Tài liệu Luận văn Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
MA DOÃN HÙNG
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
MA DOÃN HÙNG
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60 62 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn KH: TS.TRẦN TỐ
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài thập kỷ qua, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong đó chăn nuôi gia cầm nói
riêng chiếm một vị trí quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm thịt trứng cho
xã hội. Theo Ho...
87 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
MA DOÃN HÙNG
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
MA DOÃN HÙNG
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60 62 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn KH: TS.TRẦN TỐ
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài thập kỷ qua, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong đó chăn nuôi gia cầm nói
riêng chiếm một vị trí quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm thịt trứng cho
xã hội. Theo Hoàng Kim Giao (2005) [4] trong những năm gần đây tốc độ
tăng đầu con của đàn gia cầm từ năm 1990 đến năm 2000 là 5%/năm, năm
2002 so với năm 2001 là 6,69%, năm 2003 so với năm 2002 là 8,9%. Tổng
đàn gia cầm trong cả nước 179,3 triệu con năm 1990; 215,8 triệu con năm
2001; 233,29 triệu con 2002; 254,057 triệu con năm 2003. Sản lượng thịt gia
cầm 151,7 nghìn tấn năm 1990 tăng lên 261,8 nghìn tấn năm 1999; 338,4
nghìn tấn 2002; 372 nghìn tấn 2003. Sản lượng trứng 1,9 tỷ quả /năm 1990
tăng lên 3,71 tỷ quả năm 2000; 4,53 tỷ quả 2002; 4,85 tỷ quả 2003. Cả nước
có 2.260 trang trại trong đó có 119 trang trại giống, 12 trang trại giống gốc do
Trung ương quản lý và 16 cơ sở của các địa phương quản lý.
Hình thức chăn nuôi gia cầm của Việt Nam trong những năm gần đây:
85% số nông hộ chăn nuôi gia cầm (có thể chuyên, thường xuyên hoặc
chỉ một thời gian ngắn), 15% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp, 20% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức bán công nghiệp, 65%
số gia cầm được chăn nuôi theo phương thức truyền thống, 80% gà công
nghiệp thuộc sự quản lý của nước ngoài, 75% gà thả vườn (bán công nghiệp)
thuộc quản lý của các Công ty Việt Nam và các nông hộ.
Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học để chọn lọc ra những giống gia cầm
nhập nội, năng suất chất lượng cao như gà công nghiệp, gà chăn thả, vịt siêu
thịt, vịt siêu trứng, ngan Pháp, chim bồ câu Pháp, đà điểu; đã được đưa vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Các kết quả nghiên cứu trong chăn nuôi và
phòng trị bệnh đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gia
cầm.
Ở Việt nam hiện nay chăn nuôi gà ngày càng được đẩy mạnh và phát
triển rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, tỉnh, huyện, đến các hộ
nông dân. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản
phẩm thịt gà như: Thịt gà chắc, thơm ngon, không có thuốc kháng sinh... Mặt
khác các giống gà phải phát huy tốt trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp và
bán chăn thả tình hình dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp.
Từ năm 1996 Việt Nam đã nhập một số giống gà lông màu thả vườn có
năng suất khá cao, chất lượng thịt tốt hợp thị hiếu người tiêu dùng và thích
hợp với điều kiện chăn nuôi bán công nghiệp như gà Kabir, gà Tam Hoàng,
Lương Phượng... Trong đó giống gà Lương Phượng có xuất xứ từ vùng ven
sông Lương Phượng, đây là giống gà thịt lông màu do xí nghiệp nuôi gà thành
phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc lai tạo thành công sau hơn chục
năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống địa phương và dòng mái nhập của nước
ngoài. Gà Lương Phượng có dáng bề ngoài gần giống với gà Ri của Việt
Nam, lông màu vàng. Gà Lương Phượng dễ nuôi, có tính thích nghi cao, chịu
đựng tốt với khí hậu nóng ẩm, đòi hỏi chế độ dinh dưỡng không cao, có thể
nuôi nhốt, hoặc nuôi thả ở vườn, ngoài đồng, trên đồi.
Môi trường chăn nuôi và công tác vệ sinh phòng bệnh có ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất và chất lượng và hiệu quả thành công hay thất bại của việc
chăn nuôi gà đặc biệt là trong tình hình hiện nay dịch cúm gia cầm đang có
khả năng bùng phát bất cứ lúc nào, nơi đâu khi không đảm bảo thực hiện tốt
công tác vệ sinh phòng dịch. Sử dụng dung dịch điện hoạt hoá với tính năng
khử trùng tương đối hiệu quả và đặc tính an toàn với người sử dụng và vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
nuôi cũng là một biện pháp phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi hiện nay.
Nhằm góp phần đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt
hoá đến khả năng sinh trưởng, sinh sản của gà tìm ra biện pháp tối ưu để sử lý
môi trường vệ sinh phòng bệnh thích hợp, rẻ tiền, an toàn sinh học có lợi cho
sức khoẻ người tiêu dùng sản phẩm, người trực tiếp chăn nuôi từ đó đem lại
lợi ích kinh tế cao nhất trong sản xuất.
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên"
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá tác dụng của dung dịch điện hoạt hoạt hoá anolit và catolit
với môi trường chăn nuôi gà.
- Nghiên cứu tác dụng hiệu quả của dung dịch anolit và catolit đến khả năng
sản xuất và sức đề kháng của gà được nuôi tại Thái Nguyên.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Qua sử dụng dung dịch điện hoạt hoá, đánh giá mức độ ô nhiễm môi
trường chuồng nuôi gà đối với một số loại khí độc và một số loại vi khuẩn.
- §¸nh gi¸ t¸c dông cña dung dÞch anolit vµ catolit ®Õn kh¶ n¨ng sinh
s¶n, sinh tr•ëng cña gµ nu«i t¹i Th¸i Nguyªn.
- Bổ xung thông tin cho các nghiên cứu nhằm tìm ra các biện pháp chăn
nuôi gà hiệu quả kinh tế cao trong môi trường chăn nuôi bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit trong chăn nuôi gà
Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit được sản xuất từ nước muối loãng bởi thiết bị hoạt hoá điện hoá có tên
thương mại là ECAWA (Electro Chemically Activated Water) trên cơ sở
chuyển giao công nghệ từ Liên Bang Nga.
ECAWA là thiết bị sản xuất các dung dịch ĐHH anolit và catolit từ nước
muối tại cơ sở sử dụng, rất phù hợp với các bệnh viện, trung tâm y tế và các
cơ sở sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và một số ngành công nghiệp
có nhu cầu trang thiết bị khử trùng có hiệu quả cao, chi phí thường xuyên thấp,
vận hành bảo quản dễ dàng, đồng thời không làm tổn hại sinh thái môi trường.
Máy sản xuất dung dịch ĐHH dùng trong đề tài là máy ECAWA - 15 do
Viện công nghệ môi trường Viện khoa học công nghệ Việt Nam sản xuất năm
2005, sử dụng điện áp 220v - 50Hz công suất tiêu thụ điện 400Wh, lưu lượng
dung dịch sản phẩm 15lít/h.
1.1.1.1. Nguyên lý hoạt động của thiết bị ACAWA
Bản chất của công nghệ hoạt hoá điện hoá với điện trường đơn cực là ở
chỗ dung dịch muối loãng được xử lý trong một khoang (khoang anot hoặc
khoang catot) của buồng phản ứng, trong đó mỗi vi thể tích của khối dung
dịch được tiếp xúc trực tiếp với điện trường siêu cao trên bề mặt của điện đơn
cực mà không có sự xáo trộn với dung dịch ở bên khoang có điện trường
ngược dấu. Kết quả của những tác động nói trên là dung dịch được chuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
sang một trạng thái không cân bằng nhiệt động học với hoạt tính hoá học cao
khác thường trong vòng 24 giờ. Trong điều kiện đó dung dịch được xử lý
trong khoang catot gọi là catolit thể hiện tính năng tẩy rửa cao, còn dung dịch
được xử lý trong khoang anot gọi là anolit thể hiện tính năng khử trùng đặc
biệt cao.
Anolit là sản phẩm được tạo thành trong ngăn anot của buồng phản ứng
điện hoá có màng ngăn từ quá trình điện phân dung dịch muối loãng. Do
những tác động lý hoá xảy ra trong lớp tiếp xúc giữa điện cực và dung dịch,
nhiều chất có hoạt tính khử trùng cao được hình thành trong anolit như
HClO, ClO
-
, ClO2, Cl
-… là các chất clo hoạt tính và các peroxyt vô cơ H2O2,
HO, HO2… tất cả các chất này đều không bền chúng sẽ tự phân giải và tái lập
lại với nhau để trở thành nước bình thường từ vài chục giờ đến năm ngày.
Nước hoạt hoá điện cũng như những dung dịch muối loãng được HHĐH
không những chỉ là những chất oxi hoá khử mạnh hoặc là tác nhân axit và
kiềm, mà còn là chất xúc tác mạnh cho các phản ứng hoá học và sinh hoá.
Độ sạch sinh thái và mức an toàn trong sử dụng của dung dịch ĐHH có
được là vì khả năng phản ứng của nó được xác định không phải bằng số lượng
các chất tương tác mà do hoạt tính dị thường (hoặc cực cao hoặc cực thấp)
của nó so với nồng độ thấp của các muối khoáng hoà tan tự nhiên trong nước
uống hoặc trong dung dịch muối loãng. Đối với mục tiêu sử dụng trong ngành
thú y quá trình HHĐH được thực hiện với dung dịch muối loãng từ 0,1 - 5g/l
với chi phí điện năng từ 100 - 200 culông /lít.
Các dung dịch ĐHH từ muối ăn được sử dụng để tẩy rửa và khử trùng
các chuồng trại và dụng cụ thiết bị chăn nuôi gia súc, gia cầm: Dụng cụ,
chuồng nuôi, xưởng ấp, xưởng giết mổ, xưởng tận dụng đồ thải, trứng hàng
hoá và các đối tượng khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Như vậy các dung dịch ĐHH được chế tạo từ một thiết bị đã được sản
xuất ở Việt Nam để cho dung dịch anolit và catolit.
1.1.1.2. Khả năng khử trùng của dung dịch ĐHH
Thành phần của anolit trung tính gồm hoạt chất oxy hoá, các tế bào của
cơ thể người ngay trong quá trình hoạt động sống cũng tham gia vào quá trình
oxy hoá khử, chúng sản sinh ra và sử dụng có mục đích các chất oxy hoá hoạt
tính cao như: HO, HO2, O3, HClO, Cl, các tế bào này có hệ thống cấu tạo bảo
vệ chống oxy hóa, ngăn ngừa tác dụng độc hại của các chất tương tự đến cấu
trúc tế bào sống nhờ sự có mặt của các cặp lipoproteit 3 lớp có chứa cấu trúc
nối đôi (- C = C -) có khả năng nhận electron. Các vi khuẩn, vi rút thì không
có hệ thống bảo vệ để chống oxy hoá nên dung dịch anolit trung tính là chất
cực độc đối với chúng, thêm nữa mức độ khoáng hoá thấp của anolit và khả
năng hydrat hoá cao làm tăng mức độ thẩm thấu của màng tế bào vi khuẩn đối
với các chất oxy hoá. Các vi bọt khí mang điện được tạo ra trong vùng tiếp
xúc với Polime sinh học cũng góp phần làm chuyển dịch mạnh mẽ các chất
oxy hoá vào trong tế bào vi khuẩn, Vì thế anolit có tác dụng diệt khuẩn mạnh
nhưng lại ít gây hại tế bào cơ thể người.
Nhiều công trình nghiên cứu đã xác định dung dịch anolit có tính chất sát
khuẩn rất mạnh đối với các loại vi khuẩn sau:
- Nhóm vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae: Escherichia Coli (có
nhiều trong phân người), Klebsiella, Enterobacter…
- Các chủng vi khuẩn: Citrobacter, Eriberobacter, Citrobacter freundic…
- Liên cầu khuẩn thuộc giống Enterococcus và Streptoccocus bao gồm
các loài: E. avium, E.Casseliflarus…
Vi khuẩn kỵ khí có nha bào khử Sulfit: Clostridium perfringens,
Clostridium botulinum…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Các loại vi khuẩn và virut khác: Samonella paratyphi (A,B,C)
Mycobacterium tuberculocis, Mycobacterium chelomac, Mycobacterium
aviumntrase, Enterococcus faccalis, Bacillus subtilis, Staphylo Coccus aureus,
virut HIV…
1.1.1.3. Tính ưu việt của dung dịch ĐHH anolit và catolit trong phòng trừ
dịch bệnh cho gia súc, gia cầm
Với tính năng khử trùng hiệu quả và đặc tính an toàn đối với người sử
dụng và vật nuôi nêu trên, anolit và catolit đã được Hoa Kỳ, Nga và các nước
EU đưa vào sử dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi và chế biến thực phẩm từ
năm 1995. Kết quả ứng dụng cho thấy dung dịch ĐHH có những tính năng
vượt trội như sau:
* Hiệu quả khử trùng cao: Anolit diệt nhanh nhiều loại vi khuẩn, virut,
bào tử và nấm, kể cả các loại có sức đề kháng cao nhất như vi trùng bệnh lao,
vi khuẩn bệnh than, virus viêm gan B…
* Chất khử trùng đa năng nhất: Sử dụng hàng ngày để khử trùng không
khí và các bề mặt trong chuồng trại. Trộn với nước uống cho vật nuôi để khử
trùng và chữa các bệnh đường tiêu hoá, tắm cho vật nuôi để chữa bệnh ngoài
da, khử trùng trứng.
* Phòng bệnh cho người chăn nuôi: Diệt vi sinh vật gây bệnh trong môi
trường, chữa bệnh ngoài da cho người, ngâm quần áo để diệt trùng.
* Sạch về sinh thái, không làm ô nhiễm môi trường: Anolit trở lại thành
nước muối loãng sau vài ngày kể từ khi được điều chế nên không để lại dư
lượng hoá chất sau khi sử dụng
* Giá rẻ: Làm 1lít dung dịch anolit và catolit chỉ hết dưới 200 đồng.
Dễ làm và dễ bảo quản: Chỉ cần đổ nước muối 0,5% vào thùng chứa nước
muối và cắm điện vào cho thiết bị ECAWA chạy sẽ có ngay dung dịch khử
trùng anolit để sử dụng, bảo quản trong bồn nhựa, thủy tinh, sành sứ có nắp đậy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] sử dụng dung dịch ĐHH trong
chăn nuôi có thể bảo vệ sức khoẻ vật nuôi tốt hơn, thúc đẩy tăng trưởng, phát
triển, ngăn ngừa và chữa trị một số bệnh, làm vệ sinh môi trường nuôi. Đặc
biệt ưu điểm nổi bật của anolit so với các hoá chất khử trùng đang được sử
dụng phổ biến trong chăn nuôi hiện nay là người ta có thể phun trực tiếp vào
chuồng ngay cả khi có mặt vật nuôi mà không hề gây tác hại với chúng.
Công nghệ HHĐH đơn giản trong vận hành, giá rẻ và an toàn về môi
trường. Công nghệ này có thể ứng dụng ở nhiều quy mô, đặc biệt thích hợp
với các hộ chăn nuôi gia đình.
Dung dịch ĐHH là tác nhân khử trùng thân thiện của môi trường, là
công cụ hữu hiệu trong xử lý ô nhiễm, phòng ngừa bệnh dịch.
1.1.1.4. Các ứng dụng của dung dịch ĐHH trong chăn nuôi gia cầm
* Các dung dịch ĐHH bao gồm anolit và catolit được điều chế trên thiết
bị ECAWA có các thông số cơ bản sau đây:
- Loại điều chế từ dung dịch ban đầu Natri clorua có nồng độ 5g/l
Anolit: + pH trong khoảng 7,0 - 7,5
+ Thế oxi hoá khử ORP lớn hơn 800 mV
+ Nồng độ clo hoạt động trong khoảng 300 - 500 mg/ml
Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11
+ Thế oxi hoá khử ORP có giá tri tuyệt đối lớn hơn 400mV
+ Nồng độ muối 5g/l
- Loại điều chế từ nước thường
Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11
+ Thế oxi hoá khử ORP có giá trị tuyệt đối lớn hơn 400mV
+ Nồng độ muối 0,5g/l
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
* Các ứng dụng của dung dịch ĐHH:
- Khử trùng nước cấp: Nước cấp cho toàn trại chăn nuôi cần được khử
trùng bằng anolit với mức 5 - 6 l/m3 để đảm bảo vô khuẩn.
