuổi học sinh (HS) là tuổi phát sinh ra bệnh nên phải phòng ngay. Tỷ lệ SR ở trẻ em
6- 8 tuổi: Sâu răng sữa 84,9%, trung bình mỗi em 5,4 răng. Viêm lợi và viêm quanh
răng 73% [18], [37].
Mức độ trầm trọng: Răng sữa 6 tuổi trung bình mỗi em sâu 5.4 răng. Tuy là
răng sữa nhưng chúng rất quan trọng: Đảm bảo việc ăn nhai cho trẻ từ 6 tháng tuổi
đến 12 tuổi. Đây là thời kỳ phát triển của cơ thể nên răng sữa phải được chăm sóc tốt
để không sâu, không phải nhổ sớm, đảm bảo chức năng ăn nhai hiện tại và răng vĩnh
viễn mọc đúng chỗ thẳng hàng sau này [29], [38].
Bệnh răng miệng tăng theo tuổi:
Tuổi càng cao tỷ lệ SR và số răng sâu trung bình của mỗi cá thể càng tăng: tăng
từ 25,4% và số răng sâu trung bình là 0.48 (6-8 tuổi) đến 64,1% và 2,05 (12-14 tuổi)
tới 89,7% và 8.93 (trên 45 tuổi) [13].
Đáp ứng điều trị thấp: Kết quả nghiên cứu chỉ số SMT của lứa tuổi 12 tại
Ninh Thuận được xếp vào mức thấp và rất thấp, trong đó chủ yếu là sâu còn mất
trám không đáng kể. Chỉ số SMT ở lứa tuổi 6 là 0,28; lứa tuổi 12 là 1,55; lứa tuổi
15 là 1,95; chỉ số sâu cao hơn nhiều so với chỉ số hàn [33].
Ở Long An Chỉ số SMT ở lứa tuổi 6 là 0,28; lứa tuổi 12 là 1,55; lứa tuổi 15
là 1,95. Chỉ số sâu cao hơn nhiều so với chỉ số hàn. Điều này cho thấy khả năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
giải quyết trước đó chưa tốt của cơ sở điều trị và các dịch vụ y tế cũng như ýý
thức điều trị quá thấp của học sinh và các bậc phụ huynh [31], [32] .
Theo Trần Thị Nguyệt và Hoàng Tử Hùng khảo sát tại quận 7 thành phố Hồ
Chí Minh (TP HCM) trong tổng số 2443 trẻ khám chỉ có 20 trẻ trám răng (tỷ lệ
0,8%) cho thấy mức độ đáp ứng về khám và điều trị còn quá ít, chứng tỏ bệnh sâu
răng ở lứa tuổi Mẫu giáo không được các cấp chính quyền quan tâm và chú trọng
[15].
Một số địa phương khác như Yên Bái, Hà Nội, An Giang, Thành phố Hồ
Chí Minh cũng như toàn quốc chỉ số sâu răng cao nhưng chỉ số hàn cũng chỉ từ
0,00 đến 0,08 [11].
Tiến triển biến chứng
Răng sâu không được điều trị sẽ gây ra biến chứng như tại chỗ: đau, mất răng
sớm... mất sức nhai, gây ra lệch lạc răng, toàn thân: đau không ăn không ngủ được,
phải nghỉ học, nghỉ làm hoặc dẫn tới viêm khớp, màng tim, viêm cầu thận ảnh hưởng
tới sức khoẻ.
Theo điều tra của Viện Răng hàm mặt về việc kiểm tra răng miệng: Có trên 60%
trẻ em không bao giờ đi khám răng và trên 50% người lớn không bao giờ đi khám
răng. Như vậy người dân rất ít quan tâm đến sức khoẻ răng miệng, nhiều người chỉ
khi nào đau rồi mới đi khám. Chưa hiểu rằng chăm sóc thường xuyên khi chưa bị biến
chứng vừa không đau, vừa giữ được răng lâu dài, vừa đỡ tốn kém về kinh tế.
Thời gian và kinh phí điều trị sâu răng
Theo Trịnh Công Khởi, năm 1980 đã phải nhổ 278.575 răng, hàn 119.704 răng,
tốn 4.936.016 giờ công lao động của bệnh nhân và thầy thuốc [9]. Năm 1994 Thành
phố Hồ Chí Minh có 85,7% dân số bị sâu răng (khoảng 3,4 triệu người) chỉ số SMT là
4,7 (khoảng 18 triệu răng). Trong khi đó chỉ có 130 bác sỹ RHM tức là 1 bác sỹ/
30.000 dân [2].
Theo Nguyễn Hoàng Anh và Hoàng Tử Hùng tại Long An tỷ lệ sâu răng sữa ở
lứa tuổi 6 rất cao: 92% và smt là 6,80 cho thấy nhu cầu điều trị rất cao. Thời gian điều
trị trung bình cho một trường hợp thông thường từ 20-25 phút, trung bình một bác sỹ
tại phòng răng có thể điều trị 15 học sinh/ ngày. Khả năng đáp ứng về thời gian của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
cán bộ NHĐ trung bình niên học với 7 tháng làm việc, một Bác sỹ hoặc cán bộ NHĐ
có khả năng điều trị 3360 răng/ năm [26].
Tại Long An học sinh từ 3- 17 tuổi là 420.379 với tỷ lệ sâu răng ở mức trung
bình và trung bình một học sinh có 2 răng sâu thì số răng cần được hàn là 1.050.947
chiếc răng, như vậy phải cần 313 cán bộ điều trị với lượng thời gian là 437.894 giờ.
Với hy vọng sau 10 năm giảm tỷ lệ SR ở mức trung bình xuống mức độ thấp như mục
tiêu của WHO, chương trình phòng bệnh răng miệng trong học đường tại Long An
cần khoảng 31 cán bộ nha khoa [26].
Chăm sóc răng miệng mang lại hiệu quả to lớn
Phòng bệnh răng miệng đã ngăn ngừa và từng bước làm giảm tỷ lệ bệnh
RM. Nếu không phòng bệnh, hoặc khi mới mắc bệnh nhẹ không điều trị sớm dẫn
tới biến chứng gây ảnh hưởng sức khoẻ, sẽ phải điều trị rất phức tạp, tốn nhiều
kinh phí và thời gian của bệnh nhân và thầy thuốc. Với tỷ lệ bênh RM cao nhu
cầu điều trị rất lớn như hiện nay, màng lưới phòng khám RHM mỏng không thể
đáp ứng được. Vì vậy phòng bệnh RM tiết kiệm được kinh phí, thời gian, giảm
gánh nặng cho ngành y tế, giảm chi phí cho xã hội. Ở nước ta, Chính phủ cũng như
Bộ Y tế đã thấy rõ được tầm quan trọng của phòng bệnh RM nói chung và sự cần
thiết phải triển khai chương trình NHĐ nói riêng. Vì vậy chương trình NHĐ đã
trở thành chương trình cấp bộ về CSRM cho học sinh tại trường học.
1.3.2. Chức năng và nhiệm vụ của chƣơng trình nha học đƣờng
Thông tư liên Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo số 23/1987 ngày 21 thỏng 10
năm 1987 đã qui định nhiệm vụ, tổ chức thực hiện chương trình NHĐ. Ngành Y tế
chịu trách nhiệm chủ trì về công tác đào tạo và chỉ đạo chuyên môn kỹ thuật. Ngành
Giáo dục chịu trách nhiệm chủ trì tổ chức thực hiện [10]. Gồm 3 nhiệm vụ chính:
- Công tác giáo dục nha khoa là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác phòng bệnh
RM cho học sinh tại trường học, đưa giáo dục sức khoẻ RM vào chương trình chính
khoá mỗi năm 4 tiết ở các trường tiểu học.
- Phòng bệnh bằng fluor: Viện RHM chịu trách nhiệm xác định những địa
phương cần cho HS súc miệng hàng tuần bằng dung dịch Nafluor 0,2%. Nhà trường
chịu trách nhiệm tổ chức điều khiển cho học sinh súc miệng fluor cùng cán bộ NHĐ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
- Kiểm tra định kỳ tình hình BRM học sinh và có kế hoạch điều trị sớm tại
trường tránh biến chứng.
1.3.3. Các giải pháp can thiệp trong chƣơng trình Nha học đƣờng
Các giải pháp can thiệp trong chƣơng trình NHĐ gồm :
- Nội dung I: Giáo dục chăm sóc răng miệng.
- Nội dung II: Súc miệng fluor 0,2% một tuần một lần.
- Nội dung III: Khám răng miệng định kỳ phát hiện sớm bệnh RM, thông báo
cho phụ huynh HS hoặc chuyển lên tuyến trên.
- Nội dung IV: Điều trị dự phòng biến chứng, trám bít hố rãnh răng vĩnh viễn.
Trong quá trình tổ chức thực hiên cần lựa chọn ưu tiên đó là nội dung I và II.
Trong bốn nội dung trên thì nội dung I và II là cần thiết và khả thi vì:
Hầu hết trẻ em đều đến trường và có nhu cầu lớn trong chăm sóc RM.
Chương trình có thể bao phủ trên diện rộng, không dừng ở mô hình mẫu.
Cán bộ RHM cũng như cán bộ YTHĐ không có đủ ở tất cả các trường.
Giáo viên có thể trực tiếp tham gia chương trình tại trường.
Phương pháp và quy trình thực hiện đơn giản
Trong hai nội dung I và II cần đặc biệt đẩy mạnh chương trình chải răng vì đây
là nội dung dự phòng mang lại hiệu quả rõ nhất trong việc cải thiện tình trạng vệ sinh
RM của HS.
Một số quốc gia trên thế giới cũng lựa chọn các nội dung ưu tiên , thứ tự ưu tiên
từng nội dung do từng địa phương dựa vào hoàn cảnh cụ thể để quyết định.
Thực hiện nội dung III và IV: Chúng ta phải tiến hành song song hai nội dung
này với nội dung I và II nhưng với tình hình nhân lực khan hiếm nên việc giải quyết
ưu tiên vẫn đặt lên trước. Có nghĩa là khi chương trình phòng bệnh đã bao phủ đa số ở
các trường, hầu hết học sinh đã được dự phòng, mới nghĩ đến xây dựng nội dung III
và IV với chiến lược hành động cụ thể.
Trong nhiều năm qua CT NHĐ đã được triển khai đến tất cả các tỉnh trong
cả nước, một số nơi đã thu được kết quả khả quan. Tại thành phố Hồ Chí Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
nước máy được fluor hoá, đồng thời công tác NHĐ cũng đã được xã hội hoá,
chính nhờ vậy, tỷ lệ bệnh RM của HS đã giảm đáng kể (Trẻ em 12 tuổi vùng có
fluor hoá nước tỷ lệ sâu răng là 77,0% năm 1990 giảm xuống 67,3% năm 2003).
