Luận văn Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng lộc và biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông đối với giống vải hùng long tại Đồng Hỷ - Thái Nguyên, Việt Nam

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng lộc và biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông đối với giống vải hùng long tại Đồng Hỷ - Thái Nguyên, Việt Nam

pdf81 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng lộc và biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông đối với giống vải hùng long tại Đồng Hỷ - Thái Nguyên, Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 Tªn ®Ò tµi: NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG LỘC VÀ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT KHỐNG CHẾ LỘC ĐÔNG ĐỐI VỚI GIỐNG VẢI HÙNG LONG TẠI ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN, VIỆT NAM Chuyªn ngµnh : Trång trät M· sè : 60.62.01 LuËn v¨n thẠc sü khoa häc n«ng nghiÖp Người thực hiện: KONGSINH RATSAMY Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Thế Huấn 2. PGS.TS. Ngô Xuân Bình Thái Nguyên 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Cây vải (Litchi Chinesis Sonn) thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae) có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc. Vải thiều là cây ăn quả đặc sản có giá trị kinh tế cao với hương vị thơm ngon, nhiều chất bổ, được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng. Quả vải chín có nhiều chất dinh dưỡng như đường, vitamin C và nhiều chất khoáng khác. Hoa vải hàng năm là nguồn nguyên liệu, nguồn phấn hoa cho người nuôi ong. Cây vải có bộ tán lớn, tròn tự nhiên hình mâm xôi, cành lá xum xuê quanh năm. Do vậy, cây vải không chỉ là cây ăn quả mà còn là cây góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn, rửa trôi, tạo cảnh quan môi trường sinh thái. Đồng Hỷ là một huyện trung du miền núi phía Bắc thuộc tỉnh Thái nguyên, Việt Nam. Khí hậu ở đây thích hợp cho việc phát triển các loại cây ăn quả, trong đó có cây vải. Tính đến năm 2008 diện tích cây vải lên tới 1496 ha, sản lượng đạt 6340 tấn với hơn 90% diện tích trồng vải Thanh Hà [22]. Tuy nhiên, sản xuất vải hiện nay trên địa bàn huyện đang gặp nhiều khó khăn do giá thu mua vải quả vào lúc chính vụ thấp. Hiện nay trên địa bàn huyện bắt đầu trồng giống Hùng Long là giống vải chín sớm được phát hiện, tuyển chọn tại xã Hùng Long, huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ, giống vải này đã được công nhận là giống quốc gia năm 2000. Quả của giống Hùng Long chín sớm hơn vải Thanh Hà từ 2 - 3 tuần, giá bán trên thị trường thường cao hơn vải Thanh Hà do vậy được người tiêu dùng và các hộ nông dân ưa chuộng. Nhiều hộ nông dân có nhu cầu mở rộng diện tích và thay thế một phần diện tích trồng vải Thanh Hà để nâng cao hiệu quả kinh tế của vườn quả. Tuy nhiên, giống vải này có năng suất không ổn định do tỷ lệ số cây ra quả cách năm cao. Do vậy, để có thể phát triển giống vải Hùng Long tại huyện Đồng Hỷ nói riêng và tỉnh Thái nguyên, Việt Nam nói chung cần có những nghiên cứu về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 các biện pháp kỹ thuật nhằm khống chế lộc đông giúp cây ra hoa ổn định. Xuất phát từ thực tiễn của nhu cầu sản xuất trên địa bàn chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng lộc và biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông đối với giống vải Hùng Long tại Đồng Hỷ - Thái nguyên, Việt Nam”. Mục đích của đề tài 1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng lộc của giống vải Hùng Long tại Đồng Hỷ - Thái nguyên, Việt Nam. 2. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông đến năng suất vải Hùng Long tại Đồng Hỷ - Thái nguyên, Việt Nam Yêu cầu của đề tài + Theo dõi thời gian xuất hiện và sinh trưởng của các đợt lộc giống vải Hùng Long tại Đồng Hỷ - Thái Nguyên, Việt Nam. + Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp cắt tỉa đến khả năng sinh trưởng lộc và năng suất vải + Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp khống chế lộc đông đến năng suất vải. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1.1. Cơ sở khoa học của nghiên cứu thời gian và sinh trƣởng của các đợt lộc Đối với cây vải thì tuỳ vào điều kiện sinh thái, khả năng trồng trọt mà một năm cây thường ra 3 đến 4 đợt lộc. Các đợt lộc có liên quan chặt chẽ với nhau, quá trình ra lộc năm nay sẽ là tiền đề cho việc ra hoa kết quả năm sau. Đối với cây vải bất cứ loại cành nào ra thời kỳ nào trong năm ở cấp cuối cùng ngoài tán đều có thể trở thành cành mẹ. Thông thường cành mẹ của cây vải là cành thu. Tùy giống, tùy tuổi cây, tùy kỹ thuật chăm sóc mà một năm có thể có từ 1 - 2 đợt lộc thu [2],[22], [35]. Hoa vải được mọc chủ yếu từ lộc xuân mọc từ cành thu năm trước, nhưng không phải cứ có lộc thu là có quả. Nếu lộc thu ra quá muộn, sinh trưởng tích luỹ kém, dù gặp điều kiện khí hậu thuận lợi cũng không thể phân hoá mầm hoa được. Nếu lộc thu ra quá sớm mà ngay sau đó là đợt lộc đông thì cây lại càng không có khả năng ra hoa. (Nghê Diệu Nguyên, Ngô Tố Phần, 1991) [23]. Do vậy việc nghiên cứu thời gian ra các đợt lộc của cây, đợt lộc ra vào tháng nào sẽ có khả năng ra hoa và cho năng suất cao nhất, từ đó có thể đề suất các biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế các đợt lộc có khả năng cho năng suất thấp là điều hết sức cần thiết [35],[60]. 2.1.2. Cơ sở khoa học của nghiên cứu biện pháp tác động cơ giới Trong quá trình sống, cành vải ở trạng thái sinh trưởng của mùa đông khá phức tạp, có thể căn cứ vào tình hình sinh trưởng của lộc và điều kiện ngoại cảnh để có biện pháp xử lý phù hợp. Cách làm chủ yếu cho vải ra hoa đúng thời vụ các cây ra lộc đông, ngăn chặn không cho phát sinh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 + Khoanh vỏ: tác dụng làm cho thời gian nhất định ngừng vận chuyển sản phẩm quang hợp từ ngọn xuống phía duới, mặt khác làm tăng đường tổng số trên cành, tạo cơ sở thuận lợi cho việc hình thành mầm hoa và các bộ phận của hoa, hơn nữa có tác dụng làm giảm năng lượng cung cấp cho bộ rễ, giảm cơ năng hoạt động của bộ rễ, giảm hấp thu nước nâng cao nồng độ dịch tế bào, từ đó kích thích việc hóa mầm hoa [5] [59]. + Cắt tỉa: Sự sinh trưởng tự nhiên của cây ăn quả thường không đáp ứng yêu cầu về cấu trúc tối ưu và thuận lợi cho việc chăm sóc tán cây. Người làm vườn cần phải tác động tích cực để tạo dựng hệ thống cành khung, nửa khung và cành nhánh của cây cho phù hợp với cấu trúc của vườn. Cắt tỉa nhằm mục đích điều hòa sinh trưởng, ra hoa kết quả của cây. Cắt tỉa làm giảm đi chiều dài cành, tỉa bớt cành nhánh, hướng cành ra phía ngoài khiến cho trong tán cây giảm số lượng mầm sinh trưởng dẫn tới việc phân phối lại các chất giữa các cơ quan còn lại làm cho quả phát triển to hơn [5], [58]. Cắt tỉa nâng cao tính hoạt động sinh lý của mô tế bào và hiệu suất thoát hơi nước, trong điều kiện khô hạn. Đây là một trong những biện pháp cải thiện chế độ ẩm cho cây. Trong kỹ thuật làm vườn hiện đại, cắt tỉa là khâu kỹ thuật then chốt, cần có kiến thức, kinh nghiệm và tay nghề [1]. 2.2. NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI CÂY VẢI 2.2.1. Nguồn gốc cây vải Cây vải có tên khoa học là Litchi Chinenis Sonn (Nephelium Litchi Cambess) thuộc họ Bồ hòn có nguồn gốc ở miền nam Trung Quốc. Hiện nay ở Trung Quốc có những cánh rừng vải dại xanh tốt ở núi Kim Cổ Lĩnh, tỉnh Phúc Kiến có cây vải đã 1200 tuổi và vẫn cho quả (Trần Thế Tục, 2004) [36]. Mặc dù lịch sử trồng vải lâu đời như vậy nhưng cho đến cuối thế kỷ 17 vải mới được mang sang Burma, 100 năm sau mới được đưa sang ấn Độ vào năm 1775. Cây vải được đưa sang trồng ở Hawai năm 1873 bởi một thương gia Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 người Trung Quốc, Florida năm 1883, Califonia năm 1897 và đến Israen năm 1914. Vào khoảng những năm từ 1875 - 1876 cây vải được đưa sang các nước Châu Phi là Madagatca và Morihiuyt [61]. Tại Việt Nam theo các tài liệu cũ, cây vải đã được trồng cách đây 2000 năm (quả thu tài bồi học, 1959 - sách Trung Quốc), sử ghi chép cách đây 10 thế kỷ, lệ chi vải (quả vải) là một trong những cống vật của Việt Nam phải nộp cho Trung Quốc. Tài liệu Trung Quốc cũng cho biết khoảng 200 năm sau Công nguyên, vua Nam là Triệu Đà có mang vải sang cống. Theo giáo sư Vũ Công Hậu [16]: khi điều tra cây ăn quả ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung có gặp một số cây vải dại, vải rừng. ở khu vực chân núi Tam Đảo có nhiều cây vải dại quả giống vải nhà nhưng hương vị kém hơn Do vậy, một số tài liệu nước ngoài cũng cho rằng cây vải cũng có thể có nguồn gốc ở Việt Nam. 2.2.2. Một số giống vải chính trên thế giới Hiện nay trên thế giới có rất nhiều giống vải được trồng, trong đó Trung Quốc được coi là nơi hiện nay có nhiều giống vải nhất trên thế giới. Tuy nhiên trong hơn 200 giống được trồng thì chỉ có 8 giống là có ý nghĩa kinh tế và được phát triển rộng rãi. Tỉnh Quảng Đông các giống Baila, Baitangying, Heiye, Fezixiao, Gwiwei, Nuomici và Huazhi được trồng với diện tích khá lớn khoảng hơn 140.000 ha, trong đó hai giống Gwiwei, Nuomici chiếm hơn 80% diện tích. Tỉnh Phúc Kiến trồng chủ yếu giống vải Lanzhu với diện tích khoảng hơn 25.000 ha. Các giống vải ở Trung Quốc có hai nhóm chính: đó là nhóm khi chín thì thịt quả thường nhão và ướt còn nhóm kia khi chín thì cùi ráo và khô (Chen and Huang, 2000) [46]. Tại Đài Loan, giống vải chủ yếu là giống Hap Ip, chiếm hơn 90% tổng diện tích ngoài ra còn có giống Yuher Pau được trồng ở miền Nam và giống No Mi Tsu được trồng ở miền Trung (Anonymous, 2000) [44]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Tại Nam Phi giống vải được trồng chủ yếu là Kwaimi nhưng thường được gọi là "Mauritius" vì giống có nguồn gốc từ hòn đảo này, giống có kích thước quả trung bình, tán cây thấp, chất lượng tốt. (Morton,1987) [61]. Các giống vải được trồng ở Ấn Độ hiện nay là: Shadi, Bombai, Rose, China, Seented và Mazaffarpur (Ghosh và cộng sự, 2000) [48]. Có hơn 40 giống được trồng ở Australia, các giống trồng phổ biến ở đảo Queesland bao gồm Kwai May Pink, FayZee Siu và Souey Tung, giống Kwai May Pink được trồng ở miền Trung, miền Nam trồng chủ yếu giống Waichee (Mitra -2005) [60]. Các giống vải trồng chủ yếu ở Thái Lan là các giống Hap Ip, Tai So và Waichee ngoài ra còn có khoảng hơn 30 giống vải khác nhau. Các giống vải ở Thái Lan được chia ra làm hai nhóm, nhóm cần có nhiệt độ lạnh trong mùa đông và nhóm yêu cầu nhiệt độ lạnh trong mùa đông ít hơn, nhóm này trồng ở khu vực trung tâm của Thái Lan, còn nhóm kia thì trồng ở các tỉnh phía Bắc (Yapwattanaphun và cộng sự, 2000) [67]. Ở Nam Mỹ có nhiều giống vải đã được nhập về từ ấn Độ và Trung Quốc nhưng trong 43 giống được nhập nội chỉ có hai giống hiện nay còn tồn tại và được trồng phổ biến đó là Hap Ip và Kwaimi (Morton, 1987) [61]. Ở Hawai có 3 giống trồng phổ biến đó là giống Hap Ip, Kwaimi và Brewster. Vào năm 1942, Groff tiến hành lai tạo giữa 3 giống vải trên nhằm tìm ra một giống vải tốt nhất và đến năm 1953 đã chọn ra được một giống mang tên Groff. Giống này có tính di truyền ổn định, chín muộn, quả có kích cỡ trung bình, thịt quả trắng và ráo, hương vị thơm ngon, hầu hết các hạt đều bị teo nên rất nhỏ (Groff, 1954) [49]. Ở Florida giống vải được trồng chủ yếu là giống Brewster [56]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 2.2.3. Một số giống vải chính của Việt Nam Giống vải có thể chia theo thời vụ hoặc theo đặc điểm sinh trưởng và phẩm chất quả. Các tác giả đều thống nhất miền Bắc Việt Nam các giống vải được phân chia như sau: Theo thời vụ: Có các giống chín sớm, chín trung bình và chín muộn. Theo đặc điểm sinh trưởng và phẩm chất quả có: Vải chua, vải nhỡ, vải thiều. - Giống vải chua: mọc khỏe, cây to, phân cành thưa, hạt to, tỷ lệ thịt quả 50 - 60%, chín sớm (cuối tháng 4 đến tháng 5), ra hoa đều, năng suất ổn định, vị chua. - Giống vải nhỡ: cây to hoặc trung bình, tán thẳng đứng, lá to, chín vào tháng 5 đầu tháng 6. Khi quả chín vỏ còn xanh, định quả có màu tím đỏ, có vị ngọt, ít chua - Giống vải thiều: Tán cây có hình tròn hoặc bán cầu, lúc nhỏ phiến lá dầy bóng, chùm hoa không có lông đen, quả nhỏ hơn vải chua và vải nhỡ. Trọng lượng quả trung bình từ 25 - 30g, tỷ lệ thịt quả cao chiếm 70 - 80%, chín giữa tháng 6 đầu tháng 7. Theo kết quả điều tra của Vũ Mạnh Hải (2004) [13] tại 13 huyện của 7 tỉnh miền Bắc Việt Nam cho thấy các tỉnh miền Bắc có tập đoàn vải khá phong phú. Đã thu thập được 13 giống tại 13 huyện của các tỉnh, trong đó có 8 giống tuyển chọn có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất, phẩm chất cao và ổn định, có tính chống chịu sâu bệnh khá, có hai giống được công nhận là giống quốc gia là thiều Thanh Hà và Hùng Long, các giống Đường Phèn, Hoa Hồng, Lai Bình Khê, Lai Yên Hưng, Phú Điền và Phúc Hòa đang được tiến hành khảo nghiệm. Qua nghiên cứu theo dõi cho thấy các giống vải chín sớm có khả năng sinh trưởng vượt trội so vậy giống vải thiều Thanh Hà về cả chiều cao và đường kính gốc. Các giống có khả năng sinh trưởng tốt hơn cả là Bình Khê, Yên Hưng và Yên Phú, các giống này có năng suất và chất lượng quả tương đưong với nơi nguyên sản. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Năm 1991, Việt Nam đã nhập nội một số giống vải từ Trung Quốc và đang được trồng khảo nghiệm là các giống: Quế Vị, Nhu Mê Tu, Hoài Chi, Hắc Diệp, Tâm Nguyệt Hồng, Phi Tử Tiếu, Đại Tào. Năm 1991, dự án VIE86- 003 đã nhập một số giống từ Úc về Lục Ngạn như: Waichee, Taiso, Salathit, Kwai Pink... nhưng qua theo dõi các giống này đều sinh trưởng kém hơn vải thiều Thanh Hà. Năm 1998, Huyện Lục Ngạn nhập giống Bình Đường Anh, năm 2001 tổng công ty rau qủa nhập giống Đại Bi Hồng và trồng tại Lục Ngạn các giống này đang tiếp tục được theo dõi [41]. Viện nghiên cứu rau quả đã tập trung tuyển chọn được một số giống vải chín sớm trong đó nổi bật 5 giống có triển vọng là các giống Yên Hưng, Bình Khê, Đường Phèn, Thạch Bình và giống Hùng Long. Các giống này đã qua theo dõi, bình tuyển và đánh giá có khả năng chín sớm hơn vải thiều từ 20 - 30 ngày, giá bán gấp 2 - 3 lần, chất lượng gần tương đương vải Thanh Hà (Nguyễn Văn Dũng, 2005) [11]. 2.3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ VẢI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 2.3.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ vải trên thế giới * Tình hình sản xuất Bảng 2.1: Diện tích và sản lƣợng vải của một số nƣớc trên thế giới Tên quốc gia Diện tích (ha) Sản lƣợng (tấn) Trung Quốc (cả Đài Loan) 592.000 1.270.000 Ấn Độ 56.000 429.000 Thái Lan 22.937 81.388 Nepan 2.830 13.875 Úc 1.500 3.500 Mỹ 100 40 (Nguồn: Hội thảo tình hình sản xuất và xuất khẩu vải châu Á, Thái Bình Dương tại Băng Cốc, Thái Lan 9/2001) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Diện tích sản lượng vải tập trung chủ yếu ở các nước thuộc châu Á. Quốc gia sản xuất lớn nhất trên thế giới là Trung Quốc với tổng diện tích là 592.000 ha, sản lượng đạt 1.270.000 tấn. Ngoài ra, cây vải còn được trồng ở một số quốc gia và khu vực khác như châu Mỹ, châu Úc… Hiện nay sản lượng vải trên thế giới khoảng hơn 2 triệu tấn/năm, tập trung chủ yếu ở châu Á khoảng 2 triệu tấn. Tuy nhiên sản lượng vải tập trung chủ yếu vào một số nước có điều kiện tự nhiên thích hợp và sản xuất có tính chất hàng hoa như: Trung Quốc 1.270.000 tấn, Ấn Độ 430.000 tấn, Đài Loan 110.000 tấn, Thái Lan 85.000 tấn. Việt Nam 120.000 tấn (Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT ngày 24/4/2002). Hiện nay, nhu cầu thị trường thế giới còn rất lớn về vài lượt cũng như sản phẩm được chế biến từ quả vải. Theo Sauco [47] năng suất vải trên giới đạt trung bình khoảng 60-70 kgcây (2,5 - 5,4 tấn/ha), cây tốt có thể đạt tới 125 - 130 kg/cây (8-10 tấn/ha). Năm 1993 Đài Loan đã xuất khẩu quả vải tươi với tổng số 6.989 tấn, Hồng Kông là thị trường tiêu thụ vải lớn nhất của Đài Loan (1.925 tấn), tiếp theo là Canada (1.248 tấn), Nhật Bản (1.227 tấn) Philippin (1.061 tấn), Singapore (990 tấn). Trung Quốc xuất khẩu năm 1993 là 533 tấn vải tươi. Hồng Kông là thị trường tiêu thụ vải lớn nhất của Trung Quốc với 476 tấn, tiếp theo là Pháp (30 tấn) [21]. Thái Lan chủ yếu trồng các giống: HongHuay, O-Hia, Chakrapud, Kom, Jean và Sam poaw Koew. Năm 1993 Thái Lan xuất khẩu 7.651 tấn về đóng hộp (thu 256,1 triệu Bath) cho các nước Malaixia (2.514 tấn), Singapore (1.133 tấn), Mỹ (1.085 tấn), Hà Lan (472 tấn) [21]. Vải ở Ấn Độ được sản xuất tập trung tại phía Bắc tỉnh Bihar với các giống vải chính: Shahi, China, Longina và Madras. Hiện nay Ấn Độ xuất khẩu vải tươi không nhiều, chủ yếu xuất khẩu ở dạng đóng gói 2kg/hộp, trong khi sản phẩm nội tiêu thường là 15 - 18 kg hoặc 20kg/thùng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Ở Úc, thời gian sản xuất vải từ tháng 11- 3 đỉnh cao từ tháng 12 - 2 với giống vải chủ yếu là Taiso và Bengal. Năm 1993 Úc đã xuất khẩu 17 tấn vải cho Liên minh châu Âu là 14 tấn cho Singapore. Ở Mỹ vải được trồng nhiều ở Florida. Sản lượng vải năm 1992 đạt 39.000 tấn tại Hawai. Các giống Brewtes và Mauritius được trồng ở đây với thời gian thu hoạch từ giữa tháng 6 tới giữa tháng 7 [21]. Tóm lại, quả vải ngày càng phổ biến trên thị trường các nước thuộc liên minh châu Âu (EU), các nước Pháp, Đức, Anh mỗi năm nhập khoảng 15.000 tấn vải từ Nam Phi, Mauritius, Reunion, Madagasca, Israel, Thái Lan và một phần từ Trung Quốc thông qua Hồng Kông. Ở Đông Nam Á, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản mỗi năm nhập khoảng 10.000 tấn vải (gồm cả vải tươi, khô và vải hộp) chủ yéu từ Trung Quốc, Đài Loan và Thái Lan (Nguyễn Thị Nga, 1999) [21]. * Tình hình tiêu thụ vải Tổng sản lượng vải xuất nhập khẩu trên thị trường thế giới khoảng 100.000 tấn/năm. Thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới có thể nói đến Hồng Kông và Singapore. Trong tháng 6 và 7, thị trường này tiếp nhận khoảng 12.000 tấn vải từ Trung Quốc, Đài Loan và Thái Lan. Đức và Pháp nhập 10.000 - 12.000 tấn vải từ Madagasca và Nam Phi trong tháng 10 đến đầu tháng 3 năm sau. Một lượng nhỏ được nhập từ Israel trong tháng 7 đến tháng 8 và từ Australia trong tháng 5, tháng 6. Sau năm 1980, vải từ Thái Lan, Đài Luan, Trung Quốc được bán sang Châu Âu và năm 1990, một lượng được xuất sang Ấn Độ. Vải đóng hộp chất lượng tốt được xuất sang Malaixia, Singapore, Mỹ, Australia, Nhật và Hồng Kông (Ghosh, 2000) [48]. Năm 2000, Thái Lan xuất khẩu 12.475 tấn vải tươi và sấy khô trị giá 15,4 triệu Đôla Mỹ sang thị trường Singapore, Hồng Kông, Malaysia, Mỹ (Anupunt, 2003) [45]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Theo Xuming H, Lian Z.(2001), gần một nửa sản lượng vải của Trung Quốc tiêu thụ tại thị trường nội địa. Hàng năm, Trung Quốc chỉ xuất khẩu một lượng khoảng 10.000 - 20.000 tấn (chiếm khoảng 2% sản lượng vải). Thị trường xuất khẩu của Trung Quốc chủ yếu là Hồng Kông, Singapore và một số nước Đông Nam Á. Giá vải của Trung Quốc giao động từ 0,5 đến 2,5 USD/kg tùy thuộc vào chất lượng quả và thời vụ thu hoạch, cao nhất là giá của các giống No Mai Chee và Kwai May hạt nhỏ với giá 10,0 USD/kg, giá trung bình tại Singapore và Anh là 6 USD/kg, tại Nam Mỹ là 15 USD/kg [57], [66]. Đài Loan hàng năm xuất khẩu khoảng 5.700 tấn vải cho các nước: Philppines: 2000 tấn; Nhật: 1000 tấn; Singapore: 500 tấn; Mỹ: 1.200 tấn và Canada: 1.000 tấn. Australia là nước sản xuất vải với số lượng ít, nhưng lại tập trung chủ yếu cho xuất khẩu. khoảng 30% sản lượng vải của Australia xuất khẩu cho Hồng Kông, Singapore, Châu Âu và các nước Ả Rập nhưng Australia lại phải nhập khẩu vải của Trung Quốc vào những tháng trái vụ. Thị trường nội địa là thị trường mạnh tiêu thụ vải tươi của hầu hết các quốc gia sản xuất vải trên thế giới. Các nước hàng năm chỉ xuất khẩu một lượng vải rất nhỏ trong thị trường thế giới ( Menzel, 2002) [57]. 2.3.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ vải tại Việt Nam * Tình hình sản xuất Cây vải được trồng ở các tỉnh phía Bắc, tập trung ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ (Thái nguyên, Việt Nam, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Dương, dọc hai bờ sông Đáy trên địa bàn Hà Tây, hai bên bờ sông Hồng từ Việt Trì ngược lên). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Bảng 2.2. Tình hình sản xuất vải ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam Chỉ tiêu Vùng trồng Diện tích (ha) Diện tích thu hoạch (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lƣợng (tấn/ha) Bắc giang 39.835 39.238 58,2 228.558 Hải Dương 14.219 12.634 37,7 47.632 Lạng Sơn 7.473 5.501 23,1 12.684 Thái nguyên, Việt Nam 6.861 4.692 18,7 8.878 Quảng Ninh 5.174 3.847 45,1 17.349 Các tỉnh khác 20.250 20.080 51,3 103.010 Tổng 93.812 85.992 48,62 418.111 (Nguồn: Tổng cục thống kê 2007) Số liệu bảng 2.2. cho thấy, đến năm 2007, diện tích trồng vải của Việt nam đạt 85.992 ha với sản lượng 418.111 tấn (chiếm 32,9% diện tích và 24,8% tổng sản lượng cây ăn quả của miền Bắc) Ở miền Nam các vùng cao như: Đà Lạt, Buôn Mê Thuật, Kon Tum đang trồng thử và bước đầu đã có kết quả. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long ở huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, có trồng vài chục cây vải 40 - 50 tuổi, cây ra hoa, kết quả bình thường nhưng quả nhỏ (6g) chất lượng quả ngon. Theo Vũ Công Hậu năm (1999) [16] Ưu thế lớn nhất của cây vải là: Dễ trồng, chăm sóc đơn giản, chịu được đất chua, đất đồi dốc là loại đất rất phổ biến ở vùng đồi núi phía Bắc, thêm vào đó công tác bảo vệ thực vật đơn giản hơn các cây trồng khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 * Tình hình tiêu thụ Ở Việt Nam, Khoảng 75% sản lượng vải của cả nước được tiêu thụ ngay trong thị trường nội địa, phần còn lại được sơ chế, xuất khẩu tươi và chế biến. Các sản phẩm sơ chế và chế biến gồm vải sấy khô, vải lạnh đông, vải nước đường và Purê vải. Thị trường xuất khẩu vải tươi còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân như: khả năng bảo quản của quả vải ngắn, chất lượng về sinh an toàn thực phẩm hạn chế, điều kiện vệ sinh cơ sở hạ tầng sau thu hoạch kém. Thị trường xuất khẩu vải của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Sỹ, Mỹ và một số quốc gia khác trong khu vực và thị trường Châu Âu. Bảng 2.3: Sản lƣợng các sản phẩm chế biến vải ở Việt Nam năm 2007 TT Loại sản phẩm Sản lƣợng (tấn) Ghi chú 1 Vải hộp, lọ 1.114 Chủ yếu sản phẩm đóng hộp 2 Purê vải 600 3 Vải lạnh đông IQF 200 4 Vải lạnh đông Block 246 Tổng số 2.160 (Nguồn: Tổng Công ty Rau quả Việt Nam - 2007) Thị trường vải tươi chủ yếu ở Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh, vải sấy khô chủ yếu bán sang Trung Quốc và một phần sang Lào, Campuchia. Hầu hết sản phẩm vải của tư thương tiêu thụ, có rất ít tổ chức đứng ra thu mua vải cho người sản xuất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Bảng 2.4. Lƣợng xuất khẩu các mặt hàng từ quả vải 6 tháng năm 2007 TT Mặt hàng Nƣớc nhập khẩu Sản lƣợng (tấn) Giá trị (USD) 1 Vải tươi Hàn Quốc - 34.000 2 Vải hộp Nhật Bản Pháp 17,35 125,84 14.700 116.225 3 Vải đông lạnh Hà Lan, Hàn Quốc 46,00 22,00 51.750 22.810 Tổng cộng 211,19 239,495 (Nguồn: Tổng công ty Rau quả Việt Nam - 2007) 2.3.