- Ứng dụng anolit và catolit trong công đoạn tẩy rửa, khử trùng dụng cụ
và bề mặt trong trại nuôi gia cầm.
Các thông số, liều lượng sử dụng và thời gian xử lý của anolit và catolit
được trình bày theo bảng dưới đây:
Bảng 1.1. Liều lƣợng sử dụng và thời gian xử lý catolit, anolit
Dung
dịch
Thông số
Liều
lƣợng
( ml/m
2
)
Thời gian
khử trùng
(phút)
Phƣơng pháp
Catolit
pH = 11 - 12
OPR< - 400mV
150 - 200 60 - 90
Dùng giẻ để lau
hoặc cọ rửa bằng
bàn chải 1 - 2 lần
Anolit
pH = 7 ± 0,3
OPR > + 800mV
250-300
150 Phun
Nồng độ: 200mg/l
90 Dùng giẻ lau 2 - 3 lần
30 Nhúng
Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14]
Dụng cụ dùng cho gia cầm ăn uống và các bề mặt trong trại là nơi tập
trung rất nhiều vi khuẩn và chất bẩn. Do vậy trước khi khử trùng cần phải làm
sạch qua các công đoạn quét sạch rác bẩn, phân, sau đó rửa bằng nước… Các
máng ăn cần dùng thêm catolit để cọ rửa sạch chất nhờn và chất bẩn bám trên
bề mặt dụng cụ để tạo điều kiện cho công đoạn khử trùng bằng anolit đạt hiệu
quả cao nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
- Ứng dụng dung dịch anolit để khử trùng và kiểm soát môi trường
không khí trong trại nuôi gia cầm.
Nguồn gốc gây bệnh như các loại nấm và vi khuẩn trong không khí bắt
nguồn trực tiếp từ bên ngoài trại đưa vào, từ thức ăn, rác bẩn bị ô nhiễm, hay
bắt nguồn từ các mầm bệnh trên bề mặt trần nhà và các dụng cụ đựng thức
ăn… bên trong trại nuôi gia cầm hoặc ngay trên lông gà. Do vậy để hạn chế
tối đa các khả năng gây bệnh, phun anolit nguyên chất (PH = 7 ± 0,3; nồng độ
250 - 300 mg/l; ORP ± 800mV) với liều lượng 150 - 200 ml/m2 lên bề mặt
dụng cụ và vào trực tiếp môi trường không khí ngay cả khi có mặt vật nuôi
trong thời gian 30 phút, cho phép giảm đáng kể các quần lạc vi khuẩn (E coli,
Staphylococus…) trong không khí và trên bề mặt thiết bị trong chuồng nuôi.
- Ứng dụng anolit để vệ sinh chuồng trại sau khi thu hoạch gia cầm và
trước khi đưa gia cầm vào nuôi đợt mới. Kết thúc một chu trình chăn nuôi,
chuồng nuôi bị ô nhiễm nặng bởi các chất thải của gia cầm, vi sinh vật, bụi và
các thứ khác. Vì vậy, chuồng nuôi cần phải được vệ sinh và khử trùng rất kỹ
để chuẩn bị cho một đợt nuôi mới. Các khâu làm vệ sinh chuồng nuôi sau khi
thu hoạch gia cầm gồm: Quét dọn thu gom phân, chất độn chuồng, rác thải,
rồi rửa sạch bằng nước, khử trùng.
- Khử trùng được chia làm 2 khâu:
+ Khử trùng không khí: Thực hiện giống như khử trùng khi đang có mặt
gia cầm nuôi.
+ Khử trùng bề mặt: Dùng vòi phun tia phun ướt các bề mặt cần được
khử trùng (mặt nền, tường bao).
Đối với các bề mặt bằng kim loại dễ bị rỉ sét tránh phun trực tiếp bằng
dung dịch anolit. Trong trường hợp bề mặt kim loại bắt buộc phải khử trùng,
sau thời gian khử trùng bằng anolit bề mặt cần được rửa bằng nước sạch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trước khi gia cầm được nuôi đợt mới 2 - 3 ngày, chuồng nuôi tiếp tục
được khử trùng để đảm bảo an toàn cho vật nuôi.
Quy trình vệ sinh khử trùng được thực hiện giống như quy trình vệ sinh
khử trùng chuồng nuôi khi vừa thu hoạch gia cầm.
- Ứng dụng anolit để đảm bảo vệ sinh thức ăn và nước uống cho gia cầm.
Dịch bệnh truyền nhiễm thường lây nhanh qua đường thức ăn và nước
uống. Do vậy việc khử trùng thức ăn và nước uống bằng anolit là rất cần thiết.
Đồng thời khi gia cầm tiêu thụ một lượng anolit vừa đủ sẽ rất có lợi cho sức
khoẻ cũng như phòng các bệnh dịch (tiêu chảy…) và tăng trọng cho gia cầm.
Bảng 1.2. Ứng dụng anolit trong thức ăn và nƣớc uống cho gia cầm
Đối
tƣợng
Thông số anolit Phƣơng pháp
Thời gian khử
trùng (phút)
Thức ăn
pH = 7 ± 0,3
ORP > +800mV
Tuỳ theo từng loại thức ăn
mà ta trộn anolit sao cho
thấm ướt toàn bộ bề mặt.
Ví dụ thức ăn có chứa hữu
cơ cao (thóc, cám…) phải
dùng anolit có nồng độ
nguyên chất phun trộn đều
theo tỷ lệ 1lít anolit cho
10kg thức ăn khô.
30 - 60
Nước uống
pH = 7 ± 0,3
ORP > + 800mV
Nồng độ: 300mg/l
Có thể pha anolit tỷ lệ 1:
20 với nước sạch cho gà
uống. Khi phát hiện có
dịch bệnh thì pha với tỷ
lệ : 1/5
Thường xuyên
Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Cho gà uống catolit
Cho gà uống catolit được điều chế từ nước thường với khoảng cách từ 1giờ
30 phút đến 2 giờ một lần sau khi cho gà ăn để tăng khả năng tiêu hoá thức ăn
của gà. Nếu sử dụng đều đặn có thể tăng hiệu quả sử dụng thức ăn từ 5 - 10%.
- Xử lý trứng:
+ Trứng thương phẩm: Các khay đựng trứng được vệ sinh khử trùng
bằng anolit như khử trùng dụng cụ. Trứng thương phẩm được xếp đống và
phun trước hết là catolit cho ướt đều, để yên chừng 30 phút, phun tiếp anolit
cũng tới mức ướt đều. Để khô tự nhiên và xếp vào khay rồi đưa vào nơi lưu
giữ hoặc mang đi tiêu thụ.
+ Trứng sinh sản: Cũng vệ sinh như trứng thương phẩm, tuy nhiên để
khô nhanh có thể dùng quạt.
- Xử lý phòng ấp
+ Các bề mặt trong phòng ấp được vệ sinh khử trùng theo quy trình như
khử trùng môi trường không khí. Tuy nhiên phòng ấp được vệ sinh thường
xuyên nên chỉ cần lau bằng anolit hàng ngày.
+ Không khí buồng ấp có thể phun định kỳ bằng anolit 2 - 3 ngày một lần
với liều lượng 150 - 200 ml/m2.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu sự di truyền các tính trạng năng
suất của gia cầm
Theo Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc (1998) [22] Phần lớn các
tính trạng kinh tế của vật nuôi đều là các tính trạng số lượng và phần lớn sự
thay đổi trong quá trình tiến hoá của sinh vật cũng là sự thay đổi của các tính
trạng số lượng. Khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới sự di truyền các
tính trạng số lượng và biến dị của chúng tác giả đã kết luận: Khi một kiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
hình của một cá thể được cấu tạo từ hai Locut trở lên thì giá trị kiểu hình của
nó được biểu thị như sau:
P= A+D+I+Eg+Es
Trong đó:
P : Là giá trị kiểu hình ( phenotyp Value)
A : Là giá trị cộng gộp (Additive Value)
D : Là giá trị sai lệch trội (Dominance Value )
I : Là sai lệch tương tác hay sai lệch át gen (Epistatic deviation )
Eg : Là sai lệch môi trường chung (General enviromental diviation)
Es : Là sai lệch môi trường riêng (Special enviromental diviation)
Như vậy, năng suất giống vật nuôi phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và
ngoại cảnh. Vật nuôi nhận được khả năng di truyền từ bố mẹ, nhưng sự thể
hiện khả năng đó ở kiểu hình lại phụ thuộc vào ngoại cảnh môi trường sống.
Đây là cơ sở để tạo lập một điều kiện ngoại cảnh thích hợp nhằm củng cố phát
huy tối đa khả năng di truyền của các giống vật nuôi, đặc biệt là gia cầm.
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh trưởng, khả năng
cho thịt của gà
Về mặt sinh học, sự sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp
protein nên người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá
sinh trưởng. Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân theo những
quy luật nhất định. Gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó
tăng khối lượng giảm dần theo từng tháng tuổi.
Để xác định toàn bộ quá trình sinh trưởng một cách chính xác là rất khó
khăn và phức tạp. Tuy nhiên trong chọn giống vật nuôi ngày nay, người ta sử
dụng các phương pháp đơn giản và thực tế để đánh giá khả năng sinh trưởng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
- Kích thước các chiều đo: Kích thước và khối lượng xương có tầm quan
trọng lớn đối với khối lượng cơ thể và hình dáng con vật, quan hệ giữa khối
lượng thân, tốc độ lớn và chiều dài đùi, chiều dài xương ngực với chất lượng
giết thịt có tầm quan trọng đặc biệt. Kích thước các chiều đo có liên quan rõ
rệt với khối lượng cơ thể, độ dài chân có liên quan đến tính biệt.
- Tốc độ sinh trưởng: Tốc độ sinh trưởng và cường độ tăng các chiều cơ
thể trong một khoảng thời gian nhất định.
- Tiêu tốn thức ăn: Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng phản ánh
quá trình chuyển hoá thức ăn để sinh trưởng. Tiêu tốn thức ăn /kg tăng khối
lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận (1992) [12] cho rằng để phát huy
tối đa khả năng sinh trưởng của gia cầm thì việc cung cấp thức ăn đầy đủ và
tối ưu các chất dinh dưỡng, cân bằng protein, các axit amin và năng lượng là
điều tối cần thiết.
1.1.4. Cơ sở khoa học về sự ảnh hưởng của môi trường tới sức sản xuất của
gà thịt
- Các tính trạng của một giống được hình thành gắn liền với sự tác động
của môi trường sinh thái địa phương. Ngoài các yếu tố di truyền, tác động của
con người thì các yếu tố ngoại cảnh như: Nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, mùa
vụ… có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các đặc tính sinh trưởng, phát
dục, sinh sản của giống ở từng địa phương, mà các đặc tính này sẽ hình thành
các chỉ tiêu sản xuất của giống đó.
- Trong những điều kiện môi trường nhất định thì các kiểu gen khác nhau sẽ
cho những khả năng sản xuất khác nhau. Trái lại cùng một kiểu gen nhưng trong
những điều kiện môi trường khác nhau sẽ cho năng lực sản xuất khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
* Ảnh hưởng của nhiệt độ tới khả năng sản suất: Theo Bùi Đức Lũng,
Lê Hồng Mận (1992) [12] thì tiêu chuẩn nhiệt độ trong chuồng nuôi cần
18-20 độ. Trong điều kiện tự nhiên như ở nước ta rất khó đạt tiêu chuẩn
trên vì nhiệt độ môi trường chênh lệch nhiều giữa hai mùa hè và mùa đông.
Tuy nhiên trong chăn nuôi ta phải có biện pháp khắc phục tối ưu để đạt xấp
xỉ tiêu chuẩn nhiệt.
+ Giai đoạn gà con dưới 3 tuần tuổi nếu không đủ ấm gà sẽ túm lại
không ăn hoặc ăn rất ít dẫn đến gà chậm lớn và chết nhiều.
+ Giai đoạn sau bốn tuần hiệu quả thức ăn đạt mức tối đa ở nhiệt độ
24
0
C. Nếu dưới 3 tuần tuổi cần duy trì nhiệt độ cao > 300C thì sau 4 tuần tuổi
phải chú ý giảm nhiệt độ ở mức 23-240C. Gà trống broiler khối lượng cao có
thể bị chết vì stress nhiệt ở mức 350C. Lúc nhiệt độ cao cần cung cấp đủ
nước uống cho gà. Nước uống là yếu tố quan trọng để duy trì sức chịu
đựng của gà ở nhiệt độ 44-460C, nếu nhiệt độ trên giới hạn này gà sẽ bị
chết hàng loạt.
+ Ở nhiệt độ 350C, gà 7 tuần tuổi trở lên sẽ tiêu thụ nước uống tăng thêm
4 lít/giờ/100 gà. Mùa nóng khi gà bị stress nhiệt nước uống nên pha thêm
vitamin C, Đường glucoza và các chất điện giải.
+ Ngoài ra nhiệt độ môi trường còn ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu ME
và CP của gà broiler, nên tiêu thụ thức ăn của gà chịu sự chi phối nhiều của
nhiệt độ môi trường. Trong điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức tiêu thụ thức
ăn của gà cũng khác nhau. Nhu cầu về năng lượng và các vất chất dinh dưỡng
khác cũng bị thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Khi nhiệt độ môi trường nuôi
ổn định thì mức tiêu thụ thức ăn của gà tăng khi giảm mức năng lượng trong
thức ăn và ngược lại. Vì vậy nhiệt độ môi trường ổn định, cần phải đảm bảo
mức năng lượng cao trong thức ăn để nâng cao sức tăng trọng của gà. Với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
mức năng lượng ổn định tiêu thụ thức ăn của gà sẽ bị giảm khi nhiệt độ môi
trường tăng và ngược lại.
* Ảnh hưởng của ẩm độ:
Khi ẩm độ tăng làm cho chất độn chuồng dễ ẩm ướt, thức ăn dễ bị mốc,
nấm mốc phát triển làm ảnh hưởng xấu tới gà nhất là NH3 do vi khuẩn phân
huỷ các axit nucleic trong phân và chất độn chuồng. Làm tổn thương đến hệ
hô hấp của gà, khả năng nhiễm bệnh cầu trùng, Newcastle, E.coli dẫn tới làm
giảm khả năng tăng trưởng của gà.
Nếu hàm lượng NH3 tăng quá 50ppm gà sẽ bị mù. Do bắt buộc phải
giảm ẩm độ trong chuồng nuôi, nhất là nơi đặt máng nước. Để giữ cho nền
chuồng không ẩm ướt có thể sử dụng vòi uống tự động để hạn chế nước rơi
vãi ra nền chuồng.
Ẩm độ tăng cũng do nuôi nhốt gà với mật độ quá đông, vì vậy ta phải
thay đổi diện tích nuôi để phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của gà. Ngoài
ra có thể tăng độ thông thoáng, tăng tốc độ gió trong chuồng nuôi cũng là các
biện pháp góp phần làm giảm độ ẩm chuồng nuôi.
* Ảnh hưởng của độ thông thoáng
Độ thông thoáng giúp cho gà có đủ oxy thải khí cácbonic và các chất độc
khác, giảm ẩm độ chuồng nuôi, điều chỉnh nhiệt độ chuồng nuôi qua đó hạn
chế bệnh tật. Thông thoáng và tốc độ gió lùa phụ thuộc vào thời tiết và nhiệt
độ. Nhiệt độ cao cần có tốc độ lưu thông khí khác nhau. Tốc độ lưu thông khí
cao đối với gà lớn và ngược lại, với các điều kiện khí hậu khác nhau phải có
sự điều chỉnh độ thông thoáng cho phù hợp.
Ing.JJ.Dik (1995) [31] qua nghiên cứu đã cho ra khuyến cáo về thành
phần tối đa của chất khí trong chuồng nuôi gia cầm như sau:
NH3 = 0,01 g/m
3
, H2S = 0,002 g/m
3
, CO2 = 0.35 g/m
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Ở nước ta chủ yếu là nuôi thông thoáng tự nhiên nên cần đảm bảo ấm
cho mùa đông và mát cho mùa hè. Về mùa hè khi nhiệt độ cao cần bố trí hệ
thống quạt để tăng tốc độ gió để chống nóng cho gà. Mùa đông cần có thiết bị
sưởi ấm cho gà.
* Ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng
Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận (1993) [13] thì gà broiler phải
được chiếu sáng 2-3 giờ trên ngày khi nuôi trong nhà kín (môi trường nhân
tạo) Kết quả thí nghiệm cho thấy: 1-2 giờ chiếu sáng sau đó đến 2-4 giờ sau
không chiếu sáng cho kết quả tốt nhất và lớn nhanh, chi phí thức ăn giảm,
giảm năng lượng điện chiếu sáng, tác giả khuyến cáo với gà 3-4 ngày tuổi
chiếu sáng với công suất 4w/ m2 nền chuồng giảm dẫn đến 21 ngày tuổi chỉ
cần ánh sáng mờ 15w /25m2 nền chuồng.
Khi cường độ ánh sáng cao gà hoạt động nhiều do đó làm giảm sự tăng
khối lượng, với chuồng thông thoáng tự nhiên, đối với mùa hè nên che chắn
ánh nắng mặt trời rọi vào chuồng nhưng vẫn đảm bảo thông khí, ánh sáng
phải được phân bố đều trong chuồng và sử dụng cùng loại công suất của đèn
để tránh tụ tập (gà thích tụ tập vào nơi có ánh sáng mạnh hơn).
Ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt.
Mật độ nuôi cao thì chuồng nhanh bẩn, gà chen nhau, nồng độ khí độc
NH3,CO2,H2S… và quần thể vi sinh vật sinh ra trong chuồng cao, từ đó ảnh
hưởng đến khả năng tăng trọng và sức khoẻ của đàn gà, gà dễ bị cảm nhiễm
bệnh tật, tỷ lệ đồng hoá kém, tỷ lệ gà chết và bị loại thải cao, cuối cùng dẫn
đến làm giảm hiệu quả chăn nuôi. Nhưng nếu mật độ nuôi thấp, chuồng có
nhiều khoảng trống gà sẽ tăng mọi hoạt động (chạy nhảy…) dẫn đến tăng
trọng giảm, đồng thời kéo theo các chi phí khác trên đầu gà như: khấu hao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
chuồng, công lao động và quản lý/m2 nền chuồng cao, từ đó không tiết kiệm
được diện tích chuồng nuôi dẫn đến tăng chi phí trong chăn nuôi.
1.1.5. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản
Sinh sản là chỉ tiêu được quan tâm hàng đầu và lâu dài trong công tác
giống nhằm tăng số lượng và chất lượng con giống.
Khả năng sinh sản của gà phụ thuộc và các yếu tố: giống, tuổi đẻ, trạng
thái sinh lí, điều kiện nuôi dưỡng, vụ mùa… và được đánh giá qua các chỉ tiêu
tỷ lệ đẻ sản lượng trứng, khối lượng trứng, chất lượng trứng và tỉ lệ ấp nở.
* Năng suất trứng và các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trứng
Năng suất trứng: Số lượng trứng thu được của mỗi đàn hoặc mỗi mái đẻ
trong khoảng thời gian nhất định (một tháng, một mùa, sau một năm tuổi, cả
đời mái đẻ..).
Sản lượng trứng được tính theo 2 cách: Số trứng tương đối tính theo đơn
vị quả hoặc số trứng tuyệt đối tính theo đơn vị khối lượng (kg). Thông
thường, người ta xác định sản lượng trứng sau một chu kì đẻ trứng sinh học
(hoặc sau 1 năm đẻ trứng) hoặc sản lượng trứng đến 500 ngày tuổi.
Theo Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6] năng suất trứng chịu sự
chi phối của các tập hợp gen khác nhau. Các gen quy định tính trạng này nằm
trên nhiễm sắc thể thường và bị hạn chế bởi giới tính. Năng suất trứng của gà
mái do 5 yếu tố di truyền quy định: Thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng, cường
độ đẻ trứng, tính nghỉ đẻ mùa đông, tính ấp bóng, tuổi thành thục sinh dục.
Ngoài ra, năng suất trứng còn phụ thuộc vào dinh dưỡng, ánh sáng và các yếu
tố khí hậu khác.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng:
Sức sản suất trứng là đặc điểm phức tạp và biến động, nó chịu ảnh hưởng
bởi tổng hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
+ Giống, dòng: Ảnh hưởng trực tiếp đến sức sản xuất trứng của gia cầm.
Cụ thể giống gà Leghorn trung bình có sản lượng 250 - 270 trứng /năm, gà Ri
chỉ 90 -100 trứng /năm (Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6]).
Trong cùng một giống, các dòng khác nhau cũng cho năng suất trứng
khác nhau. Những dòng đã qua chọn lọc sẽ cho sản lượng cao hơn 15- 20% so
với những dòng chưa được chọn lọc.
+ Tuổi thành thục sinh dục liên quan đến sức đẻ trứng của gia cầm là đặc
điểm di truyền cá thể. Tuổi thành thục sinh dục của cá thể được xác định qua
tuổi đẻ quả trứng đầu tiên. Đối với đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi thành thục
sinh dục là thời điểm tại đó gà đẻ đạt tỉ lệ 5%. Tuổi thành thục sinh dục sớm
hay muộn đều có ảnh hưởng không tốt tới sức sản xuất trứng của gia cầm. Gà
đẻ sớm làm tăng số lượng trứng nhỏ, giảm số lượng trứng giống, giảm số
lượng gà con /mái, tăng chi phí thức ăn /10 qủa trứng giống.
Năng suất trứng tỉ lệ thuận với độ đồng đều của quần thể gà, yêu cầu khi
gà chuẩn bị lên đẻ độ đồng đều của đàn gà phải đạt trên 80%. Điều này cần
đặc biệt chú ý khi nuôi gà hậu bị giống. Nhiều công trình nghiên cứu trong
nước cũng như ngoài nước đã cho thấy phải nuôi gà hậu bị giống bằng chế độ
cho ăn hạn chế, chỉ cho ăn 70-80% lượng thức ăn theo định mức hàng ngày.
* Biện pháp làm tăng độ đồng đều của đàn gà (khi cho ăn hạn chế)
Rải thức ăn nhanh, tăng số máng ăn để đảm bảo mỗi gà đều có chỗ đứng
để ăn. Phân loại gà theo khối lượng cơ thể lúc 7 và 16 tuần tuổi để điều chỉnh
lượng thức ăn. Cân cá thể hàng tuần 10 - 20% số gà có mặt để điều chỉnh
lượng thức ăn cho phù hợp. Thực hiện chế độ chiếu sáng quy định để tránh gà
phát dục sớm.
* Tuổi gia cầm: Liên quan chặt chẽ với sức đẻ của nó, sản lượng trứng
giảm dần theo tuổi trung bình, năm thứ hai giảm 15-20% so với năm thứ nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
* Thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng sinh học: Chu kì đẻ trứng sinh học
được tính từ khi gia cầm đẻ quả trứng đầu tiên đến khi ngừng đẻ và thay lông,
đó là chu kì thứ nhất. Chu kì thứ hai bắt đầu khi gia cần bắt đầu đẻ lại (sau khi
thay lông) tới khi ngừng đẻ và thay lông lần thứ hai. Cứ như thế có thể xác
định tiếp tục các chu kì tiếp theo.
Chu kì đẻ trứng sinh học có mối tương quan thuận với tính thành thục
sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng và chu kì đẻ trứng.
Sản lượng trứng phụ thuộc vào thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng sinh
học, phụ thuộc vào loài, giống, dòng, cá thể, tuổi... của gia cầm.
* Sự thay lông: Sau mỗi chu kì đẻ trứng sinh học, gia cầm nghỉ đẻ và
thay lông. Ở điều kiện bình thường, thay lông lần đầu tiên là những điểm
quan trọng để tính gia cầm đẻ tốt hay xấu. Những con thay lông sớm thường
là con đẻ kém và kéo dài thời gian thay lông. Ngược lại những con thay lông
muộn, quá trình thay lông diễn ra nhanh và là những con đẻ tốt. Đặc biệt ở
một số đàn gà cao sản thời gian nghỉ đẻ 4 -5 tuần và lại đẻ lại ngay sau khi
chưa hình thành bộ lông mới, có những con đẻ ngay trong thời gian thay lông.
Như vậy, sự thay lông liên quan mật thiết tới sản lượng trứng.
Cường độ đẻ trứng được biểu thị qua số trứng đẻ ra trong một khoảng
thời gian nhất định không kể đến chu kỳ hay nhịp đẻ. Cường độ đẻ trứng có
tương quan dương với sản lượng trứng của gia cầm. Nếu cường độ đẻ cao thì
sản lượng trứng cao và ngược lại.
* Mùa vụ: Ảnh hưởng tới sức đẻ trứng rất rõ rệt, ở nước ta về mùa hè
sức đẻ trứng giảm xuống nhiều so với mùa xuân và đến mùa thu lại tăng
lên, sản lượng trứng hàng tháng rất khác nhau khi nhận gà vào đẻ ở các
thời gian khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Bảng 1.3. Ảnh hƣởng của mùa vụ đến sản lƣợng trứng của gà
Tuổi gà
(Tháng)
Thời gian nhận gà vào đẻ
Tháng 3 Tháng 6 Tháng 9
Tháng
Sản lƣợng
trứng
(quả)
Tháng
Sản lƣợng
trứng
(quả)
Tháng
Sản lƣợng
trứng
(quả)
5 - 6
6 - 7
7 - 8
8
9
10
11
18
20
11
12
1
8
17
20
2
3
4
10
17
19
Nguồn: Nguyễn Duy Hoan và cs, 1998 [6].
* Ánh sáng ảnh hưởng tới sản lượng trứng của gia cầm qua thời gian
chiếu sáng và cường độ chiếu sáng. Yêu cầu của gà đẻ 12-16 h/ngày với
cường độ 3-3,5W/m2. Có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên kết hợp với ánh sáng
nhân tạo để đảm bảo đủ về thời gian và cường độ chiếu sáng trên.
Nhiệt độ môi trường xung quanh liên quan mật thiết với sản lượng trứng,
ở nước ta nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp với gà đẻ là 14-220C. Nếu nhiệt độ
dưới giới hạn thấp thì gia cầm phải huy động năng lượng chống rét và trên
giới hạn cao thải nhiệt nhiều nên cũng làm giảm sản lượng trứng.
* Khối lượng trứng
Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng giống, tỉ lệ nở,
chất lượng và sức sống của gà con.
Khối lượng trứng là tính trạng số lượng chịu ảnh hưởng của nhiều gen
và có hệ số di truyền h2 = 0,3 - 0,7. Khối lượng trứng có tương quan âm
đến sản lượng trứng (r = - 0,36) và có tương quan dương với khối lượng cơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thể (r = 0,31) và tuổi thành thục trứng của gia cầm bắt đầu đẻ nhỏ hơn trứng
của gia cầm trưởng thành 20 - 30%. Khối lượng trứng ở năm đẻ thứ hai lớn
hơn năm đẻ thứ nhất 10 - 15% (Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6]).
Khối lượng trứng ấp và khối lượng gia cầm con nở ra có mối tương quan
dương, khối lượng gia cầm con nở ra thường có khối lượng bằng 62 - 78% khối
lượng trứng vào ấp (Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6]). Khối lượng
trứng phụ thuộc vào giống, khối lượng cơ thể, tuổi đẻ và chế độ dinh dưỡng.
* Hình dạng và chất lượng trứng
Hình dạng và chất lượng trứng được quyết định bởi phần sau của ống dẫn
trứng. Nó mang đặc điểm của từng cá thể, do nguyên nhân di truyền ở một mức
độ rõ rệt. Trứng gia cầm có hình ô van, dễ phân biệt được đầu tù và đầu nhọn,
đường cong từ đầu tù đến đầu nhọn đều, không bị sần sùi. Hình dạng trứng
không biến đổi theo mùa song quả trứng đầu của chu kì đẻ thường dài và nhỏ
hơn những quả trứng sau. Hình dạng trứng không phụ thuộc vào khối lượng gà
mái mà phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo và chức năng của ống dẫn trứng, ống
dẫn trứng càng dài, càng to thì trứng đẻ ra càng to. Hình dạng trứng là căn cứ
đánh giá chất lượng trứng.
Trứng của mỗi loài gia cầm đều có chỉ số hình thái riêng, khoảng biến thiên
của chỉ số hình thái của trứng gà là 1,34 - 1,36. Những quả trứng có chỉ số hình
dạng cao, tỉ lệ lòng trắng loãng ít hơn, chỉ số lòng đỏ và đơn vị Haugh cao hơn.
Hình dạng trứng có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong tiêu thụ, vận
chuyển, bảo quản mà còn liên quan đến tỉ lệ ấp nở. Chỉ số hình dạng ảnh
hưởng đến vị trí của đĩa phôi khi ấp, những quả trứng quá tròn hay quá dài
đều có tỉ lệ ấp nở thấp. Vậy chỉ số hình dạng là căn cứ để đánh giá chất lượng
bên trong của trứng.
Độ dày vỏ trứng ảnh hưởng đến độ bền của trứng và có ý nghĩa trong việc
vận chuyển, quá trình trao đổi chất, là nguồn cung cấp canxi cho phôi, độ dày vỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
trứng gà từ 0,229 - 0,373 mm, chịu độ lực từ 2,44 - 3,88 kg/cm. Độ dày vỏ trứng
chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền. Các yếu tố ảnh hưởng của môi trường như
nhiệt độ chuồng cao, tuổi gà già, các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng kém và tác
nhân stress khác đều làm giảm độ dày và sức bền của vỏ trứng.
Lòng trắng trứng gồm lòng trắng loãng và lòng trắng đặc. Tỉ lệ lòng
trắng đặc trên toàn bộ lòng trắng biểu thị chất lượng trứng, chỉ số này cao cho
tỉ lệ ấp nở tốt. Những gà có khả năng đẻ trứng cao thường có hàm lượng lòng
trứng cao. Chất lượng lòng trắng được xác định bằng đơn vị Haugh (Hu).
Trứng ấp có chất lượng tốt phải có từ 80-100 đơn vị Hu lòng trắng có cấu tạo
chủ yếu là albumin và một số chất khoáng, nước giúp cấu tạo lông, da và các
bộ phận nội quan trong quá trình phát triển phôi.
Lòng đỏ là phần quan trọng nhất của trứng gồm có nước, protein, lipid,
glucid và các acid amin không thay thế, các vitamin nhóm B và A,D, E làm
nhiệm vụ cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi. Chất lượng lòng đỏ được xác
định bằng chỉ số lòng đỏ, trứng có chỉ số lòng đỏ cao sẽ cho tỉ lệ ấp nở cao.
* Khả năng thụ tinh và ấp nở
Kết quả thụ tinh là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh sản của gà
trống và gà mái. Tỷ lệ thụ tinh phụ thuộc vào tuổi, tỉ lệ trống mái trong đàn
gà, mùa chăn nuôi, chế độ dinh dưỡng và chọn đôi giao phối. Sự giao phối
cận huyết cũng làm giảm tỷ lệ thụ tinh.
Tỷ lệ nở phụ thuộc vào tỷ lệ trứng có phôi, chất lượng trứng và chế độ ấp.
Đó là chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của phôi và sức sống của gia cầm non
1.1.6. Sức sống và khả năng đề kháng bệnh của gia cầm
Sức sống và khả năng kháng bệnh ở đàn gia cầm là yếu tố quan trọng
giúp cho chăn nuôi đạt hiệu quả cao. Tổn thất do bệnh tật ở gia cầm có những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
lúc rất lớn và có thể gây nguy hại cho các gia súc khác và cả con người. Đặc
biệt là các bệnh truyền nhiễm, việc phòng và trị phải tiêu tốn rất nhiều tiền
của cho sử dụng thuốc, vacxin và các biện pháp thú y khác. Chứng minh khá
rõ trong đợt dịch cúm H5N1 xảy ra ở rất nhiều tỉnh thành trong cả nước gây
tổn thất về kinh tế và mạng sống của con người vì vậy công tác vệ sinh thú y
là vô cùng quan trọng.
