Luận văn Nghiên cứu những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN: Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, vốn FDI là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của bất kỳ một quốc gia hoặc một địa phương nào. Đối với nước ta, một nước đang trong quá trình CNH, HĐH, chuyển đổi và hội nhập kinh tế, với mục tiêu phát triển kinh tế rất cao, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, trong đó vốn FDI có vai trò đặc biệt quan trọng. Dưới góc độ của quốc gia hay một địa phương tiếp nhận vốn, FDI có mục tiêu và tác động đa chiều. Ngoài tác động phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, qua các hoạt động FDI còn tạo cơ hội tiếp nhận kỹ thuật sản xuất, kinh nghiệm kinh doanh, các sáng chế, phát minh, bí quyết công nghệ, năng lực quản lý, điều hành, giúp các chủ thể trong nước và nền kinh tế nói chung đẩy nhanh quá trình phát triển những ngành nghề có kỹ thuật, công nghệ mới, góp phần ...

pdf109 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay, vốn FDI là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của bất kỳ một quốc gia hoặc một địa phương nào. Đối với nước ta, một nước đang trong quá trình CNH, HĐH, chuyển đổi và hội nhập kinh tế, với mục tiêu phát triển kinh tế rất cao, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, trong đó vốn FDI có vai trò đặc biệt quan trọng. Dưới góc độ của quốc gia hay một địa phương tiếp nhận vốn, FDI có mục tiêu và tác động đa chiều. Ngoài tác động phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, qua các hoạt động FDI còn tạo cơ hội tiếp nhận kỹ thuật sản xuất, kinh nghiệm kinh doanh, các sáng chế, phát minh, bí quyết công nghệ, năng lực quản lý, điều hành, giúp các chủ thể trong nước và nền kinh tế nói chung đẩy nhanh quá trình phát triển những ngành nghề có kỹ thuật, công nghệ mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng nhanh. FDI còn góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu, góp phần vào việc lành mạnh hoá các cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Ngay từ khi bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, vấn đề thu hút vốn FDI đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú ý và đã có nhiều biện pháp tích cực, đổi mới liên tục nhằm thu hút ngày càng nhiều và ngày càng có chất lượng nguồn vốn quan trọng này. Đối với Đà Nẵng, một thành phố được tái lập chưa lâu như một thành phố trực thuộc Trung ương, nằm ở vị trí chiến lược của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với nhiều lợi thế, tiềm năng chưa được khai thác đúng mức, đầu tư FDI lại càng có vai trò quan trọng. Nghị quyết các Đại hội Đảng, từ Đại hội VI đến Đại hội X đều khẳng định rằng, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Thu hút vốn FDI là chủ trương quan trọng của Đà Nẵng, có tác dụng khai thác nguồn lực vốn ngoài nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, làm đòn bẩy khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển bền vững cho kinh tế thành phố Đà Nẵng nói riêng và cả vùng kinh tế trọng điểm nói chung. Thực tế 20 năm đổi mới vừa qua, nhất là 10 năm gần đây cho thấy, với chính sách thu hút ngày càng cởi mở và minh bạch, vốn FDI đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế ở nước ta nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. FDI đã có đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo trên quy mô toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Tuy nhiên, ở Đà Nẵng, các biện pháp thu hút vốn FDI thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém, hạn chế. Kết quả là tốc độ tăng vốn FDI chưa đạt như mong đợi. Số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu môi trường đầu tư, số dự án đăng ký dự định đầu tư khá nhiều nhưng số dự án đầu tư được cấp phép và đi vào hoạt động vẫn còn thấp, số vốn thực sự đầu tư còn thấp về số lượng. Cơ cấu đầu tư chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, nhu cầu CNH, HĐH của thành phố với tư cách là thành phố trọng điểm của miền Trung và đầu mối quan trọng của hành lang kinh tế Đông - Tây. Ngoài những nguyên nhân khách quan như điều kiện tự nhiên không thuận lợi, thị trường nhỏ hẹp, sức mua yếu, chi phí vận chuyển bằng đường biển cao, thời gian vận chuyển lớn, nguồn nguyên liệu và các ngành công nghiệp phụ trợ còn thiếu và yếu, chất lượng kém, cơ chế chính sách của Trung ương còn bất cập…, những nguyên nhân chủ quan từ phía chính quyền Đà Nẵng cũng đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến thu hút vốn FDI trên địa bàn. Tình hình đó đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để tăng cường thu hút vốn FDI có hiệu quả hơn, xem đó là vấn đề quan trọng, đột phá để phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2006 - 2010 và các giai đoạn tiếp theo. Đó là lý do đề tài: “Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay” được chọn làm luận văn thạc sĩ của tác giả. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu về FDI nói chung cũng như những giải pháp thu hút FDI nói riêng. Sau đây là những công trình tiêu biểu: - “Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam”, Nguyễn Huy Thám, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999. - “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, Phan Minh Thành, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. - “Hoàn thiện Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Văn Hùng, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002. - “Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng”, Ngô Quang Vinh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2003. - “Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Đề tài KH-CN cấp nhà nước KX01.05, GS.TS Nguyễn Bích Đạt, Hà Nội, 2004. - “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Bình Dương - Thực trạng và giải pháp”, Bùi Thị Dung, Luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề vốn FDI với những cách tiếp cận và giải quyết ở những khía cạnh khác nhau của vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh của đầu tư FDI như tác động của FDI; vị trí, vai trò của FDI; quản lý nhà nước đối với khu vực này; các biện pháp thu hút FDI phục vụ phát triển kinh tế… Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về những giải pháp thu hút vốn FDI trong điều kiện cụ thể của Đà Nẵng. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hoá có cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách thu hút vốn FDI đối với các vùng, địa phương, đánh giá thực trạng và tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của FDI, làm rõ vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế đối với các vùng, địa phương. - Phân tích thực trạng đầu tư và đánh giá chính sách thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng thời gian từ năm 1997 đến 2006 - Luận chứng những giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng trong thời gian tới 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biện pháp chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng. Các biện pháp này bao gồm 2 bộ phận: bộ phận triển khai thực hiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung ương; bộ phận thực hiện gồm các biện pháp của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp về chính sách. Góc độ tiếp cận của luận văn chủ yếu là khảo sát các giải pháp của Nhà nước. 4.2. Đối tượng khảo sát của luận văn Khảo sát các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng như là đối tượng tác động (kết quả) của các biện pháp chính sách. Ngoài ra, luận văn khảo sát hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền Đà Nẵng. 4.3. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: thời gian nghiên cứu giới hạn từ năm 1997 đến nay. Những giải pháp và kiến nghị được đề xuất cho giai đoạn tương lai đến khoảng 2010. Về không gian: giới hạn trong phạm vi các hoạt động FDI tại Đà Nẵng. Để nghiên cứu so sánh, có mở rộng không gian khảo sát ở những chỗ cần thiết. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; các thành tựu khoa học trong kinh tế nói chung và trong lĩnh vực chính sách FDI nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là: phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hoá; kết hợp nghiên cứu lí luận với tổng kết thực tiễn, lấy ý kiến chuyên gia, nghiên cứu tài liệu. 6. Những đóng góp của luận văn - Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng, đánh giá các biện pháp chính sách đã thực hiện ở Đà Nẵng, tìm ra những bài học thành công và nguyên nhân không thành công trong thực hiện chính sách thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng. - Một số giải pháp đặc thù đề xuất được luận chứng với khả năng đóng góp làm tăng thu hút vốn FDI ở Đà Nẵng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được trình bày trong 3 chương, 10 tiết. Chương 1 SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 1.1. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày nay đã trở thành hình thức đầu tư phổ biến và đã được định nghĩa bởi các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia. FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư của một nền kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để sở hữu hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế khác [20, tr.14]. FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi [48, tr.30-31]. Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng có định nghĩa về FDI như sau: Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư [28, tr.8]. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư [28, tr.8]. Như vậy, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt động bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với điều kiện họ phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó. Xét về bản chất FDI khác (đối lập) với đầu tư gián tiếp nước ngoài; đồng thời FDI là đầu tư thuộc kênh tư nhân, khác hẳn với đầu tư tài trợ (ODA) của Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế. 1.1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư. Thứ hai, được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp. Thứ ba, nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Thứ tư, là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao. Thứ năm, nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của dòng vốn đầu tư. Thứ sáu, FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó. Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của nền kinh tế. 1.1.