Các nghiên cứu can thiệp chương trình NHĐ của một số tác giả ở một số địa
phương cũng cho thấy kết quả tốt như của Nguyễn Hoàng Anh ở Long An năm
2001 so với năm 1995 sâu răng giảm từ 68,82 % xuống 57,33 %; Năm 2002 ở
Yên Bái Đào Thị Ngọc Lan đưa ra kết quả sau hai năm can thiệp tỷ lệ sâu răng
sữa giảm được 19,4%, răng vĩnh viễn giảm được 6,06% [11], [12]. Nhưng cũng
có nhiều nơi hoạt động NHĐ chưa đúng và chưa phù hợp nên chương trình
CSRM chưa đến được tất cả HS vì vậy kết quả chưa được như mong muốn. Theo
điều tra của viện RHM Hà Nội chỉ số SMT của HS 12 tuổi đang tăng dần (Chỉ số
SMT năm 1983 là 1,47; năm 1991 là 1,82; năm 2001 là 2,16) [13].
Phƣơng hƣớng dự phòng bệnh sâu răng:
- Phương hướng chung là phòng bệnh theo 3 cấp:
+ Cấp 1: Phòng không cho bệnh khởi phát ra .
+ Cấp 2: Khám định kỳ để phát hiện bệnh sớm và chữa trị sớm
+ Cấp 3: Phòng các biến chứng do bệnh sâu răng gây ra để điều trị tích cực
và kịp thời.
- Cần phải phối hợp tốt cả 3 cấp để dự phòng bệnh sớm.
* Các biện pháp phòng bệnh sâu răng hiện nay
+ Chế độ ăn uống hợp lý, cân bằng, tránh ăn nhiều đường, kẹo dễ bị lên men.
+ Giữ gìn răng miệng sạch sẽ, vệ sinh hằng ngày, loại trừ mảng bám răng
bằng cách chải răng đúng phương pháp với kem đánh răng có flour. Flour có vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ men răng ngay cả khi hình thành men răng và
khi răng mới mọc.
- Có thể sử dụng flour thông qua 2 con đường : toàn thân và tại chỗ.
+ Theo đường toàn thân : flour hoà vào nước máy, flour hoà vào trong sữa,
trong muối ăn.
+ Theo con đường tại chỗ: Nước súc miệng flour, kem đánh răng có flour…
Các phƣơng hƣớng dự phòng bệnh viêm lợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
- Các phương pháp cơ học
+ Chải răng và xơ nắn lợi bằng bàn chải, dùng chỉ tơ nha khoa.
+ Lấy cao răng,
+ Nhổ các chân răng còn sót lại trên cung hàm.
+ Nắn chỉnh răng lệch lạc.
+ Hàn các lỗ sâu ở mặt bên để hạn chế tổn thương thêm cho răng và tránh
những tổn thương ở lợi.
- Các phương pháp hoá học .
+ Dùng flour ở nhiều dạng : như nước xúc miệng. Kem đánh răng.
* Khi trẻ em bắt đầu bước vào lớp 1 thì cũng là lúc bắt đầu mọc răng vĩnh
viễn . Do đó lúc này cần phải được chăm sóc, giữ vệ sinh răng miệng sạch sẽ thì
khi lớn lên các em sẽ có hàm răng vĩnh viễn ít bị sâu răng. Tình trạng răng tốt,
không bị sâu thì lợi cũng được cải thiện, phát triển tốt và không bị viêm. Điều đó
khẳng định được vai trò quan trọng cũng như hiệu quả của chương trình NHĐ đối
với việc tăng cường sức khoẻ răng miệng của học sinh nói riêng và của nhân dân
nói chung.
1.3.4- Hành vi sức khoẻ
Hành vi sức khoẻ là một trong nhiều khái niệm liên quan tới hành vi của
con người. Hành vi sức khoẻ có một vai trò vô cùng quan trọng để tạo lập cho
sức khoẻ mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Nghiên cứu về hành vi sức khoẻ là
một phần quan trọng trong các nghiên cứu hoặc hoạt động can thiệp tại cộng
đồng [23].
Người ta cho rằng hành vi người là một phức hợp của nhiều hành động
chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố như di truyền, môi trường kinh tế- xã hội và
chính trị.
Các yếu tố qui định nên hành vi của con người có thể tóm tắt như sau:
KiÕn thøc Th¸i ®é Thùc hµnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Knowledge) (Attitude) (Practice)
Sự hiểu biết (Phụ
thuộc vào yếu tố
văn hóa, xã hội,
kinh tế)
Tư duy, lập
trường, quan
điểm
Các hoạt
động của con
người
Về kiến thức: Sự hiểu biết của mỗi người thường khác nhau và thường bắt
nguồn từ kinh nghiệm, vốn sống hoặc của người khác truyền lại. Hiểu biết nhiều
khi không tương đồng với kiến thức mà chúng ta có thể tiếp thu thông qua những
thông tin mà thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè, sách vở, báo chí cung cấp. Hiểu biết
rất khó thay đổi khi hiểu biết là sai và trở thành định kiến.
Về những kiến thức nha khoa của học sinh tiểu học, ta nhận thấy rằng điểm
xuất phát của các em gần như bằng không bởi các em còn quá nhỏ để có những
kinh nghiệm. Hơn nữa, vì sự quan sát cũng còn hạn chế nên tác động đến trẻ em
nhiều nhất chính là cảm giác không bình thường đối với vấn đề răng miệng. Đau
sẽ là cảm giác đầu tiên mà các em gặp phải. Đau không ăn được, không ngủ
được, không chơi được và phải nghỉ học và các em đều biết đó là vì răng và như
vậy các em vẫn có những nhận biết nhất định.
Tuy nhiên, sự hiểu biết này phụ thuộc vào trình độ văn hoá. Học sinh lớp
một không thể có sự hiểu biết bằng học sinh lớp năm. Ngay trong cùng độ tuổi,
cùng lớp học, sự hiểu biết về từng lĩnh vực, từng vấn đề cũng khác nhau. Trong
độ tuổi học sinh tiểu học, khi mà kiến thức văn hoá còn hạn chế, kiến thức về
bệnh răng miệng cũng hạn chế theo, do đó muốn biết sự hiểu biết của các em đến
mức độ nào, cần có sự phỏng vấn và quan sát. Muốn trang bị cho các em những
kiến thức cần thiết về bệnh răng miệng thì phải căn cứ vào thực tế, sự hiểu biết,
trình độ của các em và có những phương pháp truyền đạt hữu hiệu, đó là những
vấn đề đặt ra trong giáo dục nha khoa.
Về thái độ: Là tư duy, lập trường, quan điểm của đối tượng đối với một
vấn đề. Đối với học sinh tiểu học dân tộc thiểu số miền núi, tư duy lập trường và
quan điểm còn nhiều hạn chế của sự hiểu biết do lứa tuổi, điều kiện kinh tế - xã
hội, môi trường giáo dục. Tuy nhiên, chính sự tác động của những kiến thức sơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
khai và nhất là tác động của đau răng sẽ hình thành nên một cách tư duy về bệnh
răng miệng để từ đó đối tượng có thể có thái độ không thờ ơ với bệnh này mỗi
khi nó xuất hiện. Từ chỗ không thờ ơ, tiến triển theo thời gian, lứa tuổi, trình độ
hiểu biết và biên độ xuất hiện bệnh, đối tượng sẽ hình thành nên quan điểm phải
loại trừ bệnh tật và cộng với sự hiểu biết được bổ xung qua thời gian và thực tế sẽ
hình thành nên lập trường " Không chung sống với răng đau"
Về thực hành: Xuất phát từ những hiểu biết, có kiến thức và thái độ sẽ dẫn
đến những hành động của đối tượng. Kiến thức và thái độ đúng sẽ có hành động
đúng và ngược lại. ở đối tượng học sinh tiểu học người dân tộc miền núi, những
kiến thức và thái độ về bệnh răng miệng sẽ được biểu hiện qua hành động để
phòng chống nó. Đương nhiên, kiến thức và thái độ ở mức độ thấp thì hành động
cũng ở mức độ tương đương .
Hành vi sức khoẻ còn có những yếu tố khác như : Kỹ năng là biểu lộ khả
năng làm tốt hoặc xử lý một việc gì nhờ tài năng bẩm sinh, qua đào tạo hoặc thực
hành. ở đây, chúng ta cần đào tạo qua thực hành tại nhà trường và gia đình để
cho học sinh có được kỹ năng chải răng đúng, bởi vì làm việc đó không phải là
chuyện dễ dàng. Rất nhiều người kể cả người lớn, hàng ngày đều chải răng nhưng
chải răng đúng thì chưa hẳn đã có nhiều người làm được. Ngoài kiến thức, hành
động, thái độ và hành động đúng ta cần làm cho đối tượng có niềm tin.
1.3.5 Những khảo sát về kiến thức, thái độ và thực hành
Bệnh răng miệng là bệnh phổ biến và mang tính chất xã hội, muốn công tác
NHĐ mang lại hiệu quả cao, rất cần thiết phải khảo sát về kiến thức, thái độ và thực
hành của cộng đồng học sinh đối với bệnh răng miệng. Hiện nay các nghiên cứu tìm
hiểu thực trạng bệnh lý, kiến thức, thái độ và thực hành của học sinh về bệnh răng
miệng còn rất ít đặc biệt đối với các em học sinh vùng cao, vùng sâu vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số.
Viện RHM thành phố Hồ Chí Minh đã có những điều tra về những kiến thức
và thực hành của người dân về CSSKRM và kết luận có 70-80% số người chưa bao
giờ đến phòng khám chuyên khoa RHM (kể cả phòng khám tư nhân ) mặc dù họ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
bệnh sâu răng, cao răng, viêm lợi…, trong số bệnh nhân có điều trị sâu răng thì 60%
số người không biết người sẽ khám, điều trị răng mình là ai ? chỉ có 40% số người là
biết có cơ sở RHM của nhà nước, có 30% số người không có bàn chải đánh răng mà
phải dùng chung với người khác. Có nhiều nơi phải đi xa hàng ngày đường mới tới
được cơ sở khám chữa bệnh về răng miệng [13], [22].
