Luận văn Nghiên cứu khả năng tạo lập thị trường các chứng khoán đảm bảo bằng nợ vay cầm cố tại Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu Luận văn Nghiên cứu khả năng tạo lập thị trường các chứng khoán đảm bảo bằng nợ vay cầm cố tại Thành phố Hồ Chí Minh: i MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CÁC CHỨNG KHOÁN ĐẢM BẢO BẰNG NỢ VAY CẦM CỐ (MBSs)................................................. vii 1.1. VỊ TRÍ CỦA THỊ TRƯỜNG MBSs TRONG MỐI LIÊN HỆ GIỮA THỊ TRƯỜNG VAY NỢ CẦM CỐ VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NỢ DÀI HẠN:............................................................................. vii 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ..........................................................................vii 1.1.2. Vị trí của thị trường MBSs:.................................................................... viii 1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG NỢ VAY CẦM CỐ:.................ix 1.2.1. Thị trường nợ vay cầm cố sơ cấp: ............................................................ix 1.2.2. Thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp: ...........................................................x 1.3. TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN MBSs........................................... xiii 1.3.1. MBSs là gì?: ........................

pdf92 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 912 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu khả năng tạo lập thị trường các chứng khoán đảm bảo bằng nợ vay cầm cố tại Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CÁC CHỨNG KHOÁN ĐẢM BẢO BẰNG NỢ VAY CẦM CỐ (MBSs)................................................. vii 1.1. VỊ TRÍ CỦA THỊ TRƯỜNG MBSs TRONG MỐI LIÊN HỆ GIỮA THỊ TRƯỜNG VAY NỢ CẦM CỐ VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NỢ DÀI HẠN:............................................................................. vii 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ..........................................................................vii 1.1.2. Vị trí của thị trường MBSs:.................................................................... viii 1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG NỢ VAY CẦM CỐ:.................ix 1.2.1. Thị trường nợ vay cầm cố sơ cấp: ............................................................ix 1.2.2. Thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp: ...........................................................x 1.3. TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN MBSs........................................... xiii 1.3.1. MBSs là gì?: ............................................................................................. xiii 1.3.2. Ai là người phát hành chứng khoán MBSs? ........................................ xiii 1.3.3. Đặc điểm cơ bản của MBSs: ...................................................................xiv 1.3.4. Các dạng chứng khoán MBSs:................................................................xvi 1.4. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ĐẢM BẢO BẰNG NỢ VAY CẦM CỐ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA......xix 1.4.1. Mỹ: .............................................................................................................xix 1.4.2. Malaysia: ...................................................................................................xxi 1.4.3. Hồng Kông ...............................................................................................xxii 1.4.4. Hàn Quốc................................................................................................ xxiii 1.4.5. Thái Lan...................................................................................................xxiv 1.4.6. Những bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng và phát triển thị trường MBSs ở các quốc gia:.................................................................xxv 1.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG ............................................................................xxvi CHƯƠNG 2. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH NHÀ Ở VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU TẠI TP. HỒ CHÍ MINH.......................................................... xxviii 2.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH NHÀ Ở TẠI TPHCMxxviii 2.1.1. Tình hình dân số và nhu cầu sử dụng đất tại Tp Hồ Chí Minh...... xxviii 2.1.2. Dự báo nhu cầu vốn cho phát triển nhà ở Thành phố đến năm 2010xxix 2.1.3. Tình hình thị trường bất động sản tại Thành Phố Hồ Chí Minh.......xxix ii 2.1.4. Thực trạng tài trợ cho vay phát triển nhà ở tại TP. Hồ Chí Minh ....xxxi 2.2. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DÀI HẠN ............................................... xliii 2.2.1. Thị trường trái phiếu sơ cấp:................................................................. xliii 2.2.2. Thị trường trái phiếu thứ cấp: ................................................................xlvi 2.2.3. Những nhà đầu tư mua trái phiếu dài hạn: ........................................ xlviii 2.2.4. Cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu: ...................................................li 2.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG ............................................................................... lii 2.3.1. Thuận lợi: ................................................................................................... lii 2.3.2. Khó khăn: ................................................................................................... lii CHƯƠNG 3. XÂY DỰNG NHỮNG ĐIỀU KIỆN TẠO LẬP THỊ TRƯỜNG MBSs Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.............................................................. liv 3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TẠO LẬP THỊ TRƯỜNG MBSs Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................. liv 3.1.1. Nhu cầu tạo lập thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp ở Thành Phố Hồ Chí Minh:....................................................................................................liv 3.1.2. Lợi ích của việc tạo lập thị trường MBSs: ..............................................lv 3.2. XÂY DỰNG NHỮNG ĐIỀU KIỆN TIỀN ĐỀ TẠO LẬP THỊ TRƯỜNG MBS Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH:.............................. lviii 3.2.1. Khả năng ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô:............................... lviii 3.2.2. Xây dựng một khuôn khổ pháp lý rõ ràng: ............................................lix 3.2.3. Có nhu cầu thực sự cho các khoản vay nợ cầm cố:...............................lxi 3.2.4. Khả năng hình thành các tổ chức trung gian:....................................... lxii 3.2.5. Cơ chế tăng cường tín dụng cho các khoản nợ vay cầm cố: ............. lxiii 3.2.6. Điều kiện về chi phí giao dịch và thuế: ................................................lxiv 3.2.7. Vai trò quan trọng của các nhà đầu tư tiềm năng:................................lxv 3.2.8. Khả năng tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán trên thị trườnglxv 3.2.9. Vai trò của các tổ chức định mức tín nhiệm .........................................lxv 3.2.10. Không có những cản trở làm bóp méo giá cả trong thị trường cho vay cầm cố và thị trường trái phiếu:......................................................lxvi 3.2.11. Năng lực hoạch định chính sách, quản lý và giám sát thị trường: ....lxvi 3.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG ........................................................................... lxvii PHẦN KẾT LUẬN iii PHẦN MỞ ĐẦU i) Lời mở đầu Thị trường bất động sản tại Việt Nam nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong những năm qua đã có những bước phát triển khá rõ rệt, góp phần thúc đẩy sự phát triển đô thị, cải thiện được nhu cầu về nhà ở, và góp phần không nhỏ vào sự phát triển của các ngành kinh tế, kỹ thuật khác. Cùng với tình hình dân số và tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng nhanh, nhu cầu về nhà ở ngày càng trở nên cấp bách và cần thiết. Điều này đặt ra nhiệm vụ cho Thành phố là phải vừa phải gia tăng cung khối lượng hàng hóa cho thị trường bất động sản sơ cấp, vừa phải tạo điều kiện để người dân có nhu cầu về nhà ở tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn để mua hoặc thuê nhà. ii) Vấn đề đặt ra Trong bối cảnh nêu trên, tình trạng thiếu vốn cho đầu tư xây dựng, thiếu vốn cho tài trợ nhà ở và việc tìm kiếm công cụ huy động vốn hữu hiệu vẫn đang là bài toán khó đặt ra cho Thành phố Hồ Chí Minh. Những năm qua, để tài trợ vốn cho việc phát triển thị trường bất động sản sơ cấp, các nhà đầu tư chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng và nguồn vốn ứng trước của người mua nhà, còn người có nhu cầu mua nhà lại chủ yếu dựa vào nguồn vốn tín dụng thế chấp từ các ngân hàng thương mại. Áp lực tài trợ đè nặng lên các ngân hàng vì ngân hàng đang phải cho vay trung dài hạn trong khi nguồn vốn huy động đầu vào lại từ nguồn tiết kiệm ngắn hạn trong dân cư. Các ngân hàng vừa bị hạn chế về khả năng nguồn vốn, vừa bị hạn chế về thời hạn cho vay. Nghịch lý này đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với hệ thống tín dụng, khi xảy ra những biến động đối với thị trường bất động sản. Có thể nói rằng, bên cạnh những trở ngại có liên quan đến hệ thống các quy định pháp luật, chính sách cho thị trường bất động sản, vấn đề thiếu vốn cho lĩnh vực tài chính nhà ở tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của thị trường bất động sản và kéo theo iv những tác động không tốt cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của thành phố. Trong khi đó, vai trò của thị trường vốn đối với sự phát triển của thị trường bất động sản lại thể hiện khá mờ nhạt. Nguồn vốn tài trợ của ngân hàng chưa có cơ chế nào để liên thông với thị trường vốn trung dài hạn (bao gồm thị trường chứng khoán), vốn dĩ được đánh giá là có tiềm năng huy động vốn nhàn rỗi rất lớn từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, một trong những giải pháp tích cực giải quyết bài toán vốn trong lĩnh vực tài chính nhà ở là phải tìm ra những cơ chế, công cụ huy động vốn hữu hiệu có thể kết nối thị trường bất động sản với các kênh dẫn vốn từ thị trường tài chính mà cụ thể là từ thị trường vốn. Vì lý do đó, chúng tôi muốn đề cập đến việc xem xét khả năng tạo lập một thị trường thứ cấp cho các khoản vay nợ thế chấp bất động sản của ngân hàng và chứng khoán hóa chúng trên thị trường vốn. Chúng tôi mong muốn thông qua đề tài “Nghiên cứu khả năng tạo lập thị trường các chứng khoán đảm bảo bằng nợ vay cầm cố tại Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ gợi mở những nghiên cứu sâu hơn để tìm kiếm giải pháp mới huy động nguồn vốn tài trợ cho thị trường bất động sản của Thành phố Hồ Chí Minh. iii) Mục tiêu nghiên cứu Đề tài này sẽ tập trung trả lời 02 câu hỏi lớn sau: 1. Vì sao cần phải tạo lập thị trường chứng khoán đảm bảo bằng các khoản vay cầm cố tại Thành Phố Hồ Chí Minh? 2. Xác định những điều kiện tiền đề cho việc tạo lập thị trường chứng khoán đảm bảo bằng các khoản nợ vay cầm cố và đánh giá khả năng tạo lập thị trường này tại Thành phố Hồ Chí Minh? iv) Phạm vi nghiên cứu: Do loại hình chứng khoán đảm bảo bằng các khoản vay nợ cầm cố thế chấp bất động sản còn mới lạ với Việt Nam, nhưng thật ra đã được ứng dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới tiêu biểu như Mỹ, Hồng Kông, Malaysia, và một số quốc gia v châu Á khác, đề tài nghiên cứu này sẽ chỉ tập trung vào việc đề xuất thành phố Hồ Chí Minh nên tạo lập thị trường chứng khoán này như một trong những giải pháp huy động vốn mới tài trợ cho lĩnh vực tài chính nhà ở, bên cạnh việc xem xét một số điều kiện ban đầu để Thành phố có thể tạo lập thị trường MBSs. Như vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài này sẽ không bao gồm việc đề xuất các giải pháp cụ thể cho mô hình cũng như việc vận hành thị trường MBSs ở Thành phố Hồ Chí Minh. v) Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu định tính các lý thuyết đã có cơ sở vững chắc trước đó. Các lý thuyết này được tìm kiếm và khai thác trên cơ sở các dữ liệu đã được tập hợp và phân tích một cách có hệ thống. Dựa trên việc thiết lập các mục tiêu nghiên cứu cụ thể, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó, phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp phân tích nhằm mục đích phân tích các yếu tố tác động có thể ảnh hưởng đến việc tạo lập thị trường MBSs ở Thành Phố Hồ Chí Minh chẳng hạn như phân tích khuôn khổ pháp lý, nhu cầu về vốn và nhu cầu đầu tư trên các thị trường sơ cấp và thứ cấp. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu này sử dụng phương pháp so sánh nhằm so sánh mô hình thị trường MBSs tại các quốc gia trên thế giới để có thể rút ra những bài học thực tiễn khi áp dụng vào Việt Nam. Các phương pháp hỗ trợ khác như khảo sát kinh nghiệm, phỏng vấn chuyên sâu cũng được sử dụng nhằm làm sáng tỏ hơn các vấn đề về thực tiễn nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi phần lớn sử dụng các nguồn dữ liệu thứ cấp – tức là những dữ liệu đã có được trong quá khứ. Những dữ liệu này sẽ được sử dụng chủ yếu trong chương 1 và chương 2 của luận văn này, bao gồm các tài liệu lý thuyết từ các tác giả nước ngoài và các dữ liệu trong nước từ các tư liệu chuyên môn, báo chí, v.v… vi) Kết cấu luận văn vi Luận văn này được kết cấu thành 03 chương (không kể phần mở đầu và phần kết luận) như sau: Chương 1 “Tổng quan về thị trường chứng khoán đảm bảo bằng các khoản vay cầm cố thế chấp bất động sản (MBSs)” sẽ phác họa được vị trí của thị trường chứng khoán MBSs trong tổng thể thị trường tài chính nhà ở; mang đến những hiểu biết cơ bản về MBSs cho người đọc; và đúc kết những điểm tương đồng và khác biệt từ mô hình thị trường MBSs của các quốc gia trên thế giới; rút ra những bài học kinh nghiệm cần được xem xét khi đánh giá khả năng tạo lập 01 thị trường MBSs. Chương 2 “Thị trường Tài chính nhà ở và thị trường trái phiếu tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Trong chương này, chúng tôi sẽ phân tích thực trạng các thị trường này tài chính nhà ở và thị trường trái phiếu dài hạn ở Thành phố Hồ Chí Minh - xem xét trong mối quan hệ với các nhân tố có liên quan đến việc tạo lập thị trường MBSs. Chương 3: “Những điều kiện tiền đề cho việc tạo lập thị trường MBSs và khả năng tạo lập thị trường MBSs ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Qua kết quả phân tích ở chương 02, chúng tôi sẽ đánh giá về khả năng cho việc tạo lập một thị trường MBSs tại Thành Phố Hồ Chí Minh cùng với một số khuyến nghị tiền đề cần thiết cho việc tạo lập thị trường này. vii CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CÁC CHỨNG KHOÁN ĐẢM BẢO BẰNG NỢ VAY CẦM CỐ 1.1. VỊ TRÍ CỦA THỊ TRƯỜNG MBSs TRONG MỐI LIÊN HỆ GIỮA THỊ TRƯỜNG VAY NỢ CẦM CỐ VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN NỢ DÀI HẠN: 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản • Thị trường bất động sản: bất động sản (BĐS) được hiểu là các tài sản không di dời được, bao gồm đất đai; nhà ở; công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó; và các tài sản khác gắn liền với đất. Thị trường BĐS là nơi mua bán và diễn ra các giao dịch khác về BĐS • Tài chính nhà ở: Đối với nhiều nước trên thế giới thì khái niệm tài chính nhà ở là một khái niệm quen thuộc và đã được áp dụng từ lâu bao gồm các hoạt động có liên quan đến cho vay, thế chấp, cấp vốn, trợ cấp, thuế, giá cả, phát hành chứng khoán, bảo hiểm... có liên quan đến nhà ở. Trong tài chính nhà ở, một nội dung đặc biệt quan trọng chính là tín dụng nhà ở - thể hiện qua các hoạt động cho vay cầm cố thế chấp bằng bất động sản. • Nợ vay cầm cố được hiểu trong luận văn này như là khoản nợ vay cầm cố thế chấp bằng bất động sản. Nói cách khác, đây là một hợp đồng thỏa thuận giữa bên cho vay và bên đi vay mua nhà – trong đó, bên đi vay cam kết dùng tài sản của mình cầm cố/thế chấp cho bên kia để đảm bảo nợ vay. Hợp đồng này cũng cho phép bên cho vay được quyền phát mãi tài sản này nếu người đi vay không trả được nợ. • Thị trường sơ cấp các khoản vay cầm cố thế chấp bất động sản (gọi tắt là thị trường nợ vay cầm cố sơ cấp) là nơi cung cấp nợ vay cầm cố trực tiếp từ người cho vay đến người đi vay. viii • Thị trường thứ cấp các khoản nợ vay cầm cố thế chấp bất động sản (gọi tắt là thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp) là thị trường mà các khoản nợ vay cầm cố được mua, bán lại nhằm mục đích chính là tăng cường tính thanh khoản cho tổ chức cho vay và đáp ứng nhu cầu lưu thông về vốn giữa khu vực thị trường vốn và thị trường tiền tệ. • Thị trường chứng khoán nợ dài hạn: là một bộ phận của thị trường vốn, hay nói cụ thể hơn là một bộ phận của thị trường chứng khoán, trong đó các chứng khoán nợ có kỳ hạn từ 10 năm trở lên được giao dịch. Sở dĩ khái niệm về thị trường chứng khoán nợ dài hạn được đề cập trong chương này là vì chứng khoán MBSs cũng là một loại công cụ huy động vốn trong thị trường nợ dài hạn. 1.1.2. Vị trí của thị trường MBSs: Có thể hình dung thị trường MBSs được tạo lập nhằm kết nối nhu cầu “cung” và “cầu” vốn của hai thị trường: thị trường chứng khoán nợ dài hạn (bên cung vốn), và thị trường tín dụng nhà ở (bên cầu vốn). Theo đó, vị trí của thị trường chứng khoán MBSs có thể được mô tả khái quát ở hình dưới đây: Hình 1: Thị trường MBSs trong mối liên hệ với thị trường nợ vay cầm cố và thị trường chứng khoán nợ dài hạn ix Dễ dàng thấy rằng sự xuất hiện thị trường chứng khoán MBSs đóng vai trò quan trọng trong việc đưa vốn từ thị trường vốn vào thị trường tiền tệ, trong đó, điểm mấu chốt là sự xuất hiện của thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp, và vai trò của tổ chức trung gian – người mua lại các khoản nợ và phát hành chứng khoán MBSs đến cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nợ. Việc nghiên cứu sâu hơn về quá trình vận hành và khuynh hướng phát triển của thị trường nợ vay cầm cố sẽ giúp lý giải sự cần thiết cũng như ích lợi của việc tạo lập thị trường MBSs. 1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG NỢ VAY CẦM CỐ: 1.2.1. Thị trường nợ vay cầm cố sơ cấp: Ở các quốc gia, hầu như mô hình cho vay cầm cố thế chấp bất động sản đều khởi đầu từ một kiểu truyền thống, đó là mô hình mà 1 tổ chức tín dụng thực hiện tất cả các chức năng chủ yếu như: tìm kiếm người cho vay để tạo lập các khoản cho vay nhà, tự thực hiện các dịch vụ đối với khoản vay (tổ chức thu tiền thanh toán từ người đi vay và ghi chép sổ sách) quản lý toàn bộ các rủi ro và thực hiện tài trợ. Các tổ chức này cũng có thể sử dụng dịch vụ của các tổ chức thứ 3 như những tổ chức bảo hiểm nợ vay, thẩm định và các cơ quan xếp hạng tín dụng... Tuy nhiên, những chức năng chính sẽ do tổ chức cho vay thực hiện. Hình 1: Mô hình kiểu cho vay truyền thống Người đi vay Người cho vay Tạo ra khoản vay (Originante) Thực hiện dịch vụ (service) Quản lý rủi ro (Manage Risk) Tài trợ (Fund) x Các tổ chức cho vay bao gồm: các ngân hàng thương mại; các tổ chức tiết kiệm hợp đồng của nhà nước hoặc của các hiệp hội tư nhân lập ra chủ yếu nhằm mục đích cho vay tạo lập nhà ở, trong đó đối tượng gửi tiết kiệm cũng đồng thời là đối tượng đi vay. Điểm thuận lợi của mô hình cho vay truyền thống này là tính đơn giản của nó (một tổ chức thực hiện tất cả các chức năng) và khả năng cung cấp nhiều dịch vụ cho khách hàng. Tuy nhiên, điểm bất lợi của mô hình truyền thống là tổ chức cho vay phải đối mặt với rủi ro bất tương xứng giữa nguồn vốn huy động đầu vào và nguồn vốn cho vay, làm gia tăng rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất. Rủi ro thanh khoản có thể gia tăng vì các khoản cho vay cầm cố là dài hạn còn nguồn tiền gửi vào lại là ngắn hạn. Rủi ro lãi suất gia tăng là do có sự bất cân xứng trong kỳ hạn và đặc trưng lãi suất giữa tài sản và nợ của ngân hàng. Vì những rủi ro này mà nhiều ngân hàng thương mại hạn chế cho vay cầm cố. 1.2.2. Thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp: 1.2.2.1. Những nhu cầu cơ bản ảnh hưởng đến sự ra đời của thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp Thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp phát triển là kết quả của các nhân tố ảnh hưởng sau: • Một là, nhu cầu tồn tại một thị trường đặc biệt dành cho các tổ chức cho vay với mục đích có thể bán lại các khoản cho vay này để bổ sung thêm nguồn tài chính tài trợ cho các khoản vay mới; • Hai là, nhu cầu tồn tại một cơ chế thị trường để làm cho dòng tiền tài trợ giữa các khu vực lưu thông dễ dàng hơn. Một thị trường như thế cho phép những người cho vay ở các khu vực – nơi phát sinh nhu cầu về nhà ở và nhu cầu vay nợ cầm cố vượt quá khả năng cung vốn (khả năng huy động tiền gửi) có thể bán những khoản nợ này cho một tổ chức trung gian ở khu vực khác nơi có nguồn tiền gửi thặng dư; xi • Ba là, do nhu cầu đầu tư ngày càng tăng cao của những khu vực thặng dư vốn. Người gửi tiết kiệm không còn bị giới hạn sử dụng các phương thức gửi tiền truyền thống như mở tài khoản tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn. Họ bắt đầu hướng đến những hình thức tiết kiệm mới, dài hạn hơn – thông qua các quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí. Nhận thấy được đặc điểm về kỳ hạn của nguồn vốn huy động tiết kiệm dài hạn này khá tương đồng với kỳ hạn nguồn vốn cho vay nhà ở, các tổ chức cho vay có nhu cầu liên kết với một số tổ chức trung gian để cùng tìm ra những cách khác nhau tạo nên một kênh dẫn vốn mới cho hoạt động tài trợ tín dụng nhà ở. Tất cả các nhân tố ảnh hưởng trên đã góp phần thúc đẩy thị trường nợ vay cầm cố phát triển lên một mức độ cao hơn: đó là hoạt động của thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp. 1.2.2.2. Hoạt động của thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp: Thị trường thứ cấp có thể tồn tại vừa dưới 2 dạng: Dạng thứ 1 là các giao dịch mua bán nợ vay cầm cố giữa các ngân hàng với nhau. Đây mô hình thị trường lâu đời và đơn giản nhất. Mặc dù những giao dịch dạng này đã hình thành ở nhiều quốc gia nhưng nó không phổ biến rộng rãi vì chi phí đánh giá rủi ro tín dụng cao và tính chất không tương đồng giữa các khoản nợ gây ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của chúng khi giao dịch trên thị trường. Dạng thứ hai chính là các hoạt động bán nợ thông qua phát hành chứng khoán MBSs. Hình 2: Mô hình thị trường nợ vay cầm cố sau khi đã xuất hiện thị trường thứ cấp Người đi vay (Borrower) Người cho vay ban đầu (Originator) Nhà đầu tư (Investor) Các tổ chức trung gian/ dịch vụ (Conduit/Servicer) Tăng cường tín dụng (bảo hiểm, bảo lãnh) xii Trong thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp, các chức năng: tạo lập khoản vay, dịch vụ, quản lý rủi ro và tài trợ vốn được tách rời và được quản lý bởi nhiều tổ chức chuyên môn hóa khác nhau. Tổ chức cho vay ban đầu phần lớn là các ngân hàng thương mại, các ngân hàng chuyên cho vay cầm cố thế chấp, các tổ chức tiết kiệm hợp đồng,…Lợi nhuận của các tổ chức này có được từ phí cho vay ban đầu hoặc từ lợi nhuận do bán các khoản cho vay trên thị trường thứ cấp. Những tổ chức này có thể, hoặc không cần thiết phải thực hiện các dịch vụ đối với khoản cho vay của họ mà giao cho các tổ chức khác thực hiện thay như việc thu tiền thanh toán hàng tháng từ người đi vay và chuyển chúng cho tổ chức cho vay ban đầu, gửi thông báo đề nghị thanh toán, theo dõi sổ sách đối với các khoản vay, và thực hiện các thủ tục phát mãi khi cần thiết. Chúng ta đã biết, chức năng chủ yếu của thị trường thứ cấp là cung cấp cơ chế để bổ sung vốn cho các tổ chức cho vay ban đầu, cho phép họ duy trì dòng tiền để tạo ra các khoản cho vay mới trong suốt quá trình tăng lên hoặc giảm xuống của lãi suất. Khi các tổ chức cho vay ban đầu muốn bán nợ, họ sẽ thỏa thuận với một số tổ chức trung gian (conduits) trên thị trường. Các tổ chức trung gian có nhiệm vụ tập hợp danh mục các khoản nợ vay cầm cố, phân loại, cấu trúc lại dòng tiền, phát hành chứng khoán (gọi là chứng khoán MBSs) đến các nhà đầu tư trên thị trường vốn và sử dụng các khoản nợ vay trong danh mục này như vật đảm bảo cho chứng khoán này. Ngoài việc bán nợ vay cầm cố từ các tổ chức cho vay ban đầu cho các tổ chức trung gian, nhiều tổ chức cho vay nhận thấy họ có thể tự tập hợp các khoản vay cầm cố lại và phát hành nhiều loại chứng khoán khác nhau. Khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán (sau khi đã trừ các chi phí có liên quan đến việc phát hành chứng khoán) sẽ được chuyển trả cho tổ chức cho vay ban đầu để tổ chức này tái bổ sung nguồn vốn cho hoạt động tài trợ tín dụng nhà ở. xiii 1.3. TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN MBSs 1.3.1. Chứng khoán MBSs là gì? Trong phần trên, chúng tôi đã đề cập đến việc sử dụng một danh mục các khoản nợ vay cầm cố thế chấp để đảm bảo cho mục đích phát hành 1 loại chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Những chứng khoán này được gọi chung với tên gọi là chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản vay cầm cố thế chấp (MBSs – Mortgage backed securities). Bởi vì các khoản vay được đảm bảo bằng tài sản cầm cố được thanh toán bởi những người đi vay mua nhà nên các nhà đầu tư sẽ được nhận lại phần thanh toán lãi và nợ gốc. Nhà đầu tư có thể mua chứng khoán MBSs khi chúng được phát hành (trên thị trường sơ cấp) hoặc mua sau đó trên thị trường thứ cấp. Nhà đầu tư là tổ chức lớn thường đầu tư vào chứng khoán loại này khi chúng được phát hành. Đại đa số, chứng khoán này sẽ được phân phối lại trên thị trường thứ cấp MBSs thông qua hệ thống môi giới. 1.3.2. Ai là người phát hành chứng khoán MBSs? Đối với phương thức bán trực tiếp, tổ chức phát hành chứng khoán MBSs thường là các tổ chức cho vay. Phương thức này thường đòi hỏi thêm 1 cơ chế tăng cường tín dụng cho các khoản vay nợ cầm cố từ các tổ chức tài chính có uy tín cao. Đối với phương thức bán qua trung gian, các tổ chức trung gian sẽ là tổ chức phát hành. Những tổ chức này thường là các tổ chức tài chính lớn của Chính Phủ; hoặc những công ty có vốn Nhà nước có uy tín; Họ mua các khoản nợ vay cầm cố, chứng khoán hóa các khoản vay này và phân phối chứng khoán ra thị trường thông qua các nhóm môi giới. Bản thân họ cũng có thể cung cấp các mức độ bảo lãnh khác nhau đến cho nhà đầu tư. Ngoài ra, có một số tổ chức tư nhân, như là các công ty trực thuộc ngân hàng đầu tư, các tổ chức tài chính, công ty xây dựng,…cũng có thể tập hợp nhiều khoản cho vay cầm cố thế chấp khác nhau xiv và phát hành chứng khoán MBSs. Chứng khoán mà họ phát hành được gọi là chứng khoán đảm bảo bằng khoản vay cầm cố thế chấp do tư nhân phát hành. Trong thị trường này, nhà đầu tư dựa vào thông tin cung cấp của các tổ chức định mức tín nhiệm và các biện pháp tăng cường tín dụng khác như tăng mức độ đảm bảo của danh mục các khoản nợ vay (ví dụ: giá trị danh mục nợ vay đảm bảo cao hơn giá trị chứng khoán MBSs phát hành), hoặc các sự bảo hiểm của 1 tổ chức thứ 3 để bảo vệ nhà đầu tư khỏi các rủi ro tín dụng Mức độ tín nhiệm của chứng khoán MBSs phụ thuộc rất lớn vào uy tín của các nhà phát hành cũng như mức độ bảo hiểm, bảo lãnh cho các khoản vay nằm trong danh mục chứng khoán hóa. 1.3.3. Đặc điểm cơ bản của MBSs: Xét về tính chất, MBSs xác định một nghĩa vụ nợ đối với nhà đầu tư sở hữu chứng khoán, do vậy MBSs được xếp vào nhóm chứng khoán nợ. Tuy nhiên, chứng khoán MBSs có nhiều đặc điểm khá khác biệt so với các loại chứng khoán nợ khác: • Thu nhập của chứng khoán: Đối với các chứng khoán nợ như trái phiếu doanh nghiệp hay trái phiếu Chính phủ, thu nhập của nhà đầu tư trái phiếu được xác định trước dựa vào lãi suất trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Nhà đầu tư nhận được khoản thanh toán gốc bằng mệnh giá tại thời điểm đáo hạn. Nhà đầu tư chứng khoán MBSs cũng nhận được 1 tỷ lệ lãi suất coupon nhưng họ còn nhận thêm những khoản thanh toán nợ gốc trong suốt thời hạn của chứng khoán – khi các khoản nợ vay cầm cố được thanh toán định kỳ. Do thời điểm và tốc độ thanh toán nợ gốc có thể rất khác nhau, dòng tiền của chứng khoán MBSs cũng không tuân theo một quy luật nào. Chứng khoán MBSs thường có lãi suất coupon cao hơn lãi suất của trái phiếu Chính phủ một phần là do tỷ lệ lãi suất tính cho các khoản vay cầm cố cao hơn tỷ lệ lãi suất quy định của Chính phủ. Tuy nhiên phần chênh lệch xv tăng lãi suất của chứng khoán MBSs cũng phản ánh mức độ rủi ro đầu tư được tạo ra do tính không chắc chắn của các khoản thanh toán trước. Nhà đầu tư chứng khoán MBSs có khả năng nhận lại phần vốn gốc sớm hoặc muộn hơn mong đợi của họ. Mặc dù vậy, do tính không chắc chắn này mà chứng khoán MBSs thường có thu nhập vượt cao hơn so với hầu hết các chứng khoán có thu nhập cố định khác. • Kỳ hạn: Chứng khoán MBSs được bán và giao dịch dựa trên giả định “kỳ hạn bình quân” hơn là dựa trên ngày đáo hạn của chứng khoán. Kỳ hạn bình quân là khoản thời gian trung bình kể từ khi mua chứng khoán MBSs cho đến khi nợ gốc được thanh toán dựa trên dự báo tỷ lệ thanh toán trước giả định. Tuy nhiên, một số khoản nợ vay cầm cố có thể duy trì được dư nợ cho đến hết chu kỳ vay gốc – thường là 30 năm. • Giá của chứng khoán MBSs: Cũng giống như bất kỳ chứng khoán có thu nhập cố định, lợi tức của khoản đầu tư chứng khoán MBSs phụ thuộc vào giá mua trong mối quan hệ với lãi suất coupon và độ dài thời gian dư nợ. Với MBSs, việc dự đoán tỷ lệ thanh toán trước càng chính xác thì lợi tức càng được ước tính sát thực. • Kỳ thanh toán lãi: trong khi hầu hết trái phiếu thanh toán lãi mỗi 6 tháng/lần, chứng khoán MBSs có thể thanh toán lãi và gốc hàng tháng, hàng quý hoặc hàng 6 tháng, tùy vào cấu trúc và kỳ hạn của chứng khoán phát hành. • Rủi ro của chứng khoán: Chứng khoán MBSs thường được định giá với mức tỷ suất sinh lời cao hơn so với trái phiếu Chính phủ và trái phiếu công ty cùng kỳ hạn nhưng cơ hội cho lợi nhuận (hoặc tổn thất) cũng cao hơn. Sự thay đổi của lãi suất ảnh hưởng đến chứng khoán MBSs vì chúng tác động đến tỷ lệ thanh toán trước, từ đó, ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi. Khi tỷ lệ lãi suất giảm, tốc độ trả trước thường tăng lên do người đi vay có thể đảo xvi nợ các khoản vay cầm cố với mức lãi suất thấp hơn và vì vậy giảm nghĩa vụ thanh toán hàng tháng của họ. Sự tăng lên của lãi suất có thể làm giảm tốc độ trả trước dự kiến. Sự ảnh hưởng đối với tỷ suất lợi tức sẽ phụ thuộc vào việc chứng khoán được mua với giá cao hay thấp hơn mệnh giá. Những nhà đầu tư nào muốn bán chứng khoán MBSs của họ trước ngày đáo hạn nên quan tâm đến chiều hướng thay đổi lãi suất có ảnh hưởng đến giá trị đầu tư mà họ nắm giữ. Chứng khoán MBSs còn kèm theo nó là rủi ro thanh toán trước và rủi ro thanh toán chậm. Rủi ro thanh toán trước có nghĩa là nhà đầu tư sẽ nhận được khoản thanh toán nợ sớm hơn mong đợi vì tốc độ thanh toán trước sẽ tăng lên. Trong trường hợp này, nhà đầu tư bị buộc phải tái đầu tư số tiền vào một khoản khác có lãi suất thấp hơn. Mặt khác kỳ hạn của chứng khoán có thể kéo dài hơn dự kiến bởi vì tỷ lệ trả trước thấp hơn kéo theo rủi ro thanh toán chậm. Trong tình huống này, nhà đầu tư có thể bỏ mất cơ hội đạt được một lãi suất hiện hành cao hơn cho khoản đầu tư của họ. 1.3.4. Các dạng chứng khoán MBSs: Nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi từ nhà đầu tư trên thị trường vốn, các tổ chức cho vay ban đầu luôn không ngừng đổi mới phương thức phát hành chứng khoán MBSs. Cho đến nay, chủng loại các chứng khoán MBSs khá đa dạng, và được trình bày trong nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi giới thiệu 04 loại MBSs phổ biến, gồm có: (1) Chứng khoán MBSs dạng trái phiếu (MBBs – Mortgage Backed Bonds); (2) Chứng khoán MBSs dạng chuyển quyền sở hữu và nghĩa vụ thanh toán (MPTs – Mortgage Pass-through Securities); (3) Chứng khoán MBSs dạng có phân chia hạng (CMOs Collateralized Mortgage Obligations); và (4) Chứng khoán MBSs dạng chia tách (SMSs – Stripped Mortgage Securities): 1.3.4.1. Chứng khoán MBSs dạng trái phiếu (MBBs) xvii MBBs do các nhà cho vay cầm cố tư nhân (công ty cầm cố, ngân hàng thương mại, các tổ chức tiết kiệm và cho vay) phát hành nhằm bổ sung vốn tài trợ cho các khoản cho vay cầm cố mới. Khi phát hành, tổ chức phát hành thiết lập 1 danh mục các khoản vay nợ cầm cố (thông thường là các khoản cho vay nhà ở) và phát hành trái phiếu đến nhà đầu tư. Tổ chức phát hành giữ lại quyền sở hữu của mình đối với các khoản cho vay cầm cố nhưng chúng phải được thế chấp và được tín thác cho 1 tổ chức thứ 03. Tổ chức nhận ủy thác, với tư cách là đại diện của những người sở hữu trái phiếu, đảm bảo chắc chắn rằng các điều khoán phát hành trái phiếu được chấp hành triệt để. Cũng như trái phiếu công ty, MBBs thường được phát hành với lãi suất cố định và kỳ hạn cụ thể. Để đảm bảo với nhà đầu tư rằng thu nhập từ khoản vay nợ cầm cố sẽ đủ khả năng thanh toán lãi trái phiếu và nợ gốc khi đáo hạn, nhà phát hành thường chế chấp cao hơn giá trị trái phiếu phát hành. Điều này được thực hiện bằng việc tập hợp các khoản vay nợ cầm cố có dư nợ vượt cao hơn tổng giá trị chứng khoán phát hành, và được duy trì trong suốt kỳ hạn của trái phiếu (thường từ 125% - 240% tổng giá trị theo mệnh giá của chứng khoán phát hành) Việc thế chấp vượt quá giá trị chứng khoán phát hành nhằm đảm bảo tiền lãi thanh toán cho chủ sở hữu trái phiếu vẫn được thực hiện cho dù có một số khoản vay cầm cố bị vỡ nợ. Trong trường hợp có những khoản vay cầm cố thanh toán trước hạn, những khoản vay mới sẽ được đưa thêm vào nhóm các khoản vay cầm cố dùng để thế chấp này. 1.3.4.2. Chứng khoán MBSs dạng chuyển quyền sở hữu và nghĩa vụ thanh toán: Dạng cơ bản nhất của MBSs thường được biết đến với tên gọi là MPTs. Chứng khoán này thể hiện mối quan hệ sở hữu trực tiếp của nhà đầu tư đối với lợi tức thu được từ danh mục các khoản nợ vay cầm cố. Theo như ý nghĩa tên gọi của nó, các nhà phát hành chứng khoán này sẽ thu các khoản thanh toán hàng tháng của người đi vay và chuyển dòng tiền sang cho nhà đầu tư thành những khoản thanh toán hàng tháng dưới dạng tiền lãi và nợ gốc của chứng khoán. Mỗi xviii nhà đầu tư sẽ nhận được 1 phần thu nhập của mình trong tổng dòng tiền thu về theo 1 tỷ lệ tương ứng với số chứng khoán mà nhà đầu tư đó sở hữu. Như vậy, với hình thức “pass-through” người cho vay ban đầu có thể bán hoàn toàn một nhóm các khoản nợ vay cầm cố cùng với việc chuyển quyền sở hữu các khoản vay này cho tất cả những nhà đầu tư có tham gia mua chứng khoán MPTs. Phần lớn chứng khoán MPTs có lãi suất cố định. 1.3.4.3. Chứng khoán MBS dạng có phân hạng – CMOs Các chứng khoán MBSs chuyển quyền sở hữu và nghĩa vụ thanh toán (MPTs) có thể được tập hợp lại một lần nữa để tạo ra một loại chứng khoán MBSs khác phức tạp hơn gọi là chứng khoán MBSs có phân hạng (CMOs). Loại chứng khoán này cấu trúc lại dòng tiền của danh mục nợ vay cầm cố để hình thành nhiều hạng chứng khoán khác nhau với nhiều kỳ hạn và mức lãi suất khác nhau. Trong cấu trúc của chứng khoán CMOs, nhà phát hành phân phối dòng tiền trên cơ sở thứ tự ưu tiên theo một dãy hạng của chứng khoán. Mỗi CMO là một bộ gồm 2 hoặc nhiều hạng, mỗi hạng chứng khoán lại có 1 kỳ hạn bình quân và dòng tiền khác nhau để phù hợp với từng mục tiêu đầu tư cụ thể. Chu kỳ bình quân của các hạng khác nhau thường có 4 hạng: 2, 5, 7 và 20 năm. Có một số chứng khoán CMOs được phát hành với hơn 50 hạng khác nhau. Khi khoản thanh toán từ khoản vay cầm cố được thu về, nhà phát hành chứng khoán CMOs trước tiên sẽ trả lãi suất coupon cho các nhà đầu tư ở mỗi hạng. Còn tất cả các khoản thanh toán nợ gốc theo hoặc không theo đúng lịch trình trước hết sẽ dành cho nhà đầu tư ở hạng thứ nhất. Nhà đầu tư ở các hạng tiếp sau sẽ chưa thể nhận được khoản thanh toán gốc cho đến khi các hạng ưu tiên hơn được thanh toán xong. Mục đích của việc phân chia hạng chứng khoán là nhằm chuyển hóa rủi ro thanh toán trước giữa các hạng chứng khoán thuộc cùng một danh mục nợ vay cầm cố, đáp ứng được cho nhiều mục tiêu đầu tư khác nhau. Ví dụ, nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm sẽ chọn hạng chứng khoán có độ rủi ro thanh xix toán trước cao, bù đắp lại, họ nhận được mức lãi suất chứng khoán cao hơn. Những nhà đầu tư không thích mạo hiểm sẽ hành xử ngược lại. 1.3.4.4. Chứng khoán đảm bảo bằng các khoản vay cầm cố đã được chia tách (stripped mortgage securities - SMSs) Chứng khoán SMSs được tạo ra với mục đích giúp nhà đầu tư đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình và có thêm công cụ mới để giảm rủi ro cho danh mục đầu tư. Để làm được điều này, người ta chia dòng tiền của danh mục nợ vay cầm cố ra làm 2 phần: phần lãi và phần vốn gốc. Ứng với dòng tiền lãi sẽ phát hành chứng khoán SMSs chỉ nhận lãi, hay còn gọi là chứng khoán IO (Interest Only). Ứng với dòng tiền nợ gốc, sẽ phát hành chứng khoán SMSs chỉ nhận nợ gốc, hay còn gọi là PO (Principal Only). Giá trị thị trường của chứng khoán IO và PO rất nhạy cảm trước sự biến động của tỷ lệ thanh toán trước và tỷ lệ lãi suất. Cũng như với phần lớn các chứng khoán có thu nhập cố định, giá chứng khoán PO tăng (hoặc giảm đi) khi lãi suất thị trường giảm (hoặc tăng). Trái lại, giá của chứng khoán IO tăng (hoặc giảm) cùng chiều với lãi suất thị trường. Vì tỷ lệ thanh toán trước thường giảm khi lãi suất tăng lên, nhà đầu tư vào chứng khoán IO nhận được lãi trong thời gian dài hơn, do vậy giá trị khoản đầu tư của họ tăng lên. Các chứng khoán IO có thể được sử dụng như một công cụ giảm rủi ro trong 1 danh mục đầu tư, các khoản thanh toán trước làm cho giá của chứng khoán IO dịch chuyển ngược hướng so với nhiều chứng khoán MBS và chứng khoán có thu nhập cố định khác. 1.4. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ĐẢM BẢO BẰNG NỢ VAY CẦM CỐ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA 1.4.1. Mỹ: Trên thế giới, Mỹ là quốc gia có thị trường chứng khoán MBSs phát triển từ rất sớm. Việc mua lại các khoản nợ vay cầm cố đã được các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn, các tổ chức tiết kiệm ở Miền Tây thực hiện từ giữa thập niên 50, xx nhằm giúp bổ sung nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu bùng nổ về nhà ở tại các khu vực sau chiến tranh. Khoảng cuối thập niên 60, việc Chính phủ Mỹ cho phép giải quyết một mức thuế có lợi cho các tài khoản hưu trí cá nhân và khuynh hướng dân số Mỹ có tuổi trung bình ngày càng tăng kéo theo sự gia tăng dòng tiền dài hạn của các tài khoản hưu trí, thị trường cho các nguồn ngân quỹ nhàn rỗi được sử dụng để đầu tư mở rộng hơn. Chứng khoán MBSs ở Mỹ được đánh giá là loại chứng khoán khá an toàn. Những tổ chức phát hành chứng khoán MBS thường rất cẩn trọng trong việc chọn khoản vay cầm cố nào vào tổ hợp cho việc hình thành chứng khoán của họ. Thường thì các khoản vay này đã được Cục quản lý nhà ở (FHA) bảo hiễm vỡ nợ hoặc được Hội cựu chiến binh (VA) đứng ra bảo lãnh. Ngoài ra, chứng khoán MBSs còn được phát hành và/ hoặc bảo lãnh ở nhiều mức độ khác nhau của các tổ chức lớn có uy tín của Chính phủ (như Ginnie Mae, Fannie Mae, Freddie Mac). ƒ Fannie Mae trước đây là 1 tổ chức do Chính phủ lập vào năm 1954 dưới hình thức công ty cổ phần có một phần vốn của nhà nước. Fannie Mae tham gia vào các chương trình phát hành chứng khoán MBSs bằng việc mua lại nợ vay cầm cố từ các chương trình của FHA và VA, và cung cấp bảo lãnh thanh toán đúng hạn lãi và nợ gốc của chứng khoán. ƒ Ginnie Mae (Hiệp hội cho vay cầm cố Chính Phủ) được thành lập năm 1968 bởi Chính phủ và trực thuộc Cục quản lý nhà ở. Ginnie Mae không trực tiếp phát hành chứng khoán MBSs mà chỉ cung cấp bão lãnh thanh toán đúng hạn nợ gốc và lãi chứng khoán MBSs do chính các tổ chức cho vay phát hành, phía sau sự bảo lãnh này là cam kết hoàn toàn và uy tín của Chính phủ Mỹ. Các công ty cầm cố ở Mỹ thực hiện việc tập hợp các khoản cho vay đã được bảo hiểm/bảo lãnh của VA và FHA và trình Ginnie Mae duyệt xét cấp chứng nhận bảo đảm của Ginnie mae để sau đó bán ra thị trường như là những chứng khoán của Ginnie Mae xxi ƒ Freddie Mac là một công ty do Chính phủ lập năm 1970 dưới hình thức công ty cổ phần có vốn của nhà nước. Freddie Mac cũng có chức năng tương tự như Fannie Mae nhưng có thể mua lại các khoản vay do các tổ chức cho vay nhỏ lẻ khác ngoài các chương trình cho vay của VA và FHA. Nhờ sự quan tâm của nhà đầu tư đối với loại hình chứng khoán này, thị trường chứng khoán nợ vay cầm cố Mỹ đã trở thành một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới với nhiều chủng loại MBSs nhất. Năm 2003, Mỹ đã phát hành trên 3.000 tỷ USD1 chứng khoán MBSs, trong đó, chứng khoán do các tổ chức của Chính phủ phát hành chiếm đa số (khoảng 69% tổng khối lượng phát hành). Mạng lưới quốc gia của các nhà môi giới chứng khoán sẽ bán, giao dịch và tạo nên thị trường cho MBSs. Các nghiệp vụ của chứng khoán MBSs được thực hiện trên thị trường OTC giữa các nhà môi giới hơn là trên sàn giao dịch tập trung. 1.4.2. Malaysia: Trong các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, Malaysia là quốc gia có thị trường MBSs xuất hiện sớm nhất vào năm 1986 với sự thành lập Perbadanan Cagaran Malaysia (Cagamas), Công ty cho vay cầm cố quốc gia – hoạt động theo luật công ty (1965). Quy trình chứng khoán hóa của Cagamas khá đơn giản. Hoạt động của Cagamas chủ yếu là mua các khoản vay nhà ở từ các ngân hàng và các công ty tài chính. Danh mục khoản vay nợ cầm cố đầu tiên được tập hợp vào năm 1987 lên đến khoản 38,5 triệu USD. Tiền mua các khoản vay này được tài trợ bằng cách phát hành chứng khoán nợ của Cagamas. Qua đó, Cagamas cũng giúp bổ sung tính thanh khoản cho các tổ chức tài chính thông qua quy trình chứng khoán hóa, đồng thời, giúp giảm bớt chi phí tài trợ nhà ở và tạo điều kiện cho người đi vay. Cuối năm 2001, Cagamas đã chứng khoán hóa 18,9% tổng dư nợ cho vay nhà ở của các tổ chức tài chính, với tổng số 171.593 khoản 1 Nguồn: www.ifsl.org.uk xxii vay nợ và tổng giá trị là 1.927 triệu USD. Thông qua hệ thống giao dịch, chứng khoán nợ của Cagamas góp phần mở rộng thị trường chứng khoán nợ tư nhân ở Malaysia. Cuối năm 2002, dự nợ chứng khoán của Cagamas đã đạt đến 6,6 tỷ USD 1.4.3. Hồng Kông Hồng Kông là 1 trong những thị trường vay nợ cầm cố phát triển nhất ở Châu Á. Nghiệp vụ chứng khoán hóa bắt đầu vào năm 1994 với danh mục nợ vay cầm cố đầu tiên được chứng khoán hóa bởi Ngân hàng của Mỹ. Đề nghị thành lập một tổ chức vay nợ cầm cố được thảo luận vào năm 1994. Vào lúc đó, Hồng Kông có 1 nền kinh tế hoạt động khá lành mạnh và có 1 thị trường cầm cố sơ cấp vận hành tốt. Động lực cho việc tạo lập 1 thị trường MBSs khởi đầu từ 1 dự báo khả năng cung về tài trợ nhà ở sẽ không đáp ứng được nhu cầu trong tương lai Công ty vay nợ cầm cố Hồng Kông (HKMC) được thành lập vào tháng 03 năm 1997 với vốn ban đầu 129 triệu USD là một cam kết mạnh mẽ từ HKMA cho việc đẩy mạnh thị trường thứ cấp vay nợ cầm cố. Hoạt động đầu tiên của HKMC là mua 526 khoản nợ vay trị giá 84.1 triệu USD từ 4 ngân hàng được xét duyệt vào tháng 11/1997. Đến cuối năm 2001, tổng giá trị ròng danh mục các khoản vay cầm cố của HKMC đạt khoảng 2.54 tỷ USD, chiếm 3.74% tổng dư nợ các khoản vay nợ cầm cố trong năm. Dư nợ các chứng khoán nợ của HKMC vào khoảng 2.57 tỷ USD vào cuối năm 2001. So với chương trình chứng khoán MBS của Cagamas, vốn chỉ dừng lại ở việc chuyển quyền sở hữu nợ vay cầm cố sang cho nhà đầu tư, chương trình MBS của HKMC còn tiến xa hơn việc dàn xếp pass-through này. HKMC tập hợp các khoản nợ vay cầm cố với sự bảo lãnh thanh toán và chuyển chúng cho một pháp nhân đặc biệt (Bankruptcy remote special purpose company - SPC). Tổ chức này sẽ bán MBSs trở lại cho ngân hàng bán nợ ban đầu – gọi là dàn xếp “back-to- back pass through” Hai hạng của chứng khoán này được bán cho ngân hàng Dao xxiii Heng (0.13 tỷ USD) và ngân hàng Amercan Express (81.38 triệu USD) vào năm 1998. Với sự mở rộng phạm vi các chương trình MBSs và việc thiết lập hệ thống khuôn khổ pháp lý đầy đủ và tinh vi, Hồng Kông Kông đang được đánh giá là một trong những thị trường chứng khoán hóa tốt nhất Châu Á. 1.4.4. Hàn Quốc Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã thúc đẩy công cuộc cải cách tài chính ở Hàn Quốc, và sự phát triển của thị trường chứng khoán hóa ở Hàn Quốc cũng phát triển từ đó. Luật chứng khoán hóa ban hành năm 1998 cho phép các tổ chức tài chính chứng khoán hóa nhiều loại tài sản, bao gồm cả các khoản vay nợ cầm cố. Đạo luật về chứng khoán hóa các khoản vay nợ cầm cố được ban hành vào tháng 01/1999, tiếp sau đó là sự hợp nhất Công ty vay nợ cầm cố Hàn Quốc (KoMoKo) vào tháng 09/1999 Quy trình chứng khoán hóa của KoMoCo được thực hiện dưới hình thức trái phiếu MBBs và chứng khoán pass-through MPTs. Với cấu trúc của chứng khoán MPT, KoMoCo sẽ mua các khoản nợ vay cầm cố từ các tổ chức tài chính, bão lãnh thanh toán và chuyển chúng cho một tổ chức tín thác (công ty tín thác KoMoKo). Tổ chức nhận ủy thác này sau đó sẽ biến đổi danh mục khoản vay nợ cầm cố trở thành các chứng khoán MBSs có thể giao dịch được và bán chúng cho những nhà đầu tư tiềm năng. Theo luật doanh nghiệp, KoMoKo không được nắm giữ các khoản vay nợ cầm cố này và những tổ chức bán nợ vay cầm cố sẽ tiếp tục thực hiện vai trò của 1 nhà dịch vụ trong quy trình phát hành chứng khoán MBSs Sau 3 năm hoạt động, KoMoCo đã phát hành và giới thiệu 7 loại chứng khoán MBSs với tổng giá trị phát hành là 1,97 tỷ USD (2,549.77 tỷ KRW) dựa trên 350,139 khoản nợ vay cầm cố. Sự gia tăng giữa biên độ lãi suất vay nợ cầm cố và lãi suất trái phiếu Chính phủ sau thời kỳ khủng hoảng 1997 đã tạo ra 1 môi xxiv trường thị trường thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ hơn của chứng khoán MBSs ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, sự tập trung dư nợ vay cầm cố vào hai tổ chức có mối quan hệ với Chính Phủ là Quỹ Nhà Ở quốc gia ( NHF) và ngân hàng Kookmin – chiếm 90,7% thị trường vay nợ cầm cố tại Hàn Quốc, đã hạn chế sự tham gia của các tổ chức tài chính khác vào thị trường MBSs. Ngoài ra, việc gia tăng các khoản vay nợ cầm cố có kỳ hạn ngắn - 3 năm đã làm kìm hãm sự phát triển của thị trường MBSs làm cho các khoản vay nợ dạng này không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư MBSs. 1.4.5. Thái Lan Khủng hoảng kinh tế quốc gia đã cho Thái Lan một cơ hội xem xét kỹ lưỡng toàn bộ cơ chế tổ chức để điều chỉnh thị trường tài chính của mình. Một tổ chức vay nợ cầm cố thứ cấp đã được thiết lập dưới sự hỗ trợ của Fannie Mae và Merrill Lynch. Sự chuyển động này đã đẩy mạnh khả năng chứng khoán hóa ở Thái Lan, bởi vì luật pháp chỉ ra chính xác các khái niệm về doanh thu thực và các phương thức chuyển nhượng. Nghị định về pháp nhân đặc biệt đã ra đời. Tuy nhiên, cũng còn một số nhân tố cản trở khả năng tạo lập thị trường MBSs ở Thái Lan. Đó là, thủ tục phát mãi tài sản còn tốn thời gian và chi phí; việc chuyển nhượng tài sản còn phụ thuộc vào thuế giao dịch; Sự yếu kém của thị trường trái phiếu nội địa, thiếu tính thanh khoản trong thị trường sơ cấp và thứ cấp; thuế giao dịch và chuyển nhượng cao; thiếu các trái phiếu chính phủ để đưa ra các chuẩn về tỷ suất lợi nhuận; nhu cầu thấp của các nhà đầu tư tiềm năng; chi phí trung gian cao có liên quan đến vốn và tiền gửi của ngân hàng; tính ổn định của nền kinh tế do ảnh hưởng của khủng hoảng. Về phía thị trường vay nợ cầm cố, trở ngại lớn ở chỗ hoạt động bảo lãnh vay nợ cầm cố chưa phát triển, việc hạch toán kế toán về chuyển nhượng vay nợ cầm cố chưa rõ ràng. Thị trường trái phiếu của Thái Lan có nhiều hạn chế giống các quốc gia khác ở Châu Á khác, chưa ở tư thế sẵn sàng đảm bảo cho việc thiết lập thị trường vay nợ cầm cố thứ cấp. Tuy nhiên Trung tâm giao dịch trái phiếu Thái Lan, với các phương tiện xxv thanh toán hiện đại, phục vụ như là 1 nền tảng cho các giao dịch sơ cấp và thứ cấp của chứng khoán MBSs. Thêm vào đó, có 1 tổ chức xếp hạng tín dụng có khả năng xuất hiện, giúp tăng cường công tác đánh giá rủi ro cho MBSs. Vì thế, có thể nhận định rằng nếu có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ một thị trường MBSs tốt sẽ phát triển trong tương lai. 1.4.6. Những bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng và phát triển thị trường MBSs ở các quốc gia: Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính ở Châu Á, phần lớn các quốc gia cho rằng nhu cầu cho vay cầm cố ở thị trường sơ cấp chỉ giảm sút trong ngắn hạn, và sẽ gia tăng trở lại bởi nhu cầu liên tục cho phát triển nhà ở. Vì vậy, những trở ngại ảnh hưởng đến khả năng thiết lập thị trường MBSs ở các quốc gia này gần như từ các vấn đề sau: thị trường cho vay cầm cố thứ cấp và thị trường sơ cấp và thứ cấp cho MBSs và trái phiếu nói chung. Để thị trường MBSs và các tổ chức cho vay cầm cố thứ cấp (SMIs) có thể hoạt động được, cần phải bắt đầu bằng việc cải cách và cải thiện thị trường sơ cấp và thứ cấp cho vay cầm cố, sau đó đến thị trường trái phiếu sơ cấp và thứ cấp. Các quốc gia khác nhau có những chế độ tài chính khác nhau nhưng đều chia sẽ với nhau những điểm tương đồng gây khó khăn cho việc phát triển thị trường MBSs. Trong những nhân tố gây khó khăn cho thị trường thứ cấp cho vay cầm cố thì sự chưa tương xứng trong luật pháp và các hướng dẫn hạch toán nhằm bảo vệ và triển khai việc chuyển nhượng quyền sở hữu dựa trên các điều kiện mua bán thực sự. Sự bất tương xứng trong luật pháp và hướng dẫn hạch toán gây trở ngại cho việc thiết lập các pháp nhân đặc biệt và gia tăng chi phí giao dịch trong quá trình đưa các khoản cho vay cầm cố đến cho các tổ chức này. Thêm vào đó, quy định tại một số quốc gia, đặc biệt là Trung quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, nhằm đạt được sự chấp thuận của người thế chấp cầm cố tài sản trước khi các khoản vay cầm cố được chuyển nhượng đến cho các pháp nhân đặc biệt đã làm chậm trễ quá trình chứng khoán hóa. Một nhân tố khác ảnh hưởng đến khả năng thành lập thị trường thứ cấp các khoản xxvi vay cầm cố là chất lượng của những khoản vay cầm cố ban đầu trên thị trường thứ cấp. Ở một số quốc gia đang phát triển khác, hiệu quả tập hợp khoản cho vay cầm cố thấp đòi hỏi phải có nhiều nổ lực cải tiến vấn đề bảo lãnh, tập hợp thông tin, thẩm định và khả năng phục vụ của các người cho vay ban đầu và cho việc giảm rủi ro về đạo đức trong cho vay thông qua việc tổ chức giám sát, kiểm tra tốt hơn. Sự cải thiện toàn diện thị trường trái phiếu sơ cấp và thứ cấp cũng sẽ tăng cường sức mạnh cho thị trường sơ cấp và thứ cấp cho chứng khoán MBSs. Thị trường trái phiếu ở các quốc gia khảo sát có những thiếu sót tương tự nhau: đó là việc thiếu mức chuẩn cho lãi suất dài hạn, nhu cầu thấp đối với các công cụ tài chính dài hạn, lĩnh vực tiết kiệm dựa trên hợp đồng, và chi phí giao dịch cao. 1.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG Qua nghiên cứu hoạt động của các thị trường vay nợ cầm cố sơ cấp, thứ cấp, đặc trưng cơ bản của MBSs và mô hình thị trường ở 1 số quốc gia trên thế giới, chúng tôi nhận thấy rằng để xác định tính khả thi của việc thiết lập thị trường MBSs, những biến số quan trọng nhất là nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng trong thị trường cho vay cầm cố và thị trường chứng khoán MBSs. Sự phát triển của thị trường MBSs dựa trên sự hợp lực của 4 thị trường phụ thuộc lẫn nhau: thị trường sơ cấp và thứ cấp cho các khoản vay nợ cầm cố và thị trường thứ cấp và sơ cấp chứng khoán MBSs. Vì vậy, để thị trường MBSs hoạt động tốt thì phải chú ý đến sự cân bằng nhạy cảm giữa 4 thị trường, và điều này đưa đến việc củng cố các tài sản bất động sản trong thị trường cho vay cầm cố và các tài sản tài chính trong thị trường tài chính. Nghĩa là, trong thị trường nhà ở và thị trường cho vay cầm cố, tài sản hoặc các khoản cho vay cầm cố ban đầu của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác phải có chất lượng tốt. Mặt khác, trong thị trường chứng khoán MBSs, chất lượng của bản thân chứng khoán cũng phải được đảm bảo. Vì thế, chất lượng của cả tài sản đảm bảo và các công cụ dẫn xuất của chúng phải đủ mạnh để việc thiết lập thị trường MBSs có tính khả thi. xxvii xxviii CHƯƠNG 2. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH NHÀ Ở VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU TẠI TP. HỒ CHÍ MINH 2.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH NHÀ Ở TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trong thời gian qua, cơ chế thị trường phát triển mạnh trong lĩnh vực nhà ở cùng với sự gia tăng nhanh chóng dân số và tình trạng di cư từ nông thôn ra thành thị đã tạo áp lực lớn về nhà ở, làm cho giá nhà ở, đất ở đô thị tăng lên đáng kể, đặc biệt là ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài vấn đề cung - cầu thị trường xây dựng nhà ở và giá thị trường bất động sản quá cao, một tác động trực tiếp đến nhà ở đô thị là việc thiếu khả năng tiếp cận các hình thức tài trợ dài hạn, với các điều kiện có khả năng chấp nhận được, để tài trợ cho việc mua mới, xây nhà hoặc nâng cấp nhà. 2.1.1. Tình hình dân số và nhu cầu sử dụng đất tại Thành phố Hồ Chí Minh Theo thống kê của Cục thống kê và số liệu kê khai đất đai, năm 2000, Thành phố có dân số khoảng 5,1 triệu dân với 1.007.021 căn nhà, tổng diện tích nhà ở là 52,7 triệu m2. Trong đó gồm 203.448 nhà kiên cố, 643.990 nhà bán kiên cố và 159.583 nhà loại khác. Diện tích ở bình quân 1 người là 10,27 m2. Bên cạnh đó có 25.044 căn nhà lụp sụp xen lẫn trong các khu dân cư. Trong giai đoạn 2001- 2003, mỗi năm dân số tăng thêm bình quân khoảng 3,7% và diện tích nhà ở tăng thêm khoảng hơn 3 triệu m2/năm2 Dự báo đến năm 2010 dân số Thành phố sẽ lên đến khoảng 7,2 triệu người với diện tích ở bình quân 1 người vào khoảng 14m2. Nhiều cụm dân cư đô thị mới sẽ hình thành. Đất nông nghiệp sẽ chuyển dần thành đất đô thị là điều không thể tránh khỏi. Bảng 1 cho thấy tình hình xây dựng và sửa chữa lớn nhà ở trong 2 Nguồn: Niên giám thống kê 2004 của Cục thống kê TP.HCM và Báo cáo Tóm tắt Chương trình Nhà ở tại TpHCM đến năm 2010 - Sở xây dựng, tháng 04/2004 xxix khu vực dân cư thời gian qua cũng gia tăng nhanh chóng theo tốc độ đô thị hóa ngày càng gia tăng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Bảng 1: Tình hình cấp phép cho xây dựng và sửa chữa lớn nhà ở 2001-2004: 2001 2002 2003 2004 Tổng số giấy phép 10.085 11.967 15.094 19.597 Trong đó xây dựng mới 8.587 10.807 13.414 18.353 Diện tích sàn (m2) 1.738.932 1.889.861 2.923.791 3.345.543 (Nguồn: Niên giám thống kê 2004 của Cục thống kê TP.HCM) 2.1.2. Dự báo nhu cầu vốn cho phát triển nhà ở Thành phố đến năm 2010: Từ nay đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh cần nguồn vốn cho toàn bộ chương trình nhà ở khoảng 53.000 tỷ đồng. Trong đó vốn ngân sách khoảng 13.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 25%, phần này chưa bao gồm tiền đền bù giải tỏa và chi phí đầu tư hạ tầng được sử dụng từ nguồn vốn ngân sách tập trung của thành phố, phần còn lại là vốn huy động từ doanh nghiệp, nhân dân và vốn vay ngân hàng3. Các chương trình nhà ở gồm: di dời tái định cư dân sống trên kênh rạch; Nâng cấp các khu nhà lụp xụp trong nội thành; phá dỡ, cải tạo hoặc xây dựng các chung cư hư hỏng nặng; và xây dựng, cải tạo và sửa chữa nhà ở. 2.1.3. Tình hình thị trường bất động sản tại Thành Phố Hồ Chí Minh So với các địa phương khác trong cả nước, thành phố Hồ Chí Minh, cùng với Hà Nội là những khu vực có thị trường bất động sản phát triển khá sôi động trong những năm vừa qua. Sự tăng trưởng và phát triển của thị trường BĐS đã góp phần thúc đẩy sự phát triển đô thị, cải thiện được một bước nhu cầu về nhà ở, và góp phần không nhỏ vào sự phát triển của các ngành kinh tế, kỹ thuật khác. Tuy nhiên, trên thực tế, thị trường này vẫn còn đang trong giai đoạn hình thành 3 Báo cáo Tóm tắt Chương trình Nhà ở tại Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 của Ủy ban Nhân dân Tp.HCM - Sở xây dựng, tháng 04/2004 xxx - Hệ thống qui định pháp luật và chính sách liên quan đến thị trường BĐS tuy đã được ban hành nhiều nhưng chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ; - Vấn đề thực hiện qui hoạch thiếu nhất quán, chưa thật sự khoa học; thông tin về qui hoạch cũng như các thông tin khác về thị trường bất động sản khó tiếp cận và thiếu minh bạch; - Tình trạng đầu cơ đất đai và tính tự phát trong hoạt động kinh doanh Bất động sản làm cho thị trường bất động sản ở trong trạng thái mất cân đối, thiếu ổn định, cũng như dẫn đến tình trạng ảo trong nhu cầu và giá cả. Từ trước đến nay, chưa một cơ quan nào có thể thống kê được toàn bộ các giao dịch mua bán nhà, đất thành công trên địa bàn thành phố. Nhiều trường hợp mua bán, sang nhượng nhà đất được thực hiện bằng hợp đồng góp vốn, hoặc giấy viết tay... Ngoài ra cũng chưa có quy định cụ thể nào yêu cầu các chủ đầu tư, các công ty môi giới, các sàn giao dịch báo cáo về tình hình mua bán nhà, đất, căn hộ trong các dự án. Do đó, Thành phố chưa thể thống kê được số lượng giao dịch thành công, giá bán chính thức giữa người mua và người bán. Từ khi có chỉ thị 08/2002/CT-UB ngày 22/04/2002 của Ủy Ban nhân dân thành phố và đặc biệt là Nghị Định 181/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 29/10/2004 với các quy định liên quan đến việc cấm phân lô bán nền, thị trường bất động sản tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng như nhiều địa phương khác có dấu hiệu chững lại, giá đất giảm, đặc biệt là giá đất nông nghiệp, trường hợp chuyển nhượng bất hợp pháp giảm hẳn. Trong 6 tháng đầu năm 2005, số lượng hồ sơ mua bán chuyển nhượng trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh chỉ đạt 4.518 hồ sơ, giảm 68% so với cùng kỳ năm 20044. Tình hình mua bán nhà đất bằng giấy tay, xây 4 Nguồn: Trung tâm Thông tin Tài nguyên - Môi trường và Đăng ký Nhà đất xxxi Tuy nhiên, tác động của Nghị Định 181/NĐ-CP cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình huy động vốn cho lĩnh vực nhà ở. Thực lực các nhà đầu tư vào thị trường bất động sản hiện nay đa số không đủ năng lực tài chính để tự mình thực hiện những dự án nhằm tạo ra những sản phẩm hoàn chỉnh cho thị trường sơ cấp. Phần lớn các chủ đầu tư chỉ thực hiện những dự án có quy mô nhỏ, nhưng cũng chỉ có khả năng thực hiện giai đoạn chuẩn bị đầu tư, hoặc đền bù đất nông nghiệp. Còn nguồn vốn để xây dựng hạ tầng kỹ thuật xã hội, xây dựng nhà để bán phải dựa vào nguồn vốn ứng trước của người mua và nguồn tín dụng của ngân hàng thương mại. Tình trạng đầu cơ đất đai trước đây đã đẩy giá đất lên cao, cộng với cơ chế mua nhà trả góp trong thời gian ngắn đã làm cho những người thực sự có nhu cầu mua nhà để ở không đủ khả năng tài chính để tham gia. Cả bên cung và bên cầu nhà ở đều trông cậy vào nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Nhu cầu vốn này đang vượt quá khả năng đáp ứng của các ngân hàng. Vấn đề đặt ra của thị trường bất động sản hiện nay là vừa tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho thị trường phát triển vừa phải giải quyết bài toán vốn để thị trường BĐS sơ cấp tăng nhanh được lượng thành phẩm (nhà ở) sao cho phù hợp với khả năng thanh toán của từng đối tượng tiêu dùng. 2.1.4. Thực trạng tài trợ cho vay phát triển nhà ở tại TP. Hồ Chí Minh Tại Thành phố Hồ Chí Minh, hệ thống tín dụng phát triển nhà ở tài trợ cho cả bên cung lẫn bên cầu nhà ở. Bên cung nhà ở gồm các công ty xây dựng và kinh doanh bất động sản. Bên cầu nhà ở gồm các hộ gia đình vay vốn để mua hoặc cải xxxii thiện nhà ở hiện hữu, hoặc cho các mục đích kinh doanh. Các tổ chức tham gia vào quá trình cho vay nhà ở gồm: Hỗ trợ tín dụng cho bên cung Hỗ trợ tín dụng cho bên cầu - Các ngân hàng Thương mại đóng trên địa bàn TPHCM - Các ngân hàng Thương mại đóng trên địa bàn TPHCM - Quỹ Đầu Tư Phát triển Đô thị TPHCM - Quỹ Hỗ Trợ Vốn CEP (thuộc liên đoàn lao động thành phố) - Quỹ Phát Triển Nhà ở TPHCM - Quỹ Phát triển Nhà ở TPHCM Giữ vai trò chủ lực trong cho vay phát triển nhà ở trên địa bàn TPHCM vẫn là nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước – Chi nhánh TPHCM, có 65 tổ chức tín dụng có tham gia cho vay vào lĩnh vực đầu tư, xây dựng và phát triển nhà ở. Quỹ Hỗ trợ vốn CEP là 1 dạng quỹ quay vòng vốn để nâng cấp nhà ở và cải thiện thu nhập cho hộ gia đình có thu nhập thấp. Mục tiêu của quỹ này là hỗ trợ tín dụng nhỏ cho các hộ gia đình nghèo vay để cải tạo, nâng cấp nhà ở và tăng thu nhập nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo đô thị; thiết lập và củng cố hệ thống tín dụng nhà ở vi mô thông qua quá trình vay vốn đến người nghèo đang có nhu cầu với lãi suất phù hợp và thời gian cần thiết mà người dân chấp nhận được đồng thời đảm bảo thu hồi vốn; tạo tâm lý và thói quen tiết kiệm để có tích lũy đối với bộ phận dân cư nghèo đô thị. Quỹ CEP có tổng số vốn hoạt động khá khiêm tốn: 157 tỷ đồng. Quỹ Đầu Tư phát triển Đô Thị Thành phố được thành lập từ năm 1997 với chức năng tài trợ tín dụng trung và dài hạn cho các dự án phát triển hạ tầng kinh tế xã hội của Thành phố, trong đó có tham gia tài trợ cho vay các dự án đầu tư xây dựng các khu dân cư, khu đô thị mới. Tuy nhiên, mức độ tài trợ cho lĩnh vực này còn hạn chế và không phải là hoạt động chủ yếu của Quỹ Đầu Tư. xxxiii Quỹ Phát triển nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh, với số vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng, có chức năng đầu tư trực tiếp tạo lập quỹ nhà ở để bán trả góp và cho thuê; cho vay ưu đãi đối với các đối tượng thu nhập thấp để mua nhà trả góp, các chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở. Quỹ này hiện đang trong giai đoạn khởi động ban đầu, chưa có các khoản tài trợ thực tế phát sinh. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung đánh giá hoạt động cho vay của 65 tổ chức tín dụng có tham gia tài trợ phát triển nhà ở trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 2.1.4.1. Mức độ tài trợ cho vay các tổ chức tín dụng: Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước – Chi nhánh TPHCM, tình hình cho vay bất động sản đến cuối tháng 6/2005, dư nợ đạt 28.654 tỷ đồng, chiếm khoảng 17% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế trên địa bàn, trong đó xây nhà để bán: 4.091 tỷ đồng; văn phòng cho thuê: 2.897 tỷ đồng; cho vay sửa chữa, mua nhà ở: 8.882 tỷ đồng; và xây dựng hạ tầng: 6.594 tỷ đồng Bảng 2: Tình hình dư nợ cho vay bất động sản so với tổng dư nợ tín dụng toàn Thành Đơn vị tính: tỷ đồng 2003 2004 6/2005 Tổng dư nợ tín dụng toàn thành phố 100.886 136.473 168.553 Dư nợ tín dụng cho vay BĐS của 65 TCTD 15.038 24.807 28.654 Tỷ trọng trong tổng dư nợ toàn thành 14,9% 18,2% 17% Tỷ trọng cho vay BĐS trong tổng dư nợ cho vay trung dài hạn của 65 TCTD 27,52% 35,27% 37,11% Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt nam – chi nhánh TPHCM Những số liệu trên cho thấy nhu cầu về nhà cửa, đất đai trong dân cư rất cao, dư nợ cho vào lĩnh vực bất động sản liên tục tăng qua các năm, các tổ chức tín dụng cũng tăng cường tỷ trọng cho vay BĐS trong tổng dư nợ cho vay trung dài lên đến mức 35%-37% nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho lĩnh vực này. Sự đóng góp của các TCTD trong lĩnh vực BĐS vào sự phát xxxiv triển chung của nền kinh tế Thành phố là khá quan trọng. Năm 2003, doanh số cho vay bất động sản của các TCTD đóng góp khoảng 9,8% GDP toàn Thành phố. Tỷ lệ này trong năm 2004 giảm sút còn là 7,8%. Sự sụt giảm này là do yếu tố rủi ro của thị trường bất động sản trong những năm gần đây, các NHTM ngần ngại cho vay khi tình trạng đầu cơ đất đai đã đẩy giá đất lên quá cao so với giá trị thực của chúng. 