Hiện nay, với cơ chế mở cửa nhập nhiều giống gà có đặc tính sản xuất cao
từ nước ngoài hay giữa các tỉnh thì cần quan tâm tới khả năng thích nghi với
điều kiện môi trường, sức sống và khả năng kháng bệnh. Đó là yếu tố di truyền
số lượng đặc trưng cho từng loài, giống, dòng, cá thể và được xác định bởi khả
năng chống chịu ảnh hưởng của dịch bệnh và ngoại cảnh. Yếu tố ngoại cảnh
gây ảnh hưởng đến sức sống của gia cầm như nhiệt độ, độ ẩm, thức ăn, điều
kiện nuôi dưỡng, tuổi, tính biệt… Trong đó, nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn và
gia cầm dễ mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh thay đổi đột ngột.
Trong chăn nuôi cần đáp ứng đầy đủ điều kiện thích hợp cho gia cầm phát
triển như chuồng trại, thức ăn, chăm sóc, quản lý... mang lại hiệu quả cao.
Ngoài các yếu tố giống, dinh dưỡng, kỹ thuật, chăm sóc thì sức sống và
khả năng sinh trưởng phát triển của gia cầm chịu tác động trực tiếp của các
yếu tố ngoại cảnh như nhiệt độ, ẩm độ, độ thông thoáng và chiếu sáng, những
yếu tố này tác động gây ảnh hưởng xấu tới sức đề kháng của cơ thể, dễ gây
hiện tượng stress làm giảm sức sống gia cầm. Trong điều kiện tự nhiên nước
ta các yếu tố này tác động lần lượt ở các mức độ khác nhau tại những vùng
địa lý khác nhau. Do vậy để có sức sống cao đòi hỏi gía cầm phải có sự thích
nghi với điều kiện sống, thông qua hệ thống miễn dịch và các cơ chế đáp ứng
miễn dịch để chống lại các tác nhân gây bệnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Theo Nguyễn Hoài Tao (2005) [20], công nghệ hoạt hoá điện hoá đã
được người Nga là viện sỹ Vitold Mikhailovich Bakhir (V.M.Bakhir) điều
chế từ năm 1972, và từ đó được nghiên cứu khắp nơi trên thế giới ở nhiều lĩnh
vực khác nhau như: Y tế, nông nghiệp, chế biến thực phẩm, dung dịch sinh
hoạt với vai trò là chất khử trùng cao, không gây hại với môi trường.
Công nghệ HHĐH ngày càng được áp dụng rộng rãi trên thế giới đặc
biệt là tại các nước phát triển và đang phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Hàn
Quốc, Israel, Ấn Độ, Brazin… Tại Anh Quốc năm 1997 đã xảy ra đại dịch
cúm gà gây thiệt hại lớn và dịch đã được dập tắt nhanh chóng sau khi chế
phẩm anolit được đưa vào áp dụng.
Cục thú y - Bộ Nông nghiệp Cộng Hoà Liên Bang Nga đã chính thức
phê duyệt văn bản hướng dẫn sử dụng các dung dịch hoạt hoá điện hoá trong
ngành chăn nuôi và thú y tháng 4/1999, đặc biệt trong đó có sử dụng khuyến
cáo cụ thể liên quan đến phòng bệnh và chữa bệnh cho trại gà và trứng ấp.
Nước Mỹ sau khi chi 3,8 triệu USD kiểm nghiệm tác dụng của dung
dịch này đã quyết định cho quân đội phương tiện sản xuất dung dịch ĐHH để
chống các cuộc tấn công vi sinh và hoá học trong đó có cuộc chiến khủng bố
bằng vi khuẩn bệnh than năm 2002. Thành phố Moscow dùng dung dịch này
phun vào ôtô buýt và taxi công cộng để chống dịch Sars hè năm 2003.
Năm 2004, khi cúm gà bùng phát ở Châu Á, người Nga phổ biến trên
Internet cách dùng dung dịch ĐHH để khử trùng chuồng nuôi, trứng gà và thịt
gà… Bản hướng dẫn sử dụng dung dịch ĐHH điều chế từ nước muối khử trùng
các đối tượng khác nhau trong ngành chăn nuôi đã được ban y học và thú y Viện
Hàn Lâm Nông nghiệp Liên Bang Nga (ngày 16/1/1994) và hội đồng y dược
thuộc cục thú y, Bộ Nông nghiệp Liên Bang Nga duyệt (ngày 18/3/1995).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Hiện nay dung dịch này đang sử dụng rộng rãi cả trong đời sống hàng
ngày và có đến hơn 70% gia đình ở Nhật Bản trang bị sản xuất dung dịch này
trong gia đình để khử trùng thực phẩm, vệ sinh cá nhân. Cho đến nay, nhiều
nước tiên tiến đã đưa công nghệ vào sử dụng trên diện rộng.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo Nguyễn Hoài Tao (2005) [20], năm 1999, TS Nguyễn Hoài Châu
sang Nga công tác và tình cờ phát hiện một loại dung dịch đang được sử dụng
ở khắp nước Nga có nhiều tác dụng mà từ trước đến nay ông chưa từng được
biết, trước khi về nước ông đã gặp được Viện Sĩ Vitold Mikhailowich Bakhir,
người tìm ra cách điều chế dung dịch ĐHH từ năm 1972 từ một hoá chất vô
cơ cực kỳ phổ biến và gần như vô hại là muối ăn để tìm hiểu và đề nghị giúp
đỡ. Viện Sỹ V.M.Bakhir nhận lời giúp TS. Nguyễn Hoài Châu đưa công nghệ
này vào Việt Nam.
Về nước TS. Nguyễn Hoài Châu đề xuất các cơ quan quản lý KH - CN
cấp trên về dung dịch kỳ lạ. Trong năm 2001- 2002 lãnh đạo bộ Khoa học -
Công nghệ giao cho Viện khoa học vật liệu (thuộc Viện khoa học công nghệ
Việt Nam) xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế mang
tên “Nghiên cứu sản xuất dung dịch hoạt hoá bằng phương pháp điện hoá và
các ứng dụng trong y tế, nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường”, nằm trong
khuôn khổ sự hợp tác KH - CN giữa Việt Nam và Liên Bang Nga.
Dù nắm được công nghệ điều chế, nhưng các nhà khoa học Việt Nam
vẫn thận trọng đề nghị tiếp tục nghiên cứu các ứng dụng dung dịch trong hoàn
cảnh Việt Nam. Bên cạnh nhiệm vụ được nhà nước giao, Viện gấp rút kiểm
nghiệm tác dụng của dung dịch điện hoạt hoá. Đó là các đề tài nghiên cứu khả
năng ứng dụng dung dịch ĐHH thay thế các hoá chất sát trùng đang được sử
dụng trong một số công đoạn nuôi tôm giống và chế biến thuỷ sản. Cả hai đề
tài khởi động từ năm 2003.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Trước cơn bùng phát dịch cúm gia cầm, viện lại cho xây dựng và thực hiện
thêm đề tài mang tên “Nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng dung dịch ĐHH trong
phòng chống bệnh và tăng hiệu quả chăn nuôi gia cầm” từ tháng 5/2004.
Tại nước ta, viện khoa học và công nghệ Việt Nam đã sản xuất thiết bị
hoạt hoá điện hoá có tên thương mại là ECAWA trên cơ sở chuyển giao công
nghệ từ Liên bang Nga. Thiết bị ECAWA đã được công nghệ đăng ký nhãn
hiệu hàng hoá và dung dịch anolit, catolit đã được Viện vệ sinh dịch tễ Trung
Ương kiểm nghiệm và có kết luận như sau: Các dung dịch anolit kiểm nghiệm
có khả năng sát khuẩn cao, không gây độc cấp và mãn tính cho người, vật nuôi.
Theo Bạch Mạnh Điều và cộng sự (2004) [3]: Nghiên cứu ứng dụng
dung dịch điện hoạt hoá phòng bệnh cho Đà điểu tại trại nghiên cứu Đà điểu
Ba Vì cho thấy: Công nghệ sản xuất dung dịch ĐHH sử dụng máy ECAWA
vận hành đơn giản, so với các thuốc sát trùng khác có ưu điểm là hầu như
không độc hại và giá thành rất rẻ. Sử dụng anolit hoà vào nước uống và phòng
bệnh cho Đà điểu 1 - 3 tháng tuổi tỷ lệ 5% có tác dụng nâng cao tỷ lệ nuôi
sống và không ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng nhưng nếu sử dụng anolit
10% lại ảnh hưởng bất lợi tới khả năng sinh trưởng.
Theo Hoàng Xuân Lộc và cộng sự (2004) [11]: Nghiên cứu ứng dụng
dung dịch hoạt hoá điện hoá trong chăn nuôi gà thịt cụ thể là sử dụng dung
dịch catolit đã đưa ra kết luận: Nếu cho gà thịt uống catolit 12 giờ, nghỉ 12
giờ thì làm tăng khối lượng cơ thể, tiêu tốn thức ăn giảm, thu nhập tăng so với
không uống catolit hay uống catolit cả ngày lẫn đêm hoặc uống catolit 1 giờ
30 phút và uống 1 giờ nước. Cũng theo Hoàng Xuân lộc và cộng sự (2004)
[11] đã nghiên cứu ứng dụng dung dịch ĐHH trong chăn nuôi Ngan Pháp lấy
thịt, uống 5% anolit (tỷ lệ 1/20) và uống anolit 10%(1/10) hoặc không uống
anolit đã đưa ra kết luận: Nếu uống 5% anolit thì làm tăng khối lượng cơ thể,
tiêu tốn thức ăn giảm so với uống anolit 10%.
Theo Nguyễn Hoài Tao (2005) [20]: Giá thành dung dịch ĐHH rất rẻ
(chi phí sản suất thấp hơn các loại thuốc sát trùng hàng trục đến hàng trăm lần).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
1.2.3. Nguồn gốc và một số đặc điểm của giống gà Lương Phượng
Theo Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1999) [7] cho biết gà Hoa Lương
Phượng hay Lương Phượng hoa, thường được gọi tắt là gà Lương Phượng do
xuất xứ từ vùng ven sông Lương Phượng. Đây là giống gà thịt lông màu do xí
nghiệp nuôi gà thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc lai tạo
thành công sau hơn chục năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống địa phương và
dòng mái nhập của nước ngoài. Gà Lương Phượng đã được giám định kỹ
thuật của Uỷ ban khoa học Thành phố Nam Ninh. Gà Lương Phượng có dáng
bề ngoài gần giống với gà Ri của Việt Nam lông màu vàng tuyền, vàng đốm
hoa hoặc đen đốm hoa. Sở dĩ gọi là Lương Phượng hoa vì trong đàn gà có rất
nhiều màu lông khác nhau như một vườn hoa. Mào, yếm mào, mặt và tích tai
màu đỏ. Gà trống có mào đơn, ngực nở, lưng thẳng, lông đuôi vươn cong
chân cao vừa phải. Gà mái đầu nhỏ, thân hình chắc, chân thấp. Da gà Lương
Phượng màu vàng, thịt mịn, thơm ngon.
Tỷ lệ nuôi sống gà thương phẩm xuất chuồng đều đạt 95% trở lên. Gà
trống ở độ tuổi trưởng thành có khối lượng cơ thể 2700g, gà mái đạt khối
lượng 2100g lúc vào đẻ. Gà bắt đầu đẻ vào 24 tuần tuổi, sau một chu kỳ khai
thác trứng (66 tuần tuổi) đạt 177 trứng, sản xuất 130 gà con 1 ngày tuổi. Gà
thịt nuôi đến 70 ngày tuổi đạt 1.500g - 1.600g. Tiêu tốn thức ăn 2,4 -2, 6 kg
thức ăn/kg tăng trọng.
Gà Lương Phượng dễ nuôi, có tính thích nghi cao, chịu đựng tốt với khí
hậu nóng ẩm, đòi hỏi chế độ dinh dưỡng không cao, có thể nuôi nhốt (kiểu
nuôi công nghiệp), bán công nghiệp (vừa nhốt vừa thả) hoặc nuôi thả ở vườn,
ngoài đồng, trên đồi.
Bộ nông nghiệp và PTNT đã công nhận 3 dòng gà LV1, LV2, LV3 đạt
cấp giống ông bà theo quyết định số 953 QĐ/BN-KHCN ngày 16/4/2004. Gà
Lương Phượng hiện nay đang là giống gà được ưa chuộng và phát triển nuôi
rộng rãi trong khắp mọi vùng của đất nước ta trong đó có tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- 600 con gà Lương Phượng nuôi thịt từ 1-10 tuần tuổi được ấp nở từ
trứng giống của đàn gà bố mẹ nuôi tại trại giống gia cầm Thịnh Đán, thành
phố Thái Nguyên.
- 100 con gà Lương Phượng sinh sản 27 tuần tuổi trong đàn gà bố mẹ
được nhập từ Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương - Viện chăn nuôi
quốc gia.
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
+ Địa điểm nghiên cứu: Trại giống gia cầm Thịnh Đán , thành phố
Thái Nguyên.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ 10/6/2008 đến 10/10/2008.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu mức độ ô nhiễm môi trường chuồng nuôi
+ Xác định một số loại khí độc trong chuồng nuôi gà Lương Phượng như
khí NH3, H2S và ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá đối với
các loại khí độc NH3, H2S .
+ Xác định mức độ nhiễm khuẩn Salmonella và E.coli trong chuồng nuôi
gà Lương Phượng và ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá đối
với vi khuẩn Salmonella và E.coli .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
2.2.2. Thí nghiệm sử dụng dung dịch điện hoạt hoá trong chăn nuôi gà
Lương Phượng
2.2.2.1. Đối với gà thịt
+ Phân lô tiến hành thí nghiệm:
- Lô đối chứng: 100 con sử dụng dung dịch HanIodin (pha tỷ lệ 5:1000)
sát trùng chuồng trại trước khi đưa vào nuôi và phun định kỳ ngoài chuồng
nuôi 2 lần/tuần.
- Lô thí nghiệm: 100 con thí nghiệm sử dụng dung dịch ĐHH; Trước
khi đưa gà vào nuôi, chuồng được vệ sinh sạch và tẩy rửa nền chuồng,
dụng cụ bằng dung dịch catolit với các thông số và liều lượng sử dụng như
sau: pH = 11-12; ORP < - 400 mV; liều lượng 150 ml/m2.
Dùng catolit với các thông số và liều lượng sử dụng: pH = 11 -12;
ORP < - 400 mV; để rửa sạch chất nhờn và chất bẩn bám trên bề mặt máng
ăn, máng uống hàng ngày.
Pha anolit pH = 7 ± 0,3, OPR > + 800mv, nồng độ 300 mg/l với nước
sạch theo tỷ lệ 1: 20 rồi cho gà uống hàng ngày
Dùng anolit pH = 7 ± 0,3, OPR > + 800mv, nồng độ 300 mg /l với liều
lượng 250 ml/m2 phun lên bề mặt dụng cụ và trực tiếp lên tường, bề mặt chất
độn chuồng và môi trường không khí ngay cả khi gà nuôi trong chuồng, định
kỳ phun sát trùng 2 lần/ tuần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
a. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm gà Lƣơng Phƣợng nuôi thịt
Diễn giải Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Giống gà Lương Phượng Lương Phượng
Số lượng (con) 100 100
Thời gian nuôi (Tuần) 1 - 10 1 - 10
Phương thức nuôi Nuôi nhốt Nuôi nhốt
Mật độ nhốt (con/m2) 6 - 7 6 - 7
Thức ăn TN
HiGro 510 (1-21ngày)
HiGro 511 (22 ngày - bán)
HiGro 510 (1-21ngày)
HiGro 511 (22 ngày -
bán)
Nhân tố thí nghiệm Có sử dụng dung dịch ĐHH
Không sử dụng dung
dịch ĐHH
b. Chế độ dinh dưỡng: Cả 2 lô đều được ăn cùng một lúc một loại
thức ăn gà thịt Hi-Gro 510 (giai đoạn 1-21 ngày tuổi) và Hi-Gro 511 (giai
đoạn 22 ngày tuổi đến lúc xuất bán) do công ty TNHH Charoen Pokphand
Việt Nam sản xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Bảng 2.2: Thành phần và giá trị dinh dƣỡng cám gà thịt Hi-Gro
Diễn giải Giai đoạn 1- 21 ngày Giai đoạn 22 ngày- bán
Protein thô tối thiểu 18% 16%
Ẩm độ tối đa 14% 14%
Xơ thô tối đa 5% 5%
Năng lượng trao đổi
tối thiểu
2800 Kcal/kg 2850 Kcal/kg
Salynomycin tối đa 60mg/kg 10mg/kg
Ca tối thiểu 0,8-1% 0,8-1%
P tối thiểu 0,6% 0,6%
Muối NaCl
(tối thiểu - tối đa)
0,3-0,5% 0,3-0,5%
Nguồn: Theo số liệu phân tích của nhà sản xuất
c. Các chỉ tiêu theo dõi
Để đánh giá kết quả thí nghiệm chúng tôi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu
sau đây:
+ Tỷ lệ nuôi sống qua các tuần tuổi: Hàng ngày tiến hành theo dõi, ghi
chép số lượng gà chết và tính tỷ lệ nuôi sống theo công thức sau:
Tỷ lệ nuôi sống (%) =
Số con cuối kỳ
100
Số con đầu kỳ
+ Khả năng sinh trưởng:
* Sinh trưởng tích luỹ (g)
Để theo dõi chỉ tiêu này, dùng phương pháp cân gà cố định vào một ngày
cố định hàng tuần, thời gian cân vào buổi sáng trước khi cho ăn, từ 1- 4 tuần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
tuổi cân bằng loại cân 1000g có độ chính xác 1‰, từ 5 tuần tuổi trở lên cân
bằng loại 5000g có độ chính xác 2‰, cân từng con một, mỗi lô cân từ 65 -70
con, cân tách riêng trống mái từ tuần thứ 4 trở đi.