Năm 1999, Hoàng Trọng Hùng, Nguyễn Thanh Hà, Trần Đức Thành…(khoa
Răng Hàm Mặt Đại học Y-Dược thành phố Hồ Chí Minh) đã có công trình nghiên
cứu: " Bước đầu khảo sát kiến thức, thực hành của các bà mẹ, giáo viên và tình hình
SKRM của trẻ mẫu giáo 6 tuổi quận 3 TP Hồ chí Minh" kết quả cho thấy trẻ em thực
hành tốt phòng chống bệnh RM và tỷ lệ bà mẹ có kiến thức chăm sóc bệnh răng
miệng chiếm tỷ lệ cao do đó bệnh răng miệng của trẻ có tỷ lệ rất thấp [25].
Theo Nông Ngọc Thảo tìm hiểu về kiến thức, thái độ và thực hành đối với
bệnh răng miệng nói chung và bệnh sâu răng nói riêng ở đồng bào dân tộc thiểu số
thuộc 6 tỉnh miền bắc năm 1999 cho thấy:
20% số người có bệnh sâu răng mà không biết mình có bệnh.
80% số người không biết cách giải quyết khi có bệnh
28% không biết về bệnh sâu răng có thể chữa được và không biết chữa ở đâu.
34% số người cho rằng khi bị sâu răng thì có thể điều trị bằng thuốc nam, 4%
chọn bệnh viện tỉnh, 26,4% số người chọn thầy lang, 15% số người chọn cở sở y tế tư
nhân để chữa răng.
56% số người được phỏng vấn chưa biết về phòng bệnh răng miệng [18].
Như vậy vấn đề đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của người dân đối với sức
khỏe răng miệng là hết sức quan trọng đặc biệt là ở vùng cao, vùng sâu vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ hiểu biết còn hạn chế…thì việc đánh giá này rất
cần thiết.
1.3.6. C¸c yÕu tè nguy c¬ cña bÖnh r¨ng miÖng
1.3.6.1. Yếu tố nguy cơ đối với bệnh sâu răng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học, người ta biết rằng sâu răng là một
dẫy chung của những sự kiện động học dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố liên
quan với nhau như: đặc tính sinh học, hoàn cảnh xã hội, hành vi, tâm lý và mức
sống của đối tượng. Càng ngày, càng có nhiều yếu tố nguy cơ được biết liên quan
đến sâu răng [27]. Tuy nhiên từ kinh nghiệm lâm sàng của nha sỹ về sự hiện diện
số lượng và độ trầm trọng của sâu răng sữa, sự hiện diện và số lượng sâu răng ở
mặt bên răng vĩnh viễn người ta đã đánh giá được những yếu tố nguy cơ sâu răng
nổi trội gồm: vi khuẩn, dinh dưỡng, sức đề kháng của răng và nước bọt. Sự đánh
giá giúp cho việc đề ra chiến lược điều trị tuỳ thuộc vào yếu tố nổi trội và tối ưu
hoá việc sử dụng Fluor liệu pháp [19] .
Contreas B, đã phân tích nhiều nguy cơ gây sâu răng trong đó có yếu tố
Fluor của nước cùng với các yếu tố sinh học, xã hội, hành vi và tâm lý được nhấn
mạnh nhiều hơn cả [51 ]
Một số nghiên cứu về những nguy cơ gây sâu răng ở trẻ em úc 2 thập kỷ
qua, cho thấy tình trạng sâu răng phụ thuộc vào tuổi và điều kiện sống. Những
thử nghiệm để đánh giá nguy cơ sâu răng có thể được đánh giá bằng dự đoán,
nhưng dấu hiện lâm sàng và tiền sử là dấu hiệu quan trọng để đánh giá nguyên
nhân chính của sâu răng trong một cá nhân. Những nghiên cứu liên quan tới một
số yếu tố, tiền sử sâu răng nhất là răng hàm vĩnh viễn thứ nhất trở thành yếu tố
tiên đoán tốt nhất cho sâu răng ở trẻ em. Cần thiết một nghiên cứu dọc theo vùng
đánh giá những yếu tố nguy cơ được xác định theo yêu cầu có thể không phải
nằm trong nhóm có tỷ lệ bệnh thấp. Đánh giá bất cứ yếu tố nguy cơ nào cũng đi
tới có biện pháp can thiệp thích hợp để phòng bệnh [58],[59].
Đánh giá nguy cơ sâu răng ở trẻ em là một phần trong việc đánh giá sức
khoẻ toàn thân, đặc biệt là tiền sử Fluor, thói quen vệ sinh răng miệng [28].
Tiền sử Fluor bao gồm liều lượng và tần suất sử dụng Fluor từ những
nguồn khác nhau như nước, chế độ ăn bổ sung, nước súc miệng và kem đánh
răng. Phải đánh giá Fluor trong nguồn nước sinh hoạt của trẻ. Nếu nguồn nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
chính thiếu Fluor thì sự bổ sung là cần thiết để tăng sức đề kháng của răng và
nước bọt chống lại sâu răng.
1.3.6.2. Yếu tố nguy cơ bệnh viêm lợi
Những yếu tố nguy cơ của viêm lợi là những yếu tố tại chỗ và toàn thân
gây ảnh hưởng đến việc tích tụ mảng bám răng hoặc làm biến đổi sự đáp ứng của
tổ chức quanh răng đối với mảng bám răng[12]. Mảng bám răng không được lấy
đi sẽ kết hợp với những chất khác trở nên cứng và thô ráp, xốp và lắng đọng lại
gọi là cao răng. Cao răng có ở trên bề mặt răng, trên đường viền lợi, có thể không
gây ra bệnh quanh răng; Nhưng cao răng dưới lợi, trên bề mặt chân răng sẽ tạo
điều kiện cho những mảng bám răng và vi khuẩn bám nhiều hơn và khó lấy đi
hơn.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tích tụ mảng bám răng là
không chải răng hoặc chải răng không đúng cách. ở trẻ em, nếu không được
hướng dẫn và nhắc nhở, sẽ không tạo được cho các em thói quen cần thiết chải
răng hàng ngày. Đó là việc quan trọng trong thói quen vệ sinh răng miệng. Nếu
tạo được thói quen chải răng đều đặn hàng ngày và được hướng dẫn vệ sinh răng
miệng một cách đầy đủ sẽ làm sạch vi khuẩn và mảng bám răng, góp phần ngăn
ngừa viêm lợi.
- Đặc biệt là các yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi của các em học sinh:
kiến thức kém, Thái độ kém, Thực hành kém, thói quen ăn vặt hằng ngày, không
chải răng, chăm súc răng miệng kém đó ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ mắc bệnh
răng miệng của các em. Theo báo cáo điều tra của Viện răng hàm mặt Hà Nội
năm 2004, tổng kết công tác Nha học đường các tỉnh phía bắc thì tỷ lệ sâu răng
liên quan đến hành vi của các em chiếm 80,41%, trong đú việc thực hành vệ sinh
răng miệng cú vai trò quan trọng chiếm 58,60%. Theo Nguyễn Văn Tấn năm
2004 đánh giá thực trạng sâu răng ở học sinh có và không dùng nước súc miệng
Fluor ở Hà Nội, đó đưa ra tỷ lệ măc bệnh sâu răng liên quan đến không xúc
miệng hằng ngày là 48,50% , số học sinh hay ăn ngọt, không có thói quen đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
răng có tỷ lệ sâu răng là 50,25%, cao hơn nhóm trẻ có thói quen đánh răng là
18%.
1.3.7. Chƣơng trình Nha học đƣờng tại tỉnh Yên Bái
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm giữa vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt
Nam, cách Hà Nội gần 200 Km. Diện tích toàn tỉnh là 6.807 km2, dân số đến
31/9/2009 là 709.795 người, Yên Bái có 7 huyện và 2 thị xã với 180 xã, phường,
thị trấn. Tình hình phân bố dân số của tỉnh không đều, dân cư tập trung đông ở
hai thị xã với mật độ trung bình từ 1300 - 1600 người /km2.
Tỉnh Yên Bái có 27 dân tộc sinh sống, trong đó đông nhất là người Kinh
sau đó đến người Tày, Dao, H'Mông, Thái, Nùng và các dân tộc khác. Các dân
tộc ít người phân bố theo địa dư từng huyện, hiện nay các dân tộc còn có nhiều
phong tục, tập quán lạc hậu.
Chương trình nha học đường của tỉnh Yên Bái được thực hiện từ năm
1995, chủ yếu là thực hiện ở các trường tiểu học, THCS. Hoạt động chính của
chương trình là khám răng cho HS theo định kỳ 1 năm 1 lần, phát hiện các
trường hợp sâu răng, bệnh quanh răng để hướng dẫn cho các em đến các cơ sở y
tế để khám chữa bệnh. Tuy nhiên chương trình nha học đường chủ yếu thực hiện
thường xuyên ở các thị trấn, thành phố, thị xã còn ở các xã vùng cao, vùng sâu,
vùng xa thì còn rất hạn chế, không thường xuyên, có khi 2-3 năm mới tổ chức
khám răng miệng 1 lần. Công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng,
học sinh chưa có sự phối hợp giữa các ban ngành, y tế, giáo dục nên chưa đạt
được hiệu quả mong muốn. Trước đây, tỷ lệ sâu răng , viêm lợi rất cao (trên
80%), trong những năm gần đây được sự quan tâm của ngành y tế trong lĩnh vực
này nên kiến thức, thái độ, thực hành của học sinh được cải thiện, giáo viên nhà
trường, cán bộ y tế thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của chương trình
nên tỷ lệ bệnh răng miệng có thuyên giảm. Tuy nhiên cũng có rất nhiều yếu tố
nguy cơ, nguyên nhân làm bệnh gia tăng như thực hành vệ sinh răng miệng, thói
quen ăn vặt, môi trường nước…ảnh hưởng đến bệnh răng miệng mà cần phải có
sự can thiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Cũng như một số tỉnh miền núi khác, các cơ sở y tế ở Yên Bái nói chung
còn thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị, thiếu cán bộ chuyên môn, do vậy chất lượng
y tế còn chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân
Văn Chấn là huyện miền núi nằm ở phía tây của tỉnh Yên Bái. Gồm 31 xã
và thị trấn, hiện tại huyện có 18 xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại
gặp nhiều trở ngại, đời sống người dân còn khó khăn vất vả, trình độ hiểu biết
của người dân còn thấp. Hệ thống chăm sóc sức khoẻ còn chưa đầy đủ tại các cơ
sở như phương tiện, trang thiết bị khám chữa bệnh, nhân lực và các dịch vụ chăm
sóc khác…
Hiện nay, huyện Văn Chấn có 35 trường tiều học, gồm có khoảng 6000
học sinh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng được cho nhu cầu
học tập của các em học sinh. Trình độ hiểu biết của giáo viên còn nhiều hạn chế
nên việc phối hợp dạy học với tuyên truyên giáo dục sức khoẻ cho học sinh đặc
biệt về công tác chăm sóc sức khoẻ răng miệng chưa đạt được theo yêu cầu và
mục tiêu đề ra.