2.1.4.2. Thị phần trong thị trường cho vay bất động sản Do hạn chế về thời gian và nguồn thông tin thu thập, chúng tôi đã chọn và khảo sát tình hình cho vay bất động sản tại 9/65 tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố. Những tổ chức này đóng góp khoảng 41% tổng dư nợ cho vay bất động sản trên toàn Thành Phố, bao gồm các tổ chức dưới đây, xếp theo thứ tự dư nợ cho vay bất động sản giảm dần: Bảng 3: Tình hình dư nợ cho vay BĐS ở 09 ngân hàng được khảo sát Dư nợ cho vay BĐS Tỷ trọng cho vay sửa chữa, mua nhà ở Stt Tên ngân hàng 2003 2004 6/2005 2003 2004 6/2005 1 Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam - TPHCM 1.560 3.678 3.858 9,7% 13,7% 23,8% 2 Ngân hàng NN&PTNT - TPHCM 1.045 1.727 1.968 12,6% 14,2% 15,5% 3 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín 899 1.141 1.515 76,9% 33,3% 31,6% 4 Ngân hàng TMCP Á Châu 1.259 1.351 1.393 93,1% 91,0% 91,1% 5 Ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà 622 855 1.090 76,6% 62,2% 43,0% 6 Ngân hàng Công Thương - SGDII 321 761 733 17,7% 1,8% 21,7% 7 Ngân hàng TMCP Kỹ Thương 24 387 529 100,0% 75,1% 85,7% 8 Ngân hàng TMCP Việt Á 282 379 413 50,2% 78,9% 75,9% xxxv Dư nợ cho vay BĐS Tỷ trọng cho vay sửa chữa, mua nhà ở Stt Tên ngân hàng 2003 2004 6/2005 2003 2004 6/2005 9 Ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam - TPCHM 159 191 237 3,7% 0,6% 29,1% Cộng của 9 TCTD 6.171 10.470 11.736 47,3% 34,2% 42,0% Nguồn: Số liệu qua khảo sát tại các ngân hàng Tính đến 30/6/2005, kết quả khảo sát tại 9 tổ chức tín dụng này cho thấy phần lớn các ngân hàng có dư nợ đầu tư bất động sản lớn thường chủ yếu tài trợ tín dụng cho chủ đầu tư các dự án xây nhà ở để bán, hoặc cho vay xây dựng các khu đô thị hoặc cho vay đồng tài trợ đầu tư vào bất động sản, sửa chữa, xây dựng rồi cho thuê…, tỷ trọng cho vay các hộ gia đình để mua, xây hoặc sửa chửa nhà không cao. Những kết quả trên cho thấy chính sách tài chính nhà ở tại Thành phố Hồ Chí Minh từ trước đến nay vẫn ưu tiên về tài trợ bên cung hơn bên cầu nhà ở. Điều dễ hiểu rằng do hạn chế về nguồn vốn trung dài hạn nên với việc tài trợ bên cung, các ngân hàng thu hồi vốn về nhanh hơn là tài trợ cho bên cầu. Hơn nữa, các ngân hàng cũng tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc thẩm định khả năng trả nợ và theo dõi thu hồi vốn vay khi cho vay “sĩ” các tổ chức xây dựng và kinh doanh bất động sản. Trong một thị trường BĐS có tính đầu cơ cao, nguồn vốn này của ngân hàng không hỗ trợ được cho nhu cầu tạo lập nhà ở của các hộ gia đình, và tình trạng thừa cung nhà ở xảy ra là điều khó tránh khỏi. Những năm gần đây, một số ngân hàng TMCP như ngân hàng Á Châu, Ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà, Ngân hàng Kỹ thương, Ngân hàng Việt Á đã bắt đầu mở rộng nhiều chương trình hỗ trợ cho vay nhà ở cho các hộ gia đình, thông qua nhiều hình thức linh hoạt như vay thông thường, vay trả góp tháng, trả góp ngày...nhưng chủ yếu là đảm bảo bằng lương của người lao động nhằm khai thác thị trường phía cầu nhà ở đang còn bỏ ngõ. 2.1.4.3. Hoạt động cho vay mua nhà ở có thế chấp tại Thành Phố Hồ Chí Minh xxxvi Các hình thức cho vay mua nhà ở tại Thành phố Hồ Chí minh: Hiện nay, việc tài trợ cho vay mua nhà ở của các TCTD được thực hiện dưới 02 hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Hình thức truyền thống thường áp dụng trong trường hợp cho vay trực tiếp đến các cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu vay vốn mua nhà. Ngân hàng xem xét khả năng trả nợ của người đi vay và quyết định cho vay dựa trên việc chứng minh thu nhập trả nợ và tài sản thế chấp đã có đủ giấy tờ pháp lý. Với những người có nhu cầu vay vốn ứng trước để đăng ký mua nhà đang trong quá trình xây dựng từ các công ty kinh doanh bất động sản, việc cho vay theo hình thức trực tiếp, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay là không thể thực hiện được vì tài sản tại thời điểm vay vốn chưa hình thành nên chưa có cơ sở xác nhận chủ quyền cho bên đi vay. Để giải quyết vấn đề này, nhiều TCTD đã thực hiện các dạng hợp đồng 3 bên giữa ngân hàng, các chủ đầu tư (bên bán) và người đi vay (bên mua nhà). Theo đó, bên đi vay cam kết thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay và trả nợ vay cho ngân hàng, bên bán cam kết bán nhà cho bên mua và giao giấy chứng nhận sở hữu nhà và đất ở cho ngân hàng làm tài sản thế chấp ngay khi thủ tục hoàn tất, ngân hàng cam kết giải ngân cho bên bán theo tiến độ thi công. Với phương thức này, nhà đầu tư có lợi vì có vốn để đầu tư xây dựng, người mua nhà có lợi vì vẫn được ngân hàng cho vay thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Giá trị mỗi khoản vay và thời hạn cho vay: Mức cho vay của ngân hàng phụ thuộc vào nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ, biện pháp đảm bảo tiền vay (giá trị tài sản đảm bảo, phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã được xác định v.v…). Thông thường các ngân hàng hỗ trợ 70%-80% tổng nhu cầu vốn vay. Điều khó khăn nhất của người đi vay là các ngân hàng thường định giá tài sản đất đai thế chấp thấp, chỉ bằng khoảng 50% giá thị trường và cho vay 70%-80% trị giá tài sản mà họ đã tự định giá. xxxvii 21.587 7.529 5.871 1.325 1.196 28 - 5.000 10.000 15.000 20.000 25.000 Tỷ đồng 1-5 năm 5-10 năm >10 năm Thời hạn cho vay Dư nợ chia theo thời hạn cho vay (Tính đến 30/06/2005) Dư nợ cho vay bất động sản Dư nợ cho vay mua, sửa chữa nhà ở Hình 3: Biểu đồ dư nợ tín dụng cho vay BĐS của 65 TCTD trên địa bàn TPHCM Đồ thị ở trên cho thấy thời gian cho vay mua nhà trả góp khá ngắn, bình quân vào khoảng 7 năm. Mặc dù nhu cầu về nhà ở đối với những người có mức thu nhập thấp, trung bình rất cao nhưng họ đều khó tiếp xúc với nguồn vốn vay của ngân hàng. Muốn được các ngân hàng cho vay, lương là thu nhập chủ yếu để ngân hàng đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, trong khi lương của người đi vay lại thấp. Với thời gian ngắn như vậy, người mua nhà chịu một áp lực trả nợ khá lớn, và hầu như chỉ có những hộ gia đình có thu nhập trung bình khá trở lên mới đủ khả năng trang trải nợ vay. Hệ quả sẽ dẫn đến là: rủi ro trong cho vay của ngân hàng sẽ gia tăng và nhiều người có nhu cầu về vốn không thể tiếp cận với nguồn vốn vay của ngân hàng. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu vốn phù hợp với khả năng trả nợ của người đi vay, nhiều ngân hàng như Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, Kỹ Thương,… đã mạnh dạn kết hợp với các chủ đầu tư xây dựng cho các hộ gia đình vay tiền mua nhà trả góp với thời hạn lên đến 15-20 năm. Tuy nhiên, đây cũng là một bài toán lớn cho ngân hàng vì nguồn vốn cho vay trung dài hạn của ngân hàng là có hạn (30%-40% tổng dư nợ5) trong khi nguồn vốn huy 5 Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ngày 19/04/2005 quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng xxxviii động đầu vào của ngân hàng lại là nguồn vốn tiết kiệm ngắn hạn. Ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro về tín dụng và lãi suất do việc mất tương xứng giữa kỳ hạn các tài sản và kỳ hạn nợ. Lãi suất cho vay: Nhìn chung, các ngân hàng áp dụng chính sách cho vay khá linh hoạt, lãi suất vay được thả nổi theo lãi suất thị trường, mỗi năm điều chỉnh một hoặc hai lần. Lãi suất cho vay trung dài hạn của các ngân hàng thương mại nhà nước, tính đến thời điểm 19/4/2005 như sau: Bảng 4: Lãi suất cho vay trung dài hạn tại 4 Ngân hàng TMQD trên địa bàn Thành phố Ngân hàng LS cho vay trung hạn LS cho vay dài hạn NH Nông nghiệp&phát triển nông thôn: tối thiểu 1,18%/tháng tối thiểu 1,28%/tháng. Sở Giao dịch 2 NH Công thương VN tối thiểu 0,958%/tháng NH Ngoại thương TP.HCM 0,92%/tháng 0,93%/tháng. Ngân hàng Đầu tư phát triển chi nhánh Sài Gòn lãi suất vay năm đầu được tính là 0,8- 0,9%/tháng Nguồn: Báo Tuổi Trẻ - 19/04/2005 Nhìn chung, các ngân hàng cho vay với mức lãi suất thị trường. Cũng có một số ngân hàng tham gia các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi, tuy nhiên, chiếm tỷ trọng không đáng kể. Với kỳ hạn cho vay từ 7-10 năm, những mức lãi suất cao như trên đã tạo một áp lực trả nợ rất lớn cho người đi vay mua nhà. Rõ ràng, người mua nhà vẫn sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất cao để có được khoản vay với kỳ hạn cho vay kéo dài đến 15-20 thậm chí 30 năm. Tài sản thế chấp Thực trạng cho vay thế chấp BĐS trên địa bàn TPHCM nói chung chủ yếu là thế chấp bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở... nhưng trên thực tế các ngân hàng linh động cho vay thế chấp với nhiều tài sản khác như tài sản hình thành từ vốn vay, tài sản khác gắn liền đất đai nhà xưởng, công trình xây xxxix dựng. Tài sản thế chấp phải đáp ứng đủ 3 điều kiện là thuộc quyền sở hữu, được phép giao dịch và không có tranh chấp. Có thể thấy một số khó khăn đối với việc thế chấp, cầm cố tài sản như sau: ƒ Thủ tục công chứng hiện nay còn thiếu nhất quán. Đối với tài sản hình thành trong tương lai, pháp luật cho phép ngân hàng nhận thế chấp cầm cố tuy nhiên hiện nay vẫn thiếu những quy định hướng dẫn cụ thể và có nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thực hiện công chứng, đăng ký. Một số cơ quan công chứng chỉ thực hiện công chứng thế chấp tài sản khi căn nhà đó đã đứng tên chủ sở hữu là người vay vốn. Như vậy, chỉ có cách duy nhất là những khách hàng đó phải vay mượn vốn trước để có đủ tiền mua nhà, xác lập sở hữu nhà, sau đó mới có thể đem căn nhà đi thế chấp vay vốn ngân hàng để trả nợ vay mượn trước đó. ƒ Thị trường BĐS biến động, rất khó dự đoán nên việc thẩm định giá trị tài sản đảm bảo của TCTD gặp nhiều khó khăn. Xử lý tài sản thế chấp: Thủ tục xử lý tài sản thế chấp được thực hiện theo Nghị định 178/1999/NĐ- CP ngày 29/12/1999 và Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ. Một trong những khó khăn đối với việc xử lý tài sản thế chấp là bất động sản chính là: ƒ Tình trạng phán quyết khác nhau giữa các cơ quan toà án khi xử lý những tranh chấp về hợp đồng thể chấp quyền sử dụng đất, thủ tục tố tụng phức tạp, kéo dài, tốn kém chi phí mà hiệu quả không cao. Việc thi hành phán quyết của tòa cũng rất phức tạp khi con nợ chây ì, cố tình trì hoãn thời gian xử lý tài sản để thanh toán nợ. Có trường hợp trong 3 năm, ngân hàng mới phát mãi được một căn nhà thế chấp để thu hồi vốn. Trong khoảng thời gian đó, Ngân hàng không thu được đồng lãi nào. xl ƒ Thông tin về quy hoạch đất đai không được công khai rõ ràng cũng ảnh hưởng đến các TCTD khi phát mãi tài sản nằm trong khu vực bị quy hoạch. ƒ Việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của các ngân hàng là không được quyền tự bán mà phải bán đấu giá thông qua trung tâm đấu giá, do đó mất nhiều thời gian, ảnh hưởng tới việc thu hồi nợ cho ngân hàng, phát sinh nhiều chi phí cho việc đấu giá. Tình hình nợ quá hạn: Nợ quá hạn phát sinh trong quá trình cho vay bất động sản chiếm 0,57% trên tổng dư nợ, nợ quá hạn cho vay mua nhà cửa, đất đai chiếm khoảng 35% tổng nợ quá hạn. Nợ quá hạn cho vay bất động sản chiếm tỷ trọng 2,64% tổng nợ quá hạn chung của nền kinh tế, nhìn chung ở mức thấp6. Tại 09 tổ chức tín dụng được khảo sát, tỷ lệ nợ quá hạn cao tập trung vào các tổ chức cho vay xây dựng nhà ở để bán, đầu tư hạ tầng khu đô thị, khu công nghiệp. Tại các tổ chức cho vay sửa chữa nhà ở khu vực dân cư tình hình nợ quá hạn ở mức 0,3% dư nợ cho vay bất động sản của tổ chức đó. Những vấn đề còn vướng mắc liên quan đến môi trường pháp lý: ƒ Về cơ chế chính sách Hệ thống quản lý hành chánh nhà nước về đất đai còn nhiều bất cập, việc ban hành và thực thi những cơ chế, chính sách, quy định về bất động sản của các cơ quan chức năng chưa rõ ràng làm cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và người dân lúng túng trong hoạt động đầu tư vào BĐS, làm cho thị trường BĐS bị chựng lại, ít biến động. Pháp luật về đăng ký quyền sở hữu tài sản chưa được ban hành. Trong khi hệ thống đăng ký này là biện pháp cần thiết để xây dựng thị trường bất động sản chính quy... Một trong những khiếm khuyết đó là thiếu vắng 6 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước – Chi Nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh xli những những cơ chế về hoạt động tư vấn, môi giới, định giá, công chứng, giao dịch bất động sản, thông tin bất động sản... Theo đó, cần phải có các tổ chức dịch vụ hỗ trợ thị trường bất động sản. ƒ Về thủ tục công chứng Thủ tục công chứng về việc thế chấp BĐS đã có nhiều cải tiến, song việc thực hiện đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất không thống nhất giữa các phòng công chứng. Nguyên nhân xuất phát từ nhiều phía như: cơ chế chính sách về BĐS còn quy định nhiều thủ tục phức tạp, chưa đồng bộ, việc triển khai các quy định pháp luật đến các đơn vị chức năng chưa được thực hiện tốt. Thủ tục đăng ký thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất phải được đăng ký tại Sở nhà đất đối với đất và thông qua công chứng đối với tài sản gắn liền trên đất; trong khi BĐS là nhà ở chỉ thông qua công chứng. Trong nhiều trường hợp ngân hàng đã làm đầy đủ thủ tục công chứng tài sản nhưng sau này Tòa xử, ngân hàng mới biết tài sản còn liên quan đến dự án đã có phán quyết trước khi ngân hàng đi công chứng thế chấp tài sản này. Điều này cho thấy ngân hàng làm đủ thủ tục nhưng vẫn bị thiệt hại nhưng trách nhiệm của các cơ quan công chứng chưa được quy định rõ ràng khi đã công chứng thế chấp một tài sản có tranh chấp trước cơ quan pháp luật. ƒ Đăng ký giao dịch bảo đảm Thông tư liên tịch 03/2003/TTLT/BTP/BTNMT ngày 04/0702003 đã có hiệu lực nhưng việc triển khai thực hiện thông tư đến các phường xã chưa được tiến hành đồng bộ nên khi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm còn gặp nhiều khó khăn. ƒ Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Một số DNNN được nhà nước giao đất nhưng khi tiến hành làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ lại bị vướng thủ tục chậm trễ, kéo dài. Do xlii vậy khi cần giải quyết cho vay có tài sản đảm bảo thì DN không thực hiện được. Hiện nay việc có được các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất đối với các dự án xây dựng nhà ở, chung cư phải mất một thời gian rất lâu. Do vậy, ngân hàng khó có thể hoàn tất sớm hồ sơ để thế chấp tài sản bảo đảm. Sau khi Luật đất đai và các Nghị định có liên quan có hiệu lực thì giấy chứng nhận QSDĐ, tài sản gắn liền với đất chưa thống nhất chung về mẫu giấy tờ, còn mang tính nhất thời nên gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc hoàn tất thủ tục đảm bảo khoản vay. 2.1.4.4. Hoạt động của công ty mua bán nợ vay cầm cố thế chấp: Quay trở lại với bài toán về vốn cho thị trường bất động sản tại Thành Phố Hồ Chí Minh, người mua nhà có nhu cầu vay vốn mua nhà khó có thể tiếp cận được nguồn vốn dài hạn của ngân hàng. Dễ dàng thấy rằng các TCTD khó có thể kéo dài kỳ hạn cho vay khi mà nguồn vốn huy động đầu vào chủ yếu dựa vào vốn tiết kiệm ngắn hạn. Ở nước ngoài, các ngân hàng mạnh dạn cho vay thời gian dài 20 - 30 năm bởi họ có thể bán các khoản nợ này cho các quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi... khi cần để thu hồi vốn. Những điều kiện manh nha cho 1 tổ chức thứ cấp như vậy hoạt động ở cấp độ quốc gia đã hình thành. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) thuộc Bộ Tài Chính đã được thành lập theo Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Chính phủ và chính thức hoạt động từ ngày 1/1/2004. Công ty này cũng đã thực hiện mua nợ tồn đọng của một số đơn vị như Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Eximbank, Ngân hàng Việt Hoa,…Thông qua hoạt động mua bán nợ, Công ty đã giúp các ngân hàng này giải phóng được lượng vốn chết từ nhiều năm nay trở lại thành vốn hoạt động, làm trong sạch tình hình tài chính. DATC cũng được phát hành trái phiếu mua nợ để mua các khoản nợ lớn có tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, chức năng mua bán nợ của công ty chỉ mới dừng lại ở mức độ các khoản nợ tồn đọng chứ xliii chưa xem xét đến các khoản nợ vay dài hạn đang còn hiệu lực như các khoản nợ vay cầm cố thế chấp. Ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa có những tổ chức trung gian mua lại những khoản nợ vay cầm cố có thời gian kéo dài như vậy và thực hiện việc chứng khoán hóa các khoản nợ vay này trên thị trường vốn. 2.2. THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DÀI HẠN Cho đến nay, với nhiều nỗ lực từ trung ương tới địa phương, thị trường trái phiếu ở nước ta đã hình thành ở cả 2 cấp độ: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tuy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục tháo gỡ, song những năm gần đây, thị trường này đã chứng tỏ tiềm năng khai thác vốn mạnh mẽ của mình trong hệ thống tài chính và bắt đầu thực hiện tính thanh khoản của trái phiếu 2.2.1. Thị trường trái phiếu sơ cấp: 2.2.1.1. Các loại trái phiếu được phát hành: Hiện nay, thị trường sơ cấp trái phiếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh gồm có 03 loại trái phiếu được phát hành, gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu Chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp/công ty: • Trái phiếu Chính Phủ: Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ, do Chính phủ phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Hiện nay, loại trái phiếu chính phủ thường được phát hành thông qua 2 tổ chức là Kho bạc Nhà nước hoặc qua Quỹ Hỗ Trợ Phát Triển. Trái phiếu chính phủ có thể được bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN), đấu thầu qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK), bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành. Những loại trái phiếu Chính phủ đã phát hành bao gồm tín phiếu Kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng tổ quốc. Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 hiện đang điều chỉnh các hoạt động phát hành trái phiếu chính phủ xliv • Trái phiếu chính quyền địa phương (trái phiếu đô thị): Trái phiếu đô thị là một dạng trái phiếu đầu tư có thời hạn 1 năm trở lên, do Ủy Ban Nhân Dân cấp tỉnh thành phố phát hành. Trái phiếu này được phát hành nhằm huy động vốn cho các dự án và công trình được đầu tư bằng vốn ngân sách địa phương, đã được đưa vào kế hoạch nhưng chưa thu xếp vốn ngân sách trong năm. Năm 2003, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên trong cả nước phát hành trái phiếu đô thị thông qua Quỹ Đầu Tư Phát Triển Đô Thị TP.Hồ Chí Minh (HIFU) nhằm huy động vốn bổ sung ngân sách cho đầu tư của thành phố. Việc tổ chức phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương cũng được thực hiện theo các quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003. • Trái phiếu doanh nghiệp Đây là loại trái phiếu do các tổ chức, doanh nghiệp phát hành bao gồm các dạng trái phiếu có bảo đảm, không bảo đảm và trái phiếu chuyển đổi. Việc tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay được thực hiện theo hướng dẫn của Thông tư 75/2004/TT-BTC. 2.2.1.2. Kỳ hạn của các loại trái phiếu được phát hành: Hiện nay, chưa có 1 tiêu chuẩn nhất định nào cho việc phân chia các loại kỳ hạn của trái phiếu. Để thuận tiện cho việc phân tích, chúng tôi chia trái phiếu thành 3 loại kỳ hạn sau: Bảng 5: Các loại trái phiếu phát hành: Dài hạn ( ≥ 10 năm) Trung hạn (từ 5 đến <10 năm) Ngắn hạn dưới 5 năm Trái phiếu Chính phủ Trái phiếu kho bạc Trái phiếu đầu tư Trái phiếu kho bạc Trái phiếu đầu tư Tín phiếu kho bạc Trái phiếu kho bạc Trái phiếu công trình Công trái Trái phiếu chính quyền địa phương Trái phiếu đô thị Trái phiếu đô thị Trái phiếu đô thị Trái phiếu Trái phiếu các NH xlv doanh nghiệp Trái phiếu các công ty TC Trái phiếu chuyển đổi Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi sẽ phân tích sâu hơn ở thị trường trái phiếu trung dài hạn, vì đây là thị trường tương đối phù hợp với mục đích nghiên cứu xem xét khả năng tạo lập thị trường chứng khoán MBSs. 2.2.1.3. Quy mô của thị trường trái phiếu dài hạn: • Trái phiếu Chính phủ (TPCP) bảo lãnh phát hành hoặc đấu thầu phát hành qua Kho bạc Nhà nước (KBNN) và Trái phiếu đầu tư do Quỹ Hỗ trợ Phát triển (QHT) phát hành. Từ năm 2002, Chính phủ đã phát hành loại trái phiếu dài hạn ở 2 loại kỳ hạn 10 năm và 15 năm. Tính đến thời điểm 30/07/2005, tổng giá trị trái phiếu chính phủ loại này đã phát hành và được niêm yết trên thị trường chứng khoán đạt khoảng 13.470 tỷ đồng, trong đó chủ yếu do Quỹ Hỗ trợ Phát triển phát hành: Đơn vị tính: Tỷ đồng Kỳ hạn Giá trị phát hành được niêm yết Kho Bạc nhà nước Quỹ Hỗ Trợ Phát Triển Lãi suất bình quân 10 năm 1.941 50 1.891 8,76% 15 năm 11.529 295 11.234 9,23% Cộng 13.470 345 13.125 Bảng 6: Tổng giá trị niêm yết TPCP dài hạn do KBNN và QHTPT tính đến 7/2005 Nguồn: TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh Khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành những năm gần đây tăng lên đáng kể. Tỷ trọng trái phiếu chính phủ kỳ hạn từ 10-15 năm tăng dần qua các năm, và chiếm khoảng 50% tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên toàn thị trường. Điều này cho thấy, việc phát hành trái phiếu kỳ hạn dài vừa giúp các tổ chức phát hành giảm bớt áp lực trả nợ đồng thời cũng khẳng định nhu cầu đầu tư vào các loại trái phiếu kỳ hạn dài ngày càng tăng. xlvi • Trái phiếu Chính quyền địa phương Từ năm 2003 đến cuối tháng 9/2005, Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hành được trên 4.960 tỷ đồng trái phiếu đô thị (ở cả 4 kỳ hạn 2, 5, 10, 15 năm), trong đó, trái phiếu dài hạn 10-15 năm chiếm 21% trên tổng giá trị trái phiếu phát hành. Về xu hướng lâu dài, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu đô thị kỳ hạn từ 10 năm trở lên để giảm bớt áp lực trả nợ đáo hạn của ngân sách và đáp ứng nhu cầu đang ngày một gia tăng của các công ty bảo hiểm nhân thọ. Lãi suất trái phiếu đô thị TP. Hồ Chí Minh sẽ được xác định cụ thể ở mỗi đợt phát hành do Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố quyết định trên cơ sở giới hạn biên độ do Bộ Trưởng Bộ Tài Chính quyết định và mặt bằng lãi suất thực tế của trái phiếu Chính phủ có cùng kỳ hạn tại thời điểm phát hành. Thống kê từ năm 2003 đến nay, biên độ lãi suất này dao động từ 0,2%-0,3%/năm. 2.2.2. Thị trường trái phiếu thứ cấp: 2.2.2.1. Trên sàn giao dịch chứng khoán Trái phiếu phần lớn được giao dịch với phương thức thoả thuận. Nhà đầu tư cá nhân rất ít đầu tư vào trái phiếu mà chủ yếu là nhà đầu tư có tổ chức với trên 96% giá trị giao dịch năm 2003 và trên 97% năm 2004. Các NHTM, các công ty chứng khoán tham gia tích cực nhất vào hoạt động này. Bảng 7: Khối lượng giao dịch trái phiếu ở TTGDCK TP. Hồ Chí Minh Giao dịch khớp lệnh Giao dịch thoả thuận Tổng cộng Năm Khối lượng Giá trị (triệu đồng) Khối lượng Giá trị (triệu đồng) Khối lượng Giá trị (triệu đồng) 2000 21.790 2.143 0 0 21.790 2.143 2001 81.730 7.804 612.000 62.898 693.730 70.702 2002 37.890 3.554 1.254.820 118.008 1.292.710 121.562 2003 48.920 4.575 25.032.920 2.401.724 25.081.840 2.496.299 2004 53.520 5.290 171.625.712 17.877.992 171.679.232 17.883.282 xlvii Nguồn: TTGDCK TP.Hồ Chí Minh 2.2.2.2. Thị trường mua bán trái phiếu kỳ hạn (repo): Mua - bán trái phiếu có kỳ hạn là việc một tổ chức tài chính bán trái phiếu cho người đầu tư và cam kết sẽ mua lại sau đó trong một thời hạn được thỏa thuận trước. Với hình thức này, những người có tiền nhàn rỗi sẽ có lợi thế là có thể được hưởng lãi suất trái phiếu mà không cần phải nắm giữ đến thời gian đáo hạn của trái phiếu. Người bán trái phiếu có thể thanh khoản trái phiếu để sử dụng nguồn ngân quỹ cho 1 số hoạt động đầu tư ngắn hạn khác. Như vậy, nghiệp vụ mua bán trái phiếu có kỳ hạn (repo) đã giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu và thực sự đem lại lợi ích cho các đối tượng tham gia mua bán trái phiếu. Thực tế diễn ra trên thị trường tài chính thời gian qua cho thấy, các tổ chức tài chính như NHTM, bảo hiểm, quỹ đầu tư... tham gia mua - bán trái phiếu khá thường xuyên. 2.2.2.3. Giao dịch trên thị trường OTC: Ở nước ta vẫn chưa có dạng thị trường này mà các nhà đầu tư, tự họ liên lạc với nhau để thoả thuận và thực hiện các giao dịch. 2.2.2.4. Giao dịch trên thị trường mở: Thông thường, giao dịch trái phiếu thường ở dưới dạng các nhà đầu tư vay tiền của nhau và dùng trái phiếu để thế chấp. Hiện nay, chỉ mới có trái phiếu Chính phủ, được các ngân hàng thương mại sử dụng như một công cụ chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước. Trái phiếu Chính quyền địa phương hiện vẫn chưa được phép tham gia vào thị trường này. Đây là một yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến tính thanh khoản của trái phiếu đô thị. 2.2.2.5. Việc xác định giá bán trái phiếu: Bởi vì chưa có một công ty định mức tín nhiệm nào hoạt động ở Việt Nam cho nên hoạt động định giá trái phiếu như ở một số thị trường tiên tiến khác là chưa có. Những nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn trong việc định giá trái phiếu xlviii một phần là do chính sách ấn định lãi suất của Chính Phủ và chủ yếu là do thiếu một công thức quy chuẩn. Dưới đây là một số tiêu chuẩn để định giá trái phiếu mà các nhà đầu tư đang sử dụng hiện nay: - Đối với lãi suất tiền gửi: thông thường lãi suất của trái phiếu phải cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng - Đối với lãi suất tiền vay: lãi suất trái phiếu thông thường thấp hơn lãi suất tiền vay trung và dài hạn - Đối với lãi suất trái phiếu Chính phủ: lãi suất trái phiếu công ty và trái phiếu đô thị thường cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ 2.2.2.6. Các chi phí giao dịch: Hiện nay, đối với việc mua bán trái phiếu thông qua sàn giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư phải chịu một chi phí giao dịch tính bình quân bằng 0,015% trên tổng giá trị trái phiếu giao dịch. Chi phí này sẽ thanh toán cho các công ty chứng khoán – nơi mở tài khoản lưu ký cho nhà đầu tư. 2.2.3. Những nhà đầu tư mua trái phiếu dài hạn: Trên thực tế, số lượng các nhà đầu tư cá nhân rất lớn, tuy nhiên không đóng vai trò quyết định trong các đợt phát hành trái phiếu. Thị trường dành cho các nhà đầu tư cá nhân là những trái phiếu có kỳ hạn ngắn, thông thường từ tối đa là 5 năm. Những nhà đầu tư tổ chức chủ yếu gồm các TMCP, các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm xã hội của nhà nước và các quỹ hỗ tương, các công ty quản lý Quỹ. Riêng thị trường các loại trái phiếu dài hạn, dường như chỉ dành riêng cho các công ty và quỹ bảo hiểm. Gần đây, các công ty bảo hiểm như Bảo Việt, Manulife, AIA, Prudential, Bảo Minh CMG có khuynh hướng đầu tư vào tài sản cố định dài hạn, đang tiến hành mở rộng phạm vi khách hàng và phát triển thành các nhà đầu tư lớn ở Việt Nam. • Các công ty bảo hiểm nhân thọ: xlix Tại một số nước trên thế giới, đầu tư vào trái phiếu chiếm vị trí quan trọng nhất trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ, và các công ty này cũng là những nhà đầu tư trái phiếu lớn nhất trên thị trường đầu tư tài chính vì thời hạn đáo hạn của hợp đồng bảo hiểm thường gần với thời hạn thanh toán của trái phiếu dài hạn (10-15 năm). Tại Pháp, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã đầu tư đến trên 70% vốn nhàn rỗi vào trái phiếu (năm 1997). Ở Việt Nam cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm đã được chuyển mạnh từ đầu tư ngắn hạn sang đầu tư dài hạn dưới các hình thức: mua trái phiếu Chính phủ, đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống. Tỷ trọng đầu tư trái phiếu Chính phủ từ 34% năm 2003 đã tăng lên 49% tương đương trên 8.086 tỷ đồng, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng giảm từ 57% năm 2003 xuống còn 44% năm 2004. Tại các công ty bảo hiểm nhân thọ như Bảo việt Nhân Thọ hoặc Prudential thì đầu tư trái phiếu Chính phủ và công trái đứng thứ hai sau tiền gửi ngân hàng. Mặc dù vậy, sự tác động của các công ty bảo hiểm nhân thọ vào thị trường trái phiếu trong thời gian qua vẫn còn hạn chế, trong khi lẽ ra, họ phải là những nhà đầu tư chủ lực trên thị trường trái phiếu dài hạn. Lý do cơ bản của tình trạng này là vì lãi suất trái phiếu tại Việt Nam chưa đủ sức hấp dẫn các công ty bảo hiểm, mặc dù so với môi trường đầu tư thì lãi suất của các loại trái phiếu được cho là không thể cao hơn. Thứ hai là do tình hình lãi suất thị trường biến động nhiều khiến cho rủi ro lãi suất của trái phiếu cao, nên nếu người đầu tư bán ra các trái phiếu khi lãi suất tăng thì sẽ bị lỗ. Thứ ba là việc công bố thông tin thiếu cụ thể cũng như chưa có văn hóa xếp hạng tín nhiệm đối với các tổ chức phát hành cũng gây khó khăn cho nhà đầu tư khi mua trái phiếu Trong khi đó, thị trường cho các công ty bảo hiểm nhân thọ lại được đánh giá là còn rất lớn. Doanh thu phí bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có thời hạn trên 10 năm tiếp tục chiếm tỷ trọng cao: 91%. Bảng 8: Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ 1999-2004 l Đvt: tỷ đồng 1999 2000 2001 2002 2003 Thu từ bảo hiểm nhân thọ 484 1.289 2.778 4.615 6.500 (Nguồn: Bộ tài chính, Kinh tế VN và thế giới 2003 - Thời báo kinh tế VN) Theo dự báo của Bộ tài chính, mức thu từ phí bảo hiểm nhân thọ đến năm 2010 lên đến 30.900 tỷ đồng. Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế có ít sự chọn lựa thích hợp để đầu tư như hiện nay, các công ty bảo hiểm nhân thọ làm gì với khoản phí bảo hiểm lớn đã thu được? Rõ ràng các công ty này đang trông chờ ở thị trường những “hàng hóa” trái phiếu phù hợp với kỳ hạn nợ của mình, vừa có khả năng giúp họ hạn chế các rủi ro và thu được lợi tức cao hơn. • Quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam Tính đến năm 2003, toàn quốc có 5,4 triệu dân tham gia đóng bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm xã hội VN đang quản lý nguồn vốn khoảng 34.600 tỷ đồng. Từ khi quỹ được thành lập và có nguồn thu thì lãi từ hoạt động đầu tư có thu nhập cố định là 4.000 tỷ đồng (năm 1996-2002). Ước tính tổng thu nhập trên tổng vốn đầu tư (4.000/26.700 tỷ đồng) đạt xấp xỉ 15% trong 6 năm (bình quân 2,5%/năm). Đây chưa phải là tỷ lệ thu nhập mong đợi của các nhà tạo lập chính sách bảo hiểm xã hội để đảm bảo chi trả cho một đội ngũ lao động đông đảo ở Việt Nam. Theo thông tư số 49/2003/TT-BTC ngày 16/5/2003 thì nguồn vốn từ quỹ bảo hiểm xã hội được đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu... Tính đến cuối năm 2002, Quỹ này đã đầu tư theo kế hoạch Nhà nước 25.000 tỷ đồng bao gồm mua trái phiếu, công trái, cho ngân sách Nhà nước vay, cho các ngân hàng thương mại vay và tổng số lãi thu qua các năm đã bổ sung nguồn quỹ là gần 4000 tỷ đồng. Một vấn đề quan trọng trong việc bảo đảm cân đối thu chi của quỹ bảo hiểm xã hội là bảo tồn và tăng trưởng quỹ, song hiện tại quỹ bảo hiểm xã hội nhàn rỗi, năm 2002 là 25.507 tỷ đồng, năm 2003 là gần 35.000 tỷ đồng, lại chưa được đầu tư vào những dự án mang lại hiệu quả cao, ít rủi ro, mà chủ li yếu cho ngân sách Nhà nước muốn vay hoặc mua công trái, trái phiếu nên lãi thu được không nhiều. 2.2.4. Cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu: 2.2.4.1. Công bố thông tin và sự minh bạch Theo các quy định hiện hành, trước khi phát hành trái phiếu, tổ chức phát hành phải thực hiện đầy đủ các thủ tục công bố thông tin về trái phiếu phát hành – thông qua bản cáo bạch. Tuy nhiên, trên thực tế, tình hình công bố thông tin chưa thực sự rõ ràng, cụ thể. Hơn nữa do không có hệ thống các tổ chức xếp hạng tín nhiệm nên nhà đầu tư cũng không có nhiều cơ hội để tiếp cận thông tin về nhà phát hành. Đối với những trái phiếu niêm yết, trên thị trường chứng khoán, theo điều 51 Nghị định 144/2003/NĐ-CP, Trung tâm giao dịch chứng khoán, tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết sẽ phải thực hiện chế độ công bố thông tin và đồng thời phải báo cho Ủy ban chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán. Các thông tin sẽ được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và qua bản tin của thị trường chứng khoán 2.2.4.2. Thanh toán và bù trừ: Hiện tại, Trung tâm giao dịch chứng khoán có các chức năng đăng ký, giao dịch, thanh toán, bù trừ và quản lý. Hệ thống giao dịch chứng khoán đi vào hoạt động dưới sự trợ giúp của Thái Lan. Nhằm từng bước hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán các giao dịch chứng khoán, đầu năm 2005, Trung tâm giao dịch Chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh đã triển khai thực hiện nghiệp vụ bù trừ, thanh toán đa phương với chu kỳ thanh toán đa phương vào ngày T+1 (trước đây là T+3) cho các giao dịch trái phiếu. Việc rút ngắn thời gian thanh toán bù trừ đã giúp giảm bớt chi phí giao dịch cho nhà đầu tư và giảm bớt rủi ro thanh toán cho các bên tham gia thị trường. 2.2.4.3. Các ưu đãi về thuế: lii Đối với các loại trái phiếu, quy định hiện nay mới chỉ cho phép miễn thuế thu nhập trên lợi nhuận thu được từ đầu tư trái phiếu đối với các nhà đầu tư cá nhân, còn các nhà đầu tư tổ chức thì không được miễn thuế thu nhập. 2.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.3.1. Thuận lợi: Trong thị trường tài chính nhà ở, nhu cầu về nhà ở của đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh là rất cao. Cho đến nay, Thành phố đã có những cố gắng lớn trong việc giải quyết nhà ở cho người dân. Thị trường bất động sản mặc dù đang có xu hướng lắng dịu nhưng đã qua giai đoạn bất ổn do tình trạng đầu cơ và có khuynh hướng hoạt động lành mạnh hơn. Các ngân hàng thương mại cũng đã nổ lực tham gia khá tích cực, bơm vốn vào thị trường bất động sản với lượng vốn ngày càng nhiều, tuy nhiên vẫn chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu rất cao này. Việc phát triển thị trường trái phiếu trong những năm gần đây, mặc dù vẫn chưa ổn định, nhưng đã bước đầu xây dựng được cơ sở hạ tầng (tuy chưa đầy đủ) cho việc phát hành. Thị trường thứ cấp đang dần được cải thiện thông qua việc cải tiến công nghệ, kỹ thuật giao dịch. Nguồn vốn của các nhà đầu tư tiềm năng trên thị trường còn rất dồi dào nhưng chưa có công cụ huy động vốn phù hợp. Đây là cơ hội để Thành phố nghiên cứu việc hình thành những loại chứng khoán mới hấp dẫn nhà đầu tư. Kỹ thuật chứng khoán hóa tuy còn rất mới mẻ ở Việt Nam nhưng có thể được vận dụng nhằm huy động nguồn vốn lâu nay chưa có cơ hội được sinh lời này để góp phần đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa, giảm áp lực về nhà ở, đặc biệt là đối với những người có thu nhập trung bình và thấp. Hơn nữa, do đi sau, nên Thành phố cũng có thuận lợi trong việc thừa hưởng những kinh nghiệm quý giá của các nước đi trước. 2.3.2. Khó khăn: Vấn đề khó khăn lớn nhất của thị trường tài chính nhà ở là sự thiếu hụt trầm trọng về vốn. Sự nỗ lực tham gia của các ngân hàng trong thời gian qua một mặt liii cung ứng vốn cho thị trường mặt khác đẩy các ngân hàng vào thế khó khăn vì phải đối mặt với rủi ro tín dụng và rủi ro về thanh khoản. Thêm vào đó, trong thị trường nhà ở, những hạn chế về môi trường pháp lý, các quy định chính sách làm nền tảng phát triển cho thị trường bất động sản và thị trường vay nợ cầm cố sơ cấp còn nhiều bất cập (vấn đề chứng nhận quyền sở hữu của người mua nhà còn nhiều khó khăn, thủ tục phát mãi tài sản rườm rà, chi phí giao dịch cao…) khiến cho thủ tục thế chấp và xử lý bất động sản gặp nhiều khó khăn. Cơ chế cho việc chuyển nhượng nợ vay chưa được xác lập rõ ràng, cụ thể là việc định hình hoạt động của các tổ chức trung gian mua bán nợ, do vậy thị trường thứ cấp vay nợ cầm cố chưa được tạo lập. Trên thị trường chứng khoán, thực tiển cũng cho thấy thị trường trái phiếu thể hiện một số yếu kém cần được khắc phục bằng việc chuẩn bị tốt hạ tầng cơ sở và chuẩn bị các khuôn khổ pháp luật phù hợp hơn. Trong đó, nổi bật cơ sở pháp lý cho việc chứng khoán hóa chưa được ban hành và chưa có các công cụ định mức tín nhiệm cho các tổ chức phát hành chứng khoán trên thị trường. liv CHƯƠNG 3. XÂY DỰNG NHỮNG ĐIỀU KIỆN TẠO LẬP THỊ TRƯỜNG MBSs Ở TP. HỒ CHÍ MINH 3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TẠO LẬP THỊ TRƯỜNG MBSs Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1.1. Nhu cầu tạo lập thị trường nợ vay cầm cố thứ cấp ở Thành Phố Hồ Chí Minh: Việc nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phát triển thị trường MBSs ở các quốc gia trên thế giới trong chương một đã chỉ ra rằng MBSs là một công cụ huy động vốn khá phù hợp cho thị trường vay nợ cầm cố thứ cấp, có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho các đối tượng có nhu cầu về nhà ở. Thật vậy, ở nhiều quốc gia trên thế giới, để giải quyết sự ách tắc về nguồn vốn trung dài hạn cho các TCTD khi tham gia cho vay lĩnh vực nhà ở, một trong những giải pháp của họ là tạo lập thị trường MBSs. Ngoài ra, qua những vấn đề nghiên cứu thực tiễn ở Thành Phố Hồ Chí Minh trong chương 2, chúng tôi nhận thấy: - Với sự phát triển về dân số, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng tại Thành phố Hồ Chí Minh, và với chương trình phát triển nhà ở từ nay đến năm 2010 mà Ủy ban Nhân Dân thành phố đã đề ra thì nhu cầu cấp bách về vốn cho phát triển nhà ở là rất lớn. Từ trước đến nay, nguồn vốn tài trợ từ các TCTD phần lớn vẫn chỉ tập trung cho các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà. Trong khi đó, người dân có nhu cầu thực sự mua nhà để ở gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng vì lãi suất cao và thời gian cho vay quá ngắn. Vì thế, dẫu cho cung nhà ở có tăng lên thì cầu nhà ở vẫn khó có thể được đáp ứng. Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu những cơ chế chính sách hỗ trợ vốn cho bên cầu là việc làm cần thiết hiện nay. - Việc xem xét khả năng đáp ứng về vốn cho lĩnh vực nhà ở của các TCTD lv trong chương 2 cho thấy các tổ chức này gặp rất nhiều hạn chế. Sự bất tương xứng giữa khả năng, kỳ hạn huy động vốn đầu vào của ngân hàng và khả năng, kỳ hạn tài trợ tín dụng trung dài hạn đầu ra khiến cho các ngân hàng khó có thể triển khai rộng rãi các chương trình tài trợ vốn cho khu vực cầu nhà ở. - Trong khi đó, thị trường vốn của Thành phố lại đang mở ra nhiều cơ hội đầy hứa hẹn để huy động nguồn vốn lớn dài hạn – thông qua các công ty bảo hiểm nhân thọ, quỹ bảo hiểm xã hội…Những nhà đầu tư lớn này đang cố gắng tìm kiếm những cơ hội đầu tư vào thị trường nợ dài hạn mà hiện nay, mới chỉ có trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị kỳ hạn dài là những hàng hóa phù hợp với họ trên thị trường. Những tổ chức này đang cần bổ sung các chứng khoán dài hạn mới, hấp dẫn hơn trong danh mục đầu tư của mình nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.. Những vấn đề nêu trên đã đặt ra một nhu cầu hình thành một thị trường thứ cấp vay nợ cầm cố cho các TCTD ở Thành phố Hồ Chí Minh để nhờ vào đó, các TCTD có thể đẩy nhanh vòng quay vốn và có thể mở rộng khả năng cho vay bất động sản đến cho nhiều đối tượng vay vốn hơn. Việc nghiên cứu ở chương 1 và chương 2 đã đặt ra nhu cầu nghiên cứu cơ chế, và các công cụ hữu hiệu trên thị trường thứ cấp này để dẫn vốn từ thị trường vốn dài hạn vào thị trường bất động sản cho Thành Phố Hồ Chí Minh, và góp phần tháo gỡ tình trạng đóng băng thị trường bất động sản như hiện nay. 3.1.2. Lợi ích của việc tạo lập thị trường MBSs: 3.1.2.1. Đóng góp đối với tài chính nhà ở: • Gia tăng dòng tiền mới Việc tạo ra thị trường thứ cấp nợ vay cầm cố thông qua phát hành chứng khoán MBSs, sẽ giúp gia tăng dòng tiền từ thị trường vốn vào khu vực tài chính nhà ở. Thông qua các tổ chức trung gian, việc chuyển các nguồn quỹ, tiết kiệm dài hạn như là quỹ hưu trí, quỹ tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ… đến cho lvi hệ thống tài chính nhà ở được thực hiện một cách hiệu quả và an toàn, vì thế tăng khả năng cho vay nhà ở lên. • Gia tăng tính thanh khoản Các tổ chức trung gian trên thị trường thứ cấp sẽ giúp làm tăng tính thanh khoản cho các TCT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43403.pdf
Tài liệu liên quan