Từ số lượng về khối lượng gà qua các kỳ cân tính ra sinh trưởng tuyệt
đối và sinh trưởng tương đối như sau:
* Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày):
A =
t
PP 12
Trong đó:
A : Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)
P2 : Khối lượng ở cuối kỳ (g)
P1 : Khối lượng ở đầu kỳ (g)
t : Thời gian giữa hai lần cân (ngày)
* Sinh trưởng tương đối (%)
100
2
12
12
PP
PP
R
Trong đó:
R : Sinh trưởng tương đối ( % )
P2 : Khối lượng cuối kỳ (g)
P1 : Khối lượng đầu kỳ (g)
+ Khả năng chuyển hoá thức ăn: Hàng ngày cho ăn và ghi chép theo
dõi đầy đủ lượng thức ăn hàng ngày để tính các chỉ tiêu sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
* Tiêu thụ thức ăn
Tiêu thụ thức ăn
(g/con/ngày)
=
Tổng thức ăn tiêu thụ trong kỳ (g)
Tổng đàn gà có mặt trong kỳ x số
ngày nuôi trong kỳ
* Tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng (kg)
TT TĂ/kg tăng P
(kg)
=
Tổng thức ăn tiêu thụ trong kỳ (g)
Tổng khối lượng gà tăng trong kỳ (kg)
* Tiêu tốn thức ăn cộng dồn (kg/kg tăng trọng)
TTTĂ/kg tăng P
cộng dồn
=
Tổng TĂ tiêu thụ cộng dồn đến thời
điểm tính (kg)
Tổng khối lượng đàn gà tăng đến thời
điểm tính (kg)
* Hạch toán hiệu quả kinh tế của lô gà thí nghiệm khi sử dụng dung
dịch ĐHH để so sánh với hiệu quả kinh tế của lô gà đối chứng.
2.2.2.2. Đối với gà sinh sản
+ Phân lô tiến hành thí nghiệm:
- Lô đối chứng: 50 con (tỷ lệ 1 gà trống/9 gà mái) không sử dụng
dung dịch ĐHH mà sử dụng dung dịch HanIodin pha tỷ lệ (50/00) phun sát
trùng chuồng trại trước khi đưa vào nuôi và phun định kỳ ngoài chuồng
nuôi 2 lần /tuần, nước uống hàng ngày cho gà sử dụng nước từ giếng khoan
của trại.
- Lô thí nghiệm: 50 con (tỷ lệ 1 gà trống/9 gà mái) thí nghiệm sử dụng
dung dịch ĐHH cụ thể như sau: Trước khi đưa gà vào nuôi, khu chuồng được
vệ sinh sạch và tẩy rửa nền chuồng, dụng cụ bằng dung dịch catolit: pH = 11-
12; ORP < - 400 mV; liều lượng 150 ml /m2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Dùng catolit với các thông số và liều lượng sử dụng như sau: pH = 11-12;
ORP < - 400 mV để rửa sạch chất nhờn và chất bẩn bám trên bề mặt máng ăn,
máng uống hàng ngày.
Pha anolit pH = 7 ± 0,3, OPR > + 800mv, nồng độ 300 mg/l với nước
sạch theo tỷ lệ 1: 20 rồi cho gà uống hàng ngày.
Dùng anolit pH = 7 ± 0,3, OPR > + 800mv, nồng độ 300 mg /l với liều
lượng 250 ml/m2 phun lên bề mặt dụng cụ và trực tiếp lên tường, ổ đẻ, bề mặt
chất độn chuồng và môi trường không khí ngay cả khi gà nuôi trong chuồng,
định kỳ phun sát trùng 2 lần/tuần.
- Xử lý trứng: Các khay đựng trứng ấp được vệ sinh khử trùng như
khử trùng dụng cụ chuồng nuôi, được xếp đống và phun trước hết là catolit
pH = 11-12; ORP < - 400 mv; liều lượng 150 ml/m2 cho ướt đều, để yên
chừng 30 phút, phun tiếp anolit pH = 7 ± 0,3, OPR > + 800mv, nồng độ 300
mg/l với liều lượng 300 ml/m2 cũng tới mức ướt đều. Để khô tự nhiên và xếp
vào khay rồi đưa vào nơi lưu giữ chờ đưa vào máy ấp.
a. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Bảng 2.3: Sơ đồ bố trí thí nghiệm gà Lƣơng Phƣợng sinh sản
Diễn giải Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Giống gà Lương Phượng Lương Phượng
Số lượng (con) 50 50
Thời gian nuôi (Tuần) 27 - 40 27 - 40
Phương thức nuôi Nuôi nhốt Nuôi nhốt
Mật độ nhốt (con/m2) 4 - 5 4 - 5
Thức ăn TN Cám Novo 9624 Cám Novo 9624
Nhân tố thí nghiệm
Có sử dụng dung dịch
ĐHH
Không sử dụng dung dịch
ĐHH
b. Chế độ dinh dưỡng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
- Chế độ dinh dưỡng: Cả 2 lô đều được ăn cám gà đẻ Novo 9624 do công
ty TNHH Charoen Pokphand Việt Nam sản xuất
Bảng 2.4: Thành phần và giá trị dinh dƣỡng cám gà đẻ Novo 9624
Thành phần Giá trị dinh dƣỡng
Protein thô 17%
Ẩm độ tối đa 14%
Xơ thô tối đa 6,0%
Năng lượng trao đổi
tối thiểu
2675 Kcal/kg
Ca tối thiểu - tối đa 3,5 - 4,0%
P tối thiểu 0,6%
Muối NaCl
(tối thiểu - tối đa)
0,3-0,5%
Nguồn: Theo số liệu phân tích của nhà sản xuất
c. Các chỉ tiêu theo dõi
+ Tỷ lệ nuôi sống qua các tuần tuổi
Tỷ lệ nuôi sống (%) =
Số con cuối kỳ
100
Số con đầu kỳ
+ Năng suất trứng /mái bình quân
NST(quả/máibq) =
Tổng số trứng đẻ ra trong kỳ
Số mái bình quân có mặt trong kỳ
+ Năng suất trứng /mái đầu kỳ
Tổng số trứng đẻ ra trong kỳ
NST (quả/mái đầu kỳ) = ––––––––––––––––––––––––
Số mái đầu kỳ
+ Tỷ lệ đẻ (%)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Số trứng thu được trong tuần
Tỷ lệ đẻ (%) = –––––––––––––––––––––––––– x 100
Số gà mái trong tuần x 7 ngày
+ Tỷ lệ trứng giống (%)
Bên ngoài: Những trứng có hình dạng ngoài bình thường ovan hai đầu
to và nhỏ rõ rệt, không quá dài hoặc quá tròn, vỏ sạch không dính phân, không
dính vết máu, khối lượng từ 55 - 60g.
Bên trong: Là trứng có phôi, soi kiểm tra bằng đèn lòng đỏ nằm ở
trung tâm ít di động, lòng trắng sáng đều, không có vết đục và vết máu, màng
dưới vỏ không rách.
Tiến hành chọn trứng giống vào cuối ngày sau khi kết thúc mỗi lần
thu nhặt trứng.
Số trứng giống thu được trong tuần
Tỷ lệ trứng giống (%) = –––––––––––––––––––––––––––––– x 100
Tổng số trứng thu được trong tuần
+ Khối lượng trứng (g)
Cân trứng vào một ngày cố định của các tuần, mỗi đợt cân 30 quả trứng
cho mỗi lô
Tổng khối lượng trứng cân được (g)
Khối lượng trứng (g) = ––––––––––––––––––––––––––––
Số trứng cân (quả)
+ Tỷ lệ trứng có phôi (%): Được xác định thông qua việc soi kiểm tra
toàn bộ trứng ở ngày ấp thứ 6 để kiểm tra trứng không phôi:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Tỷ lệ trứng có phôi (%) =
Số trứng có phôi (quả)
––––––––––––––––––––––
Số trứng ấp (quả)
+ Tỷ lệ nở /trứng ấp (%)
Tỷ lệ nở /trứng ấp (%) =
Số gà con nở ra còn sống
––––––––––––––––––––––– 100
Số trứng ấp
+ Tỷ lệ nở / trứng có phôi (%)
Tỷ lệ nở /trứng có phôi (%) =
Số gà con nở ra còn sống
–––––––––––––––––––––– 100
Số trứng ấp có phôi (quả)
+ Tỷ lệ gà con loại 1 (%)
Chọn gà ngay trong ngày tuổi đầu tiên, gà loại 1 là những gà cơ thể
vững chắc, lông tơ bông xốp, đều đặn phủ kín toàn thân, mỏ cân xứng, mắt
sáng mở to hoàn toàn, cánh áp sát thân, thế chân đứng rộng, các ngón chân
thẳng, bụng nhỏ, không có máu ở rốn, có phản xạ nhanh với tiếng động. Sau
đó ghi vào sổ sách và tính theo công thức:
Tỷ lệ gà con loại1 (%) =
Tổng số gà con loại 1
–––––––––––––––––––––––––– 100
Số gà con nở ra còn sống (con)
+ Sơ bộ hạch toán hiệu quả kinh tế của lô gà thí nghiệm khi sử dụng
dung dịch ĐHH để so sánh với lô đối chứng không sử dụng dung dịch ĐHH.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu và sử lý số liệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1.1. Phương pháp nghiên cứu mức độ ô nhiễm môi trường chuồng nuôi gà
- Để xác định ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá đối
với một số loại khí độc trong chuồng nuôi gà thịt và gà sinh sản như NH3,
H2S, chúng tôi sử dụng phương pháp đo lấy mẫu trong thời điểm nhất định
vào 28 ngày tuổi, 49 ngày tuổi và 63 ngày tuổi đối với gà nuôi thịt, tuần tuổi
31, tuần tuổi 34, tuần tuổi 36 đối với gà sinh sản. Thiết bị lấy mẫu khí tại
chuồng nuôi được áp dụng theo phương pháp hấp thụ khí tiến hành trên máy
KIMOTO do nước Nhật sản xuất, các mẫu khí được phân tích trên hệ thống
thiết bị có ký hiệu UV-CASELLA do nước Anh sản xuất. Các thiết bị lấy mẫu
khí và phân tích các mẫu khí NH3 và H2S nêu trên hiện đang được sử dụng tại
Trung tâm quan trắc Môi truờng - Chi cục bảo vệ Môi Trường - Sở Tài
Nguyên Môi Trường tỉnh Thái Nguyên.
+ Để xác định mức độ nhiễm khuẩn Salmonella, E.coli trong chất độn
chuồng, chúng tôi sử dụng phương pháp lấy mẫu chất độn chuồng vào các thời
điểm 28 ngày tuổi, 49 ngày tuổi và 63 ngày tuổi đối với gà nuôi thịt, tuần tuổi
31, tuần tuổi 34, tuần tuổi 36 đối với gà sinh sản để phân tích. Các mẫu chất độn
chuồng được tiến hành xét nghiệm tại phòng xét nghiệm của bộ môn Công nghệ
Vi sinh - Viện Khoa học sự sống - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
2.3.1.2. Phương pháp thí nghiệm sử dụng dung dịch ĐHH trong chăn nuôi gà
Lương Phượng
Sử dụng phương pháp phân lô so sánh đảm bảo đồng đều các điều kiện
thí nghiệm.
a. Đối với gà thịt
Số lượng 600 con được nuôi thí nghiệm lặp lại 03 lần, mỗi lần lặp lại
nuôi 200 con, thời gian nuôi cách nhau 15 ngày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
+ Điều kiện thí nghiệm:
- Nuôi nhốt trên nền có đệm lót bằng trấu được sát trùng phơi khô; trải
lần đầu dày 10 cm, sau đó căn cứ vào thực tế bổ sung thêm.
- Nhiệt độ: Các lô gà đều có hệ thống điều chỉnh nhiệt độ, vào mùa hè
đảm bảo thông thoáng.
- Máng ăn, máng uống:
Giai đoạn 1-10 ngày tuổi sử dụng khay ăn 50con/khay, uống bằng
máng uống tròn 2 lít. Giai đoạn sau sử dụng máng ăn P50 và máng uống
tròn 8 lít.
b. Đối với gà sinh sản
Số lượng 100 con gà đẻ 27 tuần tuổi chia thành 2 lô mỗi lô 50 con.
+ Điều kiện thí nghiệm.
- Nuôi nhốt trên nền có đệm lót bằng trấu được sát trùng phơi khô; trải
lần đầu dày 10 cm, sau đó căn cứ vào thực tế bổ sung thêm
- Nhiệt độ: Các lô gà đều có hệ thống điều chỉnh nhiệt độ, vào mùa hè
đảm bảo thông thoáng.
- Máng ăn, máng uống: Sử dụng máng ăn P50 và máng uống dài.
2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu
Toàn bộ số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh vật học của
Nguyễn Văn Thiện (1997) [21] víi c¸c tham sè thèng kª:
xx mSX ,,
vµ Cv %.
- Sè trung b×nh (
X
)
n
xi
n
xxxx
X n
...321
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
- §é lÖch tiªu chuÈn:
1
)( 2
2
n
n
X
X
S x
n ≤ 30
n
n
X
X
S x
2
2
)(
n > 30
- Sai sè cña sè trung b×nh
1
n
S
m xx
n ≤ 30
n
S
m xx
n > 30
- HÖ sè biÕn dÞ:
100(%) x
X
S
Cv X
Các tham số thống kê được sử lý trên phần mềm Excel của máy tính
điện tử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Chƣơng 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu mức độ ô nhiễm môi trƣờng chuồng nuôi gà
Lƣơng Phƣợng
3.1.1. Nồng độ một số khí độc trong chuồng nuôi
Để thấy rõ ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá trong
môi trường chuồng nuôi gà, chúng tôi tiến hành đo nồng độ khí tại chuồng
nuôi lô TN và ĐC của gà nuôi thịt vào: Ngày tuổi 28, ngày tuổi 49, ngày tuổi
63 và tuần tuổi 31, tuần tuổi 34, tuần tuổi 36 đối với gà sinh sản. Kết quả
được thể hiện ở bảng 3.1a và 3.1b như sau:
Bảng 3.1a: Kết quả đo nồng độ một số khí độc trong chuồng
gà Lƣơng Phƣợng nuôi thịt
Số lần đo
Lô đối chứng Lô thí nghiệm
H2S(mg/m
3
) NH3(mg/m
3
) H2S(mg/m
3
) NH3(mg/m
3
)
1 0,269 1,894 0,129 0,974
2 0,315 1,976 0,107 1,102
3 0,285 1,325 0,182 1,268
Trung bình 0,289 1,731 0,139 1,114
So sánh (%) 100,00 100,00 48,09 64,35
Qua bảng 3.1.a ta thấy nồng độ khí H2S và NH3 của lô ĐC cao hơn lô
TN, nếu coi lô ĐC làm gốc 100% thì lô thí nghiệm sẽ là 64,35% (giảm so với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
ĐC là 35,65%) khí NH3 và 48,09% (giảm so với ĐC là 51,91%) khí H2S.