Tình hình chăm sóc răng miệng của nhân dân nói chung và của học sinh các
trường tiểu học nói riêng còn ở mức rất thấp. Tổ chức điều tra và nghiên cứu sâu theo
hướng này là góp phần đánh giá những vấn đề tồn tại trong các hoạt động chăm sóc
răng miệng của học sinh tiểu học đồng thời có những giải pháp và kế hoạch phòng
bệnh răng miệng một cách hữu hiệu cho học sinh các trường phổ thông vùng cao,
vùng sâu vùng xa như tỉnh Yên Bái.
Chính vì vậy, khi học sinh bị bệnh răng miệng thường phải đưa đến bệnh
viện để khám và điều trị nên vừa xa lại mất nhiều thời gian, còn ở các trạm y tế
xã chưa đáp ứng được nhu cầu điều trị của người dân. Đi điều trị ở các bệnh viện
học sinh phải nghỉ học, ảnh hưởng đến học tập, công việc và kinh phí của cha mẹ.
Điều này cho thấy nếu xác định được tình hình mắc bệnh răng miệng và đưa
những phương hướng, biện pháp can thiệp phù hợp đến cộng đồng không những
sẽ giảm được tỉ lệ mắc bệnh răng miệng mà còn đưa dịch vụ y tế đến gần dân
hơn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Học sinh tiểu học của trường tiểu học Nghĩa Lộ và Nậm Búng, trong độ tuổi
từ 7-11 tuổi đang học từ lớp 1 đến lớp 5.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
* Địa điểm nghiên cứu
- Trường tiểu học Nghĩa Lộ huyện Văn Chấn: đại diện cho các trường tiÓu häc
ở trung tâm huyện, thuộc vùng thấp, cách trung tâm huyện khoảng 3 km về phía
nam. Học sinh chủ yếu là con cán bộ công chức nhà nước, có mức sống tương đối
cao, thói quen sinh hoạt của từng gia đình rất đa dạng. Điều kiện kinh tế cao, khả
năng tiếp cận với các thông tin văn hóa, xã hội và sức khỏe đầy đủ hơn.
- Trường tiểu học Nậm Búng: đại diện cho các trường tiểu học ở vùng cao
của huyện, cách trung tâm huyện 30km về phía tây. Trường cũng nằm ở khu vực
dân cư đông đúc nhưng điều kiện kinh tế của các hộ gia đình ở đây chủ yếu là
làm nông nghiệp, trồng rừng, đời sống kinh tế khó khăn, thói quen sinh hoạt cũng
như sự hiểu biết về các bệnh răng miệng còn rất hạn chế.
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2008 đến 10/2009
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
2.3.2. Thiết kế nghiên cứu: Điều tra cắt ngang
2.3.3. Phương pháp chọn mẫu
* Cỡ mẫu : Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức:
p.q
N = Z
2
(1- α/2)
d
2
Trong đó : n: cỡ mẫu cần có; p: Là tỷ lệ mắc bệnh răng miệng của học sinh
tiểu học theo kết quả nghiên cứu của Đào Thị Ngọc Lan (2002) tỷ lệ này là 0,5.
q: Tỷ lệ % chưa mắc bệnh ( với p = 0,5, q = 0,5)
d: sai số ước lượng của kết quả nghiên cứu của mẫu so với quần thể nghiên
cứu (ước tính) = 0,05.
Z: 1,96
- n = 384 , lấy tròn là 400
- Số học sinh mỗi trường cần điều tra là 200.
*Kỹ thuật chọn mẫu:
- Chọn 2 trường tiểu học trong huyện Văn Chấn là chọn mẫu chủ đích theo
khu vực.
+ Trường tiểu học Nghĩa Lộ (trung tâm huyện, thuéc x· vïng thÊp)
+ Trường tiểu học Nậm Búng (xã vùng cao của huyện)
- Lập danh sách số học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 sau đó bốc thăm ngẫu nhiên
cho đủ 200 học sinh cho mỗi trường.
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu :
*Các chỉ số.
- Các thông tin chung về đối tượng nghiên cứu :
+ Tuổi
+ Giới
+ Nghề nghiệp của bố mẹ.
+ Thói quen ăn uống của gia đình.
- C¸c th«ng tin vÒ bÖnh r¨ng miÖng
+ Tû lÖ häc sinh m¾c bÖnh s©u r¨ng, viªm lîi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
- Các thông tin chung về kiến thức sức khỏe răng miệng :
+ Kiến thức về nguyên nhân sâu răng
+ Kiến thức về bệnh răng miệng
+ Kiến thức về cách phòng bệnh.
- Các thông tin về thái độ chăm sóc sức khỏe răng miệng
+ Thái độ đối với bệnh răng miệng
+ Thái độ về sự lựa chọn dịch vụ khám chữa răng ở cộng đồng
+ Thái độ đối với cách phòng bệnh răng miệng.
- Các thông tin về thực hành chăm sóc sức khỏe răng miệng.
+ Số lần chải răng
+ Thời điểm chải răng
+ Thói quen ăn vặt hàng ngày.
- Các yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng: Kiến thức, Thái độ, Thực hành
(KAP) của học sinh, điều kiện sống (Nghề nghiệp mẹ, thói quen ăn uống, ...).
+ Mối liên quan giữa kiến thức với BRM
+ Mối liên quan giữa thái độ với BRM
+ Mối liên quan giữa thực hành chải răng với BRM
+ Mối liên quan giữa hoạt động của chương trình NHĐ với BRM
* C¸c tiªu chuÈn x¸c ®Þnh bÖnh (theo tiªu chuÈn chÈn ®o¸n bÖnh cña Tæ
chøc Y tÕ thÕ giíi )
- Sâu răng: Có lỗ sâu ở bất cứ mặt nào của răng, ít nhất là lỗ sâu răng
xuyên qua men răng trở lên cho tới lỗ sâu to và rõ ràng.
- Viêm lợi: Tổ chức phần mền quanh răng bị tấy đỏ, sưng nề, chạm vào có
thể gây đau hoặc chảy máu.
- R¨ng tr¸m: C¸c r¨ng s©u ®· ®•îc hµn b»ng c¸c lo¹i vËt liÖu hµn r¨ng nh•:
Amangam, Composite, Cimment silicat...
- Răng bị mất: Những răng đã bị nhổ hoặc mất do nguyên nhân sâu răng,
không tính mất răng do các nguyên nhân khác như tai nạn, bẩm sinh...
*Nhận định kết quả:
- Các kết quả được so sánh với các chỉ số theo phân loại bệnh của Tổ chức
Y tế thế giới [2], [7]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Sâu răng Sâu mất trám
Tỷ lệ % Xếp loại Xếp loại Chỉ số
>70 Cao Rất thấp 0-1,1
50-70 Trung bình Thấp 1,2-2,6
<50% Thấp Trung bình 2,7-4,4
Cao 4,5-6,5
Bệnh Thấp Trung bình Cao
Viêm lợi 0-20 21-50 >50
- Cách phân mức độ KAP trong nghiên cứu dựa vào kết quả cho điểm theo
KAP. Để việc cho điểm được chính xác, chúng tôi phân ra làm 3 loại biến đó là
biến kiến thức (K), biến thái độ (A) và biến thực hành (P) cho mỗi vấn đề cần
nghiên cứu. Mỗi biến được tính tổng là 10 điểm, số điểm này sẽ được chia ra
trong các câu một cách phù hợp. Phân mức độ như sau:
Số điểm đạt được từ 5 - 10 điểm: Xếp loại tốt
Số điểm đạt được dưới 5: Xếp loại chưa tốt
(Biến kiến thức có 7 câu, nếu trả lời đúng 5 câu trở lên: xếp loại tốt, còn lại
nếu trả lời từ 4 câu trở xuống xếp loại chưa tốt. Biến thái độ có 6 câu, nếu trả lời
đúng 4 câu trở lên xếp loại tốt, nếu trả lời được 3 câu trở xuống xếp loại chưa tốt.
Biến thực hành có 11 câu, nếu trả lời đúng từ 7 câu trở lên xếp loại tốt, nếu trả lời
từ 6 câu trở xuống thì xếp loại chưa tốt.)
2.6 .Phƣơng pháp thu thập số liệu
2.6.1 Phỏng vấn trực tiếp học sinh: Theo bộ cụng cụ soạn sẵn, bộ cụng cụ
được xõy dựng theo đỳng qui trỡnh.
2.6.2 Khám lâm sàng: Khám lâm sàng răng miệng bằng dụng cụ nha khoa
thông thường dưới ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng đèn gù, đèn pin.
2.6.3 Người thực hiện: Bác sỹ phục trách chương trình Nha học đường, Bác
sỹ chuyên khoa răng của bệnh viện, các Bác sỹ của trung tâm y tế huyện đã được
tập huấn.
2.7 . Phƣơng pháp khống chế sai số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
- Đối với sai số ngẫu nhiên: Chọn đủ cỡ mẫu và lực mẫu
- Đối với sai số hệ thống:
+ Thiết kế bộ câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, dễ trả lời
+ Người phỏng vấn được tập huấn kỹ và thống nhất cách thu thập số liệu .
+ Các phiếu được làm sạch tại chỗ.
2.8 . Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
- Giải thích rõ mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra cho học sinh biết khi
cần thiết để tạo thêm tinh thần hợp tác cùng làm việc.
- Điều tra trên những học sinh đồng ý hợp tác, không ép buộc và trên tinh
thần tôn trọng .
- Sau khi phỏng vấn điều tra sẽ được thông tin truyền thông thêm những
kiến thức mà học sinh còn chưa biết.
2.9 . Phƣơng pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê y học trên phần mền máy tính
theo chương trình EPIINFO 6.04.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Một số đặc điểm chung của đối tƣợng nghiên cứu
Bảng 3.1. Phân bố đối tƣợng nghiên cứu theo lớp, địa điểm.
Trƣờng
Lớp
Nghĩa Lộ Nậm Búng Chung
n % n % n %
1 51 12,75 51 12,75 102 25,50
2 47 11,75 36 9,00 83 20,75
3 60 15,00 43 10,75 103 25,75
4 29 7,25 25 6,25 54 13,50
5 18 4,50 40 10,00 58 14,50
Cộng 205 51,25 195 48,75 400 100
Nhận xét:
Học sinh lớp 1 ở cả 2 trường chiếm tỷ lệ 25,5%, học sinh lớp 2 là 20,75%, học
sinh lớp 4 chiếm tỷ lệ thấp nhất 13,5%. Số học sinh tiểu học ở Nghĩa Lộ được điều
tra 51,25%, số học sinh Nậm Búng là 48,75%.