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ vải ở Thái Nguyên, Việt Nam Thái nguyên, Việt Nam là một tỉnh miền núi trung du, nằm trong vùng trung du và miền núi phía Bắc, có diện tích tự nhiên 3.541,50 km2, dân số hiện nay khoảng 1.108.775 người. Địa hình và khí hậu ở đây thích hợp cho cây ăn quả phát triển với nhiều cây cho sản phẩm đa dạng. Thái nguyên, Việt Nam theo đánh giá của các nhà chuyên môn thì là một trong những khu vực có điều kiện khí hậu và đất đai thích hợp cho cây vải phát triển (Vũ Văn Tùng, 2002) [31]. Diện tích cây ăn quả chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số diện tích đất nông nghiệp của tỉnh, diện tích một số loại cây ăn quả của Thái nguyên, Việt Nam được trình bày qua bảng 2.5 Bảng 2.5. Diện tích một số cây ăn quả của tỉnh Thái nguyên, Việt Nam STT Loại cây ăn quả 2003 2004 2005 Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 1 Nhãn, vải 8,93 71,76 8,947 72,48 8997 72,30 2 Cam, quýt, bưởi 515,00 4,14 342 2,77 426 3,42 3 Dứa 127,00 1,02 136 1,10 141 1,13 4 Cây khác 2,89 23,08 2919 23,65 2880 23,15 Tổng 12,43 100 12,344 100 12,44 100 (Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thái nguyên, Việt Nam năm 2005-2006) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Qua bảng 2.5 cho thấy diện tích nhóm cây ăn quả là vải nhãn chiếm tỷ lệ cao nhất và có sự tăng dần qua các năm từ 71,76% năm 2003 đến 72,30% năm 2005. Số liệu thống kê cho thấy, cơ cầu giống vải chủ yếu của Thái nguyên, Việt Nam có 3 nhóm chính: Đó là vải chua (vải tu hú), vải nhỡ vải lai và vải thiều. Trong nhóm vải thiều, vải thiều Thanh Hà có diện tích lớn nhất, chiếm hơn 70,99% diện tích, vải chua chiếm 5,53%, vải nhỡ khoảng 11,37%, còn lại là diện tích vải thiều Phú Hộ (Trần Thế Tục, 2004) [36]. Có thể thấy giống vải chua, vải nhỡ là giống chín sớm chiếm diện tích nhỏ so với diện tích trồng vải của toàn tỉnh, có chất lượng kém, chua và hạt to, tuy nhiên giá bán trên thị trường thường cao do giống này chín sớm hớn vải Thanh Hà khoảng 1 tháng. Hiện nay giống vải chín sớm mới đang được ưu tiên đưa vào cơ cấu trồng vải, tạo thị trường vải trước thời vụ thu hoạch rộ của vải Thanh hà đó là giống vải Hùng Long. 2.3.4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ vải tại huyện Đồng Hỷ Diện tích và sản lượng một số cây ăn quả chính của huyện Đồng Hỷ được trình bày qua bảng 2.6. Bảng 2.6. Diện tích, sản lƣợng một số cây ăn quả chính ở huyện Đồng Hỷ STT Loại cây ăn quả Diện tích (ha) Diện tích cho thu hoạch (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lƣợng (tấn) 1 Xoài 42 40 31,8 127 2 Nhãn 294 294 42 1234 3 Vải 1496 1202 52,7 6334 4 Cam 15 15 45,3 67,9 5 Chanh 37 37 48,6 179,8 6 Dứa 28 28 78,6 220 7 Chuối 57 57 100,1 571 8 Bưởi 14 14 96,4 135 9 Na 159 159 84,9 153 10 Hồng 140 132 13,9 183,4 11 Cây ăn quả khác 170 170 30,9 526 Tổng 2452 2148 - 9731,1 (Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Đồng Hỷ 2008) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Số liệu bảng 2.6 cho thấy, cây vải có diện tích rất lớn so với diện tích cây ăn quả trong toàn huyện. Toàn huyện có 2452 ha cây ăn quả các loại trong đó chỉ riêng cây vải đã có diện tích lên tới 1496 ha trong đó diện tích cho thu hoạch lên đến 1202 ha. Tỷ lệ diện tích cây vải so với các cây ăn quả khác trong toàn huyện thể hiện qua đồ thị 2.1. Đồ thị 2.1. Tỷ lệ diện tích cây vải so với các loại cây ăn quả khác của huyện Đồng Hỷ năm 2008 Qua đồ thị 2.1 cho thấy diện tích cây vải chiếm tỷ lệ tới 61,01% trong tổng số diện tích cây ăn quả của toàn huyện, chứng tỏ vai trò quan trọng của loại cây ăn quả này trong cơ cấu diện tich cây ăn quả của huyện Đồng Hỷ. Tuy có diện tích lớn song thị trường tiêu thụ vải của huyện Đồng Hỷ đa số là bán quả tươi cho khu vực trong tỉnh và một số địa bàn lân cận. Một số khu vực trồng vải chín sớm của huyện đã cho thu hoạch nhưng diện tích còn ít, năng suất thấp do nhiều nguyên nhân. 2.4. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CÂY VẢI Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI 2.4.1. Nghiên cứu về đặc điểm thực vật học và yêu cầu sinh thái 2.4.1.1. Đặc điểm thực vật học a. Đặc điểm rễ: Cây vải có bộ rễ rất khoẻ gồm rễ ăn đứng và rễ ăn ngang, bộ rễ ăn nông, sâu, rộng, hẹp phụ thuộc cách nhân giống, đất trồng, nước, phân bón và 38.99% 61.01% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 chế độ nhiệt trong đất. Vải trồng bằng hạt rễ ăn sâu 4-5m, trồng bằng cành chiết rễ ăn nông 1,2 - 1,6m. Đại bộ phận rễ tập trung ở tầng 60cm, độ lan xa của rễ thường gập 1,5 - 2 lần tán cây, rễ tơ tập trung trong khu vực hình chiếu của tán và độ sâu 40 cm trở lại. Rễ vải có khả năng hấp thu mạnh nên cây có khả năng chịu hạn tốt. Rễ vải có nấm cộng sinh tạo thành nội khuẩn căn giúp cho rễ hút được nước, cung cấp dinh dưỡng trong điều kiện khô hạn (Trần Thế Tục và cs, 1997) [32]. b. Đặc điểm thân, cành Cây vải là cây bụi thường xanh, cây trưởng thành thường cao từ 10 - 10m, thân to, vỏ phẳng, nhẵn, mầu nâu xám hoặc nâu đen, gỗ có vân mịn mầu nâu. Tán cây hình mâm xôi, hình bán cầu, đường kính tán 7 - 12m. cành chính to khoẻ, phân nhánh nhiều, hơi cong, phân bố đều về các phía. thế cây tùy thuộc theo giống, các giống vải Nếp, Trần Tử, Lam Trúc tán hơi doãng rộng, các giống Quế vị, Ô Diệp vươn thẳng, các giống Hoài Chi, Lam Trúc cành mọc dày, ngắn, tán khít, các giống thuỷ Đông, Tam Nguyệt Hồng cành thưa, dài. Cây vải nhân giống bằng phương pháp chiết hay ghép từ khi trồng đến 3 năm tuổi chủ yếu là sinh trưởng dinh dưỡng. Trong thời kỳ này bộ khung tán phát triển mạnh, một năm có thể ra 5 - 6 đợt lộc (Nghê Diệu Nguyên và cs, 1991) [23]. c. Đặc điểm lá Thuộc lá kép lông chim gồm 2 - 4 đôi, mọc so le, lá chét cứng, dai có chất sừng. Cuống là ngắn, mặt lá xanh đậm, gân nhẵn, không nổi rõ trên lá. Mút lá nhọn, gốc lá hơi tù, lá non khi mới ra mầm tím đỏ, khi thành thục mầu xanh đậm, hình dạng và màu sắc lá có thể dùng để phân loại các giống khác nhau. Tuổi thọ của lá từ 1 - 2 năm, trong cùng một giống lá ra ở các mùa cũng không hoàn thành giống nhau do ảnh hưởng của nhiệt độ, nước, dinh dưỡng (Trần Thế Tục và cs, 1997) [32]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 d. Đặc điểm hoa Vải có 3 loại hoa cơ bản: hoa đực, hoa cái và hoa lưỡng tính, hoa vải rất bé, không có cánh, hoa đực có khả năng tung phấn để thụ tinh, hoa cái được thụ tinh sẽ phát triển thành quả. Hoa lưỡng tính có thể kết quả được nhưng ít thấy, hoa cái thường có 2 bầu, sau khi thụ tinh xong thì quả phát triển, thường chỉ có một bầu phát triển thành quả (Trần Thế Tục và cs, 1997) [32]. - Hoa cái: hoa cái phát triển hoàn toàn, ba bộ phận bầu nhuỵ, vòi nhuỵ và đầu nhuỵ phân hoá khá rõ. Bầu nhuỵ phát triển thường có 2 - 3 tâm bì. Bầu nhuỵ có 3 tâm bì thì cả hai đều mọc sóng đôi hàng đều, bầu nhị có 3 tâm bì thì sắp xếp theo hình chân đỉnh. Trong bầu nhị có phôi chân mọc ngược có thể thụ tinh kết quả. Khi nhuỵ đã chín thì đầu nhuỵ tiết ra dịch dính là thời điểm thụ phấn tốt nhất. Chỉ nhị của hoa này rất ngắn khoảng 0,5 cm chỉ cao bằng bầu nhị bao phấn to, thông thường không nứt ra, cho dù có nứt cũng không có phấn ra được (Nguyễn Văn Dũng và cs, 2005) [9]. Hoa cái sau khi thụ phấn, thụ tinh sẽ đậu quả. Với sản xuất, hoa cái có ý nghĩa quan trọng, nó chiếm khoảng 30%. Với các giống khác nhau, tuổi cây khác nhau, ra hoa sớm hoặc muộn, thì tỷ lệ hoa cái cũng khác nhau [9]. - Hoa đực: Thường gọi là “hoa giả” bao gồm hoa đực mà nhuỵ này hoàn toàn thoái hoá và nhuỵ cái phát triển không hoàn toàn, nhuỵ thoái hoá chỉ còn dấu vết nhị được mọc trên mầm hoa, phấn nhiều 6 - 8 nhị. Chỉ nhị dài, bao phấn to, phấn hoa khi chín có màu vàng, nhị đực thường có hạt phấn tốt, hoa đực tiêu hao dinh dưỡng nhiều, nên cần có biện pháp giảm tỷ lệ hoa đực [9]. - Hoa lưỡng tính: có nhị đực, nhuỵ cái cùng phát triển, nhị có thể tung phấn bình thường, đầu nhuỵ có thể nứt ra để thụ phấn, thụ tinh. Đây là loại hoa hoàn toàn có thể kết thành quả, nhưng số lượng hoa lưỡng tính không nhiều (Anonymous, 2000) [44]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 - Hoa biến thái (hoa dị hình): có bầu nhuỵ, bầu nhuỵ có 1 hoặc nhiều ngăn sắp thành một hàng hay nhiều tầng, đầu nhuỵ tách đôi hoặc tách thành nhiều khía, trong đó nhuỵ chỉ có một tâm bì phát triển bình thường, còn các tâm bì khác bị thoái hoá và teo đi. Biến thái của nhị cũng biểu hiện đa dạng, có nhị mọc trên chuỗi nhuỵ, gối chỉ thị và bầu nhuỵ hợp làm một, đầu cuối bộ phận hợp sinh này mọc ra bao phấn một ngăn. Đoạn cuối bao phấn thành chỉ nhị. Số nhị của hoa dị hình dao động rộng từ 3 - 19 cái ( Nguyễn Văn Dũng và cs, 2005) [9]. Khả năng ra hoa, tỷ lệ các loại hoa và tỷ lệ đậu quả của các giống khác nhau có sự khác nhau do tác động của cả hai yếu tố đặc tính giống và điều kiện sinh thái (Vũ Mạnh Hải 1986) [12]. Thông thường cành hoa ngắn, có tỷ lệ đậu quả cao, mật độ quả dầy và đều hơn so với loại hình cành hoa dài [40]. Thông thường trong một chùm hoa, hoa đực và hoa cái không cùng nở một lúc, cho nên nếu chỉ trồng thuần một loại giống thì dễ xảy ra sự thụ phấn không tốt, đậu quả kém. Do vậy trong sản xuất cần phải trồng thêm các giống khác nhau, để tăng năng thụ phấn của cây. Số lượng hoa vải nhiều nhưng tỷ lệ đậu quả thấp. Khi hoa nở gặp ngày nắng ấm, ít mây mù, ít mưa phùn thì việc thụ phấn thuận lợi, tỷ lệ đậu quả cao ( Vũ Mạnh Hải, 2004) [13]. e. Đặc điểm quả Có nhiều dạng: hình trứng, hình bầu dục, hình trái tim, hình cầu… Tuỳ từng giống, lúc còn xanh quả có màu xanh nhạt, khi chín màu đỏ thẫm tím hoặc xanh tuỳ giống. Cùi vải thường chiếm 60 - 70%, vỏ và hạt chiếm 20 - 46% khối lượng quả. Cùi vải mầu trắng vị ngọt pha chua hoặc rất chua tuỳ từng giống. Hạt vải bình bầu dục dài, mầu nâu bóng (Trần Thế Tục, 1997) [33]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 2.4.1.2. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của cây vải a. Giai đoạn sinh trưởng Trên cây đã cho quả một năm có 2-3 đợt lộc vào tháng 2, sau thu hoạch tháng 6-7 và tháng 9-10. Khi cây đã già thì một năm chỉ có 2 đợt lộc vào tháng 3 và tháng 9. Đợt lộc vụ xuân nếu không có hoa thì sẽ thành cành dinh dưỡng, nếu cành mang hoa thì lá cành quả, loại cành này mọc trên cành vụ thu năm trước, bởi vậy phải chăm sóc tốt cành vụ thu thì năm sau mới có nhiều cành cho quả (Trần Thế Tục, Ngô Bình, 1997) [34]. b. Giai đoạn phát triển Theo Sauco [47]: thời gian từ khi trỗ hoa đến khi quả vải chín kéo dài 3-4,5 tháng ở vùng nhiệt đới và từ 4-6 tháng ở vùng bán nhiệt đới. Cây trồng bằng hạt sau trồng từ 6 năm trở lên mới trổ hoa, cho quả. Cây trồng bằng cành chiết thì sau 3 - 4 năm đã cho quả. Cây trồng bằng cành ghép có thể ra hoa và cho quả trước cây trồng bằng cành chiết. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc đậu hoa ở cây ăn quả tuỳ thuộc vào 2 yếu tố: Tinh bột (Hydrat carbon) và chất kích thích sinh trưởng. Sự trỗ hoa của cây vải, tuỳ thuộc bình quân giữa chất khởi điểm tăng trưởng (hay chất ức chế, ngăn trỗ hoa) do các lá non đang lớn phát sinh và một chất ức chế trổ hoa do đó là già phát sinh (Trần Thế Tục, 1997) [33]. Theo các tác giả Trung Quốc, quả vải phát triển qua 3 giai đoạn và cùng xuất hiện 3 lần rụng quả [33]. - Giai đoạn 1: Tế bào tăng trưởng mạnh để phát triển phôi, vỏ hạt, vỏ quả. Sau hoa cái nở 10 ngày, quả bằng hạt đậu thì rụng quả sinh lý đợt 1. - Giai đoạn 2: Hạt lớn nhanh, vỏ quả cứng lại, cùi dần bao cứng hạt. Khi cùi bao từ 1/3 - 2/3 hạt, do dinh dưỡng không đầy đủ hoặc nguyên tố kích thích bên trong giảm nên xuất hiện rụng quả lần 2. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 - Giai đoạn 3: Cùi phát triển nhanh và quả chín. Thời gian này dinh dưỡng và chất khoáng tích luỹ nhanh vào quả, vỏ quả đã có một phần chuyển mầu. Do cường độ tích luỹ nhanh, nếu gặp thời tiết bất thuận (nắng hạn, mưa to) sẽ làm rụng quả. Hiện tượng rụng quả lần 3 thường trước thu hoạch một tuần. 2.4.1.3. Yêu cầu về sinh thái của cây vải Cây vải yêu cầu rất chặt chẽ đối với các yếu tố khí hậu: nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng… những yếu tố này tác dộng đồng thời, chịu ảnh hưởng lẫn nhau và mức độ ảnh hưởng có liên quan chặt chẽ đến bản chất các giống. a. Yêu cầu về nhiệt độ Nhiệt độ là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực cảu cây vải. Quan hệ giữa nhiệt độ và sinh trưởng dinh dưỡng đã được Nguyễn Thiên Đường (1984) nghiên cứu cho thấy cây vải sinh trưởng ở vùng có nhiệt độ trung bình năm 21 - 25oC phản ứng tốt: Giống chín muộn ở nhiệt độ 0oC và giống chín sớm 4oC thì sinh trưởng dinh dưỡng ngừng trệ. Khi nhiệt độ 8 - 10oC thì bắt đầu khôi phục sinh trưởng, 10 - 12oC sinh trưởng chậm, 21oC trở lên sinh trưởng tốt, ở 23 - 26 oC sinh trưởng mạnh nhất. Khi nhiệt độ giảm xuống 0oC chưa bị hại, -1,5oC lộc thu bị hại nghiêm trọng (Nguyễn Văn Dũng và cs, 2005) [9]. Ở vùng nhiệt đới (Indonexia, Nam Trung Quốc, Philippin, Guatemala - Cu ba), nhiệt độ tối thấp không bao giờ dưới 10oC, cây vải sinh trưởng khoẻ, nhưng không bao giờ ra hoa. Một số tác giả cho rằng sự ra hoa thất thường ở một số nước có nguyên nhân bởi nhiệt độ cao (Menzel, 1998) [54]. Những nghiên cứu của Vũ Mạnh Hải cho thấy độ các tháng 12 đến tháng 2 năm sau, lượng mưa tháng 11, 12 số giờ nắng tháng 11, 12 có tương quan đến sản lượng (Vũ Mạnh Hải và CTV, 1986) [12]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 MenZel, S.V. Galan, U.G. Minnini [50],[53],[55] nhận thấy sự phân hoá mầm hoa của vải có quan hệ với sự bất lợi của môi trường và đã đưa ra các yếu tố lý tưởng của điều kiện khí hậu liên quan đến sinh trưởng và phát triển của cây vải hàng năm như sau: 1. Không có sương giá 2. Không có giá khá lớn 3. Ra lộc nhiệt độ từ 26 - 30 oC, độ ẩm tương đối cao, mưa nhiều 4. Giai đoạn phân hoa mầm hoa, nhiệt độ cao nhất trong mùa đông phải dưới 20 oC lượng mưa thấp hơn 50mm/ tháng, trong 3 tháng trước khi xuất hiện mầm hoa. 5. Ra hoa nhiệt độ từ 16 - 22 