Điều này chứng tỏ rằng sử dụng dung dịch điện hoạt hoá ở lô thí nghiệm có
tác dụng sát trùng, giảm mùi hôi rõ rệt trong chuồng gà Lương Phượng nuôi
thịt.
Bảng 3.1b: Kết quả đo nồng độ một số khí độc trong chuồng
gà Lƣơng Phƣợng sinh sản
Số lần đo
Lô đối chứng Lô thí nghiệm
H2S(mg/m
3
) NH3(mg/m
3
) H2S(mg/m
3
) NH3(mg/m
3
)
1 0,105 1,562 0,036 0,342
2 0,112 1,724 0,028 0,589
3 0,146 1,626 0,075 0,713
Trung bình 0,121 1,637 0,046 0,548
So sánh (%) 100,00 100,00 38,01 33,47
Qua bảng 3.1.b ta thấy lượng khí H2S và NH3 của lô ĐC cao hơn lô TN,
nếu coi lô ĐC làm gốc 100% thì lô thí nghiệm sẽ là 33,47% (giảm so với ĐC
66,53%) khí NH3 và 38,01% (giảm so với ĐC 61,99%) khí H2S. Điều này
chứng tỏ rằng sử dụng dung dịch điện hoạt hoá ở lô thí nghiệm có tác dụng
sát trùng, giảm mùi hôi rõ rệt trong chuồng gà Lương Phượng sinh sản.
3.1.2. Mức độ nhiễm khuẩn Salmonella và E.coli trong chuồng nuôi
Để xác định mức độ nhiễm khuẩn Salmonella và E.coli chúng tôi sử
dụng phương pháp lấy mẫu chất độn chuồng vào ngày tuổi 28, ngày tuổi 49
và ngày tuổi 63 của gà nuôi thịt và tuần tuổi 31, tuần 34, và tuần tuổi 36 đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
với gà sinh sản. Sau khi tiến hành xét nghiệm các mẫu chất độn chuồng ở các
thời điểm khác nhau chúng tôi có kết quả mức độ nhiễm khuẩn Salmonella và
E.coli được thể hiện ở bảng 3.2a và 3.2b như sau:
Bảng 3.2a: Kết quả xét nghiệm mức độ nhiễm khuẩn
chuồng nuôi gà Lƣơng Phƣơng nuôi thịt
Số lần xét
nghiệm
Lô đối chứng Lô thí nghiệm
Salmonella E.coli Salmonella E.coli
1 3,3.10
6
4,5.10
6
1,1.10
6
1,7.10
6
2 2,4.10
6
3,4.10
6
1,4.10
6
1,5.10
6
3 2,1.10
6
4,1.10
6
1,2.10
6
1,1.10
6
Trung bình 2,6.10
6
4,0.10
6
1,2.10
6
1,4.10
6
So sánh (%) 100,00 100,00 46,15 35,75
Qua bảng 3.2a ta thấy cả hai lô TN và ĐC đều nhiễm khuẩn Salmonella
và E.coli. Tuy nhiên tại lô thí nghiệm kết quả phân tích các mẫu chất độn
chuồng cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn Salmonella và E.coli thấp hơn lô đối
chứng. Nếu coi lô ĐC làm gốc 100% thì lô thí nghiệm sẽ là 46,15% nhiễm
khuẩn Salmonella và 37,75% nhiễm khuẩn E.coli. Như vậy việc sử dụng dung
dịch ĐHH để sát trùng ở lô thí nghiệm có tác dụng giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn
Salmonella so với lô đối chứng 53,85% và giảm tỷ lệ nhiễm E.coli so với lô
đối chứng 64,25%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Bảng 3.2b : Kết quả xét nghiệm mức độ nhiễm khuẩn
chuồng nuôi gà Lƣơng Phƣơng sinh sản
Số lần xét nghiệm
Lô đối chứng Lô thí nghiệm
Salmonella E.coli Salmonella E.coli
1 2,6.10
6
2,2.10
6
1,3.10
6
1,5.10
6
2 2,4.10
6
2,3.10
6
1,2.10
6
1.1.10
6
3 2,2.10
6
2,6.10
6
1,5.10
6
1,3.10
6
Trung bình 2,4.10
6
2,3.10
6
1,3.10
6
1,3.10
6
So sánh (%) 100,00 100,00 54,16 56,52
Qua bảng 3.2b ta thấy cả hai lô TN và ĐC đều nhiễm khuẩn Salmonella
và E.coli nhưng ở mức độ khác nhau. Tại lô thí nghiệm kết quả phân tích các
mẫu chất độn chuồng cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn Salmonella và E.coli thấp
hơn lô đối chứng. Nếu coi lô ĐC làm gốc 100% thì lô thí nghiệm sẽ là
54,16% đối với khuẩn Salmonella và 56,52% đối với khuẩn E.coli. Như vậy
việc sử dụng dung dịch ĐHH để sát trùng ở lô thí nghiệm có tác dụng giảm tỷ
lệ nhiễm khuẩn Salmonella so với lô đối chứng 45,84% và giảm tỷ lệ nhiễm
E.coli so với lô đối chứng 43,48%.
3.2. Kết quả thí nghiệm sử dụng dung dịch ĐHH trong chăn nuôi gà
Lƣơng Phƣợng
3.2.1. Đối với gà Lương Phượng nuôi thịt
3.2.1.1.Tỷ lệ nuôi sống
Muốn đạt được hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi gà, yêu cầu các chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật không ngừng được nâng cao. Một trong những chỉ tiêu
quan trọng là tỷ lệ nuôi sống, nếu tỷ lệ nuôi sống càng cao, thì nhà chăn nuôi
càng có lãi nhiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Trong thí nghiệm, để nâng cao tỷ lệ nuôi sống, chúng tôi tuân thủ đầy
đủ quy định về vệ sinh thú y, chuồng nuôi được tiến hành vệ sinh sát trùng
sạch sẽ, tỷ lệ nuôi sống được thể hiện ở bảng 3.3.
Bảng 3.3: Tỷ lệ nuôi sống của gà Lƣơng Phƣợng nuôi thịt (%)
Lô
Tuần tuổi
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Trong tuần Cộng dồn Trong tuần Cộng dồn
1 99,00 99,00 99,00 99,00
2 99,32 98,30 98,32 97,66
3 99,66 98,00 99,65 97,33
4 100,00 98,00 100,00 97,33
5 100,00 98,00 99,31 96,66
6 99,65 97,66 99,65 96,33
7 99,65 97,33 99,65 96,00
8 99,65 97,00 99,65 95,66
9 100,00 97,00 100,00 95,66
10 100,00 97,00 100,00 95,66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Qua bảng 3.3 chúng tôi thấy trong 4 tuần đầu, giai đoạn này do gà con
dễ cảm nhiễm bệnh tật, chức năng điều hoà thân nhiệt chưa hoàn thiện, thời
tiết nóng ẩm nhưng được chăm sóc nuôi dưỡng cẩn thận nên tỷ lệ nuôi sống
của lô gà đối chứng cộng dồn là 97,30%, lô thí nghiệm cộng dồn là 98% (tỷ lệ
cao hơn lô đối chứng 0,7%) chủ yếu gà mắc bệnh cầu trùng nhưng sau đó đã
được điều trị kịp thời và bổ sung các loại thuốc tăng cường sức khoẻ nên đàn
gà đã hồi phục và phát triển bình thường.
Giai đoạn từ tuần tuổi thứ 5 trở đi mặc dù thời tiết trong thời gian này
nhiệt độ cao, ẩm độ cao nhưng tỷ lệ gà chết của cả 2 lô thí nghiệm và đối
chứng trong giai đoạn này tương đối ổn định. Tỷ lệ nuôi sống của lô gà TN và
ĐC đến lúc 70 ngày tuổi mặc dù nuôi vào vụ hè thu, nhiệt độ nóng, ẩm độ cao
nhưng vẫn đạt tỷ lệ nuôi sống từ 95% trở lên. Kết quả trên cho thấy do sử dụng
dung dịch điện hoạt hoá nên lô thí nghiệm có tỷ lệ nuôi sống cao hơn lô đối
chứng là 1,34%.
3.2.1.2. Sinh trưởng tích luỹ của gà Lương Phượng nuôi thịt
Khối lượng cơ thể gà là chỉ tiêu hết sức quan trọng và đáng quan tâm
đối với các nhà chăn nuôi, nó quyết định phần lớn hiệu quả trong chăn nuôi
và là mục đích của việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật nhằm
nâng cao khối lượng cơ thể gia cầm trong một đơn vị thời gian. Để đo tốc độ
sinh trưởng tích luỹ, chúng tôi tiến hành cân khối lượng đàn gà qua các tuần
tuổi. Từ tuần tuổi thứ 1 đến tuần tuổi thứ 3 cân chung trống mái. Từ tuần tuổi
thứ 4 trở đi cân tách riêng trống mái, kết quả được thể hiện qua bảng 3.4 và
đồ thị 3.1 sau đây:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Bảng 3.4: Khối lƣợng gà Lƣơng Phƣợng nuôi thịt qua các tuần tuổi (g)
Tuần
tuổi
Tính
biệt
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
n
X
mX
Cv
(%)
n
X
mX
Cv
(%)
SS 150 39,40
8,80 3,14 150 38,50
0,69 2,25
1 105 84,78
0,53 7,25 105 84,12
0,26 6,73
2 105 181,76
0,71 7,49 105 181,25
1,22 6,67
3 105 337,44
5,43 10,11 105 334,38
5,38 7,05
4
Trống 105 550,19a
11,98 7,79 105 546,95
a
15,11 9,06
Mái 105 519,42
b
5,96 7,42 105 522,85
b
6,43 8,30
5
Trống 105 810,28
2,19 9,04 105 804,66
13,26 8,53
Mái 105 727,62
11,79 7,85 105 708,19
1,92 7,92
6
Trống 105 1044,57
26,96 14,66 105 1006,01
7,74 9,52
Mái 105 902,47
7,08 9,53 105 895,61
3,62 13,27
7
Trống 105 1285,14
6,59 10,13 105 1270,76
12,98 10,43
Mái 105 1166,00
16,59 12,70 105 1138,10
12,31 11,72
8
Trống 105 1526,77c
18,94 7,36 105 1501,44
c
27,87 6,76
Mái 105 1371,40
d
21,06 7,81 105 1372,39
d
6,45 8,56
9
Trống 105 1660,95
3,09 5,92 105 1640,01
18,49 5,78
Mái 105 1461,23
23,16 6,09 105 1457,14
18,57 6,35
10
Trống 105 1761,52e
24,71 7,19 105 1750,52
e
22,47 5,33
Mái 105 1546,52
g
15,57 5,28 105 1523,52
g
1,78 3,76
* Theo hàng ngang những số có chữ giống nhau thì sai khác không có
ý nghĩa thống kê với P > 0,05
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Qua bảng 3.4 chúng tôi có nhận xét sau:
Về khả năng tăng trọng, qua chỉ tiêu khối lượng cơ thể theo tuần tuổi,
chúng tôi thấy đến 28 ngày tuổi là thời điểm kết thúc giai đoạn đầu, khối lượng
cơ thể gà ở lô thí nghiệm con trống là 550,19g cao hơn lô đối chứng (546,95g) là
3,21g sai khác không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05), con mái lô thí nghiệm có
trọng lượng là 519,42g thấp hơn lô đối chứng (522,85g) là 3,43g sai khác không
có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Như vậy trong giai đoạn này sự sinh trưởng của
của gà lô đối chứng và lô thí nghiệm tương đối đồng đều.
Đồ thị 3.1: Sinh trƣởng tích luỹ của gà Lƣơng Phƣợng
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2000
SS 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
(Tuần tuổi)
(gram)
Trống TN
Mái TN
Trống ĐC
Mái ĐC
Giai đoạn 56 ngày tuổi chúng tôi thấy khối lượng con trống lô thí
nghiệm là 1526,77g cao hơn lô đối chứng (1501,44g) là 25,33g sai khác
không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05), con mái lô thí nghiệm có trọng lượng là
1371,40g thấp hơn lô đối chứng (1372,39) là 0,99g sai khác không có ý nghĩa
thống kê (P > 0,05).
Kết thúc thí nghiệm 70 ngày lô thí nghiệm con trống có khối lượng
1761,52g cao hơn lô đối chứng (1750,52g) là 11g sai khác không có ý nghĩa
thống kê (P > 0,05) con mái lô thí nghiệm có trọng lượng là 1546,52g cao hơn
lô đối chứng (1523,52g) là 23g sai khác không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
So sánh kết quả sinh trưởng tích luỹ của gà thí nghiệm (con trống
1761,52g, con mái 1546,52g) và khối lượng cơ thể trung bình của gà Lương
Phượng nói chung theo Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương - Viện
chăn nuôi (2006)[18] ở 70 ngày tuổi đạt 1500g - 1600g, thì khối lượng cơ thể
gà trống thí nghiệm ở 70 ngày tuổi lớn hơn so với mức trung bình là 161,52g.
Như vậy sử dụng dung dịch điện hoạt hoá để sát trùng đã có tác dụng
tốt cho gà thí nghiệm.
3.2.1.3. Sinh trưởng tuyệt đối của gà Lương Phượng nuôi thịt
Tiến hành nghiên cứu trên đàn gà Lương Phượng, chúng tôi thấy sinh
trưởng tuyệt đối của lô thí nghiệm và lô đối chứng đều phù hợp với quy luật
phát triển chung của gia cầm, kết quả về sinh trưởng tuyệt đối được thể hiện
trên bảng 3.5 và biểu đồ 3.1.
Bảng 3.5: Sinh trƣởng tuyệt đối của gà Lƣơng Phƣợng
nuôi thịt qua các tuần tuổi (g/con/ngày)
Tuần tuổi
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Trống Mái Trống Mái
SS-1 6,80 6,59
1-2 13,85 13,87
2-3 22,24 21,87
3-4 30,39 25,99 30,37 26,92
4-5 37,15 29,74 36,81 26,47
5-6 34,47 29,64 34,83 27,11
6-7 37,03 37,64 37,15 34,64
7-8 34,51 29,34 32,95 33,47
8-9 19,17 12,83 19,79 12,10
9-10 12,12 10,18 13,11 9,38
SS - 10 24,60 21,53 24,45 21,21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Qua kết quả ở bảng 3.5 và minh hoạ ở biểu đồ 3.1 về sinh trưởng tuyệt
đối của gà Lương Phượng thí nghiệm cho thấy cả 2 lô thí nghiệm và đối
chứng có quy luật sinh trưởng tuyệt đối giống nhau.
Biểu đồ 3.1: Sinh trƣởng tuyệt đối của gà Lƣơng Phƣợng
0
5
10
15
20
25
30
35
40
0-1 1-2 2-3 3-4 4-5 5-6 6-7 7-8 8-9 9-10
Tuần tuổi
(g)
Trống TN Mái TN
Trống ĐC Mái ĐC
Đối với lô thí nghiệm khối lượng tăng dần từ 0 - 5 tuần tuổi và tuần 5-
7 cũng là tuần đạt tốc độ sinh trưởng tuyệt đối cao nhất đối với con trống sinh
trưởng đạt 37,15g/con/ngày, con mái đạt 37,64/con/ngày sau đó giảm dần từ
tuần 8 đến tuần thứ 10 con trống 12,12g/con/ngày và con mái là 10,18g/con/ngày.
Ở lô đối chứng, khối lượng cơ thể tăng cực đại ở tuần thứ 7 con trống sinh
trưởng đạt 37,15g/con/ngày, con mái đạt 34,64g/con/ngày sau đó giảm dần từ
tuần 8 đến tuần 10 con trống 13,11g/con/ngày và con mái là 9,38/con/ngày.