Bảng 3.2. Phân bố đối tƣợng nghiên cứu theo tuổi, địa điểm
Trƣờng
Tuổi
Nghĩa Lộ Nậm Búng Chung
n % n % n %
7 48 12,00 46 11,50 94 23,50
8 45 11,25 39 9,75 84 21,00
9 58 14,50 36 9,00 94 23,50
10 31 7,75 29 7,25 60 15,00
11 23 5,75 45 11,25 68 17,00
Cộng 205 51,25 195 48,75 400 100
Nhận xét:
Học sinh 7 tuổi và 9 tuổi được điều tra chiếm tỷ lệ cao nhất 23,50%, học sinh
8 tuổi 21%, học sinh 10 tuổi có tỷ lệ thấp nhất 15,0%. Học sinh 9 tuổi ở Nghĩa Lộ
chiếm tỷ lệ cao nhất 14,50%. Học sinh 11 tuổi ở Nghĩa lộ có tỷ lệ thấp nhất 5,75%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Bảng 3.3. Phân bố đối tƣợng nghiên cứu theo lớp, giới
Giới
Lớp
Nam Nữ Tổng cộng
n % n %
1 59 14,75 43 10,75 102
2 49 12,25 34 8,50 83
3 52 13,00 51 12,75 103
4 23 5,75 31 7,75 54
5
29 7,25 29 7,25 58
Cộng 212 53,00 188 47,00 400
Nhận xét: Tỷ lệ học sinh nam được điều tra chiếm 53,0%, học sinh nữ là
47,0%. Học sinh nam ở lớp 1 chiếm tỷ lệ cao nhất 14,75%, học sinh nữ ở lớp 3 có tỷ
lệ cao nhất 12,75%.
Bảng 3.4. Phân bố đối tƣợng nghiên cứu theo dân tộc
Dân tộc N %
Kinh 249 62,25
Thái 95 23,75
Tày 7 1,75
Dao 28 7,00
H.Mông 9 2,25
Mường 12 3,00
Cộng 400 100
Nhận xét: Tỷ lệ học sinh là dân tộc Kinh chiếm cao nhất 62,25%, sau đó là dân
tộc Thái chiếm 23,75%, thấp nhất là dân tộc Tày 1,75% và dân tộc H’Mông 2,25%.
62.25
23.75
1.75
7
2.25 3
0
10
20
30
40
50
60
70
Tỷ
lệ %
Kinh Thái Tày Dao H.Mông Mường Dân tộc
Biểu đồ 3.1 Phõn bố tỷ lệ theo dõn tộc ( theo bảng 3.4)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Bảng 3.5. Phân bố theo nghề nghiệp hiện tại của bố (mẹ ).
Nghề nghiệp bố (mẹ) N %
Công chức 41 10,25
Buôn bán 25 6,25
Công nhân 62 15,50
Làm ruộng 215 53,75
Nội trợ 57 14,25
Nhận xét:
Nghề nghiệp làm ruộng của bố (mẹ) học sinh chiếm tỷ lệ cao nhất 53,75%,
công nhân là 15,5%, nghề nghiệp buôn bán chiếm tỷ lệ thấp nhất 6,25%.
3.2 Tình hình bệnh răng miệng của học sinh
Bảng 3.6 Tỷ lệ bệnh sâu răng giữa 2 trƣờng
Bệnh sâu răng Nghĩa Lộ (1) Nậm Búng (2)
p
n % n %
Có 158 77,07 93 47,69
p(1-2)<0,05
Không 47 22,93 102 52,31
Cộng 205 100 195 100
Nhận xét:
Tỷ lệ mắc bệnh sâu răng của 2 trường cao chiếm 62,75%. Tỷ lệ mắc sâu răng ở
học sinh trường Nghĩa Lộ là 77,07% cao hơn tỷ lệ mắc bệnh sâu răng của trường
Nậm Búng 47,69 %, p < 0,05.
Bảng 3.7. Tỷ lệ bệnh viêm lợi 2 trƣờng
Bệnh viêm lợi
Nghĩa Lộ (1) Nậm Búng(2)
p n % n %
Có 27 13,17 7 3,59
p(1-2)<0,05 Không 178 86,83 188 96,41
Cộng 205 100 195 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Nhận xét:
Tỷ lệ học sinh 2 trường mắc bệnh viêm lợi là 8,5%. Tỷ lệ học sinh trường Nghĩa
Lộ mắc viêm lợi là 13,17% cao hơn trường Nậm Búng 3,59% với p<0,05.
9.76
77.07
13.17
48.72
47.69
3.59
28.75
62.75
8.5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Tỷ
lệ
%
Nghĩa Lộ Nậm Búng Chung Trường
Bình thường
Sâu răng
Viêm Lợi
Biểu đồ: 3.2 Tỷ lệ bệnh răng miệng của học sinh tiểu học
( Theo bảng 3.6 và 3.7)
Bảng 3.8 Phân bố tỷ lệ bệnh răng miệng theo độ tuổi
Bệnh
Tuổi
Sâu răng Viêm lợi Chung p
n % n % n %
p(1-5)<0,05
p(2-5)<0,05
p(1- 4)<0,05
7(1) 68 72.34 11 11.70
79 84.04
8(2) 54 64.29 10 11.90
64 76.19
9(3) 55 58.51 6 6.38
61 64.89
10(4) 41 68.33 4 6.67
45 75.00
11(5) 33 48.53 3 4.41
36 52.94
Cộng 251 62.75 34 8.50
285 71.25
Nhận xét:
Tỷ lệ HS 7 tuổi mắc bệnh răng miệng cao nhất 84,04%, Tỷ lệ HS 11 tuổi chiếm
thấp nhất 52,94%. Tỷ lệ sâu răng ở HS 7 tuổi có tỷ lệ cao nhất 72,34%, thấp nhất là ở HS
11 tuổi có tỷ lệ sâu răng chiếm 52,94%. Viêm lợi ở HS 7 và 8 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất
11,7%, thấp nhất ở HS 11 tuổi 4,41% (p<0,05)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Bảng 3.9. Phân bố tỷ lệ bệnh răng miệng theo giới
Giới
Sâu răng Viêm lợi
p
n % n %
Nam (1) 130 61.32 18 8.49
p(1-2)>0,05
Nữ (2) 121 64.36 16 8.51
Cộng 251 62.75 34 8.50
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh sâu răng ở nam và nữ gần tương đương nhau (nam 61.32%, nữ
64,36%). Tỷ lệ bệnh viêm lợi ở nam và nữ tương đương nhau (nam 8,49%, nữ 8,51%)
Bảng 3.10. Phân bố tỷ lệ bệnh theo răng sữa và răng vĩnh viễn của học sinh
Loại răng
Bệnh RM
Răng sữa(1) Răng vĩnh viễn(2)
p
n % n %
Sâu răng
185 64,91 66 23,16
p(1-2)<0,05
Viêm lợi
25 8,77 9 3,16
p(1-2)<0,05
Cộng
210 73,68 75 26,32
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh răng miệng xảy ra ở HS có răng sữa là tương đối cao chiếm 73,68%, Tỷ
lệ bệnh răng miệng ở HS có răng vĩnh viễn là 26,32%. Sâu răng sữa chiếm 64,91%, Sâu
răng vĩnh viễn chiếm 23,16%. Viêm lợi ở răng sữa cũng cao hơn răng vĩnh viễn với
p<0,05.
64.91
8.77
23.16
3.16
0
10
20
30
40
50
60
70
Tỷ
Lệ
%
Răng sữa Răng vĩnh viễn Loại răng
Sâu răng
Viêm Lợi
Biểu đồ: 3.3 Tỷ lệ sâu răng sữa và răng vĩnh viễn (theo bảng 3.10)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Bảng 3.11. Chỉ số sâu, mất, trám và cơ cấu sâu, mất, trám răng sữa và răng
vĩnh viễn
Đặc điểm
n
Răng sữa Răng vĩnh viễn
Răng
sâu
Răng
mất
Răng
Hàn
smt
Răng
sâu
Răng
mất
Răng
Hàn
SMT
Số lượng 400 1024 42 8 1074 135 8 8 151
Chỉ số 2,56 0,1 0,02 2,68 0,33 0,02 0,02 0,37
Nhận xét:
Chỉ số sâu mất trám (smt) ở răng sữa là 2,68, chỉ số SMT ở răng vĩnh viễn là
0,37. Chỉ số răng được hàn ở cả 2 loại răng là 0,02.
Bảng 3.12. Các tổn thƣơng bệnh lý ở răng.
Bệnh lý răng sâu Số lƣợng Tỷ lệ %
Bình thường 149 37,25
Còn chân răng 9 2,25
Hàn lại răng sâu 13 3,25
Mất răng do sâu 37 9,25
Sâu men (S1) 38 9,50
Sâu ngà nông (S2) 58 14,50
Sâu ngà sâu ( S3) 68 17,00
Viêm tuỷ răng ( T2) 23 5,75
Sâu, mất và trám 5 1,25
Cộng 400 100
Nhận xét:
Tỷ lệ sâu ngà sâu (S3) chiếm tỷ lệ cao nhất 17,0%, sâu ngà nông (S2) 14,5%,
biến chứng viêm tuỷ răng (T2) 5,75%, hàn lại răng sâu 3,25%, mất răng do sâu
9,25%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
3.3- Đánh giá về kiến thức, thái độ , thực hành của học sinh về CSRM
Bảng 3.13. Mức độ kiến thức chung của học sinh về bệnh răng miệng
Trƣờng
Mức độ
Nghĩa Lộ (1) Nậm Búng (2)
p
n % n %
Tốt 173 84.39 110 56.41
p(1-2) <0,05
Chưa tốt 32 15.61 85 43.59
Cộng 205 100.00 195 100.00
Nhận xét:
Có kiến thức tốt về bệnh răng miệng chung cho cả 2 trường chiếm 70,75%
trong đó tỷ lệ kiến thức tốt ở trường Nghĩa Lộ chiếm cao hơn (84,39%). Ở trường
Nậm Búng là 56,41% (p<0,05). Kiến thức chưa tốt ở HS Nghĩa Lộ (15,61%) thấp
hơn so với Nậm Búng (43,59%) với p< 0,05.
Bảng 3.14. Kiến thức của học sinh về bệnh răng miệng .
Địa điểm
Kiến thức
Nghĩa Lộ(1) Nậm Búng(2)
p n % n %
1- Nguyên nhân gây bệnh
Không biết ng. nhân
42 20,49 90 46,15 p(1-2)<0,05
Biết nguyên nhân:
- Ăn nóng lạnh
9 4,39 11 5,64 p(1-2)>0,05
- Ăn đường, kẹo
95 46,34 50 25,64 p(1-2)<0,05
- Không chải răng
44 21,46 37 18,97 p(1-2)>0,05
- Không xúc miệng
15 7,32 7 3,59 p(1-2)>0,05
Cộng:
205 100 195 100
2- Phòng bệnh RM
Hiểu đúng về phòng BRM
176 85,85 102 52,31 p(1-2)<0,05
Hiểu sai về phòng bệnh RM
29 14,15 93 47,69 p(1-2)<0,05
Cộng
205 100 195 100
Nhận xét:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Tỷ lệ HS không biết nguyên nhân của bệnh răng miệng ở Nậm Búng chiếm
tỷ lệ cao hơn Nghĩa Lộ (Nậm Búng 46,15%, Nghĩa Lộ 20,49%). Tỷ lệ HS biết
nguyên nhân là do ăn đường, kẹo ở Nghĩa Lộ cao hơn Nậm Búng (Nghĩa Lộ 46,34,
Nậm Búng 25,64%). Nguyên nhân không chải răng (Nghĩa Lộ 21,46%, Nậm Búng
18,79%) . Tỷ Lệ HS hiểu sai về cách phòng BRM ở Nậm Búng lại cao hơn Nghĩa
Lộ (Nậm Búng 47,69%, Nghĩa Lộ 14,15%) với p<0,05
Bảng 3.15. Mức độ thái độ chung của học sinh về bệnh răng miệng
Trƣờng
Thái độ
Nghĩa Lộ (1) Nậm Búng(2)
p
n % n %
Tốt 185 90,24 161 82,56
p(1-2)<0,05
Chưa tốt 20 9,76 34 17,44
Cộng 205 100 195 100
Nhận xét :
Số HS chung 2 trường có thái độ tốt đối với BRM chiếm 86,5%, trong đó
trường Nghĩa Lộ chiếm tỷ lệ cao hơn (Nghĩa Lộ 90,24%, Nậm Búng 82,56%). HS
có thái độ chưa tốt ở Nghĩa Lộ thấp hơn ở Nậm Búng (Nghĩa lộ 9,76%, Nậm Búng
17,44% ) với p<0,05.
Bảng 3.16. Thái độ của học sinh về phòng bệnh răng miệng
Địa điểm
Thái độ
Nghĩa Lộ (1) Nậm Búng (2) p
n % n %
1- Thái độ về phòng bệnh
Rất cần thiết với sức khỏe
72 35,12 61 31,28 p(1-2)<0,05
Cần thiết đối với sức khỏe
109 53,17 96 49,23 p(1-2)<0,05
Không cần thiết với sức khỏe
8 3,90 28 14,36 p(1-2)<0,05
Cần phải đi khám, điều trị bệnh ngay
11 5,37 5 2,56 p(1-2)>0,05
Không cần thiết phải khám và điều
trị
5 2,44 5 2,56 p(1-2)>0,05
2- Lựa chọn nơi khám bệnh
Không biết
2 0,98 7 3,59 p(1-2)>0,05
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
Không đi khám
4 1,95 4 2,05 p(1-2)>0,05
Đến bệnh viện
113 55,12 88 45,13 p(1-2)>0,05
Đến bác sỹ tư nhân
0 0,00 6 3,08
Dùng thuốc nam
4 1,95 3 1,54
Đến trạm y tế xã
82 40 87 44,62 p(1-2)<0,05
Nhận xét :
Số HS 2 trường cho là BRM cần thiết với sức khoẻ chiếm tỷ lệ cao nhất
51,25%, trong đó trường Nghĩa Lộ có tỷ lệ cao hơn (Nghĩa Lộ 53,17%, Nậm Búng
49,23%). Không cần thiết với sức khoẻ chiếm 9% trong đó trường Nậm Búng có tỷ
lệ cao hơn (Nậm Búng 14,36%, Nghĩa Lộ 3,9%) với p< 0,05.
Tỷ lệ HS 2 trường lựa chọn đến bệnh viện khám chữa bệnh cao nhất 50,25%,
đến trạm y tế xã khám chiếm 42,25%(N.Lộ 40%, N.Búng 44,62%) p<0,05. Ngoài ra
các lựa chọn khác của HS giữa 2 trường là tương đương nhau với p>0,05.
Bảng 3.17. Mức độ thực hành về vệ sinh răng miệng
Trƣờng
Phƣơng pháp
VSRM
Nghĩa Lộ (1) Nậm Búng(2)
p
n % n %
Tốt 171 83,41 119 61,03
p (1-2)<0,05
Chưa tốt 34 16,59 76 38,97
Cộng 205 100 195 100
Nhận xét :
Số HS có mức độ thực hành tốt chiếm 72,5%, trong đó ở Nghĩa Lộ chiếm tỷ
lệ cao hơn Nậm Búng (Nghĩa Lộ 83,41%, Nậm Búng 61,03%). Số HS có mức độ
thực hành chưa tốt ở Nghĩa Lộ thấp hơn ở Nậm Búng (Nghĩa Lộ 16,59%, Nậm Bỳng
38,97%) với p<0,05
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
83.41
16.59
61.03
38.97
72.5
27.5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Tỷ
lệ
%
Nghĩa Lộ Nậm Búng Chung Trường
Tốt
Chưa tốt
Biểu đồ 3.4- Tỷ lệ về phƣơng pháp thực hành vệ sinh răng miệng
(theo bảng 3.17)
Bảng 3.18. Thực hành về vệ sinh răng miệng sau ăn, số lần chải răng
Địa điểm
Thực hành
Nghĩa Lộ(1) Nậm Búng(2)
P n % n %
1-Vệ sinh răng miệng sau ăn
Dùng tăm
18 8,78 11 5,64 p(1-2)>0,05
Súc miệng
93 45,37 75 38,46 p(1-2)>0,05
Chải răng
47 22,93 45 23,08 p(1-2)>0,05
Không vệ sinh răng
miệng
47 22,93 64 32,82 p(1-2)<0,05
Cộng:
205 100 195 100
2- Số lần chải răng
Một lần
91 44,39 75 38,46 p(1-2)>0,05
Hai lần
63 30,73 64 32,82 p(1-2)>0,05
Ba lần
35 17,07 38 19,49 p(1-2)>0,05
Trên ba lần
1 0,49 1 0,51 p(1-2)>0,05
Không cố định
15 7,32 17 8,72 p(1-2)>0,05
Cộng
205 100 195 100
Nhận xét.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
Tỷ lệ HS không vệ sinh răng miệng ở Nghĩa Lộ thấp hơn Nậm Búng( Nghĩa
Lộ 22,93%, Nậm Búng 32,82%) và chung cho cả 2 trường là 27,75% . Xúc miệng
chiếm tỷ lệ cao nhất của cả 2 trường là 42%.
Số HS cả 2 trường chải răng một lần trong một ngày có tỷ lệ cao nhất 41,5%,
hai lần 31,8%, trên ba lần 0,5%, không cố định 8%. Tỷ lệ này giữa 2 trường là tương
đương nhau với p>0,05
Bảng 3.19. Thực hành chải răng hằng ngày, thói quen ăn vặt
Địa điểm
Thực hành
Nghĩa Lộ(1) Nậm Búng(2)
p n % n %
1-Thời điểm chải răng
Không cố định
23 11,22 28 14,36 p(1-2)<0,05
Ngay sau ăn
54 26,34 34 17,44 p(1-2)<0,05
Buổi sáng
80 39,02 108 55,38 p(1-2)<0,05
Buổi tối
48 23,41 25 12,82 p(1-2)<0,05
Cộng:
205 100 195 100
2-Thói quen ăn vặt
Không ăn vặt
52 25,37 96 49,23 p(1-2)<0,05
Có ăn vặt:
Bỏnh ngọt, kẹo
76 37,07 53 27,18 p(1-2)<0,05
Đường, sữa
21 10,24 18 9,23 p(1-2)>0,05
Kem
9 4,39 8 4,10 p(1-2)>0,05
Ngô, khoai, sắn
9 4,39 14 7,18 p(1-2)>0,05
Các loại thức ăn khác
38 18,54 6 3,08 p(1-2)<0,05
Cộng 205 100 195 100
Nhận xét.
Thời điểm chải răng chủ yếu của học sinh cả 2 trường vào buổi sáng chiếm tỷ
lệ cao nhất 47%, ngay sau ăn 22%, không cố định là 12,75%.
Tỷ lệ HS trường Nghĩa Lộ có thói có thói quen ăn vặt chiếm tỷ lệ cao hơn
trường Nậm Búng, ăn bánh ngọt, kẹo (Nghĩa lộ 37,7%, Nậm Búng 27,18%). Ngược
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
lại tỷ lệ HS không ăn vặt ở Nậm Búng cao hơn ở Nghĩa Lộ (Nghĩa lộ 25,37, Nậm
Búng 49,23%) .
Bảng 3.20. Thói quen ăn vặt của HS theo địa phƣơng
Địa điểm
Thói quen ăn vặt
Nghĩa Lộ(1) Nậm Búng(2)
p
n % n %
Có TQAV 154 75,12 98 50,26
p(1-2) <0,05
Không có TQAV 51 24,88 97 49,74
Cộng: 205 100 195 100
Nhận xét
Tỷ lệ HS có thói quen ăn vặt ở Nghĩa Lộ là 75,12% cao hơn ở Nậm Búng
50,26%. Tỷ lệ HS không có thói quen ăn vặt ở Nậm Búng là 49,74% cao hơn ở
Nghĩa Lộ 24,88% với p< 0,05
75,12
24,88
50,26 49,74
63
37
0
10
20
30
40
50
0
70
80
Tỷ
lệ
%
Nghĩa Lộ Nậm Búng Chung Trường
Có thói quen ăn vặt
Không có TQAV
Biểu đồ 3.4 : Thói quen ăn vặt của học sinh (theo bảng 3.20)
3.4- Mối liên quan giữa các yếu tố với bệnh răng miệng của học sinh.
Bảng 3.21. Liên quan giữa kiến thức với BRM (n= 400).
Bệnh
Nguy cơ
Bệnh răng miệng OR, 2, p
Có Không
Hiểu biết chưa tốt 87 30 OR=1,22, 2=0,66
p>0,05 Hiểu biết tốt 198 84
Nhận xét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
Không có mối liên quan giữa kiến thức với bệnh răng miệng với p > 0,05.
Bảng 3.22. Liên quan giữa thái độ với bệnh răng miệng (n=400).
Bệnh
Nguy cơ
Bệnh răng miệng OR, 2, p
Có Không
Thái độ chưa tốt 43 11 OR=1,66, 2=2,02
p>0,05 Thái độ tốt 242 103
Nhận xét
Không có mối liên quan giữa thái độ với bệnh răng miệng với p>0,05.
Bảng 3.23. Liên quan giữa thái độ với bệnh sâu răng (n= 400 )
Bệnh
Nguy cơ
Bệnh sâu răng OR, 2, p
Có Không
Thái độ chưa tốt 35 19 OR=0,9, 2=0,11
p>0,05 Thái độ tốt 216 130
Nhận xét:
Không có mối liên quan giữa thái độ với bệnh sâu răng với p>0,05
Bảng 3.24 Liên quan giữa thực hành VSRM hàng ngày với BRM.
Bệnh
Nguy cơ
Bệnh răng miệng OR, 2, p
Có Không
Thực hành chưa tốt 94 15 OR=3,28, 2=16,4
P<0,05 Thực hành tốt 191 99
Nhận xét
Có mối liên quan mật thiết giữa thói quen vệ sinh răng miệng hằng ngày với
bệnh răng miệng. Những HS thực hành vệ sinh RM chưa tốt thì có nguy cơ mắc
BRM cao gấp 3,28 lần so với những HS thực hành vệ sinh RM tốt với p< 0,05.
Bảng 3.25. Liên quan giữa thói quen ăn vặt với bệnh răng miệng (n= 400 )
Bệnh
Nguy cơ
Bệnh răng miệng OR, 2, p
Có Không
Có thói quen ăn vặt 199 52 OR=2,77,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Không có thói quen 86 62 2=20,6 P<0,05
Nhận xét:
Có mối liên quan mật thiết giữa thói quen ăn vặt hằng ngày và bệnh răng
miệng, những HS có thói quen ăn vặt thì nguy cơ mắc bệnh răng miệng tăng gấp
2,77 lần so với những HS không hay ăn vặt (p<0,05).
Bảng 3.26. Liên quan giữa thực hành chải răng với sâu răng (n= 400 )
Bệnh
Nguy cơ
Bệnh sâu răng OR, 2, p
Có Không
Không chải răng 165 59 OR=2,93
2=25,9 p<0,05 Có chải răng 86 90
Nhận xét
Có mối liên quan giữa thực hành chải răng với bệnh sâu răng. Số HS không
chải răng hằng ngày thì nguy cơ mắc bệnh sâu răng lớn gấp 2,93 lần so với những
HS thường xuyên chải răng (p< 0,05)
Bảng 3.27. Liên quan giữa chăm sóc sức khoẻ RM với BRM (n= 400 )
Bệnh
Nguy cơ
Bệnh răng miệng OR, 2, p
Có Không
Không được chăm
sóc thường xuyên
181 42
OR=3,0
2=23,7
p<0,05 Được chăm sóc
thường xuyên
104 72
Nhận xét:
Có mối liên quan mật thiết giữa sự chăm sóc sức khoẻ răng miệng với bệnh
răng miệng. Những HS không được chăm sóc sức khoẻ răng miệng thường xuyên
thì có nguy cơ mắc bệnh răng miệng cao gấp 3 lần so với những HS được chăm tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1.THỰC TRẠNG BỆNH RĂNG MIỆNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI
HAI TRƢỜNG.
4.1.1. Một số đặc điểm chung của đối tƣợng nghiên cứu.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu tình hình chăm sóc sức khoẻ răng miệng của
học sinh tiểu học trên địa bàn huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái, chúng tôi đã tiến
hành khám răng miệng và phỏng vấn 400 học sinh tại 2 trường tiểu học Nghĩa Lộ
(205) và Nậm Búng (195) đã chỉ ra một số kết quả sau:
Phân bố học sinh theo lớp và địa điểm cho biết số lượng học sinh được
khám, phỏng vấn theo từng lớp, tỷ lệ học sinh ở lớp 3 chiếm tỷ lệ cao nhất
25,75%, lớp 1 chiếm 25,5%, tỷ lệ học sinh lớp 4 thấp nhất chiếm 13,5%, số học
sinh ở Nghĩa Lộ được điều tra chiếm 51,25%, ở Nậm Búng chiếm 48,75%. Điều
này cũng đúng với thực tế hiện nay, Nậm Búng là một xã vùng cao, việc học tập
và chăm sóc sức khoẻ chưa được chú trọng, quan tâm do đó càng ở lớp cao hơn
thì số lượng HS càng thấp. Số học sinh bỏ học hoặc chuyển trường khác tăng lên.
Đặc biệt độ tuổi của HS từ 10-11 tuổi trong nghiên cứu này thấp (10 tuổi chiếm
15%, 11 tuổi 17%). Tỷ lệ cao nhất vẫn là HS ở độ tuổi 7 và 9 chiếm 23,5% (bảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
3.2). Kết quả này tương đương với kết quả khám và điều tra về tình hình răng
miệng cho HS tại các trường tiểu học trên địa bàn huyện Văn Chấn năm 2007 (
HS 7 tuổi 24,5%, HS 9 tuổi 25%) [37].
Trong điều tra này thì tỷ lệ HS nam là 53% được khám và phỏng vấn cao
hơn HS nữ 47%. Theo kết quả nghiên cứu của Lương Ngọc Châm ở huyện Võ
Nhai tỉnh Thái Nguyên thì tỷ lệ HS nam là 55% còn HS nữ là 45% tỷ lệ học sinh
ở các lớp cao hơn (lớp 4-5) thì tỷ lệ HS nữ cũng thấp hơn HS nam so với các lớp
1 và 2. Kết quả này tương đối phù hợp với tỷ lệ thu được của chúng tôi [2].
Khi phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc thì tỷ lệ HS là dân tộc Kinh
chiếm cao nhất 62,3%, sau đó là dân tộc Thái 23,8%, dân tộc Dao là 7% và thấp
nhất là dân tộc Tày chiếm 1,8% (bảng 3.4). Theo nghiên cứu của Đào Thị Ngọc
Lan tại tỉnh Yên Bái thì tỷ lệ HS là dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất 53,13%,
dân tộc Thái là 20,5%, thấp nhất là dân tộc Tày. Điều này cũng phù hợp với sự
phân bố các dân tộc trên địa bàn huyện Văn Chấn, ở Nậm Búng đa số là dân tộc
Thái (75%) sinh sống, ở Nghĩa Lộ đa số là dân tộc Kinh (85%), còn lại các dân
tộc khác (HMông, Mường, Tày) chiếm tỷ lệ rất thấp, hơn nữa những học sinh dân
tộc ít người được vận động đến lớp ít [18].
Là một huyện miền núi, nghề nghiệp chính của người dân là làm ruộng và
phát triển nông nghiệp, nhất là ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa như Nậm
Búng nên trong kết quả nghiên cứu này tỷ lệ nghề nghiệp của bố hoặc mẹ làm
ruộng chiếm tỷ lệ cao nhất 53,8%, sau đó là công nhân chiếm 15,5%, nội trợ
14,3%, công chức là 10,3% và thấp nhất là buôn bán chiếm 6,3% (bảng 3.5). Kết
quả này tương đối phù hợp với kết quả điều tra chung về bệnh răng miệng của
huyện Văn Chấn năm 2007, tỷ lệ về nghề nghiệp của bố (mẹ) làm ruộng chiếm
54,5%, công nhân chiếm 14%, công chức chiếm 11,5%, buôn bán là 5,8%. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Lê Thanh (2006) tại Bắc Cạn thì tỷ lệ về nghề nghiệp của
bố (mẹ) cũng chủ yếu là làm ruộng chiếm 58%, nội trợ chiếm 15% [22]. Do nghề
nghiệp của bố hoặc mẹ đa số làm nông nghiệp nên sự hiểu biết của người dân về
sức khoẻ răng miệng còn rất hạn chế đặc biệt các ông bố, bà mẹ đa số chỉ tập
trung vào làm ăn và kiếm sống, cuộc sống còn nhiều vất vả, kinh tế gia đình khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
khăn, thu nhập bình quân đầu người trong một năm còn rất thấp. Chính vì vậy,
hầu hết các gia đình của các em học sinh 2 trường tiểu học nói riêng và trên địa
bàn huyện Văn Chấn nói chung chưa thực sự quan tâm đến sức khoẻ răng miệng
cho các em trong độ tuổi đến trường [28].
4.1.2.Thực trạng bệnh răng miệng của học sinh.
Tình hình bệnh răng miệng của học sinh tiểu học đang là vấn đề phổ biến,
trong kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy rõ điều đó ở bảng 3.6 tỷ lệ học sinh
cả 2 trường bị sâu răng chiếm 62,75%, trong đó trường Nghĩa Lộ có tỷ lệ mắc
bệnh cao hơn 77,07%, còn ở Nậm Búng có tỷ lệ mắc thấp hơn 47,69%. Tỷ lệ sâu
răng này tương đương với kết qủa nghiên cứu của Nguyễn Lê Thanh, Đào Thị
Ngọc Lan (2002) về tỷ lệ mắc bệnh sâu răng ở HS tiểu học là 65%. Năm 2001,
theo điều tra của Viện Răng Hàm Mặt có trên 80% dân số mắc bệnh răng miệng
[18],[22]. Tỷ lệ viêm lợi ở điều tra này rất thấp (8,5%), mức độ viêm lợi chủ yếu
là độ I. Tỷ lệ viêm lợi ở Nghĩa Lộ cao hơn Nậm Búng (Nghĩa Lộ 13,17%, Nậm
Búng 3,59%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Theo báo cáo của
chương trình y tế học đường Sở Y tế tỉnh Yên Bái, tỷ lệ sâu răng của học sinh
tiểu học trong toàn tỉnh là 64% nhưng tỷ lệ viêm lợi cao hơn, so với toàn tỉnh tỷ
lệ viêm lợi là 31%. Kết quả ở nghiên cứu này lại thấp hơn nghiên cứu trên HS
tiểu học cùng lứa tuổi của Đào Thị Ngọc Lan (năm 2002) tỷ lệ bệnh quanh răng
là 45,5% [18]. Tỷ lệ SR tương đối đối phù hợp với kết quả điều tra của viện
RHM năm 2004 HS lứa tuổi 7-11 có tỷ lệ sâu răng là 63,05%; còn tỷ lệ viêm lợi
thấp hơn nghiên cứu của viện RHM học sinh 7 đến 11 tuổi viêm lợi 45,1%. Thấp
hơn nghiên cứu của Trần Văn Trường (2004) trẻ 6 tuổi bị viêm lợi chiếm 50,5%
[36]. Trong những năm gần đây hoạt động của chương trình nha học được đã bị
co hẹp lại chủ yếu thực hiện ở thành phố Yên Bái. Các chức năng của Nha học
đường còn chưa được thực hiện hết nên tỷ lệ bệnh răng miệng không những
không giảm mà còn gia tăng, đặc biệt là học sinh ở vùng cao, vùng sâu vùng xa,
nhiều học sinh không có bàn chải để chải răng. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh ăn vặt
tăng lên do đó bệnh răng miệng có xu hướng ngày càng tăng nhất là ở vùng thấp.
Báo cáo công tác Nha học đường hàng năm ở Thành phố Yên Bái, sâu răng 64%,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
viêm lợi 37%; ở thị xã Tuyên Quang tỷ lệ sâu răng này là 63,5%, viêm lợi 36%; ở
thành phố Lao Cai sâu răng là 63%, viêm lợi 35%. Các tỷ lệ này tương đương với
các kết quả thu được ở các tỉnh miền núi phía Bắc điều tra năm 2004 và cũng sấp
xỉ với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
Về phân bố tỷ lệ bệnh theo độ tuổi của học sinh thì ở HS 7 tuổi (học lớp 1 )
mắc bệnh răng miệng chiếm tỷ lệ cao nhất 27,72% (sâu răng là 23,86%, viêm lợi
3,86%), mức độ mắc bệnh giảm dần theo tuổi, tỷ lệ mắc thấp nhất là 11 tuổi
12,98% (bảng 3.8). Theo các lứa tuổi (từ 7-11 tuổi) thì tỷ lệ sâu răng cao 62,75%,
tỷ lệ viêm lợi 8,5%. Điều này tương đối phù hợp với sự phát triển trí tuệ của trẻ,
trẻ càng lớn thì việc thực hành vệ sinh răng miệng càng tốt vì có kiến thức và thái
độ tốt để phòng bệnh; hơn nữa trong lứa tuổi 10-11 thì chủ yếu là răng vĩnh viễn
đã phát triển nên những tổn thương do sâu ở răng vĩnh viễn thấp hơn răng sữa,
sức chịu đựng của răng vĩnh viễn tốt hơn răng sữa. Theo nhiên cứu của Nguyễn
Thị Thu Hương tại Thái Nguyên (2003) thì tỷ lệ sâu răng ở 7 tuổi chiếm 25,5%
và ở tuổi 11 là 13% [9] . Theo báo cáo bệnh răng miệng của Viện Răng Hàm Mặt
(2004) tỷ lệ sâu răng ở 7 tuổi là 24,8%, 11 tuổi 15%. Tỷ lệ sâu răng xuất hiện ở
HS nam 45,61%, cao hơn HS nữ 42,46% (bảng 3.9), đối với bệnh viêm lợi thì tỷ
lệ mắc bệnh ở nam cũng cao hơn nữ (nam 6,32%, nữ 5,61%) các nghiên cứu khác
cũng giống với kết quả của nghiên cứu này [39], [40].
* Tổn thương do sâu răng theo loại răng
Răng sữa
Bảng 3.10 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh răng miệng ở học sinh răng sữa chiếm tỷ lệ
cao 73,68%, đối với răng vĩnh viễn 26,32%, trong đó sâu răng sữa chiếm 64,91% ,
viêm lợi ở răng sữa chiếm 8,77% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ
này thấp hơn so với nghiên cứu tại Bắc Cạn năm 2002 của Nguyễn Lê Thanh đưa ra ở
HS lứa tuổi 9-11 có tỷ lệ sâu răng sữa là 79,7%, và viêm lợi ở răng sữa là 25,67%
[22]. Do răng sữa có sức chịu đựng với các tác nhân gây tổn thương kém hơn răng
vĩnh viễn đặc biệt với các chất hoá học và vi khuẩn nên tỷ lệ sâu răng và mắc các
bệnh răng miệng đối với những học sinh đang có răng sữa cao hơn HS đã có răng
vĩnh viễn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Tỷ lệ sâu răng sữa trong nghiên cứu này cao hơn nghiên cứu của Đào Thị Ngọc
Lan năm 2002 là 63% [18]. Nhưng so với các nghiên cứu khác tỷ lệ sâu răng sữa của
nghiên cứu này thấp hơn tỷ lệ sâu răng sữa của học sinh 6 tuổi của Dương Thị Truyền
tại thị xã Long Xuyên, An Giang sâu răng sữa là 83,7%, của Nguyễn Hoàng Anh tại
Long An 92% , của Viện RHM trẻ em 6 tuổi trên toàn quốc 83,70%, trẻ em vùng
đồng bằng sông Cửu Long 97,5% [31], [24],[25].
Răng vĩnh viễn
Tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn của HS 2 trường là 23,16%. Tỷ lệ sâu răng này thấp
hơn điều tra toàn quốc năm 2003 của Viện RHM Hà Nội HS 6 đến 8 tuổi tỷ lệ sâu
răng vĩnh viễn là 25,4%. Cao hơn so với điều tra của Viện RHM năm 1995 ở Miền
Bắc lứa tuổi 7-11 có tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 18,2%; Trong điều kiện hiện nay bệnh
sâu răng bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như tình trạng kinh tế xã hội tăng, chế độ
ăn uống thay đổi, chế độ ăn nhiều đường sữa bánh kẹo. Trên Thế giới hiện nay tỷ lệ
sâu răng đang có xu hướng tăng lên nhất ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ bệnh sâu
răng ở nước ta hiện nay cũng phù hợp với đánh giá trên.
Nghĩa Lộ và Nậm Búng là 2 vùng khác nhau của một huyện. Nghĩa Lộ thuộc
vùng thấp và là trung tâm của huyện các điều kiện về kinh tế cũng như xã hội phát
triển hơn Nậm Búng, dân tộc chủ yếu là người Kinh sinh sống. Ngược lại với Nậm
Búng là một xã vùng cao điều kiện kinh tế, xã hội và các mặt khác đều kém phát triển.
Tuy nhiên trong nghiên cứu này thì tỷ lệ HS mắc bệnh răng miệng ở Nậm Búng thấp
hơn Nghĩa Lộ; ở Nghĩa Lộ tỷ lệ mắc sâu răng là 77,07%, Nậm búng tỷ lệ mắc bệnh
sâu răng chiếm 47,69%. Do điều kiện kinh tế khó khăn của các gia đình học sinh nên
học sinh ở Nậm búng không có hoặc hạn chế được thói quen ăn vặt một yếu tố liên
quan chặc chẽ với bệnh răng miệng đặc biệt là bệnh sâu răng. ở Nghĩa Lộ , học sinh
luôn bị tác động bởi nhiều yếu tố về môi trường ăn vặt ( ăn kẹo, bánh ngọt, sữa…) và
thực hành vệ sinh răng miệng của HS có nhiều hạn chế nên tỷ lệ sâu răng cao hơn ở
Nậm Búng. Theo nghiên cứu của Đào Thị Ngọc Lan (2002) tại các huyện ở tỉnh Yên
Bái thì tỷ lệ mắc sâu răng ở HS vùng cao thấp hơn ở vùng thấp (vùng cao tỷ lệ sâu
răng là 45% nhưng ở vùng thấp, thành phố thì tỷ lệ sâu răng là 56%) [18].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
Chỉ số smt ( sâu - mất - trám răng sữa) ở nghiên cứu này là 2,68, thấp hơn
so với chỉ số sâu, mất, trám răng sữa các tỉnh miền núi phía Bắc năm 2006 là 4,31
(bảng 3.11) Chỉ số răng sâu đối với răng sữa là 2,56 nhưng chỉ số răng hàn và
răng mất rất thấp (0,02), điều đó chứng tỏ rằng việc chăm sóc và điều trị bệnh
răng miệng cho HS ở đây rất ít và hầu như chưa được can thiệp gì. Kết quả này
cùng giống như Nguyễn Thị Bạch Yến và cộng sự nghiên cứu ở trường tiểu học
Tràng An, Hà Nội, chỉ smt là 3,09, số răng cần điều trị khá cao trong khi số răng
đã được điều trị còn quá thấp 0,03 [41].
So với điều tra toàn quốc năm 2007, chỉ số smt là 4,1 ở Hà Giang 4,68, ở
Yên Bái (2007) 3,85. Như vậy, chỉ số smt ở học sinh tiểu học còn tương đối cao ,
chỉ số răng được điều trị thấp, tuy nhiên ở Yên Bái chỉ số này thấp hơn ở các tỉnh
khác, ở thành phố Hà Nội là 3,34, thành phố Hồ Chí Minh là 3,89 [25],[28].
Điều này nói lên việc phát hiện và điều trị sớm cho hàm răng sữa của trẻ em còn
chưa được quan tâm ở tất cả các dân tộc, kể cả người Kinh. Có thể do nhận thức
của cha mẹ cho rằng răng sữa là răng tạm thời, thời gian tồn tại ngắn, đến tuổi sẽ
thay nên không cần chữa. Mặt khác có một thực tế là ở địa phương, do thiếu thầy
thuốc chuyên khoa, thiếu trang thiết bị máy móc, nên ở ngay trung tâm tỉnh
(thành phố), việc chữa răng cho trẻ em cũng còn hạn chế.
Qua các nghiên cứu cho chúng ta biết nhu cầu điều trị cho các em học sinh
về bệnh răng miệng rất lớn để đảm bảo học tập cũng như sức khoẻ của học sinh.
Chỉ số SMT răng vĩnh viễn trong nghiên cứu này tương đối thấp 0,37, vì các em
học sinh ở cả 2 khu vực đã có ý thức giữ gìn và vệ sinh răng miệng tốt nên chỉ số
răng sâu, mất, trám đối với răng vĩnh viễn là 0,37, tương đương với điều tra bệnh
răng miệng toàn quốc năm 2005, chỉ số SMT răng vĩnh viễn là 0,4. Chỉ số điều trị
(hàn răng sâu) thấp 0,02. Nghiên cứu của Ngô Đồng Khanh, Vũ Thị Kiều Diễm
và cộng sự điều tra kiến thức, thái độ, thực hành của người dân tại Thành phố Hồ
Chí Minh năm 1990 cho biết có 70,80% người chưa bao giờ đi đến phòng răng,
dù c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19LV_09_YDUOC_YHOCDUPHONG_NGUYEN NGOC NGHIA.pdf