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân biệt các hình thức FDI. Có thể hiểu hình thức đầu tư FDI là cách nhà đầu tư ở một số nước chuyển đổi quyền sở hữu vốn (tiền hoặc bất kỳ tài sản nào) thành quyền sở hữu và quản lý hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế ở một nước khác. Như vậy, hình thức FDI được xem như là các cách thức thực hiện những kênh đưa vốn bên ngoài vào nước tiếp nhận đầu tư, và nó phụ thuộc chủ yếu vào các chính sách, định hướng thu hút FDI của nước chủ nhà. Ngày nay, trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, FDI được thực hiện thông qua hai kênh chủ yếu: i) đầu tư mới và mở rộng (GI); ii) mua lại và sáp nhập ( cross-border M & As). GI là kênh đầu tư mà các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước tiếp nhận vốn thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô doanh nghiệp đã đầu tư từ trước. Hình thức này bổ sung ngay một lượng vốn đầu tư nhất định cho nước nhận đầu tư, do vậy có hiệu ứng rõ rệt tạo việc làm và trực tiếp tác động đến thay đổi cơ cấu ngành kinh tế thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô, qua đó, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư của các nước phát triển đầu tư vào các nước đang hoặc kém phát triển. Cross-border M & As là kênh đầu tư mà các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài hoặc mua cổ phần của các công ty cổ phần. Hình thức này chủ yếu là chuyển sở hữu của các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà sang sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Về lâu dài, hình thức M & As sẽ thu hút được nguồn vốn từ bên ngoài do mở rộng qui mô hoạt động của doanh nghiệp. Kênh đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, các nước mới công nghiệp hóa, đặc biệt là trong những lĩnh vực công nghệ cao và có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây. Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng đã thừa nhận và pháp lý hoá kênh đầu tư này ở Việt Nam. Tuy nhiên, hình thức đầu tư này vẫn chưa phổ biến ở nước ta do đây là kênh đầu tư FDI mới, nhà đầu tư còn dè chừng; hơn nữa, Nhà nước vẫn hạn chế về tỷ lệ cổ phần của người nước ngoài trong các công ty cổ phần trong nước. Như vậy, nếu chỉ thu hút FDI theo kênh GI thì không đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế ngày nay, sẽ làm hạn chế khả năng thu hút FDI vào nước ta. Tương lai, với chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, M & As sẽ là kênh đầu tư quan trọng của FDI ở Việt Nam [31, tr.37]. Với hai kênh đầu tư chính như đã nêu trên, tùy theo mức độ nắm giữ quyền quản lý, sẽ có các hình thức đầu tư khác nhau. Những hình thức đầu tư này được quy định bởi thể chế pháp luật về đầu tư, làm cơ sở để các nhà đầu tư triển khai các hoạt động đưa vốn vào và thực hiện các biện pháp quản lý của họ. Luật Đầu tư 2005 đã quy định 5 hình thức FDI cơ bản ở Việt Nam [28, tr.22]. Các hình thức này cũng đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Sau đây sẽ trình bày 5 hình thức này. a. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền thống và phổ biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình thức này phổ biến ở quy mô đầu tư nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối với các dự án quy mô lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một công ty con của công ty mẹ xuyên quốc gia. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới hình thức này, theo Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần… [26, tr.358]. Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được đối tác đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận. b. Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay. Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu thu hút FDI. DNLD là doanh nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên nước chủ nhà với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở tại [31, tr.42]. Như vậy, hình thức DNLD tạo nên pháp nhân đồng sở hữu nhưng địa điểm đầu tư phải ở nước sở tại. Hiệu quả hoạt động của DNLD phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh của nước sở tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn thiện pháp luật, trình độ của các đối tác liên doanh của nước sở tại... Hình thức DNLD có những ưu điểm là góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế nhưng lại được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm; tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc kiểm soát được đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị trường mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ xuất hiện mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn thấp, năng lực, trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong DNLD yếu. c. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân [28, tr.10]. Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước sở tại không tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý; công nghệ thường lạc hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời như thăm dò dầu khí. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân riêng và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại. Do đó, về phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC. Tuy nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các nước đang phát triển bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn hoặc liên doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh. d. Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT BOT là hình thức đầu tư được thực hiện theo hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam [28, tr.11]. BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình đầu tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự. Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết phải là Nhà nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc đến thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước. Ưu điểm của hình thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết cấu hạ tầng, đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm áp lực vốn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển giao có được những công trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn lực khác để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có nhược điểm là độ rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách; nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ. e. Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As đã nêu ở trên. Khi thị trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được khai thông, nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này. Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu tư nước ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán nước sở tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi tỷ lệ sở hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Luật pháp Hoa Kỳ và nhiều nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tỷ lệ này được quy định là 30%. Hình thức mua cổ phần hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm cơ bản là để thu hút vốn và có thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động của những doanh nghiệp bên bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây tác động đến sự ổn định của thị trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây là hình thức giúp họ đa dạng hoá hoạt động đầu tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và thường bị ràng buộc, hạn chế từ phía nước chủ nhà. 1.1.3. Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển (nước tiếp nhận đầu tư) FDI tác động rất lớn, trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia, tác động đến mọi mặt của đời sống về kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị của nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó, về kinh tế, FDI tác động đến tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cán cân thanh toán, thu nhập của người lao động và các chỉ tiêu kinh tế khác. Để phục vụ cho việc luận chứng các chính sách thu hút FDI, người ta thường nhìn nhận các tác động kinh tế này thành hai nhóm: tác động tích cực và tác động tiêu cực. 1.1.3.1. Những tác động tích cực Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Một nền kinh tế đang phát triển, nếu có nguồn vốn đầu tư càng cao thì tăng trưởng sẽ càng cao. Vốn đầu tư hình thành từ nguồn vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn vay thương mại, đầu tư gián tiếp và FDI. Các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn và FDI là một trong những nguồn vốn rất quan trọng. Vốn FDI có nhiều lợi thế vì không tạo ra khoản nợ giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, khi dự án tạo ra lợi nhuận thì được chuyển về nước và một phần được dùng để tái đầu tư, có tính ổn định cao hơn so với các khoản đầu tư khác. Thứ hai, FDI góp phần vào sự phát triển công nghệ, kỹ thuật mới, góp phần cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng. Đồng thời, FDI tạo nền tảng vững chắc về khoa học và công nghệ để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Các nước đang phát triển có đặc điểm là sử dụng công nghệ lạc hậu, do đó năng suất lao động thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh sản phẩm yếu. Xét về nhu cầu, cần có quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Có hai hình thức chuyển giao công nghệ là trực tiếp và gián tiếp, trong đó FDI là hình thức chuyển giao công nghệ trực tiếp và có hiệu quả nhất. Bằng hình thức này, công nghệ được các công ty nước ngoài chuyển giao trực tiếp cả phần cứng (máy móc, thiết bị) lẫn phần mềm là bí quyết công nghệ. Đây là ưu điểm của chuyển giao công nghệ bằng con đường FDI so với các hình thức chuyển giao công nghệ khác. Việc tiếp nhận công nghệ từ chủ đầu tư sẽ giúp các doanh nghiệp FDI trong nước tiếp cận với công nghệ từ công ty mẹ, đồng thời rút ngắn khoảng cách công nghệ giữa nước đang phát triển với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới. Thứ ba, FDI góp phần giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các dự án FDI mới tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, và thông qua việc thực hiện các dự án đó, làm thay đổi cơ cấu lao động, nâng cao năng lực, kỹ năng lao động, năng lực quản lý doanh nghiệp, tác phong công nghiệp, phù hợp với nền sản xuất hiện đại. Như trên đã nói, FDI luôn gắn liền với chuyển giao công nghệ mới so với công nghệ trong nước, cho nên lao động của nước tiếp nhận đầu tư được đào tạo để sử dụng và quản lý công nghệ, tiếp cận với phương pháp quản lý chất lượng, tổ chức và quản lý công nghệ, biện pháp tiếp thị, tiếp cận với các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Thông qua đó, trình độ và kỹ năng của người lao động trong nước được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc tạo ra việc làm trực tiếp, FDI còn gián tiếp tạo ra nhiều việc làm thông qua những ngành công nghiệp phụ trợ như cung cấp nhiên, nguyên, vật liệu, dịch vụ phục vụ cho các doanh nghiệp FDI và các nhà đầu tư nước ngoài. Các hoạt động công nghiệp phụ trợ này cũng đòi hỏi chất lượng cao, tổ chức tốt, do đó có tác dụng nâng cao trình độ, kỹ năng sản xuất và kinh doanh ở các ngành công nghiệp phụ trợ. Thứ tư, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Thực vậy, hoạt động FDI chủ yếu phát triển ở các ngành công nghiệp, dịch vụ mới, do đó có tác động lớn đến cơ cấu ngành kinh tế, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại của nước tiếp nhận đầu tư. Thực tiễn cho thấy, FDI ở Việt Nam cũng tập trung vào hai ngành chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ, ít đầu tư vào nông nghiệp, do đó, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp FDI về lĩnh vực sản xuất chủ yếu là sản xuất hàng hóa xuất khẩu, do vậy góp phần tăng năng lực xuất khẩu. Đồng thời, thông qua các chi nhánh của các công ty nước ngoài hoặc các công ty xuyên quốc gia để mở rộng thị trường xuất khẩu. Hầu hết các nước đang phát triển đều nhập khẩu máy móc thiết bị và xuất khẩu các sản phẩm thô, do đó cán cân thương mại thường thâm hụt, mất cân đối trong cán cân thanh toán. FDI góp phần làm tăng thu ngoại tệ, góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng và cạnh tranh rất quyết