Bình quân trong cả giai đoạn 1- 10 tuần tuổi thì kết quả sinh trưởng tuyệt đối
ở lô thí nghiệm con trống là 24,60g/con/ngày cao hơn lô đối chứng là
0,15g/con/ngày (lô ĐC là 24,45g/con/ngày), con mái là 21.53g/con/ngày cao
hơn lô đối chứng là 0,32g/con/ngày (lô ĐC là 21,21g/con/ngày) sai khác này
không có ý nghĩa thống kê (P> 0,05).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
3.2.1.4. Sinh trưởng tương đối của gà Lương Phượng nuôi thịt
Trên cơ sở những số liệu về khối lượng cơ thể gà qua các tuần tuổi,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu sự sinh trưởng tương đối được thể hiện ở bảng
3.6 và đồ thị 3.2.
Bảng 3.6: Sinh trƣởng tƣơng đối của gà Lƣơng Phƣợng
nuôi thịt qua các tuần tuổi (%)
Tuần tuổi
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Trống Mái Trống Mái
SS-1 77,62 75,53
1-2 72,77 73,19
2-3 59,95 59,38
3-4 47,91 42,47 48,18 43,96
4-5 38,26 33,37 38,16 30,12
5-6 25,21 21,46 22,25 23,37
6-7 20,69 25,47 23,59 23,84
7-8 17,17 16,18 16,63 18,67
8-9 8,43 6,34 8,83 5,98
9-10 7,66 5,68 6,51 4,42
Qua bảng 3.6 cho thấy sinh trưởng tương đối của các lô thí nghiệm và
đối chứng đều tuân theo quy luật chung của quá trình sinh trưởng và phát
triển của gia cầm (sinh trưởng tương đối giảm dần theo lứa tuổi), đều có tốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
độ sinh trưởng tương đối cao nhất ở giai đoạn 0-1 tuần tuổi: 77,62% (lô TN);
75,53% (lô ĐC). Sau đó giảm dần qua các tuần tuổi và thấp nhất ở giai đoạn
10 tuần tuổi 5,68% (lô TN); 4,42% (lô ĐC).
Đồ thị 3.2 Sinh trƣởng tƣơng đối của gà Lƣơng Phƣợng
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
0-1 1-2 2-3 3-4 4-5 5-6 6-7 7-8 8-9 9-10
Tuần tuổi
(%)
Trống TN
Mái TN
Trống ĐC
Mái ĐC
Khi so sánh lô thí nghiệm và lô đối chứng cho thấy rằng sinh trưởng
tương đối của gà ở lô thí nghiệm và lô đối chứng tương đối đồng đều nhau. Ở
giai đoạn 0-1 tuần tuổi lô TN cao hơn lô ĐC là 2,09% (77,62% so với
75,53%). Qua bảng 3.6 và đồ thị 3.2 chứng tỏ rằng việc sử dụng dung dịch
điện hoạt hoá cho lô gà thí nghiệm có tác dụng tốt tới quá trình sinh trưởng,
phát triển của gà Lương Phượng.
3.2.1.5. Tiêu thụ thức ăn của gà Lương Phượng nuôi thịt
Lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày phản ánh tình trạng sức khoẻ, tốc độ
sinh trưởng của đàn gà và chất lượng của thức ăn. Khả năng tiêu thụ thức ăn
của đàn gà phụ thuộc vào các yếu tố như: Nhiệt độ, ánh sáng, chất lượng thức
ăn, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, tác động ngoại cảnh .. Chúng tôi đã tiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
hành theo dõi lượng thức ăn tiêu thụ của các lô gà thí nghiệm qua các tuần
tuổi, kết quả được biểu hiện ở bảng 3.7.
Qua bảng 3.7 ta thấy lượng thức ăn tiêu thụ trong ngày của gà tăng dần
từ tuần tuổi thứ nhất đến tuần tuổi thứ 10. Gà ở lô thí nghiệm từ 13,46g/con/ngày
ở tuần tuổi thứ nhất tăng lên 114,35g/con/ngày ở tuần thứ 10.
Bảng 3.7: Tiêu thụ thức ăn của gà Lƣơng Phƣợng
nuôi thịt qua các tuần tuổi (g/con/ngày)
Lô
Tuần tuổi
Thí nghiệm Đối chứng
1 13,46 13,41
2 21,55 20,60
3 35.46 34,71
4 53,92 53,79
5 66,56 66,80
6 78,01 78,59
7 90,51 91,75
8 100,15 101,59
9 106,02 107,55
10 114,35 121,52
Bình quân
(g/con/ngày)
67,99 69,03
So sánh với
đối chứng(%)
98,49 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Tương tự ở lô đối chứng: 13,41g/con/ngày ở tuần tuổi thứ nhất tăng
lên 121,52g/con/ngày ở tuần thứ 10. Sự tăng lên này phù hợp với sự tăng
dần về khối lượng của cơ thể gà. Khi so sánh khả năng tiêu thụ thức ăn của
2 lô trong cả giai đoạn nuôi ta thấy lô thí nghiệm thấp hơn lô đối chứng cụ
thể: Tiêu thụ thức ăn bình quân ở lô thí nghiệm thấp hơn lô đối chứng
1,04g (lô TN 67,99g/con/ngày; lô ĐC 68,93g/con/ngày) tương đương lô
TN thấp hơn lô ĐC 1,51%.
3.2.1.6. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng được thể hiện ở bảng 3.8 như sau:
Bảng 3.8: Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng của gà Lƣơng Phƣợng
nuôi thịt qua các tuần tuổi (kg)
Lô
Tuần tuổi
Thí nghiệm Đối chứng
Theo tuần Cộng dồn Theo tuần Cộng dồn
1 1,98 1,98 2,03 2,03
2 1,55 1,66 1,48 1,65
3 1,59 1,63 1,58 1,63
4 1,91 1,77 1,86 1,80
5 1,98 1,81 2,11 1,86
6 2,46 2,03 2,54 2,07
7 2,43 2,13 2,55 2,18
8 3,13 2,30 3,07 2,35
9 6,66 2,60 6,91 2,64
10 8,08 2,97 8,61 3,03
So sánh với đối
chứng ( %)
98,01 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Qua bảng 3.8 chúng tôi thấy TTTĂ/kg tăng khối lượng cả 2 lô thí
nghiệm và đối chứng đều tăng dần từ tuần thứ 1 đến tuần thứ 10, điều này
đúng với quy luật sinh trưởng của gia cầm nói chung. Cơ bản trong tất cả các
tuần, mức tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cộng dồn của lô thí nghiệm đêu
thấp hơn lô đối chứng. Kết quả cho thấy gà Lương Phượng thí nghiệm có hiệu
quả chuyển hoá thức ăn tốt từ tuần thứ 1 đến tuần thứ 7, tiêu tốn thức ăn cho 1
kg tăng trọng ở các tuần đều thấp dưới 3kg, đến 7 tuần tuổi chỉ số này là
2,43kg ở lô TN, 2,55kg ở lô ĐC. Trong 3 tuần cuối cùng TTTĂ/kg tăng khối
lượng trong tuần của 2 lô là rất khác nhau. Khi gà ăn nhiều hơn, cho sinh
trưởng nhiều hơn thì TTTĂ/kg tăng khối lượng thấp hơn và ngược lại, những
chỉ số này khá cao ở tuần thứ 9 lô TN là 6,66kg và lô ĐC là 6,91kg và tuần
thứ 10 lô TN là 8,08kg ở lô ĐC là 8,61kg. Như vậy đối với gà Lương Phượng
thương phẩm khi từ 1 tuần tuổi đã được ăn khẩu phần tự do với thức ăn đảm
bảo dinh dưỡng nên gà sinh truởng, phát triển rất nhanh ở tuần thứ 8 gà đã có
khối lượng cơ thể trung bình là 1449,09g đối với lô TN và 1436,91g đối với
lô ĐC. Kết thúc giai đoạn nuôi (10 tuần tuổi) thì tiêu tốn thức ăn/kg khối
lượng ở lô thí nghiệm thấp hơn lô đối chứng là 1,99%
3.2.1.7. Sơ bộ hạch toán kinh tế đàn gà Lương Phượng nuôi thịt
Trên cơ sở những số liệu về giá con giống, thức ăn, chi phí công lao
động, thuốc thú y, tiền mua hoá chất để sản xuất dung dịch ĐHH, và giá thành
gà thịt. Sau khi kết thúc thí nghiệm, chúng tôi đã sơ bộ hạch toán kinh tế đàn
gà thí nghiệm qua bảng 3.9.
Qua bảng 3.9 chúng tôi thấy rằng: Tất cả 2 lô gà TN và ĐC đều được
nuôi trong cùng một điều kiện như nhau nên chi phí thức ăn, tiền giống… đều
giống nhau. Sự khác biệt ở đây là chi phí thuốc thú y ở lô thí nghiệm thấp hơn
lô đối chứng vì sử dụng dung dịch sát trùng ĐHH rẻ hơn mua dung dịch sát
trùng khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Bảng 3.9: Sơ bộ hạch toán kinh tế đàn gà Lƣơng Phƣợng nuôi thịt
STT Nội dung ĐVT Lô TN Lô ĐC
I PHẦN CHI đ 5.303.500,00 5.940.000,00
1 Con giống đ 500.000,00 500.000,00
2 Lao động đ 450.000,00 450.000,00
3 Thức ăn đ 3.521.500,00 3.518.000,00
4 Thuốc thú y + Dung dịch ĐHH đ 352.000,00 992.000,00
5 Vật rẻ đ 280.000,00 280.000,00
6 Điện nước đ 200.000,00 200.000,00
Chi phí/kg thịt hơi đ 31.766,00 36.657,00
II PHẦN THU đ 6.828.746,00 6.684.966,00
1 Thu gà thit đ 5.628.746,00 5.484.966,00
2 Thu từ phân đ 1.200.000,00 1.200.000,00
III HẠCH TOÁN (II - I) đ 1.525.246,00 744.966,00
Trung bình chi phí thuốc thú y và sản xuất dung dịch ĐHH của lô thí
nghiệm là 352.000đ, trong khi đó của lô đối chứng là 992.000đ (cao hơn lô thí
nghiệm là 640.000đ) làm cho tổng chi phí ở lô thí nghiệm thấp hơn lô đối
chứng là 636.500đồng, chi phí/kg thịt hơi ở lô TN thấp hơn lô ĐC là
4.891đ/kg.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
Như vậy việc sử dụng dung dịch ĐHH trong chăn nuôi gà đã có tác
dụng sát trùng, giảm bớt ô nhiễm môi trường, làm tăng hiệu quả kinh tế trong
chăn nuôi.
3.2.2. Kết quả đối với gà Lương Phượng sinh sản
3.2.2.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà Lương Phượng qua các tuần tuổi
Trong chăn nuôi gà sinh sản tỷ lệ nuôi sống là một chỉ tiêu rất quan
trọng, nó phản ánh tình trạng sức khoẻ khả năng chống chịu bệnh tật, khả
năng thích nghi với điều kiện ngoại cảnh. Tỷ lệ nuôi sống có liên quan và ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất và giá thành sản phẩm. Tỷ lệ nuôi sống
phụ thuộc vào yếu tố di truyền, chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh thú y. Tỷ lệ
nuôi sống của hai đàn gà được thể hiện qua bảng 3.10 ta thấy: Tỷ lệ nuôi sống
cộng dồn trong 14 tuần theo dõi ở lô đối chứng và lô thí nghiệm tỷ lệ nuôi
sống là 94%.
Trong 3 tuần đầu: Tuần tuổi 27; 28; 29 tỷ lệ nuôi sống của 2 lô rất
cao đạt 100%. Từ tuần tuổi 30 do có sự thay đổi thời tiết đột ngột làm lô
đối chứng bị mắc bệnh Bạch lị, Cầu trùng. Chúng tôi đã dùng thuốc điều
trị nhưng đối với những cá thể ở thể quá cấp vẫn bị chết.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng dung dịch ĐHH có
tác dụng sát trùng đặc biệt là bệnh đường tiêu hoá và đường hô hấp như
các loại thuốc sát trùng khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Bảng 3.10: Tỷ lệ nuôi sống ở đàn gà Lƣơng Phƣợng sinh sản (%)
Tuần tuổi
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Trong tuần Cộng dồn Trong tuần Cộng dồn
27 100,00 100,00 100,00 100,00
28 100,00 100,00 100,00 100,00
29 100,00 100,00 100,00 100,00
30 98,00 98,00 100,00 100,00
31 97,95 96,00 98,00 98,00
32 100,00 96,00 100,00 98,00
33 100,00 96,00 100,00 98,00
34 100,00 96,00 100,00 98,00
35 97,91 94,00 100,00 98,00
36 100,00 94,00 97,95 96,00
37 100,00 94,00 100,00 96,00
38 100,00 94,00 97,91 94,00
39 100,00 94,00 100,00 94,00
40 100,00 94,00 100,00 94,00
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
3.2.2.2. Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ bình quân của gà Lương Phượng ở các
tuần tuổi
Năng suất trứng trong giai đoạn sinh sản là mục tiêu chính của các nhà
chăn nuôi làm sao để đạt được mục tiêu cao nhất và đem lại hiệu quả kinh tế
lớn nhất. Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng là 2 chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá
sức sản xuất của gà mái trong giai đoạn sinh sản. Nếu tỷ lệ đẻ cao, năng suất
trứng cao phản ánh quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng hợp lí, sức khoẻ đàn gà
tốt. Ở gia cầm nói chung và gà nói riêng, tỷ lệ đẻ thấp ở những tuần đẻ đầu
sau đó tăng dần lên và đạt đỉnh cao trong tháng đẻ thứ 2; 3 rồi giảm dần tới
cuối chu kì đẻ.
Kết quả theo dõi năng suất trứng và tỷ lệ đẻ của đàn gà thí nghiệm
được trình bày ở bảng 3.11.
Qua những số liệu ở bảng 3.11 chúng tôi có nhận xét như sau:
Năng suất trứng: Năng suất trứng/mái bình quân đạt thấp nhất
trong tuần đầu thí nghiệm ở cả 2 lô (3,93 quả/mái/tuần ở lô đối chứng
và 3,91 quả/mái/tuần ở lô thí nghiệm) sau đó tăng dần và đạt cao nhất ở tuần
29 (4,84 quả/mái/tuần ở lô thí nghiệm) lô đối chứng đạt cao nhất ở tuần 30
(5,70 quả/mái/tuần). Những tuần tiếp theo có sự lên xuống chút ít rồi giảm
dần và đến tuần tuổi 40 đạt 3,71 quả/mái/tuần ở lô đối chứng và 3,98
quả/mái/tuần ở lô thí nghiệm.
Tỷ lệ đẻ: Tỷ lệ đẻ ở cả 2 lô tăng dần từ tuần đầu thí nghiệm và đạt đỉnh
cao ở tuần tuổi thứ 32 (74,64% ở lô đối chứng và 77,50% ở lô thí nghiệm). Từ
tuần tuổi thứ 33 trở đi tỷ lệ đẻ ở cả hai lô giảm dần
Tính chung cho cả giai đoạn theo dõi ở lô đối chứng tỷ lệ đẻ (đạt
68,25%) thấp hơn so với lô thí nghiệm (đạt 71,78%) là 3,53%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
Bảng 3.11: Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ bình quân
của gà Lƣơng Phƣợng ở các tuần tuổi
Tuần
tuổi
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Năng suất trứng
quả/mái/tuần
Tỷ lệ
đẻ/tuần
(%)
Năng suất trứng
quả/mái/tuần
Tỷ lệ
đẻ/tuần
(%) Mái ĐK Mái BQ Mái ĐK Mái BQ
27 3,91 3,91 62,86 3,93 3,93 63,21
28 4,33 4,33 69,64 4,16 4,16 66,79
29 4,84 4,84 76,67 4,56 4,56 73,21
30 4,73 4,73 76,07 4,64 4,64 74,64
31 4,58 4,71 75,71 4,58 4,58 73,57
32 4,82 4,82 77,50 4,64 4,64 74,64
33 4,64 4,73 76,07 4,44 4,44 71,43
34 4,62 4,62 74,29 4,31 4,31 69,29
35 4,47 4,47 72,93 4,33 4,33 69,78
36 4,53 4,53 71,43 4,19 4,24 68,27
37 4,38 4,38 70,36 4,07 4,07 65,36
38 4,42 4,42 71,07 4,00 4,02 64,29
39 4,13 4,13 66,43 3,82 3,82 61,42
40 3,98 3,98 63,93 3,71 3,71 59,64
Trung
bình
4,45 4,47 71,78 4,21 4,24 68,25
So
sánh
%
105,70 105,42 105,17 100 100 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
Sự sai khác này giữa hai lô do lô thí nghiệm sử dụng dung dịch ĐHH
gà ít mắc bệnh, không phải sử dụng thuốc kháng sinh nên đàn gà khoẻ mạnh
và tỉ lệ đẻ cao. Tuy nhiên thí nghiệm mới thực hiện 1lần chưa được lặp lại nên
cần được tiếp tục nghiên cứu để kết quả đưa ra chính xác hơn.