oC, độ ẩm vừa phải 6. Đậu quả nhiệt độ từ 18 - 24 oC, độ ẩm vừa phải 7. Khi quả chín, nhiệt độ từ 24 -28 oC, có mưa, bức xạ lớn, độ ẩm tương đối cao. 8. Khi quả chín, nhiệt độ và ẩm độ vừa phải 9. Đất sâu, thoát nước tốt, không mặn, kết cấu và độ phì đất thay đổi tuỳ theo giống vài trồng. Ở Trung Quốc, Nghê Diệu Nguyên cho thấy mùa đông có nhiệt độ thấp thì có lợi cho phân hoá mầm hoa. Nhu cầu về nhiệt độ của các giống vải có khác nhau: Giống chín sớm như Tam Nguyệt Hồng, nhiệt độ tương đối cao cũng có thể hình thành mầm hoa. Giống chín muộn như Hoài Chi cho thấy nhiệt độ từ 0oC - 10oC, thời gian đầu có lợi cho phân hoá mầm hoa, những lá nhỏ (ở cụm hoa gốc) bắt hình thành thì teo đi và cụm hoa không có lá, nhiệt độ ừ 11 - 14oC lá nhỏ và cụm hoa dần dần phát dục thành cụm hoa có giá trị kinh tế. Nhiệt độ trên 19oC không có lợi cho phân hoá mầm hoa, chỉ có lợi cho sinh trưởng. Đồng thời tác giả nhận thấy đối với giống Hoài Chi và các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 giống chín muộn, chỉ cần sinh trưởng của cành cây khoẻ mạnh, cành mẹ mùa thu thành thục, bình quân nhiệt độ tháng 1, 2 là 18oC thì rất tốt cho hình thành hoa và đậu quả [16],[39]. b. Yêu cầu về ánh sáng Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Đương nhật lệ chi. Bội nhật long nhãn” (nghĩa là: vải trồng ở nơi có nhiều ánh mặt trời, còn nhạn có thể trồng nơi ánh sáng ít hơn). Tổng số giờ chiếu sáng trong năm là 1800 giờ trở lên khá thích hợp cho vải, ánh sáng đầy đủ giúp cho tác động đồng hoá tăng tích lũy hữu cơ, thuận lợi cho phân hoá mầm hoa, làm cho mã quả đẹp, nâng cao chất lượng. Cành lá quá dầy bị thiếu ánh sáng, dinh dưỡng tích luỹ ít, khó hình thành hoa bởi vậy thời kỳ ra hoa cần có số giờ nắng chiếu sáng nhiều nhưng không thích ánh sáng mạnh, bởi ánh sáng mạnh làm không khí khô, lượng bốc hơi lớn, bao phần rễ bị khô, nồng độ mật hoa lớn ảnh hưởng đến thụ phấn thụ tinh. Mùa hoa, mưa râm triền miên, hiệu quả quang hợp thấp, dinh dưỡng mất cân đối để dẫn đến rụng quả nhiều. Theo kết quả nghiên cứu về giống vài Hắc Diệp: số giờ chiếu sáng nhiều thì lượng hoa cái bình quân một chùm tăng lên tương ứng (Nghê Diệu Nguyên, Ngô Tố Phần, 1991) [23]. c. Yêu cầu lượng mưa và độ ẩm Cây vải ưu nhiều độ cao, ẩm độ, tổng lượng mưa có đầy đủ hay không là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sinh trưởng phân hoá mầm hoa và ra hoa quả của vải. Mùa hè là thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng lượng mưa tương đối nhiều, thời kỳ sinh trưởng sinh thực lượng mưa tương đối ít. Mùa đông ít mưa, đất khô hạn, độ ẩm không khí thấp đã ức chế sinh trưởng của rễ và cành, nâng cao độ dịch trong cây thuận lợi cho phân hoá mầm hoa [23]. Ở huyện Bác Bạch tỉnh Quang Tây - Trung Quốc tháng 11/4981 - 1/1982 lượng mưa chỉ 27,1 mm, thời gian khô hạn dài, năm đó lượng hoa rất nhiều. Trái lại mùa đông mưa nhiều, cây dễ nảy lộc đông, không thuận lợi cho phân hoá mầm hoa nên chất lượng hoa kém [23]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Thời gian phân hoá mầm hoa, lượng mưa có ảnh hưởng đến tính đực cái của hoa. Theo kết quả phân tích mối tương quan: Lượng mưa thượng tuần và hạ tuần tháng 1 có mối quan hệ thật chặt chẽ với hoa cái hệ số tương quan phân biệt là 0,8966** và 0,9766**. Tuy nhiên lượng mưa giai đoạn này nói chung có mối tương quan nghịch với tổng số hoa và số hoa đực bình quân 1 chùm. Cuối thời kỳ phân hoá hoa tưới nước đầy đủ thì tổng số hoa và số hoa đực bình quân một chùm hơi giảm, nhưng số hoa cái bình quân một chùm chịu ảnh hưởng không lớn [23]. Mưa nhiều ảnh hưởng đến thụ phấn, thụ tinh. Thời kỳ quả non mà gặp trời mưa và râm nhiều ngày hiệu quả quang hợp thấp dễ rụng quả. Thời kỳ ra hoa cần lượng mưa thích hợp, cách mấy ngày có một trận mưa, nếu khô hạn sẽ trở ngại cho quả sinh trưởng phát triển, dẫn đến rụng quả hàng loạt. Thời kỳ quả chín hạn lâu, gặp mưa đột ngột, nước quá nhiều thì phần lớn quả bị nứt. Mưa nhiều nước trong đất nhiều, kém thông thoáng ảnh hưởng đến hoạt động của rễ. Ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam, có chế độ mưa và ẩm tương đối thích hợp cho sinh trưởng, phát triển của cây vải. Mùa khô bắt đầu vào tháng 11, 12 và cũng là lúc vải cần điều kiện khô và lạnh để phân hoá mầm hoa, ra hoa. Mùa mưa bắt đầu vào tháng 4, 5 là lúc vải cần nhiều nước để nuôi quả đang lớn (Phạm Văn Côn, 2004) [5]. d. Yêu cầu gió: Gió có tác động điều hoà không khí. Mùa hoa ngày nắng, ẩm độ thấp gió có tác dụng hỗ trợ hoa thụ phấn, thụ tinh. Trong điều kiện bình thường cây tung phấn ở độ cao 2,5 - 3,5 m thì phấn hoa chủ yếu là rơi xuống dưới tán và trong phạm vi 10 m xung quanh tán. Mùa hoa nở, vải sợ gió Tây Bắc và Đông Nam qua đêm. Gió Tây Bắc khô, rễ làm cho đầu nhuỵ khô ảnh hưởng thụ phấn, gió Nam qua đêm độ nóng ẩm ướt rễ làm cho hoa héo dần đến rụng hoa. Thời gian quả phát triển, dông bão làm quả rụng, nếu đông bão mạnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 làm gẫy đổ cây. Bởi thế khi thiết kế chọn vườn cần chọn đất và thiết kế lại rừng chắn gió [23]. e. Yêu cầu về đất Theo FAO: Cây vải ít đòi hỏi về đất đai. Về lý tính đất, cây vải không yêu cầu độ sâu về tầng canh tác của đất như cây xoài, cây bơ. Vải mọc khá tốt trên đất chỉ có độ sâu tầng canh tác 40 cm, thậm chí còn mọc trên đất vôi ở Flodia (Mỹ) (Sauco, 1989) [47]. Loại đất thích hợp nhất cho cây vải là đất phù sa có tầng canh tác dày, chua nhẹ (pH từ 5,5 - 6,5). Có thể trồng vải trên đất đồi dốc thuộc phù sa cổ, sa thạch hoặc sa phiến thạch có tầng canh tác dày, thoát nước tốt. Vùng đất trũng cũng trồng được vải, nhưng phải làm thành luống đất cao, rãnh thoát nước (Trần Thế Tục và cs, 1997) [32]. Trên đất kiềm (pH = 8,5) cũng có thể trồng vải được nhưng phải bón phân vi lượng cần thiết. Để có năng suất cao vải cần nhiều đạm, lân, kaly, canxi, manhê và các phân vi lượng khác [47]. Cây vải có tính thích nghi cao đối với điều kiện đất. Các loại đất vùng đồi núi như đất đỏ, đất vàng, đất tím, đất cát pha, đất sỏi… đất đồng bằng như đất thịt nặng, đất phù sa, đất cát ven sông… cây vải đều sinh trưởng tốt và kết quả được (Nghê Diệu Nguyên, Ngô Tố Phần, 1991) [23]. Đất đồi núi, đất đồi địa thế cao, tầng đất dày, tiêu nước tốt, nhưng nghèo chất hữu cơ, độ phì thấp, qua cầy xới sâu cải tạo đất thì bộ rễ ăn sâu và rộng, thế sinh trưởng của cây trung bình, so với cây vải trồng ở đồng bằng thì cây vải trồng ở vùng đồi có tuổi cao hơn, vỏ quả dày hơn, mã quả đỏ tươi, vị ngọt chất lượng khá. Như vậy đất nào cũng có thể trồng vài được thậm chí cả đất đồi chua độ phì kém, vì rễ vải có thể cộng sinh với một loại nấm rễ (Mycorhire) sống ở đất chua (theo tài liệu Trung Quốc) gọi là “địa khuẩn căn” có thể phân giải khoáng trong đất để hút dinh dưỡng nuôi cấy (Tôn Thất Trình, 1997) [29]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 2.4.2. Nghiên cứu về kỹ thuật thâm canh cây vải * Nhu cầu dinh dưỡng và phân bón cho vải Khi tiến hành phân tích đất đai trong nhiều năm và khả năng sinh trưởng phát triển của vải, Menzel.C (2002), [57] đã xác định hàm lượng các chất dinh dưỡng thích hợp cho đất trồng vải. Với cây vải trong thời kỳ chưa cho quả, bón phân chủ yếu tập trung nuôi cây và thúc đẩy sự sinh trưởng của thân cành, nguyên tắc bón phân của thời kỳ này là nên bón làm nhiều lần và bón lượng ít cho mỗi lần. Năm thứ nhất do bộ rễ hẹp, tán nhỏ nên bón: 20 - 25g Urê, 15 - 20 g KCl và 50 - 70 g Lân Supe. Từ những năm sau, lượng bón tăng lên 40 - 60% so với năm thứ nhất tùy thuộc vào trạng thái sinh trưởng của cây, loại phân và tính chất đất. Hàm lượng dinh dưỡng thích hợp cho đất trồng vải được thể hiện ở bảng 2.7. Bảng 2.7. Hàm lƣợng dinh dƣỡng thích hợp cho đất trồng vải tính theo tỷ lệ TT Loại dinh dƣỡng Khoảng tối thích 1 Đạm (%) 1,50 - 1,80 2 Lân (%) 0,14 - 0,22 3 Kaly (%) 0,70 - 1,10 4 Canxi (%) 0,60 - 1,00 5 Magiê (%) 0,30 - 0,50 6 Sắt (ppm) 50 - 100 7 Mangan (ppm) 100 - 250 8 Kẽm (ppm) 15 - 30 9 Đồng (ppm) 10 - 25 10 Bo (ppm) 40 - 60 11 Natri (ppm) < 500 12 Clo (%) < 0,25 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Kỹ thuật bón phân cho cây được các nước trên thế giới nghiên cứu, áp dụng dựa trên cơ sở phân tích dinh dưỡng đất, phân tích dinh dưỡng lá và năng suất ở vụ quả trước. Tỷ lệ các loại phân bón được coi là thích hợp với cây vải ở Trung Quốc là: N: P: K = 1: 0,4: 0,6 - 0,8 hoặc 1: 0,4: 1,6 - 1,8. các loại phân vi lượng như: Mg, Mn, Zn, Bo... cũng được áp dụng phun bổ sung lên lá cho cây nhằn tăng khả năng chống chịu cho cây, tăng tỷ lệ đậu quả, giữ quả,chống nứt quả và làm tăng phẩm chất quả. Theo Trần Thế Tục dựa vào thành phần dinh dưỡng trong lá và quả để đưa ra nhu cầu phân bón: Loại gì, tỷ lệ, liều lượng và thời kỳ bón thích hợp [34], [35]. Cây vải cần rất nhiều kali, sau đó đến đạm và lân. Cây vải rất cần đạm nhưng khi sử dụng chú ý liều lượng và thời kỳ bón thích hợp để không làm ảnh hưởng đến quá trình phân hoá mầm hoa. Làm giảm năng suất vải. Lân ít tương quan đến năng suất miễn là cây không thiếu quá nhiều lần, nếu lân quá nhiều làm cho hàm lượng đạm và kali trong cây giảm. Thời kỳ cây vải ra hoa cần rất nhiều kali, hàm lượng kali trong lá lúc thu hoạch tương quan thuận lợi năng suất, vì vậy giữ được hàm lượng kali trong lá cao là rất ý nghĩa trong sản xuất (Trần Thế Tục, 1988) [35]. Bảng 2.8: Lƣợng phân bón cho vải ở một số nƣớc Quốc gia Lƣợng dinh dƣỡng (g/cây/năm) Thời điểm bón N P K Florida (Mỹ) 435 - 653 588 - 882 460 - 690 Tháng 3, 5, 7 Hawai (Mỹ) 763 327 633 Tháng 12, 7 Ấn Độ 1.580 211 300 Tháng 12, 2, 4 Nam Phi 500 400 200 Tháng 2, 3 Đài Loan 450 218 458 Tháng 2, 4, 6 Úc 585 240 730 Tháng 3, 10 Trung Quốc 1.820 980 1.400 Tháng 2, 4, 7 Hồng Công 615 442 486 Tháng 2, 7 (Nguồn: Nghê Diệu Nguyên, Ngô Tố Phần - 1991) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Thời gian và số lần bón tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai mà chủ yếu là tính chất vật lý. Các nguyên tố vi lượng có thể phun lên lá nhằm kịp thời cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây, nhất là các nguyên tốt vi lượng như Bo, Kẽm, Sắt, Molipden… vì dùng một luợng nhỏ nên bón vào đất ít có hiệu quả so với phun lên lá bởi lượng phân được hấp thụ nhanh và tiết kiệm phân bón đơn. Khi tiến hành phân tích hàm lượng các chất khoáng trong lá vải ở một số trang trại vải ở Úc cho thấy yêu cầu dinh dưỡng qua lá vải từ tháng 5 - 8 là: 1,5 1,8%N, 0,14 - 0,22%P, 0,66 - 1%K, 0,3 - 0,5%Mg, 50 - 100mg/g Fe, 100 - 150mgMn, 15 - 30mgZn, 10 - 25mgCu, 25 - 60mg Bo (Menzel, 2000) [56]. 2.4.3. Nghiên cứu về sử dụng chất điều hoà sinh trƣởng cho vải Các chất điều hòa sinh trưởng còn được gọi là Hormon thực vật, điều khiển quá trình sinh trưởng phát triển của cây. Do chức năng điều chỉnh sự hình thành các cơ quan sinh sản và cơ quan dự trữ Hormon nên có tác dụng quyết định hình thành năng suất thu hoạch. Bằng việc sử lý các chất điều hòa sinh trưởng ngoại sinh cho các đối tượng cây trồng khác nhau con người có thể nâng cao năng suất và phẩm chất sản phẩm nông nghiệp [5], [27]. Theo Menzel (2002) [57], Auxin tổng hợp đã được sử dụng để điều kiển sinh trưởng và ra hoa vải ở Florida và Hawai vào những năm 1950 - 1960, phun NAA trên cây vải vào mùa thu thúc đẩy quá trình ra hoa. Menzel đã dùng GA 100 ppm, NAA 20 ppm, 2,4,5 - TP 10 ppm phun trên giống vải Rose Scented vào giai đoạn quả bằng hạt đậu làm giảm rụng quả. Trên giống Early Seedless và Calcuttia, phun IAA 20 ppm giảm rụng quả; GA3 100 ppm làm tăng kích thước của quả (Menzel, 2000) [56]. Yee và các cộng sự khi phun GA3 cho vải ở các nồng độ khác nhau từ 50 - 100 ppm có tác dụng làm giảm tỷ lệ nứt quả vải khi thu hoạch [68]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Prasal (1983) khi phun axit Trichlorophenoxy axetic kết hợp với axit α - apthalece axetic đã giảm tỷ lệ rụng quả sinh lý và nâng cao kích thước và trọng tượng quả [62]. Sauco (1988), Mitra và cộng sự (1991) khi phun GA3 cho vải với nồng độ 50 - 100 ppm cho thấy đã làm tăng tỷ lệ đậu quả, mã quả khi thu hoạch đẹp hơn, nâng cao năng suất [47], [58]. Vũ Mạnh Hải (2004) dùng một số hoá chất (bao gồm nguyên tố vi lượng H3BO3 1% và 5%) kết hợp chất điều hoà sinh trưởng NAA 20 ppm và ure phun vào thời kỳ quả non trên hai giống Thanh Hà và Phú Hộ đã làm tỷ lệ rụng quả, làm tăng năng suất.