liệt, đầu tư là một trong những lĩnh vực được các quốc gia cam kết tự do hóa. FDI làm cho sự phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu, những cam kết về tự do hóa FDI được coi như là những quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế của từng quốc gia. 1.1.3.2. Những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, FDI còn có những tác động tiêu cực đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau đây là những tác động tiêu cực mang tính phổ biến: - Đối với các nền kinh tế có quy mô thị trường nhất định, các nhà đầu tư nước ngoài, sau một thời gian hoạt động, có khả năng sẽ kiểm soát thị trường địa phương, như vậy làm suy yếu các doanh nghiệp trong nước, làm cho nền kinh tế của nước nhận đầu tư ngày càng phụ thuộc vào các nhà sản xuất nước ngoài. Ngày nay, trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế, tác động này có xu hướng ngày càng mạnh nhưng các nước tiếp nhận đầu tư cũng đã có đối sách thích hợp nhằm hạn chế tác động này. - Về chuyển giao công nghệ, FDI có khả năng chuyển giao các công nghệ lạc hậu sang các nước đang phát triển, biến các nước tiếp nhận đầu tư thành "bãi thải công nghệ". Mặt khác, có một số công ty xuyên quốc gia lại chuyển giao những công nghệ quá hiện đại, không thích hợp với trình độ, tay nghề nhân lực của nước nhận đầu tư. - Lợi nhuận của các doanh nghiệp FDI có xu hướng chuyển ra nước ngoài, do vậy FDI tuy tác động đẩy mạnh tăng trưởng ngắn hạn và trung hạn nhưng có khả năng làm giảm tiềm lực tăng trưởng dài hạn. - Tạo nên những vấn đề phức tạp mới trong quản lý như biến động thị trường ngoại hối, trốn thuế thông qua chuyển giá, tăng mức độ gây ô nhiễm môi trường... - Làm tăng các vấn đề xã hội mới như phân hoá xã hội, giàu nghèo, nạn "chảy máu chất xám" trong nội bộ nền kinh tế... 1.1.4. Xu hướng của FDI hiện nay trên thế giới Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thương mại thế giới, FDI của thế giới trong những năm gần đây cũng có nhiều biến động. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các xu hướng này [20]. Toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng thúc đẩy sự phát triển các luồng vốn FDI nhằm tối đa hóa lợi nhuận của vốn đầu tư thông qua di chuyển sản xuất, kinh doanh đến địa điểm có lợi nhất về chi phí và tiêu thụ, trở thành một hình thái quan trọng trong hoạt động đầu tư quốc tế của các quốc gia trên thế giới. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng tăng lên trong quá trình phân bổ và di chuyển các dòng vốn FDI trên thế giới. Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng vẫn còn rất nhỏ bé. Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau ngày càng cao. Quá trình luân chuyển FDI giữa các đối tác tham gia quá trình luân chuyển này vừa có tính quốc tế hóa, vừa có tính cục bộ hóa. Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Về xu hướng ngắn hạn gần đây, có thể thấy rõ, năm 2005 là năm thứ hai liên tiếp FDI thế giới tăng trưởng, và đó là một hiện tượng mang tính toàn cầu. Theo báo cáo của UNCTAD [58], FDI thế giới năm 2005 tăng 29%, đạt 916 tỷ USD (năm 2004 tăng 27%). Dòng vào FDI tăng trưởng ở hầu hết các khu vực, trong đó một số vùng có sự tăng trưởng chưa từng có trước đây, và ở 126 trong số 200 nền kinh tế được kiểm soát bởi UNCTAD. Tuy nhiên, dòng chảy FDI thế giới còn cách xa đỉnh điểm đạt được vào năm 2000 với 1.400 tỷ USD là năm có nhiều cuộc đầu tư lớn thông qua hình thức M & As. Sự bùng nổ trong FDI chủ yếu do sự gia tăng của hình thức đầu tư M & As, đặc biệt ở các nước phát triển. Xu hướng FDI thế giới cũng cho thấy sự xuất hiện ngày càng nhiều các nền kinh tế có FDI lớn, vốn trước đây là các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Năm 2005, FDI tiếp tục mở rộng nhanh chóng. Các nước phát triển vẫn là những nước đầu tư, đồng thời là nước tiếp nhận FDI nhiều nhất. Các nước này tiếp nhận khoảng 542 tỷ USD, tăng 37% so với năm 2004; trong khi đó, các nước đang phát triển, FDI gia tăng ở mức kỷ lục, đạt 334 tỷ USD. Xét về tỷ lệ phần trăm, các nước phát triển chiếm 59% tổng dòng FDI của thế giới. Các nước đang phát triển chiếm 36%, và các nước khu vực Đông – Nam Châu Âu và các quốc gia thuộc khối thịnh vượng chung (CIS) chiếm khoảng 4% [58]. Vương quốc Anh là nước tiếp nhận đầu tư lớn nhất thế giới trong năm 2005 với 165 tỷ USD. Mặc dù có giảm về mức độ tiếp nhận FDI nhưng Hoa Kỳ vẫn là nước đứng thứ nhì. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, so với năm 2004, danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ tiếp nhận FDI lớn nhất vẫn không thay đổi: Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) đứng đầu, tiếp theo là Singapore, Mexico và Brazil. Tính theo khu vực, EU với 25 thành viên là địa điểm hấp dẫn đầu tư nhất, với dòng đầu tư vào năm 2005 đạt 422 tỷ USD, gần bằng 50% tổng dòng vào FDI thế giới. Các nước khu vực Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á tiếp nhận 165 tỷ USD, vào khoảng 1/5 toàn thế giới, trong đó Đông Á chiếm 3/4 của khu vực. Tiếp theo là Bắc Mỹ với 133 tỷ USD, và Trung, Nam Mỹ với 65 tỷ USD. Khu vực Tây Á có mức tiếp nhận không cao nhưng lại đạt tỷ lệ tăng trưởng FDI cao nhất với 85%, vào khoảng 34 tỷ USD. Châu Phi đạt 31 tỷ USD, cũng là mức lớn nhất từ trước đến nay [58]. Xét về chủ đầu tư, năm 2005, dòng FDI đầu tư của thế giới khoảng 779 tỷ USD. Các nước phát triển vẫn đứng đầu về đầu tư ra nước ngoài. Năm 2005, nếu trừ Hoa Kỳ thì Hà Lan đứng đầu, với 119 tỷ USD, tiếp theo là Pháp và Vương Quốc Anh. Tuy vậy, dòng đầu tư ra nước ngoài tăng đáng kể ở các nền kinh tế đang phát triển. Dẫn đầu nhóm này là Hồng Kông (Trung Quốc) với 33 tỷ USD. Thật sự, vai trò của các nền kinh tế đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi đối với hoạt động FDI được tăng lên. Từ chỗ có dòng đầu tư ra FDI không đáng kể và rất nhỏ bé ở những năm 80, đến nay dòng ra FDI ở các nền kinh tế này đạt 133 tỷ USD (năm 2005), tương đương khoảng 17% tổng dòng FDI đầu tư ra nước ngoài của thế giới [58]. Xu hướng năm 2005 cũng cho thấy, hình thức M & As được thúc đẩy mạnh mẽ bởi sự giao dịch cũng như thực hiện của các quỹ đầu tư tập thể, đặc biệt ở các nước phát triển, đã thúc đẩy sự gia tăng FDI trong thời gian gần đây. Giá trị đầu tư thông qua hình thức M & As tăng 88% so với năm 2004, đạt 716 tỷ USD. Về lĩnh vực đầu tư, hầu hết dòng vào của FDI chủ yếu là ngành dịch vụ nhưng sự tăng đột biến của FDI là ở lĩnh vực khai thác các nguồn lực tự nhiên. Các dịch vụ đạt thành quả đáng kể trong thu hút FDI là tài chính, viễn thông và bất động sản. Một xu hướng đáng lưu ý nữa là sự gia tăng đầu tư FDI của các công ty xuyên quốc gia. Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia cấu trúc dạng tập đoàn ở các nền kinh tế đang phát triển ngày càng gia tăng đáng kể. Các tập đoàn này bao gồm các công ty mẹ và các công ty con của chúng ở các nước trên thế giới. Công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở nước sở hữu hơn là ở nước ngoài. Công ty con là các công ty hoạt động ở nước ngoài dưới sự quản lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi nhánh ở nước ngoài. Có các loại công ty con dưới đây: * Phụ thuộc (subsidiary): chủ đầu tư (thuộc công ty mẹ) sở hữu hơn 50% tổng tài sản của công ty. Họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên bộ máy tổ chức và quản lý điều hành của công ty. * Liên kết (associate): chủ đầu tư sở hữu 10%-50% công ty, tỷ lệ này chưa đủ để có quyền hạn như trường hợp công ty phụ thuộc [3, tr.54]. Các nước công nghiệp phát triển OECD vẫn là các nước có ảnh hưởng quyết định đối với sự phát triển của FDI ở các nước. Đã từ lâu, bộ ba kinh tế EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những nhà đầu tư ra nước ngoài và là nơi tiếp nhận vốn FDI lớn nhất thế giới [58]. 1.1.5. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Đà Nẵng Từ ngày 1/1/1997, Đà Nẵng đã trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, tạo cơ hội và khả năng mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Trong những năm qua, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và thực hiện chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu của thành phố. Xét về tổng thể, FDI là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển của thành phố, giải quyết một phần nhu cầu thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng của thành phố. Đối với một số ngành trọng điểm, FDI còn có vai trò là nguồn vốn quyết định đến quy mô và tốc độ phát triển ngành. FDI còn góp phần tăng trưởng kinh tế, là bộ phận đóng góp chủ yếu cho ngân sách thành phố, góp phần đáng kể giải quyết việc làm, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI có thu nhập bình quân tương đối cao và ổn định. FDI còn có vai trò làm cho nền kinh tế thành phố thâm nhập vào thị trường quốc tế, các doanh nghiệp địa phương buộc phải thích ứng để tồn tại và phát triển, đồng thời phải có các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên tất cả các mặt liên quan đến sản xuất kinh doanh, như vậy làm cho kinh tế thành phố nói chung năng động hơn, có sức cạnh tranh tốt hơn. Các doanh nghiệp có vốn FDI góp phần nâng cao trình độ và tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật cao. Đến nay, các dự án FDI trên địa bàn thành phố giải quyết việc làm cho gần 25.000 lao động trực tiếp và hàng chục ngàn lao động thời vụ khác. Cơ cấu vốn FDI phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố từ nay đến năm 2010 là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp theo đúng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Mặt khác, FDI còn góp phần vào việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên của thành phố một cách hiệu quả. 1.2. NHU CẦU THU HÚT VỐN VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 1.2.