Đồ thị 3.3: Tỷ lệ đẻ của gà Lƣơng Phƣợng
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40
Tuần tuổi
(%)
Lô thí nghiệm
Lô đối chứng
Nếu coi năng suất trứng/mái đầu kỳ, năng suất trứng/mái bình quân, tỷ
lệ đẻ/ tuần của lô ĐC là 100% thì do sử dụng dung dịch ĐHH nên năng suất
trứng/mái đầu kỳ lô TN tăng lên 5,70%, năng suất trứng/mái bình quân lô TN
tăng lên 5,42%, tỷ lệ đẻ/ tuần lô TN tăng lên 5,17%.
3.2.2.3. Khối lượng trứng gà Lương Phượng ở các tuần tuổi
Khối lượng trứng là cơ sở để đánh giá sản lượng trứng tuyệt đối của
một cá thể hay cả đàn. Khối lượng trứng gà phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Giống, lứa tuổi, mùa vụ, thức ăn dinh dưỡng… Khối lượng trứng gà nuôi
được thể hiện qua bảng 3.12.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
Qua bảng 3.12 ta thấy khối lượng trứng của cả hai lô ở tuần đầu thí
nghiệm là 52,50g/quả ở lô đối chứng và 53,50g/quả ở lô thí nghiệm sau đó
tăng dần lên, đạt cao nhất ở tuần 32 với khối lượng 58,50g/quả ở lô đối chứng
và 58,10g/quả ở lô thí nghiệm tại tuần 30. Khi so sánh khối lượng trứng trung
bình của lô thí nghiệm hơn lô đối chứng 0,25g/quả sự sai khác không có ý
nghĩa thống kê (P > 0,05).
Bảng 3.12: Khối lƣợng trứng gà Lƣơng Phƣợng qua các tuần tuổi (g)
Tuần tuổi
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
X
± m
x
n = 30
Cv
(%)
X
± m
x
n = 30
Cv
(%)
27 53,50 ± 0,20 4,50 52,50 ± 0,15 3,38
28 56,80 ± 0,15 3,19 55,60 ± 0,17 3,38
29 57,30 ± 0,24 5,02 55,60 ± 0,20 4,42
30 58,10 ± 4,09 8,33 55,90 ± 0,18 3,00
31 57,60 ± 0,30 6,18 57,30 ± 0,08 1,80
32 57,80 ± 0,17 3,40 58,50 ± 0,23 4,71
33 57,40 ± 1,39 2,86 57,90 ± 0,22 4,23
34 57,60 ± 0,19 4,04 56,90 ± 0,26 5,46
35 57,70 ± 0,19 4,00 56,70 ± 0,14 2,88
36 57,00 ± 0,21 4.40 57,60 ± 0,17 3,60
37 57,05 ± 0,19 1,87 56,70 ± 0,25 5,20
38 56,70 ± 0,15 3,22 56,30 ± 0,28 5,58
39 57,90 ± 0,09 1,90 56,90 ± 0,28 5,97
40 57,60 ± 0,13 2,85 56,90 ± 0, 20 4,34
Trung bình 57,19
a
± 0,22 4,53 56,94
a
± 0,26 5,17
* Theo hàng ngang những số có chữ giống nhau thì sai khác không có
ý nghĩa thống kê với P > 0,05
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
Khi so sánh khối lượng trứng trung bình của lô thí nghiệm hơn lô đối
chứng 0,25g/quả, chúng ta thấy khối lượng trứng có mức tương đương, sự sai
khác không có ý nghĩa thống kê với P > 0,05.
3.2.2.4. Tỷ lệ trứng đạt tiêu chuẩn làm giống
Tỉ lệ trứng giống phản ánh chất lượng của gà mái sinh sản, tỷ lệ trứng
giống cao cho ta biết chất lượng của đàn gà đó tốt và ngược lại. Tỷ lệ trứng đạt
tiêu chuẩn làm giống của hai đàn gà nuôi được trình bày qua bảng 3.13.
Bảng 3.13: Tỷ lệ trứng giống của gà Lƣơng Phƣợng
Tuần tuổi
Lô thí nghiệm Lô đối chứng
Số trứng
đẻ ra
(quả)
Số trứng
giống
(quả)
Tỷ lệ
(%)
Số trứng
đẻ ra
(quả)
Số trứng
giống
(quả)
Tỷ lệ
(%)
27 176 158 89,77 177 149 84,18
28 195 179 91,79 187 175 93,58
29 218 208 95,41 205 188 91,70
30 213 208 97,65 209 198 94,73
31 212 208 98,11 206 200 97,08
32 217 213 98,15 209 201 96,17
33 213 205 96,24 200 193 96,50
34 208 204 98,07 194 179 92,26
35 201 188 93,53 195 175 89,74
36 204 193 94,60 191 183 95,81
37 197 192 97,46 183 176 96,17
38 199 186 93,46 180 162 90,00
39 186 180 96,77 172 158 91,86
40 179 170 94,97 167 154 92,21
Tổng cộng 2818 2692 95,52 2675 2491 93,12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Qua bảng 3.13 ta thấy: Tỷ lệ trứng giống ở hai lô đều tăng dần từ tuần
27 (84,18%) ở lô đối chứng và (89,77%) ở lô thí nghiệm, đến tuần 31 đạt đỉnh
cao 97,08% ở lô đối chứng và lô thí nghiệm đạt cao nhất 98,15% ở tuần 32.
Đến tuần 40 tỷ lệ trứng giống của cả 2 lô TN và ĐC vẫn giữ ở mức cao trên
92,21%. Tỷ lệ trứng giống ở hai lô tương đối ổn định qua các tuần tuổi nhưng
lô thí nghiệm luôn cao hơn lô đối chứng. Trong cả giai đoạn từ 27 tuần tuổi
đến 40 tuần tuổi lô đối chứng có số trứng giống đạt 93,12%, lô thí nghiệm đạt
95,52 %, lô thí nghiệm cao hơn lô đối chứng 2,4%. Sự sai khác trên do
nguyên nhân ở lô thí nghiệm, đàn gà khoẻ mạnh không phải sử dụng thuốc
kháng sinh nên trứng đều hơn, ít méo vẹo.
3.2.2.5. Tỷ lệ trứng có phôi và kết quả ấp nở của gà Lương Phượng
Trong chăn nuôi gà sinh sản, chỉ tiêu mà người chăn nuôi quan tâm là
số con sinh ra từ một gà mái trong một năm và số gà loại 1/tổng số gà nở. Vì
vậy để đạt được số con sinh ra/mái và tỷ lệ gà loại 1 cao thì không những cần
số lượng trứng cao mà còn yêu cầu tỷ lệ trứng có phôi và tỷ lệ ấp nở cao. Kết
quả ấp nở của đàn gà Lương Phượng sinh sản được trình bày ở bảng 3.14.
Qua bảng 3.14 chúng tôi thấy tỷ lệ trứng có phôi khá cao ở cả hai lô, tỷ
lệ trứng có phôi ở lô đối chứng là 90,41%, lô thí nghiệm là 93,49%. Sự chênh
lệch giữa lô thí nghiệm cao hơn lô đối chứng là 3,08%.
Tỷ lệ nở/trứng ấp: Tỷ lệ nở của hai lô là tương đối cao, tính trung bình
trong cả quá trình ấp lô đối chứng đạt 79,38%, lô thí nghiệm đạt 83,61%. Lô
đối thí nghiệm có tỷ lệ nở/trứng ấp cao hơn lô đối chứng 4,23% do có sự
chênh lệch trên là do lô thí nghiệm sử dụng dung dịch ĐHH nên đàn gà khoẻ
mạnh, tỷ lệ phôi cao, trứng được sát trùng bằng dung dịch ĐHH nên tỉ lệ chết
phôi thấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
Bảng 3.14: Kết quả ấp nở gà Lƣơng Phƣợng
STT Chỉ tiêu Đơn vị Lô Thí nghiệm Lô đối chứng
1 Số đợt ấp Đợt 19 19
2 Tổng trứng ấp Quả 2692 2484
3 Tổng trứng có phôi Quả 2517 2246
4 Tỷ lệ trứng có phôi % 93,49 90,41
5 Tỷ lệ nở/trứng có phôi % 89,43 87,80
6 Tỷ lệ nở/trứng ấp % 83,61 79,38
7 Số gà nở Con 2251 1972
8 Số gà loại 1 Con 2185 1896
9 Tỷ lệ gà loại 1 % 97,06a 96,14a
* Theo hàng ngang những số có chữ giống nhau thì sai khác không có
ý nghĩa thống kê với P > 0,05
Như vậy ta thấy tỷ lệ phôi và tỷ lệ nở của lô thí nghiệm có sử dụng dung
dịch ĐHH luôn cao hơn lô đối chứng không sử dụng dung dịch ĐHH.
Tỷ lệ gà con loại 1: Kết quả ấp nở và tỷ lệ gà con loại 1 nói lên hiệu
quả của toàn bộ quá trình ấp. Nó phản ánh chất lượng trứng đưa vào ấp và kết
quả của chế độ ấp đến tỷ lệ ấp nở, đồng thời đây cũng là chỉ tiêu quan trọng
để đánh giá công tác chăm sóc nuôi dưỡng, tình trạng sức khoẻ của đàn gà.
Qua bảng 3.14 cho thấy tỷ lệ gà con loại 1 nở ra rất cao ở cả hai lô.
Tính trung bình cho toàn bộ quá trình ấp tỷ lệ gà con loại 1 nở ra ở lô đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
chứng là 96,14%; lô thí nghiệm là 97,06%. Sự chênh lệch giữa hai lô là
0,92%, sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê với P > 0,05.
3.2.2.6. Tình hình mắc bệnh trên gà Lương Phượng sinh sản
Hiệu quả phòng bệnh của dung dịch ĐHH đựơc đánh giá thông qua
tình trạng sức khoẻ của đàn gà thí nghiệm trong quá trình nuôi dưỡng.
Qua quan sát các cá thể trong mỗi lô, quá trình thải phân hàng ngày và các
triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh chúng tôi xác định chuẩn đoán một số
bệnh của gà ở lô thí nghiệm và lô đối chứng được thể hiện qua bảng 3.15
Bảng 3.15: Kết quả theo dõi một số bệnh thƣờng gặp
Tên bệnh
Lô thí nghiệm (n = 50) Lô đối chứng (n = 50)
Số con
mắc (con)
Tỷ lệ mắc
(%)
Số con
mắc (con)
Tỷ lệ mắc
(%)
CRD 0 0 2 4
Bạch lỵ 3 6 5 10
Newcatsle 0 0 0 0
Gumboro 0 0 0 0
Tụ huyết trùng 0 0 0 0
Qua bảng 3.15 bước đầu chúng tôi thấy sử dụng dung dịch ĐHH trong
chăn nuôi gà sinh sản Lương Phượng đã có tác dụng phòng bệnh, đặc biệt
bệnh đường tiêu hoá và đường hô hấp.
Ở lô đối chứng không sử dụng dung dịch ĐHH gà bị mắc bệnh CRD
4%, mắc bệnh Bạch lị 10%, gây chết 2 con ở tuần tuổi 30 và 31. Lô thí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
nghiệm gà bị mắc bệnh Bạch lị 6% ở thời gian muộn hơn so với lô đối chứng
và mức độ nhẹ hơn nên điều trị đã khỏi hoàn toàn, thời gian an toàn, mức độ
nhiễm bệnh khi sử dụng dung dịch ĐHH ở lô thí nghiệm nhẹ hơn nhiều so với
lô đối chứng không sử dụng dung dịch ĐHH.
3.2.2.7. Sơ bộ hạch hiệu quả kinh tế đàn gà thí nghiệm
Để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng dung dịch ĐHH chúng tôi tính
toán chi phí thức ăn, thuốc thú y cho 10 quả trứng giống và cho 01 gà con loại
1, kết quả được thể hiện ở bảng 3.16.
Bảng 3.16: Sơ bộ hạch toán kinh tế gà Lƣơng Phƣợng sinh sản
STT Diễn giải ĐVT
Lô thí
nghiệm
Lô đối
chứng
1 Tổng chi phí thức ăn đ 3.950.203 3.857.263
2 Chi phí dung dịch ĐHH đ 170.880 0
3 Chi phí thuốc thú y đ 27.000 412.000
4
Tổng chi phí thức ăn + thuốc
thú y + dung dịch ĐHH
đ 4.148.083 4.269.263
5 Chi phí /10 trứng giống đ 12.693,03 14.245,12
6 So sánh % 89,10 100
7 Chi phí ấp trứng đ 726.400 720.000
8 Chi phí/ 1gà loại I đ 2.233,92 2.473,94
9 So sánh % 90,30 100
Chi phí cho 10 trứng giống trung bình ở lô đối chứng 14.245,12 đồng,
ở lô thí nghiệm 12.693,03 đồng. Giá thành một quả trứng giống ở lô thí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
nghiệm rẻ hơn so với lô đối chứng là 155 đồng/quả, tương ứng với 10,9%. Do
lô thí nghiệm có sử dụng dung dịch ĐHH gà ít bị mắc bệnh, tỉ lệ đẻ cao hơn,
trứng giống thu được nhiều hơn. Cũng do không bị mắc bệnh đàn gà ổn định,
ít phải sử dụng thuốc thú y nên chi phí cũng giảm hơn so với lô đối chứng
không sử dụng dung dịch ĐHH.
Chi phí cho 1 gà con loại 1 ở lô đối chứng là 2.474 đồng cao hơn lô thí
nghiệm 2.234 đồng là 240 đồng, tương ứng với 9,7%. Do ở lô thí nghiệm tỷ lệ
phôi, tỷ lệ nở và số gà con loại 1 cao hơn lô đối chứng. Trứng được sát trùng
bằng dung dịch ĐHH, tỷ lệ chết phôi thấp, chi phí sản xuất gà giống giảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit
trong chăn nuôi gà Lương Phượng tại Thái Nguyên, bước đầu chúng tôi rút ra
một số kết luận sau:
1.1. Sử dụng dung dịch điện hoạt hoá làm giảm mức độ ô nhiễm môi
trƣờng chuồng nuôi
- Đối với một số loại khí độc: Nồng độ khí H2S và NH3 của lô TN đều
thấp hơn lô ĐC. Nồng độ H2S của lô ĐC cao hơn lô TN là 0,14mg/m
3
đối với
gà nuôi thịt và 0,075mg/m3 đối với gà sinh sản, tương tự nồng độ khí NH3 của
lô ĐC cao hơn lô TN là 0,617mg/m3 đối với gà nuôi thịt và 1,089mg/m3 đối
với gà sinh sản.
- Đối với tình hình nhiễm khuẩn Salmonella và E.coli lô ĐC cao hơn lô
TN: Lượng vi khuẩn Salmonella/1g chất độn chuồng đối với gà nuôi thịt lô
ĐC cao hơn lô TN là 1,4.106 con, lượng vi khuẩn E.coli/1g chất độn chuồng
lô ĐC cao hơn lô TN là 2,6.106 con. Đối với gà nuôi sinh sản lượng vi khuẩn
Salmonella/1g chất độn chuồng lô ĐC cao hơn lô TN là 1,1.106 con, lượng vi
khuẩn E.coli/1g chất độn chuồng lô ĐC cao hơn lô TN là 1,0.106 con.
1.2. Sử dụng dung dịch điện hoạt hoá đã có tác dụng tích cực đến chăn
nuôi gà Lƣơng Phƣợng, nâng cao hiệu quả kinh tế
1.2.1. Đối với gà Lương Phượng nuôi thịt
- Tỷ lệ nuôi sống của lô gà TN v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc4.pdf