[13] Theo Phạm Văn Côn (2004), Đào Thanh Vân (1999), phun Ethrel cho vải có tác dụng làm giảm lượng hoa tổng số, tăng tỷ lệ hoa cái và tỷ lệ đậu quả, do vậy làn tăng năng suất rõ rệt. Phun chất điều hoà sinh trưởng đơn lẻ hay phối hợp đều làm tăng năng suất vải [5], [37]. Theo Nguyễn Khắc Thái Sơn (2005) khi phun GA3 cho vải thanh Hà ở các nồng độ từ 20 - 100 ppm ở các thời kỳ khác nhau cho thấy: GA3 làm tăng năng suất vải từ 51 - 59%, kéo dài được thời gian thu hoạch nhưng không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm [25]. Phạm Minh Cương (2005) phun GA3 và IAA phối hợp với Ethrel cho vải Hùng Long, Thanh Hà và Phú Hộ cho thấy: Các công thức thí nghiệm phun chất điều hoà sinh trưởng đều có lượng hoa tổng số giảm, tỷ lệ hoa cái tăng, tỷ lệ đậu quả và năng suất tăng một cách rõ rệt trong đó công thức phun GA3 50 ppm kết hợp với Ethrel cho hiệu quả cao nhấ [6]. Nguyễn Văn Dũng (2004) khi phun các chất điều hòa sinh trưởng và dinh dũng qua lá cho giống vải sớm Yên Hưng làm nâng cao năng suất và chất lượng quả. Công thức phun GA3 50 ppm kết hợp với B 0,1% và ure 0,5% cho khết quả tốt nhất, năng suất cao hơn 90% so với đối chứng [8]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 Đỗ Xuân Bình (2003) [1] khi phun hóa chất Ronstar kết hợp với Ethrel có hiệu quả cao trong việc xử lý những cây vải ra lộc đông, góp phần làm tăng tỷ lệ hoa/chùm và tăng năng suất vải Thanh Hà. Vũ Văn Tùng (2002) [31] khi phun GA3 30 ppm kết hợp IAA 20 ppm đã làm tăng năng suất vải Thanh Hà từ 17 - 24% đối với vải 10 tuổi và từ 19 - 30% ở vải 30 tuổi, nâng cao hiệu quả kinh tế từ 10 -16 triệu đồng/ha. Nguyễn Quốc Hùng (2005) khi sử dụng chất điều hoa sinh trưởng Paclobutrazol (PBZ) ở các nồng độ khác nhau phun cho vải chín sớm Bình Khê cho thấy: Tất cả các cây có xử lý PBZ đều không xuất hiện lộc đông, giảm kích thước chùm hoa, giảm tỷ lệ hoa đực, tăng tỷ lệ hoa cái, tăng tỷ lệ đậu quả và năng suất tăng một cách đáng kể trong năm thí nghiệm đầu tiên [17]. Trong chương trình ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, Hoàng Chúng Lằm và cộng sự (2005) đã sử dụng GA3 50 ppm, Grow lá xanh 0,25% và SF- 900 phun cho vải chín sớm Hùng Long kết quả cho thấy phun GA3 50 ppm có tác dụng tốt nhất, làm tăng năng suất và cải tiện chất lượng quả [18]. 2.4.4. Những nghiên cứu về các biện pháp tác động cơ giới Tỉa cành, tạo tán là biện pháp kỹ thuật giúp cho cây vải có được bộ khung tán cân đối, tăng khả năng quang hợp, khả năng chống chịu gió bão, bớt sâu bệnh, chóng ra hoa và đậu quả cao [1], [2], [5]. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc: Biện pháp quan trọng để cho vải năm nào cũng ra hoa là giữ lại lộc thu đúng lúc, khống chế lộc đông. Tuy nhiên trong ba loại lộc thu: lộc thu trên cành hè, lộc thu trên cành cắt ngắn, lộc thhu trên càch quả sau thu hoạch cho thấy lộc thu ra trên cành hè cá số quả đậu trên chùm và năng suất chùm quả cao nhất [12], [46], [51]. Tác giả R.A. Stern và công sự (2005) [63] cho thấy: Nếu cắt tỉa cho vải sớm từ giữa tháng 10 - 11 thì vải nở hoa, tuy nhiên nếu cắt tỉa muộn vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 tháng 12 - 2 làm cho tỷ lệ số cây trong vườn nở hoa giảm đi và năng suất giảm rỗ rệt. Điều này chứng tỏ đối với cây vải thời vụ thì kết quả có khi ngược lại. Theo tác giả Hieke S, Menzel C.M và công sự (2002): Khi cắt tỉa khoảng 50% số cành của vải và tỉa điều trên toàn cây cho thấy những cây cắt tỉa cho năng suất cao hơn từ 30% - 40% so với cây không cắt tỉa [57]. Hiện nay để giảm bớt sức ép trong mùa thu hoạch vải, đang chú trọng đưa vào cơ cấu giống các giống vải chín sớm nhằm góp phần rải vụ thu hoạch cho người trồng vải. Các giống vải chín sớm thường có đặc điểm là đợt lộc thu thành thực sớm, do đó xác suất bật lộc đông cao làm cho cây không có quả hoặc có thì năng suất cũng rất thấp. Nguyễn Văn Dũng (2005) [10] khi ngiên cứu các biện pháp cắt tỉa thích hợp cho giống chín sớm Yên Hưng cho thấy: Cắt tỉa theo phương pháp bấm đầu cành sau thu hoạch và cắt tỉa theo quy trình của viện Nghiên cứu rau quả có tác dụng điều chỉnh số lượng lộc hữu hiệu, nâng cao chất lượng lộc thu. Cắt tỉa cũng làm tăng tỷ lệ hoa cái, số chùm quả/cây và làm tăng năng suất vải. Hoàng Chúng Lằm (2005) [18] khi nghiên cứu về các biện pháp cắ tỉa cho vải Hùng Long cũng có nhân xét là cắt tỉa theo quy trình của Viện Nghiên cứu rau quả có tác động tích cực đến năng suất vải. Tác giả Hoàng Lâm và công sự (2000) khi nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nhằm ngăn chặn bệnh chết rũ cho cây vải thiều kết luận: Nếu cây vải bị bệnh được cắt tỉa đúng kỹ thuật (cắt nhẹ 1/3 tán đồng thời sử dụng với các biện pháp kỹ thuật khác) thì có tới 90% số cây hồi phục bật lộc thu bình thường và 100% số cây này ra hoa và đậu quả trở lại [20]. Ngô Xuân Bình (2005) khi nghiên cứu về các phương pháp cắt tỉa cho cây vải Thanh Hà cũng cho thấy: Biện pháp kỹ thuật cắt tỉa khoảng 10% số đầu cành sau khi thu hoạch có tác dụng tốt nhất đối với năng suất, năng suất vải đạt 27,74 kg/cây so với đối chứng là 16,92 kg/cây [2]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc đốn phớt cành đến sinh trưởng và năng suất vải Thanh Hà của Nguyễn Khắc Thái Sơn (2006) cho thấy: Đốn phớt cành vải sau khi thu hoạch từ 20 - 40 cm có tác dụng tăng đường kính lộc thu tăng số lượng quả trên chùm và tăng năng suất, thời điểm vải chín chậm lại từ 5 - 7 ngày, điều này rất có ý nghĩa với công tác rải vụ thu hoạch cho vải [26]. Bên cạnh công tác cắt tỉa cho vải thì khoanh vỏ có tác động tích cực đến sự nở hoa, tăng tỷ lệ hoa cái, giảm tỷ lệ rụng quả. Để đạt hiệu quả cao, khoanh vỏ nên áp dụng vào thời kỳ cuối của lộc thu, tuy nhiên đối với mỗi giống khác nhau phải có nghiên cứu cụ thể. Ở Trung Quốc giống Feizixiao được khoanh vỏ vào giữa tháng 10 nhưng giống Nuomici và giống Guiwei lại được khoanh vỏ vào tháng 11 và đầu tháng 12 với cành có đường kính 10 cm. nhưng cũng với hai giống vải này người ta lại khoanh vỏ vào tháng 5 với những cành có đường kính 5 cm, vết khoanh vỏ 2 - 4 mm, khoanh làm hai đường xoắn ốc, khoảng cách giữa hai vết khoanh từ 6 - 10 cm. khoanh vỏ có tác dụng làm 100% số cây trong vườn nở hoa so với 75% số cây nở hoa với vườn cây không khoanh vỏ [46],[65]. Kết quả nghiên cứu của C.M. Men Zel và các công sự (1998) [54] cho biết: Cắt khoanh vỏ một đường rộng 0,3 cm trên thân vải từ 8 -10 năm tuổi làm tăng năng suất từ 15 - 40 kg/cây. Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Minh Cương và Nguyễn Thị Thanh (2005) [6] thì đối với cây vải có đặc tính sinh trưởng mạnh, đặc biệt là giống vải Phú Hộ thì biện pháp khoanh vỏ có ý nghĩa rõ rệt trong việc làm giảm lộc đông, xúc tiến quá trình phân hoá mầm hoa. Thời gian khoanh vỏ tốt nhất cho vải Thanh Hà là 25/11. Phương pháp khoanh một vòng xoắn ốc trên cây cho năng suất cao đối với cả hai giống Thanh Hà và Phú Hộ. Đỗ Xuân Bình (2003) [1] và Ngô Xuân Bình (2005) [2] khi nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật khoanh vỏ cho cây vải Thanh Hà ở Thái nguyên, Việt Nam và Lục Ngạn cho thấy: Khoanh vỏ bằng cưa có tác dụng tốt nhất đối với sự nở hoa của vải do vậy đã làm tăng năng suất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 2.5. NHỮNG KẾT LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TỔNG QUAN Vải là cây ăn quả yêu cầu khắt khe về điều kiện khí hậu thời tiết. Yếu tố khí hậu và điều kiện đất đai vùng trồng trọt là những nguyên nhân chủ yếu tạo nên năng suất và phẩm chất của cây trồng. Huyện Đồng Hỷ - Thái nguyên, Việt Nam là một trong những khu vực có khí hậu thích hợp cho sinh trưởng của cây vải. Giống vải Hùng Long mới được trồng trên địa bàn huyện những năm gần đây, do vậy cần có những nghiên cứu về đặc điểm sinh trưởng lộc cũng như các biện pháp nhằm khống chế lộc đông cho giống vải Hùng Long được trồng trên địa bàn huyện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 PHẦN III VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU Vật liệu nghiên cứu là vườn vải Hùng Long sau trồng 7 năm tuổi được nhân giống bằng phương pháp ghép. - Thời gian nghiên cứu từ tháng 6 - 2007 đến tháng 6 - 2008 - Địa điểm nghiên cứu tại huyện Đồng Hỷ - Thái nguyên, Việt Nam 3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3.2.1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trƣởng lộc của vải Hùng Long + Nghiên cứu thời gian xuất hiện và sinh trưởng các đợt lộc của giống vải Hùng Long. 3.2.2. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông cho Hùng Long + Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp cắt tỉa đến năng suất vải +Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp không chế lộc đông đến năng suất vải 3.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trƣởng và phát triển của vải Hùng Long * Nghiên cứu thời gian xuất hiện và sinh trưởng của các đợt lộc Bố trí thí nghiệm: Chọn 10 cây vải có sức sinh trưởng đồng đều. Mỗi cây chọn 4 cành ngang tán theo 4 hướng có đường kính ≥ 2 cm. Khi lộc thu bắt đầu xuất hiện tiến hành đánh dấu lộc và ghi ngày tháng ra lộc. Mỗi cành chọn 5 lộc ở mức trung bình. Theo dõi thời gian sinh trưởng từ khi mọc cho đến khi trở thành cành thuần thục của mỗi đợt lộc, theo dõi thời gian xuất hiện của lộc đông và lộc xuân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 - Đo chiều dài và đường kính cành thuần thục. Chỉ tiến hành trên những lộc đo chiều dài. - Xác định tỷ lệ phân hóa của lộc xuân: nở hoa hoàn toàn, lộc xuân thành cành dinh dưỡng, hoa có lẫn lộc. 3.3.2. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nhằm khống chế lộc đông, nâng cao năng suất vải Hùng Long Thí nghiệm 1: Nghiên cứu phƣơng pháp cắt tỉa cho vải Hùng Long Công thức 1: đối chứng (Cắt tỉa những cành tăm, cành dầy) Công thức 2: Cắt tỉa 10% số đầu cành Công thức 3: Cắt tỉa 20% số đầu cành Công thức 4: Cắt tỉa 30% số đầu cành Các công thức thí nghiệm đều cắt tỉa cành tăm, cành dầy như đối chứng. Phương pháp cắt tỉa: trên cây thí nghiệm sau khi đã được tiến hành cắt bỏ những cành tăm, cành dày, cành vượt theo phương pháp cắt tỉa truyền thống, các cành còn lại được cắt tỉa bớt theo số đầu cành trên ngọn. + Chỉ tiêu theo dõi: Mỗi công thức chọn 5 cây, mỗi cây chọn 4 cành về 4 phía, mỗi cành chọn một chùm hoa. Khi hoa nở tiến hành đếm tổng số hoa, hoa cái và hoa lưỡng tính sau đó tính trung bình. - Theo dõi tỷ lệ đậu quả khi hoa tàn, sau rụng quả sinh lý, năng suất khi thu hoạch. - Tỷ lệ đậu quả = (số quả đậu/số hoa cái và hoa lưỡng tính + hoa cái) 100% - Kích thước quả: mỗi chùm lấy ngẫu nhiên 10 quả, dùng thước kẹp đô chiều dài, rộng, tính trung bình. - Tỷ lệ cùi ăn được (%) = (khối lượng cùi/khối lượng quả).100% - Khối lượng quả: cân 10 quả lấy trung bình. Chiều cao quả, đường kính quả đo bằng thước kẹp Panme. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 - Hàm lượng đường tổng số được phân tích tại phòng thí nghiệm trung tâm - VitaminC : Định lượng bằng Ascobic - Chất khô: Sấy đến khối lượng không đổi Thí nghiệm 2: Nghiên cứu biện pháp khống chế lộc đông Công thức 1: Đối chứng (để tự nhiên) Công thức 2: Cuốc gốc (cuốc vòng quanh tán cây, độ sâu 30 cm vào lúc đợt lộc thu thứ 2 thành thục, sau 15 ngày lấp đất lại như cũ) Công thức 3: Phun Ethrel nồng độ 800 ppm lúc xuất hiện lộc đông Công thức 4: Khoanh vỏ (khoanh một vòng xoắn ốc quanh cành cấp I vào 15/11) Phương pháp khoanh vỏ: Sử dụng cưa sắt có lưỡi dày 1 - 1,5mm, khoanh một vòng xung quanh thân cành theo một vòng khép kín, khoanh sâu hết phần vỏ. + Chỉ tiêu theo dõi: Mỗi công thức chọn 9 cây, 3 cây một lần nhắc lại. Mỗi cây chọn 4 cành ngang tán. Theo dõi tỷ lệ xuất hiện lộc đông của các cây thí nghiệm. Khi lộc đông ra cần đánh dấu khi rõ ngày tháng ra lộc. Xác định tỷ lệ % số cây ra lộc đông. Xác định nguồn gốc lộc xuân dựa trên ngày ghi trên lộc. Theo dõi tỷ lệ phân hóa của lộc xuân ở các cây thí nghiệm. Mỗi cây chọn 4 chùm hoa về 4 phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Khi hoa nở tiến hành đếm tổng số hoa, hoa cái. Các chỉ tiêu theo dõi: Tổng số hoa đực, hoa cái và hoa lưỡng tính, tính trung bình. Tổng số quả đậu/ chùm khi hoa tàn. Tính trung bình, tính tỷ lệ so với tổng số hoa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 Đếm số quả đậu trên/chùm sau rụng quả sinh lý 1 và 2, năng suất chùm quả khi thu hoạch tính trung bình. Theo dõi năng suất các cây thí nghiệm ngay sau khi thu hoạch. - Kích thước quả: Mỗi chùm lấy ngẫu nhiên 10 quả, dùng thước kẹp đô chiều dài, rộng, tính trung bình. - Tỷ lệ cùi ăn được (%) = (khối lượng cùi/ khối lượng quả) 100% - Khối lượng quả: Cân 10 quả lấy trung bình. Chiều cao quả, đường kính quả đo bằng thước kẹp Panme. - Hàm lượng đường tổng số được phân tích tại phòng thí nghiệm trung tâm - VitaminC: Định lượng bằng Ascobic - Chất khô: Sấy đến khối lượng không đổi 3.4. XỬ LÝ SỐ LIỆU Số liệu thí nghiệm được xử lý bằng phần mềm EXCEL và IRRISTART Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 PhÇn IV KÕt qu¶ nghiªn cøu vµ th¶o luËn 4.1. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG LỘC CỦA VẢI HÙNG LONG 4.1.1. Mét sè yÕu tè khÝ hËu n¨m 2007-2008 Đối với với cây vải các yếu tố khí hậu có ảnh hưởng lớn đến khả năng ra hoa, tỷ lệ đậu quả và năng suất vải. Cây vải có yêu cầu đặc biệt với nhiệt độ, trong năm phải có điều kiện nhiệt độ hạ thấp, tạo điều kiện ức chế mầm mùa đông, làm cho cành thu sung sức, tích lũy được nhiều dinh dưỡng giúp xúc tiến quá trình phân hóa mầm hoa. Thái Nguyên, Việt Nam là vùng có khí hậu phù hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây vải, dựa theo nhiệt độ trung bình tháng 1 khí hậu của Thái nguyên, Việt Nam được chia làm 3 vùng: - Vùng lạnh: Ở phía Bắc huyện Võ Nhai là nơi có nhiệt độ trung bình tháng 1 nhỏ hơn 140C. - Vùng lạnh vừa: gồm phía Bắc huyện Định Hóa, Bắc huyện Phú Lương, Nam huyện Võ Nhai là nơi có nhiệt độ trung bình tháng 1 từ 14-150C - Vùng ấm: Gồm các huyện Đại từ, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, thành phố Thái nguyên, Việt Nam và phía Nam huyện Định Hóa, nhiệt độ tháng 1 ở vùng này > 150C Theo Trần Thế Tục, Nguyễn Thiện Chính (1999) căn cứ vào nhiệt độ trung bình năm và lượng mưa thì vùng thích hợp nhất cho cây vải sinh trưởng và phát triển của Thái nguyên, Việt Nam chính là vùng ấm. Vùng này có nhiệt độ bình quân năm trên 220, có 4 tháng nhiệt độ bình quân dưới 200C, lượng mưa năm từ 1400 đến dưới 2000mm, diện tích thích hợp cho cây vải ở vùng này có thể lên tới hơn 10.000 ha. Tuy nằm trong vùng sinh thái thích hợp nhưng năng suất cây vải nói chung và vải chín sớm Hùng Long vẫn chưa thực sự ổn định do nhiều nguyên nhân. Nghiên cứu của Nguyễn Đình Danh, Nguyễn Thị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Thanh (1999) cho biết: loại đất, tính chất dinh dưỡng của đất ít có ảnh hưởng đến năng suất của cây vải. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu quả của cây vải chính là điều kiện thời tiết. Nếu hoa nở vào ngày mưa, tiết trời u ám thì khả năng thụ phấn thụ tinh kém dẫn đến tỷ lệ đậu quả thấp. Nếu lúc nở hoa thời tiết quá lạnh thì chùy hoa cũng như hoa sẽ bị phá hủy. Nghiên cứu của Menzel (1995) ở Australia cho thấy: tỷ lệ hoa cái có liên quan đến nhiệt độ, thời kỳ phân hóa hoa nếu nhiệt độ trung bình < 180 C thì tỷ lệ hoa cái tăng, >230 C tỷ lệ hoa cái giảm và >250 C sẽ không nở hoa. Vũ Mạnh Hải (2000) khi đánh giá ảnh hưởng của yếu tố khí hậu đến sinh trưởng và phát triển của giống vải thiều Phú Hộ cho thấy: nhiệt độ thấp và lượng mưa ít trong tháng 11 và tháng 12 là yếu tố hạn chế có ảnh hưởng đến năng suất. Nguyên nhân do giống vải Phú Hộ có nhu cầu lạnh và khô vào giai đoạn phân hóa mầm hoa, mà tháng 11 tháng 12 là bước quyết định chuyển tiếp từ sinh trưởng sinh thực dạng tiền phân hóa hoa. Số liệu các yếu tố khí hậu như giờ nắng, lượng mưa, nhiệt độ trung bình các tháng 11, 12 năm 2007 và tháng 1,2,3 năm 2008 được so sánh với trung bình nhiều năm. Kết quả được trình bày qua đồ thị 4.1, 4.2, 4.3. 16,96 18,21 20,45 22,78 17,9 24,1 20,819,5 13,5 14,4 0 5 10 15 20 25 30 11 12 1 2 3 Tháng Nh iệt độ Nhiệt độ TB Nhiệt độ 07-08 Đồ thị 4.1. Diễn biến nhiệt độ vụ vải năm 2007 - 2008 so với trung bình 6 năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 Qua đồ thị 4.1 cho thấy nhiệt độ trung bình tháng 1 năm 2008 thấp hơn nhiều so với nhiệt độ trung bình 6 năm. Bình quân nhiệt độ tháng 1 của 6 năm từ 2002-2007 của Thái nguyên, Việt Nam là 17,90 C trong khi nhiệt độ tháng 1 năm 2008 chỉ có 14,40C, tháng 2 là 18,210 C thì năm 2008 chỉ có 13,50C. Đối với cây vải điều kiện nhiệt độ lạnh kết hợp với khô sẽ thuận lợi cho quá trình phân hóa và ra hoa cho vải. Nhiệt độ thấp của tháng 1 và tháng 2 của năm 2008 đã có ảnh hưởng đến khả năng ra hoa của giống vải Hùng Long. Diễn biến của lượng mưa vụ vải năm 2007-2008 so với trung bình 6 năm được trình bày qua đồ thị 4.2. 54.8 26.8 17.5 29 56.83 99 2524 29 12 0 20 40 60 80 100 120 11 12 1 2 3 Lƣ ợn g m ƣa Tháng Lượng mưa 07-08 Lượng mưa TB Đồ thị 4.2. Diễn biến lƣợng mƣa vụ vải năm 2007-2008 so với trung bình 6 năm Lượng mưa của tháng 11 năm 2007 cao hơn hẳn so với lượng mưa trung bình. Tháng 12 và tháng 3 là hai tháng đóng vai trò quan trọng đối với khả năng ra hoa và tỷ lệ đậu quả của vải đều có lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm. Lượng mưa tháng 12 năm 2008 chỉ có 12mm, trong khi lượng mưa trung bình nhiều năm là 26,8mm. Tháng 3 là tháng hoa vải nở, lượng mưa năm 2008 chỉ có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 25 mm, kết quả cho thấy vụ vải 2008 có lượng mưa thấp vào lúc hoa nở rộ, tạo điều kiện tốt cho quá trình thụ phấn của vải. 95.5 57.5 29 56.83 124.3 73 29 54 40 134 0 20 40 60 80 100 120 140 160 11 12 1 2 3 G ìơ n ắn g Tháng Giờ nắng TB Giờ nắng 07-08 Đồ thị 4.3. Diễn biến giờ nắng vụ vải năm 2007-2008 so với trung bình 6 năm Đồ thị trên cho thấy tổng số giờ nắng của 2008 không có biến động nhiều so với trung bình nhiều năm, ngoại trừ tháng 12 có số giờ nắng đạt 40 giờ, trong khi số giờ nắng trung bình nhiều năm đạt 95 giờ. 4.1.2. Nghiên cứu thời gian xuất hiện và sinh trƣởng của các đợt lộc * Nghiên cứu thời gian xuất hiện và sinh trƣởng của lộc hè Hàng năm vải ra từ 3-4 đợt lộc, tùy theo giống, tuổi cây, điều kiện chăm sóc mà thời gian xuất hiện của các đợt lộc khác nhau. Quá trình ra lộc của năm trước là tiền đề cho sự ra hoa kết quả của năm sau. Kết quả đánh giá một số đặc điểm sinh trưởng của cây vải được thể hiện thông qua đánh giá sinh trưởng của các đợt lộc, thí nghiệm theo dõi sinh trưởng lộc được tiến hành từ tháng 6 năm 2007 với các kết quả được trình bày ở bảng 4.1. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 Bảng 4.1. Thời gian xuất hiện và sinh trƣởng của lộc hè năm 2007 Cây theo dõi Thời gian ra lộc (lộc) Tổng số lộc cây/(lộc) Thời gian từ mọc đến thành thục (ngày) Chiều dài cành thuần thục (cm) Đƣờng kính cành thuần thục(cm) Lộc hè đợt 1 1 6/5/07 45 41 15,56 0,31 3 2/5/07 32 40 14,48 0,33 8 6/5/07 28 42 15,52 0,30 10 2/5/07 37 40 13,80 0,31 TB 35,5 40,8 14,96 0,32 Lộc hè đợt 2 1 30/6 36 40 16,25 0,30 2 15/6 48 36 18,24 0,28 3 30/6 42 40 17,61 0,31 4 15/6 32 36 15,11 0,32 5 15/6 44 36 18,40 0,30 6 15/6 40 36 17,50 0,28 7 15/6 34 36 15,45 0,30 8 30/6 48 40 18,20 0,29 9 20/6 28 40 14,78 0,30 10 30/6 43 40 17,32 0,31 Trung bình 39,5 38,0 16,88 0,30 Số liệu bảng 4.1. cho thấy, vải Hùng Long có hai đợt lộc hè. Đợt lộc hè 1 bắt đầu xuất hiện đầu tháng 5. Chỉ có 4 cây theo dõi có xuất hiện đợt lộc hè 1. Số lộc trung bình trên cành theo dõi đạt 35,5 lộc, chiều dài trung bình lộc là 14,96 cm, đường kính lộc đạt trung bình 0,32 cm. Thời gian vải ra đợt lộc hè 1 vào khoảng đầu tháng 5 thành thục vào tháng 6. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 Sau khi đợt lộc hè 1 thành thục, vải mọc đợt lộc hè 2, 100% số cây theo dõi có đợt lộc hè thứ hai, thời gian xuất hiện lộc hè 2 vào khoảng giữa tháng 6, các cây thành thục đợt lộc hè 1 sau đó mới có lộc hè 2, thời gian xuất hiện muộn hơn vào khoảng cuối tháng 6. Chiều dài đợt lộc hè 2 đạt trung bình 16,88 cm, đường kính lộc đạt trung bình 0,30 cm. Đợt lộc hè thứ hai của vải xuất hiện không đều nhau ở các cây theo dõi. Các cây ra đợt lộc hè 1 có đợt lộc hè 2 muộn hơn. Cụ thể các cây theo dõi số 1, 3, 8, 10 vào khoảng 30/6 mới có đợt lộc hè 2 trong khi các cây còn lại do chỉ có một đợt lộc hè nên 15/6 đã xuất hiện. Đối với cây vải cành mẹ của thường là cành thu và đây cũng là loại cành mẹ tốt nhất, vì sinh trưởng khỏe, tích lũy được nhiều dinh dưỡng, hiệu năng quang hợp cao. Tuy nhiên không phải cứ có cành thu là có quả vì nếu cành thu ra qúa muộn hoặc quá sớm cũng không thể trở thành cành mẹ tốt (Trần Thế Tục, 2004). Nguyễn Quốc Hùng (2005) khi theo dõi sinh trưởng của vải chín sớm Bình Khê cho thấy thời gian xuất hiện các đợt lộc thu quyết định đến tỷ lệ ra hoa của cây. Các cây ra lộc thu vào tháng 8 có tỷ lệ số cây ra lộc đông lên tới 63,3%, số cây có đợt lộc thu ra vào cuối tháng 10, tỷ lệ ra hoa chỉ đạt 20%, tỷ lệ cây ra hoa đạt 93,3% ở các cây ra lộc thu vào tháng 9. Nghiên cứu về sinh trưởng các đợt lộc thu của Ngô Xuân Bình (2005) cũng cho thấy: trong số 609 llọc thu theo dõi năm 2005 của giống vải Thanh Hà thì chỉ có 79,47% lộc thu được mọc ra từ cành hè, còn lại 20,53% được mọc ra từ các cành có nguồn gốc khác nhau, đồng thời chỉ có 41,29% lộc xuân có nguồn gốc từ cành thu, còn lại 20,86% có nguồn gốc từ cành hè. kết quả cho thấy mỗi giống vải khác nhau có nguồn gốc cành xuân mang hoa là khác nhau, vì vậy cần theo dõi sát sao nguồn gốc phát sinh các đợt lộc để tìm ra biện pháp kỹ thuật phù hợp. Kết quả theo dõi thời gian xuất hiện và sinh trưởng của lộc thu được thể hiện qua bảng 4.2. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 Bảng 4.2. Thời gian xuất hiện và sinh trƣởng của lộc thu năm 2007 Cây theo dõi Thời gian ra lộc (lộc) Tổng số lộc (lộc) Thời gian từ mọc đến thành thục (ngày) Chiều dài cành thuần thục (cm) Đƣờng kính cành thuần thục(cm) 1 10/9/07 82 41 15,56 0,31 2 12/8/07 85 39 13,67 0,32 3 15/9/07 122 43 15,21 0,30 4 6/8/07 115 40 14,48 0,33 5 15/9/07 90 45 14,70 0,31 6 12/9/07 86 38 16,10 0,32 7 8/8/07 98 42 15,52 0,30 8 10/9/07 114 41 14,78 0,33 9 8/8/07 93 40 13,80 0,31 10 15/9/07 87 45 15,82 0,33 Trung bình 97,2 41,4 14,96 0,32 Kết quả theo dõi ở bảng 4.2 cho thấy: Lộc thu xuất hiện trên 100% số cây theo dõi nhưng thời gian ra lộc thu của các cây là không giống nhau. Trong khi cây số 2, 4, 7, 9 xuất hiện đợt lộc thu sớm vào tháng 8 thì số cây còn lại lộc thu xuất hiện vào tháng 9 thành thục vào gần cuối tháng 10. Nguyên nhân khiến cho cây xuất hiện đợt lộc thu sớm hoặc muộn có thể do yếu tố nội tại của cây hoặc do ảnh hưởng của đợt lộc hè. Thời gian từ mọc đến thành thục của hai đợt lộc thu không có sự sai khác rõ rệt, lộc thu đều thành thục khoảng 40 ngày sau khi mọc, chiều dài lộc thành thục trung bình đạt 14,96 cm, đường kính lộc thành thục trung bình đạt 0,32 cm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 4.1.3. Thêi gian xuÊt hiÖn vµ sinh tr•ëng cña léc ®«ng Lộc đông ra tập trung vào giữa tháng 11 đến cuối tháng 12, chỉ có khoảng 20% số cây trong vườn có xuất hiện lộc đông trên toàn cây, 30% số cây xuất hiện lộc đông một phần của cây, thời gian xuất hiện và sự sinh trưởng của lộc đông năm 2007 thể hiện qua bảng 4.3. Bảng 4.3. Thời gian xuất hiện và sinh trƣởng của lộc đông năm 2007 Cây theo dõi Thời gian ra lộc (lộc) Tổng số lộc/cành (lộc) Thời gian từ mọc đến thành thục (ngày) Chiều dài cành thuần thục (cm) Đƣờng kính cành thuần thục (cm) 2 10/11/07 25 50 12,56 0,28 4 10/11/07 32 50 11,38 0,29 7 15/11/07 28 50 12,54 0,28 8 15/11/07 11 45 13,12 0,29 9 15/11/07 34 50 11,90 0,28 Trung bình 26,0 49 12,30 0,28 Ghi chú: Chiều dài, đường kính đo khi lộc đã thành thục Số liệu bảng 4.3 cho thấy lộc đông chỉ xuất hiện trong số 50% cây theo dõi, cây xuất hiện lộc đông nhiều ở các cây số 4 và số 9. Cây số 8 có xuất hiện lộc đông nhưng số lượng lộc ít chỉ có 11 lộc trên cả 4 cành theo dõi. Thời gian từ khi xuất hiện đến khi lộc thành thục là 49 ngày, các chỉ tiêu về đường kính, chiều dài lộc đông đều kém hơn so với lộc thu và hè. Trong giai đoạn kinh doanh, sự phát sinh và sinh trưởng của lộc đông là không có lợi ngoài sự mong muốn của người sản xuất. Lộc đông tiêu thụ nhiều dinh dưỡng, khả năng sinh ra cành quả rất thấp, do đó làm giảm năng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 suất, trở ngại cho việc ra hoa kết quả năm sau, đồng thời là môi trường thuận lợi cho sâu bệnh hại qua đông. Do vậy, biện pháp kỹ thuật hạn chế sự phát sinh phát triển của lộc đông là rất cần thiết. Theo dõi nguồn gốc phát sinh của lộc đông năm 2007 cho thấy: các cây thành thục lộc thu sớm, khả năng cây xuất hiện lộc đông là rất cao. Kết quả được trình bày qua sơ đồ 4.1 : 80,76% 19,24% Sơ đồ 4.1. Nguồn gốc phát sinh lộc đông 2007 Qua sơ đồ 1 cho thấy có 80,76% lộc đông được phát sinh từ những cành thu thành thục sớm, chỉ có 19,24% được mọc từ cành thu muộn và một số có nguồn gốc từ những cành khác không rõ nguồn gốc. 4.1.4. Nguồn gốc và phân hóa của lộc xuân năm 2008 Theo thời tiết hàng năm, lộc xuân ra chủ yếu vào tháng 1 và đầu tháng 2, nhưng do thời tiết năm 2008 có nhiệt độ tháng 1 thấp hơn trung bình nhiều năm lại kéo dài, đầu năm 2008 có những đợt rét kéo dài lên tới 26 ngày do vậy làm khả năng phát sinh lộc xuân chậm hơn so với trung bình nhiều năm, đến ngày 5/2/2008 mới bắt đầu xuất hiện lộc xuân. Kết quả theo dõi nguồn gốc của lộc xuân được thể hiện qua sơ đồ 4.2: Sơ đồ 2 cho thấy trong tổng số 857 lộc vụ xuân năm 2008 chỉ có 13,77 % được phát triển từ lộc thu sớm, tức là đợt lộc thu thành thục vào khoảng tháng 9, còn lại 72,35% lộc xuân được phát triển từ đợt lộc thu muộn. Chính vì vậy cần phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật để cây phát triển đợt lộc thu muộn. Cành khác Lộc thu sớm 2007 Lộc đông 2007 (130 lộc) Léc ®«ng 2005 (176 léc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 13,77% 72,35% 13,88% Sơ đồ 4.2. Nguồn gốc phát sinh lộc xuân 2008 Sau khi nhú lộc, lộc xuân sẽ phát triển theo 3 hướng đó là: phát triển hoàn toàn thành lộc dinh dưỡng, lộc xuân vùa mang hoa vừa mang lá và lộc xuân ra hoa hoàn toàn. Kết quả theo dõi sinh trưởng của lộc xuân được trình bày qua bảng 4.4 và đồ thị 4.3. Bảng 4.4. Thời gian xuất hiện và sự phân hóa của lộc xuân 2008 C©y Thêi gian ra léc Tæng sè léc xu©n/ c©y Ph©n hãa léc xu©n Hoa hoµn toµn (léc) % Hoa lÉn léc (léc) % Cµnh dinh d•ìng (léc) % 1 15/2/08 80 43 53,75 30 37,5 7 8,75 2 05/2/08 70 8 11,43 50 71,43 12 17,14 3 15/2/08 91 48 52,75 34 37,36 9 9,89 4 05/2/08 77 5 6,49 30 38,96 42 54,55 5 15/2/08 86 40 46,51 33 38,37 13 15,11 6 15/2/08 82 38 46,34 40 48,78 4 4,89 7 05/2/08 81 6 7,41 35 43,21 40 49,38 8 15/2/08 98 45 45,92 41 41,84 12 12,24 9 05/2/08 90 12 13,33 43 47,78 35 38,89 10 15/2/08 102 36 35,29 52 50,98 14 13,73 Tổng cộng 857 281 - 388 - 188 - Lộc xuân 2008 (857) Cành thu muộn Lộc đông Cành thu sớm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 32,79% 45,27% 21,94% 1 2 3 Ghi chú: 1: Lộc xuân ra hoa hoàn toàn 2: Lộc xuân ra hoa có lẫn lộc 3: Lộc xuân thành cành dinh dưỡng Đồ thị 4.4. Phân hóa lộc xuân năm 2008 Kết quả bảng 4.4. và đồ thị 4.4 cho thấy lộc xuân xuất hiện trên tất cả các cây thí nghiệm, trong đó lộc xuân ra hoa hoàn toàn chiếm tỷ lệ thấp, đạt trung bình 32,79%, lộc xuân ra hoa lẫn lộc 45,27%. Lộc xuân phát triển hoàn toàn thành cành dinh dưỡng chiếm tới 21,94%. Đối với cây vải, sự phân hóa của lộc xuân có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, nếu lộc xuân phát triển hoàn toàn thành cành dinh dưỡng thì sẽ không có hoa do vậy sẽ không có năng suất. Các chùm hoa có lẫn lộc thì năng suất cũng rất thấp. Chính vì vậy cần chú trọng các biện pháp kỹ thuật để giúp cây giảm được tỷ lệ lộc phát triển thành cành dinh dưỡng, tăng tỷ lệ lộc xuân ra hoa hoàn toàn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến lộc xuân của vải phát triển thành cành dinh dưỡng có liên quan đến sự phát sinh của lộc đông. Ảnh hưởng của lộc đông đến khả năng phân hóa hoa của lộc xuân năm 2008 được trình bày qua bảng 4.5. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 Bảng 4.5: Ảnh hƣởng của lộc đông đến khả năng phân hóa lộc xuân vụ vải năm 2008 Chỉ tiêu theo dõi Cây xuất hiện lộc đông Cây không xuất hiện lộc đông Số lộc Tỷ lệ (%) Số lộc Tỷ lệ (%) Tổng số lộc xuân 416 100,00 441 100,00 Lộc xuân ra hoa hoàn toàn 76 18,27 205 46,49 Lộc xuân ra hoa lẫn lộc 199 47,84 189 42,86 Lộc xuân thành cành dinh dưỡng 141 33,89 47 10,66 Số liệu bảng 4.5 cho thấy với nhóm cây có xuất hiện lộc đông, tỷ lệ lộc ra hoa hoàn toàn chỉ đạt có 18,27%. Đồng thời có tới 199 lộc trong tổng số 416 lộc xuân trở thành cành dinh dưỡng, chiếm tỷ lệ 47,84%. Với nhóm cây vải không xuất hiện lộc đông, tỷ lệ lộc xuân phát triển thành cành dinh dưỡng chỉ có 10,66%, tỷ lệ lộc xuân ra hoa hoàn toàn đạt 46,49%. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trong sản xuất vải sự xuất hiện của lộc đông làm tăng tỷ lệ cành dinh dưỡng, do vậy cần phải có biện pháp kỹ thuật hạn chế khả năng xuất hiện lộc đông. 4.2. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT KHỐNG CHẾ LỘC ĐÔNG 4.2.1. Nghiên cứu ảnh hƣởng của các phƣơng pháp cắt tỉa đến năng suất Sinh trưởng tự nhiên của cây ăn quả thường không đáp ứng yêu cầu về cấu trúc tối ưu và thuận lợi cho việc chăm sóc tán cây do vậy cắt tỉa nhằm mục đích làm giảm chiều dài cành, tỉa bớt cành nhánh, hướng cành ra phía ngoài làm giảm số lượng mầm sinh trưởng dẫn tới việc phân phối lại các chất giữa các cơ quan còn lại làm cho quả phát triển to hơn. Cắt tỉa bớt chiều dài cành và cành nhánh sẽ làm gọn tán cây, tăng cường độ chiếu sáng và thoáng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 khí trong tán, màu sắc quả đẹp hơn. Việc cắt tỉa còn làm hạ bớt chiều cao cây, giữ được ánh sáng tối ưu chiếu vào cây ăn quả, nâng cao năng suất lao động khi chăm sóc vườn. Trong kỹ thuật làm vườn hiện đại, cắt tỉa là khâu kỹ thuật then chốt, cần có kiến thức, kinh nghiệm và tay nghề (Phạm văn Côn, 2004). Theo phương pháp canh tác truyền thống cây vải thường được cắt tỉa ngay sau khi thu hoạch, phương pháp là cắt tỉa bỏ những cành tăm, cành dày trong tán. Kết quả theo dõi ảnh hưởng của phương pháp cắt tỉa theo phần trăm số đầu cành tới sinh trưởng của lộc thu được trình bày qua bảng 4.6. Bảng 4.6: Ảnh hƣởng của phƣơng pháp cắt tỉa đến thời gian ra lộc và sinh trƣởng lộc thu năm 2007 Chỉ tiêu Công thức Đợt lộc thu sớm (thành thục cuối tháng 9) Đợt lộc thu muộn (thành thục cuối tháng 10) Số lộc /cành (lộc) Thời gian từ ra lộc (ngày) Chiều dài lộc (cm) Đường kính lộc (mm) Số lộc/ cành (lộc) Thời gian từ ra lộc đến thành thục (ngày) Chiều dài lộc (cm) Đường kính lộc (mm) CT 1 (đ/c) 25, 25 5/8- 25/9 14,63 2,97 13,25 5/9- 30/10 14,26 3,06 CT2 17, 33 10/8-20/9 14,88 3,17 19,25 12/9 - 28/10 15,62 3,12 CT 3 12, 50 14/8-20/9 15,10 3,37 23,00 12/9-28/10 15,48 3,32 CT 4 11, 50 14/8-20/9 15,64 3,45 17,45 15/9- 30/10 15,06 3,34 Cv% 9,2 4,3 6,5 5,3 LSD05 1,8 0,18 1,3 0,16 Đối với giống vải Hùng Long một năm thường xuất hiện hai đợt lộc thu: đợt lộc mọc vào tháng 8, thành thục cuối tháng 9 (gọi là đợt lộc thu sớm). Đợt lộc thứ hai mọc vào tháng 9, thành thục cuối tháng 10. Kết quả ở bảng 4.6 cho thấy các công thức cắt tỉa đều có đợt lộc thu thành thục trong tháng 9 (đợt lộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 thu sớm) ít hơn so với công thức cắt tỉa theo truyền thống. Trong khi công thức đối chứng số lộc thu sớm trên cành theo dõi lên tới 25,25 lộc/cành thì công thức có cắt tỉa số lộc thu thành thục sớm chỉ còn từ 5,75-17,33 lộc/cành, thời gian ra lộc tập trung hơn. Thời gian từ mọc đến thành thục lên tới 50 ngày ở công thức 1, công thức 2 là 40 ngày, công thức 3-4 chỉ còn 37 ngày. Không có sự sai khác về chiều dài lộc của công thức cắt tỉa so với đối chứng. Đường kính lộc ở các công thức có cắt tỉa có sự sai khác rõ rệt so với đối chứng ở mức tin cậy 95%. Kết quả bảng cho thấy các công thức có cắt tỉa số cây ra đợt lộc thứ 2 nhiều hơn so với công thức đối chứng. Trong khi công thức 1 số lộc chỉ đạt 13,25 lộc/cành, còn công thức cắt tỉa số lộc đạt trung bình từ 19,25- 23 lộc/cành. Công thức cắt tỉa 30% số đầu cành có số lượng cành thu đợt 2 là 17,45 lộc ít hơn so với công thức cắt tỉa 10% và 20%. Nguyễn Văn Dũng (2005) khi cắt tỉa thường xuyên vào vụ xuân, hè, thu và đốn phớt tất cả đầu cành cho quả năm trước cho giống vải sớm Yên Hưng cũng cho thấy: các loại hình cắt tỉa có lộc thu ra tập trung hơn so với công thức cắt tỉa truyền thống, thời gian lộc thu thành thục rút ngắn được 3-5 ngày so với đối chứng. Khi thành thục đợt lộc thu của cây vải sẽ ra đợt lộc đông. Sự xuất hiện lộc đông thường không có lợi do lộc đông tiêu hao nhiều dinh dưỡng và các cây ra lộc đông thường không nở hoa. Kết quả theo dõi sự phát sinh và sinh trưởng của lộc đông được trình bày qua bảng 4.7. Kết quả bảng 4.7 cho thấy tất cả công thức cắt tỉa đều xuất hiện lộc đông nhưng số lộc xuất hiện trên các cây là không giống nhau giữa các công thức. Trong khi công thức cắt tỉa khoảng 30% số đầu cành thì chỉ có 20% số cây theo dõi có xuất hiện lộc đông, với số lộc đông chỉ là 3,5 lộc/cành theo dõi. Trong khi công thức đối chứng có tới 60 % số cây theo dõi có xuất hiện lộc đông và số lộc trung bình/cành theo dõi lên tới 8,33 lộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Bảng 4.7: Ảnh hƣởng của cắt tỉa đến sinh trƣởng của lộc đông năm 2007 Chỉ tiêu Công thức Thời gian ra lộc (ngày) Số lộc/cành theo dõi (lộc) Số cây xuất hiện lộc đông (%) CT 1 (đ/c) 18/11 - 25/12 8,33 60,00 CT2 10/11 - 20/12 5,40 60,00 CT 3 10/11 - 20/12 3,50 40,00 CT 4 10/11 - 20/12 3,20 20,00 Đối với giống vải Hùng Long, hàng năm lộc xuân xuất hiện vào khoảng đầu và giữa tháng 1, tuy nhiên do thời tiết tháng 1 năm 2008 lạnh hơn trung bình nhiều năm nên lộc xuân xuất hiện vào tháng 2. Lộc xuân khi xuất hiện được phân hóa thành 3 loại: lộc xuân phát triển thành cành dinh dưỡng, lộc xuân ra hoa có lẫn lộc và lộc xuân mang hoa hoàn toàn. Kết quả theo dõi phân hóa lộc xuân được trình bày trong bảng 4.8. Bảng 4.8: Ảnh hƣởng của công thức cắt tỉa đến phân hóa lộc xuân Chỉ tiêu Công thức Tổng số lộc (lộc) % Lộc xuân ra hoa Lộc thành cành dinh dƣỡng Lộc % Lộc % Lộc % 1 (đ/c) 25,67 100 6,12 23,84 11,45 44,60 8,11 31,56 2 27,32 100 12,45 45,57 10,26 37,55 4,61 16,88 3 23,15 100 12,60 54,42 8,30 35,85 2,25 9,73 4 21,78 100 13,24 60,79 6,60 30,30 1,94 8,91 Kết quả bảng 4.8 cho thấy cắt tỉa 20% và 30% số đầu cành chỉ có 8,91% - 9,73 % lộc xuân thành cành dinh dưỡng trong khi công thức đối Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 chứng tỷ lệ này lên tới 31,56%. Công thức cắt tỉa 30% số đầu cành tỷ lệ lộc xuân ra hoa hoàn toàn đạt 60,79% trong khi công thức đối chứng chỉ đạt 23,84%. Kết quả cho thấy biện pháp cắt tỉa có ảnh hưởng đến khả năng phân hóa lộc xuân của giống vải Hùng Long. Kết quả theo dõi khả năng ra hoa cũng như tỷ lệ đậu qủa của vải được thể hiện qua bảng 4.9. Bảng 4.9: Ảnh hƣởng của các biện pháp cắt tỉa đến khả năng ra hoa và tỷ lệ đậu quả Công thức Số chùm hoa/cây (chùm) Số hoa/chùm (hoa) Số hoa cái/chùm Số quả đậu/chùm sau tắt hoa Số quả đậu/chùm sau rụng quả sinh lý Số quả đậu/chùm khi thu hoạch 1 (đ/c) 98,6 1567,4 287,92 45,6 23,25 7,32 2 112,4 1715,3 307,600 41,3 26,4 7,92 3 84,6 1689,5 327,54 52,4 31,3 10,44 4 78,6 1764,5 332,78 46,1 32,7 10,64 Cv% 8,6 13,5 LSD05 36,38 1,64 Kết quả bảng 4.9 cho thấy cắt tỉa làm giảm tổng số hoa trên chùm so với công thức đối chứng nhưng làm tăng tổng số hoa cái/chùm. Hai công thức cắt tỉa 20% và 30% số đầu cành đều có số hoa cái trên chùm cao hơn so với công thức đối chứng ở mức tin cậy đạt 95%. Không chỉ tăng tỷ lệ hoa cái, số quả trên chùm khi thu hoạch ở hai công thức này đều đạt trung bình từ 10,44 quả/chùm đến 10,64 quả/chùm trong khi công thức đối chứng chỉ đạt 7,32 quả/chùm. Cắt tỉa không chỉ làm cho cây có bộ khung tán cân đối mà còn góp phần loại bỏ cành vô hiệu nâng cao hiệu suất quang hợp do vậy có thể làm nâng cao năng suất cũng như chất lượng. Theo Menzel C.M và cộng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 sự (1994): cắt tỉa khoảng 40% số cành của vải và tỉa đều trên toàn cây cho năng suất cao hơn từ 30-40% so với cây không cắt tỉa. Kết quả theo dõi ảnh hưởng của các biện pháp cắt tỉa đến năng suất vải Hùng Long được thể hiện qua bảng 4.10. Bảng 4.10: Ảnh hƣởng của các phƣơng pháp cắt tỉa đến năng suất khi thu hoạch Công thức Chiều cao quả (cm) Đƣờng kính quả (cm) Trọng lƣợng quả (g) Tỷ lệ ăn đƣợc (%) Năng suất (kg/cây) 1 3,60 3,0 27,6 65,26 9,8 2 3,60 3,1 28,3 65,32 10,9 3 3,75 3,2 29,5 65, 71 12,7 4 3,80 3,2 29,7 65,57 11,9 Cv% 10,2 LSD05 1,56 Kết quả bảng 4.10 cho thấy năng suất không có sự sai khác giữa công thức cắt tỉa 10% số đầu cành với cắt tỉa theo phương pháp truyền thống. Sự sai khác có ý nghĩa ở mức tin cậy 95% giữa công thức cắt tỉa 20% số đầu cành và 30% số đầu cành. Cắt tỉa 20% số đầu cành kết quả thu được tốt nhất trong các công thức thí nghiệm, năng suất thu được 12,7 kg/cây. Cắt tỉa 30% số đầu cành mặc dù có số quả/chùm cao hơn nhưng do số lượng cành hoa ít hơn so với công thức cắt tỉa 20% nên năng suất thu được ít hơn, đạt 11,9 kg/cây. Kết quả chỉ ra rằng phương pháp cắt tỉa có ảnh hưởng đến năng suất vải. R.A.Stern và cộng sự (2005) cho thấy: nếu vải không cắt tỉa thì chỉ có 65- 79% số cây trong vườn nở hoa, tuy nhiên nếu thời gian cắt tỉa muộn và tỉa quá nhiều số cành/cây sẽ làm cho tỷ lệ số cành nở hoa giảm đi và năng suất giảm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 rõ rệt. Kết quả so sánh năng suất giữa phương pháp cắt tỉa truyền thống với phương pháp cắt tỉa theo % số đầu cành được trình bày qua đồ thị 4.5. 100 111,2 129,6 121,4 0 20 40 60 80 100 120 140 CT1 (đ/c) 2 3 4 Năng suất (%) Đồ thị 4.5. Ảnh hƣởng của các phƣơng pháp cắt tỉa đến năng suất vải Đồ thị 4.5. cho thấy phương pháp cắt tỉa 20% số đầu cành cho năng suất cao hơn đối chứng 29,6%. Cắt tỉa 10% và 30% cho năng suất cao hơn phương pháp cắt tỉa truyền thống từ 11,2% đến 21,4%. Kết quả sơ bộ hạch toán hiệu quả kinh tế của biện pháp cắt tỉa được trình bày qua bảng 4.11. Bảng 4.11: Sơ bộ hạch toán kinh tế các công thức thí nghiệm Chỉ tiêu Công thức Năng suất (tấn /ha) Tổng chi (tr. đồng) Tổng thu (Tr. đồng) Tổng thu- tổng chi (triệu đồng) Lãi so với đ/c (tr. đồng) 1 (đ/c) 3,06 8,50 30,06 21,56 - 2 3,27 9,40 32,70 23,30 1,74 3 3,81 10,3 38,10 27,80 6,24 4 3,57 11,2 35,70 24,50 2,94 Ghi chú: Giá bán tại vườn 10.000 đ/1kg Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 Kết quả bảng 4.11 cho thấy việc áp dụng phương pháp cắt tỉa theo % số đầu cành mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với phương pháp cắt tỉa truyền thống. Trong đó công thức cắt tỉa 20% số đầu cành thu được 27,80 triệu đồng/ha, cao hơn công thức cắt tỉa truyền thống 6,24 triệu đồng. Công thức cắt tỉa 10% và 30% số đầu cành lãi hơn đối chứng từ 1,74-2,94 triệu đồng/ha. Kết quả chỉ ra rằng nếu có phương pháp cắt tỉa đúng cách thì hoàn toàn có thể nâng cao thu nhập cho người trồng vải trên cùng một đơn vị diện tích. Tóm lại: Cắt tỉa theo phần trăm số đầu cành đã rút ngắn thời gian sinh trưởng của lộc thu từ 5-10 ngày so với công thức cắt tỉa truyền thống, đồng thời giảm được tỷ lệ lộc thu sớm, tăng tỷ lệ lộc thu muộn. Các công thức cắt tỉa ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phân hóa của lộc xuân của giống vải Hùng Long. Công thức cắt tỉa 20% số đầu cành tỷ lệ lộc xuân ra hoa hoàn toàn đạt 54,42%, công thức cắt tỉa 30% đạt 60,49% trong khi công thức đối chứng chỉ đạt 23,84%. Tỷ lệ lộc xuân trở thành cành dinh dỡng ở các công thức cắt tỉa đều giảm hơn so với công thức đối chứng ở mức tin cậy 95%. Cắt tỉa 20-30% số đầu cành đã góp phần tăng tỷ lệ hoa cái, tăng tỷ lệ đầu quả và tăng năng suất. Công thức cắt tỉa khoảng 20% số đầu cành cho năng suất tăng 29,6% so với công thức cắt tỉa bình thường, thu được 27,8 triệu đồng một ha, cao hơn so với đối chứng 6,90 triệu đồng. 4.2.2. Nghiên cứu một số biện pháp khống chế lộc đông cho vải Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng các đợt lộc của cây vải cho thấy, nếu để phát triển tự nhiên thì số cây vải trong vườn xuất hiện lộc đông khá cao, có tới 30% số cây theo dõi xuất hiện lộc đông trên toàn bộ cây, còn lại có 20% số cây có xuất hiện lộc đông một phần của cây. Chính vì vậy cần phải có các biện pháp kỹ thuật để hạn chế sự phát triển của lộc đông. Một số biện pháp khống chế lộc đông đang được sử dụng hiện nay là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 Khoanh vỏ: Khoanh vỏ có tác dụng trong thời gian nhất định ngừng vận chuyển sản phẩm quang hợp từ tán ngọn xuống phía dưới, mặt khác làm tăng gluxit tổng số trên cành, tạo cơ sở thuận lợi cho hình thành mầm hoa và các bọ phận của hoa, hơn nữa có tác dụng giảm năng lượng cung cấp cho bộ rễ, giảm cơ năng hoạt động bộ rễ, giảm hấp thu nước, nâng cao nồng độ dịch tế bào, từ đó kích thích phân hóa mầm hoa. Cách khoanh vỏ nên dùng dao sắc hoặc cưua khoanh một vòng xung quanh cành cấp I. Tuy nhiên phương pháp khoanh và thời gian khoanh phải dựa trên tình hình sinh trưởng của cây và phụ thuộc vào giống vải cụ thể Phun Ethrel: Hóa chất Ethrel là hợp chất hữu cơ với tên viết tắt là CEPA, chế phẩm này ở dạng dung dich, khi phun lên cấy chất này xâm nhập vào cây và do sự biến đổi pH ở trong cây mà nó bị thủy phân để giải phóng ra etylen gây hiệu quả sinh lý, kích thích sự chín, sự rụng lá của cây. Nhiệt độ thích hợp nhất để Ethrel phát huy tác dụng là 20- 300C. Nó chịu ảnh hưởng của độ pH, khi pH =4,1, trở nên dễ phân giải ra axetylen. Khi phun Ethrel cho cây vải một năm làm chết lộc non, lá non do đó bị rụng, giảm tiêu hao dinh dưỡng, thúc đẩy phân hóa hoa, nồng độ thường dùng từ 800-1000 ppm. Cuốc gốc: đối với cây sung sức có thể ra lộc đông hoặc khi lộc đông ra khoảng 2 cm, cuốc sâu xuống khoảng 20 cm, cắt đứt rễ ngang, phơi khoảng 2- 3 tuần, sau đó lấp đất màu. Làm vậy vừa khống chế rễ hấp thu, điều hoa sinh trưởng của cây, thay đổi chiều dài hướng trao đổi, thuận lợi cho viẹc hình thành hoa lại vừa có tác dụng cải tạo đất. Cây già yếu không nên cuốc đứt nhiều rễ vì sẽ làm cho cây suy yếu nhanh. Cũng có thể áp dụng biện pháp sau khi lộc thu thành thục, cuốc gốc một vòng xung quanh tán để cho rễ phơi lộ thiên, giảm bớt nước, bức ngừng sinh trưởng, giảm sức hấp thu, nâng cao nồng độ trong dịch cây có hiệu quả nhất định với quá trình hình thành hoa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 Kết quả theo dõi ảnh hưởng của các biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông đến khả năng ra hoa của cây được trình bày qua bảng 4.12: Bảng 4.12. Ảnh hƣởng của các biện pháp kỹ thuật khống chế lộc đông đến khả năng ra hoa của cây Chỉ tiêu Công thức Tỷ lệ số cây ra hoa (%) Tổng hoa (hoa) Tổng số hoa cái (hoa) Tỷ lệ (%) Đối chứng 77,77 2050,00 331,7 16,19 Cuốc gốc 88,88 2106,33 373,2 17,77 Phun Ethrel 800 ppm 100,00 2190,34 400,3 18,38 Khoanh vỏ vào 15/11 100,00 2721,67 425,4 15,60 Cv% 6,8 5,4 8,3 LSD05 289,67 38,61 2,64 Kết quả bảng 4.12 cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ cây ra hoa của các công thức thí nghiệm. Công thức khoanh vỏ vào ngày 15/11 và phun Ethrel vào lúc xuất hiện lộc đông cho khả năng ra hoa cao nhất, 100% số cây thí nghiệm đều ra hoa so với công thức đối chứng để tự nhiên trong vườn chỉ có 77,77% số cây. Biện pháp khống chế lộc đông không chỉ ảnh hưởng đến tỷ lệ cây ra hoa mà còn ảnh hưởng đến số lượng hoa cái/chùm. Công thức khoanh vỏ và phun Ethrel có số hoa cái và hoa lưỡng tính/chùm đạt từ 400 - 425 hoa/chùm cao hơn công thức đối chứng ở mức tin cậy 95%. Công thức khống chế lộc đông bằng biện pháp cuốc gốc không có sự sai khác so với công thức chứng. Biện pháp khoanh cành trong một thời gian nhất định đã làm ngừng sinh trưởng sinh dưỡng, tạo điều kiện cho cây chuyển sang giai đoạn sinh trưởng sinh thực, ra hoa và đậu quả. Phun Ethrel khi sử dụng phun lên lộc non Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 của vải đã làm thui lộc non, hủy đỉnh sinh trưởng của cây, làm thay đổi hàm lượng auxin và phân bố lại hàm lượng auxin của cây và thúc đẩy quá trình phân hóa hoa. Đỗ Xuân Bình (2003) khi phun Ethrel nồng độ 1000 ppm cho các cây vải có xuất hiện lộc đông cũng cho thấy các cây có xử lý đều ra hoa 100%, năng suất tăng từ 15,8-20,5 kg/cây. Lê Đình Danh và Nguyễn Thị Thanh (1999) khi dùng Ethrel nồng độ 1000 ppm khi lộc thu đã thành thục kết hợp với khoanh vỏ cho giống vải Phú Hộ và Thanh Hà trồng tại Phú Hộ cho thấy biện pháp này đã có tác dụng tích cực trong việc hạn chế sự sinh trưởng sinh dưỡng không cần thiết trước và trong thời kỳ vải ra hoa, tập trung dinh dưỡng và nội chất cho phân hóa mầm hoa, tăng tỷ lệ đậu quả và số quả được thu hoạch trên cây. Biện pháp cuốc gốc đã làm hạn chế sự hút các chất dinh dưỡng lên nuôi cây trong một thời gian ngắn, tạo điều kiện cho cây có thời gian tích lũy hàm lượng đường bột. Kết quả theo dõi ảnh hưởng của các công thức khống chế lộc đông đến năng suất vải được trình bày qua bảng 4.13. Bảng 4.13. Ảnh hƣởng của các biện pháp kỹ thuật không chế lộc đông đến một số yếu tố cấu thành năng suất và năng suất vải Chỉ tiêu Công thức Số quả /chùm (quả) Chiều cao quả (cm) Đƣờng kính quả (cm) Trọng lƣợng quả (g) Năng suất (kg/cây) Đối chứng 6,53 3,5 3,3 27,0 9,13 Cuốc gốc 6,84 3,6 3,2 27,5 10,60 Phun Ethrel 800 ppm 8,10 3,5 3,3 26,8 11,90 Khoanh vỏ vào 15/11 8,50 3,5 3,2 26,2 13,70 Cv% 7,9 12,7 LSD05 1,1 2,0 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 Qua bảng trên cho thấy công thức phun Ethrel và khoanh cành có tác dụng tăng số qủa /chùm ở mức có ý nghĩa 95%. Công thức khoanh cành có số quả/ chùm đạt 8,5 quả trong khi số quả trung bình/chùm ở công thức đối chứng chỉ đạt 6,53 quả /chùm. Các công thức khống chế lộc đông đã góp phần nâng cao tỷ lệ nở hoa của cây, tăng số hoa cái /chùm do vậy năng suất cũng tăng. Kết quả theo dõi ảnh hưởng của các biện pháp khống chế lộc đông đến năng suất được trình bày qua đồ thị 4.6. 100 116.1 130.3 150.1 0 20 40 60 80 100 120 140 160 1 (đ/c) 2 3 4 Đồ thị 4.6. Ảnh hƣởng của các biện pháp khống chế lộc đông đến năng suất Trong giai đoạn có mưa ở giai đoạn phân hóa mầm hoa, cây trồng nói chung và cây vải nói riêng có quá trình cinh trưởng sinh dưỡng lấn át sinh thực. Biện pháp khống chế lộc đông có tác dụng là gián đoạn quá trình vận chuyển dinh dưỡng trong cây, do vậy đã làm tăng khả năng phân hóa hoa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 Qua đồ thị 4.6 cho thấy các biện pháp khống chế lộc đông đã có tác dụng rõ rệt trong việc nâng cao năng suất vải. Công thức khoanh vỏ vào 15/11 có tác dụng rõ rệt nhất làm tăng năng suất đến 50,1% so với đối chứng. Công thức phun Ethrel cũng cho năng suất cao hơn đối chứng 30,3%. Công thức cuốc xung quanh tán có năng suất cao hơn đối chứng 16,1%. Ảnh hưởng của một số biện pháp khống chế lộc đông đến năng suất được trình bày qua bảng 4.14. Bảng 4.14. Ảnh hƣởng của một số biện pháp khống chế lộc đông đến chất lƣợng quả Chỉ tiêu Công thức Tỷ lệ ăn đƣợc (%) Hàm lƣợng đƣờng (%) Hàm lƣợng chất khô (%) VitaminC (mg/100g) Đối chứng 65,53 13,90 17,40 15,53 Cuốc gốc 65,46 14,20 17,56 15,80 Phun Ethrel 800 ppm 64,81 12,90 17,08 14,98 Khoanh vỏ vào 15/11 65,21 13,40 17,28 15,20 Cv% 2,7 2,8 2,3 LSD05 0,45 0,41 0,59 Số liệu bảng 3.14 cho thấy các chỉ tiêu về chất lượng quả của các công thức có xử lý khống chế lộc đông so với công thức đối chứng không có sự sai khác. Với p>0,05 cho thấy mặc dù hàm lượng các chất như Vitamin C, đường, chất khô của công thức thí nghiệm giảm nhẹ so với đối chứng nhưng sự sai khác là không có ý nghĩa ngoại trừ công thức phun Etrel nồng độ 800 ppm có hàm lượng đường giảm hơn so với đối chứng ở mức tin cậy 95%. Do vậy, có thể kết luận rằng các biện pháp xử lý không làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng quả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 Kết quả sơ bộ hạch toán kinh tế được trình bày qua bảng 4.15. Số liệu bảng 4.15 cho thấy các công thức có áp dụng các biện pháp khống chế lộc đông đều có năng suất thu được cao hơn so với đối chứng. Khoanh vỏ năng suất thu được cao nhất trong các công thức thí nghiệm năng suất đạt 4,11 tấn/ha, trong khi công thức đối chứng năng suất chỉ đạt 2,74 tấn/ha. Phun Ethrel nồng độ 800 ppm cho năng suất đạt 3,57 tấn/ha. Kết quả sơ bộ hạch toán kinh tế cho thấy, nếu áp dụng biện pháp không chế lộc đông sẽ thu được lợi nhuận từ 22,50 - 32,00 triệu đồng/ha, cao hơn so với đối chứng từ 3,6 - 13,1 triệu đồng /ha. Bảng 4.15: Sơ bộ hạch toán kinh tế các công thức thí nghiệm Chỉ tiêu Công thức Năng suất (tấn /ha) Tổng chi (tr. đồng) Tổng thu (tr. đồng) Tổng thu - tổng chi (tr. đồng) Lãi so với đ/c (tr. đồng) Đối chứng 2,74 8,50 27,40 18,90 - Cuốc gốc 3,18 9,30 31,80 22,50 3,6 Phun Ethrel 800 ppm 3,57 9,10 35,70 26,60 7,7 Khoanh vỏ 4,11 9,10 41,10 32,00 13,1 Tóm lại: Các biện pháp kỹ thuật nhằm không chế lộc đông cho vải như: cắt tỉa, khoanh cành, cuốc gốc, phun Ethrel đều có tác dụng hạn chế sự xuất hiện của lộc đông, góp phần nâng cao năng suất. Khoanh cành là biện pháp kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh tế cao, thông qua việc thu được năng suất cao nhất trong các biện pháp kỹ thuật đã áp dụng để khống chế lộc đông

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_09_NL_TT_KONGSINHRATSAMY.pdf
Tài liệu liên quan