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng từ 2006 đến 2010 1.2.1.1. Điều kiện, vị trí của Đà Nẵng Đà Nẵng là thành phố được phát triển mạnh từ thời Pháp thuộc, trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ 1/1/1997. Đà Nẵng có diện tích tự nhiên 1.256,4 km2, dân số năm 2005 là 779.017 người. Đà Nẵng hiện nay có 6 quận và 2 huyện (huyện Hoà Vang và huyện đảo Hoàng Sa). Phía Bắc giáp với tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Nam và phía Tây giáp với tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp với biển Đông. Đà Nẵng là đầu mối quan trọng của hệ thống giao thông vận tải quốc gia bao gồm đường bộ, đường không và đường biển. Đà Nẵng nằm ở vị trí trung tâm của cả nước, có mối giao lưu kinh tế, văn hoá mật thiết với các trung tâm lớn ở hai miền là thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, cách khu kinh tế Dung Quất (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) 120 km và khu kinh tế mở Chu Lai (thuộc tỉnh Quảng Nam) 90 km về phía Nam, Đà Nẵng hiện nay và trong tương lai sẽ là đô thị hạt nhân của khu vực. Về bưu chính viễn thông, Đà Nẵng có trạm cáp quang biển gần bờ là cầu nối hệ thống viễn thông quốc tế của Việt Nam với xa lộ thông tin toàn cầu. Đà Nẵng cũng là một trong số các trung tâm giao lưu quốc tế ở Việt Nam, là điểm cuối của hành lang kinh tế Đông – Tây của Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, rất thuận lợi cho việc giao lưu với các địa phương trong nước và các nước láng giềng như Lào, Thái Lan, Myanmar. Nguồn điện cung cấp cho thành phố từ hệ thống điện lưới quốc gia 500KV Bắc – Nam đủ khả năng đáp ứng nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt. Đà Nẵng có hệ thống kết cấu hạ tầng có lợi thế lớn ở miền Trung, được coi là ưu thế trong thu hút vốn FDI. Đà Nẵng là một trong những địa phương có chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất nước, hệ thống giáo dục hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến đại học. Đại học Đà Nẵng là một trong những trường đại học lớn nhất của khu vực miền Trung và cả nước, là nơi đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH Đà Nẵng nói riêng và khu vực miền Trung nói chung. Đà Nẵng cũng có hệ thống các trường dạy nghề rất tốt, đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư trên nhiều lĩnh vực khác nhau. 1.2.1.2. Định hướng chiến lược của Đà Nẵng Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX đề ra: Với yêu cầu phát triển của 10 năm đầu thế kỷ XXI và Tầm nhìn 2020, Đà Nẵng sẽ phát triển thành một trong những đô thị lớn của cả nước với quy mô dân số khoảng 1,5 triệu người; không gian đô thị ngày càng mở rộng. Đà Nẵng sẽ phát huy vai trò là đô thị trung tâm của miền Trung, đầu mối giao thông quan trọng và cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và hành lang Đông – Tây; cùng với Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu kinh tế Dung Quất, đóng vai trò động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng – an ninh của khu vực và cả nước. Trong cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng vào năm 2020, ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng trên 60% GDP. GDP bình quân đầu người đến năm 2020 phấn đấu đạt mức 5000USD/người. Đà Nẵng phấn đấu để trở thành thành phố công nghiệp vào năm 2015 [40, tr.53-54]. a. Mục tiêu chung Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH nêu rõ mục tiêu chung về phát triển thành phố: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài chính - ngân hàng; một trong những trung tâm văn hoá - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước [16, tr.332]. b. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu giai đoạn 2006 - 2010 Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu sau [40]: - Nhịp độ tăng GDP trung bình: 14% - 15%. - GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt: 2.000 USD. - Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp: 22% - 23%. - Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ: 14% - 15%. - Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp: 5% - 6%. - Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân: 23% - 24% /năm. - Thu ngân sách chiếm 22% - 23% GDP. - Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm: 0,03%. - Hàng năm giải quyết thêm việc làm khoảng 3,2 - 3,5 vạn lao động. - Năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn thành phố sẽ giảm xuống còn 0,5%. - Cơ cấu kinh tế đến năm 2010: công nghiệp - xây dựng: 46,7%; dịch vụ: 50,1%; thuỷ sản, nông, lâm nghiệp: 3,2%. c. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng đến năm 2010 Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX đã đề ra định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến 2010, trong đó bao gồm những nội dung chủ yếu sau [40]: - Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị hiện đại, văn minh có môi trường văn hoá - xã hội lành mạnh, phát triển trong thế ổn định và bền vững, giữ vai trò trung tâm của miền Trung và Tây Nguyên với cơ cấu kinh tế công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, thuỷ sản, nông lâm nghiệp, trong mối quan hệ với cả nước, khu vực hành lang Đông - Tây và ASEAN. - Tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp hướng mạnh vào công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng phục vụ cho xuất khẩu, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, từng bước tăng tỷ trọng dịch vụ và du lịch. - Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của thành phố, bảo vệ sức khoẻ và nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. - Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Tạo nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ dân trí. Tăng cường đầu tư công cộng cho khu vực nông thôn, miền núi, vùng xa nhằm làm cho mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng nâng cao. - Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế; đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh; phát huy nội lực, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thông thoáng, để thu hút vốn và công nghệ mới từ bên ngoài, tăng cường giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và quốc tế. - Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển; nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tham mưu chính sách, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp và công nhân kỹ thuật; có chính sách phát triển, sử dụng nhân tài. Coi trọng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới. Phát huy truyền thống văn hoá, dũng cảm, cần cù của nhân dân Đà Nẵng và hoà nhập với các thành phố lớn trong nước và khu vực. - Phát triển kinh tế - xã hội bền vững gắn kết với nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. 1.2.2. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của Đà Nẵng và nhu cầu vốn đầu tư trực tiếp nuớc ngoài 1.2.2.1. Tổng vốn đầu tư phát triển cần thiết cho giai đoạn 2006 - 2010 Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của UBND thành phố trình bày tại Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX nêu rõ: Để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, thành phố Đà Nẵng cần phải có một nguồn vốn đầu tư rất lớn. Để đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 14% - 15%/năm cần huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 63.200 tỷ đồng, bình quân tăng 15,8%/năm (hệ số suất đầu tư ICOR dự kiến là 3,86 lần). Trong đó, nhu cầu vốn đầu tư thời kỳ 2006 - 2010 cho ngành nông nghiệp là 1.303,8 tỷ đồng; ngành công nghiệp, xây dựng là 19.018,9 tỷ đồng và ngành dịch vụ là 42.877,3 tỷ đồng [49]. So sánh với thời kỳ 2001 - 2005, dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển thời kỳ 2006 - 2010 gấp 2,6 lần; trong đó vốn đầu tư phát triển ngành dịch vụ là lớn nhất (bảng 1.1). Bảng 1.1. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển của Đà Nẵng thời kỳ 2001 - 2005 và nhu cầu thời kỳ 2006 - 2010 Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 - 2005 2006 - 2010 Tổng số 23.912,0 63.200,0 Nông nghiệp 493,3 1.303,8 Công nghiệp 7.195,9 19.018,9 Dịch vụ 16.222,8 42.877,3 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. 1.2.2.2. Cân đối các nguồn vốn, nhu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX đã nêu rõ nhu cầu vốn FDI của thành phố như sau: Để thực hiện được mục tiêu đề ra về tổng nguồn vốn đầu tư phát triển nêu trên, thành phố cần tăng cường huy động nhiều nguồn vốn đầu tư theo nhiều hướng khác nhau; vận động các dự án lớn của các Bộ, Ngành Trung ương đầu tư vào thành phố; tranh thủ nguồn vốn vay dài hạn, trả chậm hàng năm của Nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng; đẩy mạnh thu hút vốn FDI, vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Phấn đấu trong 5 năm (2006 - 2010) thu hút vốn FDI đạt 1.640 triệu USD, chiếm 40% tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ này, chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp và du lịch [40, tr.150]. Như vậy, nhu cầu bình quân mỗi năm thành phố phải thu hút vốn FDI là 328 triệu USD. Trong các năm gần đây, Đà Nẵng luôn dẫn đầu miền Trung về thu hút FDI. Tuy nhiên, so với các địa phương ở hai đầu của đất nước, kết quả thu hút FDI vào thành phố Đà Nẵng còn quá khiêm tốn, chưa xứng đáng với tiềm năng và vị thế của thành phố Đà Nẵng. Với khả năng tích lũy vốn nội bộ còn hạn chế như hiện nay thì việc thu hút nguồn vốn FDI cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng trong thời gian tới là một vấn đề quan trọng mang tính chiến lược. 1.3. CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một lĩnh vực hoạt động gắn liền với chủ trương “đổi mới và mở cửa” của Đảng và Nhà nước ta. Qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Nước ta đã kí kết các hiệp định song phương và tham gia các điều ước quốc tế có liên quan đến FDI, bao gồm các cam kết thực hiện điều ước quốc tế, các hiệp định song phương, các cam kết về đầu tư đa phương. Nước ta đã tham gia một số hiệp định đầu tư đa phương như: Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, chương trình hành động về xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ diễn đàn hợp tác Á-Âu - ASEAN và nhất là các qui định của WTO có liên quan đến đầu tư khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Đến nay, khi nước ta trở thành viên chính thức của WTO, các cam kết gia nhập WTO, trong đó có các cam kết về đầu tư, đang được thực hiện theo lộ trình đã cam kết. Đảng ta luôn có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị thế của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước luôn nhất quán. Ngày 29 tháng 12 năm 1987, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài. Vào thời điểm đó, Luật này được dư luận quốc tế đánh giá là một luật đầu tư thông thoáng nhất trong khu vực [20, tr.186]. Điều 1 của Luật này qui định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và qui định các thủ tục dễ dàng cho tổ chức, cá nhân đó đầu tư vào Việt Nam [27]. Hơn nữa, hoạt động FDI còn được đưa vào Hiến pháp của nước ta. Điều 25 của Hiến pháp hiện hành qui định: Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước [21, tr.23]. Tại văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam, lần đầu tiên kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được chính thức xác định là một thành phần kinh tế, là bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, được khuyến khích phát triển mạnh và lâu dài, với trọng tâm là hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ phải cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài [17, tr.646]. Đây là bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức so với các Đại hội trước về vai trò, vị trí của FDI đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta là “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” [17, tr.638]. Nghị quyết Đại hội IX cũng đề ra những chủ trương, định hướng cơ bản cho việc thu hút, sử dụng và quản lý FDI trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010). Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của Chiến lược là đẩy mạnh CNH, HĐH; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, cần huy động lượng vốn lớn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 4 năm 2006, tiếp tục coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế nước ta. Đại hội đã khẳng định: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta [18, tr.238]. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI [18, tr.204-205]. Luật Đầu tư năm 2005 thay thế và thống nhất Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định quan điểm khuyến khích và đối xử bình đẳng đối với FDI; về thể chế, đã cải thiện cơ bản môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo một sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi nước ta là thành viên WTO, tăng cường sự quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, trong đó có FDI. Về chính sách đầu tư, Luật Đầu tư năm 2005 quy định: Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư. Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư [28, tr.12-13]. Như vậy quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhất quán và có bước tiến quan trọng trên bình diện chủ trương và luật pháp. Quan điểm chung không những khẳng định vị thế của FDI mà còn coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành nền kinh tế Việt Nam. Việc bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không chỉ được thể hiện trong văn bản luật pháp có liên quan đến lĩnh vực này, mà còn được ghi vào Hiến pháp, đạo luật cơ bản và quan trọng nhất của đất nước. 1.3.2. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam Cùng với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, việc thu hút, sử dụng FDI được coi là công cụ, đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc CNH, HĐH đất nước. Khởi đầu từ năm 1987 với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động FDI ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Thời kỳ 2001 – 2005, vốn FDI có chuyển biến tích cực, tổng mức vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ USD, vượt trên 39% so với kế hoạch; tổng vốn thực hiện 14,3 tỷ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Năm 2005, các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu tính cả dầu khí), đóng góp gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước (tính cả dầu khí thì trên 36%), tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp [18, tr.152-153]. Tuy nhiên, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn dưới mức khả năng. Vốn đầu tư thực hiện tuy tăng qua các năm nhưng tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội không tăng do tốc độ tăng trưởng thấp hơn mức tăng vốn đầu tư trong nước. Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm từ 24% trong thời kỳ 1996 – 2000 xuống còn 16,6% trong thời kỳ 2001 – 2005 [4, tr.33]. Năm 2006, vị thế Việt Nam được nâng lên rõ rệt và các nhà đầu tư đánh giá rất cao địa bàn đầu tư Việt Nam. Vốn FDI vào Việt Nam năm 2006 lại tăng lên nhanh chóng, chiếm trên 30% tổng vốn đầu tư xã hội, đánh dấu thời kỳ phát triển mới của vốn FDI ở Việt Nam. Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2006, cả nước có 6.764 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 59,06 tỷ USD, bình quân mỗi năm thu hút được 375 dự án với tổng số vốn đăng ký 3,28 tỷ USD (mỗi dự án bình quân 9 triệu USD) [6]. Đây là những con số đáng kể đối với một quốc gia vừa mới chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường so với một số nước trong khu vực. Thu hút FDI ở Việt Nam được chia thành một số thời kỳ. Những năm 1988 - 1990 là thời kỳ đầu tiên FDI chính thức xuất hiện trong nền kinh tế nước ta với việc thực hiện các chính sách ưu đãi được công bố trong Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Năm đầu tiên thu hút được 37 dự án với 371 triệu USD, hai năm sau số dự án được cấp phép lên tới 213 dự án với tổng vốn đăng ký 1,793 tỷ USD. Thời kỳ này, tốc độ tăng số dự án và lượng vốn thu hút vào loại cao, quy mô vốn đạt trung bình 8,4 triệu USD/dự án [2, tr.22]. Thời kỳ 1991 - 1995: thời kỳ này Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi hai lần vào các năm 1990 và 1992. Qua 5 năm thực hiện, số dự án được cấp phép đã tăng nhanh gấp 6,2 lần thời kỳ 1988 - 1990 với tổng vốn đầu tư đăng ký gấp 9,3 lần. Riêng năm 1995 là năm có số dự án và vốn được cấp phép cao nhất. Quy mô vốn trung bình 12,5 triệu/dự án [2, tr.22]. Thời kỳ 1996 - 2000: Năm 1996 là năm có số vốn đăng ký FDI được cấp phép đạt cao nhất. Từ năm 1997 trở đi, cả số dự án lẫn lượng vốn đã suy giảm, thấp nhất vào năm 1999, giảm 60% vốn đăng ký so với năm trước. Tình hình suy giảm FDI chủ yếu là do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực cũng như do môi trường đầu tư của nước ta thời kỳ này kém hấp dẫn. Tuy vậy, thời kỳ này tổng số vốn và dự án vẫn cao, đạt 1.627 dự án với 20,6 tỷ USD vốn đăng ký; tăng 1,2 lần về số dự án và 1,23 lần về vốn so với thời kỳ 1991 - 1995 [2, tr.23]. Thời kỳ 2001 đến nay: năm 2001 bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, sang năm 2002, tình hình thu hút FDI lại kém đi. Năm 2005 và 11 tháng đầu năm 2006 đánh giá sự chuyển biến tích cực trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tính chung, trong 11 tháng đầu năm 2006 đã có 736 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 6,15 tỷ USD, tăng 60,7% về vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ năm 2005, các dự án mới tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp và xây dựng, chiếm 67,1% về số dự án và 72,1% tổng vốn đăng ký; nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 6,5% về số dự án và 1,7% tổng vốn đăng ký; ngành dịch vụ chiếm 26,4% về số dự án và 26,2% tổng vốn đăng ký. Có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam với các đối tác chính vẫn là các nhà đầu tư Châu Á. Hàn Quốc đã vượt qua Hồng Kông để dẫn đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, chiếm 31,4% tổng vốn cấp mới; tiếp theo là Hồng Kông chiếm 13,6% tổng vốn cấp mới; Hoa Kỳ đứng thứ 3 chiếm 10,3% tổng vốn cấp mới; Nhật Bản đứng thứ 4 chiếm 9,5% tổng vốn cấp mới. Nếu tính cả một số dự án của Hoa Kỳ đầu tư thông qua nước thứ ba thì Hoa Kỳ đứng thứ hai. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án trong 11 tháng đầu năm 2006 đạt 8,4 triệu USD/dự án. Trong 11 tháng đầu năm 2006, tổng số dự án tăng vốn đầu tư là 439 dự án với tổng vốn tăng là 2,1 tỷ USD; tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2005. Tính chung cả dự án cấp mới và tăng vốn, trong 11 tháng đầu năm 2006, tổng vốn đăng ký đạt 8,2 tỷ USD; tăng 47,4% cùng kỳ năm 2005 và vượt 31,7% kế hoạch ban đầu cả năm (6,5 tỷ USD). Nhờ việc tăng cường quản lý, thúc đẩy tiến độ triển khai dự án và việc đầu tư mở rộng sản xuất của các dự án nên vốn đầu tư thực hiện tiếp tục tăng. Trong 11 tháng năm 2006, vốn đầu tư thực hiện đạt 3,6 tỷ USD; tăng 18,7% so với cùng kỳ; bằng 87,8% kế hoạch đã hiệu chỉnh của năm 2006 (4,1 tỷ USD) [6]. Xét về phân bố FDI theo các ngành và lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế: nhìn chung cơ cấu sử dụng vốn FDI từ năm 1991 trở lại đây luôn có sự điều chỉnh để phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước. Tính từ 1988 đến ngày 20/11/2006, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất; chiếm 67,5% về số dự án (4.572 dự án) và 63,06% về số vốn đầu tư đăng ký (37,2 tỷ USD). Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ; chiếm 20,1% về số dự án (1.364 dự án) và 30,3% về số vốn đầu tư đăng ký (17,9 tỷ USD); số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp [6]. Về hình thức đầu tư: hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm 76,05% về số dự án và 57,7% về tổng vốn đầu tư đăng ký; hình thức liên doanh chiếm 20,8% về số dự án và 33,5% vốn đầu tư đăng ký; số vốn đầu tư còn lại thuộc hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, công ty cổ phần và công ty quản lý vốn [6]. Về cơ cấu nguồn vốn FDI theo đối tác đầu tư: trong 76 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, các nước Châu Á có vốn đầu tư lớn nhất, chiếm 67% tổng vốn đăng ký, các nước Châu Âu chiếm 29% tổng vốn đăng ký, các nước Châu Mỹ chiếm 4% vốn đăng ký. Riêng 5 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam là Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông đều là các thành viên nền kinh tế APEC, đã chiếm tới 66,8% tổng số vốn đầu tư đăng ký. Bước sang năm 2006, một xu hướng đáng lưu ý là sự tăng mạnh về số lượng và quy mô đầu tư của các công ty Hoa Kỳ và Nhật Bản. Các công ty lớn, có công nghệ cao đã chính thức đầu tư với quy mô dự án lớn (từ 500 triệu đến 1 tỷ USD). Về cơ cấu FDI theo địa phương và các vùng kinh tế: đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm. Riêng 4 địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu) chiếm 62,5% tổng số dự án ; 57,1% tổng số vốn đầu tư đăng ký; 47,8% tổng vốn thực hiện của cả nước. Đánh giá chung, thu hút FDI của Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao năng lực xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. FDI góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tăng khả năng cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế và khả năng cạnh tranh quốc gia. FDI còn góp phần tạo việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, doanh nghiệp Việt Nam được khuyến khích từng bước đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường. FDI đã góp phần mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài, nâng cao quan hệ quốc tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới và khu vực [8, tr.19]. Tuy nhiên, FDI của Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng. Lý do chủ yếu là do chính sách đầu tư cũng còn nhiều tồn tại; cơ chế điều hành còn chưa nhất quán; thủ tục hành chính còn có những bất cập; chưa quan tâm đúng mức đến người lao động; chưa có chiến lược và kinh phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư, thông tin chưa được cập nhật, cung cấp chưa có hệ thống. 1.3.3. Phân cấp về chính sách thu hút FDI của Nhà nước Việt Nam 1.3.3.1. Phân cấp về chính sách và quản lý đầu tư nói chung Theo quy định mới nhất được ban hành kèm theo Nghị định 112/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ thì: a) Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội (được xác định trong Luật Ngân sách Nhà nước), Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án nhóm A đã có trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành được duyệt hoặc đã có quyết định chủ trương đầu tư bằng văn bản của cấp có thẩm quyền, sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư. Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định và công bố công khai. c) Tùy theo điều kiện cụ thể của các Bộ, ngành, địa phương, người có thẩm quyền quyết định đầu tư được phép ủy quyền cho các đối tượng quy định tại điểm d dưới đây quyết định đầu tư dự án nhóm B,C. Người ủy quyền quyết định đầu tư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự ủy quyền của mình. Người được ủy quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật và người ủy quyền. d) Người được ủy quyền quyết định đầu tư: Tổng cục trưởng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty, Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Bộ… Đối với cấp tỉnh là Giám đốc sở, Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện), Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty, Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp tỉnh. đ) Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án trong phạm vi ngân sách của địa phương mình (bao gồm các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên) có mức vốn đầu tư dưới 03 tỷ đồng (đối với cấp huyện) và dưới 01 tỷ đồng (đối với cấp xã). Về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nói chung, UBND cấp tỉnh được phân cấp thực hiện những nội dung sau: i) lập, công bố và vận động thực hiện danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa phương; ii) tổ chức các nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước đối với đầu tư; iii) thanh tra, kiểm tra các mặt đối với các dự án đầu tư; iv) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giám sát giải phóng mặt bằng; v) chỉ đạo lập quy hoạch chi tiết xây dựng KCN, KCX... Về chính sách, cấp tỉnh được uỷ quyền cụ thể hoá một số chính sách của Nhà nước Trung ương về giá đất, lệ phí..., đồng thời thực hiện thống nhất những chính sách chung của quốc gia. Như vậy, phân cấp chính sách và quản lý đầu tư hiện nay mới chủ yếu là phân cấp cho cấp tỉnh, các cấp chính quyền thấp hơn (huyện, xã) mới chỉ được phân cấp về thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án nhỏ. Nội dung phân cấp được triển khai trên cả ba mặt: chính sách, tổ chức quản lý và thẩm quyền hành chính. So với trước đây, sự phân cấp có xu hướng ngày càng mạnh. Điều này tạo điều kiện cho các tỉnh phát huy sáng tạo, thúc đẩy đầu tư nhưng cũng đặt ra thách thức mới cho chính quyền các địa phương. 1.3.3.2. Phân cấp về chính sách đầu tư nước ngoài Trước khi Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực, chúng ta thực thi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 09 tháng 6 năm 2000 và Nghị định 24/2000/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thẩm quyền của Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được cấp phép đầu tư với những dự án đầu tư có tổng số vốn đầu tư đăng ký là 5 triệu USD, trừ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 10 triệu USD. Trưởng Ban Quản lý các KCN, KCX cấp phép đầu tư các dự án đầu tư vào các KCN, KCX đến 40 triệu USD. Những dự án vượt quá quy mô trên do Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Dự án đầu tư phân cấp cho UBND cấp tỉnh cấp Giấy phép đầu tư phải có các tiêu chuẩn và điều kiện như phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được duyệt; không thuộc dự án nhóm A quy định tại khoản 1 Điều 114 Nghị định 24, có quy mô vốn đầu tư theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Không phân cấp việc cấp giấy phép đầu tư cho UBND cấp tỉnh đối với dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực như xây dựng đường quốc lộ, đường sắt; sản xuất xi măng, luyện kim, điện, đường ăn, rượu, bia, thuốc lá, sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy; du lịch lữ hành. Sự phân cấp nêu trên đã gây ra rất nhiều cản trở cho các địa phương trong việc cấp giấy phép đầu tư, kéo dài thời gian, làm nản lòng các nhà đầu tư. Mặt khác, các Ban Quản lý KCN được phân cấp thẩm định và cấp giấy phép đầu tư dự án có quy mô lớn hơn các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là một nghịch lý, bởi vì nhiều Ban Quản lý KCN là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh, thành phố thì có quyền lớn hơn chính UBND. Bên cạnh đó, việc Chính phủ hạn chế cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án kinh doanh trò chơi có thưởng đã khiến cho nhiều dự án lớn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ du lịch gặp khó khăn trong việc xin cấp giấy phép đầu tư. Việc phân cấp cấp phép và quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nêu trên đã dẫn tới tình trạng các địa phương đã ban hành những chính sách ưu đãi vượt khung ưu đãi chung của nhà nước, hay còn gọi là “xé rào”, để cạnh tranh thu hút FDI, tạo sự bất bình đẳng và ảnh hưởng xấu đến lợi ích chung của quốc gia. Việc phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong giải quyết vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài đôi lúc còn chưa chặt chẽ, nhiều trường hợp kéo dài, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư. Sau khi Luật Đầu tư 2005 có hiệu lực, và nhất là Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư đã có sự phân cấp khá mạnh mẽ, theo hướng giao quyền cho địa phương tự quyết định cấp phép, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung khâu hậu kiểm, hỗ trợ nghiệp vụ chuyên môn. Theo Luật Đầu tư 2005, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án đầu tư không phân biệt nguồn vốn, quy mô đầu tư trong các lĩnh vực xây dựng và kinh doanh hàng không, vận tải hàng không; xây dựng và kinh doanh cảng biển quốc gia; thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và thăm dò, khai thác khoáng sản; phát thanh, truyền hình; kinh doanh casino; sản xuất thuốc lá điếu; thành lập các cơ sở đào tạo đại học; thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế. Các dự án đầu tư không thuộc danh mục trên, không phân biệt nguồn vốn và quy mô vốn đầu tư từ 1.500 tỷ đồng Việt Nam trở lên trong các lĩnh vực như kinh doanh điện, chế biến khoáng sản, luyện kim; xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; sản xuất kinh doanh rượu, bia. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh doanh vận tải biển, thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát, viễn thông và Internet, thiết lập mạng truyền dẫn phát sóng; in ấn, phát hành báo chí, xuất bản; thành lập cơ sở nghiên cứu khoa học độc lập. Trường hợp các dự án đầu tư nêu trên nằm trong quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt, đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư, không phải trình Thủ tướng Chính phủ để chấp thuận đầu tư. UBND cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án FDI đầu tư ngoài KCN, KCX... Ban Quản lý KCN, KCX, khu công nghệ cao, khu kinh tế thực hiện việc đăng ký đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư vào các KCN, KCX... bao gồm cả các dự án đầu tư đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư. Về xúc tiến đầu tư, UBND tỉnh có quyền và trách nhiệm lập dự án thu hút FDI và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư đối với các dự án này. Về thủ tục hành chính, chính quyền địa phương có quyền chủ động thực hiện các mô hình tổ chức và quản lý thủ tục hành chính theo hướng phục vụ tốt hơn về thủ tục cho các nhà đầu tư nói chung, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài. Về chính sách, các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng những ưu đãi của tỉnh giống như các nhà đầu tư trong nước [28]. Như vậy, xu hướng chung trong phân cấp chính sách và quản lý FDI cũng theo hướng ngày càng phân cấp mạnh hơn cho cấp tỉnh. Trên thực tế, các tỉnh đã có sự đua tranh nhau trong cải thiện môi trường đầu tư (bao gồm cả môi trường thể chế hành chính và môi trường chính sách) và đã tạo ra sự cạnh tranh thu hút đầu tư khá mạnh mẽ. Đây là đặc điểm rất đáng chú ý trong việc thu hút đầu tư trong giai đoạn tới. 1.4. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.4.1. Kinh nghiệm của Bình Dương Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, được tách ra từ tỉnh Sông Bé vào ngày 1/1/1997. Bình Dương có vị trí gần thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước. Bình Dương đã tận dụng lợi thế về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng và quỹ đất, mạnh dạn chuyển đổi những vùng đất sản xuất nông nghiệp, đất quốc phòng kém hiệu quả để đầu tư xây dựng các KCN và cụm công nghiệp, xem đây là một hướng đi cơ bản để thu hút vốn đầu tư. Từ năm 1997 đến năm 2005, tỉnh xây dựng thêm 9 KCN thành lập mới và diện tích đất tăng thêm trên 1.700ha, nâng số KCN trên địa bàn lên 16 khu, với tổng diện tích là 3.275 ha. Ngoài ra, tỉnh còn đang phát triển xây dựng kết cấu hạ tầng và xúc tiến kêu gọi đầu tư dự án Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ và Đô thị Bình Dương có diện tích 4.196 ha nằm cạnh trung tâm thị xã Thủ Dầu Một [44]. Ngoài ra, Bình Dương còn tập trung nguồn lực xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế. Về chính sách và quản lý, Bình Dương là tỉnh đã có những cải cách hành chính, xây dựng được bộ máy quản lý nhà nước được coi là thông thoáng, minh bạch nhất, cấp phép và làm các thủ tục liên quan nhanh nhất. Kết quả là, thu hút FDI của Bình Dương đã tăng rất nhanh. Từ năm 2001 đến nay, Bình Dương vẫn giữ nhịp độ thu hút FDI và tiếp tục là một trong 5 địa phương đứng đầu cả nước về thu hút FDI. Tính đến tháng 11 năm 2006, Bình Dương đã thu hút được 1.254 dự án với 5,98 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 18,5% về số dự án; 10,1% tổng vốn đăng ký và 6,8% tổng vốn FDI thực hiện của cả nước [6]. Bài học từ kinh nghiệm Bình Dương cho thấy, Bình Dương thu hút FDI lớn, ngoài vị trí địa lý thuận lợi còn có các yếu tố về quản lý, chính sách. Trong những năm qua, các cấp, các ngành của tỉnh không ngừng cải tiến thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư từ khâu tìm hiểu cơ hội đầu tư đến cấp giấy phép, triển khai thực hiện dự án và khi doanh nghiệp đã đi vào hoạt động. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng của tỉnh được đầu tư đồng bộ và hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh. Bộ máy quản lý, cấp phép đầu tư được phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng và năng động. Bình Dương có 3 đầu mối cấp phép đầu tư nước ngoài: UBND tỉnh uỷ quyền cho Sở Kế hoạch và Đầu tư, và hai Ban Quản lý các KCN. Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp phép các dự án ngoài KCN, các Ban Quản lý KCN cấp phép đầu tư vào KCN. Gắn liền với phân cấp quản lý, Bình Dương còn thực hiện quy chế làm việc, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cá nhân, đơn vị trong bộ máy quản lý FDI. Bình Dương cũng đã cải cách thủ tục hành chính rất mạnh mẽ, nhất là trong thủ tục cấp phép đầu tư. UBND tỉnh đã ban hành quyết định về thủ tục, trình tự và thời gian xét duyệt, cấp phép dự án FDI, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính có liên quan để triển khai nhanh dự án, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Bình Dương. Trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính cho một dự án, các cơ quan của tỉnh luôn cố gắng giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết, rút ngắn thời gian thẩm định, cấp phép đầu tư. Lãnh đạo tỉnh bố trí lịch công tác đi thăm và làm việc thường xuyên tại các doanh nghiệp FDI, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư. Tỉnh cũng đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư thông qua việc tổ chức các hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư tại Singapore và một số nước khác trên thế giới. 1.4.2. Kinh nghiệm của Đồng Nai Khai thác, phát huy lợi thế, tiềm năng của mình, Đồng Nai đã và đang phấn đấu trở thành vùng đất an toàn và hiệu quả cho FDI. Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm năng động nhất Việt Nam, thuộc vùng ít bão lụt thiên tai, địa hình chủ yếu là đất đồi cao nên không tốn nhiều chi phí trong việc san lấp mặt bằng, xử lý nền móng công trình, thuận lợi cho việc đầu tư phát triển công nghiệp và xây dựng công trình với chi phí thấp. Đồng Nai ở vào vị trí rất thuận lợi, chỉ cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 25 km, các nhà đầu tư tại Đồng Nai có thể sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng và hệ thống dịch vụ hiện có của thành phố Hồ Chí Minh như sân bay, bến cảng, hệ thống viễn thông, khách sạn và các dịch vụ khác. Lãnh đạo tỉnh Đồng Nai đã quán triệt sâu sắc quan điểm cho rằng, muốn thu hút được nhiều vốn FDI thì cần phải có quy hoạch, chính sách và kết cấu hạ tầng tốt. Đồng Nai là địa phương có KCN đầu tiên tại vùng Nam Bộ Việt Nam (khu công nghiệp Biên Hòa). Tỉnh đã quy hoạch và đầu tư phát triển 23 khu công nghiệp mới, với tổng diện tích là 8.500 ha, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 16 khu công nghiệp với diện tích 4.085ha, trở thành địa phương dẫn đầu trong cả nước trong việc xây dựng phát triển KCN. Kết cấu hạ tầng tại các KCN này đã và đang được xây dựng đồng bộ, gần 60% diện tích đất cho thuê và đang sẵn sàng đón nhận các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tỉnh cho phép chủ đầu tư các KCN thoả thuận với nhà đầu tư nước ngoài ứng trước tiền thuê đất trong KCN, nhằm tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu [44]. Về quản lý và thủ tục hành chính, tỉnh đã mạnh dạn tổ chức lại bộ máy các cơ quan trực tiếp quản lý FDI, coi đây là lĩnh vực trọng điểm của cải cách hành chính. Kết quả đến 20/11/2006, Đồng Nai đã vươn lên trở thành tỉnh đứng thứ 3 toàn quốc về thu hút FDI, với 779 dự án, tổng vốn đăng ký trên 9,06 tỷ USD, chiếm 11,5% số dự án; 15,3% tổng vốn đăng ký; 14,2% vốn đầu tư thực hiện của cả nước [6]. Ngoài những nguyên nhân khách quan tạo nên những kết quả đáng kể trong thu hút FDI của Đồng Nai, nguyên nhân chủ quan cũng rất quan trọng. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đồng Nai đồng tâm nhất trí tìm các biện pháp hợp lý nhất để thu hút vốn FDI trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Trong quá trình triển khai thực hiện, khi gặp khó khăn trở ngại, cùng nhau có trách nhiệm giải quyết. Công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, thường xuyên gặp gỡ và tháo gỡ vướng mắc cho nhà đầu tư, cải tiến lề lối làm việc của cán bộ công chức có liên quan. Thực hiện huy động vốn trong xã hội để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN bằng nhiều phương thức. Quy trình thủ tục cấp phép đầu tư rõ ràng, không làm mất nhiều thời gian của nhà đầu tư. Tỉnh chú trọng công tác đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho người lao động do vậy luôn chủ động cung cấp nguồn lao động có chất lượng làm việc cho các nhà đầu tư. 1.4.3. Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc Năm 1997, Vĩnh Phúc được tái lập, trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Ban đầu, Vĩnh Phúc cũng là tỉnh kém phát triển, có nhiều khó khăn, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% trong cơ cấu kinh tế, đứng thứ 41/61 tỉnh, thành phố về giá trị sản xuất công nghiệp. Đến nay, sau 10 năm thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, Vĩnh Phúc trở thành một trong những tỉnh, thành phố có giá trị sản xuất công nghiệp cao nhất nước. Nguồn lực phát triển chủ yếu của Vĩnh Phúc là nhờ thu hút vốn FDI, đặc biệt là vốn đầu tư của những tập đoàn lớn đến từ Nhật Bản như Honda, Toyota. Riêng vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản đã chiếm tới trên 500 triệu USD [44]. Tính đến 20/11/2006, Vĩnh Phúc thu hút được 109 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 858,4 triệu USD, đứng thứ 10 trong cả nước và đứng thứ 4 so với các tỉnh phía Bắc [6]. Tuy không phải là địa phương thu hút FDI lớn nhất ở miền Bắc, nhưng vì Vĩnh Phúc là tỉnh nhỏ, những đóng góp của khu vực FDI cho tỉnh Vĩnh Phúc là rất lớn, và được coi là địa phương có kinh nghiệm và thành tựu trong thu hút vốn FDI. Phân tích yếu tố cho thấy, bên cạnh những thuận lợi như vị trí địa lý, giao thông thuận lợi, gần các trung tâm lớn của miền Bắc, quỹ đất còn dồi dào, chưa được khai thác, Vĩnh Phúc còn biết đổi mới môi trường đầu tư, thực hiện “trải thảm đỏ” để thu hút FDI. Vĩnh Phúc đã đi trước các địa phương khác một bước trong việc thực hiện xúc tiến đầu tư, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư Nhật Bản. Vĩnh Phúc đã chú trọng vào hoạt động này và đầu tư kinh phí để thực hiện. Tỉnh đã thông qua các nhà đầu tư Nhật Bản đang làm ăn tại Việt Nam tổ chức các cuộc gặp gỡ với các nhà đầu tư tại Nhật Bản. Vĩnh Phúc cũng đã sớm quy hoạch các KCN, tự đầu tư ngân sách để tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng và công khai cơ chế, thủ tục, chính sách để mời gọi các nhà đầu tư. Tỉnh đã xây dựng được 11 KCN, cụm công nghiệp, đồng thời hình thành cơ chế ưu đãi để các nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn khu vực đầu tư. Nhiều KCN hiện nay đã lấp đầy 100% diện tích. Các KCN của Vĩnh Phúc được bố trí tại những vị trí thuận lợi về giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng không; thế đất cao, không bị ngập úng; cạnh các khu đô thị có dịch vụ đạt tiêu chuẩn cao; gần nguồn nhân lực dồi dào. Vĩnh Phúc thuyết phục được các nhà đầu tư còn do việc cải cách hành chính quyết liệt, ngay các nhà đầu tư thận trọng như Nhật Bản cũng thấy vừa lòng. Từ năm 2002, Vĩnh Phúc đã thành lập Ban Quản lý các KCN và thu hút đầu tư. Vận động, thu hút đầu tư là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Ban này. Đến nay có nhiều địa phương đã làm như Vĩnh Phúc, nhưng vào thời điểm năm 2002 thì chưa có nhiều địa phương làm được như Vĩnh Phúc. Thời gian cấp phép đầu tư giảm 1/3 so với quy định chung của cả nước. Một số nhà đầu tư nói rằng, họ rất ấn tượng trước những cố gắng của chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc trong việc giải quyết nhanh nhất thủ tục hành chính liên quan đến đất đai, mã số thuế, khắc dấu, xây dựng, thủ tục xuất nhập khẩu, hải quan… những ưu đãi về thuế và hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng. So với một số tỉnh, thành phố phía Bắc, Vĩnh Phúc được ghi nhận là đã triển khai công tác giải phóng mặt bằng khá nhanh chóng. Tuy nhiên, trong cơ chế áp dụng của Vĩnh Phúc, cũng giống như ở Bình Dương và Đồng Nai, có một số hạn chế trong chính sách, quản lý, thu hút FDI như ban hành chính sách ưu đãi vượt khung quy định chung của Chính phủ, xuất hiện dạng "đầu tư chui", "KCN chui", nhiều dự án do không đánh giá chính xác về thiết bị công nghệ, tác động môi trường nên gây ô nhiễm môi trường trầm trọng; phần lớn là các dự án sử dụng rất nhiều lao động phổ thông nên gây ra nhiều áp lực về vấn đề xã hội trên địa bàn. 1.4.4. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Đà Nẵng Từ kinh nghiệm của ba tỉnh nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: Thứ nhất, dưới góc độ của một tỉnh, thành phố cần có nhãn quan nhạy bén về kinh tế, chính trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ những khó khăn, thách thức của địa phương mình để đề ra được chủ trương, biện pháp, chính sách đúng đắn, kịp thời, tập trung nguồn lực, giải quyết dứt điểm. Chủ trương, biện pháp, chính sách khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ cấp tỉnh xuống đến cấp cơ sở, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao nhất trong việc tổ chức thực hiện, bảo đảm sự thành công của biện pháp chính sách. Thứ hai, các chủ trương, định hướng lớn phải được nhanh chóng cụ thể hóa thành các kế hoạch thực hiện, các biện pháp chính sách một cách đồng bộ. Các biện pháp chính sách về khuyến khích thu hút FDI phải rõ ràng, rành mạch, cụ thể, chú ý điều kiện cụ thể ở địa phương và phù hợp với pháp luật. Cơ chế chính sách phải đồng bộ, thể hiện tính khuyến khích và tính cạnh tranh cao, phải tôn trọng quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư, phù hợp với tiến trình hội nhập; đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của các đơn vị cũng như người thực hiện. Thứ ba, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo được niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, gây phiền hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư. Thứ tư, có tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại nói chung và FDI nói riêng tinh thông về nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế đối ngoại, trong sạch về phẩm chất, đạo đức. Vì đây chính là cầu nối quan trọng giữa nhà đầu tư nước ngoài với địa phương, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại. Chương 2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ CÁC BIỆN PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở ĐÀ NẴNG 2.1. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 2.1.1. Tình hình dự án đăng ký Cùng với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, Đà Nẵng coi việc thu hút, sử dụng FDI là công cụ, đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc CNH, HĐH thành phố. Kể từ năm 1988 đến nay, nhất là 10 năm gần đây, khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, thành phố đã đạt được một số kết quả nhất định trong thu hút vốn FDI. Năm 2006 (tính đến ngày 20 tháng 11), cùng với cả nước, tình hình dự án FDI ở Đà Nẵng tiếp tục có chuyển biến đáng kể, thu hút 15 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 231,58 triệu USD (bảng 2.1). Tính từ 1988 đến 20/11/2006, Đà Nẵng có 90 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 735,73 triệu USD và là một trong những địa phương có số dự án đăng ký cao của cả nước (phụ lục 1) cũng như vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (phụ lục 5). Bảng 2.1. Mô tả số lượng dự án FDI đăng ký trên địa bàn Đà Nẵng qua các thời kỳ từ 1997 – 2006 Thời kỳ Số dự án Vốn đầu tư đăng ký (triệu USD) 1997 - 2000 14 65,4 2001 - 2005 53 300,5 Năm 2006 15 231,6 Cộng (1997 - 2006) 82 597,5 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Thời kỳ 1997 - 2000: Khi Đà Nẵng tách lập, trực thuộc Trung ương cũng là lúc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực xảy ra. Dòng FDI vào khu vực Đông Nam Á giảm mạnh. Do vậy, ở Đà Nẵng trong thời kỳ này chỉ có 14 dự án mới được đăng ký với tổng vốn đầu tư 65,4 triệu USD; quy mô vốn đạt trung bình 4,7 triệu USD/dự án. Trong thời kỳ này, FDI vào Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng bị sút giảm rõ rệt. Ngoài nguyên nhân khủng hoảng kinh tế khu vực, môi trường đầu tư của nước ta đã xấu đi nhiều do chính sách vĩ mô và bộ máy công quyền chậm được cải tiến, gây mất lòng tin ở các nhà đầu tư nước ngoài. Thời kỳ 2001 - 2005: năm 2001 bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, số dự án và vốn đăng ký trên địa bàn Đà Nẵng cao hơn năm 1999 và tiếp tục tăng đến năm 2003. Năm 2004, tình hình đăng ký dự án lại giảm nhưng vốn đầu tư vẫn cao hơn năm 2002 và năm 2003. Năm 2005 số dự án và vốn đăng ký đạt cao nhất trong cả thời kỳ. Tính chung cả thời kỳ này, có 53 dự án đăng ký với tổng vốn đầu tư là 300,5 triệu USD, quy mô vốn trung bình đạt 5,7 triệu USD/dự án; tăng trung bình 1 triệu USD/dự án so với thời kỳ 1997 - 2000 (bảng 2.1). Phân tích nguyên nhân ta có thể thấy rõ, từ năm 2001, với những cải cách mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam về môi trường đầu tư, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đã dần phục hồi, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ở nước ta nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Đồng thời, môi trường đầu tư của thành phố được cải thiện đáng kể; công tác vận động và thu hút đầu tư được đẩy mạnh. Trung tâm Xúc tiến đầu tư Đà Nẵng được thành lập và đi vào hoạt động cùng với việc thành phố Đà Nẵng ban hành những chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư thông thoáng, nên hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố đã có những bước chuyển biến tích cực và đạt được kết quả như trên. Kết quả là, năm 2005, Đà Nẵng được xếp thứ 7 trong cả nước về tình hình đăng ký dự án FDI, tổng cộng trong năm có 18 dự án với vốn đầu tư đăng ký 105,5 triệu USD, quy mô vốn trung bình gần 5,9 triệu USD/dự án, cao hơn mức bình quân chung của cả nước (bảng 2.2). Năm 2006, tính đến 20/11, Đà Nẵng có 15 dự án đăng ký với vốn đầu tư đăng ký 231,58 triệu USD, quy mô vốn trung bình đạt 15,4 triệu USD/dự án là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng gần gấp 3 lần so với các thời kỳ trước. Bảng 2.2. So sánh vốn FDI đăng ký của Đà Nẵng với một số địa phương khác trong cả nước năm 2005 ĐVT: triệu USD STT Địa phương Số dự án TVĐT VĐT/dự án 1 Hà Nội 103 1.250,419 12,140 2 Bà Rịa - Vũng Tàu 12 713,410 59,451 3 Đồng Nai 87 428,320 4,923 4 TP Hồ Chí Minh 243 409,416 1,685 5 Bình Dương 140 344,484 2,461 6 Hải Phòng 21 177,941 8,473 7 Đà Nẵng 18 105,500 5,861 Cả nước 801 4.017.642 5,016 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2.1.2. Tình hình triển khai thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghiên cứu đánh giá tình hình triển khai các dự án FDI có vai trò rất quan trọng, cho phép thấy được môi trường đầu tư và các chính sách của chính quyền có hấp dẫn thực sự hay không. Nhiều địa phương cấp phép đầu tư cho nhiều dự án có quy mô rất lớn nhưng chỉ là những dự án treo; trên thực tế, việc triển khai thực hiện đầu tư rất chậm, thậm chí không có dấu hiệu triển khai. Ở Đà Nẵng, sau khi đã được cấp phép, phần lớn các dự án FDI đều được triển khai tích cực; một số dự án sau một thời gian hoạt động đã xin điều chỉnh tăng vốn đầu tư hay gia hạn thời gian đầu tư. Tính đến 20/11/2006, trong số 90 dự án FDI đang có hiệu lực trên địa bàn, có 53 dự án đã hoàn thành giai đoạn đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, chiếm 58,9% số dự án còn hiệu lực và 49,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tỷ lệ dự án đã vận hành sản xuất, kinh doanh của Đà Nẵng là khá cao vì hầu hết các dự án còn lại mới được cấp phép đang làm thủ tục xây dựng hoặc đang trong giai đoạn xây dựng. Tính chung trên toàn địa bàn, có 24 dự án đang trong thời gian xây dựng, chiếm 26,7% số dự án và 34,7% vốn đầu tư đăng ký (bảng 2.3). Bảng 2.3. Tình hình triển khai thực hiện dự án FDI trên địa bàn Đà Nẵng (tính đến 20/11/2006) Mức độ thực hiện Số dự án Vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) Tỷ lệ tính trên tổng số dự án (%) Hoàn thành giai đoạn đầu tư xây dựng, đã đi vào sản xuất, kinh doanh 53 366.167.696 321.000.000 58,9 Đang đầu tư xây dựng 24 255.486.766 30.000.000 26,7 Mới cấp Giấy chứng nhận đầu tư 04 82.349.824 4,4 Không triển khai, tạm dừng do vi phạm qui định, pháp luật 09 31.733.000 10,0 Tổng cộng (dự án còn hiệu lực đến tháng 20/11/2006) 90 735.737.286 351.000.000 100,0 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Đáng chú ý là chỉ có 4 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư, chưa triển khai, và 9 dự án không triển khai, tạm dừng do vi phạm qui định, pháp luật. Một số dự án triển khai chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau về vốn, về mặt bằng chủ yếu là các dự án về du lịch, hay do khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm đối với các dự án sản xuất. Như vậy, tình hình triển khai dự án FDI của Đà Nẵng là rất khả quan xét cả về tốc độ triển khai, tỷ lệ số dự án triển khai và tỷ lệ vốn thực hiện. 2.1.3. Phân tích động thái về số lượng dự án và vốn đầu tư thực hiện 2.1.3.1. Động thái về số lượng dự án Bảng 2.4 cho biết số liệu về số dự án cấp phép trên địa bàn Đà Nẵng. Bảng 2.4. Số dự án FDI được cấp phép và vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn Đà Nẵng thời kỳ 1997 – 2006 Năm Số dự án đăng ký mới Vốn đầu tư đăng ký (triệu USD) Vốn thực hiện lũy kế (triệu USD) 1997 6 28,80 145,00 1998 4 33,50 180,00 1999 2 1,58 191,52 2000 2 1,50 174,14 2001 6 13,03 144,17 2002 8 51,86 150,96 2003 12 75,23 155,59 2004 9 54,85 156,82 2005 18 105,50 221,00 2006 15 231,58 351,00 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Theo bảng 2.4, thời kỳ 1997 - 2000, số dự án đăng ký cao nhất đạt được vào năm 1997 với 6 dự án, chiếm gần 43% tổng số dự án đăng ký trong cả thời kỳ. Số lượng dự án đầu tư đăng ký từ năm 1998 bắt đầu giảm nhanh qua các năm 1999, 2000 và đến năm 2000 chỉ có 2 dự án đăng ký, chiếm 14,3% số dự án cả thời kỳ, và chỉ bằng 1/3 số dự án đăng ký vào năm 1997. Tính chung cả thời kỳ này, số dự án đầu tư đăng ký giảm trung bình 27,7%/năm. Thời kỳ 2001 - 2005, tổng số dự án đăng ký đạt cao với 53 dự án, tăng gần 4 lần thời kỳ 1997 - 2000, tăng liên tục qua các năm từ năm 2001 đến năm 2003, năm 2004 giảm nhẹ và đạt mức thấp nhất với 9 dự án, sau đó tiếp tục tăng mạnh vào năm 2005, chủ yếu là các dự án trong khu công nghiệp (phụ lục 4), là năm có số dự án đăng ký cao nhất với 18 dự án, chiếm 41,9% số dự án của cả thời kỳ 2001 - 2005. Năm 2006, số dự án đăng ký mới vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, tính đến 20/11/2006 đã có 15 dự án đăng ký, hơn số dự án của cả thời kỳ 1997 - 2000. Điều đó chứng tỏ môi trường đầu tư và kinh doanh ở Đà Nẵng đã được cải thiện rất đáng kể, và số dự án đầu tư đăng ký có xu hướng tăng. 2.1.3.2. Động thái về vốn đầu tư thực hiện Vốn thực hiện của các doanh nghiệp FDI tính đến 20/11/2006 đạt 351 triệu USD, chiếm 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Biểu đồ 2.1 cho ta thấy rõ hơn động thái vốn đầu tư thực hiện. Biểu đồ 2.1. Động thái về số dự án và vốn FDI thực hiện ở Đà Nẵng 6 4 2 2 6 8 12 9 18 15 28,8 33,5 1,58 1,5 13,03 51,86 75,23 54,85 105,5 231,58 477,5 464,2 391,65 371,14 230,8 264,36 338,97 397,39 506,44 735,73 145 221 156,82 155,59 150,96 144,17 174,14191,52180 351 0 50 100 150 200 250 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 0 100 200 300 400 500 600 700 800 Số dự án Vốn đầu tư Vốn đầu tư lũy kế Vốn thực hiện lũy kế Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng Thời kỳ 1997 - 2000: vốn đầu tư thực hiện tăng qua các năm 1998, 1999 nhưng sau đó đến năm 2000 lại giảm xuống đột ngột, nguyên nhân do một số dự án sau khi đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng nhưng công ty mẹ khó khăn về tài chính nên phải rút về trong năm này. Lũy kế đến năm 2000, lượng vốn thực hiện đạt 174,1 triệu USD, chiếm vào khoảng 46,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Năm 1998 vốn đầu tư thực hiện đạt cao nhất với 15 triệu USD, chiếm 75% vốn đầu tư thực hiện cả thời kỳ. Thời kỳ 2001 - 2005: vốn đầu tư thực hiện tuy có tăng so với thời kỳ 1997 - 2000 nhưng không đáng kể, vốn đầu tư thực hiện bình quân cả thời kỳ 2001 - 2005 tăng khoảng 5 triệu USD/năm, chậm hơn tốc độ tăng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác cũng như tốc độ tăng vốn đầu tư chung toàn xã hội. Tuy nhiên, nếu xét riêng giai đoạn 2004 - 2006, đặc biệt năm 2006, vốn đầu tư thực hiện đạt mức kỷ lục với 130 triệu USD, cao hơn số vốn đầu tư thực hiện từ 1997 - 2005, chiếm 37% tổng vốn đầu tư thực hiện từ 1988 - 2006 và 50,4% tổng vốn đầu tư thực hiện từ 1997 - 2006. Phân theo ngành kinh tế, vốn đầu tư thực hiện tính đến 20/11/2006, ngành công nghiệp, xây dựng đạt mức cao nhất với 206,2 triệu USD, chiếm 58,7%; dịch vụ khách sạn, du lịch đạt 124 triệu USD, chiếm 35,3%; các dịch vụ khác đạt 18 triệu USD, chiếm 5,1%; ngành nông nghiệp chỉ đạt 2,8 triệu USD, chiếm 0,9% tổng số vốn đầu tư thực hiện. 2.1.4. Phân tích vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phân bổ theo ngành kinh tế, hình thức đầu tư, và nước đầu tư 2.1.4.1. Phân theo ngành kinh tế Bảng 2.5 về cơ cấu FDI phân theo ngành kinh tế cho thấy, FDI trên địa bàn Đà Nẵng thời gian qua có sự chuyển dịch phù hợp với cơ cấu kinh tế theo ngành kinh tế của Đà Nẵng đã được xác định là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Vốn đầu tư đăng ký tập trung chủ yếu trong 2 ngành công nghiệp và dịch vụ. Bảng 2.5 cho thấy, trong tổng số 90 dự án FDI, đứng đầu là ngành công nghiệp, xây dựng có tới 65 dự án đầu tư chiếm 72,2% tổng số dự án và 65,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là ngành dịch vụ, có 22 dự án chiếm 24,4% số dự án và 33,9% tổng vốn đầu tư. Ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 3 dự án chiếm 3,4% số dự án và 0,4% về tổng vốn đầu tư. Như vậy, trong cơ cấu vốn FDI ở Đà Nẵng, ngành công nghiệp là chủ yếu. Vốn thu hút vào ngành nông, lâm, ngư nghiệp rất thấp và đây cũng chính là tình hình chung của cả nước. Phân tích cơ cấu FDI theo ngành kinh tế ở Đà Nẵng và cả nước có thể rút ra kết luận rằng, xu hướng chung là các nhà đầu tư nước ngoài chú trọng đến các ngành, lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao. Ngành nông nghiệp do chịu nhiều rủi ro, nhất là trong điều kiện thời tiết, khí hậu ở miền Trung nói chung, Đà Nẵng nói riêng rất khắc nghiệt, giá cả sản phẩm nông nghiệp bấp bênh, lợi nhuận thấp nên thu hút được rất ít dự án đầu tư. Bảng 2.5. Số dự án FDI được cấp giấy phép tính đến 20/11/2006 phân theo ngành kinh tế ở Đà Nẵng STT Ngành kinh tế Số dự án Vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 Nông nghiệp 03 2.800.000 2.800.000 2 Công nghiệp, xây dựng 65 483.602.102 206.200.000 3 Dịch vụ 22 249.335.184 142.000.000 Tổng cộng 90 735.737.286 351.000.000 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Thực tế cho thấy, đầu tư FDI vào Đà Nẵng chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh, khai thác thị trường nội địa dễ, các ngành đòi hỏi công nghệ đơn giản như sản xuất chính phẩm; chế biến nông, lâm, thuỷ sản; du lịch, khách sạn, nhà hàng. Số dự án đầu tư chiều sâu, đòi hỏi công nghệ cao, công nghệ sạch rất ít. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào việc gia công các sản phẩm may mặc. 2.1.4.2. Phân theo hình thức đầu tư Biểu đồ 2.2 về cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư cho thấy, phần lớn dự án có hình thức 100% vốn nước ngoài, chiếm 74,4% về số dự án và 64,4% về tổng vốn đầu tư đăng ký. Hình thức liên doanh chiếm 22,2% về số dự án và 31,8% về tổng vốn đầu tư đăng ký. Hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 3,4% về số dự án và 3,8% về tổng vốn đầu tư đăng ký. Biểu đồ 2.2: Cơ cấu vốn FDI đăng ký phân theo hình thức đầu tư ở Đà Nẵng 64,40% 31,80% 3,80% 100% vốn nước ngoài Liên doanh Hợp đồng HTKD Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng. Do hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là chủ yếu, nên hạn chế nhiều trong việc học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh cũng như kiểm soát hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài. So với cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư trong phạm vi cả nước, về cơ bản có cùng xu hướng, trong đó hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hình thức đầu tư, tiếp theo là hình thức liên doanh. Các hình thức đầu tư khác như hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT, công ty cổ phần, công ty quản lý vốn chiếm tỷ trọng không đáng kể. Số liệu ở bảng 2.6. dưới đây có thể cho ta thấy điều này. Bảng 2.6. Cơ cấu FDI phân theo hình thức đầu tư của cả nước tính đến 20/11/2006 Hình thức đầu tư Dự án Vốn đầu tư Số dự án Tỷ lệ % VĐT(triệu USD) Tỷ lệ % 100% vốn NN 5.144 76,05 34.118 57,75 Liên doanh 1.407 20,80 19.814 33,55 Hợp đồng HTKD 196 2,90 4.320 7,31 BOT 4 0,06 440 0,75 Công ty cổ phần 12 0,18 276 0,47 Công ty quản lý vốn 1 0,01 98 0,17 Tổng số 6.764 100,00 59.066 100,00 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2.1.4.3. Phân theo nước Tính đến 20/11/2006, có 21 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư FDI tại Đà Nẵng, trong đó các nước châu Á chiếm 74,4% về số dự án và 57,3% vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm 10% về số dự án và 2,9% vốn đăng ký. Năm quốc gia và vùng lãnh thổ dẫn đầu về đầu tư nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan